🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa Tập 18
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Tên sách : TẬP SAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA 18 Tác giả : NHIỀU TÁC GIẢ
Nhà xuất bản : BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA Năm xuất bản : 1956
------------------------
Nguồn sách : Thích Đức Châu
Đánh máy : patimiha, mopie, ganbunma,
thao nguyen, minhf@yahoo, chip_mars
Kiểm tra chính tả : Hải Hải, Mạc Tú Anh,
Dương Xuân Ngọc, Nguyễn Tuấn Anh
Biên tập chữ Hán-Nôm : Liêu Vĩnh Hảo
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 19/03/2018
https://thuviensach.vn
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG
Cảm ơn CÁC TÁC GIẢ và BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
CHỐNG SÙNG BÁI CÁ NHÂN NHƯNG CẦN NHẬN RÕ VAI TRÒ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ
BÀN THÊM VỀ VẤN ĐỀ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT-NAM ĐẶT VẤN ĐỀ
QUA NHỮNG Ý KIẾN CỦA CÁC BẠN NGUYỄN LƯƠNG-BÍCH, ĐÀO DUY-ANH VÀ HOÀNG XUÂN-NHỊ
TRỞ LẠI NHẬN ĐỊNH CỦA CHÚNG TÔI
CÙNG BẠN ĐỌC THÂN MẾN
VẤN ĐỀ BÌNH THƯỜNG HÓA CÁCH PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT NAM
« CHINH PHỤ NGÂM » KHÚC CA OÁN TRÁCH CHIẾN TRANH
I. CHINH PHỤ NGÂM, MỘT LỜI THAN OÁN TRÁCH CHIẾN TRANH
II. GIÁ TRỊ CUỐN CHINH PHỤ NGÂM
III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO : MẤY Ý KIẾN CỦA CÁC NHÀ SỬ HỌC TRUNG-QUỐC HIỆN ĐẠI VỀ MỘT BỘ THÔNG SỬ TRUNG QUỐC
VẤN ĐỀ CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ Ở VIỆT-NAM QUA Ý NGHĨA MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH
THƠ VĂN CHỐNG PHÁP MIỀN NAM
IV. TINH THẦN THẤT BẠI CHỦ NGHĨA, SỰ ĐẦU HÀNG CỦA GIAI CẤP PHONG KIẾN NHÂN DÂN TIẾP TỤC KHÁNG CHIẾN
V. KẾT LUẬN
Ý KIẾN BẠN ĐỌC
https://thuviensach.vn
TRIẾT LÝ VỀ « LẼ TỰ NHIÊN » TRONG TRUYỆN TRÊ CÓC ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ
TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO CỦA TÁC PHẨM
TỪ TIẾNG TRUNG-QUỐC SANG TIẾNG HÁN VIỆT
https://thuviensach.vn
TẬP SAN NGHIÊN CỨU
VĂN SỬ ĐỊA
Bài lai cảo, xin gửi cho : ông Trần Huy-Liệu
https://thuviensach.vn
CHỐNG SÙNG BÁI CÁ NHÂN NHƯNG CẦN NHẬN RÕ VAI TRÒ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ
MINH-TRANH
XÃ hội loài người tồn tại và phát triển là nhờ ở cuộc đấu tranh không ngừng, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Trong bất cứ thời đại nào, cuộc đấu tranh chống thiên nhiên cũng không thể do một cá nhân riêng lẻ tiến hành được. Từ khi xã hội chia ra giai cấp, cuộc đấu tranh xã hội cũng luôn luôn do những tập đoàn khác nhau, đối lập nhau tiến hành. Lực lượng chủ yếu tham gia đấu tranh chống thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên là lực lượng những người lao động sản xuất, và lực lượng quyết định trong cuộc đấu tranh xã hội, đẩy xã hội tiến lên trước hết cũng là lực lượng những người lao động sản xuất. Nói những người lao động sản xuất tức không phải nói một người lao động này hoặc một người lao động khác riêng lẻ mà là nói đến một tập đoàn đông đảo. Chính vì vậy mà chủ nghĩa Mác kết luận rằng : Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử những người sản xuất. Hiện nay, kết luận ấy đã trở thành một chân lý chỉ đạo cho các hoạt động xã hội, cho các khoa học. Những kết luận ngược lại cho rằng anh hùng tạo ra thời thế, cá nhân quyết định lịch sử, thần thánh trời Phật sáng tạo ra tất cả v.v… đều là trái với chân lý, trái với khoa học và sẽ dẫn đến chỗ làm ngăn trở bước tiến của mọi hoạt động xã hội. Thực ra, trước khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, những kết luận trái với khoa học nói trên đã tồn tại khá lâu, đã gieo vào đầu óc người ta những tư tưởng cản trở sự tiến bộ của xã hội. Đến ngày nay, tàn tích những tư tưởng ấy không phải đã bị tiêu diệt mà vẫn còn dai giẳng thống trị trong xã hội. Cho nên trong mọi lãnh vực hoạt động của công tác tư tưởng, công tác khoa học, cuộc đấu tranh để làm cho sáng rõ chân lý : « lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử những người lao
https://thuviensach.vn
động sản xuất » là vô cùng cần thiết. Riêng trong lãnh vực khoa học lịch sử, chân lý nói trên càng cần phải làm cho sáng rõ để chúng ta khỏi lạc vào những nhận định mơ hồ, phản khoa học trong công tác.
Nhưng như thế phải chăng chúng ta phủ nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử ? Không. Những người lao động sản xuất sáng tạo ra lịch sử nhưng trong quá trình tiến triển của lịch sử, cá nhân có tác dụng nhất định, điều đó chúng ta không phủ nhận. Song tác dụng ấy không phải là tác dụng quyết định cuối cùng mà quyết định cuối cùng vẫn là quần chúng nhân dân. Vấn đề là : cần chứng minh xem tác dụng cá nhân đến mức độ nào và ngay trong mức độ ấy, nếu chúng ta nghiên cứu cho kỹ thì chúng ta sẽ thấy chính những cá nhân lỗi lạc cũng đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của lực lượng quần chúng.
Hãy lấy một vài tỉ dụ trong lịch sử nước ta thì đủ rõ.
*
Nhân dân Việt-nam bao giờ và ở đâu cũng tự hào về lịch sử của mình và về những vị anh hùng tiêu biểu cho dân tộc trong những thời kỳ nhất định : Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Quốc-Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ v.v… và trong thời đại của chúng ta hiện nay : vị lãnh tụ kính mến của nhân dân ta là chủ tịch Hồ Chí Minh. Lòng tự hào dân tộc luôn luôn đi đôi với lòng tôn kính anh hùng. Và có thể nói : tôn kính anh hùng chính là sự biểu hiện của lòng tự hào dân tộc, yêu mến dân tộc. Nhưng tôn kính anh hùng không phải là sùng bái cá nhân anh hùng, hai điều đó không những khác nhau mà trái ngược hẳn nhau. Anh hùng được tôn kính là ở chỗ anh hùng tiêu biểu cho dân tộc, tiêu biểu cho ý nguyện của nhân dân, và cùng với nhân dân thực hiện ý nguyện ấy. Còn sùng bái cá nhân là một loại mê tín, coi cá nhân là thần thánh, là quyết định hết thảy, là « cao cao tại thượng » không coi nhân dân ra gì hoặc chỉ coi nhân dân là vai trò bị động.
https://thuviensach.vn
Lấy tỉ dụ Trần Quốc-Tuấn. Tại sao Trần Quốc-Tuấn được nhân dân ta tôn kính ? Có xét vai trò của Trần Quốc-Tuấn đặt trong điều kiện lịch sử, điều kiện sinh hoạt của nhân dân ta trong thế kỷ 13 thì chúng ta mới nhận định đúng được. Lúc bấy giờ, nông dân lưu vong có cơ hội tập hợp nhau lại khai thác đất hoang, ổn định cuộc sống của mình để sản xuất. Công việc sản xuất của họ lại được bảo đảm khỏi nạn lụt bằng khá nhiều đê đập được đắp lên. Kết quả của sản xuất, họ đã được hưởng trong mức độ nhất định. Cứ đọc bài hịch cho tướng sĩ của Trần Quốc-Tuấn lúc bấy giờ, ta có thể hình dung được nhiều phần cuộc sống của người dân đương thời : có cơm ăn, có áo mặc, có âm nhạc, có cảnh vui thú vườn ruộng trong một nước độc lập. Đang ở một cảnh như vậy mà gặc xâm lược tới hòng cướp cơm, cướp áo, hòng bắt đem nhạc để « hiến nguỵ sứ », bắt hầu hạ chúng thì liệu nhân dân có chịu hay không ? Ba lần kháng chiến thắng lợi chống quân xâm lược nhà Nguyên đã trả lời câu hỏi đó. Những bô lão ở Hội nghị Diên Hồng lúc bấy giờ tuy chưa có thể là cuộc hội nghị gồm những đại biểu chân chính của nhân dân nhưng khi Hội nghị đồng thanh kết luận « đánh », thì đó là sự đồng thanh của nhân dân. Lòng quyết tâm làm dân một nước Việt-nam độc lập đã thể hiện ra trong bao nhiêu trận chiến đấu của người miền suôi và người miền ngược. Việc lấy dao ghi vào tay hai chữ « Sát Thát » của quân lính hồi bấy giờ đã chứng tỏ lòng quyết tâm ấy. Do đó chúng ta có thể kết luận : vai trò quyết định những đại thắng lúc bấy giờ trước hết là vai trò của quân và dân nước ta.
Vậy thì vai trò của Trần Quốc-Tuấn như thế nào ? Chúng ta hãy đọc lời của Trần Quốc-Tuấn nói với Trần Anh-Tôn khi nhà vua đến hỏi về kế giữ nước :
« Nước ta tự thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem binh đến đánh. Võ Vương sai đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được ; rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quân Trang-sa, dùng đoán binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê,
https://thuviensach.vn
nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn ; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình-Lỗ (thuộc Thái-nguyên), phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm lược, Lý đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai-lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế.
Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh ; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dụng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tầm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị ; thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ phải tuỳ cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lực lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả ».
Trần Quốc-Tuấn đã lãnh đạo ba lần đại thắng là do nhiều nguyên nhân :
1. Kinh nghiệm của bao nhiêu cuộc đấu tranh đã qua.
2. « Kế sâu rễ bền gốc » dựa vào dân đã được thực hiện từ trước.
3. Sự đồng lòng giữa người lãnh đạo với người bị lãnh đạo ; « anh em hoà mục, cả nước đấu sức lại mà đánh ».
Nhưng cũng ở trong những lời nói trên đây, ta vẫn thấy vị anh hùng dân tộc nói đến trời « kế đến bản triều… cũng là lòng trời giúp ta mới được như vậy ».
Trong điều kiện lịch sử nước ta ở thế kỷ 13 hay nói rộng ra trước khi chủ nghĩa Mác – Lê-nin truyền vào nước ta thì làm thế nào đã trông thấy rõ
https://thuviensach.vn
rệt được tác dụng quyết định của nhân dân trong lịch sử ? Cho nên ta không lấy làm lạ rằng Trần Quốc-Tuấn cuối cùng đã kể đến trời. Nhưng lòng trời mà Trần Quốc-Tuấn nói tới đã được cắt nghĩa bằng « anh em hoà mục, cả nước đấu sức lại mà đánh ».
Chính đó là nhân tố quyết định thắng lợi quân xâm lược nhà Nguyên. Vai trò của Trần Quốc-Tuấn là nhận thức được phần nào nhân tố đó, vận dụng được nhân tố đó và biến nhân tố đó thành một lực lượng chuyển thế thủ thành thế công và cuối cùng giành lấy thắng lợi. Tên của Trần Quốc Tuấn đã gắn với thời đại và lưu truyền trong lịch sử là ở chỗ đó, chứ không phải ở chỗ vị anh hùng ấy là một ông thánh, siêu nhân, tách hẳn ra điều kiện nhất định của xã hội đương thời, tách khỏi lực lượng quyết định lịch sử tức nhân dân.
*
Có bạn sẽ hỏi : nói rằng lực lượng nhân dân quyết định thắng lợi, vậy thì giải thích làm sao những khi dân tộc ta bị bọn phong kiến hay hay tư bản xâm lược ? Lấy tỉ dụ như khi Hồ Quí-Ly chống quân nhà Minh ?
Đây là vấn đề đặt ra có thể gợi thêm làm cho sáng rõ vai trò của cá nhân trong lịch sử.
Vào cuối thế kỷ thứ 14, chế độ phong kiến nước ta đang gặp nhiều khủng hoảng. Phong trào nông dân nổi lên khá mạnh, và quyết định sự phân chia tập đoàn thống trị ra thành hai phái : phái cải lương đứng đầu là Hồ Quí-Ly và phái bảo thủ là giòng họ nhà Trần. Cuộc đấu tranh diễn ra giữa hai phái và kết thúc bằng thắng lợi của phái cải lương. Năm 1400, Hồ Quí Ly đoạt ngôi nhà Trần và tiến hành những cải cách tiến bộ. Nhưng cũng ngay trong lúc ấy, triều đình Hồ Quí-Ly đã phải một mặt lo đối phó với sự uy hiếp của quân ngoại xâm là triều Minh, một mặt phải lo đối phó với lực lượng bảo thủ phản động. Những cải cách tiến bộ của triều Hồ Quí-Ly chưa kịp có những kết quả cụ thể đối với nhân dân thì giặc ngoại xâm có bọn bảo
https://thuviensach.vn
thủ làm nội ứng tràn tới (1407). Phái bảo thủ phản động muốn duy trì chế độ đại điền trang, mặc dầu đã bị gạt ra địa vị thống trị nhưng vẫn còn ảnh hưởng lớn trong nhân dân. Tầng lớp kẻ sĩ có uy tín khá nhiều trong nhân dân, chẳng hạn như Nguyễn Trãi đã không tán thành những chính sách cải cách táo bạo, còn cho đó là những « chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận ». (xem Bình Ngô đại cáo). Hồ Quí-Ly trước khi đoạt được ngôi nhà Trần cũng đã chủ trương đàn áp nông dân, cho nên uy tín của Hồ Quí-Ly trong nhân dân cũng rất có hạn. Trong lúc ấy, thì những cải cách tiến bộ của Hồ Quí-Ly phần thì không thực hiện được vì bọn bảo thủ phá hoại, phần thì chưa đem lại quyền lợi cụ thể cho nhân dân. Ngược lại, việc phòng bị ráo riết để chống ngoại xâm như xây đắp thành Đa Bang, mở những xưởng làm súng đạn và làm chiến thuyền lại đòi hỏi rất nhiều sức của dân, do đó bọn bảo thủ đã lợi dụng thêm cơ hội để ly gián Hồ Quí-Ly với nhân dân. Thành ra Hồ Quí-Ly hầu như bị nhân dân cô lập. Và cuối cùng Hồ Quí-Ly thất bại. Kháng chiến cũng tạm thời thất bại.
Sai lầm của Hồ Quí-Ly là không tập trung được mọi lực lượng trong nước chống ngoại xâm, nhất là trong khi lực lượng của nhân dân còn bị ảnh hưởng của phái bảo thủ khống chế. Lịch sử nước ta đến đây đi chậm lại, và như thế là do ảnh hưởng của vai trò cá nhân Hồ Quí-Ly, tức là vai trò tiêu biểu của tập đoàn phong kiến cải lương lúc bấy giờ vừa mới nắm quyền thống trị…
Nhưng sự sai lầm của cá nhân chỉ có thể làm chậm bước của lịch sử, chứ không thể ngăn cản được con đường đi của lịch sử. Trong suốt hai mươi năm phong kiến nhà Minh thống trị, nhân dân ta không ngớt đấu tranh giành lấy quyền độc lập. Và khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở Lam sơn thì tình hình lại đổi khác. Lê Lợi đã tập hợp được nhân dân, lại tập hợp được lực lượng của phái bảo thủ và tập trung đánh quân Minh xâm lược. Chính sách quân cấp ruộng đất của họ Lê đã giải thích điều đó : bọn quan lại tướng tá được hưởng rất nhiều ruộng đất trong lúc đó triều Lê cũng phải
https://thuviensach.vn
giành một phần ruộng đất nào, dù là một phần rất nhỏ, cho nông dân. Và trước sức mạnh của lực lượng nhân dân đã chiến thắng phái bảo thủ trước kia không còn giữ được chế độ đại điền trang như trước nữa.
Thất bại của Hồ Quí-Ly là không vận dụng được lực lượng nhân dân còn đang bị bọn bảo thủ khống chế quá mạnh.
Thắng lợi của Lê Lợi là đã vận dụng được lực lượng to lớn của nhân dân đã có kinh nghiệm thiết thân về ách xâm lược.
Vai trò cá nhân có thể làm cho lịch sử đi chậm lại hoặc đẩy lịch sử tiến nhanh lên theo đúng chiều của lịch sử. Nhưng lịch sử cuối cùng vẫn là do nhân dân quyết định.
*
Ý thức về vai trò nhân dân cuối cùng quyết định lịch sử chỉ có thể rõ rệt và dựa trên sự phân tích khoa học từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác, và riêng ở nước ta từ khi chủ nghĩa Mác – Lê-nin truyền vào trong nước ta. Trần Quốc-Tuấn nói đến « anh em hoà mục, cả nước đấu sức lại mà đánh » nhưng cuối cùng vẫn kết luận « lòng trời giúp ta mới được như vây ». Nguyễn Trãi, một anh hùng lỗi lạc đã giúp Lê Lợi, trong Bình Ngô đại cáo, nói đến « yên dân », đến « khắp tướng sĩ, một lòng phụ tử » đến « đem đại nghĩa thắng hung tàn » nhưng cuối cùng vẫn kết luận : « Nhờ trời đất tổ tôn khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy ». Ý thức về vai trò của nhân dân của người xưa không thể rõ rệt được.
Chủ nghĩa Mác tổng kết kinh nghiệm cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, tổng kết những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của nhân loại đã từ bao thế kỷ mới rút ra được kết luận : « Nhân dân sáng tạo ra lịch sử », do đó đã hướng dẫn phong trào cách mạng ngày nay tiến bước.
Ở nước ta, từ khi có Đảng cộng sản Đông dương, nhờ lý luận Mác – Lê-nin, cách mạng mỗi ngày càng tiến bước. Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến thắng lợi, những thành công và thắng lợi ấy, ai quyết
https://thuviensach.vn
định ? Trước hết chính là nhân dân Việt-nam. Không một cá nhân nào có thể làm được cách mạng tháng Tám, không một cá nhân nào quyết định được thắng lợi của kháng chiến. Điều đó rất dễ chứng minh. Mà quyết định thành công của cách mạng từ trước đến nay là nhân dân Việt-nam, chủ yếu là nhân dân lao động, tức những người sản xuất trực tiếp ra của cải vật chất nuôi sống xã hội nước ta.
Song nói như thế vẫn chưa đủ. Cần nói dứt khoát rằng : thành công của cách mạng Việt-nam là do nhân dân Việt-nam quyết định, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông-dương trước kia và ngày nay là Đảng lao động Việt-nam. Cứ ôn lại các phong trào giải phóng dân tộc trước khi có Đảng cộng sản Đông-dương thì đủ rõ. Lúc bấy giờ không phong trào nào đã huy động được lực lượng của nhân dân đông đảo, của toàn dân và chủ yếu là nhân dân lao động. Và lãnh tụ các phong trào lúc bấy giờ cũng chưa có ý thức rõ rệt về vai trò quyết định của nhân dân. Nhân đây, xin kể lại một vài câu chuyện.
Khi cụ Phan Bội-Châu còn ở nước ngoài, cụ có viết một tác phẩm gọi là « Tục hải ngoại huyết thư » mà cụ đã giới thiệu đại ý như sau trong sách « Tự phê phán » :
« …Tôi mới viết thêm vào quyển « Hải ngoại huyết thư » do ông Lê Đại dịch ra Việt văn phân phát khắp nước… Về tục biên đoạn đầu có câu : « Lời huyết lệ gửi về trong nước, kể tháng ngày chưa được bao lâu, liếc trông phong cảnh năm châu, gió mưa phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ ». Sơ biên thì lột trần chính sách thâm độc của giặc Pháp để diệt chủng chúng ta bằng cách một mặt thì đục khoét trắng trợn, tức là thuế nặng sưu cao, trăm đường tàn khốc, hòng dóc xương nạo tuỷ dân ta ; một mặt thì tiêu diệt ngấm ngầm, tức là trang sức ra văn minh ngoài vỏ, giáo dục nhồi sọ, hòng làm tê liệt tinh thần của dân ta. Một đoạn đầu về tục biên thì nói rõ lý do mất nước vì ba nguyên nhân lớn :
https://thuviensach.vn
1. Vua không biết có dân
2. Quan không biết có dân
3. Dân không biết có nước.
Dịch ra như sau : « một là vua việc dân không biết, hai là quan chẳng biết gì dân, ba là dân chỉ biết dân, mặc vua với nước mặc thần với ai » ; đoạn này nói đi nói lại bày tỏ bệnh căn rất lâm ly thống thiết ; đoạn giữa thì bày tỏ phương pháp cứu vong, cực lực kêu gọi tư tưởng yêu nước ghét thù của đồng bào, rồi chủ yếu đi tới kết luận là cả nước phải đồng tâm, chia ra mười mục :
1. Sự đồng tâm của các nhà hào phú
2. Sự đồng tâm của các quan tại chức
3. Sự đồng tâm của con em nhà quyền quí
4. Sự đồng tâm của giáo đồ thiên chúa
5. Sự đồng tâm của thuỷ lục quân
6. Sự đồng tâm của các đồ đảng và hội đảng
7. Sự đồng tâm của thông ngôn ký lục và bồi bếp
8. Sự đồng tâm của giới phụ nữ
9. Sự đồng tâm của con em các nhà bị giặc tàn sát
10. Sự đồng tâm của học sinh hải ngoại ».
Cụ Phan Bội-Châu là một lãnh tụ của phong trào cách mạng nước ta hồi đầu thế kỷ thứ 20. Cụ là một nhà yêu nước chân chính. Những văn thơ của cụ toát ra một tình cảm nồng nàn đối với đất nước. Cụ đã thấy cách mạng, cả nước phải đồng tâm, nhân dân phải đồng tâm. Nhưng nhân dân là ai ? Thì cụ không thấy rõ. Vì cụ chưa có ý thức về giai cấp cho nên cụ cũng chưa nhìn nhân dân theo quan điểm của giai cấp được. Mà đã không nhìn nhân dân theo quan điểm giai cấp thì « phương pháp cứu vong » trong cuộc đấu tranh giai cấp rất phức tạp hiện nay không thể đi tới kết quả được. Ở đây, ta lại thấy rõ vai trò lãnh đạo và vai trò cá nhân trong lịch sử quan trọng như thế nào ?
https://thuviensach.vn
*
Việc mà phong trào Phan Bội-Châu và các phong trào kế tiếp đã không thực hiện được thì Đảng Cộng sản Đông-dương đã tiến hành và thu được thành công. Ngày nay, một nửa đất nước ta được giải phóng, đế quốc bị tống cổ đi khỏi miền Bắc, phong kiến bị đánh đổ, chính quyền nhân dân càng được củng cố. Hội nghị Giơ-ne-vơ thừa nhận thống nhất độc lập và chủ quyền của nhân dân ta trên toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Những thắng lợi ấy vì đâu mà có ?
Chính vì Đảng Cộng sản Đông-dương, nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã vận dụng được lực lượng của nhân dân Việt-nam làm cách mạng. Nói đến nhân dân, không phải là nói đến một ý niệm lờ mờ mà chính là một ý niệm khoa học. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin xuất phát từ sự phân tích sự sản xuất xã hội qua các thời đại mà thấy vai trò quyết định của những người sản xuất và sức mạnh của họ trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên, do đó giúp Đảng ta nhận rõ : khi nói đến nhân dân thì chủ yếu phải nói đến nhân dân lao động tức là những người công nhân và những người nông dân. Chính vì vậy mà Đảng Cộng sản Đông-dương ngay từ khi mới thành lập đã đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các công hội, nông hội làm nòng cốt cho phong trào cách mạng. Và cũng chính vì xuất phát từ nền sản xuất ở nước ta đang ở trong trạng thái sản xuất nông nghiệp lạc hậu mà Đảng thấy rõ cách mạng ở nước ta thực chất là cách mạng nông dân tức cách mạng dân chủ và phải do con đường cách mạng dân chủ mà tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thành công và thắng lợi của cách mạng là do nhân dân ta đã hành động theo đường lối cách mạng đúng ấy của Đảng. Cho nên quyết định lịch sử trước hết là quần chúng nhân dân lao động.
Song trong khi nêu cao vai trò của quần chúng nhân dân, chủ nghĩa Mác – Lê-nin không phủ nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử.
https://thuviensach.vn
Báo « Sự thật » Liên-xô ngày 28-3-1956 đã giải thích rõ ràng về vấn đề này như sau :
« Chủ nghĩa Mác không phủ nhận vai trò của những vĩ nhân trong lịch sử, vai trò lãnh tụ của những người lao động trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng giành giải phóng, trong việc xây dựng xã hội mới. Lê-nin đã nhấn rất mạnh vào vai trò của những lãnh tụ cách mạng tức vai trò tổ chức quần chúng. Quan điểm duy vật lịch sử do các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lê-nin đề ra, việc thừa nhận rằng quần chúng cần lao tức nhân dân, là những người sáng tạo ra xã hội mới, giúp ta hiểu đúng đắn và đánh giá vai trò lãnh tụ, vai trò những người tổ chức, những người có sáng kiến, những anh hùng mà nhân dân đã tạo và nêu lên. Các vĩ nhân, nhờ những đặc điểm của họ làm cho họ có khả năng hơn hết để phục vụ lợi ích của xã hội, có thể giữ vai trò quan trọng trong xã hội để tổ chức, dìu dắt quần chúng vì họ hiểu các hiện tượng xung quanh sâu sắc hơn và nhìn xa thấy rộng hơn những người khác.
Trong khi vạch mặt bọn trí thức cấp tiến tiểu tư sản và vô chính phủ hóa tuyên bố không thừa nhận vai trò tổ chức và uy tín của Đảng, Lê-nin đã nói : « Giai cấp công nhân, tiến hành trên toàn thế giới một cuộc đấu tranh gian khổ và bền bỉ để hoàn toàn tự giải phóng, cần phải có uy tín, nhưng tất nhiên uy tín chỉ ở chỗ những công nhân trẻ cần đến kinh nghiệm của những chiến sĩ già trong việc chống lại sự áp bức và bóc lột, các chiến sĩ đã bãi công, tham gia nhiều cuộc cách mạng và đã trở thành lịch duyệt nhờ những truyền thống cách mạng và một tầm mắt chính trị xa rộng. Uy tín của cuộc đấu tranh cách mạng là cần thiết cho vô sản mỗi nước... Tập thể những công nhân giác ngộ tiền phong của mỗi nước đang tiến hành cuộc đấu tranh trực tiếp luôn luôn là tập thể có uy tín cao nhất trong tất cả những vấn đề ấy ».
Trong các chiến sĩ già của Đảng ta, Hồ Chủ tịch là một chiến sĩ lỗi lạc nhất trông xa thấy rộng nhất, và là kết tinh của truyền thống cách mạng
https://thuviensach.vn
trong và ngoài nước. Hồ Chủ tịch sau khi học hỏi những kinh nghiệm cách mạng trong và ngoài nước theo ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã sáng lập ra Đảng ta, hướng dẫn Đảng đề ra đường lối đúng, đường lối nhân dân trong cách mạng, đường lối phù hợp với qui luật tiến hóa xã hội nước ta, động viên và tổ chức nhân dân ta phá tan những trở lực của cách mạng Việt-nam và xây dựng nước Việt-nam dân chủ cộng hòa. Có hiểu được vai trò quyết định của nhân dân, chúng ta mới hiểu được vai trò của Đảng, của Hồ Chủ tịch ; và ngược lại hiểu được vai trò của Đảng của Hồ Chủ tịch chính là ở chỗ hiểu được vai trò của nhân dân. Đường lối cách mạng chung, những chính sách cụ thể của mỗi thời kỳ của Đảng đều xuất phát từ ý nguyện của nhân dân lực lượng của nhân dân trong mỗi thời kỳ nhất định và sự tiến triển của lực lượng ấy. Cũng vì vậy, chúng ta nhận rõ lực lượng quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo ra lịch sử, quyết định thành công và thắng lợi của cách mạng ; đồng thời chúng ta cũng nhận rõ vai trò của lãnh tụ của cá nhân trong lịch sử, do đó tôn kính và mến yêu những vĩ nhân như Trần Quốc-Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, v.v... xưa kia và Hồ Chủ tịch ngày nay.
*
Tuy nhiên, hiện nay, không phải ai cũng đều đã nhận thức đúng như thế. Cho nên vẫn còn có người đã biến Trần Quốc-Tuấn thành một vị thánh và họ gọi là « Đức Thánh Trần » do đó đã không thấy rõ Trần Quốc-Tuấn đáng tôn kính ở chỗ nào, trái lại biến vị anh hùng dân tộc thành một ông thầy phù thủy có phép chữa tất cả mọi bệnh tật, bắt tà bắt ma. Từ sự kính mến vĩ nhân, người ta đã đi tới mê tín và đã mê tín rồi, thì khó mà thấy chân lý, thấy sự thật.
Thói sùng bái mê tín ấy cũng không phải không diễn ra đối với lãnh tụ của Đảng, của dân tộc hiện nay. Không kể những việc như coi Hồ Chủ tịch là thần rồi rước sách, chúng ta hãy điểm lại nhiều bài hát, bài báo nói về Hồ Chủ tịch thì đủ rõ. Hồ Chủ tịch xuất thân từ trong nhân dân, gắn bó với đời
https://thuviensach.vn
sống nhân dân, tiêu biểu cho ý nguyện của nhân dân, nhưng có tác giả trước kia lại tuyên truyền rằng « Hồ Chủ tịch xuất hiện trong ánh sao ». Hiện nay, người ta thường nói đến ruộng của cụ Hồ cho, cơm của cụ Hồ. Chúng tôi tưởng đã đến lúc ta cần phải xét lại cách nói như vậy. Những tư tưởng ấy trái với khoa học và là những tư tưởng đã đi tới kết quả hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân, do đó cũng tầm thường hóa cả vai trò của các vị anh hùng dân tộc mặc dầu tưởng là muốn đề cao.
Cũng không phải tư tưởng sùng bái cá nhân chỉ biểu hiện ra đối với các vĩ nhân mà thôi. Đối với những người có trách nhiệm chính trong một địa phương, trong một cơ quan, tư tưởng ấy cũng tác hại rất nhiều. Hoặc là người có trách nhiệm trong cơ quan trong địa phương tự coi mình là nắm vai trò quyết định hết thảy rồi sinh ra quan liêu, mệnh lệnh. Hoặc là những người xung quanh cũng « sùng bái » thủ trưởng cơ quan, bí thư hoặc chủ tịch địa phương, do đó mà không giữ được dân chủ. Không phải ngẫu nhiên mà nảy ra những tư tưởng sùng bái cá nhân như thế. Tư tưởng ấy bắt nguồn từ một cỗi rễ xã hội nhất định, trong xã hội còn giai cấp bóc lột hoặc tàn tích của giai cấp bóc lột, đặc biệt là trong những người sản xuất nhỏ. Tư tưởng của người ta là do trạng thái sản xuất trong xã hội hoặc địa vị của một giai cấp trong nền sản xuất chung quyết định. Những người sản xuất nhỏ, làm ăn riêng lẻ, bo bo với mảnh ruộng riêng, với một xưởng nhỏ riêng của mình trong đó mình làm chủ, tất nhiên sẽ có xu hướng nhìn sự vật theo tầm con mắt hẹp của mình. Họ coi rằng mảnh ruộng riêng ấy, xưởng nhỏ riêng ấy là cả một giang sơn bao trùm lên tất cả, ngoài ra hầu như không có gì hết, hoặc nếu có thì cũng phải phụ thuộc vào cái giang sơn ấy. Chính vì vậy mà họ thấy địa vị cá nhân của họ to lớn, là trung tâm của mọi hiện tượng xung quanh. Chính vì vậy mà họ tự sùng bái họ. Khi họ sùng bái cá nhân khác, cũng chính là lúc họ đứng ở chỗ trung tâm ấy, tức là lấy cá nhân của họ làm tiêu chuẩn duy nhất để nhận xét sự vật. Cá nhân mà họ sùng bái có lợi gì cho họ, có lợi gì cho địa vị riêng của cá nhân họ, và khi chỉ coi cá
https://thuviensach.vn
nhân mà họ sùng bái quyết định cả cuộc sống của họ thì họ cũng sẽ thấy cá nhân ấy quyết định cả lịch sử. Cho nên từ chỗ sùng bái cá nhân mình, sẽ dẫn đến sùng bái cá nhân người khác hoặc ngược lại sùng bái cá nhân người khác cũng là do bắt nguồn từ chỗ tự sùng bái mình. Những người sản xuất nhỏ hay nói rộng ra cả giai cấp tiểu tư sản đặc biệt là tiểu tư sản tri thức, còn có một tư tưởng khác xét bề ngoài thì tưởng là không mắc vào bệnh sùng bái cá nhân. Họ quen với lối làm ăn riêng biệt, quen nhìn xã hội với quan điểm tự coi mình là trung tâm của vũ trụ không liên hệ với ai, không cần sống trong một tổ chức với người khác, do đó cũng không biết người lãnh đạo, không thấy tác dụng của người lãnh đạo ; và cũng không thể biết đến tác dụng của một tập thể to lớn là quần chúng nhân dân. Những người ấy phủ nhận vai trò cá nhân chỉ vì họ muốn chỉ sùng bái cá nhân họ thôi. Từ chỗ tự sùng bái mình như thế, nhất định họ cũng không thể thấy được vai trò của đông đảo quần chúng nhân dân. Tư tưởng vô chính phủ ấy, bề ngoài tưởng như là chống sùng bái cá nhân, nhưng sự thực là bắt nguồn từ chỗ tự sùng bái mình với một mực độ rất trầm trọng. Thứ tư tưởng này sẽ ngăn trở người ta nhìn đúng được chân lý, và tác hại rất nhiều cho cách mạng.
Chúng ta nhận rõ vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, nhưng chúng ta không phủ nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử.
Chúng ta tôn kính vĩ nhân, lãnh tụ, nhưng chúng ta không sùng bái cá nhân.
Đồng thời chúng ta cũng không dung thứ những tư tưởng vô chính phủ phủ nhận sự lãnh đạo, phủ nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử.
Đại Hội Đảng Cộng sản Liên-xô lần thứ 20 và Hội nghị Trung Ương lần thứ 9 mở rộng của Đảng ta riêng đối với khoa học lịch sử sẽ rọi thêm ánh sáng cho ta trong khi thực hiện công tác.
MINH-TRANH
https://thuviensach.vn
BÀN THÊM VỀ VẤN ĐỀ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT-NAM
của TRẦN HUY-LIỆU
https://thuviensach.vn
ĐẶT VẤN ĐỀ
TẬP san Văn Sử Địa số 5 xuất bản tháng 2-1955, tôi đã nêu vấn đề dân tộc Việt-nam thành hình từ bao giờ và theo chỗ nhận định của tôi, dân tộc ta thành hình vào thế kỷ 18.
Từ bấy tới nay, qua những bài của các bạn Nguyễn Lương-Bích, Đào Duy-Anh và Hoàng Xuân-Nhị, vấn đề hình thành dân tộc Việt-nam đã được đề ra thảo luận. Cũng phải nhận rằng : đối với vấn đề này, nhiều bạn công tác sử học ở nước ta còn giữ thái độ dè dặt, vì là một vấn đề lớn và mới, còn cần phải nghiên cứu nhiều. Tuy vậy, theo chỗ tôi biết, nó đã được đề ra thảo luận ở một số cuộc tọa đàm giữa những bạn có quan tâm tới vấn đề hình thành dân tộc. Mấy bạn Liên-xô nghiên cứu về lịch sử Việt-nam, trong những bức thư riêng, cũng gợi cho chúng tôi một vài ý kiến. Hôm nay, tôi trở lại vấn đề này.
Xin miễn nhắc lại những yếu tố hình thành một dân tộc do Sta-lin đã nêu ra, vì chúng ta đã nhắc đến nhiều lần. Tôi chỉ muốn nói thêm rằng : mấy yếu tố như ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, văn hóa để xây dựng nên một cộng đồng thể của những người đã ổn định kết hợp trong quá trình lịch sử đó không phải một lúc tạo nên, mà do lâu ngày dần dần tạo nên. Dân tộc Việt-nam, cũng như một dân tộc nào khác, đến một lúc nào đó trở nên một cộng đồng thể của những người đã ổn định kết hợp trong quá trình lịch sử có ngôn ngữ chung, lãnh thổ chung, sinh hoạt kinh tế chung và trạng thái tâm lý chung biểu hiện ở văn hóa chung. Nhưng trong quá trình lịch sử hình thành dân tộc ấy, mỗi yếu tố lại có một quá trình từ phát sinh, phát triển đến khi đầy đủ tạo nên một trong những yếu tố hình thành dân tộc. Trong bốn yếu tố, nếu thiếu một không thể kể là một dân tộc. Nhưng bốn yếu tố ấy vẫn phát triển không ngừng làm cho sự hình thành dân tộc ngày một đầy đủ, rõ rệt hơn. Vấn đề chỉ là ở chỗ nhận được đúng dân tộc ấy thành hình từ bao giờ.
https://thuviensach.vn
Tôi muốn đưa ra một ví dụ cho dễ hiểu. Trước khi đứa trẻ ra đời đã có cái thai ở trong lòng người mẹ. Trong quá trình thai nghén làm cho đứa trẻ có đủ chân tay, mặt, mũi để thành hình một con người không phải một ngày một tháng, mà phải trải qua một số ngày tháng. Và, chỉ khi nào đứa trẻ lọt lòng ra mới có thể gọi là người đã hình thành. Một dân tộc cũng vậy, theo định nghĩa của Sta-lin là một dân tộc đã hình thành rồi sau một quá trình hình thành và ổn định. Cũng cần nói thêm rằng : quyển Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc của Sta-lin xuất bản từ khi Lê-nin còn sống và đã được Lê nin khen nhận là đúng.
Trong một bài trước, tôi đã nêu ra một điểm đáng chú ý là : nếu đem điều kiện địa lý, xã hội ở Việt-nam ta so với nhiều nước khác thì ta có những điều kiện thuận tiện, đơn giản hơn để dễ hình thành một dân tộc. Bốn yếu tố mà Sta-lin nêu ra cũng không phải cái nào cũng nặng nhẹ như nhau, mà trong quá trình biến chuyển của cộng đồng thể, của những người từ bộ tộc sang dân tộc, một yếu tố có tác dụng quyết định là sinh hoạt kinh tế chung của dân tộc. Do đó, bài này, tôi chú trọng nói về điểm sinh hoạt kinh tế là một yếu tố căn bản.
Vậy thì, dân tộc Việt thành hình từ bao giờ ?
Một vấn đề phải trang trải trước hết là tên gọi. Nước Việt-nam là một nước nhiều tộc, có những giống người khác nhau. Do đó, có bạn cho rằng chúng ta không nên gọi một cách ôm đồm là dân tộc Việt-nam, mà phải gọi riêng từng tộc, như : Kinh, Mường, Thổ, Mán, Thái, Mèo v.v... Vì có thể người Kinh đã thành dân tộc mà các giống người khác trên đất nước Việt nam vẫn còn là bộ tộc. Tôi đồng ý về cách gọi phân biệt từng tộc. Cũng như vấn đề hình thành dân tộc ở Trung-quốc hiện nay, các bạn chúng ta nêu rõ ra là dân tộc Hán chẳng hạn. Nhưng tôi không đồng ý gọi dân tộc ta là dân tộc Kinh. Vì hai tiếng người Kinh là do bọn phong kiến ngày trước đặt ra để phân biệt những người ở Kinh-kỳ Kẻ chợ với những người ở rừng núi biên viễn. Nó có tính chất kỳ thị chủng tộc hơn là phân biệt chủng tộc. Do đó, tôi
https://thuviensach.vn
đề nghị dùng chữ người Việt (Việt tộc) để chỉ những đồng bào đa số tập trung tại miền đồng bằng đã có một lịch sử văn hóa dài lâu từ ngày lập quốc. Trong phạm vi bài này, chúng ta mới đề ra sự thành hình của dân tộc Việt, một dân tộc chủ đạo trong đại gia đình Việt-nam. Còn các tộc khác sẽ nghiên cứu sau.
https://thuviensach.vn
QUA NHỮNG Ý KIẾN CỦA CÁC BẠN NGUYỄN LƯƠNG-BÍCH, ĐÀO DUY-ANH VÀ HOÀNG XUÂN-NHỊ
Qua những ý kiến của các bạn Nguyễn Lương-Bích, Đào Duy-Anh và Hoàng Xuân-Nhị, vấn đề hình thành dân tộc Việt-nam đã được sáng thêm lên. Bạn Nguyễn Lương-Bích mới đưa ra những tiêu chuẩn để nhận định sự hình thành dân tộc dọn đường cho một bài sau về ý kiến của bạn. Hai bạn Đào Duy-Anh và Hoàng Xuân-Nhị mặc dầu ý kiến trái nhau, nhưng đều giúp nhiều cho chúng ta để nghiên cứu, suy nghĩ, phê phán về vấn đề hình thành dân tộc.
Dưới đây tôi có mấy ý kiến bàn lại.
Theo bạn Đào Duy-Anh thì, dân tộc Việt-nam hình thành từ thế kỷ thứ 10, nghĩa là vào triều nhà Lê. Bạn nói rõ thêm : dân tộc Việt-nam được hình thành tích cực trong khoảng mấy thế kỷ 10-14 và đến thể kỷ 15, dân tộc Việt-nam đã trưởng thành. Lập luận của bạn Đào Duy-Anh là, ở nước ta, vì những điều kiện chính trị đặc biệt, với sự thành lập sớm, ngay trong điều kiện chế độ phong kiến còn thịnh của nhà nước Trung ương tập quyền nhà Lê, tình trạng phân cát của phong kiến thuần túy... đã bị thủ tiêu từ trước khi có chủ nghĩa tư bản. Do đó, ở nước ta, dân tộc đã hình thành ngay trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và trải qua quá trình hình thành dần dần trong những cuộc đấu tranh chống phong kiến Trung-quốc để bảo vệ quyền tự chủ, đến sau cuộc chiến thắng quân Minh, dân tộc đã trưởng thành với nhà Lê. Ở những đoạn khác, bạn Đào Duy-Anh nói rõ thêm : Việt tộc là thành phần lãnh đạo trong nhà nước đa dân tộc ấy cũng đã là một dân tộc như Hán tộc ở Trung-quốc, ở trên cơ sở chủ yếu tự vệ, đồng thời ở trên cơ sở những yếu tố dân tộc của Việt tộc đã hình thành đến một mức độ nào và tình trạng phân cất của kinh tế phong kiến thuần túy đã bị thủ tiêu về căn bản : chính nó đã thực hiện được cái sứ mệnh thống nhất quốc gia để giải phóng hay bảo vệ dân tộc... và nhà nước trung ương tập quyền đã
https://thuviensach.vn
được thực hiện và do sự tập trung chính quyền đồng thời cũng đã được thực hiện một phần nào sự liên hệ kinh tế.
Nói tóm lại, chủ thuyết của bạn Đào Duy-Anh là gắn liền việc thành hình nhà nước phong kiến tập quyền với việc hình thành dân tộc và nhận rằng giai cấp phong kiến đã đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp dân tộc.
Sự thực lịch sử có đúng như thế không ?
Chúng ta không chối cãi rằng nhà nước trung ương tập quyền có lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, lợi cho việc tiêu trừ trạng thái kinh tế phân tán, do đó có lợi cho việc hình thành dân tộc, nhưng vấn đề đặt ra là : nếu trong một xã hội, ở vào một thời kỳ nhất định nào đó, chưa có sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nghĩa là chưa phải thời kỳ chủ nghĩa tư bản đương lên (Capitalisme ascendant) thì những động cơ giả tạo, nhất thời ấy có thể làm cho dân tộc hình thành một cách hoàn chỉnh và lâu dài được không ? Thực ra, nói đến bốn yếu tố để hình thành một dân tộc không phải là con số cộng, mà phải thấy ở đó yếu tố nào là yếu tố căn bản. Vì những yếu tố như ngôn ngữ chung, lãnh thổ chung, trạng thái tâm lý chung biểu hiện ở văn hóa chung không phải tự trên trời rơi xuống ; nó chỉ có thể thực hiện được đầy đủ khi mà dân tộc ấy đã có sinh hoạt kinh tế chung. Mà sinh hoạt kinh tế chung cũng chỉ có thể thực hiện được khi đã có thị trường dân tộc, có những trung tâm kinh tế của dân tộc. Như vậy, những điều kiện ấy có thể có được ở một thời kỳ lịch sử mà ông bạn Đào Duy-Anh đã chỉ ra không ? Điều mà ông bạn Đào Duy-Anh nhận là xã hội Việt-nam trước khi có chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến còn thịnh, tình trạng phân cất của phong kiến thuần túy đã bị thủ tiêu trong nhà nước trung ương tập quyền – nhà Lê ấy, nếu không có thị trường dân tộc và các trung tâm kinh tế dân tộc làm hậu thuẫn thì cái trung ương tập quyền đến cao độ ấy có thể giữ được lâu không ? Một câu hỏi nữa rất đơn giản và thiết thực là : trong thế kỷ thứ 10 và 15 mà bạn Đào Duy-Anh nêu ra đó, dân tộc ta đã có một lãnh thổ
https://thuviensach.vn
chung với sự ổn định như thế kỷ 18 chưa ? Lập luận của ông bạn đã dựa vào những điều kiện chính trị đặc biệt mà thiếu cơ sở khoa học và thực tế. Do đó, nó không vững và không đúng với ý nghĩa câu : dân tộc ta là một phạm trù lịch sử của một thời kỳ nhất định.
Trái lại với bạn Đào Duy-Anh, bạn Hoàng Xuân-Nhị cho rằng : năm 1930, lần đầu tiên trong lịch sử Việt-nam, dân tộc Việt-nam bắt đầu thành hình... Dân tộc Việt-nam bước đầu thể hiện, xuyên qua giai cấp vô sản Việt nam, có đảng lãnh đạo kiên quyết và dũng cảm. Dân tộc Việt-nam cũng bước đầu thể hiện xuyên qua khối công nông liên minh mà đảng bắt đầu tập hợp và tổ chức, xuyên qua mặt trận dân tộc thống nhất xung quanh Đảng. Qua sự thống nhất của giai cấp vô sản Việt-nam và sự thống nhất của đảng, chúng ta thấy thể hiện bước đầu các đặc trưng của dân tộc mà Sta-lin đã tổng kết... Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ra đời dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, của đảng Cộng sản Đông-dương, của Hồ Chủ-tịch, đánh dấu sự hình thành đầy đủ của dân tộc Việt-nam.
Nếu ông bạn Đào Duy-Anh đã gắn liền việc hình thành dân tộc với nhà nước phong kiến tập quyền, thì trái lại, ông bạn Hoàng Xuân-Nhị lại đem việc hình thành dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và vai trò lãnh đạo của nó. Như thế có đúng không ?
Trước hết, tôi đồng ý với ông bạn Hoàng Xuân-Nhị là dân tộc Việt nam ta, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cho tới khi dưới quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, hoàn thành Cách mạng tháng Tám, được hình thành đầy đủ hơn hết từ trước tới giờ. Nhưng vấn đề vẫn phải đặt ra là : dân tộc ta có phải đợi tới năm 1930 trở về sau mới thành hình dân tộc không ?
Tôi đã thất vọng khi đọc bài « Xác nhận quan niệm của chúng ta về vấn đề dân tộc và về sự hình thành của dân tộc Việt-nam » thấy ông bạn
https://thuviensach.vn
Hoàng Xuân-Nhị sau khi bác cái chủ thuyết của ông bạn Đào Duy-Anh rồi, không đem được ra những bằng cớ gì chứng minh rằng từ năm 1930 trở về trước, ta chưa có thị trường dân tộc, chưa có những trung tâm kinh tế của dân tộc để tạo điều kiện cho sự hình thành dân tộc, mà chỉ nói nhiều một mặt về phong trào đấu tranh cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng.
Ông bạn Hoàng Xuân-Nhị chắc cũng nhận thấy như tôi là có nhiều dân tộc trên thế giới không phải chờ tới khi có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới đủ điều kiện hình thành. Chúng ta có thể lấy rất nhiều thí dụ. Dân tộc Việt-nam ta cũng không có trường hợp đặc biệt nào buộc phải như thế. Chúng ta không thể chối cãi tác dụng lớn lao của giai cấp công nhân trong việc giải phóng dân tộc, đưa dân tộc hình thành cao lên một bậc là dân tộc xã hội chủ nghĩa. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta phủ nhận hiện thực khách quan về sự hình thành dân tộc trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Lập luận của bạn Hoàng Xuân-Nhị đã phạm một sai lầm căn bản là đem yếu tố chính trị làm một yếu tố căn bản để kết thành dân tộc trong khi những yếu tố mà Sta-lin đề ra không có yếu tố chính trị.
https://thuviensach.vn
TRỞ LẠI NHẬN ĐỊNH CỦA CHÚNG TÔI
Trong một bài trước, tôi đã trình bày về nhận xét của chúng tôi để đi tới ức thuyết là dân tộc Việt-nam hình thành vào quãng thế kỷ 18. Từ bấy tới nay, qua những bài nghị luận của các bạn, tôi chú ý nghiên cứu thêm và kiểm điểm lại những nhận xét của mình từ trước thì thấy những tài liệu chứng minh trong bài trước còn thiếu, nhưng về ức thuyết của tôi thì vẫn không thay đổi. Viết bài này, tôi mong được bổ cứu bài trước. 1
Cần phải nói thêm rằng : thảo luận vấn đề hình thành dân tộc là thảo luận một vấn đề lịch sử, một vấn đề khoa học. Không thể suy luận bằng chủ quan, mà phải chứng thực bằng tài liệu. Bàn về việc hình thành dân tộc Việt-nam theo định nghĩa của Sta-lin, chúng ta nhất định phải gắn nó với việc phát sinh và phát triển chủ nghĩa tư bản ở Việt-nam đến một trình độ nào đó để có thể hình thành dân tộc trên bốn yếu tố ngôn ngữ chung, lãnh thổ chung, sinh hoạt kinh tế chung và trạng thái tâm lý chung biểu hiện ở văn hóa chung. Trong tập san Văn Sử Địa số 14 xuất bản tháng 2-1956, bài « Xã hội Việt-nam trong thế kỷ 18 » và bài « Sự hình thành giai cấp tư sản Việt-nam » đăng trong tập san Văn Sử Địa vừa qua, có thể cung cấp cho chúng ta những tài liệu để nhận xét thêm về vấn đề này.
Ông bạn Hoàng Xuân-Nhị, trong một bài kể trên, khi nói đến phong trào Tây-sơn, cũng đã nhận rằng : yếu tố địa vực chung thể hiện rõ rệt ; yếu tố ngôn ngữ được công nhận bước đầu ; yếu tố văn hóa chung và mới, với nội dung yêu nước muốn giải phóng đất nước cũng khá rõ. Yếu tố kinh tế chung cũng có, nhưng yếu. Trong bài này, tôi cũng chú ý nhấn mạnh vào yếu tố kinh tế mà ông bạn Hoàng Xuân-Nhị cho là còn yếu ấy.
Như chúng ta đã biết, xã hội Việt-nam đến thế kỷ 17 và 18 là một thời kỳ đặc biệt. Hệ thống phong kiến bị tan rã về căn bản. Cũng trong lúc này, lãnh thổ được mở rộng thêm. Nhưng trên cơ sở kinh tế nông nghiệp, không
https://thuviensach.vn
đủ điều kiện để thống nhất lãnh thổ nên sự phân liệt giữa các tập đoàn phong kiến càng gay gắt hơn. Trong lúc ấy, một yếu tố mới là chủ nghĩa tư bản đã phát sinh và phát triển đến một mức độ nhất định. Theo tài liệu mà hiện nay tìm được, thì từ thế kỷ 17, về công nghiệp, bên những xưởng đúc súng của nhà nước, đã có những xưởng đóng thuyền và chế tạo binh khí của tư nhân. Việc khai mỏ cũng được đẩy mạnh. Bên những xưởng mỏ do nhà nước quản lý, đã dần dần xuất hiện những tư nhân bỏ vốn kinh doanh. Như vậy, ngoài những công nhân làm trong các công trường nhà nước, những công nhân trong các công trường tư doanh đã bị bóc lột theo lối tư bản.
Trong hai thế kỷ 17 và 18, những làng chuyên làm nghề thủ công đã xuất hiện nhiều ở các địa phương, có tính chất phân công. Hai xã Liễu chàng và Liễu-lục thuộc huyện Gia-lộc (Hải-dương) làm nghề khắc bản in ; hai xã Đào-lâm và Trúc-lâm thuộc huyện Tứ-kỳ (Hải-dương) làm nghề đóng giầy. Ba xã Sơn-tây, Nghi-xuân và Vạn-xuân thuộc huyện Hương Trà (Thuận-hóa) chuyên dệt gấm vóc. Xã Phù-trạch có nghề dệt chiếu hoa, tục gọi chiếu buồm cũng như chiếu Quảng-lãm ở Kinh-bắc. Dân cư các xã thuộc huyện Khang-lộc (sau đổi là Phong-lộc thuộc trấn Thuận-hóa) đều làm nghề dệt vải. Hai xã Bình-xá và Vũ-xá thuộc huyện Lệ-thủy (Thuận hóa) đều làm nghề dệt vải lụa. Nghề dệt sa ở làng La-Khê thuộc huyện Từ liêm (Sơn-tây) 2và nghề dệt vải ở Cương thôn thuộc huyện Thạch-thất (Sơn-tây) đều có tiếng là tốt. Xã Võng-trì thuộc huyện Phú-vinh (Thừa thiên) làm nghề rèn rìu, búa, thuổng, cuốc. Xã Mậu-tài thuộc huyện Phú vinh (Thừa-thiên) làm nghề rèn giây thau và giây thép. Hai xã Dị-sử và Bạch-sam thuộc huyện Đường-hào (trước thuộc Hải-dương nay thuộc Hưng-yên) đều làm nghề thợ sắt và thợ mộc. Những tài liệu trên đây theo sách Hoàng Việt địa dư chí đã nói lên nghề thủ công thịnh hành ở thôn quê. Trước đây, những làng chuyên nghiệp này có nhiệm vụ làm để cung phụng cho bọn vua chúa trong triều đình. Nhưng sau đó, những đồ chế tạo đã trở nên những món hàng hóa tiêu thụ trong nhân dân. Tính chất phân công của
https://thuviensach.vn
nó cùng với sự phát triển của thương nghiệp đã dần dần xóa bỏ chế độ tự cung tự cấp ở các địa phương.
Song song với việc phát triển công nghiệp là thương nghiệp. Do việc tiếp xúc với chủ nghĩa tư bản phương tây, những thương phu mới đã bắt đầu xuất hiện. Việc chúa Trịnh lập 23 sở tuần ty từ Hưng-hóa, Thái-nguyên, Sơn-tây, Cao-bằng, Quảng-yên, Kinh-bắc đến Thanh-hóa, Nghệ-an và định thể lệ đánh thuế những tre gỗ từ miền ngược xuống miền xuôi và những đồ tạp hóa từ nơi này sang nơi khác đã nói lên kinh tế hàng hóa phát triển đến mức nào. Muốn biết những sản vật và hàng hóa lưu thông đến đâu, chúng ta còn có thể xem những thuế biểu của nơi ấy. Năm 1724, Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thứ như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than, gỗ, tơ, lụa, quế, cá, mắm, rượu, mạt, dầu, giấy, chiếu, vải v.v… Chúa Nguyễn cũng định ra các thứ thuế mới như thuế sắt, thuế muối, thuế mắm, thuế yến sào, thuế thuyền, thuế nhập khẩu và xuất khẩu. Năm 1753, Chưởng Thái giám Mai Văn-Hoan báo cáo với Vũ vương (chúa Nguyễn) số thuế thu được từ năm 1746 đến 1752 về việc ngoại thương : riêng số vàng đã thu được 5.768 lạng, số giáp ngân thu được 9.978 lạng, số dung ngân được 14.276 lạng, số kê ngân được 21.150 đồng. Để cho cho việc buôn bán và đánh thuế được dễ dàng, đơn vị đo lường cần được thống nhất. Năm 1664, theo đề nghị của Phạm Công-Trứ, chúa Trịnh đã ra lệnh cho các nơi phải lấy một cái thùng thống nhất để đo lường là « hoàng chung quản » 3. Việc quy định đong lường thống nhất như vậy chỉ cho ta thấy việc buôn bán thóc gạo đã phát triển và tính chất tự cấp tự túc ở các địa phương đã bắt đầu biến chuyển.
Trở lên trên, chúng ta nhìn thấy qua tình hình chung của công thương nghiệp Việt-nam bấy giờ. Nhưng muốn đánh dấu trình độ phát triển của nó, một câu hỏi đề ra là lúc ấy nước ta đã có thị trường dân tộc chưa ? Vì có thị trường dân tộc thì mới có quan hệ mậu dịch giữa các địa phương. Theo Sta lin, thì, trước thời kỳ tư bản chủ nghĩa không có và không thể có được dân tộc, vì chưa có thị trường dân tộc, chưa có những trung tâm kinh kinh tế
https://thuviensach.vn
của dân tộc, cũng chưa có những trung tâm văn hóa của dân tộc, do đó vẫn chưa có những nhân tố có thể tiêu diệt trạng thái phân tán nào đó của kinh tế dân tộc và đem những bộ phận dân tộc từ xưa tới nay vẫn cách biệt nhau kết thành một chính thể của dân tộc.
Cũng cần nói thêm rằng : thị trường dân tộc nói đây, trong thời đại này, không nhất định phải là một trung tâm kinh tế duy nhất theo kiểu các nước tư bản, mà chỉ là dung hợp các thị trường nhỏ ở các địa phương thành một thị trường lớn, nghĩa là sự hình thành thị trường dân tộc và trung tâm kinh tế dân tộc không phải chỉ bắt đầu sau khi đã có một nền đại kỹ nghệ, mà đã có thể bắt đầu từ khi có những công xưởng thủ công rồi. Ở đây, lại cũng cần phân biệt thì trường dân tộc với những kinh đô nhà vua trước kia tập trung những sản vật cống hiến từ các nơi lại và những công xưởng, những thợ thuyền chuyên chế tạo những phẩm vật cho bọn vua chúa dùng. Nếu vậy, chúng ta có thể nói được rằng : trong thời kỳ này, nước ta đã có thị trường dân tộc rồi.
Thành phố Hà-nội trong thế kỷ 17, theo sự miêu tả của một người Anh là Samuel Baron, thì vào những ngày phiên chợ (ngày mồng một và ngày rằng âm lịch), nhân dân các làng lân cận tới tấp đem hàng hóa đến. Nhiều phố khá rộng chật ních những người đến phải chen vai trong đám đông hàng nửa giờ để tiến lên một trăm bước. Và theo lời của linh mục Richard, thì, số thuyền bè nhiều lắm đến nỗi những thuyền mới khó len vào được. Những sông và những hải cảng lớn nhất của ta (tức châu Âu) như Venise với các thuyền, tàu của nó không thể diễn đạt được ý niệm về giao lưu và dân số của sông Kẻ Chợ. – Thành phố Hà-nội cuối thế kỷ thứ 18, dưới trào Tây-sơn cũng hiện ra trong bài phú « Tụng Tây-Hồ » của Nguyễn Huy Lượng với những câu : « …Rập rềnh cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm… » và « khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát » v.v…, chúng ta có thể tưởng tượng thấy Hà-nội chẳng phải chỉ là một trung tâm chính trị, mà còn là một trung tâm kinh tế.
https://thuviensach.vn
Ngoài Kẻ chợ (Hà-nội) ra, Phố Hiến, Hội-an trong thế kỷ 17, Đồng-nai, Mỹ-tho từ cuối thế kỷ 17, Bình-thủy-quan (Cao-bằng) và Du-thôn-ải (Lạng sơn)) trong thế kỷ 18 đều là những thị trấn buôn bán tấp nập về nội thương cũng như ngoại thương.
Thị trường dân tộc đã có, mặc dầu sự cát cứ của các tập đoàn phong kiến, kinh tế hàng hóa vẫn phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt kinh tế chung. Tình hình thị dân tại các thị trấn bấy giờ ra sao và chống đối với bọn phong kiến thống trị thế nào, hiện nay chúng ta chưa biết một cách đầy đủ. Tuy vậy, qua một vài tài liệu, chúng ta cũng có thể thấy thoáng qua. Trong quyển « lịch triều tập kỷ » của Cao Lãng (viết sách tay) có chép : Trong thế kỷ 17 và 18, nhân dân thường dán giấy ở tường hay rải ở đường ở chợ để chỉ trích chính sách của triều đình và vạch tội quan lại. Năm 1712, Trịnh Cương phải ra lệnh nghiêm cấm. Đây là một hình thức đấu tranh của thị dân đối với giai cấp phong kiến một khi thị dân đã tập trung đông đúc ở các đô thị.
Cuộc vận động của thị dân còn tích cực hơn nữa. Năm 1721, vì giá gạo quá cao, nhân dân ở kinh kỳ xao xuyến. Họ tuyên truyền bằng những câu ca dao làm nhiều người sợ hãi hoang mang, tranh nhau thu xếp của cải, lũ lượt bỏ thành thị về thôn quê. Chúa Trịnh phải hạ lệnh nghiêm cấm. Nhưng vừa dập tắt được những câu phao ngôn, thì ít lâu sau lại nổ ra những cuộc bạo động khác. Năm 1726, Chúa Trịnh hạ lệnh buộc các nhà ở phường phố phải làm đơn khai mới được trú ngụ. Các quan Đề lĩnh ở bốn cửa thành phải xét hỏi nghiêm ngặt. Tuy vậy, những cuộc bạo động như đốt nhà và cướp phá vẫn diễn ra 4. Chẳng những thế, cuộc đấu tranh của thị dân còn phối hợp với cuộc khởi nghĩa của nông dân một phần nào. Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Phan Thanh-giản có nói : vì những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, chúa Trịnh phải mộ những người khỏe mạnh xung vào quân chi nguyện để đánh dẹp. Quân chi nguyện phần nhiều ở lẫn với dân kinh kỳ, do đó họ lại liên kết nhau làm những việc mà bọn phong
https://thuviensach.vn
kiến thống trị gọi là « gian đạo ». Sau cùng, chúng không dám cho quân chí nguyện vào trong thành ở lẫn với dân cư nữa.
Trong khi kinh tế hàng hóa dần dần phát triển trên thị trường và thế lực của thị dân ngày một bành trướng, thì hình thức bóc lột theo lối phong kiến cũng dần dần biến đổi ở nông thôn. Năm 1664, theo lệ định thu tô của Trịnh Tạc, thì các quan điền, bên chỗ nộp 30 thăng thóc, còn phải nộp hạng nhất mỗi mẫu một quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba sáu tiền. Ruộng vua chúa cấp cho và ruộng thuế nghiệp mỗi mẫu 40 thăng và một quan 3 tiền, một quan một tiền hay một quan tùy theo từng hạng, ruộng nhất, nhì, ba. Ngoài ra, các ruộng làm muối, trồng cói, trồng dâu đều phải nộp thuế hoàn toàn bằng tiền. Đến năm 1719, Trịnh Cương bắt đo lại ruộng công để đánh thuế, cả ba hạng nhất, nhì, ba đều bằng tiền. Cho đến năm 1723, trong việc đánh thuế theo phép tô, dung và điệu, thì, về tô, vừa phải nộp bằng tiền vừa phải nộp bằng thóc. Về điệu, bắt dân đóng tiền thay tô lực dịch. Tỷ lệ nộp thóc và tiền theo tô xuất của Trịnh Cương năm 1728, thì về ruộng công hạng nhất, 1/3 nộp bằng tiền ; hạng nhì, một nửa bằng tiền ; hạng ba 2/3 bằng tiền ; hạng tư toàn nộp bằng tiền. Còn ruộng tư thì bất kỳ hạng nào cũng đều bằng tiền cả.
Tại miền Bắc thì như thế, còn tại miền Nam dưới quyền thống trị của chúa Nguyễn, thì, tô xuất năm 1669, món tiền nộp còn coi như ngoại phu đối với thóc và gạo. Quan điền trang có nơi thu bằng thóc, bằng hiện vật, có nơi thu bằng tiền. Nhưng sau đó, số hiện vật được dần dần thay bằng tiền làm ngu lộc. Trước những món chi dùng ngày càng nhiều để duy trì bộ máy phong kiến và kéo dài chiến tranh, những tập đoàn phong kiến Nam và Bắc phải tăng cường việc bóc lột nhân dân ; nhưng đồng thời, địa tô bằng tiền ngày càng thịnh hành đã tỏ ra kinh tế hàng hóa và kinh tế tiền tệ này càng phát triển. Theo lời Ăng-ghen « phàm ở nơi nào quan hệ giữa người và người bị những quan hệ về tiền tệ gây nên mâu thuẫn, nghĩa là ở những nơi mà thuế ruộng nộp bằng hiện vật đã biến thành thuế nộp bằng tiền thì ở nơi
https://thuviensach.vn
đó quan hệ tư bản chủ nghĩa đã chiếm đoạt được vị trí của quan hệ phong kiến ». Ở đây, chúng ta chưa dám nói quan hệ tư bản chủ nghĩa đã chiếm đoạt được vị trí của quan hệ phong kiến ; nhưng chúng ta có thể nói được rằng : quan hệ tư bản chủ nghĩa đã ăn lấn vào quan hệ phong kiến rồi.
Với những tài liệu có được hiện nay, chúng tôi chưa biết rõ tầng lớp phú nông với lối bóc lột nhân công mới đã xuất hiện ở thôn quê thế nào ? Có một điều là động lực chính làm lay chuyển đến gốc rễ của hệ thống phong kiến bấy giờ là những cuộc khởi nghĩa liên tiếp của nông dân. Nhưng bọn phong kiến thống trị Trịnh Nguyễn bấy giờ cũng đã có một chính sách đối với công thương, như quy định lại thuế khóa, khai mỏ ; mở mang việc buôn bán v.v… trước một áp lực của nhân tố tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn. Sau khi Tây Sơn cầm chính quyền rồi, bèn chính sách tăng gia sản xuất về nông nghiệp, đã chú ý ngay đến việc chấn hưng công, thương nghiệp, mở rộng việc buôn bán với Trung-quốc và các nhà buôn phương tây. Như vậy, chúng ta có thể tin rằng : việc mở mang công thương nghiệp bấy giờ đã trở nên vấn đề cấp thiết của thời đại vì nội dung tư bản chủ nghĩa đã phát triển đến một mực nào.
*
Trở lên trên, chúng tôi đã nói nhiều về nhân tố tư bản chủ nghĩa dần dần phát triển trong sự phát triển trong sự tan rã về căn bản của hệ thống phong kiến. Những yếu tố để cấu thành dân tộc Việt nam đã đủ. Trong một bài trước, chúng tôi mới nói dân tộc Việt-nam hình thành vào quãng thế kỷ thứ 18, khi mà những phe phong kiến từ chỗ cát cứ, phân tranh đến thống nhất lãnh thổ trọn vẹn từ Bắc đến Nam… Với bài này, tôi muốn nói rõ hơn là : trên những yếu tố cấu thành dân tộc đã tiềm tàng đầy đủ, cuộc đại thắng của Tây-sơn phá tan các tập đoàn phong kiến cát cứ, thống nhất lãnh thổ từ Nam đến Bắc là một đột biến để cụ thể hóa việc hình thành dân tộc Việt nam trên mọi phương diện ngữ ngôn, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt văn hóa mà từ trước chưa từng có.
https://thuviensach.vn
Đồng ý với ông bạn Hoàng Xuân-Nhị là bọn phản động nhà Nguyễn chẵng những làm mất nước ta, mà còn muốn kéo dân tộc ta lùi lại trạng thái lạc hậu hơn trước. Thực dân Pháp cướp nước ta với chính sách chia mà trị, đã ngăn cách đất nước ta, chia rẽ dân tộc ta. Nhưng những yếu tố kết thành dân tộc một khi đã đầy đủ rồi thì không một sức phản động nào có thể làm tan vỡ được. Lãnh thổ nước ta vẫn từ Mục-nam-quan đến mũi Cà-mâu. Ngôn ngữ của dân tộc ta vẫn nhất trí từ Nam đến Bắc. Chúng ta sống trên một nền kinh tế chung và một trạng thái tâm lý chung biểu hiện ở một văn hóa chung. Những yếu tố ấy sau khi dân tộc hình thành rồi vẫn ngày một phát triển và đặc biệt phát triển sau khi nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ra đời. Hiện nay, bọn Ngô Đình-Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, một lần nữa chực âm mưu chia cắt đất nước ta, chia rẽ dân tộc ta. Nhưng chúng chẳng những vấp phải sức đấu tranh của toàn dân, mà còn húc đầu vào những yếu tố đã kết thành dân tộc không gì lay chuyển được.
Không lúc nào bằng lúc này, khối dân tộc Việt-nam hình thành càng thêm vững chắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất và một ngày không xa, dân tộc ta sẽ chuyển thành dân tộc xã hội chủ nghĩa.
25-5-1956
TRẦN HUY-LIỆU
https://thuviensach.vn
CÙNG BẠN ĐỌC THÂN MẾN
GẦN đây, chúng tôi tiếp được một số thư của các bạn đọc gửi tới góp ý kiến về tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa, về nội dung cũng như về hình thức. Chúng tôi rất vui mừng và cảm kích về sự chú ý của các bạn đối với công tác học hỏi nghiên cứu chung của chúng ta, và hôm nay, chúng tôi có mấy điểm trình bày với các bạn.
1. Công tác nghiên cứu lịch sử, văn học, địa lý theo quan điểm chủ nghĩa Mác, đối với chúng ta là một công tác mới ; và đối với chúng tôi, chúng tôi phải thấy vừa học vừa làm và vừa làm vừa học. Trong công tác, chúng ta cần soát lại những nhận định cũ và tiến lên một nhận định cho đúng. Một số vấn đề còn phải tìm tòi, nghiên cứu và thảo luận. Một vài giả thuyết mạnh bạo đưa ra, cần chờ nhiều ý kiến phê phán.
Chúng ta đã thấy ở Liên-xô cũng như ở Trung-quốc, giữa các nhà công tác sử học, có nhiều vấn đề phải trải qua những cuộc thảo luận lâu dài mới đi đến một nhận định nhất trí ; cũng có những vấn đề cho đến nay vẫn còn tiếp tục thảo luận. Ví dụ như vấn đề qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến ở Liên-xô và vấn đề chiếm hữu nô lệ ở Trung-quốc. Đối với công tác sử học và văn học Việt-nam trong lúc này, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, chúng ta cố gắng học hỏi, nghiên cứu và đề ra vấn đề thảo luận là một điều cần thiết, một dấu tiến bộ. Miễn là chúng ta thành khẩn học hỏi, với một tác phong khiêm tốn, tìm lẽ phải trong sự thật (thực sự cầu tị) và tránh thái độ vũ đoán và cố chấp. Đã vậy, các bạn đọc trước những ý kiến sai khác nhau thuộc mỗi vấn đề cũng nên suy xét phê phán một cách khách quan để tìm ra chân lý và tránh sự hiểu lầm có hại cho việc học hỏi nghiên cứu chung của chúng ta.
2. Theo phương châm học hỏi kể trên, chúng tôi cống hiến Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa làm một diễn đàn chung của những bạn công tác
https://thuviensach.vn
Văn, Sử, Địa hay có quan tâm đến vấn đề Văn, Sử, Địa. Một số vấn đề mà chúng tôi đề ra để nghiên cứu và thảo luận, mặc dầu đã có ý kiến của chúng tôi, vẫn chờ ý kiến của các bạn. Những bài đăng trong tập san, trừ mục ý kiến bạn đọc, đều được xây dựng một phần trên ý kiến tập thể. Cố nhiên là người viết bài vẫn là chủ yếu. Và không nhất thiết là mọi người đều phải có một ý kiến giống nhau trước những vấn đề còn đương nghiên cứu và thảo luận. Đối với các bạn đọc có bài gửi đến, chúng tôi tôn trọng ý của các bạn, mặc dầu có những điểm chưa đồng ý với chúng tôi, miễn là có những điểm giúp cho chúng ta đào sâu nghĩ kỹ thêm. Hiện nay có một số vấn đề đã kéo dài cuộc thảo luận trên tập san, như nước Việt-nam có chế độ chiếm hữu nô lệ không, những bài văn bằng chữ Hán của ta trước kia có liệt vào Việt-nam văn học sử không v.v…, chúng tôi chờ cuộc thảo luận kết thúc, rồi sẽ có một bài tổng kết ý kiến trước mỗi vấn đề và ý kiến của chúng tôi.
Bằng mấy điểm kể trên, chúng tôi mong các bạn thân mến nhận rõ thái độ học hỏi của chúng tôi. Chúng ta cùng nhau góp phần xây dựng khoa học lịch sử, văn học, địa lý của Tổ-quốc Việt-nam.
BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA
https://thuviensach.vn
VẤN ĐỀ BÌNH THƯỜNG HÓA CÁCH PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT-NAM
CHÚNG tôi giới thiệu với các bạn bài sau đây của đồng chí N. D. An đơ-rê ép, giáo sư trường Đại học Lê-nin-gờ-rát bàn về việc phát âm tiếng Việt-nam ta. Trước hết, chúng tôi hoan nghênh sự quan tâm của các đồng chí Liên-xô đối với vấn đề ngôn ngữ Việt-nam và nhận thấy ở đây cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề rất khoa học. Tuy vậy, trong đó có một số vấn đề còn cần phải thảo luận. Và, theo chúng tôi, người Việt-nam cũng có những tiêu chuẩn về sự phát âm và cách phát âm tiếng Việt-nam không phiền phức như tiếng nhiều nước khác. Hôm nay, chúng tôi xin đăng bản dịch bài của đồng chí An-đơ-rê ép sau đây để các bạn chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ nước nhà tham khảo.
LỜI TOÀ SOẠN
DƯỚI đây xin trình bày những ý kiến đã thảo luận với các đồng chí Minh-tranh, Nguyễn Tài-Cẩn về vấn đề tiếng Việt-nam. Theo đề nghị của hai đồng chí, thì đây chỉ là bài trình bày ý kiến cá nhân phát biểu về vấn đề trên.
Khi xét vấn đề tiêu chuẩn cách phát âm tiếng Việt-nam cần phải nêu lên 5 khía cạnh của vấn đề :
1) Sự cần thiết của tiêu chuẩn đó.
2) Khả năng thực hiện tiêu chuẩn.
3) Cách thực hiện.
4) Những nguyên tắc để lựa chọn tiêu chuẩn phát âm.
5) Áp dụng cụ thể những nguyên tắc trên.
*
https://thuviensach.vn
1) Những thổ âm Việt-nam có nhiều chỗ giống nhau hơn là giữa thổ âm Trung-quốc. Hầu hết giữa những người nói tiếng thổ âm ở Việt-nam đều có thể hiểu nhau được. Cái đó giúp cho việc giải quyết vấn đề tiêu chuẩn phát âm, nhưng không phải vì thế mà bỏ qua vấn đề này. Kinh nghiệm cho hay rằng, ngay cả đến những tiếng thổ âm hoàn toàn gần giống nhau, như tiếng Nga chẳng hạn, cũng không thể không đề ra tiêu chuẩn thống nhất cho cách phát âm tiếng dân tộc.
Không phải chỉ có một nguyên nhân, mà còn có rất nhiều nguyên nhân khác đòi hỏi cần thiết phải giải quyết vấn đề đó. Yêu cầu đơn giản nhất và cấp thiết nhất là ở trong các trường học cần có một tiêu chuẩn phát âm. Trong những điều kiện ở Việt-nam chữ viết là cách đọc, nếu muốn đọc, viết đúng thì chỉ có một cách là phải biết tiêu chuẩn phát âm. Nếu tiêu chuẩn không thống nhất thì giáo viên rất khó khăn trong việc dạy viết và gây cho học sinh thói quen viết đúng. Không có tiêu chuẩn phát âm thì không thể trình bày một cách thống nhất ở trong các tự điển và in sách thống nhất được. Sự phát triển của đài phát thanh và điện ảnh cũng đòi hỏi không kém phần cấp thiết phải có một tiêu chuẩn âm thanh thống nhất trong ngôn ngữ và được phổ biến duy nhất trong toàn quốc.
Một nguyên nhân nữa là với sự sản xuất hiện đại, dựa trên một nền kỹ thuật phức tạp phát triển không ngừng, đồng thời số danh từ về kỹ thuật đó cũng tăng thêm rất nhanh, nên đòi hỏi phải có sự chuẩn xác rõ ràng trong công việc để những người tham gia sản xuất có thể hiểu nhau rõ ràng, dễ dàng.
2) Khả năng đề ra tiêu chuẩn phát âm có thể thực hiện được vì :
Thứ nhất : những tiếng thổ âm Việt-nam gần giống nhau, do đó giữa những người nói tiếng thổ âm hiểu nhau được, mặc dầu không phải lúc nào cũng dễ dàng nhưng nói chung là hiểu được.
https://thuviensach.vn
Thứ hai là nghiên cứu các tiếng thổ âm Việt-nam thì thấy mỗi một vần chữ đều bắt buộc có ở các tiếng thổ âm, mà phần lớn những vần đó là các nơi có thể hiểu được. Như vậy thực tế là có thể chọn những vần chữ nào mà gây ít khó khăn cho những người nói tiếng đó. Theo cách như vậy để đặt mức cho tiếng phát âm tiêu chuẩn.
Kinh nghiệm Liên-xô cho thấy rằng, giải quyết vấn đề đó là một việc hợp với năng lực của các dân tộc đa số và thiểu số ở trong nước. Qua thí dụ tiếng Nga ta có thể thấy, tiêu chuẩn phát âm chính bản thân đã có sự tổng hợp những nhân tố phát âm căn bản, mà cái đó chỉ được công nhận một phần của chữ thổ âm, (ví dụ như đối với tiếng thổ âm ở miền Nam và ở giữa nước Nga thì là « akahge » 5còn đối với những chữ thổ âm khác thì lại là phần chữ khác (ví dụ như chữ « T » : đọc là « ghe » ở giữa và miền Bắc nước Nga).
Kinh nghiệm Trung-quốc cũng như thế : những nét căn bản của phát âm Bắc phương (Bắc-kinh) tuy có nhiều khó khăn đối với những người nói tiếng Nam phương, nhưng dầu sao trong mọi trường hợp số người gặp khó khăn trong việc hiểu tiếng Bắc phương còn ít hơn rất nhiều số người gặp khó khăn trong việc hiểu tiếng thổ âm phương Nam.
Như vậy có đầy đủ khả năng chọn lựa ra một hệ thống những tiêu chuẩn phát âm ít khó khăn nhất dùng làm tiêu chuẩn phát âm tiếng Việt nam.
3) Bàn về cách thực hiện mức tiêu chuẩn phát âm, cần phải chú ý đến những nhân tố kể trên nói về sự cần thiết phải đặt mức đó. Muốn nắm những tiêu chuẩn phát âm, các em sẽ học tập ở trường còn đối với người lớn thì nghe radio, xem phim ảnh, dự mét-tinh, nói chuyện, và vì tiếng Việt viết thế nào đọc như thế nên còn một cách nữa là đọc sách và xem cách viết trong sách, vì cách viết này phản ảnh cách phát âm tiêu chuẩn chứ không phải cách phát âm địa phương.
https://thuviensach.vn
Kinh nghiệm Liên-xô cho hay rằng, trong những điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa và phát triển văn hóa, tiêu chuẩn phát âm tiếng dân tộc không những được phổ biến mau chóng đến mọi người mà còn thay thế mau chóng cho cách phát âm địa phương, trước hết ở thành thị sau đến thôn quê. Trong quá trình đó công việc ở những xí nghiệp lớn và ở trong quân đội đóng một vai trò không phải là nhỏ, vì rằng ở những nơi này tập trung nhiều người nói tiếng thổ âm khác nhau, đã rời bỏ nơi tiếng địa phương trước kia. Điều đó bảo đảm tiêu chuẩn phát âm có một địa vị chủ yếu, đó là mục đích mà mỗi người nói tiếng thổ âm khác nhau đều mong muốn đạt tới.
4) Những nguyên tắc định tiêu chuẩn cho cách phát âm, tất nhiên là phải do nhiệm vụ căn bản đối với tất cả mọi ngôn ngữ quy định. Nhiệm vụ đó là : ngôn ngữ phải là phương tiện liên lạc. Cái đó phải là nhiệm vụ đầu tiên.
1. Nguyên tắc dễ hiểu :
Cơ bản đã nêu lên ở trên. Nguyên tắc này đòi hỏi phải làm thế nào cho tiêu chuẩn phát âm một thứ tiếng càng được nhiều người nói thứ tiếng đó có thể tiếp thu được càng tốt. Nhưng nguyên tắc này không nhất thiết đòi hỏi tiêu chuẩn phải phù hợp với cách phát âm của đa số hoặc là đa số có thể phát âm dễ dàng. Lấy ví dụ, khi đề ra tiếng tiêu chuẩn văn chương của Mạc tư-khoa, thì những người nói tiếng thổ âm Nga ở miền Trung nước Nga thành ra thiểu số (ngay cho cả đến bây giờ cũng chưa chiếm đa số) ; nhưng mà nhờ có tính chất trung gian và tổng hợp, nên tiêu chuẩn đó tương đối dễ hiểu với tất cả mọi người, do đó giúp cho mau chóng và dễ dàng thực hiện được mục đích cuối cùng. Về những khó khăn trong việc phát âm, tiêu chuẩn cần chú ý là đối với những người nói tiếng thổ âm Nga ở miền Nam nước Nga cho ngay cả tới hiện nay đối với họ, muốn phát âm đúng chữ « T : ghe », cần phải có một số điều kiện, cái đó cũng như đối với những người Hòa lan nói chữ « g » của Pháp.
https://thuviensach.vn
Do những tiếng thổ âm phát triển, nên trong cách phát âm thường có trường hợp âm này hoặc âm khác cũng đọc giống nhau. Do đó có đôi khi không thể hiểu được hoặc hiểu không đúng. Ví dụ như ở trong các tiếng địa phương ở nước Anh chữ « th » thường lẫn với chữ « đ » và câu « they went » (dây oèn-tơ) nghĩa là « người ta đã đi rồi », nếu đọc là « day went »(đây « oèn-tơ » nghĩa là « ngày đã hết ». Do đấy chúng ta thấy cần nêu lên nguyên tắc thứ hai, nghĩa là :
2. Nguyên tắc càng ít chữ đồng âm khác nghĩa càng tốt :
Theo khả năng có thể được thì nguyên tắc đó cần phải làm thế nào để cho tiêu chuẩn phát âm nào ít gây ra những chữ đồng âm khác nghĩa, ít những chữ khác nhau mà cũng đọc như nhau.
Tất nhiên, không phải là mọi chỗ khác nhau ở trong tiếng thổ âm đều có một giá trị như nhau. Một trong những tiếng thổ âm của một hòn đảo Ý là tiếng Xác-đi-nơ giữ theo cách phát âm tiếng la-tinh, như là chữ « c » đứng trước « e, i » thì đọc một cách rất là chân phương như chữ « k ». Cách đọc như vậy khó hiểu đối với tầng lớp quần chúng căn bản ở Ý hiện nay và gây khó khăn trong sự hiểu biết giữa những người Xác-đi-nơ và những người ở trên lục địa nước Ý. Như vậy cần phải nêu lên nguyên tắc thứ ba.
3. Nguyên tắc tiến bộ :
Nêu lên để cho tiêu chuẩn phát âm không phải là dựa vào cách phát âm « cũ kỹ », « chân phương », mà phải dựa vào cách phát âm nào phù hợp với quy luật tiến triển chung của ngôn ngữ rồi đem phối hợp với hai nguyên tắc trên thì thuận tiện vô cùng.
Thường thường xẩy ra là không có cơ sở để quyết định xem cách phát âm nào hiện nay có thể coi là xứng đáng về phương diện ngôn ngữ. Trong trường hợp như vậy, thủ đô có một tác dụng rất lớn đối với việc đặt mức tiêu chuẩn phát âm (nhưng cũng nhiều khi không quyết định nổi). Lịch sử ngôn ngữ cho hay rằng theo như luật thì có nhiều đặc điểm của tiếng thủ đô
https://thuviensach.vn
ảnh hưởng rất lớn đối với tiêu chuẩn của tiếng nói dân tộc trong khi xây dựng tiêu chuẩn đó. Thực như vậy tiếng Mạc-tư-khoa là cơ sở của tiếng nói dân tộc Nga, tiếng Bắc-kinh là cơ sở tiếng Trung-quốc, ở Pháp là tiếng Pa ri, ở Anh là tiếng Luân-đôn, v.v… Điều đó đưa chúng ta đến nguyên tắc thứ tư.
4. Nguyên tắc theo tiếng thủ đô :
Trong những điều kiện hiện nay, nguyên tắc này càng có thêm ý nghĩa, vì rằng ở thủ đô tập trung nhiều cơ quan chính phủ, và cơ quan lãnh đạo của Đảng, các trường đại học, các đài phát thanh Trung ương, các viện điện ảnh chính và chịu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ khác.
Tất nhiên, nguyên tắc này không có nghĩa là tất cả mọi đặc điểm của tiếng thủ đô đều máy móc hợp theo với tiêu chuẩn. Xưa kia ở Mạc-tư-khoa người ta đọc chữ « Шары » (sa-rứ) như là (sư-rứ), như vậy thì không đúng với tiêu chuẩn văn chương ; ở Béc-lanh người ta đọc chữ « ik » (ic-cơ) như là « a » (i-a) không đúng với chữ văn chương phải đọc là « icle » (i-khơ), ở tiếng Bắc-kinh cũng có một vài đặc điểm không giống nhau với tiếng tiêu chuẩn chung của Trung-quốc. Vì vậy, chúng ta cần phải xét xem tiếng thủ đô ở trong quan hệ nào, có liên quan ảnh hưởng gì với tiếng địa phương, chữ viết và tiêu chuẩn tiếng nói dân tộc không.
Về nguyên tắc ở đây có thể có 5 trường hợp :
a) Tiếng nói thủ đô phù hợp với tiếng nói ở các địa phương và chữ viết.
b) Ba nhân tố kể trên không phù hợp với nhau vì không một nhân tố nào phù hợp với nhau cả.
c) Chữ viết mâu thuẫn với tiếng nói thủ đô, mà tiếng thủ đô lại hợp với tiếng nói các địa phương.
d) Tiếng nói của thủ đô mâu thuẫn với tiếng nói của các địa phương, mà tiếng địa phương phù hợp với chữ viết.
https://thuviensach.vn
e) Tiếng địa phương mâu thuẫn với tiếng thủ đô, mà tiếng thủ đô phù hợp với chữ viết.
Trong trường hợp thứ nhất tiêu chuẩn phát âm tất nhiên là dựa trên cơ sở đồng hợp cả ba nhân tố nêu lên và là một bảo đảm chắc chắn nhất. Ví như là tiếng Ca-dắc và Xu-ô-mi Phin.
Trường hợp thứ hai tiêu chuẩn có, nhưng có chậm được nêu lên trên cơ sở nhân nhượng nhất định nào đó giữa ba nhân tố. Phát âm tiếng Đức « Buhnendeutseh » (Buy-nên-đôi-trơ) có thể làm thí dụ của việc nhân nhượng trên đây. Cách phát âm này chỉ áp dụng trong những trường hợp chính thức và phạm vi nghệ thuật mà không dùng ở trong gia đình, ở thủ đô và ở các tỉnh.
Trường hợp thứ ba, thứ tư và thứ năm thống nhất với nhau ở chỗ là trong từng trường hợp có hai nhân tố cùng theo một hướng và sau cùng là thắng nhân tố thứ ba.
Nếu mà chữ viết mâu thuẫn với tiếng của thủ đô và địa phương, tức là mâu thuẫn với ngôn ngữ thống nhất cho cả nước, thì sớm hay muộn phải có một cuộc cải cách chữ viết (như tiếng Nga năm 1918) và đôi khi trong những điều kiện đặc biệt còn phải thay hoàn toàn lối chữ viết (như là tiếng Nga đầu thế kỷ XVIII, hoặc là tiếng Nam-dương ở cuối thế kỷ XIX đầu XX). Nếu ngay cả lối chữ viết cũ lạc hậu hơn đời sống mà còn duy trì (như là ở tiếng Anh và tiếng Pháp) thì chữ viết đó không ảnh hưởng tới tiêu chuẩn phát âm. Trong trường hợp này tiêu chuẩn tách rời khỏi chữ viết và độc lập phát triển trên cơ sở thống nhất tiếng thủ đô và địa phương.
Nếu mà phát âm của thủ đô không giống với chữ viết và ít hoặc nhiều khác với phát âm của các địa phương ở trong nước, thì trong những điều kiện của những nước dân chủ hiện nay nghĩa là với sự hiểu chung và quan hệ rộng rãi giữa thủ đô và địa phương thì thường thường là cách phát âm của thủ đô cuối cùng sẽ hòa vào cách phát âm của đa số nhân dân phù hợp
https://thuviensach.vn
với chữ viết. Như ở Mạc-tư-khoa trước kia người ta đọc chữ « Шары » (sa rư) « Чаcы » (tra xư) như là « Шыpы » (sư rư), « Чиcы » (tri xư). Lối đọc như thế này hiện chỉ còn một số người thuộc thế hệ xưa kia nói như vậy. Trường hợp tương tự như vậy còn những chữ như loại chữ « Русckий » ; « Китайский » trước kia ở Mạc-tư-khoa người ta đọc là (ru-xơ-cưi), « ki tay xơ cưi »nhưng theo cách đọc ở Lê-nin-gờ-rát và ở một vài vùng khác ở nước Nga, người ta đọc tận cùng chữ đó mềm hơn như là « rút-sơ-ki », « ki tay-xơ-ki ». Hiện nay ngay chính ở Mạc-tư-khoa phần đông nhân dân đọc theo lối « địa phương » chứ không phải theo lối « thủ đô ». Nguyên nhân đó rất rõ ràng, vì cách đọc không theo lối thủ đô phù hợp với chữ viết.
Nếu mà tiếng nói thủ đô mâu thuẫn với tiếng nói địa phương nhưng mà lại giống chữ viết, thì tiếng nói thủ đô có thể lấy làm tiêu chuẩn. Như là chữ tận cùng của những động từ loại « Читaет » (dơ-na-yêt), « Знает », (tri ta yêt) ở đa số địa phương nước Nga, thì đọc mềm đi hoặc hầu như là không có. « Знаетb » (dơ na yêch) « Знае » (dơ na yê) ; trái lại theo tiếng thủ đô thì cách đọc giống chữ viết, không những đã được dùng, mà còn được phổ biến rộng rãi cho nên hiện nay cách đọc của thủ đô được phổ biến tuyệt đối.
Như vậy trong trường hợp có mâu thuẫn giữa ba nhân tố « chữ viết – tiếng nói thủ đô – tiếng nói địa phương », thì hai nhân tố nào phù hợp với nhau bao giờ cũng thắng nhân tố thứ ba, nghĩa là phối hợp hai nhân tố phù hợp để chống lại nhân tố thứ ba, không phù hợp thì nhân tố thứ ba sẽ bị loại. Chúng ta gọi nguyên tắc đó là :
5. Nguyên tắc 3 nhân tố :
Dựa vào :
1) Nguyên tắc dễ hiểu.
2) Nguyên tắc càng ít chữ đồng âm khác nghĩa càng tốt.
3) Nguyên tắc tiến bộ.
4) Nguyên tắc theo tiếng thủ đô.
https://thuviensach.vn
5) Nguyên tắc 3 nhân tố.
Chúng ta hiện nay có thể xét một vài vấn đề cụ thể của việc định tiêu chuẩn tiếng nói của dân tộc Việt-nam.
Chúng ta bắt đầu từ vấn đề các dấu. Trước hết chúng ta nhận thấy rằng việc nhầm lẫn dấu sẽ đưa đến nhiều chữ đồng âm khác nghĩa, nghĩa là không phân biệt được những chữ khác nhau thì càng khó hiểu nghĩa.
Nhân đây cũng cần nói thêm những chữ đồng âm khác nghĩa thì sẽ mang lại kết quả không theo ý muốn. Ví dụ như là có nhiều nơi ở Trung bộ lầm lẫn dấu thứ ba và dấu thứ tư như chữ « tao nhã : có ý nghĩa lịch thiệp » mà đem đọc thành « tao nhả : nôn mửa » ; và ở trong Nghệ-an dấu thứ ba đọc là dấu thứ sáu « người vĩ đại » (grand homme) sẽ thành « người vị đại » (petit homme). Những ví dụ tương tư như vậy có thể tìm thấy rất nhiều.
Nhận thấy ở Hà-nội phát âm 6 dấu đều phân biệt rõ và tất cả đều đúng như chữ viết. Như vậy rất hợp lý lấy cách đọc 6 dấu của Hà-nội làm tiêu chuẩn đọc chung.
Nhưng cũng không phải vì nguyên nhân đó mà lấy cách đọc lẫn lộn tr với ch ở Bắc-bộ, hoặc l với nh làm tiêu chuẩn. Mấy âm này Trung-bộ đọc có phân biệt và giống chữ viết, vì thế có đủ tất cả mọi điều kiện để lấy cách đọc của Trung-bộ làm tiêu chuẩn của tiếng dân tộc.
Một trong những đặc điểm của tiếng thủ đô là có mâu thuẫn với nguyên tắc càng ít chữ đồng âm khác nghĩa càng tốt. Như lầm lẫn chữ « s » với chữ « x », do đó khi nói dùng chữ « sẽ » (để chỉ tương lai) thì nói như là « xẽ », ở đây theo sự tương quan giữa nguyên tắc 3 nhân tố thì cách nói của Hà-nội không hợp, vì tiếng nói của địa phương đúng với chữ viết và lại phân biệt được, theo đúng được nguyên tắc càng ít đồng âm khác nghĩa càng tốt. Trong trường hợp này tiếng địa phương thích hợp với tiêu chuẩn của chữ dân tộc. Tất nhiên không phải là tiếng địa phương ở miền Nam là
https://thuviensach.vn
có phân biệt rõ ràng đâu, như là « sì » thì đọc là « xì », còn « xêu » thì đọc na ná giữa « hêu » và « yêu ».
Định tiêu chuẩn cách đọc chữ « d », « gi » và « r » lại là vấn đề phức tạp hơn. Như đã rõ có rất nhiều người ở địa phương lầm lẫn chữ « d » và « gi », họ đọc hoặc là như « d » hoặc là « y ». Nếu đem đọc cả hai như một thì lại mâu thuẫn với nguyên tắc ít chữ đồng âm khác nghĩa, ngoài ra lại còn trái với tiếng thủ đô và nhiều tiếng thổ âm ở các tỉnh nữa. Sự lầm lẫn như vậy không thể được. Nhưng mà có hai loại khác nhau giữa « d » và « gi ». Một đằng là tiếng theo lối cổ, như tiếng Hà-tĩnh đọc « d » gần giống như chữ « th » của tiếng Anh ở trong chữ « this », còn « gi » đọc như là « y ». Cách thứ hai là tiếng Hà-nội đọc chữ « d » vần giống như chữ « z » của Pháp ở trong chữ « zéro », còn chữ « gi » đọc gần giống chữ « g » của Pháp trong chữ « génie » hoặc giống chữ « j » ở trong chữ « jit ». Theo nguyên tắc tiến bộ thì chọn chỗ phân biệt gần đây, nghĩa là tiếng Hà-nội. Như vậy trong trường hợp hiện tại nếu dựa vào chữ viết và cách đọc của tiếng thủ đô, thì có thể lấy cách đọc của chữ « d » như chữ « z » của Pháp, còn chữ « gi » như chữ « j » của Pháp. Ở đây cũng lại nẩy ra vấn đề mức độ gần giống nhau giữa chữ « gi » và « r ».
Ở đây cần nói đến hệ thống các âm thanh tiếng nói Việt-nam trong đó mọi cái đều theo một tương quan nhất định và xếp theo sự tương ứng với nhau :
1) Chữ « d » cùng xếp vào loại chữ « g ». Chữ « x » cùng xếp vào loại chữ « s », như vậy nghĩa là : d : gi = x : s.
2) Chữ « gi » thuộc cùng loại chữ « r ». Chữ « nh » thuộc cùng loại chữ « n », như thế nghĩa là : gi : r = nh : n.
Như vậy trong những thí dụ sau đây, chúng ta thấy :
1) Sự khác nhau giữa « dao » và « giao », tương quan với sự khác nhau giữa « xao » và « sao ».
https://thuviensach.vn
2) Sự khác nhau giữa « giao » và « rao », tương quan với sự khác nhau giữa « nhao » và « nao ».
Rõ ràng ta thấy, nếu theo cách giải quyết vấn đề tiêu chuẩn phát âm như vậy thì tiếng Việt-nam vẫn có thể giữ được sự phong phú của ngôn ngữ, mà còn phát triển thêm lên, không vì chưa giải quyết được vấn đề phát âm đúng mà chịu trở ngại.
N. D. An-đơ-rê-ép
Trường Đại học Lê-ni-gờ-rát
https://thuviensach.vn
« CHINH PHỤ NGÂM » KHÚC CA OÁN TRÁCH CHIẾN TRANH
Của PHONG-CHÂU
NẾU Truyện Kiều là một kiệt tác ở đầu thế kỷ XIX thì cuốn Chinh phụ ngâm cũng là một tác phẩm cổ điển đặc biệt ở đầu thế kỷ thứ XVIII.
Chinh phụ ngâm ra đời năm 1742. Trong thời kỳ này, để lấy tiền ăn tiêu xa xỉ xây chùa chiền và chuẩn bị lực lượng đánh họ Nguyễn, bọn chúa Trịnh như Trịnh Cương, Trịnh Giang thẳng tay bóc lột nhân dân. Năm 1738 và 1745 trong vòng 5, 6 năm, bùng nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, anh em Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và phe cánh Nguyễn Đình-Dung, Nguyễn Hữu-Cầu, Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh-Phương cùng với hàng vạn dân nghèo chiếm cứ nhiều vùng ở đồng bằng Bắc Bộ và nhiều tỉnh ở Việt-bắc, Tây-Bắc. Nghĩa quân nhiều lần lăm le chiếm kinh thành. Trịnh Doanh lao đao, vất vả mới đàn áp nổi ưu binh làm loạn, giết Bồi Tụng Nguyễn Quốc-Trinh, đốt nhà Tham tụng Phạm Công-Trứ (1674) và đòi giết Tham tụng Nguyễn Quí-Cảnh (1741). Chúa Trịnh đem tiền dàn xếp mới yên.
Giữa lúc quốc gia đang bối rối, sặc mùi khói lửa đó, Đặng Trần-Côn, một nhà đại học giả phong kiến viết một khúc ngâm với một đề tài rất « thời sự », nêu lên nỗi khổ của một người chinh phụ có chồng ra mặt trận. Thật là một điều đặc biệt ! Đặc biệt hơn nữa là khúc ngâm vừa ra, nhiều người ca tụng và đua nhau dịch ; có đến bốn bản dịch sát và hai bản dịch phỏng. Bà Đoàn Thị-Điểm, trong khi chồng đi sứ sang Trung-quốc (1743-1745), cảm thông sâu sắc với « cảnh lẻ loi một bề » của người chinh phụ, đã dịch một cách rất tài tình khúc ngâm.
https://thuviensach.vn
Khúc ngâm được phổ biến sâu rộng. Hồi đó, Phan Huy-Ích có ghi lại rằng :
« Gần đây truyền tụng lấy làm thích lắm.
Đã nhiều kẻ trau dồi mà diễn âm ».
Tại sao khúc ngâm lại được truyền tụng như thế ? Người ngày trước đã thích và ngày nay ta cũng thích ; chính vì Chinh phụ ngâm là một khúc ca khát khao hòa bình, một khúc ca phản đối chiến tranh vì quyền lợi ích kỷ của một thiểu số.
https://thuviensach.vn
I. CHINH PHỤ NGÂM, MỘT LỜI THAN OÁN TRÁCH CHIẾN TRANH
Vấn đề đặt ra thể hiện ngay ở bốn câu mở đầu.
« Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ? »
Chiến tranh làm cho « khách má hồng » khổ. Ai làm cho họ khổ ? Tội phạm là ai ? Khúc ngâm này không nói rõ và tất nhiên, « trời xanh thẳm kia » cũng không trả lời. Ta chỉ thấy chiến tranh bùng nổ, « nửa đêm truyền hịch », người chinh phu « lưng đeo cung tiễn » ra đi « lòng bận thê noa ». Nguyên nhân của cuộc chia ly, của cảnh người chinh phụ « lẻ loi một bề », cảnh người chinh phu « nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh », chính là những cuộc chiến tranh ích kỷ của bọn phong kiến gây nên.
Cuộc đời của « đôi lứa thiếu niên » bắt đầu vào « cơn gió bụi » ; quyền sống của con người, tương lai, hạnh phúc của tuổi trẻ bị đe dọa.
…Buổi chia tay, bao quyến luyến bâng khuâng ! Cảnh trời rất đẹp « ngoài đầu cầu nước trong như lọc, đường bên cầu cỏ mọc còn non ». Nhưng trong buổi tiễn đưa « lòng dặc dặc buồn » và « bước đi một bước lại vin áo chàng ». Nhưng vợ chồng cứ phải chia ly vì « phép công là trọng » ; hai người vừa đi, vừa ngoảnh lại và cùng « chỉ thấy ngàn dâu xanh ngắt một mầu ».
Người vợ thắc mắc không biết « lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai ? ». Chắc chắn cả hai đều sầu cả. Đời chiến binh đầy gian khổ, nguy hiểm. Đời chinh phụ đầy lo lắng hãi hùng, « sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng ».
Nàng lo cho sức khỏe của chồng :
https://thuviensach.vn
« Xưa nay chiến địa nhường bao
Nỗi khôn muôn dặm xiết bao dãi dầu
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh ».
Rồi nàng lại lo cho tính mệnh chồng vì :
« Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây ».
Xa hơn nữa, nàng lo cho cả lúc chết, bỏ thây ở bãi chiến trường, vợ con không được biết :
« Non kỳ quạnh quẻ trăng treo.
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi ».
Và… nếu không chết, liệu chồng về còn trẻ nữa không hay là như : « Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về ».
Hạnh phúc bị de dọa, viễn ảnh ghê sợ, người chinh phụ không quên chất vấn bọn đầu sỏ phong kiến :
« Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ».
Và chua chát hơn, nàng đã tự trả lời :
« Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ? »
Bộ mặt ích kỷ giả dối của bọn phong kiến được phơi bày ra. Nàng lo sợ cho tương lai, tự hỏi và tự trách :
https://thuviensach.vn
« Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu ».
Nàng thấy mình dại :
« Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu.
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong ».
Vợ chồng xa nhau. Bao nhiêu lần hò hẹn nhưng « lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai ». Ba mùa lá thu mọc xanh cả hồ. Nàng ở nhà đảm đang mọi việc, an ủi trông nom mẹ già, nuôi nấng dạy dỗ con thơ :
« Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi nhớ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân ».
Trước còn tin đi tin lại nhưng « tới xuân này, tin hãy vẳng không ». Trông đợi hoài nhưng… thất vọng ! Người chinh phụ không buồn trang điểm nữa vì « vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ? »
« Trâm cài xiêm dắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lõng vòng lưng eo ».
Thật tiều tụy ! Nàng còn chán đến nỗi :
« Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gẫy ngón đàn.
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại trùng ».
Cô đơn, lẻ loi, tủi phận, nàng « biếng » mọi công việc, ngại làm những thứ gì có đôi :
« Từ nữ công phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa
https://thuviensach.vn
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói.
Sớm lại chiều dòi dõi nương song ».
Sầu buồn, nặng nề, tưởng chừng có thể :
« Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối.
Buồn chứa đầy hãy thổi làm cơm ».
Ăn ngủ không ngon, chỉ toàn sầu muộn. « Mượn hoa mượn rượu giải buồn » thì « sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi ». Thèm khát hạnh phúc, thèm khát tình yêu, giải buồn bằng cách nào ? Làm thế nào để được gần chồng ? Sống bằng mộng vậy :
« Duy còn hồn mộng được gần
Đêm đêm thường đến Giang-tân tìm người ».
Nhưng :
« Sum vầy mấy lúc tình cờ.
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân ».
Và :
« Khi mơ những tiệc khi tàn
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không ».
Từ tưởng tượng nàng bước sang chỗ không tưởng. Nàng ước có phép tiên :
« Gậy rút đất dễ khôn học chước
Khăn gieo cầu, nào được thấy tiên ».
Ảo tưởng ! Ảo tưởng cả ! Thực tế vẫn não nùng ! Hạnh phúc, tình yêu vẫn không có. Thời gian vẫn trôi và ngày xanh cứ tàn. Nàng lo cho đời nàng, cho sắc đẹp, cho tuổi xuân :
« Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc mà ra nạ dòng ».
https://thuviensach.vn
Nàng nhìn xung quanh thì :
« Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay ».
Nàng lại càng đau khổ hơn. Nàng chán cả kiếp người. Trong xã hội phong kiến, con người thiếu hạnh phúc, không bằng con vật :
« Ấy loài vật tình duyên còn thế
Sao kiếp người nỡ để đấy đây.
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh, như cây liền cành ».
Rồi kiếp sau, cũng chẳng chắc chắn, nàng hoài nghi tất.
« Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau ».
Và ước ao cầu xin :
« Xin làm bóng theo cùng chàng vậy
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên ».
Tình cảm của người thiếu phụ càng ngày càng lắng xuống, chùng xuống. Càng đọc, ta càng thấy nàng thèm sống, thèm yêu đương, thèm hạnh phúc.
Lo sợ, hãi hùng, chờ đợi, thương nhớ, hờn tủi, mộng ước, tất cả những tình cảm đó rối bời trong lòng người chinh phụ.
Để cứu vãn tình thế, tác giả thêm phần ngày về, sum họp. Nhưng đấy chỉ là những tia sáng lóe lên trong một đêm tối đen mù mịt. Chính những cảnh :
« Mở khăn lệ chàng trông từng tấm.
Đọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đối với câu sầu
https://thuviensach.vn
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời ».
đầy tình tứ đó lại càng tô đậm thêm bức tranh cô đơn, « lẻ loi một bề » và càng nói thêm lòng thèm khát hạnh phúc. Mơ ước của nàng và là kết luận của khúc ngâm :
« Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
Giữ gìn nhau, vui thuở thanh bình ».
thật thiết tha và giản dị, « mong mỏi chữ tình ».
Mơ ước hạnh phúc, mơ ước sống vui trong hòa bình : mơ ước của người chinh phụ ở thế kỷ thứ XVIII và cũng là mơ ước của chúng ta và của loài người ở mọi thế kỷ.
Mơ ước đó chính là của nhân dân ở trong chế độ phong kiến, ngay cả của Đặng Trần-Côn và Đoàn Thị-Điểm, những người ở trong tầng lớp phong kiến bị chiến tranh chà đạp, làm đau khổ.
Mơ ước đó chính là tư tưởng, tình cảm, tinh thần chủ đạo của khúc ngâm.
https://thuviensach.vn
II. GIÁ TRỊ CUỐN CHINH PHỤ NGÂM
Bên cạnh những lời thơ oán trách chiến tranh, có nhiều lời thơ tán thành chiến tranh và coi chiến tranh là một dịp lập công danh.
Người chinh phu ra đi, « lòng bận thê noa » nhưng cũng rất hiên ngang anh dũng :
« Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét voi cầu Vị ào ào gió thu ».
Người chinh phu đó ở giai cấp nào ? Chính ở giai cấp phong kiến vì :
« Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc giời ».
Tư tưởng cũng rất « trung », sẵn sàng hy sinh cho ngai vàng « Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái-sơn nhẹ tựa hồng mao ».
Người chinh phụ cũng ở giai cấp phong kiến : nào « dạo hiên vắng thầm gieo từng bước », nào « lên xuống lầu thấm thoát đòi phen », đồ trang sức toàn là quí giá như « thoa cung Hán », « gương lầu Tần », nhẫn đeo tay, ngọc cài đầu.
Chồng cũng như vợ đều nuôi một hy vọng « tên ghi gác khói, tương truyền đài lân » và « ân trời tử ấm thê phong, phồn vinh thiếp cũng đượm chung hương trời ».
Đó là thành phần giai cấp của nhân vật trong truyện. Còn người viết truyện và dịch truyện : Đặng-Trần Côn làm đến chức Ngự sử đài, Đoàn Thị Điểm, vợ một thượng thư. Toàn là những người ở giai cấp quí tộc, phong kiến cả.
https://thuviensach.vn
Thế thì cuốn Chinh phụ ngâm giá trị ở chỗ nào ? Tư tưởng, tình cảm, lập trường phục vụ nhân dân ở chỗ nào ?
Trong Chinh phụ ngâm, ta thấy hai tư tưởng luôn luôn đối chọi nhau : - Oán chiến tranh vì chiến tranh làm tan nát hạnh phúc.
- Tán thành chiến tranh vì chiến tranh là một dịp lập công danh. Mâu thuẫn này tất nhiên có hạn chế giá trị của tác phẩm, nhưng không vì thế làm mất đi tác dụng, mất giá trị khúc ngâm.
Bên cạnh những hình ảnh anh hùng thượng võ, hiên ngang : « Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo ».
và :
« Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in ».
nổi lên những hình ảnh tiều tụy, bi đát :
« Hơi gió lạnh người rầu mặt rạn
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Ôm yên gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh
… … …
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi ».
Cái hiên ngang đó « tuồng » quá. Tôi sực nhớ đến cảnh « Tống Tửu Đơn Hùng-Tín » ; thực tế không biết có người chồng nào trong buổi lễ tiễn đưa lại múa gươm, hò hét như thế không ?
Bên cạnh những câu « hy sinh dũng cảm » :
« Xem nhẹ tính mệnh như mầu cỏ cây.
https://thuviensach.vn
…Nức hơi mạnh ân dày từ trước.
…Áng công danh trăm đường rộn rã.
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu ?
…Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi ».
và những câu « tố khổ » oán trách vua :
« Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn
…Sầu lên ngọn cỏ, oán ra cửa phòng
…Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ ? v.v… » Bên cạnh những mơ ước về công danh :
« Nền huân tướng đai cân rạng vẻ.
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông
Ân trời tử ấm thê phong
Phồn vinh thiếp cũng đượm chung hương trời ». Nhiều lúc, người chinh phụ thấy ngấy cái công danh đó, tự trách mình : « Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong ».
Hay :
« Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn ».
Tư tưởng ham công danh càng nhạt dần trước những nỗi buồn nản, trách trời, trách kiếp người trong lúc « mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa ». Tư tưởng « lập công danh » thường chỉ là những hy vọng, hy vọng rất mỏng manh bên cạnh cái thực tế rất tàn nhẫn :
« Trách trời sao để nhỡ nhàng.
Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên ».
https://thuviensach.vn
Còn nhiều, nhiều dẫn chứng đại loại như thế.
Đọc hết Chinh phụ ngâm, cảm giác sâu sắc nhất cho ta là thấy buồn, thấy thương người chinh phụ. Tư tưởng oán ghét chiến tranh vẫn bao trùm lên cả khúc ngâm, oán ghét các thứ chiến tranh do giai cấp thống trị gây nên để thực hiện mục đích xâm lược hoặc để đàn áp nhân dân trong nước. Chúng ta đã từng chịu đau khổ trong mười năm chiến tranh do bọn giặc cướp nước gây nên. Chúng ta càng dễ cảm thông với nỗi khổ của người chinh phụ. Tình cảm người chinh phụ có thể là yếu ớt nhưng ta không đi sâu về mặt ấy ; ta chỉ thấy một điều là người chinh phụ như trăm ngàn phụ nữ khác nạn nhân của chiến tranh, đều phản đối chiến tranh phi nghĩa và đòi hỏi tình yêu, hạnh phúc. Cho nên, nhân dân ta ở trong chế độ phong kiến cũng như ngày nay đều tìm thấy ở trong cuốn Chinh phụ ngâm một điều « chiến tranh là kẻ thù của hạnh phúc ». Và vì đó, họ thích khúc ngâm và đấy là nhân dân tính của tác phẩm.
Mặt khác, cuốn Chinh phụ ngâm còn phản ảnh được phần nào cái xã hội đương thời. Nếu ta thay những câu « Tràng thành », « Cam tuyền », Hàm-dương, Tiêu-tương liên hệ « máu Thuyền Vu », « Quắc nhục chi », « rợ Hồ ở Thanh-hải » với tình hình nước ta, ta thấy rõ cảnh chinh chiến trong nước, những cuộc khời nghĩa nông dân nổ ra tứ tung, cái chế độ phong kiến của « một nước thanh bình ba trăm năm cũ » bị đả kích mạnh, những nỗi khổ của người chinh phu ở ngoài mặt trận « nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh » « tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành » ở đâu cũng thế. Đặc biệt, tình cảm người chinh phụ được trình bầy dưới nhiều cạnh góc một cách điển hình. Khúc ngâm đã phản ánh được cuộc sống náo động bên ngoài xã hội và cuộc sống giông bão trong tâm hồn con người, khúc ngâm đã nêu bật được sự oán ghét chiến tranh, lên án một cách gián tiếp các cuộc chiến tranh do bọn phong kiến gây nên, tất cả những điều đó chính cũng là giá trị của tác phẩm. Và đấy là tính chất hiện thực phê bình của khúc ngâm.
https://thuviensach.vn
Tư tưởng của Đặng-Trần Côn và Đoàn Thị-Điểm đã gặp nhân dân ở những điểm đó và chỉ ở những điểm đó mà thôi.
Hai nhà học giả không đi hơn được nữa vì : « Các văn sĩ cấu kết với giai cấp bóc lột không thể nào mô tả được sự thực mà cũng không thể mô tả nó được một cách đầy đủ vì những táo bạo kiểu ấy rất có thể làm cho bọn chủ mếch lòng và tức giận ». Jean Fréville
Hạ bút viết Chinh phụ ngâm chắc tác giả cân nhắc nhiều ! Trong cái xã hội hễ nói phạm đến một tên « húy » của vua cũng đủ là mất đầu, trong cái thời đại loạn ly bối rối, sặc mùi khói lửa, chính quyền phong kiến rất cần lính, có muôn ngàn người chinh phụ đau khổ vì góa chồng xa chồng, tác giả dám chọn một đề tài « khúc ngâm người chinh phụ » thật là một hành động khá táo bạo. Trong khúc ngâm không có câu nào nói rõ ràng sự phản đối chiến tranh, nhưng toàn bộ khúc ngâm toát ra một nỗi oán hờn chiến tranh ích kỷ, độc địa. Dụng ý tác giả, tư tưởng chủ đạo trong khúc ngâm phải là oán ghét chiến tranh, lời thơ mới đạt được như vậy. Ta còn có thể kết luận như thế vì ngay hai câu đầu của khúc ngâm, vấn đề đã được đặt ra khá rõ ràng :
« Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên ».
và cả ở ngay câu kết :
« Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong mỏi chữ tình ».
Nhưng tác giả cũng chỉ táo bạo đến một mức nào thôi. Sự thực không được phơi bày ra đầy đủ. Tác giả đã khéo léo « bao » cái nội dung khá hiện thực bằng một cái vỏ phong kiến. Cho nên, người chinh phụ không ở Việt nam mà ở Trung-quốc, không ở thế kỷ thứ XVIII mà ở thế kỷ I, không ở thời Lê mạt mà ở thời nhà Hán, hai vợ chồng người chinh phụ không thuộc tầng lớp bình dân mà ở tầng lớp phong kiến. Hơn nữa, tác giả và dịch giả
https://thuviensach.vn
đều ở trong giai cấp phong kiến, sống trong xã hội phong kiến, cho nên không thể thoát khỏi ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến. Những lệch lạc của tác phẩm là một sự kiện tất nhiên. Quan niệm đúng cuộc chiến tranh ích kỷ của bọn phong kiến, quan niệm những nông dân khởi nghĩa không phải là rợ Hồ, là « giặc trời chẳng dung », những điều đó ta chưa đòi hỏi được ở tác giả. Tư tưởng « báo đáp quân vương », phiêu lưu, « iêng hùng », tình cảm ủy mị trong tác phẩm cũng phải có và nằm trong quy luật trên. Nhưng đấy chỉ là những đám mây vẩn trên nền trời xanh, trời xanh không vì thế mà kém xanh.
Nhưng tại sao hai nhà học giả phong kiến quí tộc lại viết lên được một tác phẩm oán ghét chiến tranh, phản ảnh cái xã hội lục đục đương thời ? Chính vì bị thực tế khách quan dội vào mạnh quá. Cuộc sống trong một xã hội loạn ly : nào Trịnh – Nguyễn chiến tranh, nào loạn kiêu binh, nào nông dân khởi nghĩa, tác giả đêm đến xuống hầm chong đèn đọc sách, dịch giả chờ chồng đi sứ ba năm, tất cả những cái đó đã đập mạnh vào ý thức con người. Lê-nin nói :
« Ý thức của con người phản ảnh chân lý khách quan độc lập với chúng ta ». Nhà nghệ thuật bất cứ đối đãi với đời sống như thế nào cũng không thoát khỏi đời sống. Đời sống có tác dụng rất lớn đối với người ta, đó là phép tắc phổ biến của ý thức con người ».
Hiện tượng xã hội sôi nổi bên ngoài đó không phải vì tác giả mà tồn tại. Cho nên, bất cứ tác giả có một cách nhìn nhận như thế nào, cũng không thể cải biến được sự tồn tại của hiện tượng.
Cho nên, dù muốn hay không muốn, thực tế chiến tranh với loạn ly tang tóc, đau thương đã khiến hai nhà học giả phong kiến thành hai người thư ký trung thành của thời đại, đã phản ảnh được một khía cạnh nào xã hội Việt-nam rối loạn hồi đó. Quan điểm tác giả oán ghét chiến tranh « đã gặp quan điểm nhân dân » và đấy cũng là nguyên nhân thành công của tác giả.
https://thuviensach.vn
Hai học giả phong kiến sống trong xã hội phong kiến, có những tư tưởng, tình cảm trong ý thức hệ phong kiến là một sự kiện tất nhiên. Hai nhà học giả phong kiến sống trong một xã hội loạn ly, có những tư tưởng, tình cảm phản ảnh cuộc sống đau khổ của nhân dân, cái xã hội loạn ly, cũng là một sự kiện tất nhiên. Yếu tố phong kiến và yếu tố nhân dân nằm trong tác phẩm đó cũng là một qui luật của xã hội có mâu thuẫn. Ở đây, yếu tố nhân dân đã lấn yếu tố phong kiến. Đó là một sự kiện lịch sử của sự tan rã ý thức hệ phong kiến trong một xã hội, một chế độ phong kiến suy tàn, đang tan rã. Mâu thuẫn về tư tưởng, tình cảm trong các tác phẩm dưới chế độ phong kiến cũng thường gặp khi ta phân tích Truyện Kiều, Lục Vân Tiên và một số truyện nôm. Cần đặt tác phẩm, tác giả vào thời gian đó, phân tích được thực tế khách quan đương thời đã chi phối nội dung, chúng ta mới tìm được chân giá trị của những áng văn cổ.
Lê-nin cũng có đánh giá một nhà văn của thời Nga hoàng : « Về sinh hoạt nước Nga lạc hậu, Séc-ni-xép-ki không thể tiến tới chủ nghĩa duy vật của Các Mác – Ăng-ghen được. Vì thế sai lầm đối với Séc-ni-xép-ki là những điều không tránh khỏi. Đó không phải là lỗi của ông ta, mà là sự chẳng may của ông ta… Nhưng thời đại mà các tác giả Xô-viết đang sống, không còn tình hình lạc hậu như trước nữa. Nếu các tác giả sai lầm thì không phải là sự không may của họ mà là lỗi của họ ».
Đặng-Trần Côn và Đoàn Thị-Điểm thực không may ! Những người được may mắn là chúng ta, đang sống trong một thời đại mà chủ nghĩa xã hội thành một hệ thống thế giới. Và cũng vì may mắn như thế, chúng ta có đủ điều kiện đánh giá được cuốn Chinh phụ ngâm, ra đời cách đây 200 năm một cách đúng mực.
https://thuviensach.vn
III. KẾT LUẬN
Bốn trăm bảy mươi bảy câu thơ chữ Hán, theo thể thơ cổ nhạc phủ điêu luyện, súc tích của Đặng Trần-Côn được dịch bằng 408 câu thơ song thất lục bát tình tứ, êm dịu, nhẹ nhàng của Đoàn Thị-Điểm. Những lời thơ oán ghét chiến tranh, khao khát hòa bình cách đây 214 năm vẫn còn vang lên trong chế độ tươi sáng của chúng ta. Lịch sử chứng minh dân tộc ta yêu hòa bình.
Chiến tranh còn đe dọa thế giới. Chúng ta nhận rõ « chiến tranh là kẻ thù của hạnh phúc », chúng ta nhận rõ chiến tranh là đau thương, chúng ta nhất định chặn bàn tay gây chiến đẫm máu của bọn đế quốc lại. Luôn luôn có ý thức bảo vệ và củng cố hòa bình, đẩy mạnh đấu tranh, hòa bình, ta nhất định thắng chiến tranh. Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng Cộng-sản Liên-xô lần thứ 20, nhân dân Việt-nam cũng như nhân dân thế giới có rất nhiều khả năng ngăn ngừa chiến tranh để gìn giữ hòa bình, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình.
Nếu bọn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai có liều lĩnh gây chiến, chúng ta sẽ dạy lại cho chúng nhiều bài học Điện-biên-phủ khác. Chúng ta phản đối chiến tranh xâm lược, áp bức đồng thời chúng ta lại tán thành chiến tranh chính nghĩa. Để bảo vệ hòa bình, hạnh phúc của gia đình và dân tộc, chúng ta sẽ dũng cảm, hy sinh. Đấu tranh có lý tưởng trong cuộc chiến tranh ái quốc, người chinh phu – giả thiết nếu có – chắc chắn là sẽ ra đi « lòng không bận thê noa » và người chinh phụ sẽ
« Em cười giữa lúa thơm hương,
Chờ anh trong nắng, gió vờn tóc bay ».
phấn khởi đảm đang công việc nhà và tham gia công việc ngoài tiền tuyến.
PHONG CHÂU
https://thuviensach.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO : MẤY Ý KIẾN CỦA CÁC NHÀ SỬ HỌC TRUNG-QUỐC HIỆN ĐẠI VỀ MỘT BỘ THÔNG SỬ TRUNG-QUỐC
của TRẦN VĂN-GIÁP
HỒI tháng 8, năm 1954, Nhân dân xuất bản xã đã xuất bản lần đầu tiên, một bộ thông sử Trung-quốc, nhan đề Trung-quốc lịch sử cương yếu. Bộ sách này là một sáng tác tập thể của ban Nghiên cứu giảng dạy lịch sử Trung-quốc trường Đại học nhân dân Trung-quốc, do đồng chí Thượng Việt chủ biên.
Ngày 26 tháng giêng năm 1955, tổ Nghiên cứu giảng dạy lịch sử cổ đại và trung thế kỷ lịch sử Trung-quốc ngành lịch sử trường đại học Sơn-đông đã triệu tập một buổi hội đàm để thảo luận về bộ sử mới xuất bản ấy. Đến dự cuộc hội đàm này, có mười hai vị chuyên gia sử học, đều là tổ viên tổ Nghiên cứu giảng dạy trường đại học Đông-sơn, nhiều vị được cử ra phụ trách thuyết trình ý kiến về từng trọng điểm trong một giai đoạn lịch sử Trung-quốc. Hàn Liên-Ky về giai đoạn Lịch sử Tiền Tần ; Lư Kiều-Nam về giai đoạn lịch sử Tần-Hán ; Vương Trọng-Lạc về giai đoạn lịch sử Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy sơ và Đường ; Đồng Thư-Nghiệp về giai đoạn lịch sử Tống, Liêu, Kim ; Trương Duy-Hoa về giai đoạn lịch sử Minh, Thanh ; Triệu Lê-Sinh về lịch sử chiến tranh nông dân. Ngoài ra có mời các tổ bạn trong Giáo nghiên thất đến dự góp ý kiến : Giáo nghiên thất chủ nghĩa Mác – Lê có các vị : Ngô Đại Côn, Cát Mậu-Xuân, Lạc Dương và đồng chí Trịnh Hạc-Thanh thuộc tổ giáo nghiên cận đại và hiện đại sử Trung-quốc. Đồng chí Ngô Đại Côn thuyết trình về các trọng điểm thuộc manh nha và nhân tố chủ nghĩa tư bản (ở Trung-quốc). Các vị Trịnh Hạc Thanh, Hoàng Vân-My, Vương Nộn-Nhữ đều góp nhiều ý kiến bổ xung chung rất dồi dào và quí giá. Đến dự cuộc hội đàm này, còn có cả một bạn
https://thuviensach.vn
học sinh hệ lịch sử là đồng chí La Tổ-Cơ, cũng thuyết trình về vấn đề « Biến pháp của Thương-Ưởng » (đời chiến quốc).
Nội dung cuộc hội đàm này tập trung vào hai vấn đề chính :
1. Phân kỳ cổ sử (Trung-quốc) ; 2. Manh nha và nhân tố chủ nghĩa tư bản (ở Trung-quốc). Đồng chí Trương Duy-Hoa tổng kết các ý kiến, trình bầy về những ưu điểm và khuyết điểm của sách Trung-quốc lịch sử cương yếu nói chung, tức là những ý kiến chung về một bộ thông sử Trung-quốc hiện đại. Nay hãy xin dịch bài của đồng chí Trương Duy-Hoa trước, thứ đệ đến các bài khác để dùng làm tài liệu tham khảo cho việc biên tập bộ Thông sử Việt-nam, nhất là về vấn đề phân kỳ cổ sử nói chung (xem : tạp chí Văn, Sử, Triết, số tháng 3, năm 1955, trang 17-51). Bài của đồng chí Duy-Hoa lấy đầu đề là : MẤY Ý KIẾN VỀ LỊCH SỬ TOÀN BỘ SÁCH TRUNG QUỐC LỊCH SỬ CƯƠNG YẾU
Sách Trung-quốc lịch sử cương yếu do đồng chí Thượng-Việt chủ biên, đã được Nhân dân xuất bản xã xuất bản. Bộ sách này có thể là một bộ sách giáo khoa, hay sách tham khảo cho việc giảng dạy Trung-quốc thông sử ở các trường cao đẳng, hay là dùng làm sách đọc bổ túc cho các cán bộ công tác ở các cơ quan mà trình độ kiến thức sử học đã đến một mức nào.
Hiện nay, các sách đã xuất bản thuộc phạm vi thông sử Trung-quốc vẫn còn chưa thỏa mãn được yêu cầu chung của mọi người. Sách Trung-quốc thông sử giản biên của ông Phạm Văn-Lan (nói bộ sách ra từ trước) và bộ Giản minh Trung-quốc thông sử của ông Lã Chấn-Vũ, là hai bộ sách sử quan trọng của giới sử học Trung-quốc sơ bộ vận dụng lịch sử duy vật luận và biện chứng duy vật luận để viết sử Trung-quốc. Trong một thời kỳ nhất định nào, hai bộ sách ấy đã có tác dụng rất lớn. Nhưng mà, theo đà phát triển về kinh tế và văn hóa của Trung-quốc mới, yêu cầu của quốc dân đã cao thêm nhiều, đối với sách làm trước của hai ông Phạm và Lã, không những cảm thấy « chưa thật hoàn hảo » mà còn cấp thiết yêu cầu các vị viết
https://thuviensach.vn
hẳn lại đi. Bản tu đính Trung-quốc thông sử giản biên của ông Phạm mới xuất bản được có quyển thứ nhất, còn ông Lã thì hình như chưa bắt tay vào việc. Vì vậy, việc xuất bản ngay bộ sách này là việc rất hợp thời. Nhưng mà, biên soạn một bộ thông sử Trung-quốc là một công tác khó nhọc và khó khăn. Bản thân của một bộ thông sử bao gồm một phạm vi rộng quá : một người hay một số ít người thì năng lực có hạn thôi, mặc dầu gắng sức đến đâu, vẫn còn nhiều chỗ nhìn không ra hay nhìn sai là đằng khác. Vì vậy, việc thảo luận kỹ về bộ sách Trung-quốc lịch sử cương yếu của đồng chí Thượng-Việt, chúng tôi xin góp một số ý kiến, tuy nhiên chưa hẳn đã là thật đúng, nhưng đối với tác giả và độc giả sách ấy vẫn là việc cần thiết.
Trước hết hãy nói chung về cả bộ sách ấy. Sau khi đọc xong cả bộ sách ấy trong một thời gian ngắn, tôi nhận thấy bộ sách ấy có mấy ưu điểm sau này :
1. Về việc biên soạn thì tác giả có phần chững chạc và thận trọng. Sách này đã thâu lượm được rất nhiều kết quả của các sử gia xưa kia và hiện nay. Nhưng mà, không phải là tác giả cứ nhắm mắt biên chép, mà rõ ràng là đã châm chước kỹ càng rồi. Vấn đề gì mà vẫn chưa giải quyết xong thì có thái độ « khuyết nghi ». Đối với vấn đề gì mới nhận định theo lối mới, thì tác giả theo thuyết của đại đa số đã thừa nhận hay đã tương đối chín mùi rồi. Về một số vấn đề nào, tác giả không chịu nhẹ dạ đưa ý kiến riêng của mình ra. Những thái độ đó thật không phải là không có tinh thần trách nhiệm, cũng thật không phải là thái độ tròn xoe, « theo cả hai thuyết ». Nói về thể lệ thông sử, thì phải nên như thế mới đúng. Việc biên soạn thông sử khác hẳn với việc viết một bản tham luận ngắn. Thông sử là hàm có tính chất tổng hợp, phải xây dựng lấy một hệ thống đầy đủ đúng đắn ở giữa chỗ nên bỏ, nên lấy cho thật thích đáng. Đồng chí Thượng-Việt đã sơ bộ làm được điểm này.
2. Trên một trình độ nào, tác giả đã nắm vững được chủ nghĩa Mác – Lê, và cũng kết hợp được với thực tiễn cách mạng hiện nay. Trong bộ sách
https://thuviensach.vn
này, tác giả đã dành nhiều thiên để tả rõ sự thay đổi của trạng thái xã hội Trung-quốc. Tác giả đã hết sức muốn tìm tòi những thay đổi của quan hệ sản xuất từ trên sự phát triển của sức sản xuất. Về phương diện này, tác giả cũng đã kết hợp được với những ảnh hưởng do sự xâm nhập của ngoại tộc đưa lại. Đối với vấn đề lịch sử cổ đại, tác giả không chịu « mạo hiểm » chỉ rõ tính chất xã hội đương thời, thấy rõ có nhiều chỗ còn nói hàm hồ. Còn đến giai đoạn trung cổ và cận cổ thì tác giả nói ra thật rõ ràng đích xác. Tác giả vạch rõ, từ sau các đời Tùy, Đường thì kinh tế vườn-trại (trang viên) của địa chủ phong kiến đang phát triển mạnh đến Lưỡng Tống thì đạt tới mực cao. Về thời Nguyên, việc xâm nhập của người Mông-cổ đã làm phá hoại và đình trệ nền kinh tế ấy. Đến thời Minh, kinh tế vườn trại của địa chủ phong kiến trong quá trình khôi phục và phát triển, lại xuất hiện ngay trong nội bộ hội xã, các nhân tố tư bản chủ nghĩa. Về đầu thời Thanh, do sự xâm nhập của Mãn tộc, kinh tế trang viên ấy lại bị phá hoại và đình trệ một hồi nữa. Từ thời Ung-Chính, Kiền-Long trở về sau, nó lại dần dần được khôi phục và phát triển đến cục diện đời Minh, hay nói là hậu kỳ đời Minh. Lối trình bầy như thế, theo như tôi, thật rất chính xác. Tác giả cũng đã dành rất nhiều thiên để tả rõ các cuộc đấu tranh giai cấp và các cuộc đấu tranh chủng tộc phản xâm lược. Những thiên này, đối với việc làm phát huy ý thức giai cấp và chủ nghĩa ái quốc đã gây được khá nhiều tác dụng.
3. Về phương diện viết văn và lối trình bày (thể lệ) cũng đều được rèn luyện và đứng đắn. Trong bộ sách này, tác giả đã dùng một số ít danh từ mà tả được bao quát khá nhiều sự thật, dùng rất ít những chữ thừa lời phiếm. Đó cũng là lối viết cần thiết cho việc biên soạn bộ thông sử. Đại bộ phận các tài liệu mà tác giả dẫn dụng, đều là những tài liệu mà mọi người đã quen thuộc mà lại là những tài liệu điển hình. Những tài liệu dẫn dụng ấy không chua xuất xứ, nhưng đều là trích những câu có phần quan trọng, có phần rõ ràng, dùng dấu ngoặc rồi để luôn vào với câu văn của mình viết ra.
https://thuviensach.vn
Tôi nhận thấy lối trình bầy như thế cũng phù hợp với lối biên soạn thông sử.
Một quyển thông sử viết đơn giản rất là khó xếp đặt việc dùng tài liệu. Nói chung ra, không phải là vấn đề thiếu tài liệu mà là việc đúc kết thế nào vận dụng được sử liệu và không bị sa vào chỗ rườm rà tạp nhạp. Nhưng mà, trong bộ sử này, chỗ nào cần phải chua rõ, cũng có chú thích thêm, lại còn khi cần phải giải thích thật rõ ràng một vấn đề nào, cũng có cước chú lục dẫn những sử liệu mới, chưa quen thuộc lắm. Xem thế đủ thấy rõ tác giả không phải không chú ý đến vấn đề xuất xứ của sử liệu và cách thâu lượm sử liệu mới, nhưng mà chỉ khi nào thật cần lắm mới chua rõ. Phương diện này cũng bầy tỏ được tính chất cẩn thận đứng đắn về lối trình bầy thông sử của tác giả.
4. Tác giả nắm vững được nguyên tắc viết thông sử : sơ lược về cổ đại, tường tận về cận đại. Trong bộ sách này, tác giả trình bầy về các giai đoạn lịch sử từ Ân, Thương trở về trước, và từ Ân, Thương đến Chiến-quốc đều có phần sơ lược, có đoạn không dùng đến một ngàn chữ đã viết xong được một thời kỳ. Từ Tần, Hán đến Nam, Bắc triều thì tường tận hơn ; từ Tùy, Đường trở về sau cho đến Minh, Thanh thì lại tường tận hơn nữa. Điều này cũng phù hợp với lề lối viết thông sử.
*
Nhưng mà, bộ sách Trung-quốc lịch sử cương yếu này cũng có những khuyết điểm của nó, tôi xin trình bầy từng điểm một, như sau :
1. Không đầy đủ toàn diện. Biên soạn một bộ thông sử, tuy nhiên cần phải trình bầy có trọng điểm, nhưng cũng nên chú ý đến tính chất toàn diện của nó. Vì rằng, khuôn khổ của một bộ thông sử, chỗ mà nó khác hẳn với chuyên sử, không chỉ ở về chiều dọc phải mở rộng rõ ràng những qui luật phát triển của lịch sử, còn về chiều ngang cũng nên chú ý đến tính chất liên hệ và tính chất sinh động của các phương diện. Bộ sách này, đối với phương
https://thuviensach.vn
diện thượng tầng kiến trúc, trình bầy có phần ít quá, thậm chí có nhiều chỗ thiếu sót. Vì vậy, khiến cho thông sử đã mất tính chất hoàn chỉnh của nó. Đọc xong bộ sách này, có rất nhiều thường thức về lịch sử Trung-quốc hay là những khái niệm cần có, thì đều không tìm thấy. Ví dụ : nói về cương vực các thời đại, lớn bé thế nào, các chế độ địa phương, các thời đại, v.v... đều không hề trình bầy rõ ràng. Khoa học lịch sử Trung-quốc phát triển đến giai đoạn hiện nay, phải nêu một cách thích đáng, dựa trên cơ sở kinh tế của các thời đại, trình bầy rõ những vấn đề về thượng tầng kiến trúc của các thời đại ấy. Chính vì về phương diện này làm không đầy đủ, cho nên người biên soạn sách thông sử cần phải chú ý đến vấn đề này.
2. Các đồ biểu ít quá. Đồ biểu là những vật không thể nào thiếu sót được : nó giúp cho độc giả hiểu rõ thêm được nhiều vấn đề. Cần có các tranh vẽ các công cụ sản xuất của các thời đại, các địa đồ cương vực và giao thông về các thời đại. Tất cả những cái gì trình bầy bằng viết ra không tiện thì phải minh họa bằng đồ biểu, phải nên có thật đầy đủ. Về phương diện này, bộ sách này không chú ý lắm, hay có thể nói là không hề chú ý.
3. Nhiều câu văn dùng trong sách này, ở đoạn trước, ở đoạn sau, có nhiều chỗ giống hệt như nhau khiến cho độc giả nhận thấy, phảng phất sa vào chủ nghĩa giáo điều. Thật vậy, nhân dân là những người yêu nước, dưới sự lãnh đạo anh minh thì nhân dân là những người có thể phát huy được lực lượng của mình, nhân dân là những người căm hờn sự bóc lột của giai cấp thống trị. Nhưng mà, về phương diện này, tất nhiên ta phải kết hợp với sự thực lịch sử cụ thể, thông qua những sự thực lịch sử cụ thể ấy làm nẩy ra nhiều tia sáng. Nếu dùng nhiều những câu văn giống hệt như nhau không vận dụng riêng biệt cho các sự thực trước sau khác nhau thì sẽ khó lòng khỏi sa vào chủ nghĩa giáo điều.
4. Trong khi trình bầy quá trình phát triển xã hội của các thời đại có ngoại tộc xâm nhập, nói không được thật rõ ràng đích xác. Chung ra, đều nói thành ra, là từ chế độ nô dịch gia trưởng, hay là hậu kỳ xã hội Nguyên
https://thuviensach.vn
thủy chuyển sang chế độ phong kiến, không hề thông qua một chút sự thực lịch sử nào, để nói rõ được tình hình chế độ nô dịch của chúng như thế nào, đã chuyển sang chế độ phong kiến như thế nào. Trải qua những quá trình như thế nào. Những vấn đề này, tuy nhiên không phải là bộ phận chính của sách này, nhưng cũng cần đạt tới chỗ thật là thích đáng.
(Còn nữa)
https://thuviensach.vn
VẤN ĐỀ CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ Ở VIỆT-NAM QUA Ý NGHĨA MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH
của NGUYỄN ĐỔNG-CHI
NGƯỜI thiểu số Mường đã được nhiều nhà nghiên cứu sử học coi là một nhánh bà con với người Việt. Hai bên đều cùng chung một nguồn gốc nhưng sau vì điều kiện lịch sử đã khiến mỗi bên có một sinh hoạt khác nhau. Người Việt về sau này chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Trung-quốc, còn người Mường vẫn giữ được nhiều dấu tích văn hóa xưa, nhất là ở phong tục và tổ chức xã hội. Vì thế, tài liệu cũ của người Mường có thể giúp chúng ta ít nhiều trong việc nghiên cứu văn hóa xã hội cổ đại ở Việt nam. Dưới đây, chúng tôi lược kể một truyện cổ tích của người Mường. Truyện đó phản ảnh một phần nào chế độ xã hội từng tồn tại trên đất Mường, tức cũng là trên đất Việt ngày xưa. Đây cũng là truyền thuyết « Một trăm trứng », nội dung cũng có nói đến nguồn gốc giống nòi như câu chuyện của ta 6.
*
Ngày ấy mặt đất hãy còn hoang vu. Một hôm có trận bão nặng nề làm đổ một cây si to lớn mọc trên núi cao. Từ thân cây bay ra hai vợ chồng một con chim lớn. Chúng nó tìm đến một cái hang tức là hang Hào rồi lót tổ trú ngụ luôn ở đó.
Thời gian trôi qua. Chim cái đến ngày dở dạ, lần lượt đẻ được 97 trứng và có thêm 3 cái to lớn dị thường. Rồi đó hai vợ chồng chim hóa thành người tức là Ay và Ua (hay Ác-Các và Ùa-Quê). Nhưng qua 5 tuần trăng rồi mà vẫn không thấy trứng nở. Một hôm, hai nữ thần Dam-Cha-Cu và Gia Cha-Giang gặp họ, bảo họ cách ấp trứng : « Hãy về kiếm thứ cỏ tốt và khô
https://thuviensach.vn
lót lại ổ cho thật dày cứ 50 trứng là một lớp. Cứ 5 ngày một lần đảo lớp trên xuống dưới, lớp dưới lên trên. Làm cho đúng như thế chỉ 50 ngày là trứng nở ».
Quả nhiên, 97 trứng đúng ngày nở ra nhưng không phải là chim mà lại là người. Họ lớn rất chóng. Và sau đó họ chia tay mỗi người đi một ngả : 50 người đi về mạn đồng bằng, còn 47 người lên mạn ngược. Số người sau này trở nên tổ tiên của các người Mường, Mán, Mèo, Thổ v.v...
Thấy còn ba trứng ấp mãi không nở, hai vợ chồng lại đi tìm hai nữ thần ngày trước. Nữ thần cho biết là phải ấp đủ 100 ngày vì là trứng đặc biệt. Quả như lời họ, sau đó ba trứng nở ra : đầu là Đại-Ca, thứ hai là Đa-Cân (hay Tá-Cần), sau hết là một cô gái tức là cô nàng Kít. Ba người ở chung với nhau trong động cho đến ngày trưởng thành 7.
Nòi giống người Mường thuộc về trứng nở đầu tiên. Con cháu sinh nở mỗi ngày một đông. Nhưng đời sống rất vất vả. Một hôm có Chi Quyền Chạp là trưởng của người Mường đi tìm thức ăn bỗng gặp Chi Quyền-Chợ là trưởng của dân hạ bạn. Hai bên ngồi lại nhận họ và kể lể nông nỗi cho nhau nghe. Tình cảnh của hai bên không khác gì nhau mấy : họ đều chưa biết tìm ra lửa ; mặt đất thì đầy ác thú luôn luôn giết hại họ.
Sau cuộc trao đổi ý kiến, cả hai người quyết định đi đến hang Hào mời Tá-Cần về làm vua. Lúc đến thì Tá-Cần nhường cho Đại-Ca. Đại-Ca bằng lòng đi, nhưng mới đến nửa đường thì bị con yêu là Hòa-tinh ăn thịt mất. Hai người lại trở lại mời Tá-Cần. Trước khi nhận lời, Tá-Cần ra điều kiện :
1. Dân phải cung đốn cho mình một chỗ ở,
2. Dân phải kiếm cho mình một người vợ và những nàng hầu. 3. Dân phải lo việc ma chay tống táng cho cha mẹ mình,
4. Dân phải cung cấp những người hầu hạ.
5. Khi dân săn được một con vật rừng phải hiến một đùi.
6. Khi dân giết lợn bò hay trâu phải hiến miếng nọng.
https://thuviensach.vn
7. Trong số đất khai thác phải dành cho mình 1/4 đất tốt và phải cày cấy gặt hái cho mình.
Đổi lại, Tá-Cần sẽ dạy cho dân cách khai phá trồng trọt và bày vẽ mọi cách sinh hoạt sung sướng hơn trước.
Được dân ưng thuận, Tá-Cần buộc Chi Quyền-Chạp và Chi Quyền Chợ phải ăn thề. Nếu dân bội ước thì sẽ phải chịu mọi thứ thiên tai tật dịch. Mùa màng sẽ bị thú rừng phá hại. Nhưng làm thế nào để trừ được con yêu tinh. Hai người kia lại được lệnh của Tá-Cần đi mời một thầy Mo cao tay. Thầy lấy các thứ cỏ cây bùa phép mỗi thứ 9 cọng để làm nước phép đánh yêu tinh. Trận đánh ác liệt diễn ra trong 10 ngày và sau đó thầy Mo thắng trận. Xác con yêu tinh trước kia to lớn, nay bị đánh cho nhừ tử rút lại chỉ còn như một khúc tre. Rồi đó, Tá-Cần chọn ngày tốt ra đi làm vua dân chúng hạ bạn và làm lang xứ Mường.
Nhân dân lúc đó còn chui rúc trong các chòi, bắt được vật gì thì ăn tươi nuốt sống. Tá-Cần nghe tiếng Đá Câm-Cot là vị thần làm ra được lửa bèn sai người hầu là Chi Mu-Mông đi mời về. Đá Câm-Cot vâng lời vào rừng lấy cây nang và cây mác đưa đến cho Lang và bày cách kéo nòng. Một cây thuộc loại cây giây kéo bật ra lửa còn cây sau làm bùi nhùi giữ lửa lại. Có lửa rồi, Tá-Cần dạy cho dân dùng lửa ấy đốt cây cối và chỉ vẽ cho cách trồng trọt.
Một hôm Tá-Cần đi chơi gặp một con rùa vàng to lớn như một cái giường. Bộ hạ Lang xông lại bắt trói và khiêng đi định làm thịt ăn. Con rùa xin thả cho nó, nó sẽ bày cho cách làm nhà ở. Lang nhận lời. Con rùa đứng nâng người lên. Tá-Cần hiểu đó là kiểu nhà : bốn chân là bốn cái cột, cái vỏ dưới là sàn ở, còn cái mai là ngói. Lang Tá-Cần vui vẻ sai thả con rùa xuống nước và bắt đầy tớ chặt cây làm nhà để cho dân chúng bắt chước mà làm theo.
https://thuviensach.vn
Cái ăn chỗ ở đã có, Tá-Cần bảo dân tìm cho mình một người vợ. Dân cử lên hai bà cụ đi làm mối. Họ đã dày công đi khắp mọi nơi tìm người mà không thành công. Trên trời, có chị Sáng là con gái bà Sao nhan sắc rất xinh nhưng khốn nỗi biết làm thế nào để phái người lên đưa lễ vật và đón dâu về. Dưới nước, vua Thủy tế cũng có cô con gái đẹp nhưng khi Tá-Cần gặp mặt định khơi chuyện thì nàng biến mất.
Bởi vậy Tá-Cần đành lấy em gái của mình là cô nàng Kít. Nhưng người vợ sinh đẻ nhiều lần mà đều hữu sinh vô dưỡng. Hai nữ thần ngày nọ hiện ra bảo cho biết rằng anh em ruột không thể lấy được nhau và một đôi vợ chồng nào muốn hưởng hạnh phúc lâu dài thì cả chồng cùng vợ đều phải cắt tóc.
Hai bà mối lại được lệnh chọn trong nhân dân cho Tá-Cần một người vợ khác. Nhân dân theo đúng giao ước, tấp nập đưa bò lợn và nếp gạo để dọn cỗ cưới. Lần này việc sinh nở có kết quả. Bà Chu, vợ mới của Lang đẻ được 18 người con. Chín con trai, trừ một người ở lại nối ngôi cha còn 8 người khác lớn lên chia thành 4 họ : Đinh, Quách, Bạch, Hoàng chia đi các nơi và sau này là tiên tổ của các dòng Lang ở xứ Mường. Còn 9 cô con gái thì về sau trở thành vợ Lang ở các châu.
Chẳng bao lâu Tá-Cần qua đời. Trước khi chết, có người đến báo tin rằng có thấy một cái trống của thần nổi bập bềnh ở khe. Lập tức Tá-Cần sai bộ hạ đến vẽ kiểu. Người ấy đứng ở trên bờ khe vẽ cái trống đồng, lại vẽ luôn cả bốn con cóc đang bám xung quanh trống không ngờ đó là bốn con cóc thật. Lang cứ y theo kiểu, sai thợ đúc 1.000 cái trống đồng mỗi cái có đủ cả 4 con cóc. Trống đó treo ở nhà Lang mỗi lần có tang ma, lễ lạt hay đánh giặc mới đưa ra dùng.
*
Người con trai đầu là Rịt-Rang (hay Gịt-Giàng) lên nối ngôi cha. Hắn rất sung sướng vì vàng bạc châu báu của cha mình để lại chẳng thiếu thứ gì.
https://thuviensach.vn
Nhưng hắn vẫn ao ước có một chỗ ở cho đẹp đẽ. Thần Kem-Ca hiện ra cho hắn biết là ở về phía bắc có một cây Chu sắt lại ở về phía mặt trời lặn có một cây Chu đồng. Thân cây cao to, đến 14 người ôm, co « bông thau, lá thiếc » vô cùng quý giá. Được thứ cây đó muốn làm lâu đài cao to rộng rãi thế nào cũng được.
Gịt-Giàng mừng rỡ đánh trống tập trung bộ hạ cả lại hỏi xem người nào có thể đi tìm cây quí được. Họ đều đồng thanh cử Đa-Đan và Đa-Đét (hay Kệch-Nội và Cối-Nện) là hai anh em thường ngày hay đi mọi nơi để săn và thâu thuế của dân chúng, có thể làm được công việc đó. Kệch-Nội, Cối-Nện liền được lệnh phải đi tìm cây Chu đồng ngay lập tức.
Trải bao nhiêu ngày, qua bao nhiêu núi sông làng mạc, hai người hỏi thăm mãi mới tới làng Cun-ống. Từ đàng xa họ đã thấy ngọn cây cao khuất trong làn mây bạc. Nhưng cây thần đã biết ý định của bọn họ bèn hứa cho họ một cái « hoa sinh cá, lá sinh cơm » để họ giấu kín tung tích : « Hãy thề với ta rằng giấu kín không cho vua biết một tí gì về ta. Hãy thề rằng nếu chúng bay mà phản bội thì sẽ tan xương nát thịt cùng ta một lần. Ta sẽ cho chúng bay « hoa sinh cá, lá sinh cơm ». Lúc nào đói chỉ cần một câu nói là sẽ no nê... »
Lòng Kệch-Nội, Cối-Nện chuyển động và sau đó nhận lời, ăn thề với cây thần.
Trở về, bọn họ tâu dối vua rằng bọn họ đã đi khắp hang cùng núi hẻm mà không tìm ra được cây Chu đồng. Nhưng đêm tối về ngủ ở nhà, bọn họ đã kể lại tất cả sự thật cho vợ con nghe. Bọn họ không ngờ rằng Gịt-Giàng đã cho tay chân đến rình ở dưới nhà mình ở, chính chỗ mình nằm ngủ. Thế là câu chuyện bí mật truyền đến tai vua. Nhưng Gịt-Giàng rất thâm hiểm, biết rằng dù bắt Kệch-Nội, Cối-Nện ra tra tấn chưa chắc chúng đã chịu khai mà biết đâu chẳng bị bảo bối của chúng làm hại.
https://thuviensach.vn
Vua bèn mở hội trong 10 ngày cho tất cả bề tôi đầy tớ đều đến dự. Mỗi người mặc sức ăn uống no say nhưng đều phải kể cho vua nghe một câu chuyện lạ có ý vị. Quả nhiên đến lượt Kệch-Nội, Cối-Nện hơi men chếnh choáng lại được mọi người phỉnh nịnh nên bao nhiêu chuyện kín nói toạc ra hết.
Gịt-Giàng nghe thủng câu chuyện bèn sai trói Kệch-Nội, Cối-Nện lại. Hai anh em lúc tỉnh rượu thì hối đã không kịp, đành phải dẫn đường cho vua và bộ hạ đi đến cây Chu đồng. Quân gia hạ trại ở làng Cun-ống. Các tay có tài đốn gỗ thi nhau làm việc tới tấp. Nhưng chặt đã đến 10 ngày mà chẳng ăn thua gì. Gốc cây thần đứt nhát nào liền lại nhát nấy, vẫn vững vàng không chút rung chuyển. Các cành lá thỉnh thoảng lại chạm nhau như sấm dậy. Vua đã bắt đầu lo ngại. Nhưng thần nhân báo cho vua biết rằng chỉ có tay Kệch-Nội, Cối-Nện mới chặt xong cây đó. Vua bèn sai hai người chặt, đe sẽ giết chết nếu không làm tròn nhiệm vụ. Cực chẳng đã, Kệch Nội, Cối-Nện phải cầm mỗi người một búa lên núi. Biết là nguy hiểm nên khi cây sắp đổ, họ bèn nhảy lên ngựa tế nước đại. Nhưng ngựa bị phép thần nên cứ loanh quanh luẩn quẩn không chịu đi xa và khi cây ngã xuống đè chết cả hai một lúc.
Gịt-Giàng sai chặt ngọn và phạt hết cành lá để đem thân cây về. Có đến hàng nghìn người lôi mà cây vẫn nằm ỳ không chuyển. Thần nhân lại báo cho biết là phải dùng xương ống của Kệch-Nội, Cối-Nện làm đà mới đưa về được. Bọn bộ hạ lại được lịnh Gịt-Giàng róc thịt ở hai cái xác khốn nạn ấy lấy xương ống tay và ống chân. Sau đó cây Chu đồng mới chịu để cho lôi đi.
Công việc thổ mộc kéo dài hàng năm mới xong. Lâu đài cung điện nổi lên san sát cao lớn rộng rãi. Gịt-Giàng rất đắc ý. Hắn sai giết lợn mổ bò hôm tất công để đãi công lao của mọi người. Trong khi bộ hạ và thần dân của hắn ai nấy đều chè chén say sưa thì gia đình Kệch-Nội, Cối-Nện bị coi như tội phạm không được hưởng. Giao-Che và Gie-Chông (hay Khao-Che,
https://thuviensach.vn
Ghe-Chông) là con của Kệch-Nội, Cối-Nện tức mình rủa Gịt-Giàng đã vỗ ơn cha họ. Trong khi mọi người ăn uống say sưa, Khao-Che cầm một cái vó trâu đánh từng hồi một vào một cái trống đồng treo ở gần cung vua. Ghe Chông lại tiếp tục đánh mãi đến nỗi cái trống vỡ tan ra từng mảnh. Biết là vua chẳng để yên, bọn họ bỏ trốn. Gịt-Giàng sai quân đuổi bắt không được, phải hứa chia cho bọn họ ruộng đất, rừng rú và dân sự nếu họ chịu trở về với mình. Nhưng đến lúc Khao-Che, Ghe-Chông về thì Gịt-Giàng trở mặt, bắt giam họ lại.
Trong chỗ giam, hai anh em tìm cách vượt ngục và báo thù Gịt-Giàng. Một đêm nọ, bắt được con mèo của vua đến quanh quẩn bên mình, bọn họ đã nghĩ ra diệu kế. Bọn họ lấy bùi nhùi buộc vào đuôi con mèo rồi đốt lửa. Bùi nhùi cháy, mèo bị nóng nhẩy vọt khắp nơi, cuối cùng trèo lên mái nhà. Kết quả lửa bén cháy trụi tất cả mọi nơi mà Gịt-Giàng vừa mới tốn công xây dựng lên. Giữa lúc quân canh còn mải miết chữa cháy thì Khao-Che, Ghe-Chông lỏn ra được rồi trốn vào rừng sâu.
Quân đội của Gịt-Giàng đuổi tìm rất gắt khiến cho hai anh em phải chạy suốt đêm ngày. Bọn họ nhớ tới hạt giống của một thứ cây thần mà trước khi chết, cha họ đã trao giấu cho. Họ bèn bươi đất đúc hạt ấy vào, và khấn rằng : « Xin hóa thành một thứ cây giết chết quân đội của Gịt-Giàng cứu chúng tôi với ! »
Bỗng chốc hạt giống quả mọc thành một cây giây to hàng 4 người ôm, dài đến mấy trượng, gai góc dày khít. Khi quân của vua đến vây bọc thì cây ấy tự nhiên rạp xuống đè chết 1.100 người. Rồi cây lại còn quật đi quật lại giết thêm 1.050 người nữa. Khao-Che, Ghe-Chông nhè lúc đó bỏ trốn đi chỗ khác.
Gịt-Giàng nổi giận bắt buộc Lâm-Lâm và Len-Len là hai người con của Khao-Che, Ghe-Chông phải trừ khử cho được cái cây dữ tợn kia. Hai anh em biết là chết nhưng cũng liều. Sau đó họ chặt được cây làm hai đoạn.
https://thuviensach.vn
Búa vừa bổ thì máu trong thân cây chảy ra như suối. Đầu tiên là thứ máu đen. Máu vừa chảy xuống đọng lại thì tự nhiên hóa thành gà rừng vỗ cánh bay mất. Hết máu đen tiếp đến máu đỏ hóa thành hươu nai và cùng chạy biến vào bụi rậm. Mọi người đều ngạc nhiên nhưng mối ngạc nhiên biến thành sợ hãi khi họ thấy máu vàng kế tiếp máu đỏ chảy ra và hóa thành một con cọp dữ cũng nhẩy ngay vào rừng sâu.
Tìm bắt Khao-Che, Ghe-Chông không được, Gịt-Giàng nuốt giận đành cho bộ hạ rút lui.
Lại nói chuyện con cọp từ ngày ra đời thì nó chỉ tìm cua ốc tự nuôi thân. Thời gian trôi qua, nó càng ngày càng lớn mạnh. Và bắt đầu rình mò các thôn xóm để tìm gà lợn. Hết gà lợn đến trâu bò. Đời sống nhân dân bắt đầu cảm thấy khốn khổ. Nhưng vóc con cọp càng ngày càng to lớn mãi. Người nó bằng cả một tảng đá lớn, vú nó bằng đụn rạ. Về sau hết trâu bò thì đến người là món ăn chính của nó. Nó đã đi rất nhiều nơi và đã giết hại rất nhiều người. Nhiều làng vợi đi vì con ác thú.
Gịt-Giàng nghe báo liền sai quân đội đi tiễu trừ. Hắn không quên bắt Ban-Xan và Bon-Xon là hai người con của Lâm-Lâm, Len-Len đi trước để dò tung tích con vật. Họ kéo nhau tới làng Cun-khương là nơi mà nhiều người thấy nó lai vãng. Lúc đó con vật vừa ăn xong đang ngủ say sưa trên núi. Hai anh em Ban-Xan, Bon-Xon vội trở về báo tin cho vua hay. Lập tức quân đội áp lại nhè lúc nó ngủ say, nhất tề đâm bắn rất dữ dội. Con vật đau quá thét lên mấy tiếng vang trời rồi bỏ chạy. Chạy đến Mẫn-đức ở chỗ lối đi hẹp, nó bị kẹt vào giữa hai tảng đá lớn không rút mình ra được. Nhờ vậy mà Ban-Xan, Bon-Xon và quân lính đuổi kịp đâm chém vô hồi kỳ trận. Bị thương nặng con vật cố dẫy dụa rút thân ra được khỏi tảng đá rồi chạy đến bãi Đồng-chuông thì kiệt lực nằm vật tại đó. Gịt-Giàng sai đem giết thịt cắt làm 2.150 miếng cho quân đội ăn rồi mới trở về. Người Lào vì ra xem sớm nên bắt chước được những đường trên da con cọp về dệt thành vải rất đẹp.
https://thuviensach.vn