🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tạp Bút Bảo Ninh Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP. HỒ CHÍ MINH THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Bảo Ninh, 1952- Tạp bút Bảo Ninh. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015. 444tr. ; 20 cm. 1. Bảo Ninh, 1952-. 2. Nhà văn Việt Nam -- Thế kỷ 21. 3. Văn học Việt Nam -- Thế kỷ 21. 4. Văn xuôi Việt Nam -- Thế kỷ 21. I. Ts. 1. Bảo Ninh, 1952-. 2. Authors, Vietnamese -- 21st century. 3. Vietnamese litera ture -- 21st century. 4. Vietnamese prose literature -- 21st century. 895.9228084 -- ddc 23 B221-N71 https://thuviensach.vn NHÀ XUẤT BẢN TRẺ https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn LỜI TỰA Một người nghiêm khắc Trong thư trao đổi với biên tập viên của Nhà xuất bản Trẻ, liên quan đến bản thảo cuốn tạp bút của mình, nhà văn Bảo Ninh viết: Hồi làm ở Văn Nghệ Trẻ, sếp Thiều lệnh những bài liên quan tới văn học thì ký Bảo Ninh, bài về thời sự thì ký Nhật Giang. Dòng chữ ngắn ngủi ấy làm tôi nhớ lại thời làm tờ Văn Nghệ Trẻ đầu tiên. Phải tự khen rằng: đó là thời mà tờ báo rất được bạn đọc trẻ yêu thích. Đó là thời mà chúng tôi có những biên tập viên và cộng tác viên trứ danh như Nguyễn Quang Lập, Bảo Ninh, Trần Anh Thái, Trần Quang Quý, tạp bút 5 https://thuviensach.vn Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thành Phong, Lê Hoàng (Lê Thị Liên Hoan), Hồng Thanh Quang... Khi được phân công phụ trách tờ Văn Nghệ Trẻ, tôi đã rủ rê Bảo Ninh về làm với chúng tôi với hai lý do: thứ nhất, Bảo Ninh quá nổi tiếng. Thứ hai, tôi muốn Bảo Ninh có một nơi chốn “bình yên” để viết tiếp những tác phẩm sau Nỗi buồn chiến tranh. Tất nhiên ông cũng phải để chúng tôi khai thác một phần thương hiệu và tài năng của ông: biên tập truyện ngắn và viết báo theo “chỉ thị”. Vì sao tôi lại đề nghị (không phải ra lệnh) Bảo Ninh viết những gì liên quan đến văn học thì ký tên thật còn những gì thuộc các lĩnh vực khác thì lấy bút danh? Lý do đơn giản là: Khi viết về văn chương, Bảo Ninh là một cái tên đảm bảo cho bài viết. Còn viết về các lĩnh vực khác dễ đụng chạm thì dùng bút danh để “an toàn” phần nào đó cho ông. Và Bảo Ninh, một nhà văn vô cùng nổi tiếng ngày ấy đã “tuân lệnh” như một người lính. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn nói với tôi: Bảo Ninh viết cái gì cũng hay. Đúng vậy. Điều gì làm cho ông “viết cái gì cũng hay”? Đương nhiên là tài năng trời phú của ông, nhưng nó chỉ là một phần như một nhà triết học đã nói, phần quan trọng còn lại là lao động. Mà yếu tố quan trọng nhất trong lao động của ông là sự nghiêm khắc. Bảo Ninh là người rất nghiêm khắc. Ông nghiêm khắc 6 bảo ninh https://thuviensach.vn với những quy định của tờ báo, nghiêm khắc với đề tài ông chọn, nghiêm khắc với cách nhìn hay phán xét của mình và sau cùng là nghiêm khắc với từng con chữ. Có một điều rất lạ là hồi đó và cả ngay bây giờ, có những người luôn nghi ngờ lòng yêu nước của ông. Nhưng ông là một trong những người mang nỗi giày vò sâu nặng nhất về đất nước mình. Ông đã lên án một cách không khoan nhượng những hành xử phi văn hóa, những đố kỵ tàn khốc, những lối sống vô cảm, những nhân đạo hão huyền... Ông đã nổi giận trong một sự bình tĩnh và rạch ròi nhất đối với một tiến sỹ người Việt sống ở nước ngoài đã thóa mạ lịch sử dân tộc. Ông đã đòi hỏi sự công bằng cho dân tộc mình. Và sự công bằng với một con người hay với một dân tộc chính là tình yêu thực sự với con người ấy hay với dân tộc ấy. Đối với đồng nghiệp, một đối tượng mà các nhà văn, các nhà phê bình ngại va chạm nhất, thì ông cũng không hề né tránh khi không chấp nhận cách hành xử của họ. Trong một bài phê phán bài báo của một đồng nghiệp khi người đó viết những dòng đầy ác cảm về cố nhà thơ Xuân Diệu, ông viết: “Bài báo do một ông thầy giáo kiêm nhà thơ viết. Bằng một cách viết rất thâm, ông thầy giáo kể về chuyện được tiếp kiến Xuân Diệu lần đầu cách tạp bút 7 https://thuviensach.vn đây 35 năm. Ra vẻ tử tế, lành hiền, khiêm nhường, nhẫn nhịn và đầy chân thật, ông giáo này đã hiểm ác lố bịch hóa nhà thơ quá cố. Thực tình tôi chẳng muốn đụng bút bàn đến cái thứ viết lách kiểu như thế. Vẫn là những chuyện về sự hay bốc lên của nhà thơ, sự ít để ý đến thiên hạ của ông, sự thẳng thừng coi thường những thơ thẩn ấm ớ, sự ăn sự uống, và đời sống tiện nghi có vẻ như là được biệt đãi của ông. Đúng là người bị nói xấu chẳng hề xấu đi, trái lại. Thế nhưng, tôi muốn nói đến bài đó, bởi vì trong nó tôi còn đọc thấy sự căm hận phát sinh từ lòng đố kỵ tài năng và sự thù ghét cái riêng biệt”. Đấy là Bảo Ninh. Tính nghiêm khắc của ông làm nên sự đàng hoàng trong tư thế, sự chính xác trong ngôn từ và sự rành mạch trong phán xét ở mỗi bài viết. Và cũng làm nên phong cách tạp bút của Bảo Ninh, một loại tạp bút không để cảm xúc thông thường và thái độ nước đôi lấn át như không ít nhà văn viết tạp bút khác. NGUYỄN QUANG THIỀU 8 bảo ninh https://thuviensach.vn Phần I Dành một giờ để nói thật https://thuviensach.vn Lõi đời là một quá trình* Bới trong đống giấy cũ tôi lục thấy nhan nhản những bản tự kiểm điểm làm từ lúc còn học trò nhóc tỳ tới tận nhiều năm sau khi đã vào đời. Thuở còn thơ, ấu trĩ lạ lùng. Tội to lỗi nhỏ mắc trong tuần trong tháng dù chẳng bị quả tang vẫn tuồn tuột trình báo tuốt mo với đội với đoàn với thầy chủ nhiệm: trốn học, bỏ giờ, ngủ gật trong lớp, không làm * Văn Nghệ Trẻ, số 30, 2000, ký tên Nhật Giang 10 bảo ninh https://thuviensach.vn bài tập, ôm bom gài phao, cóp pi bài bạn, đánh lộn, chửi thề, đọc sách cấm, nghe nhạc vàng, vẽ bậy bạ, trêu cô giáo, được của rơi không nộp công an... mà chẳng một lời biện bạch, chẳng này nọ vin cớ, chẳng hất đỡ tội sang vai kẻ khác. Theo dần năm tháng, các bản tự kiểm điểm ngày càng nhẹ đi, lượng khuyết điểm vơi dần. Như thể con người ta không phải là nhân chi sơ tính bản thiện, chẳng phải lúc thiếu thời thì trắng trong rồi về sau mới bị ô nhiễm mà là theo chiều ngược lại. Song khiêm tốn là một đức tính và không khiêm tốn là một khuyết điểm nặng, ai cũng biết thế, nên tự tôi cũng biết là không dại gì mà trong bản kiểm điểm lại cứ chăm chăm khuyên đỏ cho mọi tính nết và hành vi của mình. Cần phải biết đưa ra những “tồn tại”, những “chưa được”, tuy nhiên cũng cần phải tăng cường dùng sáo ngữ để sao cho những “tồn tại” và những “chưa được” của tôi hòa mình vào những “tồn tại” mà mọi người trong cơ quan vẫn thường tự nhận. Chẳng hạn, tôi viết: trong công tác phê bình và tự phê bình bản thân còn có lúc có nơi tỏ ra chưa thật mạnh dạn; trước tình hình nhiệm vụ mới nhận thức của bản thân còn có khi này khi khác chưa thật cập nhật; trong những nỗ lực công tác thường xuyên và đầy hiệu quả của bản thân cũng còn có lúc có nơi điểm này điểm khác tỏ ra phần nào bất cập v.v... tạp bút 11 https://thuviensach.vn Xem ra việc viết văn làm thơ cũng từa tựa. Xét cho cùng thì về cơ bản viết văn làm thơ tức là tự nguyện thông báo cho thiên hạ người ta biết về những sự hay sự dở trong suốt cuộc sống của mình, những ý nghĩ xấu, ý nghĩ tốt mình từng nghĩ, và cũng với mục đích là để người ta dựa trên những điều mình viết ra mà góp ý kiến phê bình xây dựng cho mình. Sự viết văn của tôi cũng như của nhiều người đều có thuở ban đầu ấu trĩ, thiếu cân nhắc, có sao nói vậy, nghĩ gì viết nấy, rồi sau đó là một quá trình khôn lên, đạt độ lão luyện, dày dặn kinh nghiệm, trên các trang sách hết hẳn sự dại khờ, chỉ còn no ứ những mỹ từ và những mẹo viết. 12 bảo ninh https://thuviensach.vn Không có liệt sĩ nào là vô danh* Nhân ngày 27 tháng Bẩy, ở quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, người ta đã mở một phòng tranh gọi là phòng tranh Nhân đạo. Các họa sĩ tham gia phòng tranh để thực thi từ thiện. Họ sẽ dùng số tiền bán tranh góp vào quỹ ủng hộ các gia đình thương binh và liệt sĩ. Mục đích tốt đẹp đã rõ, tranh xấu, tranh đẹp không bàn, vấn đề muốn nói là cái danh nhân đạo và từ thiện. * Văn Nghệ Trẻ, số 34, 2000, ký tên Bảo Ninh tạp bút 13 https://thuviensach.vn Đối với những người chiến sĩ đã vì nước quên thân, người ta bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn, chứ người ta không dụng công để thể hiện sự nhân đạo, người ta không làm từ thiện. Xưa kia, trong chiến tranh đã chịu đựng muôn ngàn gian khổ, sẵn sàng đổ máu hy sinh mà không vì mưu cầu một lợi ích cá nhân nào, ngày nay người chiến sĩ và thân nhân của mình càng không cầu ở ai một điều gì, kể cả những cử chỉ và lời nói phô bày lòng nhân đạo. Nghĩ đến anh em thương binh và gia đình các liệt sĩ, làm tất cả những gì có thể được để đỡ phần khó khăn cho những con người cao quý ấy, là nghĩa vụ làm người của bạn. Chứ bạn tưởng sao, bạn tưởng mình không can dự gì tới những đau thương và mất mát trong chiến tranh ư? Dù bạn là ai, thuộc tầng lớp nào, xét cho đến cùng, tất cả những gì bạn có hiện nay, kể cả cuộc đời của bạn cũng đều mọc lên từ đất đai thấm máu những Anh hùng. Cho nên việc giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ là tự lương tâm, tự đáy lòng, hãy làm hết sức mình với lòng biết ơn thầm lặng chứ đừng có kêu to lên. Có nói ra, có xướng lên cũng phải dùng từ ngữ cho đúng đắn. Lời ăn tiếng nói là sự rất trọng trong đời sống văn hóa. Ngôn từ không cẩn trọng thì dẫu là người tốt, việc tốt cũng lắm khi chẳng có ý nghĩa gì. Cho nên trong những công việc liên quan tới ngày 27 tháng 14 bảo ninh https://thuviensach.vn Bẩy thì những từ ngữ kiểu phô trương như là “Nhà tình thương”, hay “Tinh thần Đền ơn đáp nghĩa”, đều có vẻ là những từ ngữ không ổn. Hai chữ “vô danh” ghi trên bia mộ của vô vàn liệt sĩ cũng vậy. Trong đài báo người ta hay thuận miệng nói “Liệt sĩ vô danh”. Đừng nói các liệt sĩ, mà bất kỳ ai sinh ra rồi mất đi trên đời này cũng đều có tên tuổi. Cho nên không có liệt sĩ nào vô danh. Ở Mặt trận B3, ngay từ sau Hiệp định Paris, các đơn vị đã tiến hành công việc tìm kiếm hài cốt anh em đồng đội nằm trong rừng rậm, trên núi đồi dọc các ngả đường chiến tranh để tập trung về nghĩa trang Đắc Tô. Khi anh em ngã xuống, được chôn cất, trong lọ Pênêxilin chôn theo có ghi ít nhất là tên, phiên hiệu đơn vị và ngày hy sinh, vị trí mộ được đánh dấu trên sơ đồ. Nhưng do những năm dài chiến tranh ác liệt, địa hình địa vật không ngừng bị xáo trộn, đơn vị thì tan ra hợp lại hoặc hành quân chuyển vùng, sơ đồ mộ chí bị bom đạn thiêu hủy hoặc thất lạc, nên không phải nấm mồ nào cũng còn và cũng được tìm thấy, không phải hài cốt liệt sĩ nào cũng được định danh. Ấy là chưa kể còn biết bao nhiêu đồng chí dã hy sinh đơn độc giữa rừng già, trong hang sâu, trong khe núi. Tìm thấy một chiếc võng mắc chìm giữa ngàn cây rậm rịt, trên đó một bộ hài cốt, nhưng giấy tờ hoặc không có hoặc đã hoàn toàn mục nét, chỉ biết là lính mình chứ tạp bút 15 https://thuviensach.vn chẳng thể biết được là ai, đơn vị nào. Nhưng hồi đó, khi thu nhặt xương thịt những anh em ấy về nghĩa trang sư đoàn chôn cất, chúng tôi không khắc lên bia mộ hai chữ “vô danh” mà khắc “khuyết danh” hoặc “chưa định danh”. Bây giờ người ta nói vậy: “vô danh”. Sao có thể là vô danh được. Tên tuổi của các anh sống mãi cùng gia đình, họ mạc, trong lòng bà con xóm làng, phường phố. Tại nơi bàn giấy chính quyền thì danh tính các anh chí ít cũng còn trong danh sách tuyển quân của thời đó. Dù sẽ có người cho là từ này từ nọ thì có gì quan trọng, chúng tôi vẫn đề nghị không dùng cụm từ “Liệt sĩ vô danh” ở bất kỳ đâu. Liệt sĩ khuyết danh, hàm một nghĩa sâu nặng với hương hồn anh em đồng đội. Còn một nấm mồ liệt sĩ chưa định danh là còn một trách nhiệm cho người còn sống. Có thể là trách nhiệm mãi mãi đeo đẳng chúng ta, một nỗi đau không bao giờ nguôi. 16 bảo ninh https://thuviensach.vn Lễ duyệt binh đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ* Năm 1963 ấy Quốc khánh thật tưng bừng. Tin vui của Cách mạng miền Nam và những thành quả đạt được sau nửa chặng đường thực hiện “Kế hoạch Năm năm lần thứ nhất” khiến lòng người nô nức. Mức sống của nhân dân Hà Nội được nâng lên, không giàu sang dư thừa, nhưng tươm tất, ổn định và công bình, không kẻ quá giàu, người quá nghèo, bước đầu tạo dựng được * Văn Nghệ Trẻ số 36, 2000, ký tên Bảo Ninh tạp bút 17 https://thuviensach.vn một đời sống mới, một nếp sống mới tốt lành. Sau mười năm hòa bình xây dựng, gương mặt thành phố cũng nhiều đổi thay. Nhiều công trình mới đã mọc lên, gồm không ít những công trình văn hóa và giáo dục: hàng loạt trường phổ thông và trường đại học, nhà hát, rạp chiếu bóng, các câu lạc bộ lớn dành cho thanh thiếu niên và người lao động, các vườn hoa, công viên, các tụ điểm vui chơi giải trí. Hà Nội năm 63 nhỏ hơn ngày nay nhiều nhưng là một đô thị văn hóa, một thành phố mơ mộng, rợp bóng cây xanh và thật nhiều hồ nước, phố xá đông vui mà vẫn yên ả, sạch sẽ, ngay ngắn, đời sống trẻ trung, rạo rực sinh lực và căng tràn sức phát triển mà không nhốn nháo xô bồ. Một thành phố xinh đẹp mà không màu mè, hiền hòa mà đầy kiêu hãnh. Một thành phố đáng trọng. Tôi không biết là có nhiều người đồng một cách nhìn như vậy về Hà Nội năm xưa hay không, tôi không biết tôi có bị ám bởi cái nhìn viễn thị, trông xa về quá khứ thấy gì cũng đẹp hay không, nhưng tôi biết chắc mười năm giữa hai cuộc kháng chiến là quãng thời gian tươi sáng nhất của không chỉ riêng cuộc đời tôi. Những năm đó lễ lạt chẳng nhiều, nhưng ngày lễ nào cũng thật sự là ngày hội của toàn dân. Mọi người nô nức một niềm vui chung. Vào mùa thu năm 1963 ấy, chế độ Dân chủ Cộng hòa chưa đầy tuổi đôi mươi, trẻ trung, ngời rạng, tự hào với chặng đường đã qua, tự 18 bảo ninh https://thuviensach.vn tin và đầy lạc quan nhìn rộng và nhìn xa về chân trời phía trước. Trong hầu hết các gia đình, ngày Mồng Hai Tháng Chín mang ý nghĩa sâu nặng, thấm thía và thân thiết. Ngày Quốc khánh được gọi trong dân gian là ngày Tết Độc lập. Đối với mọi người, nhất là thanh thiếu niên, lớp trẻ sinh ra và lớn lên cùng chế độ mới, niềm vui Tết Độc lập còn dào dạt hơn cả niềm vui Tết Nguyên đán. Hà Nội đông đúc hẳn lên từ cuối tháng Tám. Người ngoại thành và người các tỉnh khác ở miền Bắc nườm nượp về Thủ đô vui Tết. Thời ấy Hà Nội chẳng nhan nhản khách sạn như bây giờ, nhà trọ cũng rất ít, nhưng bì lại tịnh không một bóng lưu manh côn đồ (có thì cũng bị công an hốt sạch từ cả tháng trước), thành thử bà con ở nông thôn ra vui Tết mà không có người thân ở Hà Nội thì cứ thoải mái trải chiếu mắc võng qua đêm tại mọi nơi mọi chỗ có thể trong nội thành, không sợ bị trộm cắp, bị trấn lột, cũng chẳng lo mưa thu ướt át. Mặc dù là tiết thu, nhưng tuần đầu tháng Chín, trời Hà Nội không bao giờ đổ mưa. Bà con ta tụ hội về Hà Nội chủ yếu là để được hưởng hai niềm vui cốt yếu của ngày Quốc khánh: xem bắn pháo hoa và xem duyệt binh. Xung quanh Bờ Hồ và dọc các đại lộ Điện Biên Phủ, Nguyễn Thái Học, Tràng Thi, từ rạng sáng ngày mồng Hai vỉa hè đã kín người chờ đón bộ đội sẽ trẩy qua vào trước buổi trưa. tạp bút 19 https://thuviensach.vn Quảng trường Ba Đình hồi đó chưa trải thảm cỏ và chưa rộng lớn như ngày nay, nhưng vào Quốc khánh và ngày Quốc tế Lao động cũng tổ chức được những cuộc mít tinh khổng lồ tập trung hàng vạn quần chúng. Nhà Quốc hội vừa xây xong vào năm 62, nằm ở bờ đông Quảng trường. Lễ đài Ba Đình nhìn hướng về phía mặt trời mọc với kiến trúc mang phần nào dáng dấp lễ đài Lăng Bác bây giờ, nhưng nhỏ và thấp hơn. Khối quần chúng diễu hành tập trung ở mạn nam, còn bộ đội duyệt binh xếp đội hình ở mạn bắc Quảng trường, đường Hoàng Văn Thụ, đường Nguyễn Cảnh Chân, đường Phan Đình Phùng và đoạn bắc đường Hùng Vương. Trước tám giờ, Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ bước lên lễ đài trong tiếng reo chào mừng vang dậy của quần chúng. Lễ chào cờ mở đầu ngày đại lễ. Năm xưa ấy, chưa có vô tuyến truyền hình, radio trong các gia đình cũng còn ít lắm, tất cả những nghi lễ trọng đại tại Quảng trường Ba Đình lập tức được vang truyền khắp đất nước bởi hệ thống loa phóng thanh và còn hơn thế, bởi tình cảm của nhân dân, muôn người như một. Tôi nhớ rằng, lúc đó, khi đội quân nhạc cử Quốc thiều, hầu hết mọi hoạt động trong thành phố dừng lại hết. Ngàn vạn người cùng một lúc giữ thái độ nghiêm trang. Tiếng hát Quốc ca bột phát nhưng đồng đều, vang lên trong 20 bảo ninh https://thuviensach.vn thành phố. Tôi không nhớ được là về sau này còn có một lúc nào đó được nghe Tiến Quân Ca cất lên đồng thanh và vang dậy trong một tinh thần trang trọng mà đầy cảm xúc đến như vậy của cả triệu con người. Không được tận mắt thấy, nhưng được Đài phát thanh tường thuật một cách cặn kẽ mà hùng hồn, cả thành phố gần như lặng phắc đi trong những nghi thức uy nghiêm của quân đội. Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chỉ huy cuộc duyệt binh báo cáo và xin chỉ thị Tổng tư lệnh. Trên chiếc xe mui trần chầm chậm lăn bánh, Tướng quân Võ Nguyên Giáp thị duyệt và chào mừng quân sĩ. “Chúc Đại tướng khỏe!” ngàn quân hô vang, như sóng xô, rung chuyển không gian thành phố. Chín giờ, quân ta bắt đầu hành tiến qua Quảng trường, cao chân, rập bước, lê trần sáng quắc, nhất loạt đánh mặt sang phải, hướng nhìn lên Bác. Đội Quân nhạc cử “Tiến bước dưới quân kỳ, “Chiến thắng Phủ Thông” và “Giải phóng Thủ đô”. Trùng trùng quân đi như sóng, ngang qua lễ đài theo chiều của non sông, Bắc đổ về Nam. Dẫn đầu là xe danh dự rước Quân kỳ Quyết Chiến Quyết Thắng của toàn quân. Tiếp đến là khối các trường sĩ quan lục quân, công binh, phòng không, hải quân, pháo binh, biên phòng, rồi tới lớp đạo quân các tạp bút 21 https://thuviensach.vn sư đoàn bộ binh. Khối dân quân tự vệ. Các trường thiếu sinh quân. Rồi các đoàn cơ giới kéo đại pháo. Hồi đó bộ đội xe tăng, tên lửa và không quân chưa hiện diện trong lễ duyệt binh. Lần lượt từng khối quân ngang qua lễ đài, và lịch sử trưởng thành trong chiến đấu của từng đơn vị lần lượt được điểm lại, vang truyền khắp đất nước. Bấy giờ cuộc chiến tổng lực chống Mỹ chưa bắt đầu, nhưng trên quân kỳ các đơn vị cũng đã lấp lánh bao nhiêu là Huân chương của vinh quang chín năm trường kháng Pháp. Những binh đoàn đã ghi danh vào sử sách và trong lòng dân, những tên tuổi của lòng tự hào dân tộc: Sư đoàn Quân Tiên Phong, Sư đoàn Đồng Bằng, Sư đoàn Sao Vàng, Trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, Trung đoàn Thủ Đô v.v... Qua hết Quảng trường Ba Đình, bộ đội duyệt binh dọc theo hai trục lộ Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học, nhập lại ở Tràng Thi, tiến ra Hồ Gươm. Dọc những ngả phố ấy, giao thông trên lòng đường được dẹp quang từ sáng sớm, nhưng toàn thành phố đã dồn hết về, ken kín hai bên vỉa hè và trên ban công, cửa sổ của gác hai gác ba tất cả những ngôi nhà. Bọn trẻ bám đầy trên các vòm cổng và bờ tường, có đứa tót cả lên cột đèn và lên cả các cây long não dọc phố Nguyễn Thái Học. Bộ đội rầm rầm trẩy qua, bước đều trong tiếng reo mừng và hoan hô vang dậy. Cả phố, 22 bảo ninh https://thuviensach.vn cả thành phố rợp cờ hoa, bừng bừng trong khúc quân hành đặc biệt hùng tráng và tươi sáng của bộ đội ta: Vừng đông đã hửng sáng, núi non xanh trùng xa, Tổ quốc bao la hiền hòa... Cuộc duyệt binh năm 1963 không chỉ biểu dương sức mạnh vũ trang, còn hơn thế nhiều, đó là sự thể hiện ý chí chiến đấu của toàn quân toàn dân, muôn người như một. Cuộc duyệt binh ấy gần như là cuộc duyệt binh bước vào chiến tranh, thẳng ra mặt trận. Hầu hết các chiến sĩ trong đội duyệt binh ngày hôm ấy rồi sẽ chuyển từ quân phục đại lễ sang bộ đồ Tô Châu Quân Giải phóng, một bộ tăng võng, một chiếc ba lô, đôi dép đúc, khẩu AK, vượt ngàn dặm Trường Sơn, vào trận. Những khẩu 85 ly nòng dài, 122 ly nòng ngắn với vành bánh sơn trắng kia sẽ ngày một ngày hai phủ rợp ngụy trang và sẽ thật sự cất tiếng gầm mở màn cho liên tiếp những mùa khô tấn công. Những khẩu 37 ly mảnh khảnh kia, ngay từ mồng 5 tháng Tám năm sau sẽ đối đầu sống mái với không lực Mỹ. Bầu trời Hà Nội chan hòa nắng thu ngày Quốc khánh tưng bừng rồi sẽ vang dậy tiếng còi báo động chiến đấu, sẽ cuồn cuộn khói bom, sẽ rực sáng những luồng lửa đạn cao xạ và hỏa tiễn. Và chúng tôi, đám trẻ con đang lố nhố trên bờ tường, trên cột điện hoan hỉ hò reo đến khản cổ sẽ đứa thì năm sau đứa thì vài ba năm nữa rời bỏ bút tạp bút 23 https://thuviensach.vn nghiên dấn thân vào cuộc thử lửa lớn lao đang kề tới ở chân trời. Năm 63 ấy, cha mẹ chúng tôi chắc cũng ít ai ngờ rằng chúng tôi sẽ là hậu đội của đoàn quân đang rầm rập tiến bước kia. Lớp đàn anh sẽ tiến lên và sẽ ngã xuống, mở đường cho thế hệ chúng tôi ào ạt xung phong vào mở cửa Sài Gòn. Sẽ chẳng bao giờ chúng tôi quên hình ảnh Anh hùng Liệt sĩ Vương Văn Chài, người đại đội trưởng chủ công tuyệt vời quả cảm của trận cường tập Ngọc Rinh Rua, người chiến sĩ dân tộc Tày từng có mặt trong đội hình duyệt binh năm 63 của Sư đoàn 305. Giữa lưới đạn đại liên chống trả dày đặc của kẻ thù, Vương Văn Chài nhảy lên miệng chiến hào, giương cao Quân kỳ của trung đoàn, mãnh liệt thét vang: - Anh em! Vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội! Xung phong... Người người lớp lớp tiến bước dưới Quân kỳ, chúng ta không chỉ là một đạo quân bách chiến bách thắng, chúng ta còn là một sự nghiệp lớn lao, một sự đồng lòng vĩ đại. 24 bảo ninh https://thuviensach.vn Nơi lắng hồn núi sông* Chưa kể hơn ngàn năm trước đó nữa, từ đầu thế kỷ XI tới cuối thế kỷ XVIII, là kinh đô của sáu triều đại Lý - Trần - Hồ - Lê - Mạc - Trịnh, trên đất Thăng Long đã từng mọc lên biết bao đền đài cung điện vương phủ, vậy mà nay hầu hết chỉ còn lại những áng văn và trong sử sách. Có ai mà không tiếc. Song ngẫm ra lại thấy sự mai một các hình bóng của kinh thành xưa không phải là nông nỗi để hậu thế phải than tiếc. * Văn Nghệ Trẻ số 42, 2000, ký tên Nhật Giang tạp bút 25 https://thuviensach.vn Kinh thành ngói tan gạch nát, đấy là sự mất mát hy sinh mà cha ông ta đã nhiều lần can đảm chấp nhận. Trong lịch sử ngàn năm của mình, Thăng Long thà bị san bằng chứ chưa một lần mở cổng thành hạ giáo đầu hàng quân ngoại xâm. Ngoài địch họa, sự mai một các công trình của quá khứ còn do thời gian và khí hậu. Và như vậy, có thể nói, đó là do cha ông chúng ta trọng lẽ khiêm nhường, làm gì cũng thuận theo sự vừa phải, hợp với đạo lý và với bản tính dân tộc Việt. Ngày nay thì có phần khó hình dung, nhưng cách đây chỉ chừng trên dưới hai chục năm, bằng vào vang bóng của những kiến trúc ngày xưa, bằng vào hình thế đất đai, sông hồ, tên phố, tên làng, nhất là bằng vào lối nghĩ và nếp sống của người bình dân Hà Nội, người ta có thể mường tượng ra như là ngay trước mắt vẻ đẹp trang nhã và hiền hòa, sự sầm uất và tươi vui, nét trầm lắng và hồn hậu, thuần phong mỹ tục của kinh thành Thăng Long - Đông Đô. Những năm 60 - 70 ấy, cảm giác về sự thay đổi đến độ “bãi bể nương dâu” giữa Hà Nội và Thăng Long chưa thật nặng như là bây giờ cảm thấy. Điều này là rất lạ, bởi vì thật ra Hà Nội những năm đó đại để đã như là Hà Nội thời nay rồi, trong lòng thành phố cũng đã chẳng còn bao nhiêu dấu tích đích thực là của Thăng Long lưu lại nữa. 26 bảo ninh https://thuviensach.vn Tâm trạng nhớ tiếc Hà Nội thuở những thập niên trước khi phát triển kinh tế thị trường có thể là do nỗi hoài cảm lãng mạn của văn chương thi phú. Các nhà văn nhà thơ và cả những nhà báo nữa thường có xu hướng xem mọi nông nỗi sự đời không vừa mắt có nguyên nhân từ kinh tế thị trường. Và không thể nào tránh được, tâm lý hoài cảm cái cũ cũng thường khiến người ta lên tiếng chê bai, gán những điều không hợp ý mình cho lớp trẻ thời mở cửa. Xét bề ngoài thì cũng có lý. Vào thời mà những người đứng tuổi ngày nay còn trẻ, đời sống Hà Nội khá phẳng lặng, ít cảnh nhốn nháo xô bồ, làm ăn ồ ạt chen vai huých cánh, không khí ít ô nhiễm, từ mặt tiền nhà cửa tới trang phục của thanh niên ít tạp hơn bây giờ. Người ta dễ có định kiến cho rằng do sức cuốn của thương trường mà nam thanh nữ tú ngày nay có chiều hướng ngả theo lối sống kém thanh cao so với cha anh mình. Song, kinh tế thị trường không là thủ phạm. Ngoài những cái hại mà đã thừa nhận đồng tiền thì loài người cũng phải đồng thời chấp nhận và chịu đựng, kinh tế thị trường mang lại nhiều lợi ích hiển nhiên cho Hà Nội. Cứ nhớ lại quang cảnh thành phố và đời sống nhân dân những năm ngay trước Đổi Mới thì thấy ra thôi. Kinh tế quá yếu kém nên đời sống văn hóa cũng sa sút. Nghèo khổ, buồn chán, rời rạc. Nhà cửa đường phố nhem nhuốc, con người phờ phạc, luộm thuộm. Hà Nội sau mười lăm tạp bút 27 https://thuviensach.vn năm Đổi Mới vui và đẹp lên rất nhiều. Đời sống vật chất và tinh thần cao hơn hẳn xưa. Thanh niên nam nữ đẹp đẽ sáng láng, khỏe khoắn giỏi giang. Nhưng mà người Hà Nội, nhất là đã luống tuổi và đặc biệt là văn nghệ sĩ, một mặt có tiếng là phóng khoáng và cởi mở, lại cũng đồng thời là hiện thân cho sự kỹ tính, hay ne nét, hay phán bảo, rất khó chiều. Kiểu sống thời bao cấp thì bảo là bình quân chủ nghĩa, chia đếu nhau cái khổ, lối sống hiện thời lại bảo phân biệt giàu nghèo, đồng tiền đổi trắng thay đen. Nhà cửa chật chội chung đụng không chịu nổi, được phân căn hộ khép kín lại than kín cổng cao tường mất hết tình làng nghĩa xóm. Ngày xưa hết lời yêu cầu dẹp bỏ tàu điện, nay thì kêu rằng một phần của Hà Nội thế kỷ XX đã bị phũ phàng thủ tiêu đi cùng với cái đường ray và tiếng leng keng yêu dấu. Xưa ca cẩm đời sống văn hóa của thanh niên quá khô khan bởi các tài năng ca nhạc bị khuôn trong tập thể các đoàn, không có cách gì cất lên nếu không qua phòng bá âm của đài phát thanh, nay thì giận dữ vì quá nhiều tụ điểm ca nhạc, ca sĩ hạng nào cũng được quyền biểu diễn. Họ lớn tiếng đòi hỏi Nhà nước phải quy chế quy chuẩn, lập hội đồng thẩm đinh, để ca sĩ này xét quyền ca hát của ca sĩ kia. Đại khái cũng giống giới văn sĩ. Ngày trước rất bực vì phải xếp hàng rồng rắn bản thảo ở nhà xuất bản, vậy mà bây giờ cũng rất bực vì nỗi in ấn dễ dàng. 28 bảo ninh https://thuviensach.vn Mải mê chỉ trích thiên hạ lắm khi người ta sa vào khối lùng nhùng của sự mâu thuẫn mà không kịp giật mình. Lên lớp người khác những nỗi mà chính mình cũng đầy rẫy. Các cụ gọi là trách người không nghĩ đến thân. Anh nào cũng xe máy phóng tít mù mà khiển trách thành phố quá ô nhiễm, giao thông quá ách tắc. Biệt thự nhà mình ở thân đê hẳn hoi vẫn lớn lối chê trách thành phố làm đê bê tông xóa mất vẻ xanh mướt chân quê của đôi bờ sông Hồng... Tuy nhiên mối lo âu về sự không cân đối giữa quá trình phát triển kinh tế và xây dựng đô thị với việc gìn giữ bản sắc truyền thống của Hà Nội, là mối lo âu khá phổ biến trong tâm trạng nhân dân Thủ đô. Có vẻ như là một sự cả lo. Bởi vì cho đến nay, sau 15 năm Đổi Mới, mặc dù đã có nhiều đổi thay, về cơ bản thì Hà Nội vẫn giữ được dung mạo của mình. Đã khá phát triển và đã nhiều nét hiện đại hóa, nhưng Hà Nội vẫn còn là Hà Nội. Hà Nội nhiều vẻ thơ mộng, vẫn còn tương đối sạch sẽ, ít ô nhiễm. Nhưng thực ra còn giữ được như thế là nhờ Hà Nội có Trung ương Đảng và Chính phủ, mà như bà con ta nói là gần mặt trời, với lại do dân trí cao công luận mạnh, nên không dễ ai muốn làm gì thì làm, muốn đập phá muốn xây thế nào tùy hứng. Những mối họa, những lỗi văn hóa trong sự phát triển thành phố ít nhất là cũng không thể bộc lộ ngang nhiên. Tuy vậy vẫn tồn tại và vẫn bộc lộ, khiến lòng người không thể không lo âu. tạp bút 29 https://thuviensach.vn Mối lo ấy không chỉ do phải chứng kiến những vụ phá phách văn hóa truyền thống (trong thực tế những vụ việc như thế chưa nhiều), mà chủ yếu là do tính chất của những vụ việc ấy. Vụ phá đền Cẩu Nhi để xây Restaurant Trúc Bạch chẳng hạn, xảy ra đã từ lâu lắm rồi, nhưng không nghĩ đến thì thôi, nghĩ đến lại thấy ghê gai cả người. Sự dốt nát và tham lam đến thế cũng là kinh dị rồi, nhưng đáng sợ hơn hết là cái ngông nghênh cái tự phụ của kẻ đập đền. Vạch ra một kế hoạch thế là ký xoạt một cái và lập tức ra tay, không thèm mảy may đắn đo nghĩ ngợi tới lịch sử, tới ông bà tổ tiên, tới trời cao đất dày, cảnh quan thành phố, dư luận nhân dân. Cũng do cái lối tự phụ dương dương tự đắc coi mình là nhất ấy mà có ông kiến trúc sư xây Nhà Cá mập, có những ông ký duyệt dự án Thủy cung Thăng Long. Ghê nhất là đã từng có ông còn vạch dự án phá bỏ Tháp Rùa để xây cao lâu. May mà công luận đã kịp can ngăn. Nhưng thói tự phụ không mất, những ý tưởng của lòng háo danh vẫn sẵn lắm, nhỡ có cái thứ nào đó kiểu ấy mà lọt lưới công luận, mà Nhà nước không kịp ngăn thì sao? Mà những ý tưởng đáng sợ như thế thường rất khó can ngăn. Không phải chỉ vì ông nảy ý tưởng là nhà này nhà nọ, bằng cấp ngất ngưởng, mà còn vì những 30 bảo ninh https://thuviensach.vn ý tưởng ấy luôn luôn có vẻ là tân tiến, là khai sáng, là vì mục đích làm tốt đẹp cho thành phố. Mà dân tình thì mấy ai đủ cỡ để có thể mong góp ý với những con người tài ba ấy. Chính dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long nên được các ban ngành Hà Nội coi là dịp để đánh giá những gì tốt và chưa tốt trong công tác gìn giữ truyền thống văn hiến của miền đất thiêng liêng này. Chẳng hạn khi Bộ Quốc phòng quyết định mở lại đường Nguyễn Tri Phương và bàn giao Cửa Bắc cho Ủy ban, tuy cũng mừng song bà con nhiều người họ bảo rằng, để Thành cho các chú bộ đội giữ thì dân sự không được ngó vào nhưng mà còn Thành, sang tay các ông gì ông gì xi vin kia thì sẽ thành gì chả biết. Giờ đây cắt băng khánh thành rồi, ai dám bảo gì nữa. Có điều Cửa Bắc thời bộ đội quản tuy cũ kỹ rêu phong nhưng mới là thành Cửa Bắc. Còn cái Cửa Bắc mới này có vẻ không phải là Cửa Bắc... Nói như bà cụ hàng nước bên dãy số chẵn phố Phan Đình Phùng thì “cái mới này y tựa một ông cao niên răng giả trắng lóa tóc nhuộm đen nhức”. Thiết tưởng bà cụ chẳng chút quá lời. Rời Cửa Bắc, ngang sang Văn Miếu, người dễ tính cảm thấy hài lòng hơn. Khu Thái Học bao năm điêu tàn hoang phế nay được cất mới, to đẹp đàng hoàng tạp bút 31 https://thuviensach.vn thế, thật đáng mừng. Có lẽ Thành phố đã rất ưu tiên cho công trình này. Bây giờ ở Hà Nội không có nhiều di tích trực tiếp với buổi đầu nhà Lý như là khu Văn Miếu này. Tiền của rất nhiều, công quỹ của Thành phố, quỹ quyên góp của nhân dân các miền trong nước, sự bảo trợ của Tổng Công ty Dầu khí. Kiến trúc sư hạng nhất, thợ hạng nhất trong nước. Có điều, xin nhắc lại, người Hà Nội vừa dễ dãi vừa rất kỹ tính. Cho nên có thể vừa tấm tắc khen kiến trúc sư nhưng vẫn vì lẽ này lẽ khác mà thắc mắc. Các cụ ta xưa dù nghèo nhưng với nơi thiêng liêng gốc rễ về tư tưởng về đạo lý nước nhà, nơi mà dù oai quyền tới đâu gần ngang qua cũng phải “hạ mã”, không lẽ không thể chắt chiu tiền của để xây cất một Văn Miếu to tát như là bây giờ các ông kiến trúc xây dựng. Nhưng Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ ban đầu xây dựng và qua nhiều lần trùng tu về cơ bản vẫn giản dị, vẫn cốt cách thanh tao, vẫn thuần Việt là vì sao. Vì sao các bậc tài năng nhà Trần không tìm cách thể hiện sự trên tài so với nhà Lý, vì sao thời Lê không xây trùm lên nhà Trần? Câu trả lời thì người Hà Nội ai mà không biết. Bởi nơi đây “lắng hồn núi sông ngàn năm”. Dù bạn giỏi giang, tài trí, giàu sang tới cỡ nào, cũng xin hãy cư xử khiêm tốn và nương nhẹ với tổ tiên, với non nước quê nhà, thành phố quê hương. 32 bảo ninh https://thuviensach.vn Mục đích đúng đắn, động cơ lành mạnh* Người bạn của tôi dạy học ở Bắc Kinh đã nhiều năm, đưa gia đình về nước nghỉ hè. Anh nói với tôi là hai đứa con anh, đứa tiểu học đứa trung học, chỉ vui được mấy bữa đầu, sau thì cứ dài dài buồn bã. Bạn bè và anh chị em họ hàng cùng tuổi với chúng ở Hà Nội dẫu cũng đang nghỉ hè nhưng chẳng hề được ngơi cái * Văn Nghệ Trẻ, số 51, 2000, ký tên Nhật Giang tạp bút 33 https://thuviensach.vn đầu. Vẫn phải gạo, thậm chí còn gớm hơn cả lúc chưa bế giảng. Trong cái nóng bức kinh hồn, thầy bà chạy xô mô mồ hôi mồ kê mặt mày đờ đẫn, học trò phờ phạc. Liên miên như vậy từ mẫu giáo đến hết đợt thi cuối cùng vào đại học, ốm o cằn cỗi của con người ta mất cả một đoạn mười mấy năm đầu đời tươi đẹp nhất. “Ở mình có những chuyện thật kỳ nhưng lâu dần đã hóa bùn, thành sự đương nhiên”, bạn tôi bảo. Ở mình đúng là có những sự đời tuy rằng dễ hiểu mà kỳ tình rất khó hiểu. Ngoài những sự lạ thường đã nhàm nhan nhản trong giáo dục còn có vô khối thí dụ từ thường nhật. Chẳng hạn, không nói đâu xa, tôi và bạn, dân thành thị, làm công ăn lương, không buôn to bán lớn, không ông nọ bà kia, thì tiền để tậu một cái bình bịch không thôi cũng đào đâu ra, chứ đừng nói một căn hộ hay thậm chí một ngôi nhà. Vậy mà coi, ở Hà Nội những năm qua, nhà riêng mọc lên như nấm sau mưa, như sóng xô bờ, hết dần vỉa hè, hết dần ao hồ, hết dần đất trồng rau, trồng hoa. Và khi dòm vào tiện nghi với nội thất nhà bạn, người ta phải ngạc nhiên tự hỏi: Sao bảo nước mình còn nghèo? Huỵch toẹt ra thì tôi và bạn, chúng ta, những viên chức lặt vặt nơi thị thành, đa phần cạo giấy với chạy dịch vụ hoặc nỉ non viết lách này nọ, so với người nông dân thử hỏi chúng ta đã góp được bao nhiêu công sức cho sự đổi thay đất nước những năm qua? Cố nhiên, chẳng ai lại 34 bảo ninh https://thuviensach.vn bận tâm tự thắc mắc như vậy, có chăng chỉ những năm đầu mới bước vào kinh tế thị trường, bây giờ quen rồi. Nhìn trên tivi thấy cảnh đường phố Bắc Kinh, ở Hà Nội không ít người bảo, đông đảo người đạp xe và chen xe buýt như vậy chứng tỏ đời sống của họ không bằng chúng ta, những người một bước là phi xe máy. Có lẽ, cứ lăn theo cái cung cách so sánh tự hợm ấy, chúng ta sẽ thấy chúng ta nhất, nhất là dân Hà Nội, đang đứng nhất về học vấn. Đứng nhất, không phải chỉ về khối lượng tiến sĩ mà chủ yếu là về khối lượng kiến thức khổng lồ và dày đặc mà thanh thiếu niên Hà Nội được hưởng trong giờ học chính cộng với hàng vạn giờ thêm nếm. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ. Học để mai rày cống hiến cho đất nước. Học để ấm vào thân. Những lẽ đó xưa giờ ai cũng hiểu. Song tự hiểu không đủ để giải đáp nổi những thắc mắc giản đơn về sự học hành của trẻ em nước ta. Chẳng hạn, tại sao nhiều nước trên thế giới lại không cho con em họ sớm được hưởng núi non chữ nghĩa đồ sộ ngang bằng với trẻ em các cấp phổ thông ở ta? Quốc gia của họ có vì thế mà kém phát triển so với nước ta không? Không cần qua Lào, qua Trung Quốc, Mỹ với Nga gì, coi lũ trẻ ở trường Quốc tế Hà Nội học hành thì thấy thôi. Ra là Bộ Giáo dục các nước đó không muốn trẻ em nước mình giỏi giang vinh hiển? Phụ huynh của bọn trẻ không thích tạp bút 35 https://thuviensach.vn chúng được ấm vào thân? Nhớ lại trước đây, có thể nhớ lại thật xa, những năm kháng chiến, chồng chất khó khăn gian khổ, người ta thấy rằng, một trong những vinh quang và thành công nổi bật của đất nước chính là nền giáo dục phổ thông. Tại sao như vậy nhỉ? Như hồi kháng Pháp, phổ thông của ta có chín năm thôi, vậy mà lớp học sinh thời ấy lại hết sức có tài, về sau làm rạng danh đất nước trên nhiều lĩnh vực. Ngày nay ở ta giới khoa học đông đảo, bằng cấp cao ngất, du học bốn phương, thông thái, hiện đại hết sức, song tầm cỡ chắc chắn chưa ai ngang được với những tên tuổi như Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Vũ Tuyên Hoàng v.v... Đấy là nói ở đỉnh cao của học vấn, còn ở mức phổ thông thì những năm gian nan ấy đất nước đã có được một lớp thanh niên thật sự giỏi giang, được đào tạo rất tốt để đảm đương những trách nhiệm lớn lao trong sản xuất và chiến đấu. Nếu chỉ bằng vào lòng can đảm không thôi thì chắc là chúng ta phải mất nhiều thập niên nữa mới có thể toàn thắng được siêu cường Mỹ. Bộ đội ta, càng về sau, như tôi thấy, càng đông học trò cấp ba. Họ rất thông minh và quá giỏi. Không phải là những học sinh lớp 10 hạng nhất sao có thể tài trí linh hoạt, một chọi hai mươi, tốc chiến tốc thắng như bộ binh Quân Giải phóng, sao có thể là những kế toán và trinh sát pháo binh đáng sợ đến như vậy đối với quân thù, sao có thể 36 bảo ninh https://thuviensach.vn là các trắc thủ tên lửa sử dụng Sam 2 vốn không thể hạ được B52 mà làm nên Điện Biên Phủ trên không? Mà điều kiện sống và học tập của họ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì nếu không trải qua không thể hình dung nổi là khó khăn và đơn sơ đến nhường nào. Tuy nhiên học trò thời ấy không có gì là thông tuệ hay chăm chỉ hơn trò thời nay. Các thầy cô nước Việt thì thời nào cũng thế, dù hoàn cảnh có thế nào, cũng là những người mà về cơ bản là tốt nhất, giỏi nhất, có lương tâm và trung hậu nhất. Khác nhau chỉ là ở quan niệm về sự đào tạo con người. Chữ nghĩa là để khai sáng con người. Một thanh niên cần phải học để trở thành người có văn hóa, và hơn thế, thành một người tốt và có ích cho mọi người. Vì vậy học không phải là để làm giàu, ấm thân phì gia, chăm chỉ gắng gỏi trau dồi kiến thức không phải là để mài sắc vũ khí cạnh tranh với đời để hy vọng mai sau hơn người, ăn trên ngồi trốc người ta. Và ngoài kiến thức sách vở, quan trọng hơn kiến thức sách vở, người học trò còn có xung quanh mình đời sống rộng lớn và muôn màu của đất nước và quê nhà, đầy khó khăn song cũng chứa chan niềm vui tuổi trẻ, cần phải hòa hết mình vào để thật sự thành người. Thời chúng tôi, lẽ học tập và lẽ sống đó được gọi là “mục đích và động cơ học tập đúng đắn”. tạp bút 37 https://thuviensach.vn Thiết tưởng, các quan chức và các nhà chiến lược, các nhà soạn thảo của ngành giáo dục hiện giờ hầu hết cũng từ lớp học trò thuở đó, vì thế họ chưa thể quên thời đó dạy và học thế nào, chưa thể quên “mục đích và động cơ học tập đúng đắn lành mạnh”. 38 bảo ninh https://thuviensach.vn Thế kỷ của sự đồng lòng* Ngày nay, trước mắt những người còn trẻ, thế giới trải ra hết sức thông thường, sự đời vô sự dửng dưng diễn ra, thản nhiên, nhưng với những người luống tuổi thì ngược lại, mỗi ngày là mỗi mới lại. Với người, độ cao của tòa Tháp Hà Nội có đáng là bao, nhưng với tôi là chót vót. Trước đã đôi lần leo lên đó rồi, đã thấy ngợp, song đều vào ban ngày nên * Văn Nghệ Trẻ, số 1 & 2, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 39 https://thuviensach.vn không quá ngợp như là bữa ở trên đấy vào buổi tối. Đứng bên tôi, cùng nhìn ra xa, những đồng hương Hà thành còn trẻ chẳng thấy có cái gì đáng chú ý ở bên ngoài mặt kính dày của tòa nhà, nhưng mà tôi thì tôi nhìn thấy một Hà Nội chưa từng thấy, một Hà Nội chưa từng có bao giờ, bừng sáng lên, rực rỡ như là một bầu trời sao nữa dưới bầu trời đêm. Nếu không từng như tôi chứng kiến những cảnh tương phản từ quá khứ, sẽ dễ cho rằng cảm nghĩ ấy của tôi là phóng đại, bởi vì, quả vậy, mới mẻ và lạ lùng cái gì đâu biển cả ánh đèn đô thị. Năm 1986, vào một tối mùa hạ, tôi có dịp lên lầu thượng Khách sạn Thủ đô, hồi bấy giờ là đỉnh cao nhất của Hà Nội. Bốn bề cũng trời đất bao la thế này nhưng tối om. Trừ những điểm trọng yếu, gần như là toàn bộ thành phố bị mất điện, ẩn hết vào bóng tối, rồi đến lượt cả cái tòa khách sạn cao tầng mà tôi đang trên đó đèn đóm cũng tắt ngóm. Từ trên tầm cao vút nhìn xuống miền mất ánh sáng rộng mênh mông, cảm giác nặng hơn rất nhiều so với đứng dưới đường. Giờ đây, mỗi khi nhớ về những năm khắc nghiệt và gian khổ vô bờ của thập niên 80, tôi luôn mường tượng lại cảnh tượng thành phố tối hôm đó nhìn từ trên cao. Không thể tin nổi là ngày ấy với bây giờ chỉ 15 năm trôi qua. Giờ đây, nghĩ về thế hệ cha anh và thế hệ của mình, ngoài những hồi tưởng bi hùng thời trận mạc, 40 bảo ninh https://thuviensach.vn tôi luôn nhớ về đoạn đời sau chiến tranh với bao nhiêu là thương cảm và cảm phục. Đó là một thời kỳ lịch sử hết sức anh dũng của dân tộc, một thời kỳ mà người Việt Nam thể hiện lòng can đảm và nghị lực lớn lao không thua gì trong kháng chiến, cũng là thời kỳ nhiều nỗi khổ tâm. Nhất là vào giai đoạn đầu và đặc biệt với thế hệ cha tôi. Tôi không bao giờ quên được cái buổi tinh mơ tháng hai lạnh giá năm nào cả Thủ đô lặng đi nghe đài loan tin cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, không thể nào tin nổi đã bùng nổ. Tôi cũng không sao quên nỗi đau lòng hằn trên gương mặt các bậc cha chú của mình vào cái ngày mà thế giới này hay tin Liên bang Xô-viết đã tan rã. Với thế hệ cha tôi, sóng gió thời hậu chiến có thể coi là thử thách cuối cùng mà sau vô vàn thử thách và bi kịch đã dấn thân vào trong hầu suốt thế kỷ XX đầy giông tố, lại đã một lần nữa phải chịu đựng và vượt qua, để trực tiếp làm ra Đổi Mới, làm ra ngày hôm nay. Ngày nay, chúng ta không chỉ đang hưởng những thành quả do công sức nhiều chục năm chiến đấu và xây dựng, mà còn nhận được từ cha anh mình những kinh nghiệm xương máu về lẽ đời và lẽ sống, những bài học xương máu về định hướng đường đi cho cuộc đời. Nhờ những lao tâm khổ tứ, những thương đau tinh thần, sóng gió nội tâm, nhờ tinh thần thủy chung, ý chí kiên định nhưng lại đầy lòng quả cảm tự cải tạp bút 41 https://thuviensach.vn biến của thế hệ trước, thể hiện trực tiếp và đặc biệt rõ trong thời kỳ đổi mới, mà ngày hôm nay chúng ta có được một lý trí tỉnh táo và một cái nhìn sáng suốt hơn bao giờ hết. Đánh giặc và làm lụng, gìn giữ và đổi mới, tôi tự hỏi liệu có thể coi đây như là một trong những công thức thâu tóm thời đại vinh quang hơn nửa thế kỷ qua của Tổ quốc mà cuộc đời tôi đã may mắn được từng trải? ◼ Từ giữa những năm 90, nhiều mặt của đời sống xã hội đã được nâng cấp, nhất là ở thành thị và rõ rệt là ở Hà Nội, rời xa cảnh đời chật vật và nghèo túng thuở trước để làm quen với sự phong lưu. Phép màu của các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã thành chuyện thông thường thể hiện qua sự phổ cập vào mọi nhà của các tiện nghi vật chất tuy là đã hiện đại nhất mà vẫn không ngừng được thay mới theo mốt tiêu dùng thời thượng. Từ những gia đình chục người chen nhau chục thước vuông, bây giờ ở Hà Nội chí ít cũng phải vài ngàn gia đình chỉ dăm ba nhân khẩu mà sở hữu cả một "tiểu lâu đài" ba tầng lầu, nội thất sang trọng, của cải ngồn ngộn. Cơm no áo ấm là chuyện xưa quá rồi, ngay cả ăn ngon mặc đẹp cũng đã là chuyện vặt đối với vô số 42 bảo ninh https://thuviensach.vn thanh niên Hà Nội. Chưa bao giờ phố xá Hà Nội nườm nượp nam thanh nữ tú như ngày nay. Sức khỏe tốt, hình thể đẹp, ăn vận sang, dư giả tiền bạc, ngày nay con cái các gia đình trung lưu còn được rộng đường vui chơi thụ hưởng mọi phương tiện và hình thức giải trí ở đời. Cũng chưa bao giờ thanh niên được đối xử một cách trọng thị và dịu nhẹ như ngày nay. Những lề luật chặt chẽ, những đòi hỏi nghiêm khắc của gia đình và xã hội đối với lớp hậu sinh đã được nới ra rất nhiều. Chưa bao giờ giới trẻ được tự do nhiều như bây giờ trong tình yêu và hôn nhân nói riêng, trong giao tiếp và trong sự xác lập những mối quan hệ xã hội nói chung. Và quan trọng hơn cả là chưa bao giờ giới trẻ được chăm bẵm kỹ lưỡng về đường học hành như là bây giờ. Không chỉ là những ưu thế về kiến thức học đường và sức nặng bằng cấp, thanh niên ngày nay còn được hưởng những thuận lợi chưa từng có trong việc tiếp cận với những tầng văn hóa và những đỉnh cao tri thức muôn trùng của nhân loại. Càng về cuối thế kỷ đà đổi mới và thăng tiến càng trở nên mạnh mẽ đồng thời lại càng thêm ổn định. Những điều kiện tốt đẹp mà xã hội dành cho thanh niên càng ngày càng trở thành là lẽ đương nhiên. Vì vậy, ngày nay, một mặt, dễ có cảm giác rằng thế kỷ XXI là một núi của cải và tiện nghi tuyệt hảo được dọn sẵn ra đó từ bao giờ, chờ chực chúng ta "nối mạng" tạp bút 43 https://thuviensach.vn vào mà tận hưởng. Mặt khác, trước những chỉ số về sự hơn hẳn trong thu nhập và mức sống, người ta dễ có cái nhìn tự phụ đối với thời gian khổ đã qua. Phải chăng ngày nay ở ta có một bộ phận tầng lớp trung lưu khá giả tuy được học hành tử tế nhưng khá thiển cận về văn hóa, mặc dù giỏi tính toán mà lại kém cỏi trí nhớ, thu nhận được rất nhiều thông tin mà lại cạn hẹp tầm suy nghĩ, hết sức tự phụ mà lại thiếu lòng tự tôn? ◼ Mùa hè năm 1998, là thành viên của đoàn nhà văn và đạo diễn điện ảnh Việt Nam, tôi đã sang thăm Mỹ. Chúng tôi đã được đón tiếp rất tốt. Là một người viết văn, cố nhiên tôi cũng muốn tin rằng trước tiên là nhờ giá trị những tác phẩm mang theo trong tay nải mà chúng tôi có được sự trọng thị của chủ nhà. Mà quả có vậy. Tác phẩm và tên tuổi của nhiều nhà văn như Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều đã quen thuộc tại đất nước rộng lớn này. Và tôi đã tận mắt thấy rõ là các buổi chiếu phim, và các tối đọc thơ của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, tối đọc truyện ngắn của nhà văn Lê Văn Thảo bao giờ cũng đông người dự. Chẳng những rất đông mà còn say mê 44 bảo ninh https://thuviensach.vn lạ lùng. Song le, tôi vẫn có cảm giác rằng nếu nhà văn chỉ đơn thuần là một nhà văn thì không chắc gì tác phẩm đã có được sức cuốn hút độc giả đến như vậy. Trên diễn đàn của những cuộc hội thảo, trong những buổi tiếp xúc với độc giả, danh hiệu nhà văn, nhà thơ, nhà điện ảnh của chúng tôi như được chiếu sáng lên bởi vinh quang của cuộc kháng chiến và bởi hào quang của người chiến sĩ Quân giải phóng. Những ngày chúng tôi ở Mỹ là những ngày có nhiều sự kiện đáng chú ý với người Mỹ hiện liên tục trên tivi. Nhưng mặc kệ sự nóng bỏng, sự om sòm và giật gân, cả sự kinh hoàng nữa, đa số dân Mỹ chẳng quan tâm. Người ta bật tivi lên nhưng chẳng nhìn. Báo chí thì thật là nhiều để đọc, có điều người Mỹ đọc báo với sự quá chừng hờ hững. Buổi sáng ngồi ở tiệm cà phê mà quan sát thì thấy rằng người nào người nấy mua cả núi báo nhưng mà ai ai cũng như thể vừa đọc vừa ngáp. Không có cái chuyện gì là đáng chú ý. Không có sự kiện nào, không có nhân vật nào của thời hiện đại là đáng ghi nhớ quá một phút đối với đại chúng ở đây. Ấy vậy mà Việt Nam, chỉ riêng Việt Nam thì vẫn không mai một, vẫn hiện hữu sâu sắc trong nội tâm nước Mỹ sau từng bấy năm trời. Sự ghi nhớ bền bỉ và xúc cảm sâu đậm khác thường ấy của người dân Mỹ và nói chung của nhân loại là một thuận lợi rõ ràng của Việt Nam ở mọi lĩnh vực trên chặng ban đầu của tạp bút 45 https://thuviensach.vn quá trình hội nhập. Nhưng do đâu mà dân tộc Việt lại được thế giới kính trọng và cảm phục như vậy, có lẽ phải rất hiểu hoặc chí ít là phải luôn suy nghĩ về điều này thì thế hệ Việt Nam mới giữ bền được tình cảm chung ấy. Tất nhiên con người ta sống ở đời không nên dựa dẫm vào quá khứ, song cũng không nên cho rằng quá khứ là sự vướng bận. Nhà báo Ku Se Jeong kể với tôi rằng, trong quá trình viết loạt bài điều tra về những tội ác dã man mà lính Đại Hàn đã gây ra ở Việt Nam, thì ngoài những phản ứng gay gắt dễ hiểu từ các ngài cựu sĩ quan thời độc tài Pak Chung Hy, chị còn gặp phải trở ngại từ thái độ lãnh đạm rất khó hiểu của một số cán bộ trẻ tuổi ở tại chính những thôn xóm xưa kia đã xảy ra thảm sát. "Đối với chúng tôi quá khứ là quá khứ, đề nghị bà đừng có khuấy lên nữa". Đấy là điều người ta thường khuyên Ku Se Jeong. Tuy lời khuyên ấy có hàm một sự khôn ngoan nhất định, nhưng là một sự khôn ngoan phũ phàng và thực dụng chủ nghĩa tuyệt đối xa lạ đối với người Việt Nam. Với lại theo tôi, những người ra lời khuyên lẽ ra đừng nên dùng chữ "chúng tôi", đừng nên nhân danh bà con làng xóm, càng không nên nhân danh những người đồng hương đã bị quân thù sát hại. ◼ 46 bảo ninh https://thuviensach.vn Kể từ sau chiến tranh, mỗi năm một lần chúng tôi tổ chức hội lớp 10. Có người gọi đùa là họp "hội phụ nữ". Ngày xưa ba phần tư sĩ số là học tròn con trai, bây giờ họp mặt chỉ thấy toàn trò nữ. Trò nam còn một nhúm mười người. Vậy những người kia đâu cả rồi? Sau khi tốt nghiệp cấp ba, gần như toàn bộ con trai lớp tôi tòng quân. Đi vào cùng một ngày. Khi ấy đa phần mới 17 tuổi. Ở tuổi ấy con người ta nom ra sao, có thể nhìn đám trai trẻ lớp 12 bây giờ mà suy ra, có điều là hồi ấy thanh niên trông còn nhỏ con, gầy guộc và hầu hết xanh xao. Có lẽ cũng non nớt hơn. Không ai ra lệnh, chẳng ai bắt buộc, vậy vì sao những thanh niên mới lớn ấy lại nhất loạt quyết lòng dấn thân vào chiến trận sống mái chống Mỹ? Mà bấy giờ là năm 1969, thời sau Mậu Thân, nghĩa là đã qua đi từ lâu giai đoạn đầu chiến tranh còn đầy bồng bột phấn khích, đầy lãng mạn, và thậm chí cả những ảo tưởng. Đối với hiện tượng ấy thì mọi sự cắt nghĩa của người thời nay đều là không đầy đủ và không thể nào trọn vẹn. Ngay cả đơn giản miêu tả lại hiện tượng đó cũng là rất khó. Bởi vì thật ra nó hoàn toàn không có gì là đặc biệt cả đối với thời ấy. Một tinh thần yêu nước, một chủ nghĩa anh hùng quá đỗi bình thường và phổ biến trong toàn dân. Nếu chỉ được phép nói thật ngắn gọn về những năm tạp bút 47 https://thuviensach.vn tháng đó, tôi muốn nói ấy là những năm tháng có một không hai của sự Đồng Lòng. Bản thân tôi và các bạn học của tôi ngày ấy lên đường chiến đấu cũng chung một chữ đồng. Chúng tôi sẵn sàng dấn thân vào cuộc chiến bởi vì ngay từ thuở thiếu thời đã đồng lòng với cả nước mà trước tiên là với gia đình, Có thể nói rằng thế hệ chúng tôi sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng, được học hành, được cha mẹ, thầy cô bảo ban chỉ để nhằm tới một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi quân xâm lược, thống nhất đất nước. Học cho thật giỏi, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe cho tốt không phải để sau này vinh thân phì gia mà là để sau này lớn lên có đủ năng lực đánh thắng được Mỹ. Tôi nghĩ như bà nội tôi, bấy giờ đã ngoài bảy mươi, quá già yếu đã gần như nằm liệt, mà ngày tôi lên đường còn gọi tôi tới bên giường răn rằng đã là lính Cụ Hồ rồi thì không được nhát gan, không được thối chí, phải gắng gỏi cho bằng anh bằng em mà dự phần vào đuổi giặc nước cứu lấy thành Huế. Hay như mẹ tôi và bao nhiêu bà mẹ khác, thương con, lo sợ cho con, nhưng không hề một lời ngăn cản. Đó là vì sao? Sự đồng lòng ấy không chỉ là đồng lòng yêu nước mà còn là chung lòng một lý tưởng xã hội đã thấm sâu vào toàn dân từ Cách mạng Tháng Tám. Ngày nay có 48 bảo ninh https://thuviensach.vn người cho rằng tinh thần chủ yếu trong kháng chiến là tinh thần dân tộc. Tôi cho rằng nói vậy là không đúng, ít nhất là không đúng với thực tiễn thời chúng tôi. Hồi đó người ta đồng lòng chiến đấu vì Tổ quốc và vì Chủ nghĩa xã hội. Giải phóng đất nước đồng thời Giải phóng người lao động. Chủ nghĩa yêu nước và Chủ nghĩa quốc tế. Không lẽ tâm niệm và động lực tinh thần ấy của hàng triệu thanh niên đã chiến đấu và đã hy sinh trong suốt nửa thế kỷ lại không phải là một sự thật, hoặc là một sự thật có thể phủ nhận? Chúng ta là những người của ngày hôm nay, là những người có điều kiện so sánh, đối chiếu, kiểm chứng những thăng trầm, thành bại của thế hệ cha anh. Chúng ta có thể thấy rằng chúng ta nhiều phần giỏi giang và giàu có hơn. Tuy nhiên lại cũng phải thừa nhận rằng chính thế hệ trước đã tạo ra thời đại này, chẳng những bởi xương máu của nửa thế kỷ chiến đấu chống ngoại xâm mà còn bằng bao công lao khó nhọc xây dựng và khai phá. Chẳng phải chính những người chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thực hiện thành công cuộc cách mạng lương thực, đã điện khí hóa phần lớn nông thôn, đã xuất khẩu dầu mỏ, đã chuẩn bị nền móng cho thời đại tin học? Hàng triệu người của thế hệ trước đã ngã xuống trong chiến tranh, bản thân họ không được thấy ngày hôm nay, song lý tưởng mà họ đã theo đuổi và dâng tạp bút 49 https://thuviensach.vn hiến trọn đời thì vẫn tỏa sáng trong thời đương đại. Các thế hệ sẽ mãi mãi tiếp nối nhau. Quá khứ, tương lai và hiện tại của đất nước này luôn luôn là cùng trên một con đường. 50 bảo ninh https://thuviensach.vn Ơn sâu* Sự chí tình và lòng nhân ái mà các nhà văn tên tuổi đã dành cho tôi ngay từ buổi sơ giao không có gì là bất thường cả, những nhà văn ấy cùng chiến trường với tôi. Đó là tình nghĩa anh em sâu xa và bền chặt giữa những người chiến sĩ, mà cụ thể ở đây là những chiến sĩ Mặt trận B3. Những năm chống Mỹ, chiến trường miền Nam là một thế trận gồm liên hoàn nhiều mặt trận khác nhau. * Văn Nghệ Trẻ số 11, 2001, ký tên Bảo Ninh tạp bút 51 https://thuviensach.vn Ngoài những đặc điểm chung của toàn chiến trường, mỗi mặt trận đều có những nét rất riêng tạo nên sự phong phú và đa dạng, muôn hình vạn trạng của cuộc kháng chiến. Đến tận bây giờ, nét riêng của mỗi mặt trận dường như vẫn còn đọng lại trong phong thái các cựu chiến binh của từng Bê. Chẳng hạn, các bạn học của tôi, cùng trường, cùng lớp, cùng nhập ngũ một ngày, nhưng vào những mặt trận khác nhau, bây giờ gặp lại, cùng là cựu chiến binh Hà Nội cả nhưng không giống nhau. Không nắm bắt được, không cụ thể chỉ ra được, song tôi vẫn cảm giác được một sự khác nhau nào đó giữa những bạn học đã chiến đấu ngoài B5 với những bạn chiến đấu trong B2, hay là với mình, chiến đấu ở B3. Nét riêng rõ nhất của chiến trường Tây Nguyên là sự gian khổ. Cố nhiên, chiến tranh, lại là chiến tranh chống Mỹ thì có đâu mà không gian khổ, nhưng gian khổ ở B3 là tột cùng gian khổ, là gian khổ vô bờ, dằng dặc triền miên không cùng tận, xẩm tối rừng núi, không trải qua không tưởng tượng nổi, trải qua cũng không lời nào tả xiết. Về thời gian khổ B3 ấy, đã có những tác phẩm văn chương kể lại được một cách sâu sắc và chân thực, mà trong văn xuôi thì theo tôi có tiểu thuyết Lạc rừng và các truyện ngắn của nhà Trung Trung Đỉnh, có hồi ký của tướng quân Hoàng Minh Thảo, tướng quân Đặng Vũ Hiệp, đặc biệt tuyệt hay là hồi ký Tây Nguyên 52 bảo ninh https://thuviensach.vn ngày ấy của bác sĩ Lê Cao Đài, Viện trưởng Viện Quân y 211. Dù vậy, những gì đã được viết ra vẫn chưa thể nói lên hết được những gian lao vô hạn và biển trời công lao của anh em đồng chí chúng ta. Bản thân tôi hầu như chưa động được một chút nào vào quá khứ bi hùng của Mặt trận B3. Quá khứ ấy quá đẹp đẽ và lớn lao, mà cũng quá đau thương, không ký ức nào dồn chứa nổi, không bút lực nào kham nổi. Có thể nói rằng bởi chính những năm trường chịu đựng gian truân, bởi máu xương đổ ra đã nhuộm hồng cả núi non, sông suối, đại ngàn, mà bộ đội B3 rốt cuộc đã được vận nước và mệnh trời giao phó cho trách nhiệm lịch sử là giáng đòn sét đánh Buôn Ma Thuột. Cũng từ sức mạnh dồn nén và tôi luyện trong gian khổ trường kỳ mà quân ta đã có được ý chí gang thép để bật lên tiến hành cuộc truy kích thần tốc và thần kỳ, dữ dội và không khoan nhượng trên dọc đường 7 và đường 21, làm nên vinh quang muôn đời Tháng Ba Tây Nguyên. Chính nhờ Tây Nguyên tháng Ba mà chúng ta đã sớm đạt tới ngày 30 tháng Tư, giành được Thống Nhất và Hòa Bình, khát vọng cháy bỏng của dân tộc mà hồi đó mấy ai dám tin là đời mình sẽ được chứng kiến khát vọng ấy trở thành hiện thực. Đời tôi hôm nay mang nặng ơn sâu thời gian khổ B3, ơn sâu anh em đồng đội, ơn sâu đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. tạp bút 53 https://thuviensach.vn Khi tôi tự hào nói rằng tôi đã trưởng thành lên từ Mặt trận Tây Nguyên, thì không chỉ có nghĩa trưởng thành về thể chất và ý chí, mà cả về văn hóa. Tôi tin rằng trong xã hội ta bây giờ có rất nhiều người đạt được một thực chất văn hóa không chỉ nhờ sách vở mà chủ yếu nhờ đã trải qua chiến đấu và tiếp thu được nền văn hóa chiến trường. Đây là một thứ tầm văn hóa không đo bởi bằng cấp mà bởi độ sâu sắc trong tình yêu và sự hiểu biết của người chiến sĩ về cuộc sống, con người và đất nước. Văn hóa người chiến sĩ, theo tôi nghĩ, như là một với văn hóa người nghệ sĩ. 54 bảo ninh https://thuviensach.vn Những phi vụ C47 - Chiến sỹ tình báo kỹ thuật kể chuyện* Nhiều chục năm sau ngày 30-4-1975, gần đây lại thấy xuất hiện trở lại trên một số trang báo mạng cuả nước ngoài và người Việt ở nước ngoài những luận điểm đã xưa cũ vô cùng về nguyên nhân đổ vỡ Hiệp định Geneve 1954. Khác nhau câu chữ nhưng về cơ bản các luận điểm này đều gắng thuyết phục người ta * Văn Nghệ Trẻ, số 18, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 55 https://thuviensach.vn rằng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chính là bên khởi sự vi phạm Hiệp định, đưa quân vào Nam mở màn chiến tranh, buộc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, vốn rất tôn trọng Hiệp định phải tiến hành chiến tranh tự vệ. Nhưng sự thực hoàn toàn không phải thế: Đối với nhân dân miền Bắc, cuộc tấn công bất ngờ của không quân và hải quân Mỹ ngày 5-8-1964, thực ra không bất ngờ. Đó không phải là ngày khởi đầu một cuộc chiến mà chỉ là ngày quân Mỹ ngang nhiên hóa một cuộc xâm lăng đã bắt đầu từ rất lâu, từ ngay sau ngày Hiệp định Geneve được ký kết. Từ năm 1959, với hàng loạt chiến dịch tung rải biệt kích ra Bắc bằng đường không và đường thủy, trong thực tế Mỹ đã khởi sự đưa quân vượt Vĩ tuyến 17, tiến đánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cho nên ngay từ năm đầu của thập niên 60, qua “vụ án C47” và sau đó là hàng loạt phiên xử công khai của Tòa án quân sự các quân khu xét xử biệt kích, nhân dân miền Bắc hiểu rằng Mỹ đã bắt đầu chiến tranh. Có thể thấy rõ điều đó khi nhìn vào số lượng biệt kích bị đưa ra xử ngày một tăng, và diện ngày một rộng những địa phương đã tiêu diệt và bắt sống biệt kích. Không chỉ giới hạn ở vùng núi non biên giới Việt - Lào mà cả ở trung du và đồng bằng: Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình... (ven biển), Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây... 56 bảo ninh https://thuviensach.vn (vùng đồi núi). Qua khai báo của những lính biệt kích bị bắt, dân chúng càng thấy rõ ý đồ chiến tranh của Mỹ. Ngoài nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo và tổ chức tập kích, khủng bố, ám sát, phá hoại để hòng gây rối loạn hậu phương miền Bắc. Nói rằng trong thực tế giặc Mỹ đã “đưa quân tiến đánh” miền Bắc là không hề phóng đại. Mặc dù nói chung quân số của mỗi toán biệt kích chỉ khoảng nửa trung đội, song tổng cộng có hàng trăm toán như vậy cho nên đấy là cả một đạo quân, hơn nữa là một đạo quân tập hợp những sát thủ do CIA trực tiếp tuyển lựa, trực tiếp huấn luyện, nuôi nấng và trả lương, không qua chính quyền Diệm. Đối tượng mà CIA nhằm vào để tuyển lựa là các sĩ quan, hạ sĩ quan và địa chủ cường hào người Bắc di cư. Sau khi sàng lọc kỹ lưỡng, nhặt ra những kẻ thâm thù cách mạng nhất, hung hãn nhất, có sức khỏe và đủ độ liều mạng, không còn thân thích ở quê nhà, CIA bí mật thu nạp chúng, bí mật gửi tới đào luyện ở các căn cứ Mỹ. Lính biệt kích đường không được huấn luyện tại căn cứ của Liên đoàn 5 lực lượng Đặc biệt Mỹ ở Okinawa trong ít nhất sáu tháng. Sĩ quan trưởng toán thì phải học ít nhất một năm. Còn biệt kích người nhái do Lực lượng Hải Cẩu của Mỹ đóng ở Guam đào luyện. Mỗi người nhái phải qua khóa học 52 tuần lễ. tạp bút 57 https://thuviensach.vn Một toán biệt kích, hoặc người nhái, thường gồm 12 tên. Ngoài những kỹ năng chung, mỗi tên được đào tạo thành chuyên gia của một bộ môn khủng bố: chất nổ phá cầu, chất nổ diệt thuyền, chất độc ám sát không lưu dấu vết, chất độc giết người hàng loạt v.v... rồi chuyên gia tổ chức đột kích bắt cóc, chuyên gia truyền tin, chuyên gia tâm lý và “dân vận”. Như vậy, dù ít người nhưng tinh luyện, một toán biệt kích mạnh và nguy hiểm hơn cả một đạo quân hợp thành. Năm 1979, tướng Đoàn Văn Quảng, Tư lệnh lực lượng đặc biệt thời kỳ trước 64 tuyên bố với tờ Sao và Vạch của Mỹ: từ năm 1958 tới 1963, Quân lực Việt Nam cộng hòa đã bị mất trên đất Bắc toàn bộ thành phần ưu tú nhất, mà về sau không bao giờ còn có thể có lại. Sau khi được dạy dỗ kỹ lưỡng ở các căn cứ Mỹ, các học viên biệt kích tập trung tại Nha Trang. Tại đây mỗi toán huấn luyện tập trung thêm nhiều tháng với tổ lái của chiếc Dakota sẽ đưa họ đột nhập ra Bắc. Lấy khu vực đèo Rù Rì có địa thế tương đối giống vùng rừng núi Thanh Nghệ Tĩnh, các toán biệt kích thực tập bay sát mặt biển, trên ngọn cây trong những đêm trăng sáng, rồi thực tập nhảy dù ở độ cao thấp, thực tập phương án ứng phó khi bị chặn đánh, vây bắt, thực tập thả dù và đón nhận dù tiếp tế. Ban đầu, phi hành đoàn của lực lượng Cò Trắng, lái những chiếc Dakota C47 “không số, không phù 58 bảo ninh https://thuviensach.vn hiệu” là các sĩ quan Đài Loan. Sau hai năm học kỹ thuật bay đêm, bay không có dẫn đường ở độ cao thấp và cực thấp tại căn cứ bay bí mật của CIA ở Mỹ và Philippines, từ năm 1960 những phi công người Việt đảm trách hầu hết các phi vụ rải biệt kích. Khác với số phận lính biệt kích, phi công hầu hết toàn mạng trở về. Trong hàng trăm phi vụ C47 thâm nhập vùng trời miền Bắc chỉ có ba chiếc bị bắn rơi, tổ lái bị tiêu diệt và chỉ có hai sĩ quan không quan là Phan Khắc Thích và Phan Thanh Vân bị ta đưa ra xử trong “vụ án C47” nổi tiếng. Về sau các phi công Cò Trắng sống sót đều được Mỹ trọng dụng, trở thành nòng cốt của không quân Sài Gòn như Lưu Kim Cương, Từ Bội Cam, một số leo lên địa vị đầu lĩnh như Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Đô trưởng Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh Trần Văn Minh. Các phi vụ tuồn biệt kích ra Bắc được thực hiện vào những đêm trăng sáng, và chỉ bay đơn độc một chiếc C47. Trước hết một kiện hàng lớn được nâng lên đưa vào phi cơ. Kiện hàng này là các loại máy truyền tin, vũ khí cộng đồng như đại liên, cối cỡ nhỏ, các loại mìn và chất nổ, thuốc men và đồ cứu thương đủ cho một trạm phẫu thuật dã chiến. Sau đó toán biệt kích gồm từ 12 đến 15 người, đi theo hàng một, ôm dù lên máy bay. Bọn họ được trang bị vũ khí mạnh nhưng gọn nhẹ, tư trang là của người dân thường miền Bắc, tạp bút 59 https://thuviensach.vn giấy tờ tùy thân giả được CIA chế tác y như thật. Mỗi lính được phát 800 đồng miền Bắc, và được phòng thân bằng hai viên thuốc độc cyanuare để có thể tự sát trong chớp mắt. Các sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân và huấn luyện viên nhảy dù cùng bay với toán biệt kích tới địa điểm đổ quân, nhưng không nhảy dù xuống mà sẽ quay về cùng chiếc C47. Tổ lái của chiếc C47 gồm 6 người. Trước phút cất cánh, những nhân viên CIA phụ trách tiến hành cuộc “chiến tranh ngoại vi” cùng Tư lệnh Sở Bắc của lực lượng đặc biệt lên máy bay huấn thị lần cuối, chào tạm biệt và chúc các “Kinh Kha của thế giới tự do” thắng lợi trong cuộc xuất chinh phi thường đi tiên phong trong sứ mệnh Bắc Tiến. Từ Nha Trang tới Đà Nẵng, chiếc C47 sử dụng ám hiệu truyền tin như mọi máy bay quân sự khác đang bay trên vùng trời Nam Việt Nam. Tới Đà Nẵng, chiếc C47 xuống thật thấp làm như đã đáp xuống phi đạo, nhưng nó trườn ra biển, gần như ngay sát mặt sóng. Đã được đào tạo kỹ lưỡng, phi công vẫn duy trì độ cao rất thấp (trên dưới 100 thước) cả sau khi đã đột nhập vào đất liền của miền Bắc, điều khiển máy bay bám theo các triền sông và các bờ núi để tiếp cận mục tiêu. Năm 1961, một chiếc C47 bay thấp như vậy đã đâm đầu vào núi Ba Vì. Đến gần tọa độ mục tiêu, máy bay tăng tốc độ và 60 bảo ninh https://thuviensach.vn vọt lên độ cao từ 300 đến 500 thước. Kiện hàng mang dù lớn được thả ra trước. Tiếp đó, sĩ quan chỉ huy hành quân và huấn luyện viên nhảy dù trực tiếp đưa tay đẩy lưng từng biệt kích ra khỏi cửa máy bay. Trưởng toán nhảy sau cùng. Tên này vừa vọt khỏi cửa khoang, máy bay lập tức hạ độ cao, nhanh chóng biến khỏi tọa độ. Biệt kích người nhái thì áp sát bờ biển miền Bắc bằng những chiếc thuyền được đóng theo đúng kiểu của thuyền đánh cá vùng Đồng Hới, nhưng có gắn động cơ. Áp sát bờ biển vào lúc nửa đêm, rồi dùng thuyền cao su đột nhập vào bờ. Trước năm 1960, các phi vụ rải biệt kích và tung người nhái còn thưa (chỉ khoảng 30 toán), được tiến hành cực kỳ bí mật. Từng chiếc C47 đơn độc bay trong đêm tối, tuyệt đối không có yểm trợ. Nhưng từ sau năm 1960, cuộc chiến tranh biệt kích (Mỹ gọi là cuộc chiến tranh ngoại vi) gia tăng cường độ. Trung bình mỗi tháng có 5 toán biệt kích xâm nhập ra Bắc. Không còn có thể giữ được hoàn toàn bí mật nữa, nên mỗi lần C47 chở biệt kích cất cánh, bọn Mỹ phải tiến hành những hoạt động hỗ trợ và nghi binh. Chẳng hạn nếu đêm đó rải biệt kích xuống Lạng Sơn thì để dương đông kích tây, Mỹ cho C47 bay vòng lộ liễu ở một tọa độ xa trong miền tây Nghệ An. Nhiều ngày sau lại tổ chức thả đồ tiếp tế xuống khu vực nghi binh này cố để ta phát hiện thấy. Chúng còn tiến hành tung những tạp bút 61 https://thuviensach.vn toán biệt kích ma. Chẳng hạn thay cho 12 biệt kích thì cho thả dù 12 cây nước đá. CIA cho rằng công an và bộ đội ta sẽ tập trung lực lượng vào khu vực phát hiện được 12 chiếc dù để lùng bắt một cách vô hiệu những biệt kích vô hình. Chúng hy vọng là khi tập trung vào khu vực đó, ta sẽ để lỏng khu vực khác và chúng sẽ nhân cơ hội ấy mà tung biệt kích. Mặt khác, chúng cho rằng khi tìm được dù mà không truy được vết tích của bọn nhảy dù, quân dân trong vùng sẽ lâm vào tình trạng hoang mang lo sợ. Tuy nhiên, mọi nỗ lực, mọi mưu kế và tiền bạc dành cho “cuộc chiến tranh ngoại vi” chỉ dẫn tới thảm bại. Tất cả những toán biệt kích và những toán người nhái đều bị diệt, bị bắt sống không sót một tên. Chưa hề có một toàn nào, một tên biệt kích nào trước khi sa lưới kịp thực hiện bất kỳ một hành động phá hoại và khủng bố nào do Mỹ sắp đặt. Có thể nói, từ năm 1959 đến 1964, cùng với thắng lợi của nhân dân miền Nam đánh thắng Chiến tranh Đặc biệt, nhân dân miền Bắc đã đánh thắng Cuộc chiến tranh Biệt kích của Mỹ. Tuy ít được nhắc tới nhưng chiến công của quân dân miền Bắc trong những năm trước khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Phá hoại vẫn là rất to lớn và quan trọng. 62 bảo ninh https://thuviensach.vn Vì sao học vậy thi vậy* Học xong lớp 10, chúng tôi đi bộ đội, tuy nhiên nếu không nhập ngũ thì bởi đã đỗ kỳ thi tốt nghiệp cấp ba nên chúng tôi cũng sẽ chắc chắn vào được đại học. Những năm chiến tranh là như vậy, học trò ở miền Bắc thi hết lớp 10 về cơ bản cũng là thi vào đại học. Vào đầu niên khóa, nhà trường tổ chức cho học sinh lớp 10 những buổi học ngoại khóa đề được nghe * Văn Nghệ Trẻ, số 19, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 63 https://thuviensach.vn giới thiệu về các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, cùng những điều kiện cần có để có thể vào học các trường ấy. Đầu học kỳ 2, mỗi trò nộp nhà trường một bản đề đạt nguyện vọng xin học tiếp lên bậc học trên phổ thông. Mỗi trò được chọn cụ thể ba trường. Chẳng hạn: Khoa Chế tạo máy Đại học Bách Khoa là nguyện vọng thứ nhất, khoa Cơ khí Đại học Nông Nghiệp là nguyện vọng thứ nhì, khoa Toán cao đẳng Sư phạm 10+3 là nguyện vọng rốt. Thầy chủ nhiệm lớp 10 sau khi tham khảo ý kiến các thầy bộ môn sẽ thảo luận với từng học sinh về những nguyện vọng của họ. Anh chọn Bách Khoa làm đầu có thể là không hợp lý, bởi vì môn toán, môn lý của anh chỉ trung bình khá, có lẽ anh nên lấy Cơ khí Nông Nghiệp làm nguyện vọng thứ nhất v.v... Song, chỉ là thảo luận, quyết định chí hướng của mình vẫn là bản thân anh học trò. Khi mọi môn học chính khóa đã hoàn tất chương trình, đã có điểm tổng kết của từng môn, học sinh lớp 10 có được khoảng từ năm đến sáu tuần để ôn thi. Đã gọi là ôn thi có nghĩa chủ yếu là tự học, tự luyện, tự tổng kết, rà soát và đúc rút, nhập tâm lần chót kiến thức đã học. Kiến thức ấy là những gì các thầy giảng trên lớp, những gì mình đã ghi trong vở, những gì in trong sách giáo khoa. Vấn đề nào cảm thấy chưa vững thì mang ra hỏi bạn trong những buổi học nhóm, vẫn 64 bảo ninh https://thuviensach.vn chưa vững thì đến trường trình thầy. Đến trường chứ không phải mò tới nhà thầy để mà “này nọ”. Dĩ nhiên muôn thuở anh nào lười thì cũng sẽ cậy vào rủi may mà học tủ, nhưng đấy là anh, chứ thuở ấy chẳng thầy nào sách nào gà cho anh cách khoanh vùng định hướng chương trình để anh đánh tọa độ. Năm ấy chúng tôi thi Toán, Lý, Hóa, Văn. Xét điểm tổng kết, các thầy của bốn môn ấy nhặt ra những trò học quả thực cần phải được gia cố kiến thức để cho họ được dự bốn lớp ôn thi do nhà trường tổ chức, cố nhiên “miễn phí”. Và đấy là những lớp “học ôn” chứ không phải lớp “học thêm”. Kỳ thi tổ chức vào cuối tháng Năm. Cữ ấy dạo xưa chưa oi nóng như bây giờ. Sáng chiều, hai ngày, mỗi môn một buổi. Thí sinh hai người một bàn, xếp theo vần chữ cái, và là bạn lớp 10 cùng trường với nhau chứ không phải đảo trường. Chỉ có giám thị là các thầy của trường khác. Và tất nhiên là không phải phiền tới công an đến bảo vệ, sân trường trong kỳ thi tuyệt đối vắng lặng, người không phận sự kể cả phụ huynh chẳng ai lượn lờ lai vãng. Đề thi được niêm phong, được bóc ra với sự chứng kiến của ba giám thị, được một người đọc lên, một người ghi lên bảng, hoàn toàn nghiêm ngặt, có thể không nghiêm ngặt gớm ghê như bây giờ, nhưng bởi hồi đó ở đời, chứ đừng nói ở trường thi, chưa nảy sinh tạp bút 65 https://thuviensach.vn những sự vô trách nhiệm cùng những mánh lới và mưu kế tày đình để người này phải đề phòng người nọ, đặc biệt là trong ngành giáo dục. Cũng có xảy ra những trò lặt vặt của thí sinh như hỏi nhau, tuồn giấy nháp cho nhau, thậm chí thủ “bom”, song rất hiếm, đến mức trong hàng chục trường cấp ba ở Hà Nội, nhân vật nào bị lập biên bản khi tốt nghiệp đều trở nên “nổi tiếng” và còn tiếp tục lưu danh xấu đến tận bây giờ trong giới cựu học sinh lớp 10. Các môn thi đều hai đề chọn một, tùy ý thí sinh. Thi xong môn nào thì dĩ nhiên tại sân trường, cổng trường cũng đều ran lên những lời bàn luận, người vui mừng hoan hỉ, người buồn bã lo âu vì làm không được, vì làm sai, người cho rằng đề thi quá khó, người nói ngược lạc. Tuy nhiên có một điều chắc chắn như thế này về các đề thi hồi đó: chẳng hạn, nếu bạn thực sự học khá môn toán, được thầy giáo toán cho điểm 4 tổng kết thì dù đề thi toán năm ấy được xem là rất khó, bạn cũng sẽ không thể rơi vào tình trạng vô vọng phải cắn bút đầu hàng nộp giấy trắng. Nói chung, nếu hàng ngày tại lớp bạn đã học vững môn nào thì kỳ thi bạn sẽ không vì đề thi mà rớt môn đó. So với cuộc cạnh tranh chữ nghĩa và bằng cấp ê ẩm cả một đời người của thanh niên ngày nay, đời học trò và chuyện học hành thi cử của lớp trẻ thời gian khổ chiến tranh mới sáng sủa, mới vui tươi và nhẹ 66 bảo ninh https://thuviensach.vn nhõm làm sao. Lớp 10 của tôi, không kể những người bị trượt, già nửa lớp qua được kỳ thi tuy khó khăn nhưng không quá sức, hầu hết vào được các trường đại học đúng theo sở nguyện. Nếu điểm thi khá và trong ba năm cấp ba đạt học sinh tiên tiến từ A3 trở lên là đủ tiêu chuẩn du học nước ngoài. Những anh em nhập ngũ sau khi đã tốt nghiệp lớp 10 đều nhận chứng chỉ vào đại học, để nếu còn sống trở về thì có quyền đương nhiên (chứ không phải quyền ưu tiên) vào học năm thứ nhất. Nhắc lại những điều đó, tôi không có ý so sánh hay dở của sự thi cử thời trước, thời nay. Song không thể không tự hỏi, hồi đó thi cử vừa phải, vào đại học không quá khó nhưng nền học vấn và lề lối đạo đức, phẩm giá, danh dự của thanh niên không bị xuống cấp, mà trái lại, là vì sao? Chưa nói tới chiến công to lớn của bộ đội, đặc biệt là các binh chủng kỹ thuật trong việc đánh thắng sức mạnh chiến tranh cực kỳ tối tân, hiện đại của siêu cường Mỹ, vẫn có thể thấy được cái thực học và của lớp học trò cấp ba hồi đó khi nhìn vào số lượng và vị trí của họ trong mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội hiện nay. Và thêm nữa, không thể không kể tới, trong số những vị nắm quyền cao chức trọng ở ngành giáo dục, không ít những vì cùng học một thời cấp ba với chúng tôi, cùng cách học, cách thi, cùng con đường vào đại tạp bút 67 https://thuviensach.vn học như chúng tôi. Bây giờ họ hoạch định, họ soạn chương trình. Họ ra các sách hướng dẫn luyện thi. Họ mở các lò luyện thi. Họ ra các thứ đề thi v.v... Nói chung các ông ấy là những người đang định đoạt bước đầu đường đời của thế hệ trẻ. Thiết tưởng, các ông ấy lý ra phải là những người đầu tiên thấy được những điều phi lý mà lớp trẻ ngày nay đang phải chịu. Vậy mà, vì sao? Đã nghe các ông ấy giảng giải và lý sự nhiều rồi trên báo chí và trên ti vi. Nhưng lý do thật mà không ai là không biết, ai sẽ là người không vòng vo để thẳng thừng nói ra? 68 bảo ninh https://thuviensach.vn Lý sự* Mới đây, Ban Thời sự của Đài Truyền hình Trung ương có tiến hành phỏng vấn ông Phó giám đốc Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội về tình trạng khô cạn nước sinh hoạt tại một số phường phố Thủ đô. Ông cán bộ này tuy rằng có trả lời nhưng mà thực ra là đã chẳng trả lời gì hết. Vẫn muôn thuở bài ca chúng tôi đã lập được những thành tích đáng kể này, những thành tích quan trọng nọ, song bởi dân số tăng mau, bởi tốc * Văn Nghệ Trẻ số 20, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 69 https://thuviensach.vn độ đô thị hóa cao, nên dù đã hết sức nỗ lực chúng tôi vẫn thỉnh thoảng, đôi lúc, đôi nơi chưa đáp ứng được đòi hỏi của 100% dân cư, chúng tôi sẽ nghiên cứu để khắc phục dần v.v... Nữ phóng viên nén sự sốt ruột đề nghị ông trả lời thẳng và gọn câu hỏi cuối cùng: Đích xác khi nào thì tình trạng này được khắc phục? Ông Phó giám đốc vẫn chẳng nói gọn nổi, tuy nhiên sự dài dòng của ông cũng đại khái thông báo cho mọi người một giả thiết: nếu Nhà nước rót đủ số tiền mà chúng tôi yêu cầu, nếu ý thức của người dân Hà Nội khá lên thì có thể chúng tôi sẽ ra tay giải quyết được vấn đề vào năm 2003! Tóm lại, ông ta chuyển phận sự hiển nhiên của ông ta sang cho Nhà nước và nhân dân. Cách phát biểu ấy không có gì mới lạ. Bà con dân phố đã nghe quen rồi những lý sự kiểu như thế. Không riêng gì mất nước, mất điện cũng vậy, cũng là tại Nhà nước chưa cung ứng đủ tiền cho Sở điện và tại dân trí thấp. Người thuê bao điện thoại di động phàn nàn về sự ách tắc liên lạc thì được ông bưu điện giải thích rằng đó là tại vì thiên hạ thích gọi cho nhau quá nhiều. Chuyện học thêm dạy thêm quá đáng ở ngành giáo dục được quy là tại lỗi của học trò và phụ huynh. Hội Chùa Hương lộn xộn là tại người hành hương quá đông v.v... Tất nhiên khi được mời nói trên ti vi thì ông nào 70 bảo ninh https://thuviensach.vn cũng có soạn ra một số lý lẽ. Chẳng hạn, đô thị hóa nhanh, dân đông, nhà cửa mọc ra nhiều nên nước máy sẽ không đủ cầu là sự tất nhiên, phải vậy không? Có lẽ quá đúng mà kỳ tình là ngụy biện. Hơn nữa, thân làm cán bộ có phận sự quan trọng được Nhà nước giao phó thì rất không nên tự cho phép mình phát biểu thiếu cầu thị như vậy. Người dân có thừa căn cứ để bác bỏ lối giải thích ấy. Và người dân hoàn toàn có quyền nói một cách đơn giản nhất rằng: ông được hưởng chức tước, lương bổng để lo việc đó mà ông không lo nổi là ông có lỗi chứ đừng đổ cho ai, ông cần phải sửa lỗi, không sửa được thì ông thôi đi cho người khác giỏi hơn, có trách nhiệm hơn người ta cáng đáng công việc. Chúng tôi hoàn toàn không có ý lấy chuyện thời chiến để so với thời nay, nhưng quả tình là những năm trong quân ngũ, chúng tôi chưa từng bao giờ nghe một ai, nhất là cán bộ chỉ huy, cao giọng chối bỏ trách nhiệm của mình, ngay dù là trách nhiệm gián tiếp. Chẳng hạn bộ đội không có đủ đạn, gạo để phát huy thắng lợi của chiến dịch thì cán bộ phụ trách hậu cần các cấp, từ sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội đương nhiên phải chịu kỷ luật mà không thể lý sự rằng bởi đường vận tải bị địch đánh phá quá ác liệt. Một xe ô tô quân sự do lỗi của lái xe mà bị tai nạn hoặc gây tai nạn thì người có chức vụ cao nhất có mặt trên xe phải chịu mức thi hành kỷ luật nặng nhất mặc tạp bút 71 https://thuviensach.vn dù không hề cầm lái. Vừa là do kỷ luật cách mạng nghiêm khắc đòi hỏi ý thức tự giác ở mỗi người, vừa là do tinh thần danh dự và phẩm cách văn hóa không cho phép người ta mắc thói né tránh trách nhiệm, nhất là thói đổ lỗi. Những năm gần đây, khi cần xí xóa khuyết điểm của mình, nhiều ông có chức có quyền thường đưa cái gọi là “dân trí thấp” ra làm mộc che. Đời sống nhân dân ở xã do tôi làm Chủ tịch còn nghèo không bởi lỗi của tôi mà bởi dân trí trong vùng còn quá thấp. Vì sao dân trí thấp? Dân trí thấp là vì dân còn nghèo. Rốt cuộc là cái vòng lý sự luẩn quẩn. Dân trí ngày nay có thấp không, chúng tôi không lạm bàn, chỉ xin phép được nhắc lại rằng khi trước chẳng ai, nhất là người có học thức, nghĩ như thế, càng không ai nói như thế. Lịch sử vẻ vang mấy ngàn năm của đất nước, đặc biệt là những kỳ công dân tộc trong thế kỷ XX, chẳng phải là do đông đảo quần chúng nhân dân lập nên sao? Trí tuệ của một nhân dân như vậy liệu có thấp được không? Anh đã tài giỏi đã văn minh tới độ nào, phẩm giá cá nhân đã cao cấp tới đâu mà dám chê một ai đó, chứ đừng nói chê dân trí cả một dân tộc là còn thấp? 72 bảo ninh https://thuviensach.vn Một kiểu xé tiền dân* Dĩ nhiên là tiền dân, tiền công quỹ, chứ ở đời chưa từng có một ông nào, một bà nào lại chịu lôi xấp bạc trong hầu bao đã no ứ của nhà mình ra mà xé. Những vị mắc cái chứng bệnh sang trọng này họ xoàng xoạc xé tiền. Trừ tiền của họ, còn thì xé tuốt. Tiền của dân chắt chiu đóng góp, tiền từ vốn liếng và kinh phí của Nhà nước, tiền trong quỹ viện trợ, tiền Chính phủ phải * Văn Nghệ Trẻ số 23, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 73 https://thuviensach.vn vay của nước ngoài. Tiền đồng Việt Nam, tiền mác Đức, tiền quan Pháp, tiền đô la Hoa Kỳ... Ở Mỹ, thói xài phí tiền chùa một cách văng mạng của đủ loại viên chức trong hệ thống quan liêu gây thất thoát công quỹ không thua gì tệ tham ô. Song, cũng như tại mọi nước khác, luật pháp và dư luận Mỹ không đặc biệt quyết liệt với tội tiêu hoang của công như là với tội ăn cắp. Một tay thủ quỹ thụt két 100 USD có thể phải ngồi tù, nhưng một dự án liên bang tốn kém quá mức cần thiết vài triệu đô la thì cả tòa án lẫn dân chúng đều nhún vai cho qua. Một nhà báo cho rằng thái độ dễ dãi ấy chứng tỏ đa số những người bình dân không hình dung được rõ rệt thế nào là 1 triệu USD. Vậy thế nào là 1 triệu đô? Để giúp độc giả bần hàn ngẫm ra được tầm vóc của con số khủng long đó, tay nhà báo nêu lên vài phép so sánh. Chẳng hạn, một triệu đô tiền xu có trọng lượng kẽm đủ làm gãy đôi tàu Titanic, một triệu đô vàng lá dát mỏng có thể lát kín mặt tiền tòa cao ốc của Ngân hàng dự trữ liên bang ở lộ Uôn. Nhưng, có lẽ đơn giản và cụ thể nhất là một sự hình dung thế này: với tốc độ một giây xé làm đôi một tờ 1 đô, và roàng roạc xé luôn tay không ngừng nghỉ liên miên cật lực, 24 giờ trên 24 giờ trong suốt 11 ngày đêm không ăn không ngủ, người ta cũng không thể xé xuể được 1 triệu USD. 74 bảo ninh https://thuviensach.vn Nghe thì quái gở, nhưng xé tiền dân là một ác bệnh có thật và không hề hiếm. Ví dụ thì đầy. Chẳng hạn, năm 1995, ở Hà Nội quận Hai Bà, 5 tỷ 9, một trong những món tiền của Nhà nước và của dân liên quan đến việc mở tuyến đường Trần Khát Chân, chỉ trong một thời gian ngắn đã đột ngột còn lại có 8 trăm nghìn. Số tiền 5 tỷ mốt rơi vào cõi trời ơi đất hỡi rõ là đã bị xé, chẳng phải vậy sao? Năm tỷ ấy là tiền ta, cũng là lớn, nhưng không lớn bằng một triệu USD. Một triệu tiền Mỹ suýt soát 15 tỷ tiền ta: Mười lăm ngàn triệu đồng, bạn có hình dung nổi số tiền ấy không? Với số tiền đó, Nhà nước có thể miễn học phí suốt 5 năm cho chừng một ngàn rưỡi sinh viên đại học, có thể trả lương cả năm cho hơn 2 ngàn giáo viên, kỹ sư, bác sĩ. Có thể xây dựng hàng chục ngôi nhà tình nghĩa, hàng chục trạm y tế xã. Rồi mở trường học, kéo đường dây điện cho vùng quê heo hút v.v... Bao nhiêu là việc lớn lao cấp thiết cho một đất nước còn đang khó khăn. Mười lăm tỷ đồng - một triệu Mỹ kim đã lớn thế, vậy mà sau đây là câu chuyện nhiều lần to tát hơn. Nói cho đúng ra thì không so sánh được, không tả được, bởi 32 triệu USD là khác hẳn về chất, là một trời một vực so với 1 triệu USD. Với khối tiền dễ sợ 32 triệu USD vay của nước ngoài ấy (chưa kể lãi suất), sự án “cải tạo chất lượng tạp bút 75 https://thuviensach.vn nước hồ Tây trong một phạm vi rộng để nhằm đạt tiêu chuẩn nước của một bể bơi” chẳng những là một sự hàm hồ mà còn là sự xúc phạm đất nước. Không chỉ xúc phạm đến một trong những thắng cảnh thiêng liêng nhất của Thủ đô, dự án kếch xù này còn xúc phạm nặng nề đến hàng triệu người lao động đang làm lụng vất vả, kiếm sống, chắt chiu từng hạt gạo. Tạm thời chưa kể tới những khổ sở cực nhọc về nước sinh hoạt trong những khu phố Hà Nội, bạn hãy nghĩ mà xem: hàng năm ngân sách Nhà nước cộng tiền vay nước ngoài, nước ta cũng chỉ có được 2.000 tỷ đồng cho xây dựng các công trình thủy lợi cùng mọi cơ sở hạ tầng để bảo đảm cho sản xuất và đời sống của hơn 10 triệu hộ nông dân. Cả nước chỉ 2.000 tỷ đồng, mà có vị toan rắc 500 tỷ lên 500 hécta mặt nước hồ Tây để biến hồ này thành hồ nước máy đặng rước Tây đầm xuống lội! Ba chục cái thuyền rồng trên hồ Tây cũng không chở nổi bó tiền to đùng ấy. Cái vụ “Bể bơi hóa Hồ Tây” này có thể coi là một biểu hiện cụ thể của “bệnh xé tiền dân” được không? 76 bảo ninh https://thuviensach.vn Pha tiếng* Nói riêng thì lời thoại là một trong nhiều cái hay của phim Đời Cát, nhưng nói chung thì thoại là một hạn chế thường thấy của điện ảnh. Khán giả đã từng phải chào đón không ít những bộ phim mà trong đó học trò nhại lời anh bộ đội, còn lời lẽ của anh bộ đội thì ngược lại, như thể được chép ra từ sách giáo khoa học trò. Phim tôi còn kém bởi “kém bát gạo bởi lâu đồng tiền”, vẫn thường nghe như vậy. Song, lời nói chẳng * Văn Nghệ Trẻ số 24, 2001, ký tên Nhật Giang tạp bút 77 https://thuviensach.vn mất tiền mua, đâu có cần quá nhiều kinh phí cho, chẳng hạn, một lời tỏ tình? Nhưng nghe nhiều cặp ngỏ lời với nhau trên phim, trên kịch, nhất là phim và kịch truyền hình, người ta có cảm giác như là chàng nàng đang đọc cho nhau những mẫu câu được lắp đặt. Để thể hiện những trạng thái như là thân yêu, căm ghét, giận dữ, mừng vui có thể là còn khó tìm lời, nhưng để bảo rằng tỷ dụ: tôi đói bụng, tôi đau răng, hay trời đẹp, trời xấu thì không khó gì, vậy mà lắm khi người đóng phim vẫn cứ nói rất “phô” bởi vẫn cứ là nói như đọc. Tuy nhiên sự chán ngắt ấy hầu hết không phải lỗi diễn viên. Một khi nhà biên kịch đã biên ra một thứ đối thoại vô hồn thì dẫu có là diễn viên thượng thặng cũng chẳng tài nào hà hơi cho mẩu tâm tình đỡ sượng. Cũng trong nhiều loại hình nghệ thuật khác, trong điện ảnh và sân khấu nước ta, quá khứ chiến tranh và cách mạng luôn là đề tài hàng đầu, người chiến sĩ luôn là nhân vật trung tâm. Song, mặc dù số lượng tác phẩm thì rất nhiều, tác phẩm có chất lượng cao về đề tài này không nhiều. Thỉnh thoảng vẫn hiện ra trên ti vi những bộ phim khiến người ta kinh ngạc chẳng hiểu vì sao Nhà nước cứ mãi chịu phí tổn cho những thứ mà cựu chiến binh nếu xem phải thì bực mình, lớp hậu sinh thì lập tức chuyển kênh hoặc tắt máy. Nội dung có thể là tốt, nhưng dở và giả, gây phản cảm, vậy thì tốt mà làm gì. 78 bảo ninh https://thuviensach.vn