🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mục lục Lời Giới Thiệu Phần Thứ Nhất - A. Tập Án Cái Đình - I. Khao Làng Cho Lợn Bằng Một Bữa Tiệc Rau Nộm II. Mỗi Năm Một Lần Đánh Đuổi Thành Hoàng III. Ai Làm Nên Tội IV. Cuộc Thi Giết Lợn V. Được Một Trai Mất Ba Lợn VI. Lợn Anh, Lợn Em VII. Ông Thành Hoàng Ấy Đã Bị Cách Rồi VIII. Vũng Lội Làng Ngang IX. Đuổi Giặc Cho Thần X. Miếng Thịt Chùi Dao XI. Các Cụ Chỉ Chung Nhau Có Bát Nước Mắm XII. Vừa Tế Vừa Ngủ B. Các Di Tác Cùng Chủ Đề Với Tập Án Cái Đình Và Tập Tục Thờ Cúng - 1. Điều Tra Về Phong Tục Các Làng 2. Chung Quanh Cái Đình 3. Những Việc Đáng Ghi Chép Của Phòng Canh Nông Nam Kỳ 4. Cái Ngòi Tranh Kiện Ở Quê 6. Nguyên Nhân Chỉ Tại Trái Lễ Phần Thứ Hai - A. Dao Cầu Thuyền Tán - Lời Mở Đầu I. Tôi Còn Sống Vì Không Uống Thuốc II. Chữa Khoán Hết Các Bệnh III. Từ Đôi Bồ Đến Mấy Cửa Hiệu IV. Giết Người Bằng Vương Đạo B. Các Di Tác Cùng Chủ Đề Về Nghề Thuốc - 1. Giết Người Lấy Của 2. Điều Tra Về Cách Lừa Người Của Tụi Giết Người Lấy Của 3. Cụ Mạnh Tử Còn Thua Thầy Lang Hà Thành 4. Làng Dao Cầu, Làng Văn Nên Sửa Lại Đền Bạch Mã https://thuviensach.vn 5. Đã Đến Lúc Phải Chỉnh Đốn Nghề Thuốc 6. Cụ Lang Bần 7. Thằng Tim La 8. Bệnh Thương Hàn Với Một Ông Cử Nhân 9. Từ Nay Chắc Ít Người Bị Chết Oan Vì Thuốc 10. Những Ông Lang Nào Sẽ Bị Số Phận Đào Thải? 11. Dân Tộc Ta Hiện Đang Mắc Bệnh Thận Suy https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com Lời Giới Thiệu Hoạt động sáng tác văn chương của Ngô Tất Tố gắn liền với cuộc đột biến sâu rộng trong lịch sử ngôn ngữ của dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, đã khai sinh "kỷ nguyên tiếng Việt có chữ viết riêng", "quốc tự mới" là chữ quốc ngữ bùng phát, hoàn toàn thay thế "quốc tự cổ truyền" là chữ Hán. Được thừa hưởng và ngày càng thấu hiểu "tư duy ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ", gặp thời "tiếng mẹ đẻ có chữ viết riêng", "nền quốc văn mới" ra đời, là cây bút xuất thân từ cựu học, không qua một trường lớp chính quy đào tạo "tân học" nào, luôn luôn tâm niệm "viết có thần của ngòi bút", "viết theo luật thiên nhiên như cha ông mình vẫn nói", Ngô Tất Tố đã dày công vận dụng "sức mạnh của bút lực hiện thực", đã vững vàng, đã không bỡ ngỡ, liên tiếp sáng tác ba tập phóng sự - thể văn mới, còn non trẻ trên văn đàn và báo chí nước ta trong những năm 1930 - 1945. Xen giữa phóng sự Dao cầu thuyền tán đăng trên báo Công dân (1935) và phóng sự Việc làng đăng trên Hà Nội tân văn (1940), Ngô Tất Tố cho đăng phóng sự Tập án cái đình trên báo Con Ong vào năm 1939. Về phóng sự Tập án cái đình Phóng sự Tập án cái đình gồm 12 câu chuyện, đăng liên tiếp trên 14 số của tuần báo Con Ong trong các năm 1939 - 1940 (câu chuyện "Mỗi năm một lần đánh đuổi Thành hoàng" đăng trên ba số). Câu chuyện thứ nhất "Khao làng cho lợn bằng một bữa tiệc rau nộm" đăng trên báo số 19, ngày https://thuviensach.vn 11.10.1939, đã bị để ra ngoài trong tất cả các lần in thành sách "Phóng sự Tập án cái đình", nay xin được bổ sung. Sáng tác thành công các tập phóng sự đã khẳng định tài năng xông xáo trên "lĩnh vực báo chí" của "nhà văn", biệt tài biết vận dụng thành thạo "anh em sinh đôi, chưa tách biệt, chưa chuyên hoá của cả văn lẫn báo" đồng thời nhạy bén đáp ứng nhu cầu cấp thiết của "lớp bạn đọc biết chữ quốc ngữ" - đòi hỏi được "đọc báo chí bằng chữ quốc ngữ" - ngày càng đông đảo trong xã hội. Phóng sự là thể loại có hiệu quả rõ rệt, được người đọc yêu thích, dễ làm chấn động công chúng, vì vậy kiểm duyệt đương thời rất quan tâm, họ sẵn sàng cắt bỏ mọi nội dung, mọi ý tứ là bất lợi cho nhà cầm quyền. Ngôi đình làng gắn với tục lệ cúng tế, mà cúng tế thì phải có cỗ bàn, cỗ bàn là liên quan trực tiếp tới đại gia súc trong chăn nuôi là con lợn. Đình làng cùng với tổ chức cỗ bàn cúng tế bằng thịt lợn đã tồn tại từ đời này qua đời khác, trải qua biết bao thế hệ, đã quy tụ biết bao điều trong mối quan hệ xã hội, đã gắn bó mật thiết với cuộc sống cộng đồng cư dân làng quê nước ta. Công chúng và bạn đọc sau này, nếu không quan tâm kỹ đến toàn cảnh ra đời của Tập án cái đình sẽ ít thấy được đây là một chủ đề cô đọng nói về "trung tâm tín ngưỡng, văn hoá, hành chính của cái đình làng quê", có sức hấp dẫn bạn đọc, đã được Ngô Tất Tố tinh tế tiếp cận hiện thực ở những vấn đề điển hình nhất với giọng văn hài hước, trào lộng, đã sáng tác bằng "thể loại mới là phóng sự" nhằm góp phần xây dựng "nền quốc âm mới viết bằng tiếng mẹ đẻ" còn đang ở thời kỳ "vừa nhất sơ thành lập". Với kiến thức xã hội học và sử học sâu rộng, tác giả chứng minh rằng cái đình có từ đời Lý, sau đó đình trở thành, trước hết là trung tâm thờ cúng thần hoàng, hoặc thờ cúng các sự vật linh thiêng của tự nhiên; Thờ cúng các bậc có công với cư dân thôn làng để tri ân và tỏ lòng trân trọng "uống https://thuviensach.vn nước nhớ nguồn", các nhân vật ấy được thờ cúng ở làng quê như ông vua, "ông vua" ấy tuy rằng đã chết nhưng có sắc mệnh tước phẩm của vua ban cho thì cũng như đang sống cùng dân làng. Chính vì thế mà dân quê phải kiêng tên Thành hoàng nghiêm khắc như lệ kiêng tên húy của nhà vua. Việc cúng tế thành hoàng cực kỳ kính cẩn và long trọng, việc lựa chọn người thủ từ coi việc đèn hương cũng rất quan trọng với các quy định rất nghiêm ngặt. Có nơi đình còn biến đổi thành nơi thờ cúng "các sự kiện, các nhân vật" có sự tích, có quan hệ trực tiếp đến đời sống dân quê sở tại. Đình làng vừa là nơi thờ cúng vừa được làm trung tâm hành chính của thôn làng, là nơi tụ họp ăn uống theo ngôi thứ sắp xếp ở chốn đình trung. Những hủ tục phiền phức ở chốn đình trung, theo tác giả, đã biến cái làng cổ xưa thành một triều đình phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, điều tệ hại hơn cả là trong dân làng hình thành tâm lí rất có lợi cho việc cai trị mà rất hại cho tư cách dân thường là suốt đời chỉ ao ước, mơ mộng vào cái "ngôi ăn chốn ở" nơi đình trung, chỉ biết "có làng" mà không thấy "có nước". Tác giả đã du hành qua các thôn làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ để miêu tả những điều tai nghe mắt thấy và những cảm xúc xung quanh cái đình, các tục lệ, các hủ tục cỗ bàn cúng tế nơi làng quê. Phóng sự Tập án cái đình kể lại sự thật, một chuỗi sự kiện và cảm xúc của tác giả xoay quanh chủ đề "cái đình ở làng quê" cùng với tục lệ ăn uống cúng tế ở làng quê nước ta, trước hết tại đồng bằng Bắc Bộ, nơi cộng đồng cư dân chuyên canh lúa nước và chăn nuôi lợn. Con lợn là vật nuôi chủ yếu, gắn bó với cuộc sống của dân quê. Mở đầu phóng sự, tác giả nói ngay đến tục lệ hàng năm phải cúng thần bằng "ông ỷ" với nhạc khí uy nghiêm là cái trống cái, sau đó tác giả tả "cuộc thi giết bốn lợn" tại "làng Th.L - gọi là "làng Dâm" - của tỉnh Phúc An", rồi đám phạt vạ một "quan đám" "mất ba lợn, được một trai" vì phạm lỗi "vợ hai" có chửa khi còn đang làm thủ từ tại làng Th.S thuộc huyện Tiên Du, https://thuviensach.vn rồi đến cuộc tế lễ để xếp bậc trên dưới "lợn anh, lợn em" của làng Th.C huyện Gia Lâm. Liên quan đến tập tục thờ Thành hoàng, tác giả tỉ mỉ kể nghi tiết về sinh hoạt, về sự tích của vị thần thờ trong làng lúc mới vào đám "đánh đuổi lốt bệt", "đánh đuổi thần hoàng" tại thôn T. làng V.L., rồi theo dõi cuộc tế xử phạt thần hoàng làng vốn làm nghề "đạo chích" ở T.D. huyện Văn Lâm tới việc thờ "ông Cuội" mắc tội nằm dưới cầu nhìn đàn bà con gái mặc váy đi trên cầu ở huyện N.S tỉnh Hà Nam. Từ việc trong lễ cúng chỉ lên giọng đọc to tên các món ăn để tế ông Thành hoàng làng "mù mắt" ở tỉnh Hà Đông, rồi đến nghi lễ về "miếng thịt chùi dao" khi thái thịt "ông ỷ" để làm lễ ở làng D.L. Bất ngờ là tục làm cỗ thết đãi các cụ "đánh chén" tại các "phiên chợ lợn" ở xã Cổ Loa "...Đã có điều lệ nhất định, mỗi mâm phải tám thứ nấu, tám thứ giò, nem, chả, lòng, thịt, tất cả cũng tám thứ nữa. Cộng trong một mâm lớn, nhỏ hai mươi bốn thứ...", để các cụ "ăn riêng", khi ăn phần ai người ấy gắp, cả mâm chỉ chung nhau một bát nước mắm. Ngạc nhiên là cỗ bàn cúng tế tại một đám tang với đủ cả thịt rượu, tổ tôm, thuốc phiện, đàn sáo, kèn nhị réo rắt, nhưng "vừa tế vừa ngủ", "hiếu chủ" phủ phục trước hương án rồi ngủ ngáy khè khè! Về phóng sự Dao cầu thuyền tán Không phải ngẫu nhiên mà từ những năm phải đắn đo chọn lựa giữa nghề làm thuốc và nghề dạy học trước thảm cảnh nền giáo dục Hán học hoàn toàn sụp đổ, nhất là từ năm 1933, mở Thọ dân y quán, với tư cách là người trong cuộc, không cần phải đi thâm nhập thực tế hoặc gián tiếp nhờ người khác kể lại< Ngô Tất Tố đã sáng tác phóng sự Dao cầu thuyền tán gồm 5 phần, đăng gọn trên báo Công dân từ số 9 - ngày 20.11.1935. https://thuviensach.vn Phóng sự Dao cầu thuyền tán đã vạch trần thủ đoạn đen tối và tập trung đả kích quyết liệt vào bọn lang băm bịp bợm, vừa làm thuốc, vừa làm chủ nhà săm, vừa cho thuê đòn đám ma. Vận dụng kiến thức sâu rộng về y học hiện đại để nghiên cứu Đông y, Ngô Tất Tố chỉ rõ: "Thuốc Tàu tuy là môn thuốc rất hay nhưng những người soạn ra sách thuốc đều chưa biết khoa học là gì, họ đem thuyết "âm dương ngũ hành" mà làm cho nghề thuốc của Tàu và của ta phải mờ ám như một môn huyền học. Bây giờ phải đem những thứ dược vật học, sinh lý giải phẫu học, bệnh lý học< mà bồi bổ cho khuyết điểm ấy< Giả sử chúng ta có một phòng thí nghiệm tính chất của thuốc Bắc và thuốc Nam và một trường học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu nghề thuốc Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở xã hội thầy lang mới trừ bớt được" (Trích bài viết trên báo Công dân, số 5 ngày 23.10.1935). Mỗi câu chuyện trong Tập án cái đình, trong Dao cầu thuyền tán cùng với những câu chuyện trong Việc làng, đã bổ sung cho Tắt đèn, tạo dựng nên tấm gương phản chiếu về cuộc sống của dân quê, về toàn cảnh quê hương của tất cả mọi người dân nước Việt, một dân tộc và đất nước đã tồn tại, đã gắn bó biết bao đời với sản xuất nông nghiệp. Các tập phóng sự còn giới thiệu với bạn đọc những hiểu biết về cội nguồn, về lai lịch các vấn đề được miêu tả, người đọc luôn luôn cảm nhận được chính kiến - lúc thì mềm dẻo, khi thì rất mực kiên định của tác giả trước sự đời, việc đời và thái độ của tác giả phủ định mạnh mẽ đối với nhiều mặt cơ bản của xã hội phong kiến. Phóng sự của Ngô Tất Tố đã cô đúc nhiều bài học thiết thực và sinh động về tâm huyết, về trí tuệ, về nghệ thuật sáng tác, góp phần quyết định, thôi thúc cho những ai da diết nuôi dưỡng niềm đam mê theo đuổi "nghề viết phóng sự" vô cùng vất vả nhưng hết sức sống động trong làng báo, làng văn. https://thuviensach.vn Mùa hạ - 2017 Cao Đắc Điểm & Ngô Thị Thanh Lịch https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com Phần Thứ Nhất - A. Tập Án Cái Đình - I. Khao Làng Cho Lợn Bằng Một Bữa Tiệc Rau Nộm ... (kiểm duyệt hồi Pháp) (1)... Hãy cứ đến làng tôi, các anh sẽ được như ý. Mỗi khi gặp tôi, ông Ng. Tr. L. (2) thường nói câu đó để hả bớt sự uất ức chứa chất trong tâm can. ----- (1) Không thể tìm ra tài liệu để khôi phục lại nội dung đã bị kiểm duyệt Pháp cắt bỏ nên từ đây xin được ghi gọn là (kiểm duyệt) theo đúng như văn bản lưu trữ tại thư viện. (2) Ng.Tr.L. tức Nguyễn Triệu Luật. Không phải bị ai trong làng ăn hiếp mà đến phát phẫn. Cái uất của "cuốn tự điển sống" này chỉ là những món "hương hồn" "hương túy" tồn tích trong làng D. L. ... (kiểm duyệt)... Theo lời ông L ... (kiểm duyệt)... https://thuviensach.vn Ngày nay, cái ngôi bá chủ của làng ấy hoàn toàn thuộc về họ Nguyễn của ông. Với làng này, họ ấy thật không khác gì đồng bào Kha Luân Bố với các dân tộc châu Mỹ. Các ngài đọc sử chắc đã nhận thấy sự hiển hách của ông Nguyễn Thực làng V.Đ. Họ nhà ông nguyên là dòng dõi vị quận công ấy. Đời Lê trung hưng, văn vận của họ này có thể tưởng như chói một góc trời. Cha đỗ, con đỗ, anh đỗ, em đỗ, cháu đỗ, chắt cũng đỗ nữa, trong nhà nhan nhản những ông Nghè là ông Nghè. Nếu lấy khoa cử làm mực cho sự thịnh vượng của các gia tộc, thì như thế kể đã thịnh vượng lắm lắm. Nhưng mà đến khi sơn hà nhà Lê tan nát thì cái văn mạch của làng V.Đ. cũng bị tắt liền. Và nó chạy tuột sang làng D.L. Tôi không rõ ông Kha Luân Bố của họ ấy là ai. Nghe như cái khi ông đó bỏ nơi chôn nhau cắt rốn mà đến làng D.L. nhằm khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn gì đó. Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư phải tam đại mới được thành tổ. Nghĩa là từ đời ông gia nhập làng nào, thì đến đời cháu mới được hưởng đủ quyền lợi như những nguyên dân làng ấy. Nhưng, chi nhà họ Nguyễn đã phá được cái lệ ấy của làng D.L. Là vì họ này tới đây mới có hai đời đã có mấy ông thi đậu hương cống (3). Thế rồi, từ đó trở đi, văn vận họ này cứ bốc đùng đùng như lửa. Hẳn ai cũng biết danh tiếng ông Nguyễn Tư Giản, một ông Hoàng giáp hay chữ nhất triều Tự Đức, đã được vua ấy cho tên là Nguyễn Văn Phú? https://thuviensach.vn Người ta nói rằng: họ Nguyễn V.Đ. ra ở D.L. đến ông ấy mới có độ ba, bốn đời. Kế thế hữu hoàng giáp, Toàn gia vô bạch đinh (4). ----- (3) Hương cống: Cử nhân từ đời Gia Long trở về trước. (4) Đời này qua đời khác đều có người đỗ đạt cao. Cả nhà không ai là dân thường. Đấy là hai câu của vị danh thần ấy viết ở chỗ ngồi chơi mà ngày nay nhiều người vẫn còn truyền tụng. Bấy giờ một ông Bố chánh Nghệ An đã dùng điển tích vẻ vang của cha con Tô Thân và anh em Tống Kỳ mà mừng nhà ấy như vầy: Tam Tô phụ hảo, nhi tư hảo, Nhị Tống huynh nghi, đệ cộng nghi. Phải! Cảnh nhà họ Nguyễn hồi này, thật đã xứng đáng với đôi câu ấy. Các ngài chắc đã nghe qua hai câu sau đây của họ Vũ Mộ Trạch khắc ở nhà thờ: Cao, tằng, tổ, khảo dĩ lai, thập bát trạng nguyên tam tể tướng; Đinh, Lý, Trần, Lê nhi hậu, bách dư tiến sĩ ngũ phong hầu (5). ----- https://thuviensach.vn (5) Kể bốn đời, từ đời cha về trước, đã có mười tám trạng nguyên, có ba tể tướng. Kể từ đời Đinh, Lý, Trần, Lê về sau, đã có hơn một trăm tiến sĩ. Sự phát đạt của họ Nguyễn D.L. tuy không thấm vào đâu với những câu này, nhưng so với các vọng tộc khác, có lẽ cũng đứng vào bậc hiếm có. Phú quý ở đâu, trung tâm điểm của uy quyền ở đó, công lệ trời đất là vậy. ... (kiểm duyệt)... Thì hãy nghe mấy tiếng xưng hô của xứ ấy. Theo đúng chế' độ phong kiến, người dưới nói đến người trên chỉ được kêu chức, kêu tước, không được động đến họ tên. Ví như trong đời Lê, nói đến vua Lê, người ta dùng tiếng nhà vua, nói đến chúa Trịnh, người ta dùng đến tiếng nhà chúa, không cần động đến chữ Lê, chữ Trịnh, nếu động đến hai chữ ấy là thiếu kính trọng rồi. Họ Nguyễn D.L. tuy chẳng làm vua, làm chúa nhưng có nhiều người làm quan. Bởi vậy đối với họ này, hết thảy những người họ khác ở làng ấy đều dùng hai tiếng quan họ. Nói quan họ người ta hiểu ngay là họ Nguyễn rồi, không phải dùng đến chữ Nguyễn nữa. ... (kiểm duyệt)... Ông Ng.Tr.L. đã bị liệt vào hạng người điên. Bởi vì ông ấy chỉ muốn cố lấp cho bằng cái rãnh ở giữa quan họ với con nhà bách tính. Có lẽ điên thật. Nếu không cớ sao ông ấy lại không thích hưởng những cái quyền lợi địa vị đặc biệt của người ta để dành cho mình? Nhưng mà hình như cái điên ấy của ông L. đã thành cố tật, không thể chữa được, cho nên luôn luôn ông ấy cứ đem hương hồn, hương túy để làm https://thuviensach.vn đầu đề cho câu chuyện bông đùa. - Nhược tiểu dân tộc ở làng tôi mới được một cuộc giải phóng rất lớn. Một hôm ông L. tươi cười nói với tôi thế, giữa khi chúng tôi nằm trong phòng tối để nghe cái cảnh Hà Nội tắt đèn. - Nhà thờ của họ đã được dùng đến cái trống cái. Và, không để cho tôi nói xen, ông L. lại cắt nghĩa bằng giọng nghiêm trang: - Anh phải biết rằng: Trước đây, cái trống cái ở làng D.L. tức là nhạc khí riêng của quan họ nhà tôi. Chỉ có nhà thờ đại tôn tiểu tôn của quan họ nhà tôi trong khi cúng lễ mới được đánh trống, còn các nhà thờ của bọn bách tính thì phải cúng ngầm, không được dùng trống phách gì cả. Gần đây mới có một họ bắt chước quan họ sắm cái trống cái treo ở nhà thờ, mỗi lúc cúng lễ, họ cũng khua trống om sòm. Đáng lẽ thì cái họ ấy bị phạt và phải hủy cái trống đi rồi. Vì một cụ trong quan họ nhà tôi cho sự đó là chuyện quan hệ, nó có thể khiến cho nhà thờ bách tính và nhà thờ quan họ không khác gì nhau. May sao lại có ông khác quá thiên về mặt dân chủ, hết sức phản đối thuyết của cụ đó, cho nên họ bách tính ấy mới được thoát tội. Hú vía cho họ! Tôi còn phân vân chưa bình phẩm câu nào, thì ông L. lại tiếp: - Chỉ có một việc đánh trống, anh cũng đủ thấy quan họ chúng tôi khác lũ bách tính lắm rồi. Tuy vậy, dưới sự chi phối của chúng tôi, lũ bách tính đó cũng còn có quyền tự do. Hạn tắt đèn đã hết, trong phòng lại có ánh sáng. Với nụ cười cay chua, ông L. chuyển câu chuyện sang một đoạn khác: - Tự do ăn rau nộm. https://thuviensach.vn Rồi ngồi phắt dậy, ông ấy kể thêm: - Làng tôi cũng như hết thảy làng khác, mỗi năm phải có một con lợn ỷ cúng thần. Ỷ của làng tôi không hùng vĩ bằng ỷ làng Yên Khê, nhưng trước kia, cũng phải hai tạ. Cái này thì quan họ cũng như bách tính. Lần ngôi chi thứ, người nào đến tuổi nuôi ỷ cúng thần, tất nhiên phải nuôi, dù là quan họ cũng không được trừ. Công việc nuôi ỷ thì chẳng có gì long trọng vì nó là việc nuôi một con lợn. Nhưng đến cái lễ xem ỷ thì quan trọng lắm. Năm nào cũng vậy, lệ ấy nhất định vào ngày 23 tháng chạp. Cách sáu ngày nữa thì người nuôi ỷ phải rước ỷ ra đình để làng giết thịt cúng thần. Vì vậy bữa đó, các bàn trong làng nhất tề tới nhà sự chủ - nói là khổ chủ thì đúng hơn - tới nhà khổ chủ để xem ỷ có béo tốt hay không. Ý nghĩa của tiếng xem ỷ chỉ có như vậy. Nhưng, đối với thôn quê, xem bằng mắt chưa đủ, người ta còn phải xem thêm bằng miệng. Nghĩa là chủ nhà phải thết dân làng một bữa, thì lễ xem ỷ mới là hoàn thành. Không phải giò, nem, ninh, mọc gì cả; bữa tiệc ấy chỉ có rau nộm với rượu và cơm mà thôi. Có điều thứ rau nộm này khác hẳn với rau nộm thường. Người ta đã dùng thịt lợn thái chỉ trộn với cuống giá và rau muống luộc. Trong một bát đến bảy phần thịt, rau và giá chỉ có ba phần. Dân làng bước vào đến cổng sự chủ, công việc đầu tiên là phải ngó vào chuồng lợn, để khen vài câu, rồi mới vào ngồi trong nhà. Thế là năm người một cỗ, theo bàn mà ngồi. Nhà chủ liền đệ vào giữa, một mâm đũa bát và một chậu rau nộm. Như thế tức là đủ lệ của làng, người nào muốn thêm thức gì là do hảo tâm của họ. Rau hết lại sức, rượu hết lại rót, ai cũng ăn uống cho đến no say thì thôi. https://thuviensach.vn Làng tôi có mười sáu bàn, mỗi bàn hai mươi bốn người. Những như thết làng một bữa, cũng đủ hại cho người ta. Huống chi, ngoài những người có chức sự trong cuộc xem ỷ, lại còn anh em họ mạc đến giúp. Bất kỳ ai, hễ trong ngày ấy, bước chân vào đến nhà ấy là phải có rượu và rau nộm. Những nhà chật hẹp, người ta ngồi ngổn ngang khắp cả xó bếp, đầu thềm. Nhiều khi không cần đến mâm, mỗi người chỉ một lọ rượu và một chậu rau là đủ. Tôi đã mục kích những cảnh tượng đó, và không biết gọi nó là cảnh tượng gì. Nên tôi phải gọi tạm là cảnh tượng thất nghiệp. Bởi vì, lắm người lo xong một tiệc rau nộm để khao làng cho con lợn ỷ của mình thì phải hết cả cơ nghiệp. Tôi không thể nhịn cười: - Sao anh không cố cổ động cải cách cái tục ấy đi? Ông L. cũng cười: - Nó đã thành cái thiên kinh địa nghĩa (6) ở làng tôi rồi, cải cách làm sao nổi. Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 19 - 11.10.1939 ----- (6) Thiên kinh địa nghĩa: Đạo thường của trời, lẽ phải của đất, xưa nay không bao giờ thay đổi được. https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com II. Mỗi Năm Một Lần Đánh Đuổi Thành Hoàng Mới vắng mùa xuân bốn ngày, trời đất đã thấy khác hẳn. Hai tiếng "lò cừ" của Cung oán ngâm khúc có lẽ chỉ để chỉ vào vũ trụ hôm nay. Hôm nay ông thần Hạn bạt (1) đã báo thù trần gian một cách tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất tuy không chảy mỡ, nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt. ----- (1) Thần Hạn bạt: Thần làm nắng. Bãi cỏ vệ đường lúc này đã thành ra vật cần dùng cho khách bộ hành. Nhờ nó, gót chân những người không dép không giày cũng bớt rát bỏng. Chỉ mấy ông nông phu là đáng kính phục. Mắt họ đã không thể mở vì bồ hôi tràn trụa chảy qua, miệng họ đã phải há ra để giữ lấy sợi quai nón, vai họ đã phải ỏe xuống để đỡ lấy chiếc đòn gánh nặng nề, nhưng, đôi ống chân của họ vẫn thay lượt nhau cất nhẹ nhàng và nhanh chóng. Theo họ, đem hết năng lực, nghị lực chiến đấu với con quạ vàng, chúng tôi đã tiến vào cổng thôn T. với sự sung sướng của một người qua bể cát. Cái làng nhà quê vùng bể dâu phải là thế giới vàng trong câu vịnh chùa của Tống Huy Tông? Vậy mà trước mắt chúng tôi, ngọn tre, lá chuối, https://thuviensach.vn tường đất, mái tranh, gì gì cũng vàng tất cả. Sau nửa tiếng đồng hồ nấp dưới bóng rợp cây đa, để lau cho ráo bồ hôi, và nghỉ cho tinh con mắt, ông P. - một người đưa đường của tôi - dẫn tôi vào nhà người quen ông ấy. Chúng tôi chờ coi cảnh tượng buổi tối. Mồng bốn tháng tư. Tối nay, năm thôn của làng V.L. tề tập cả ở thôn T. Để diễn một cuộc đánh đuổi thành hoàng. Thiên hạ đồn rằng vui lắm. Ai mà không phải ngạc nhiên, khi nghe ở vùng nông thôn quê có chiến tranh kiểu này. Phải! Trong lũy tre xanh, thành hoàng làng nào tức là vua của làng ấy. ... (kiểm duyệt)... "Không hình không bóng", đó đều là những đấng thiêng liêng luôn luôn ngự ở đầu họ, vai họ, có thể làm oai làm phúc cho họ. Vì vậy, họ đều thành thực kính sợ, không dám dị nghị điều gì. Thì đến những con lợn ỷ nuôi để cúng những đức vua ấy, họ còn kính trọng mà tôn làm ông làm người, huống chi bản thân các ngài, khi nào họ dám động tới? Thế thì cớ sao lại có cái làng dám đánh dám đuổi thành hoàng? Hay là làng ấy đã cách mệnh với thần giới? Các ngài sẽ hỏi như vậy. Thưa không! Cuộc trị an của chư thần, đâu cũng như đâu, vẫn vững như núi Thái Sơn, trận đánh đuổi đó chỉ là ván trò diễn lại ở một võ công oanh liệt của đức thành hoàng làng ấy. Nhưng không phải là chuyện dẹp giặc dẹp cướp, cái võ công này là võ công của... me - xừ Toóng. https://thuviensach.vn Chúng ta đã thường thấy trong sách Tàu: Chú cai phu có thể làm vua nhà Hán, anh bợm bạc có thể làm vua nhà Tống, thằng nhỏ của chùa Hoàng Giác có thể làm vua nhà Minh, và vô số những ông cắn cơm không vỡ, chỉ nhờ cái thi đẻ vào nhà vua mà nghiễm nhiên ngồi trên ngai vàng, cố nhiên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy những ông chết đói, chết rét, những ông ăn cướp ăn trộm ngang nhiên được làm thượng đẳng phúc thần. Nhưng đến cái ông "bốn cẳng" mà cũng được làm thành hoàng, thì thật là việc gia ân rất đặc cách! Là vì, nghề làm thành hoàng cũng phải có đủ điều kiện. Điều kiện cốt yếu của các vị thành hoàng tức là bốn chữ "hộ quốc tý dân", các sắc bách thần đều thế, dù là sắc của những ông thành hoàng chết đói chết rét, ăn trộm, ăn cướp mặc lòng. Me-xừ Toóng có thể hộ quốc tý dân được chăng? Tôi đã tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy trong nhiều cuốn công đức lục của các đấng tiên liệt họ Toóng. Nhân hậu hơn hết, chỉ có ngài Toóng trong truyện liêu trai. Ngài ấy quán ở Triệu Thành bên Tàu. Vì trót ăn thịt con trai của một mụ già vùng ấy, ngài ta mới bị quan huyện sở tại bắt làm con nuôi bà kia, để sớm hôm nuôi cái thân già cô độc. Ngài ấy bằng lòng, và liền bắt hươu, bắt nai, ăn trộm vàng bạc, gấm vóc tha về cho bà mẹ nuôi. Rồi khi bà lão tạ thế, ông con nuôi này còn về tận mả gầm gào một hồi. Người ta bảo đó là ông cọp khóc mẹ. Vì vậy, người ở miền ấy mới lập ngôi nhà thờ ngài, họ gọi là đền Nghĩa Hổ. Ngoài đức Toóng ở liêu trai, loài Toóng chỉ có hạng hay ăn thịt người. Thuở xưa mẫu quốc chưa biết lo về nạn nhân mãn, chắc rằng người ta không coi việc đó là việc tý dân hộ quốc. https://thuviensach.vn Vậy mà ông Toóng V.L. cứ được làm vua năm thôn! Thì ra trong nước Việt Nam, cái gì cũng có đặc ân được cả. Tôi không biết trong đạo thần sắc của ngài, phong ngài làm "gì đại vương". Chỉ biết người trong làng ấy đều kiêng tiếng "hổ", họ gọi tránh đi là "hể", cũng có người gọi là ông Ba mươi, hay là quan tướng năm dinh... Cái miếu để thờ vua Hổ ở đây nghiêm lắm, nghiêm như một nơi cung cấm. Trừ ông thủ từ là kẻ cận thần của ngài, người làng không ai được ngó mắt vào. Những người đi qua trước miếu đều phải ghé ô, ghé nón. Nhờ có một ông đàn anh trong làng làm người hướng đạo, chúng tôi đã được chiêm yết cái hành doanh của Hổ đại vương. Nó là năm gian nhà gạch lối cổ nhiều bề rộng mà ít bề cao. Giữa tiết trời hè, trong nhà vẫn tối om om và ẩm rờm rợp. Bước vào trong cửa, tôi tưởng như bước vào trong hang núi. Dưới lớp mái ngói, đầu xà mối kẻ quanh những con cốn, con trồng, long, ly, quy, phượng nằm chen nhau với cúc, trúc, thông, mai để làm chỗ chứa đựng cát bụi. Mạng nhện chăng chít như những chiếc võng chăng từ đầu cột nọ đến đầu cột kia. Cứt chim sẻ rơi xuống dưới sàn trắng xóa. Lòng miếu chia làm ba ngăn. Hai ngăn bên đều có lát ván, chừng để làm nơi dân làng họp hành, ăn uống. Ngăn giữa tức là ngự doanh của Hổ đại vương. Vì có bức mành hoa thườn thượt từ trên mái nhà buông xuống, chỗ này có thể gọi là hai lớp. Lớp ngoài, không hiểu là để làm gì. Ngự tọa của Toóng đại vương thì ở lớp trong, cái lớp bị bức mành mành che kín, người làng gọi là hậu cung. - Chết nỗi! Hậu cung là chỗ thâm nghiêm, ngoài tôi ra không ai dám bước chân vào. Các ngài không nên coi thường. Đức thượng đẳng làng tôi https://thuviensach.vn thiêng lắm, người nào vô ý sẽ bị Người vật chết tươi. Ông thủ từ nghiêm nghị nói với chúng tôi như thế khi chúng tôi yêu cầu ông ấy cho vào xem trong hậu cung. Bằng một giọng khẩn khoản thiết tha, chúng tôi phải nói dối là rất thành kính, rất thanh tịnh và cam đoan rằng nếu Người vật chết chúng tôi xin vui lòng, bấy giờ ông ta mới chịu khúm núm thắp đèn đốt hương làm lễ, rồi rụt rè hé bức mành mành cho vào. Chúng tôi tưởng như mình đi xuống âm cung, vì cái hậu cung của Toóng đại vương tối như hũ nút và hôi như tổ cú. Nào có gì lạ đâu! Trước ánh sáng lù mù của ngọn đèn dầu, ta chỉ thấy một cái bệ gạch sứt sở đột ngột nổi ở chính giữa. Trên bệ một cái bình hương, đầy ụ chân hương. Và ở trước cái bình hương, một vật đỏ đỏ xanh xanh sùm sụp úp xuống mặt bệ, coi chẳng khác cái đầu sư tử tháng tám. - Đấy là lốt "bệt". Ông thủ từ cắt nghĩa như vậy trong lúc ông ta đã đưa chúng tôi ra ngoài mành mành và lên trên sàn ngồi chơi. Chúng tôi không hiểu và cố hỏi cho hiểu: - Bệt là cái gì, thưa ông? Ông thủ từ mỉm cười, ra bộ kiêu ngạo: - Tôi tưởng các ông nhà báo thì biết nhiều tiếng. Té ra hai ông không biết tiếng ấy ư? Lốt bệt tức là cái lốt bằng giấy làm giống hình người. Lát nữa, coi dân làng tôi đuổi bệt các ông sẽ thấy. Như sợ chúng tôi không nhận sự long trọng của cái lốt bệt, ông ấy nói thêm: https://thuviensach.vn - Tiếng rằng nó là đồ mã, nhưng cũng là vật sự thần, vì vậy, từ xưa đến nay, không bao giờ làng dám mua bán bằng cách cẩu thả. Hàng năm cứ đến hai nhăm tháng ba, cụ trưởng lễ và bốn ông hương trưởng làng tôi phải sửa trầu rượu ra đình làm lễ, xin đi thửa bệt. Luôn trong bữa ấy, cả năm ông đó lại đem một trăm quả cau đến nhà một người thợ ở làng bên cạnh, bảo họ làm lốt. Người thợ mã nhận số cau ấy, liền phải đặt lên bàn thờ cúng tổ sư, rồi mới nhận lời các cụ làng tôi. Trong lúc đan hom, dán giấy, người thợ mã phải tắm rửa sạch sẽ, ăn chay, không được gần vợ, gần con. Nếu không thế, tất nhiên bị Người quở phạt. Năm xưa, có người thợ mã đương làm công việc nhà thánh, thình lình thấy trời đổ mưa, cả nhà đi vắng, anh ta phải chạy ra sân cất cái xống (2) nâu cho vợ. Đáng lẽ, hắn dùng nước gừng tẩy uế cái tay thì không sao cả. Nhưng anh ta vội quá, cứ để bàn tay uế tạp lại vào cắt giấy. Tức thì Người cho một trận đau bụng lăn giường trên xuống giường dưới, tưởng như sắp chết đến nơi. May sao người vợ vừa về. Chị ta vội vàng sắm sửa trầu rượu, thiết lập bàn thờ giữa sân, kêu khấn với Người, bấy giờ anh ta mới khỏi. Các ông coi đó, việc quỷ thần có phải chuyện chơi? ----- (2) Xống: Cái váy. Nghe nói ông cọp luôn luôn ăn trầu uống rượu, chúng tôi đã suýt phì cười, phải cố nhịn mãi mới giữ được vẻ mặt tự nhiên. Chờ cho ông thủ từ dứt mạch, tôi lại hỏi tiếp: - Thần tích làng ta ra sao? Ông có thể nói cho chúng tôi biết chăng? Ông thủ từ lắc đầu một cách quả quyết: - Cái đó không sao được! Bởi vì sự tích của Người vẫn cất ở trong hòm sắc, cả làng tôi không ai được coi, chính tôi cũng không được biết ra https://thuviensach.vn sao. Vả chăng, sự tích của Người, xưa nay làng tôi vẫn giữ bí mật, dù có biết nữa, tôi cũng không dám nói ra. Rồi ông ấy cáo từ chúng tôi, đứng dậy sắp sửa mũ áo, vì giờ đuổi bệt đã đến. Trời tối, trẻ con tấp nập chạy nháo quanh đình với những tiếng hò reo vui vẻ. Trong đình nổi một hồi trống cái, xen với hồi chiêng, ông thủ từ xúng xính mũ áo thụp xuống lòng đình lễ đủ bốn lễ, rồi thụt vào trong hậu cung. Tám, chín ông khác đứng ngoài đồng thời lạy vào. Kẻ đã ngay lưng đứng lên, người mới cúi đầu gục xuống, cảnh tượng giống như lũ phu bổ củi. Cánh đồng trước đình bỗng nghe có tiếng ầm ầm và thấy bóng lửa bốc lên sáng rực. Ánh lửa mỗi lúc mỗi rõ thêm, tiếng ầm ầm mỗi lúc mỗi gần lại. Một lát sau, hàng trăm bó đuốc đùng đùng chiếu vào cổng làng với những hàng gậy tre nghênh ngang ở trước ánh lửa. Người đâu mà nhiều dữ vậy! Họ đi hàng ba, hàng tư, hàng năm, một lũ dài kéo vào cửa đình, chẳng khác một đám quân chạy. Trống cái trong đình thúc mau như trống hộ đê. Tù và thổi liên thanh bất chỉ. Đám người cầm đuốc tức thì rẽ ra hai hàng và đứng thẳng băng trước đình như hai dãy cột đèn, làm cho sân đình thành một đoạn đường cái. Mấy trăm gậy tre nhất tề vừa múa vừa theo đoạn đường giữa hai hàng đuốc nhảy vào cửa đình. Hình như những người múa gậy đều có luyện tập. https://thuviensach.vn Nếu không làm sao bấy nhiêu chiếc gậy cùng múa mà không chiếc nào đụng vào chiếc nào? Đuốc vẫn cháy nỏ, trống cái vẫn thúc rền, tù và vẫn thổi dữ, đám gậy hùng dũng xông vào lòng đình, tiếng người reo như xô mái ngói. Bỗng như bị vật gì ngăn cản, mấy trăm người và mấy trăm gậy nhất tề chạy ra chỗ cũ như một đàn vịt bị đuổi. Trống cái, tù và lại thưa. Các gậy lại thi nhau múa. Rồi, lại như trước, trống cái lại thúc mau, tù và lại thổi dồn. Đám gậy lại sầm sập tiến vào lòng đình và lại ù té chạy ra giữa những tiếng hò reo vang trời dậy đất. Tôi đương lo rằng cái trò "thả chiến thả tẩu" (3) diễn đến bao giờ cho rồi, thì đội quân đánh gậy đã lại hùng hổ xông vào phía trước hậu cung một lần thứ tư. ----- (3) Thả chiến thả tẩu: Cho đánh, cho chạy. Trước bóng lửa sáng, bức mành mành treo dưới cửa cấm tự nhiên lay động. Một vật xanh xanh đỏ đỏ từ trong hậu cung chồm chồm nhảy ra. - Người ra! Người ra! Người ra kìa! Theo với một hồi vỗ tay, tiếng la "Người ra" ầm ầm như đám chợ vỡ. "Người" là cái mà người làng này vẫn gọi là "bệt". https://thuviensach.vn Đóng vai đội cái lốt bệt là ông thủ từ nói chuyện với chúng tôi vừa rồi. Tuy rằng phải chạy, phải nhảy, có khi phải tế bằng kiểu bốn chân, ông ấy vẫn giữ chiếc áo thụng lam xúng xính. Đám người múa gậy đều dạt ra hai bên đường, đứng lộn với đám người cầm đuốc, nhường quãng đất không cho bệt chạy ra. Giống như người múa sư tử, bệt cứ chạy, vừa nhảy vừa tế bốn chân mà lồng ra đường. Đuốc gậy, tù và, trống cái nhất tề chạy theo với những tiếng reo rầm rầm. Lúc này quang cảnh mới càng náo nhiệt. Trên những ruộng đất cày lổm chổm, lắm người ngã sấp ngã ngửa. Chúng tôi đã sắp đứt hơi vì muốn theo đuổi trò lạ đời ấy cho đến cứu cánh (4). Trong ánh lửa sáng, một tòa đền cổ lù lù hiện dưới bóng cây với những chiếc tréo đao cong rướn. Đám đuốc vừa suỵt tới nơi, bệt liền thụt vào trong đền. Một hồi vỗ tay chấm dấu hết cho một cuộc chiến đấu. Bọn người đuốc gậy lẻ tẻ chia đi các ngả, ai về làng nấy. Chúng tôi vừa thở vừa theo người quen, - ông P. trở về thôn T. Thì ra trong lúc mới rồi, chúng tôi cũng như những người đuổi bệt đã vô tình mà chạy một mạch luôn bốn cây số. Ngủ một đêm, hôm sau vẫn còn thấy mệt. Trước khi từ biệt, ông chủ nhà căn dặn lại chúng tôi: https://thuviensach.vn "Các ông đừng cười. Cái hèm (5) nhà thánh làng tôi như thế. Nếu mà bỏ đi, trong làng sẽ không được yên, có khi sinh ra dịch tễ người chết như rạ". Ngô Tất Tố Báo Con Ong, các số 20, 21, 22 Các ngày 18.10, 25.10 và 1.11.1939 ----- (4) Cứu cánh: Đích cuối cùng. (5) Cái hèm: Trò diễn lại sinh hoạt, sự tích của vị thần thờ trong làng, coi là một nghi tiết lúc mới vào đám. https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com III. Ai Làm Nên Tội - Không thể tha hắn, nếu chúng ta nói đến chuyện cái đình. Một ông túc Nho bảo với tôi thế khi sắp kể cho tôi nghe một vài tục lạ ở thôn quê. Rồi, bằng vẻ mặt bừng bừng tức giận, ông tiếp: ... (kiểm duyệt)... - Hắn là lão Trần Thủ Độ, cái lão đại gian, đại ác, đã lợi dụng sự ngây thơ của cô gái bé con để cướp lấy ngôi nhà Lý ấy mà. Tôi tưởng ông lầm lịch sử, vội vàng ngắt lời: - Cụ bảo ông Trần Thủ Độ dựng lên cái đình trước nhất? Ông lắc đầu một cách quả quyết: - Không! Đâu có! Cái đình của ta vốn là bắt chước của Tàu: trong đời Tần - Hán, hương thôn nước Tàu thường thường có đình cất ở bên đường, năm dặm một cái nhỏ, mười dặm một cái lớn. Khi ấy, cái đình chỉ là cái quán làm nơi hành khách nghỉ chân và chỗ cung ứng những cuộc đưa tiễn. Truyện Kiều đã có nói đến. Như là: "Bề ngoài mười dặm trường đình, Vương ông bày tiệc tiễn hành đưa theo". https://thuviensach.vn Hay là: "Tiễn đưa một chén quan hà Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình". Ấy đó, công dụng cái đình của Tàu ngày xưa, chẳng qua có vậy. Vậy mà đến khi sang ta, nó đã thay đổi khác hẳn. Đến đó, ông tạm ngừng lại để vớ lấy chiếc xe điếu và đặt mồi thuốc vào nõ điếu. Tôi hỏi bằng giọng trịnh trọng: - Thưa cụ, bên ta có đình từ đời nào, cụ có biết không? Thở hết khói thuốc trong miệng, cụ đáp: - Thuở nhỏ tôi có đọc một cuốn sách nói đến chuyện đó, bây giờ quên mất tên sách, nhưng câu chuyện còn nhớ mang máng. Hình như cái đình của ta mới có từ hồi Bắc thuộc. Là vì, hồi ấy nước mình bị làm quận huyện của Tần và Hán, chế độ hương thôn cũng phải theo như của họ. Mấy anh Nhâm Diên, Tích Quang, Mã Viện, Sĩ Nhiếp đem văn hóa nước họ truyền sang bên này, tất nhiên họ phải đem cả cái đình sang nữa. Có điều, cái đình của mình bây giờ, cũng như cái đình của Tàu ngày xưa, chỉ để thợ cày, thợ cấy và người đi đường tránh mưa, tránh nắng, không có thờ cúng gì cả. Cái tục thờ cúng tại đình mới bắt đầu từ đời nhà Lý. Bởi tại nhà Lý sùng thượng đạo Phật nên mới bắt buộc các đình dân gian đều dựng tượng Phật tất cả. Trong hồi ấy, cái đình ngoài việc thờ Phật, còn làm hành cung của nhà vua nữa. ... (kiểm duyệt)... https://thuviensach.vn Những lúc rỗi rãi, các vua thường về quê xem dân cày cấy và xét xử những việc kiện tụng, những điều oan khuất. Mỗi cuộc tuần du như thế, ít ra cũng phải trong một vài ngày mới về. Nếu mỗi lần mỗi bắt dân gian phải dựng một nếp hành tại, thì nó phiền cho dân quá. Nhà vua không muốn dân sự tốn kém vì mình, cho nên đi đến làng nào, các ngài đóng luôn ở đình làng ấy. Vì thế, ở trong các đình mới phải kê sẵn cái sập để cho vua ngồi, người ta gọi là sập ngự và lại treo sẵn những cái hoành biển chúc tụng nhà vua, như là: "Thiên tử vạn niên", "Vạn thọ vô cương", "Thánh cung vạn tuế" v.v... ... (kiểm duyệt)... Cái đó mới thật là vô ý thức. Ngắc lại giây lát, như để lấy hơi, ông lại cất cái giọng hùng hồn: - Song mà trong đời nhà Lý cái đình tuy đã thành nơi thờ Phật và chỗ đón vua, nhưng vẫn chưa phải là chỗ hội họp ăn uống. Dùng đình làm chỗ cho ăn uống hội họp, mới tự lão Trần Thủ Độ. Hắn ta tuy là con nhà thuyền chài, nhưng cũng có tài chính trị. Bởi việc cướp nước nhà Lý bằng cách bất chính, hắn biết rằng người trong nước phần nhiều không chịu phục mình. Thật thế, với tám đời trị dân khoan hồng, ơn trạch họ Lý cũng đáng cho dân ghi nhớ. Thế mà thình lình mất nước một cách oan uổng, cố nhiên họ ấy được dân xót thương, mong cho có ngày khôi phục đất nước. Người ta không phục họ Trần là phải. Tuy rằng binh quyền, chính quyền đều ở trong tay, họ Trần có thể giết chết hết dòng dõi họ Lý để tuyệt mầm vạ nhưng mà không thể giết hết nhân dân. Làm thế nào cho được yên lòng những tay hào kiệt vẫn nhớ họ Lý? Thủ Độ cho rằng những kẻ thượng lưu ai cũng ham danh, chuộng lợi, hắn liền dùng nơi đình trung nhử họ. Một mặt, phong cho những kẻ có công với mình lúc chết được làm thành hoàng, đời đời hưởng sự tế tự trong https://thuviensach.vn đình; một mặt thì hắn bày ra những chuyện hội họp ăn uống, và lại cho phép những người dự có quan tước đều được ngồi ngôi trên, ăn phần hơn, có quyền sai bảo những người ở dưới. ... (kiểm duyệt)... Rồi ông kết luận: - Bây giờ thời buổi văn minh, những cái hủ tục ở đình trung đáng lẽ phải sửa đổi hết thì dân quê mới mong có ngày tiến bộ. Chỉ vì người ta không rõ thế nào, cho nên ít ai chú ý đến chuyện đình điếm. Anh đã làm báo, cũng nên công bố cho mọi người cùng biết... Theo lời ông, tôi đã lăn lóc nhiều năm ở thôn quê. Ngô Tất Tố, Báo Con Ong, số 23 - 8.11.1939 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com IV. Cuộc Thi Giết Lợn ... (kiểm duyệt)... Giữ lời hứa với ông, tôi đem cái ổ hủ bại mọi rợ chắp lại làm thiên điều tra. Ông bảng Đồng Tỉnh nói đúng: chữ "dâm" không phải bậy cả. Làng Th.L. của tỉnh Phúc An tuy không hề nảy ra "hiền" nhưng không khác gì làng khác. Họ cũng sinh nhai bằng nghề cày cấy, cũng biểu lộ cái tính chất phác bằng những áo vải quần nâu. Họ chưa lây những mốt ăn chơi hiện đại, nhất là đàn bà con gái của họ chưa biết lợi dụng son phấn làm tiền như số đông các bà các cô thị thành. Vậy mà họ lại bị gọi là làng Dâm. Thì ra chữ "dâm" ở đây không có nghĩa là chửa hoang, làm đĩ. Tôi đà thân hành tới tận làng ấy bằng cái công trình cuốc bộ năm, sáu cây số sau khi xuống ga xe lửa Xuân Kiều. Không phải cốt vì họ mà minh oan cho cái tiếng dâm. Là để coi một cuộc thi giết lợn. Hồi ấy nhằm đầu tuần giữa tháng giêng, cái tháng mà hầu khắp thôn quê Bắc Kỳ rộn rịp những tiếng chiêng trống. Danh tiếng của cuộc thi ấy tuy không lừng lẫy cho lắm, nhưng có đủ sức lôi kéo tôi tới vùng đó từ chiều hôm trước với một người quen. Vì không tiện ngủ ở làng sở tại, https://thuviensach.vn chúng tôi phải tạm trú tại một làng bên cạnh. Sáng mai gà gáy một tiếng, bạn tôi đánh thức tôi dậy để đi cho kịp cái giờ cuộc thi bắt đầu. Đêm xuân trong xứ Bắc Kỳ, mấy khi không mưa? Nó còn thêm cả gió nữa. Trước sự tàn nhẫn của gió bấc mưa phùn, trời giá như cắt, chúng tôi lần mò qua một cánh đồng không với sự hăng hái của toán lính cảm tử ra trận, để đi sang làng Th.L. Sáng rõ. Sân đình đã thấy tấp nập. Ngoài bọn hương lý quần chùng áo dài, thêm có vô số con nít mắt đầy dử, hình như sáng dậy, chúng vội ra đình chưa kịp rửa mặt. Tiếng trống cái và tiếng trống con ầm ầm thúc ở các ngõ. Những ông hương lý láo nháo chạy ra trước đình, con nít thi nhau hò reo: "Ỷ của quan đám đã ra". Một toán, hai toán, ba toán, bốn toán. Hai phía đầu đình cả bấy nhiêu toán lần lượt tiến vào. Toán nào toán ấy, cờ mở trống giong, linh đình như những đám quan trảy. Đó là bốn con lợn lớn. Thứ lợn nuôi để cúng thần, đã được tôn làm "ông ỷ". Giữa đám lọng xanh, lọng vàng xúm xít bốn "ông lợn" lớn, chõm choẹ ngồi trong bốn chiếc cũi tre, giống như hồi xưa người ta giải các tướng giặc bị bắt. Có điều cũi của tướng giặc ngày xưa chỉ có đanh chốt đóng giữ, còn cũi của mấy ông lợn này thì chằng buộc toàn bằng thừng chạc nhuộm màu cánh sen, coi bộ cực long trọng. Hơn nữa, đằng sau mỗi cũi, lại có một đội âm nhạc đủ cả đàn, sáo, kèn, nhị và một ông già đội mũ tế, mặc áo thụng xanh, cung kính đi hầu. Như đám hàng tổng đánh cướp, trống cái trống con của các toán thi nhau thúc một hồi cuối cùng. Bốn chiếc cũi tre đồng thời được rước vào tận trước đình, và sắp thành chữ nhất. Bằng vẻ mặt rất tự nhiên, cả bốn "ông https://thuviensach.vn lợn" cùng chầu vào cửa đại đạo, không sợ hãi và không ụt ịt một tiếng nào hết. Cờ quạt tàn lọng vừa được dựa lên mái đình hay là cắm vào tổ giá, một đội nồi, xanh ở đâu nhất tề tiến ra với những người khỏe mạnh hung tợn chẳng khác một bọn tướng cướp. Các xanh đều có để bát muối trắng và con dao bầu sáng choang. Các nồi đều đặt vào chiếc quang dài do hai người khiêng lễ mễ. Miệng nồi tuy có đậy nắp, hơi khói vẫn bốc lên nghi ngút, tỏ rằng ở trong có đựng nước sôi. Trong đình nổi một hồi tùng cắc. Ông thủ từ phủ phục phía trước hương án, hai tay giơ lên che miệng và khấn lầm rầm, để cho một lũ ông khác sì sụp lễ theo. Mỗi người vừa hết bốn lễ, ba vái thì tiếng tùng cắc vừa tan. Một ông trong bọn vừa cởi áo thụng vừa chạy ra trước cửa đình để nói một câu rất hách dịch: - Chạ đã làm lễ tỉnh sinh xong rồi. Các quan đám truyền cho gia nhân vào việc đi chứ? Tiếng reo đồng thời nổi lên ồn ồn với những tiếng ti u của các hiệu sừng, hiệu ốc. Trẻ con, đàn bà, những người vô sự hết thảy bạt ra ngoài tường bao lan, nhường khu đất trước đình cho các đội đồ tể. Có thể tưởng như đám quỷ sứ phá ngục, những ông khỏe mạnh hung tợn chực ở chung quanh các cũi hùng hổ xúm lại, kẻ thì dùng dao chặt hết những sợi thừng chạc nhuộm đỏ, người thì chém đanh, chém chốt, tháo hết các then cũi ra. Mỗi cũi chừng hơn mười người sấn vào. Nhanh như cắt, họ túm "ông lợn" lôi ra xềnh xệch. Lúc này đối với con lợn, người ta không giữ lễ độ https://thuviensach.vn như trước. Tựa cái sức mạnh của đông người, họ không cần trói, chỉ giữ bằng bàn tay không, thế mà ông lợn cũng chỉ há mồm mà kêu eng éc, không thể động cựa, dù mà sức lực "ông ấy" to lớn gần bằng con trâu. Cái xanh đựng muối đã được một người xách lấy hai quai và hứng dưới cổ con vật đáng thương. Một người khác xắn gọn hai ống tay áo, lăm lăm cầm con dao bầu đâm vào cổ nó, giữa lúc hai người béo lớn lật đật khiêng nồi nước sôi đi sau, để cho một người nhanh nhảu cầm gáo múc nước giội vào mông nó. Bấy giờ công việc mới càng túi bụi! Tiết ở cổ lợn cứ việc chảy ra lòng xanh, nước ở trong gáo cứ việc đổ vào mông lợn, người bưng cái xanh, người cầm cái gáo, người khiêng cái nồi nước sôi cũng như những người túm bốn chân lợn, đều chạy như bắn. Ra khỏi đầu đình bốn tốp chia ra bốn ngả, tốp nào về nhà chủ lợn tốp ấy. Sao mà tài quá đi mất! Cả đám đều chạy như thế, mà không người nào giày xéo lên chân người nào, tiết lợn cũng không vung vãi ra đất một giọt. Theo sau một đám, để coi cho biết cứu cánh của cuộc tể sát lạ đời, tôi bỗng nghĩ đến cái cáng. Người ta bảo chính vua Quang Trung đã chế ra thứ đồ vận tải ấy. Bấy giờ, quân Tôn Sĩ Nghị đã vào đóng trong thành Thăng Long. Vua Quang Trung muốn gấp đường tiến binh cho kịp đánh họ một trận vào dịp nguyên đán, vì sợ lính tráng họ đi suốt ngày suốt đêm, tất nhiên ai nấy nhọc mệt không đủ sức mà đánh giặc, ngài mới nghĩ ra cái cáng để các quân sĩ cắt lượt nhau hai người khiêng cho một người ngủ. Sách Tàu có một truyện giông giống như thế. Tôi không nhớ là viên tướng nào, chỉ nhớ trong khi gấp đường tiến quân, viên tướng ấy đã bắt quân lính đổ gạo đổ nước vào các xanh lớn, rồi hai người khiêng, một người vừa đi vừa cầm đuốc mà đốt dưới xanh. https://thuviensach.vn "Ừ thì việc binh cần phải thần tốc, người ta mới dùng đến cách vừa đi vừa ngủ hay vừa đi vừa nấu cơm. Chứ việc cúng thần cũng không lấy gì làm cấp bách, sao cái làng này cũng dùng đến cách vừa chạy vừa giết lợn?" Tôi đương hỏi tôi và đương phân vân tìm câu trả lời, nhưng chưa tìm được. - Anh em sắp chày ra! Một tiếng giục giã dữ dội báo cho tôi biết đã tới cổng nhà quan đám! Không biết họ đã cạo lông lúc nào, cái mông con lợn của họ đang khiêng đã trắng phôm phốp cả rồi. Trong sân nhà quan đám đã kê sẵn một tấm phản ngựa, dao, thớt, rổ, rá, bát, đĩa, nồi, chậu la liệt bày khắp chung quanh. Con lợn sau khi bị khiêng qua cổng, liền được đặt huỵch vào phản. Người ta làm việc đúng như nhà thương mổ xẻ người bệnh. Một người khoét miếng thịt mông đã cạo lông rồi quăng ra cái rổ. Hai, ba người khác pha miếng mông ấy làm hai ba mảnh và lọc lấy nạc thái ra. Rồi lại hai, ba người nữa bỏ những thịt ấy vào cối mà giã. Một người cứ múc nước sôi đổ vào mình lợn. Hai, ba người khác cứ việc cầm dao cạo lông. Giữa lúc người này cầm cái sỏ lợn đem luộc, thì người nữa cũng rạch bụng lợn moi lấy lòng gan đem rửa. Hoạt động chưa đầy một giờ đồng hồ họ đã làm xong một mâm cỗ lớn đủ cả giò, nem, ninh, mọc, lục phủ ngũ tạng con lợn và đệ ra đình cúng thần. Mọi người hí hửng cười ran. - Chắc là cỗ của nhà ta được giải nhất. Quan đám vui vẻ bảo với chúng tôi: https://thuviensach.vn - Làng tôi, mỗi năm có bốn đám, mỗi người phải nuôi một con ỷ, cứ đến hôm nay đem ra thờ. Của làng có năm sào ruộng treo giải, hễ ai làm xong trước, và làm được cỗ nhất, nghĩa là cỗ có nhiều món thì sẽ được cấy năm sào ruộng ấy. Kể ra năm sào ruộng không đáng bao nhiêu, nhưng nếu chậm, cỗ bé, thì sẽ mang tiếng với làng nước. Vì thế chúng tôi phải cố. Ông tính một ngày như vậy, nhà tôi cũng phải tốn kém đến hơn trăm bạc, vì lát nữa còn phải mời làng ăn uống một bữa. Như thế, cấy năm sào ruộng của làng một năm đã bù lại được một phần mười hay chưa? Từ biệt ông chủ đi ra, bạn nói cho tôi biết, làng ấy vẫn thờ một ông... tướng cướp. Chỉ có những ông tướng cướp mới có cái kiểu giết lợn... "hỏa tốc" như vậy. Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 24 - 15.11.1939 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com V. Được Một Trai Mất Ba Lợn Hồi còn thời đại khoa cử, tôi đã trọ học ở làng Th.S. trong huyện Tiên Du. Vì nhà trọ kế tiếp với đình làng ấy, nên tôi biết ông Đám Phức. Kể ra, ông già lão này cũng như cái cung thôn trong di hạt của Từ Thức kia, không có vẻ gì đặc biệt. Chỗ đáng cho tôi chú ý, chỉ là cái chức ông đám. Ở thôn quê, đâu mà không có ông đám? Phận sự của viên chức này đại khái chia ra hai hạng. Làng nào có riêng ông từ, ông tế, ông đám chỉ có một việc nuôi lợn cúng thần, người ta gọi là cai đám. Làng nào không có ông từ, ông tế, ông đám tuy không phải vì nhà thánh phụng dưỡng con heo, nhưng phải kiêm lĩnh cả hai chức đó, nghĩa là, ngày thường, ông đám là kẻ trông nom đình đền, khi có đình đám cúng bái, ông đám được xúng xính mũ áo, làm chủ các cuộc tế lễ. Với những làng theo về chế độ thứ hai, địa vị ông đám rất long trọng, dân làng thường vẫn tôn làm quan đám. Tuy không có quyền đối với chính sự trong làng, nhưng điều kiện để làm quan đám có khi nghiệt hơn điều kiện ra làm tổng thống các nước dân chủ. Cũng như các ông tổng thống, quan đám cũng do dân bầu, không có thi cử bổ bán gì cả, nhưng kỳ hạn chỉ có một năm là mãn một khóa, làng lại https://thuviensach.vn phải cử người khác. Cố nhiên ứng cử quan đám không có chương trình để trổ cái tài nói khoác và cũng không phải vận động bằng thuốc phiện, bằng sâm panh hay bằng cô đầu, nhưng phải có đủ tư cách. Một người ngoài năm chục tuổi, không can án, không tàn tật, không có tang chế và không hóa vợ, mới được ứng cử quan đám. Người nào hợp với lệ ấy, làng sẽ bầu cho. Nhưng dù cả làng thuận bầu, cũng chưa là đắc cử. Còn phải đợi mệnh lệnh của thần thánh nữa. Người ta đưa quan đám mới đến trước hương án trong đình làm lễ. Rồi họ bắt quan đám mới một tay bưng một cái đĩa, một tay cầm hai đồng tiền, vừa khấn lầm rầm vừa đặt đồng tiền xuống đĩa như người thầy bói gieo quẻ. Công việc ấy, kêu là "xin keo". Đặt xong một "keo", quan đám mới phải chìa cái đĩa ở trong tay mình cho cả mấy người chứng kiến cùng coi. Hễ hai đồng tiền được một đồng sấp và một đồng ngửa, họ bảo đó là nhà thánh ưng ý, quan đám mới sẽ được thực thụ. Trái lại, nếu nó sấp cả, người ta bảo là nhà thánh ngài gắt, nếu nó ngửa cả, người ta bảo là nhà thánh ngài cười, quan đám mới liền bị bác bỏ, dân làng lại theo kiểu đó mà bầu người khác. Sau khi đắc cử, quan đám phải làm bữa tiệc khao dân, giàu thì mổ bò, mổ trâu, ăn uống linh đình, kiết xác mồng tơi cũng phải cầm đất, cầm nhà, để giết lấy một con lợn mới thành danh quan đám. Lệ luật của làng định cho, quan đám phải theo, trong khi tại chức lại càng ngặt nữa. Bất kỳ là hạng người nào, hễ đã lĩnh chức quan đám của làng thì đầu tiên phải sắm một manh quần đỏ, một chiếc nón lá quai đỏ và một đôi giày hay dép, hoặc guốc cũng được. Không cứ trời nắng, trời mưa hay trời râm, ở trong mái nhà thì thôi, nếu đã bước ra ngoài sân mà đi, dù đi https://thuviensach.vn một bước mặc lòng, phải nhớ đội nón, đi guốc và mặc quần đỏ. Bởi vì quan đám tức là một người luôn luôn ở cạnh nhà thánh, phải kiêng đội trời, kiêng giẫm đất, kiêng mặc đồ trắng. Suốt trong một năm tại chức, quan đám ban đêm phải ngủ tại đình, ban ngày không được đi ra khỏi làng. Ngoài những công việc thắp đèn, thắp hương, lau chùi đồ thờ, quét rũ mạng nhện ở đình và đền, quan đám cũng được cất nhắc việc riêng của nhà mình, nhưng phải kiêng những việc ô uế như gánh phân, gánh tro, hay là giặt dịa, may vá quần áo cho vợ. Người ta cũng cho phép quan đám được dự những đám ăn uống do người trong làng mời đi, nhưng phải kiêng những đám ma tươi và những nhà mới có người chết. Trong hạn tại chức, chẳng may bị có anh em họ mạc qua đời, quan đám dù không bước chân đến cửa tang gia, nhưng chiếu luật, mình phải để trở người bất hạnh ấy, thì phải lập tức sửa một cơi trầu lễ tạ nhà thánh và có lời từ chức với làng, để cho làng bầu người thay chân. Nếu không thế, sẽ bị bãi chức. Một điều đáng sợ hơn hết, ấy là cái nạn vợ chửa. Đã là quan đám, phần nhiều vợ không thể chửa, vì đã già rồi. Chỉ có người nào còn có bà hai, bà ba, thì mới phạm vào điều đó. Nội các luật lệ của làng đã định, quan đám làm trái điều nào cũng bị phạt cả, nhưng các tội khác, người ta chỉ phạt nhè nhẹ. Đến như cái tội vợ chửa, thì phải chịu phạt rất nặng. Bởi vì, nó là tang chứng, tỏ rằng trong khi hầu hạ nhà thánh, quan đám đã dám làm việc ô uế. Với làng Th.S., ông Đám Phức chính là một người đã được dân làng và đức thượng đẳng làng ấy chính thức cho làm quan đám. Tất nhiên ông https://thuviensach.vn phải theo đúng điều luật phổ thông của quan đám mọi làng. Trải sáu chục năm chỉ biết có nghề cày sâu, cuốc bẫm, nhà ông không phải có dư của ăn của để mà cần năm thiếp bảy thê để gỡ lại sự thiệt thòi của cái tuổi răng long đầu bạc. Vì ông sinh con một bề, nên phải đèo bòng một người vợ hai. Cương thừng thắng con ngựa trắng, đáng lẽ là một cách yên ủi tuổi già. Rủi cho ông, thứ phòng cưới về chưa đầy một năm thì ông đã bị bầu làm quan đám. Tôi vào trọ làng Th.S. giữa khi ông mới nhận chức độ vài chục ngày. Bây giờ tuy đã cách hơn ba mươi năm, tôi vẫn chưa quên bộ điệu kính cẩn của ông đối với thần thánh. Ở đình về nhà ăn cơm và ở nhà ra đình hầu hạ nhà thánh, mỗi ngày ít nhất ông phải bốn lượt đi về. Lượt nào cũng vậy, ông không hề quên chiếc nón ba tầm, đôi guốc củ tre, cây gậy mũi sắt và tấm quần sồi nhuộm màu hoa hiên. Trong lúc tránh sự nóng nực của nhà trọ, chạy ra hóng luồng gió mát trên dãy hồ ao trước đình, tôi thường gặp ông trịnh trọng đánh một hồi chuông, và thường nói chuyện với ông sau khi ông đã quỳ gối trước hương án, đọc một thôi dài "Na-mô-a-di-đà-Phật". Tuy không dám phàn nàn về sự phải gánh công việc nhà thánh, nhưng sắc mặt ông vẫn thường có vẻ rầu rầu, như muốn ăn năn một điều tội lỗi. Tôi biết ông đương có một mối khổ tâm. Với tuổi lục tuần của người trần gian, cái tuổi đã bị coi như làn nắng quái chiều hôm, bao nhiêu công việc định làm mà chưa kịp làm, người ta còn phải tiến hành một cách gấp bội, huống chi câu chuyện cầu tự là chuyện quan hệ đến sự còn mất của nòi giống, ai mà trì hoãn cho được? https://thuviensach.vn Nhưng chức vị của ông bắt ông phải hoãn. Trước bóng nhà thánh, ông không được tự do để tâm lực vào cái công cuộc "nước chảy qua sân" nếu ông giữ đúng luật lệ của làng đã định. Thế rồi, một hôm làm xong công việc đèn hương, vẫn cái vẻ rầu rầu, ông than thở trước mặt tôi: "Tôi sắp mất nghiệp cậu ạ". Và rồi từ đó trở đi, ông càng chăm việc lễ bái hơn trước. Nhưng cái vẻ rầu rầu vẫn bao phủ trên nét mặt ông thêm ba tháng nữa. Bữa ấy, tôi đi bình văn vừa về đến nhà, thì vừa được nghe một câu đầy giọng đắc ý của ông chủ trọ: - Cậu thử ra đình mà xem, hôm nay làng tôi ăn vạ lão Đám Phức đấy. Vừa nói, ông lão vừa tất tả đi thẳng ra cổng, như có việc gì cần kíp, không để cho tôi hỏi thêm câu nào. "Ừ, ăn vạ cũng là quốc tục của người Việt Nam, mình phải coi cho biết cảnh tượng của nó". Tôi nghĩ thế, và đủng đỉnh dạo ra chỗ gốc cây trên hồ trước đình như kiểu mọi ngày vẫn đi hóng mát. Trên đình, dưới nhà tiền tế, hai bên giải vũ, chỗ nào cũng đầy những người. Với bộ mặt sầu não của kẻ có tội, ông Đám Phức đương ngồi gãi tai ở trước chiếc chiếu của bọn hương dịch. Ông chủ nhà tôi cũng có ở đấy và đương cất cái giọng sang sảng đáp lại những sự nằn nì của ông quan đám đáng thương. "Ông nói không thể nghe được. Mình đã hầu hạ nhà thánh, vợ vẫn chửa bĩnh ruột ra. Thế mà còn bảo xin chạ châm chước, thì phỏng châm chước làm sao? Chúng tôi cũng nể ông lắm, nhưng mà lệ làng như thế, không ai dám bỏ. Nếu như chúng tôi không ăn vạ ông, lỡ ra nhà thánh quở phạt, liệu dân làng này có yên được không?" https://thuviensach.vn Một ông hương dịch đứng dậy chỉ tay vào bọn trai đinh lố nhố trong nhà tiền tế: - Anh em cứ việc bắt lợn ra làm thịt đi. Mau mau, chạ còn sửa lễ, lễ tạ nhà thánh! Một người trai đinh nở nang hỏi lại: - Thưa chạ, bắt mấy con lợn? Và bắt những lợn nhà ai? Trong đám hương dịch có tiếng dõng dạc: - Tùy đấy, nhà ai có lợn thì bắt. Mấy con cũng được. Tưởng chừng ăn hết bao nhiêu thì bắt bấy nhiêu. Cả bọn trai đinh tấp nập, kéo ra cổng đình, với cái bộ điệu sung sướng của một đám người kéo đi hôi của. Một ông hương dịch hất hàm hỏi ông Đám Phức: - Thế nào, ông có sắp sửa mâm bát nồi xanh cho chạ, hay định để chạ đi mượn? Ông Đám Phức ra dáng khúm núm: - Chúng tôi sống nhờ chạ, chết nhờ chạ, đâu dám để chạ phải mượn đồ dùng. Tôi đã bảo người nhà tôi từ nãy rồi. Hễ chạ dùng đến thứ gì, tôi xin đem ra thứ ấy. Sau đình có tiếng eng éc. Bọn trai đinh hăm hở khiêng hai con lợn đặt trước sân đình. Mấy ông hương dịch trưởng chê lợn nhỏ quá, chạ ăn không đủ, giục họ bắt thêm con nữa. https://thuviensach.vn Cái bàn giết lợn kê sẵn ở trên bờ ao. Cả mấy con lợn liền bị khiêng ra chọc tiết. Vô sự mà cứ vơ vẩn đứng mãi, hình như cũng thấy bất tiện, tôi phải tạm về nhà trọ. Nhưng cảnh tượng ăn vạ, vẫn chưa coi hết, trưa đến tôi lại ra đình. Cỗ bàn đã làm xong rồi, người ta đương sắp ăn uống. Mọi ngày, tiệc lệ của làng, chỉ có những người quang quẻ được dự, hôm nay là cuộc phạt vạ, cho nên những người có trở cũng đều có quyền đi ăn. Cả làng không sót người nào, từ cụ móm răng đến những đứa trẻ răng chưa mọc đủ, chỉ trừ con gái đàn bà. Những chiếc mâm mốc chứa toàn thịt luộc, rau chuối la liệt bày khắp trên đình, dưới nhà tiền tế và hai bên giải vũ với những thưng cơm đầy lù và những chậu nước xuýt khói bay nghi ngút. Bốn người một cỗ, tám người hai cỗ. Ít tuổi ngồi dưới, nhiều tuổi ngồi trên, ai biết ăn, ở lại mà ăn, ai chưa biết ăn thì được chia phần để vào rổ để chị hay em đem về. Thì ra bữa tiệc hôm nay có cả những cậu còn ẵm ngửa. Như một đàn tằm ăn rỗi, cả làng vừa ăn vừa hạch tội khổ chủ cho sướng mồm, và ông khổ chủ với bộ khăn đen áo dài, luôn luôn đi cạnh các mâm, vái từ người già đến người trẻ. Nghề ngà từ trưa đến chiều bữa tiệc mới tan, cả làng ai nấy gói những thịt ăn không hết cầm tay, lũ dài lũ ngắn ngất ngưởng ra về, để lại những đống mâm bát tanh banh cho người nhà Đám Phức dọn dẹp. https://thuviensach.vn Đêm ấy, ông Đám Phức được ngủ ở nhà, vì đã mất chức quan Đám. Sáng mai, ông vào cái nhà tôi trọ, đánh tiếng bán nhà, bán đất để trang những món tiền lợn, tiền rượu, tiền gạo mà chạ đã ăn. Vì nếu không trang, sẽ bị dân làng sổ ngôi và khi chết dân làng không khiêng. Năm sau, tôi lại gặp ông. Bấy giờ ông đã dọn ra một túp lều tranh đầu làng, nhưng mà coi bộ vui vẻ hơn trước. Ông nói: - Cậu mừng cho tôi. Cuối năm ngoái, nhờ bóng nhà thánh phù hộ, cái hai nhà tôi đã sinh được thằng con trai. Cháu ngoan lắm. Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 25 - 22.11.1939 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com VI. Lợn Anh, Lợn Em Tôi đã bật cười khi bốn tiếng bắt đầu lọt vào lỗ tai, vì tưởng trong nước Đại Nam lại có nhà đạo đức nào sắp sửa duy trì phong hóa cho loài lợn. Vậy mà ngoài mấy tiếng ấy, bạn tôi nhất định không chịu nói thêm, cố bắt tôi phải đi mà tìm lấy câu cắt nghĩa. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng hai, trời gần hết rét. Những ruộng ngô non đã được mưa xuân nhuộm thành màu lam. Mỗi khi gió nổi, đứng trên đường ngó ra quãng xa xa, có thể lầm với làn sóng biển. Tiếng hát trong ruộng ngô của bọn trai gái cắt cỏ lần đưa chúng tôi đến làng Th.C. - một làng khá lớn trong huyện Gia Lâm. Đình làng ấy cất giữa khu đồng bát ngát. Quanh đình là một bãi cỏ xanh rì. Trời đã chiều, sân đình phấp phới bóng cờ đỏ. Chiêng trống vẫn im lặng đánh đu dưới giá, chờ lũ con nít thỉnh thoảng nắm tay đấm một vài đấm cho đỡ cơn thèm. Dân làng còn thưa vắng. Vì cuộc tế thần cứ hành về đêm, những người chấp sự (1) vẫn chưa tới hết. Trong lúc chờ đợi coi cuộc đại lễ, tôi có dịp dò đến gia thế của anh em nhà lợn. https://thuviensach.vn ----- (1) Chấp sự: Giúp việc. Không biết như thế có thể gọi là "Đào viên kết nghĩa" được không chứ đồng bào huynh đệ thì rất không phải. Bởi vì đôi anh em ấy, chẳng những không do một cha một mẹ đẻ sinh, mà còn không ở chung một gia đình nữa. Với làng này, con lợn thờ cũng là một đấng thiêng liêng và tôn quý như đồng bào nó ở các làng khác. Theo lệ, hàng năm trong làng phải có hai người đương cai, mỗi người nộp cho làng một con ỷ để cúng thần. Điều luật ấy, người ta thi hành bằng cách bắt buộc. Người nào đến tuổi, nhất định phải theo, không thể chối, cũng không thể bỏ. Hễ ai vô phúc mà bỏ, ấy là mang tiếng thiếu đóng, thiếu góp với làng, sống cũng như chết, nếu họ còn ở trong làng. Bởi thế những kẻ nghèo nàn đến lượt đương cai mà không có người giúp đỡ, có khi phải bán nhà bán đất, bán con bán cái để nuôi lợn cho làng. Chẳng thà mất cả con cái, nhà đất mà có con lợn nộp làng còn hơn thiếu lợn của làng mà còn nhà đất, con cái. Sở dĩ tốn kém như vậy, là vì tục làng đã định, con lợn của mỗi người đương cai ít nhất cũng phải hai tạ, nhiều nữa thì càng hay. Cho được có một "ông ỷ" hùng vĩ như vậy, tất nhiên phải nuôi nó từ hai năm trở ra. Trong hai năm trời, hàng ngày phải cứ cung đốn bằng những chuối tiêu, bột nếp hay là của ngon vật lạ trong các mùa, cũng đã hao tiền lắm rồi, huống chi từ lúc mua con lợn giống, đến khi rước một "ông ỷ" ra thờ, còn có nhiều lệ ngạch khác. Làng đi chọn ỷ, làng vào thăm ỷ... tuần nào tiết ấy gia chủ phải có cơm rượu thết làng. Và những lúc trở trời trái gió, "ông ỷ" ăn không ngon miệng, gia chủ lại phải sửa lễ ra đình kêu đức "thượng đẳng" vuốt ve cho https://thuviensach.vn ngài, thì sự phí tổn còn biết đến đâu là hạn. Những người đến lượt nuôi ỷ, trong hai năm trời, lúc nào cũng phải canh cánh lo sợ, chẳng khác nuôi ông tướng giặc trong nhà. Bao giờ ỷ ra đến đình, bấy giờ mới là vững dạ. Mười một tháng hai, chính là ngày làng ấy tế ỷ. Những năm ngày ấy lỡ có mưa gió, việc tế phải cử hành vào lúc nhá nhem. Hôm nay vì trời nắng ráo, cho nên công việc cũng hơi chậm chạp một chút. Ánh nắng ra khỏi sân đình. Mây đỏ rực rỡ ở đám chân trời phía tây phản chiếu lại bầu không gian trước đình, như thêm vẻ tưng bừng cho bóng cờ quạt. Trong đình dần dần đông thêm. Tuần phu, hương lý, quan viên tế, đàn bà, trẻ con, lần lượt từ trong cổng làng tiến ra. Trên ngọn tre của mấy làng xa tít, mặt trăng từ từ tiến lên giữa trời. Ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu đồng. Lúc này người đã đông nghịt. Ngoài những ông mũ cao, áo rộng xúng xính, thêm có những ông thắt lưng bó que, ăn bận rất gọn ghẽ. Nào giáo, nào mác, nào gậy tầy, mã thò, nào những bó đuốc nứa bó sẵn, dài ba, bốn thước trở ra, các vật ấy nghênh ngang tựa khắp tường đình, giống như những khi người ta dự bị khí giới để đi đánh cướp. Một hồi tù và rúc mau. Tiếng trống cái thủng thẳng điểm trong đầu làng hòa với tiếng hò reo của lũ con nít. Đôi cũi mới chăng thừng màu đỏ và một vài lá cờ đã rước anh em "ông lợn" ra đến cửa đình. Cuộc tế bắt đầu khi đôi cũi ấy đặt ngang hàng nhau ở trước tiền tế. Giữa lúc tiếng kèn, tiếng trống xen tiếng "hưng bái" làm vang trong đình, tôi có ý hỏi trong hai con lợn trong cũi, con nào là anh, con nào là em. https://thuviensach.vn Người ta đáp rằng: cái đó còn quyền ở đức thượng đẳng. Hễ đức thượng đẳng phù hộ giáp nào, thì lợn của giáp ấy sẽ được là anh, bây giờ chưa thể biết trước. Thì ra làng này tuy to, nhưng chỉ chia ra làm hai giáp: giáp Đông và giáp Đoài. Hai con lợn nghiêm chỉnh ngồi trong cũi kia là của mỗi giáp một con. Đôi vật ụt ịt ấy tuy không có sự huých tường, nhưng mà những người can hệ đến nó, đương vì nó tranh ngôi trên ngôi dưới. Trong đình vừa dứt hai tiếng "lễ tất" rất dài và lớn, trống cái nổi lên thùng thùng. Các bó đuốc nứa nhất tề châm lửa. Giáo dài, mác nhọn, gậy tầy, mã thò nhất tề theo bọn trai trẻ khỏe mạnh kéo đến vây quanh đôi cũi. Ba hồi trống cái vừa kết liễu bằng ba tiếng cuối cùng, hai người lăm lăm cầm hai con dao sáng choang chặt các then cũi. Đôi cũi tức thì tung ra từng mảnh. Đám người vây ở quanh cũi đều giải vòng vây lùi xa ra ngoài. Tuy là thân thể béo ị, mọi ngày đi đứng rất khó nhọc, nhưng lúc này, sau một trận kinh hoảng vì sự cầm tù, đôi lợn trong phút vừa được tháo cũi, đều cắm đầu chạy bằng cả năng lực của trời phú cho. Người ta không bắt và còn đuổi thêm cho nó chạy mãi ra ngoài đồng ruộng. Trong đình trống càng thúc dữ, tù và nổi như ếch kêu. Dưới ánh sáng trắng trong của mặt trăng, các bó đuốc đùng đùng bốc lửa. Trống cái trong đình thình lình im bặt. Một hồi chiêng bu bu tiếp theo. Giáo mác, gậy, gộc nhất tề theo đám đuốc lửa đùng đùng kéo xuống giữa đồng. Khu đồng quanh đình thành một bãi chiến trường kịch liệt. Tiếng người chạy huỳnh huỵch và giáo gậy chí chát đụng nhau, làm cho bầu tịch mịch trong cánh đồng không trở nên một xứ có loạn. https://thuviensach.vn "Thừng đâu? Ai cầm thừng? Đem đến đây mau!" Tiếng hô vừa dứt, luôn đến tiếng kêu eng éc. "Anh về giáp ta, anh về giáp ta rồi!" Giữa những tiếng reo vui như bắt được giặc, một đám người hùng dũng khiêng một con lợn từ phía đồng xa lên đình. Con vật đã bị chém gãy một chân, máu vẫn ròng ròng chảy xuống. Một nửa số người theo lợn lật đật kéo về trong làng. Còn một nửa nữa vẫn xông xáo đuổi lợn ở dưới đồng ruộng. Thế là năm nay anh về giáp Đoài. Một ông người làng bảo với chúng tôi như thế, và ông còn cắt nghĩa thêm: - Theo tục làng tôi, hễ con lợn nào được bắt về trước thì được làm anh, con lợn nào bị bắt về sau thì phải làm em. Tôi toan hỏi làm anh có được hương hoa gì không, thì ông đã nói tiếp: - Lát nữa, làng tôi lại còn tế một tuần nữa. Lợn anh được làm cỗ chính tiến, cúng đức thượng đẳng; lợn em phải để vào cỗ tùy tiến, cúng các bộ hạ. Tuy trong bốn năm, năm nào giáp tôi cũng được vào cỗ chính tiến... Coi mặt ông, hình như có vẻ đắc ý, vì cả hàng giáp nhà ông đã được có lợn làm anh. Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 27 - 6.12.1939 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com VII. Ông Thành Hoàng Ấy Đã Bị Cách Rồi Năm nọ, một hôm, qua huyện Văn Lâm, tôi phải hết sức ngạc nhiên về cái lỗ hổng sau bầu của đình làng T.D. Với thôn quê, bất kỳ làng nào, "chuôm bầu" vẫn là một chỗ quan hệ. Tuy bị mang tên xấu xí, nhưng nó chính là bộ phận trọng yếu trong các tòa đình. Thường thường các đình nhà quê, không kể hành lang, giải vũ, ít ra cũng phải có đủ ba lớp. Ngoài nhất thì nhà tiền tế, dùng để tế lễ khi có đám lớn. Chính giữa là đình dùng để họp hành ăn uống và lễ bái trong các tiệc thường. Chuôm bầu là lớp trong nhất, nối liền với đình bằng kiểu "trồng diêm" hay kiểu "chuôi duộc", long ngai, bài vị (1) của thành hoàng để ở trong đó. ----- (1) Long ngai: Nơi ngồi trang trọng, tôn kính; Bài vị: Thẻ bằng giấy, bằng gỗ có ghi tên tuổi, chức vụ... thành hoàng để thờ. Bởi vì thành hoàng làng nào tức là vua của làng ấy cho nên chuôm bầu mới được coi là nơi nghiêm cẩn, người ta hay gọi nó là hậu cung. Ai đã biết sự long trọng của hậu cung của các vua chúa, thì cũng có thể tưởng tượng ra được sự long trọng của chuôm bầu của các thành hoàng. https://thuviensach.vn Ngoài chỗ chuôm bầu giáp nhau với đình, tất nhiên phải có một nếp cửa võng. Ở nhiều làng, cái cửa võng ấy đã phải chạm đến chín từng rồng phượng cho đúng với chữ "cửu trùng". Qua nếp cửa võng, còn cách một lần cửa nữa mới đến chuôm bầu. Lần cửa trong này, quanh năm đều đóng im ỉm. Cho đến những lúc tế lễ, cánh cửa tuy có hé ra giây lát để cho người có việc ra vào, nhưng ở bên ngoài vẫn phải buông mành sùm sụp. Trừ ông thủ từ là người đối với thành hoàng vẫn kiêm ba chức: quan hoạn, lính thị vệ và ngự tiền văn phòng bí thư (2), không ai được qua lại cửa đó. Ngoài lớp cửa ấy thì thôi, trong "bầu" không có cái cửa nào khác, dù là một cái cửa sổ để lấy ánh sáng. Vậy mà riêng cái chuôm bầu của làng T.D. thì ở đằng sau lại có lỗ thủng vừa lọt người chui. Nó không tròn, không vuông, không bồ dục, không miếng huỳnh (3], chẳng ra cái hình gì cả. Nếu nó là chỗ tường lở, thì chỉ xây vào năm sáu viên gạch là kín, chứ không khó nhọc chút nào. Đằng này người ta không xây và ở trong lỗ, lại có bưng một lớp ván coi bộ cực kỳ kiên cố. Hơn nữa miệng lỗ lại có những vết chân người và có trát vôi nhẵn nhụi, coi rõ là chỗ làm sẵn từ lúc dựng đình, không phải là có ai đào khoét. "Cái lỗ này là cái quan hệ chắc có lịch sử sao đó, không phải là một chuyện thường". Tôi nghĩ thế. Cách một tuần sau, tôi mới hiểu được nhiệm vụ của quái vật ấy. Bữa ấy nhằm ngày 14 tháng tám, chính là ngày thánh hóa của đức thượng đẳng làng T.D. Trời đã chiều. Dân làng sắp sửa mũ áo tế thần. Quang cảnh cuộc tế của làng này không khác gì các làng khác. Lạ một điều là, người ta cố ý kéo dài chuyện "hưng bái" (4) ấy từ chiều cho đến tối sẩm và lúc tế cái bài vị lại để ở hương án ngoài. https://thuviensach.vn ----- (2) Hoạn quan: Người đàn ông bị cắt bỏ tinh hoàn, không có khả năng sinh dục, chuyên hầu hạ trong hậu cung của vua; Lính thị vệ: Lính hộ vệ của vua; Ngự tiền văn phòng bí thư: Người giữ văn thư bí mật bên cạnh vua. (3) Miếng huỳnh (miếng hoàng): Khoanh nhỏ của rãnh khô quanh thành (?). (4) Hưng bái (Hương bái): Làm lễ, thắp hương, vái lạy thờ thần. Tuần rượu cuối cùng bắt đầu thì ở quanh đình và nhà tiền tế, một bọn đàn ông ăn bận gọn gàng tấp nập kéo ra. Tôi biết bọn đó toàn là tuần phu, vì ở lưng họ, sườn họ có những hiệu ốc, hiệu sừng lủng lẳng. Nhưng tôi không hiểu vì sao bọn tuần lại không vác sào, vác mác, họ chỉ dùng toàn khí giới của Đinh Tiên Hoàng, thứ khí giới chế bằng bông lau, bông sậy. Trong đình dứt hồi tò te và tiếng tùng cắc, bao nhiêu đèn nến đều bị tắt phụt. Cả đến cái hương đương cháy cũng bị người ta dầm đi, không để cho nó có dính chút lửa đỏ. Cả khu lòng đình tối như hũ nút. Nếu là lúc này, có lẽ tôi phải ngờ là thành hoàng làng ấy thử tập một cuộc phòng không thụ động. Nhưng hồi ấy, ở đây chưa phải đề phòng về nạn máy bay, cái danh từ kia chưa có, tôi không thể đoán họ sắp làm gì. Tù và thình lình nổi lên choáng óc. Rồi thì mõ cá đập choang choác, trống cái giật giọng điểm ba tiếng một. Trước nhà tiền tế và chung quanh đình, bóng người nhốn nháo như đám chạy cướp, những ông tuần phu với những khí giới lau sậy tất tả chạy ra sau đình. Cái gì thế? Trộm vào trong đình hay là trong làng đã xảy ra chuyện bất thường? Một người xa lạ mục kích cái cảnh tượng ấy, tất nhiên phải hỏi https://thuviensach.vn như vậy. Vội quá, tôi không kịp hỏi và cứ theo bọn di tướng của vua nhà Đinh đi ra phía sau. Vầng trăng của tiết Trung thu vằng vặc tự trên lưng trời chiếu xuống, cả khu sau đình sáng như ban ngày. Trừ ra một dải sau bầu riêng có bầu bóng cây um tùm. Trống cái, mõ cá, tù và ở đằng trước đình vẫn thúc liên thanh bất chỉ, các ông tuần phu vẫn vác khí giới lau sậy láo nháo chạy ở sau đình. Một vật đen đen lù lù từ lỗ sau bầu nhuồi ra. Dưới luồng sáng thấp thoáng của ánh trăng rọi trong bóng cây, tôi còn nhận ra một cái đầu người. Và nhanh như chớp, cái đầu người ấy đã đưa cả một thằng người nhảy từ lỗ thủng xuống đất. - Mày chạy lên trời! - Mày chạy lên trời! Sau mấy tiếng thét rất có lễ độ, thằng người ấy liền bị hai ông tuần phu quật cho mấy cái gậy sậy. Rồi nó chạy ù ra phía trước đình với một vật vuông vuông ôm ở trước ngực. Trộm! Hẳn là thừa cơ lúc làng đang tế, trộm vào ăn trộm đồ thờ. Nếu nghĩ như vậy thì chỉ đúng được một nửa còn một nửa nữa không đúng. Bởi vì thằng người vừa bị đánh đó chính là một ông tiên chỉ trong làng, mà vật vuông vuông hắn ôm trước ngực tức là bài vị thành hoàng. Trống, mõ, tù và im hẳn. Trong đình lại có đèn sáng. Ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị tụt vào trong bầu. https://thuviensach.vn Cả làng đều làm lễ tạ. Người được vào lễ trước nhất là hai ông tuần mới thưởng cho ông tiên chỉ mấy cây gậy sậy trong phút ông ấy ở lỗ sau bầu chui ra. Tan cuộc lễ bái, dân làng đều có vẻ mặt rười rượi, như lo sắp có tai vạ đến nơi. Người ta thì thầm bảo nhau: - Thế là năm nay vận làng lại không ra sao! Tôi đã cố hỏi sự tích của ván trò ấy. Nhưng người làng ấy không nói. Họ đã nhìn tôi bằng con mắt bất bình và đáp vắn rằng: - Đấy là cái hèm làng tôi. Cái hèm ấy, tôi đã khám phá ra được bởi một ông bạn quê ở cạnh đó. Thì ra đức đại vương của làng T.D. vốn là đồng nghiệp của chú Chích. Ngài là người về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khoét ngạch. Thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử. Chỉ vì nhờ được giờ linh, cho nên mới được tôn làm thành hoàng. Mười bốn tháng tám chính là cái ngày ngài phải hy sinh tính mệnh cho nghề nghiệp. Vì thế hàng năm cứ đến ngày ấy, dân làng phải diễn một cuộc "xuyên tường tạc bích" (5) để kỷ niệm sự nghiệp của ngài. Cái ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị tức là giả thân của ngài. Còn những tuần phu vác khí giới lau sậy thì là vai tử thù của ngài ngày xưa. Phận sự họ cần phải bắt ngài cho được, khi ngài làm việc phi pháp. Nhưng bắt được ngài, không phải là việc có công. Cứ như cổ tục làng ấy truyền lại, thì khi cái ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị chui qua lỗ hổng sau đình, nếu bị người làng đánh phải một roi, tức là cả một năm ấy, cả làng làm ăn không hay. Mọi năm cái ngày kỷ niệm thường gặp mưa gió tối trời, ông tiên chỉ vẫn chui được thoát. Năm nay vì trời sáng trăng cho nên ông ấy bị bắt tại trận. Thế là cái điềm không tốt. https://thuviensach.vn Té ra, dương sao âm vậy, trong "giới" thành hoàng cũng có đủ các thứ người như các giới khác ở nhân gian. Nghe đâu cũng vì thiên hạ chế giễu nhiều quá, gần đây làng ấy đã cách vị thành hoàng ấy mà rước một ông thần "bơi'" về thờ. Bây giờ người ta đà kỷ niệm thành hoàng bằng cuộc bơi trải (6). Té ra dư luận của người An Nam chỉ ảnh hưởng ở thần giới. Thế cũng còn là may! Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 29 - 20.12.1939 ----- (5) Xuyên tường tạc bích: Băng qua tường phục dựng lại. (6) Bơi trải: Đua thuyền theo kiểu dân gian cổ truyền. https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com VIII. Vũng Lội Làng Ngang Hẳn không ai dám bảo cụ Tam nguyên Yên Đổ làm hại phong hóa. Vì cụ vốn là một nhà đạo đức, và cái đạo đức của cụ dù không cao lắm, nhưng nó cũng đáng ngồi lên trên đầu những người cầm cân phong hóa ngày nay. Nếu mà bảo cụ làm hại phong hoá, tất nhiên sẽ bị người ta chỉ mặt mà mắng là thằng nói láo. Vậy mà ở trong tập thơ của cụ, chúng ta đã được đọc bài sau đây: "Đầu làng Ngang có một chỗ lội, Có đền ông Cuội cao vòi vọi, Đàn bà đến đó vén quần lên, Cao thì đến háng, thấp đến gối, Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười: - Cái gì trăng trắng như con cúi. Đàn bà khép nép ngẩng lên thưa: - Con trót hớ hênh, ông xá tội. - Thôi! Thôi! Con có tội chi con, Lại đây ông cho giống ông Cuội. https://thuviensach.vn Từ đó làng Ngang đẻ ra người, Đẻ ra rặt những phường nói dối." Bài ấy đã được in làm mẫu văn chương và được coi làm sách giáo khoa, đủ tỏ nó không hại gì phong hóa, dù nó mô tả một việc sỗ sàng mà bọn đạo đức giả vẫn kiêng như húy gia tiên không dám nói đến. Cảnh tượng kỳ dị của vũng lội làng Ngang thế nào, một bài thơ ấy đã tả hết rồi. Không cần vẽ thêm nét bút nào nữa. Chỗ còn thiếu, chỉ là lịch sử của cái vũng ấy. Phải, cái vũng ấy cũng có một thiên lịch sử quan hệ. Tôi đã được nghe trong khi qua huyện N.S. của tỉnh Hà Nam, tiện dịp chiêm yết (1) miếu mạo Cuội vương. ----- (1) Chiêm yết: Xem thăm một nội dung nào đó, có ý để cho mọi người đều biết. Thì ra ông Cuội này không phải ở trên cung trăng rơi xuống. Lúc sống, ổng cũng là cái xác thịt do người làng Ngang đẻ ra. Không biết vô tình hay hữu ý mà người đã nặn ra ổng lại đem tất cả những kiểu vụng về ở gầm trời dồn vào mặt ổng. Khiến cho bộ diện của ổng thành một chỗ chứa những cái: mày rậm, mắt sâu, mũi lõ, răng vẩu, hai môi bì bì như hai con đỉa no máu. Thế rồi cả cặp thợ nặn kế tiếp trốn xuống âm phủ, bỏ ổng ở lại với người làng Ngang. Chỉ vì ổng không biết nói thật bao giờ, cho nên các nhà nuôi ổng đều phải mời ổng ra cửa và tặng cho ổng cái tên "thằng Cuội". https://thuviensach.vn Lúc này, đời ổng không khác cái đời hàn vi của ông tổ chúa Trịnh, ngày thì dong dẻo hết đầu làng đến cuối làng; tối đến, tất phải ăn trộm một hai con gà, hay là một hai con chó. Hình như tướng tinh của ổng do sao thiên cẩu nhập vào, cho nên chó ở trần gian đều phải khiếp sợ. Bất kỳ chó dữ đến đâu, hễ thấy bóng ổng là nem nép nằm im, không dám cựa, cũng không dám sủa. Vì vậy, đêm đêm ổng cứ tự do ra vào các nhà để lấy gà, chó của họ. Chửi đã mỏi miệng, không thấy có ảnh hưởng gì, những kẻ mất gà mất chó xót ruột bảo nhau rình bắt cho được. Nhưng mà ổng trốn rất tài, mấy lần bị hóc ở trong vòng vây, đều ra được cả. Bấy giờ, ổng đã trở nên một đấng "anh hùng", kẻ nào trái ý với ổng tức thì bị chửi, bị đánh, có khi bị dọa đốt nhà là khác. Trước cái uy phong lẫm liệt ấy, cả làng đều phải đầu hàng. Họ bèn cắt nhau nộp thuế cho ổng: mỗi ngày một con gà, mỗi tháng một con chó, và một số gạo, rượu, mắm, muối, đủ làm ma cho những con vật ấy. Nếu trên đời chỉ có ban ngày, thì đời ổng hồi này thật là tiên cách. Ngoài những lúc ngồi vặt lông gà hay vặt lông chó, chỉ có việc ngất ngưởng với hồ rượu. Khổ một nỗi lại còn ban đêm. Nhất là những đêm mưa dầm gió bấc. Ông cũng biết rằng đàn bà ở đời không phải là thừa. Nhưng hơn ba chục năm làm thân đàn ông, ổng chưa biết hơi đàn bà thế nào. Nhiều lần ổng đã cậy mối hỏi vợ. Chỉ vì tướng mạo khác người của ổng, khiến cho con gái trong làng đều phải le lưỡi lắc đầu khi thấy có người bầu họ đi làm bà Cuội. Thành ra ổng cứ phải làm người trai tân mãi. Hình ảnh đàn bà luôn luôn quanh quẩn ở trước mặt ông. https://thuviensach.vn Những lúc đêm đông mưa sa rả rích dưới giọt tranh, gió thổi ù ù vào các khe cửa, ổng càng trằn trọc khó ngủ, và càng mơ tưởng các cô các chị trong làng. Cái dáng, cái tóc, cái mắt, cái mũi của họ, ông đều hình dung được cả. Cho đến cái vú ệ vẫn nấp trong lần yếm nâu, ông cũng tưởng tượng ra được vì đã nhiều lần ông thấy người ta vạch ra để cho con bú. Người ta còn mong làm nên ông này, ông khác, áo rộng mũ cao, chứ ổng thì ổng chỉ mong có thế. Đối với ổng, mũ cao áo rộng không quý bằng cái mà ông thèm biết. Nếu được nhìn qua cho biết, dẫu chết cũng là đáng đời, ông vẫn mình tự nhủ mình như thế. Làng ông ở vào giữa cánh đồng chiêm, quanh làng toàn nước, đầu làng có một con đường độc đạo chạy qua cửa lều của ổng, những người đi lại đều phải qua đó. Ông bèn xẻ cho đứt khúc đường ấy, rồi bắc luôn hai dịp cầu bằng tre, một dịp ở trên ngang với mặt đường, và một dịp ở dưới cao hơn mặt nước một ít. Mỗi ngày xong hai bữa ăn, ổng lại ra nằm duỗi dài ở dịp cầu dưới, hai mắt giương tròn để nhìn dịp cầu trên. Người ta hỏi ổng sao lại nằm chỗ oái oăm như vậy thì ổng nói là thích xem thiên văn, vì ở trên trời sắp có một ngôi đế tinh hiện ra ban ngày. Đàn bà con gái lúc đầu còn thẹn, sau rồi quen dần, họ cứ đi lại một cách tự nhiên, ổng xem thiên văn mặc ổng. Tuy vậy, khoa thiên văn ấy vẫn hoàn toàn ẩn ở trong đám huyền bí. Ông đã mòn đôi con mắt với những cái bóng thấp thoáng trên cầu tre nhưng mà "trông lên thiên địa mù mà", chẳng nhận ra cái gì hết. Dịp cầu trên dần dần long bật cập kênh, người đi phải dò từng bước. Sáng hôm ấy, một buổi sáng của mùa thu, ánh nắng đã hun hết những hơi sương đọng lại ban đêm, bầu trời trong như nước lọc. Trước ngọn gió thu hiu hiu thổi trên mặt nước, ổng đã thiu thiu nằm ngủ. https://thuviensach.vn Chợt thấy có tiếng cót két, ổng phải bừng mắt trông ra. Một chị hàng cháo đương dún dót bước ở cầu trên với bộ quang gánh kĩu kịt. Thích chí một cách rạo rực, ổng cũng khanh khách cười dưới gầm cầu. Tiếng cười bật ra thình lình, khiến chị hàng cháo giật mình đánh thót, ngã nhào từ trên cầu xuống. May được chỗ đó nước nông chị ấy không bị chết đuối. Khi chị chàng lóp ngóp đứng lên, ổng vẫn nằm khểnh trên mặt cầu dưới, còn sướng chưa hết, tiếng cười vẫn giòn tan. Trông hai nồi cháo đổ ụp xuống nước, chị này vừa xót của vừa bực mình, sẵn chiếc đòn gánh nổi trên mặt nước, chị ta vớt lấy và giơ thẳng cánh phang luôn cho ổng mấy cái. Đòn trúng chỗ phạm, ổng giãy đành đạch rồi tắt thở. Đồng vắng, kẻ giết người trốn thoát. Chiều đến, đàn quạ dập dìu kéo đến quanh cầu đưa những tiếng kêu quàng quạc. Người làng mới biết dưới cầu có người chết, họ bèn đem bộ di hài ông Cuội táng vào góc gò gần đấy. Một tháng sau trong làng thấy động, gà chết, chó chết, lợn chết, trâu chết rồi đến người chết. Thầy bói bảo đó là vong hồn ông Cuội quấy nhiễu, vì ông chết được giờ linh, hiện nay được làm vị thần to lắm. Cho được tạ tội với ổng, người ta phải lập ngôi đền vào chỗ lều cũ của ổng, quanh năm hương khói phụng thờ. Sống làm sao, thác cũng chiêm bao làm vậy. Lúc ổng còn ở trên đời chỉ xem thiên văn vẫn chưa thỏa, nên khi làm đức thượng đẳng, ổng vẫn thèm xem thiên văn. Vì thế ổng đã đạp đồng (2) bảo người làng Ngang phải phá mấy dịp cầu tre của ổng đã bắc và không được lấp vũng lội giữa đường. Để cho đàn bà qua đó đều phải vén quần mà lội. Ổng ở trong đền cứ việc tự do mà nhìn. Nghe nói ổng đã được phong đại vương. Lòng sắc cũng đủ những chữ "hộ quốc tý dân, nẫm trừ linh ứng". Trải bao dâu bể, miếu mạo của ổng và https://thuviensach.vn cái vũng lội cũng vẫn nghiễm nhiên trường thọ với non sông... Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 30 - 27.12.1939 ----- (2) Đạp đồng: Tạo ra trạng thái phần hồn thoát ra khỏi phần xác, thần thánh hay vong hồn nhập vào để phán bảo, theo tín ngưỡng dân gian. https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com IX. Đuổi Giặc Cho Thần Gần hai chục năm lăn lóc trong nghề gõ đầu trẻ ở vùng thôn quê, ông giáo Hoàng đã vô tình trở nên cái kho chứa những tục lạ. Một hôm gặp tôi sau khi xa nhau trên mười năm trời, ông đã khoe cái kho ấy với tôi để tiêu thì giờ trong quãng đêm trường. Ông nói: - Chúng mình vẫn tin cổ nhân, cứ tưởng thông minh chính trực mới gọi là thần. Té ra không phải như thế. Vì tập hồ sơ của Tập án cái đình đương cần sưu tầm tài liệu nên khi thấy ổng giở câu chuyện đó tôi tưởng như bắt được của, và tôi chờ đợi lời ổng một cách vui vẻ. Ngừng lại một lát để tìm manh mối cho sự ghi nhớ trong óc, ổng tiếp: - Hồi còn dạy học ở tỉnh Hà Đông, chính tôi đã được mục kích một cuộc bênh vực cho thần. Rồi nhìn tôi bằng hai con mắt trào phúng, ổng hỏi: - Anh đã qua làng V.A. bao giờ hay chưa? Và không đợi tôi trả lời, ổng dẽ dàng kể: "Ở vùng thôn quê, các làng thường thường vào đám trong khoảng tháng hai, tháng ba, riêng có làng này vào đám tháng tám. https://thuviensach.vn "May sao cái ngày nhập tịch của họ lại nhằm giữa ngày chủ nhật, theo lệ các ông giáo trước, tôi phải sửa ít hương sáp ra đình lễ thần. Anh đừng cười. Chúng tôi đi gõ đầu trẻ nhà quê, vẫn phải nặng hơn các bạn nhà giáo thành thị khoản đó. "Ở nhà quê, làm thân một người trợ giáo, thật chẳng khác một người nàng dâu cưới về nhà chồng phải ở cho được lòng tất cả mọi người, nghĩa là ngoài những người trên, chúng tôi còn phải thờ phụng ông hương, ông lý và ông thần của làng sở tại. Nếu không như thế, họ cho là khinh làng họ, rồi mình khó mà ở yên với họ. Vì thế, tôi cũng không thể làm ngơ với ngày tế thần của họ, dù mà tôi vẫn không biết ông thần ấy là ông nào. "Bởi hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, tôi định lễ cho xong chuyện để có thì giờ đi chơi, nên mới ra đình thật sớm, từ khi ngoài đình mới nổi tiếng trống. "Nhưng khi tới đình, xôi lợn tuy đã sắp sửa sẵn sàng, trong đình vẫn im phăng phắc, quan viên và các hương lý, chức dịch còn tấp nập ở nhà tiền tế. Các tường bao lan cũng như dưới mái giải vũ, giáo mác, sào gậy ngổn ngang. Phía bắc sân đình có bày hai chiếc hương án: chiếc trong đặt cái sỏ lợn và một mâm xôi, chiếc ngoài thì để cây đèn, ống hương, đĩa trầu cau và cái mâm bồng nhỏ xếp đầy hồng, chuối. Đằng trước hương án, có trải chiếc chiếu cạp điều. "Theo lời mời của một ông hương trưởng, tôi vào ngồi ở sân đình. Trong tiền tế bắt đầu nổi hồi trống cái. Với bộ mũ áo xúng xính, ông tế chủ phủ phục trước chiếc hương án giữa sân. Sau khi lễ hết bốn lễ, ông ấy giơ cao đôi tay áo thụng che miệng và đọc những tiếng lâm râm. Chừng một hồi dài, ông ấy lạy thêm bốn lạy rồi mới khúm núm đi lùi trở ra. Giữa những tiếng tùng cắc xen nhau rối rít, các ông hương trưởng lần lượt kế chân ông chủ tế khấu đầu trước cái hương án, coi bộ rất kính cẩn. https://thuviensach.vn "Nén hương cháy vừa đến chân, ông tế chủ lại vào phía trước hương án chắp tay vái luôn ba vái. Trong đình bỗng có hồi trống ngũ liên. Quanh đình, tù và thổi lên inh ỏi. Giữa lúc ấy, hai đầu hương án thấy có hai người lực lưỡng sấn vào, một người bưng mâm xôi, một người bưng mâm sỏ lợn, đùng đùng chạy thẳng lên phía đầu làng. "Trống ngũ liên càng thúc dữ dội, tù và vẫn kế tiếp nhau rúc từng hồi dài. Bao nhiêu sào gậy, giáo mác dựa ở quanh đình đều bị các ông tuần phu vớ lấy. Rồi hùng dũng như đám đánh cướp, các ông ấy nhất tề đuổi theo hai người đương bưng hai mâm xôi, sỏ mà chạy. Những tiếng thét đánh, thét trói vang một góc trời. "Bởi chưa hiểu họ làm trò gì, nên tôi phải ra đầu đình đứng xem". Không muốn làm đứt câu chuyện của ổng, tôi chỉ lắng tai ngồi nghe. Ổng lại dừng lại giây phút, để châm một điếu thuốc, rồi thêm: "Người ta thấy vậy, có khi sẽ tưởng hai người đương bưng hai mâm xôi, sỏ là kẻ bất lương ăn cướp đồ lễ của làng. Nhưng mà không phải. Đương lúc cả làng người tấp nập ở đó, dù kẻ táo gan đến đâu cũng không có đủ can đảm mà lấy đồ lễ của họ. Cuộc đó chỉ là một cuộc đóng trò. Họ đuổi theo hai người kia ra tới cổng làng thì đều quay lại với dáng bộ của toán quân thắng trận. "Sau khi sào gậy, giáo mác của họ đã quẳng cả vào một chỗ; bấy giờ trong đình mới dạo trống tế. "Chờ đến bao giờ cho họ tế xong, mình mới được lễ...". Tôi nghĩ thế và toan cáo từ để về nhà trọ. Nhưng ông hương trưởng nhất định giữ lại, để xơi với dân chén nước. Bởi vì ấm nước họ đun từ khi tôi thoạt bước chân lên đình, bây giờ mới sôi. https://thuviensach.vn "Cố nhiên tôi phải chiều ý ông ta, bấm bụng ngồi lại, để coi một cuộc "hưng bái" của họ. "Thì ra nghi tiết cuộc tế của làng này khác hẳn mọi làng. Mọi làng lúc tế đều xướng bằng tiếng chữ Hán, làng này xướng tế lại có pha thêm tiếng ta". Điếu thuốc cháy đã hết nửa, ổng đặt vào trên chiếc đĩa gạt tàn và lại mỉm cười hỏi tôi: - Anh có đoán ra họ xướng những tiếng gì không? - Và ông lại đáp: - "Miếng xôi, miếng thịt, miếng dồi, miếng gan!". Ấy họ xướng tế như thế. Suýt nữa tôi phải bật cười khi nghe tiếng ông Đông tán ngân giọng thật dài để đọc ba tiếng "miếng bồ dục". "Lục phủ, ngũ tạng con lợn đã bị đọc lên khắp lượt, cuộc tế mới dứt. Bấy giờ người ta mới đệ vàng hương của tôi vào trong hương án và bảo tôi xuống lễ thánh. "Sau đó, tôi đã dò hỏi nhiều người về cái sự tích của đức thượng đẳng làng ấy. Không biết đức thượng đẳng ấy là hạng người gì, mà trong lúc tế lại có những trò lạ kia? Nhưng mà hết thảy người làng không ai chịu nói. Sau cùng, nhờ có một người ở làng bên cạnh thuật lại, tôi mới hiểu rõ. "Thì ra đức thượng đẳng của làng này là một người "mù", mà vì chết được giờ linh, nên ngài cứ được làm vua một làng. Và khi đã được làm thành hoàng, ngài vẫn cứ mù như thường, vì thế, lúc tế, sợ ngài không biết, người ta mới phải đọc từng miếng ăn cho ngài được rõ. "Tế lễ như vậy, ai nghe mà chẳng tức cười. Một hôm, cả làng đương tế, thình lình có hai người lạ đi qua sân đình. Thấy kiểu xướng tế như vậy, họ đều ngứa miệng và chêm một câu... https://thuviensach.vn "Bản ý họ định nói vụng mà thôi, chẳng ngờ lại lọt vào tai người làng. "Ngạo mạn quỷ thần" như thế, ai mà không tức. Tức thì cả làng đổ ra, đuổi hai người ấy mà đánh. Trong lúc thịnh nộ, người ta chỉ muốn đánh cho đã hờn. Cả hai người kia đều chết thẳng cẳng, và đều bị đám dân làng lôi đi vùi vào một xó. "Rồi đó trong làng tự nhiên lủng củng. Gà, lợn, trâu, bò và người không đau ốm gì, bỗng chốc lăn ra mà chết. Cả làng phải cắt người đi xem bói. "Thầy bói bảo rằng: Đó là hai người chết oan báo thù, họ vào trong đình tranh cái ngai vàng của ông thành hoàng. Bởi ông thành hoàng mắt mũi chẳng có, không địch lại với họ, nên ngài phải bỏ hậu cung mà đi. Bây giờ nếu muốn cho yên, cả làng phải tạ tội với hai người đó, để họ trả cái ngai vàng cho đức thượng đẳng. "Vì vậy, mỗi khi cúng tế thành hoàng, người ta cứ phải thiết lập bàn thờ ở giữa sân để cúng hai ông bạo kia đã. Cúng các ông ấy xơi rồi, cả làng lại phải diễn lại cái trò đuổi đánh ngày xưa, để hai ông ấy trốn ra khỏi làng, rồi mới cúng đến thành hoàng, thì đức thành hoàng mới dám ngồi yên mà hưởng. Nếu như hai ông giặc đó còn lảng vảng ở quanh khu đình thì đức thành hoàng sẽ không dám. Người làng ấy đều tin như vậy". Ngô Tất Tố Báo Con Ong Số 31 - 3.1.1940 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com X. Miếng Thịt Chùi Dao Trong cái đêm tắt đèn, ông Ng.Tr.L. vẫn chưa nói hết mỹ tục của làng D.L. Mới đây, khi ở Vinh ra, ông đã bổ khuyết với tôi chỗ đó. Nó vẫn là chuyện con lợn. Thứ lợn đã được dân quê tôn làm ông ỷ. - Ngoài con lợn ra, có lẽ "quý quán chúng ta" sẽ không có chuyện gì nữa. Ông L. mở đầu bằng một giọng nói khôi hài như vậy, rồi mới vào chuyện: "Như đêm hôm xưa, tôi đã kể qua với anh, hàng năm, cứ đến ba mươi tháng chạp thì ỷ làng tôi ra thờ. Cho được tỏ sự vui mừng trong lúc làm tròn phận sự nuôi một con lợn, gia chủ, ngoài bữa rau nộm khao làng từ ngày 23 tháng ấy, hôm nay lại phải thết làng một bữa cháo nữa, người ta kêu là "cháo xem ỷ". Tiếng gọi là cháo, kỳ thực vẫn chỉ là rượu với thịt. Nghĩa là trong một bữa tiệc, rượu thịt chiếm chín mươi chín phần trăm, cháo chỉ có một phần trăm mà thôi. Cho đủ một bữa cháo đó, nhà giàu phải hết hàng trăm, nhà nghèo cũng tốn vài ba chục bạc. Đó mới là việc nhà chủ ông ỷ đối với dân làng. Bây giờ đến chuyện dân làng đối với ông ỷ. "Vài bốn năm nay làng tôi hình như đã có cải cách. Trước kia, cũng như các làng, lễ nghi thuộc về ông ỷ cực kỳ long trọng. Người ta dùng đủ https://thuviensach.vn cờ, quạt, tàn, tán, chiêng, trống để rước ông ỷ từ nhà quan đám ra đình. Cuộc rước ấy cũng linh đình như một đám quan trảy trong thì xưa vậy. "Sau khi ông ỷ đã ngự chiếc cũi buộc bằng dây thừng nhuộm đỏ vào đến cửa đình, dân làng bắt đầu làm lễ". Đến đây, ông bỗng nhìn tôi bằng hai con mắt trào phúng. "Anh đừng tưởng rằng người ta cúng thần bằng con lợn sống ấy đâu. Lễ đó, mới là trình để bộ hạ của thần biết rằng: Ông ỷ nguyên vẹn, béo tốt, không có vết tích tật bệnh gì hết. Điều đó, ở nước An Nam, kể cũng không lạ. Thuở xưa, làng Nghi Tàm còn phải tiến chim sâm cầm, mỗi lần có chim sắp sửa đem đi, đều phải trình qua quan Thượng, quan Bố tỉnh mình, và mỗi lần xin được mấy chữ "vũ mao tề mỹ" (1) của các ông ấy, đều phải tốn kém mấy chục quan tiền và lạy sầy trán là khác. Dương sao, âm vậy, người còn thế, huống chi là thần... ----- (1) Vũ mao tề mỹ: Vũ là lông chim, mao là lông thú. “Vũ mao tề mỹ” ý nói chim đẹp, khoẻ, có tài sức bay xa. "Lễ trình xong rồi, dân làng mới đem ông ỷ làm thịt. "Công cuộc giết một con lợn thì chẳng có gì đáng nói. Dù con lợn ấy là một ông ỷ đi nữa, cũng đến chọc tiết, cạo lông, mổ bụng moi lấy lòng gan là cùng. Chỗ khác người của làng tôi chỉ có con dao để pha thịt ông ỷ. "Hết thảy các làng, từ lúc giết ỷ, đến lúc thái thịt ông ỷ, họ đều dùng những dao thường, miễn là nó sắc, cắt được đứt thịt. Làng tôi, không thế, hình như các cụ ngày xưa cho rằng dao thường chắc phải làm việc uế tạp, nếu đem thái thịt cúng thần, ấy là bất kính với thần. Vì thế mới có con dao đặc biệt, chỉ chuyên để thái thịt ỷ". https://thuviensach.vn - Con dao quý ấy rèn bằng gì, hình dạng ra sao? - Nhân lúc ông nghỉ để hút thuốc lào, tôi bèn hỏi xen câu đó. Ông thở khói thuốc rồi đáp: - Nào nó có khác gì các dao thường. Chẳng qua cũng rèn bằng sắt và thép, hình dạng cũng bầu và nhọn như con dao bầu của hàng thịt vậy. Sở dĩ quan hệ, chỉ tại chức vụ của nó. Anh nên biết rằng: Với làng tôi, con dao ấy chẳng kém gì viên truyền quốc ngọc tỉ của các vua chúa bên Tàu, ngày thường nó vẫn được ông thủ từ cất kín ở trong hậu cung, chỉ có khi nào giết ỷ thì mới lấy ra. Và không phải rằng lấy ra thì đem dùng liền. Việc quỷ thần đâu có giản dị như thế! Cho được cầm con dao ấy để cắt miếng thịt, còn phải có nhiều thủ tục lôi thôi. Nếu anh chưa từng nghe ai kể chuyện, quyết không thể nào tưởng tượng ra được. - Thì cũng đến đem dao mà mài hoặc rửa chứ gì. Hay là làng anh lại còn làm lễ xin "động dao" nữa? - Không! Một làng văn vật như làng tôi, khi nào lại có cái lễ "con nít" đến vậy? Trước khi dùng con dao ấy, người ta cũng có mài qua làm phép. Nhưng, cái đó không phải là việc quan hệ. Điều tôi muốn nói là việc chùi con dao ấy. "Những làng cẩu thả dùng thứ dao thường thái thịt cúng thần, ít khi họ chịu lau chùi. Hay có lau chùi đi nữa, thì họ cũng chỉ dùng cái giẻ lau bằng tấm vó cũ hay mảnh áo rách mà thôi. Có phải thế không? Làng tôi khác hẳn. Người ta chùi dao bằng thịt! Tôi đã chứng kiến một cuộc chùi dao tại đình. Kể ra cũng hơi phiền phức. Nếu chưa trông thấy ai làm bao giờ, có lẽ người nào cũng không làm được đúng lệ của làng. "Anh đừng tưởng rằng: Dao làng đã lấy ra đó, ai chùi thì chùi, người nào muốn chùi cũng được. Công việc đình trung bao giờ cũng theo ngôi thứ. Đến ngôi nào thì làm việc nào, làng đã có lệ nhất định như một đạo https://thuviensach.vn luật. Cái việc chùi dao ở làng tôi cũng theo với việc thái thịt, đều là chức trách của bàn ba. "Con ỷ sau khi cạo lông, moi ruột, rửa cọ cho thật sạch sẽ, mấy ông đồ tể xúm nhau khiêng lên để vào cái nong đặt trên sân đình, và trình với làng công việc của mình đã xong, bấy giờ các ông hương trưởng dõng dạc ngồi trong chiếu cạp ra lệnh cho bọn bàn ba làm lễ. "Theo lệ làng tôi, thịt ỷ chỉ để cái sỏ và một bộ lòng cúng thần, còn bao nhiêu chia cho người làng. Ai ở ngôi trên thì được phần to, kẻ nào ngôi dưới thì được phần nhỏ, trật tự hương thôn là vậy. "Nhưng sự long trọng không ở những miếng thịt phần, nó ở cái sỏ để cúng thần đó. "Khi đã được lệnh của ông hương trưởng, một người ở đầu bàn ba cầm con dao thường cắt một miếng nầm...". Nói đến tiếng "nầm", ổng lại nhìn tôi và hỏi: - Anh có biết "nầm" là gì không? Nó là dải thịt ở bụng con lợn, chạy theo chiều dài của một dãy vú. "Thịt ấy ta thường gọi là thịt bụng, tiếng chuyên môn của phường đồ tể kêu là thịt nầm. Tôi không hiểu người bàn ba ấy có phải luyện tập gì không, mà sao hắn cắt miếng thịt khéo quá. Số thịt đó chỉ được một cân, lệ làng như vậy. Người không thạo nghề, thì cắt làm sao cho đúng, nếu không thừa ra vài lạng, tất nhiên cũng thiếu vài lạng. Đằng này không, miếng thịt của hắn cắt ra, bắc cân lên cân vừa đúng một cân, không hơn kém một đồng nào hết. Lúc đầu tôi còn ngờ là sự ngẫu nhiên. Về sau hỏi ra mới biết, người nào lên đến bàn ấy, cũng có cái diệu thủ (2) ấy. "Thì ra những bàn ba làng tôi hình như trong mắt đã có một quả cân riêng, họ định bao nhiêu là được bấy nhiêu, không phải dùng đến cân nữa. https://thuviensach.vn "Miếng nầm cắt rồi, người bàn ba ấy dẽ dàng dùng nó làm cái khăn chùi, rồi hắn lật đi lật lại con dao đặc biệt, chùi qua mỗi mặt vài lượt, rồi mới dùng dao ấy cắt cái sỏ lợn. "Hẳn anh đã tưởng chùi dao xong rồi, miếng thịt dùng làm khăn chùi sẽ bị quẳng đi? Không! Dù là thịt làm giẻ lau, mặc lòng, nó vẫn là của "thần huệ". Chẳng những người ta không dám bỏ đi, mà còn để làm phần riêng cho một hạng người. Người được hưởng miếng thịt chùi dao, tức là các ông bàn ba đến ngôi phải chùi dao đó. "Tuy vậy, không phải người nào có công chùi con dao ấy thì được ăn miếng thịt ấy. Có người không chùi dao mà được ăn thịt, lại cũng có người không được ăn thịt mà phải chùi dao. Cái đó mới là rắc rối! "Là vì, như tôi đã nói, công chùi dao ở làng tôi, bao giờ cũng về người bàn ba. Nhưng ở nhà quê, chắc anh đã rõ, chỉ những người quang quẻ mới được dự việc đình trung, còn ai bị có chế (3) thì phải ở nhà đợi phần, bất luận là lễ tiệc gì. Giả sử tôi là người đầu bàn ba, đáng lẽ tôi phải chùi dao, nhưng vì có trở hay mắc một việc gì khác tôi không có mặt ở đình ngày ỷ ra thờ, thì người dưới tôi phải thay quyền tôi làm công việc cho tôi. Nghĩa là phải cắt lấy miếng thịt lợn chùi con dao đặc biệt của tôi. Còn miếng thịt đó thì vẫn là phần của tôi. Nếu phần ấy không đưa về nhà cho tôi, thì tôi được có quyền hỏi. Mà tôi đã hỏi thì làng phải xét. Một khi cái tội ăn cắp hoặc đánh mất miếng thịt chùi dao bị truy ra, thì kẻ phạm tội cực kỳ nguy nghiệp. Nghèo thì van xin mỏi gối, giàu thì bị làng mổ lợn ăn vạ". Rồi ông kết luận: - Anh bảo trong nước Nam đã mấy làng đã được văn vật như làng D.L. tôi chưa? Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 32 - 10.1.1940 https://thuviensach.vn ----- (2) Diệu thủ: Có bàn tay tài tình, khéo léo. (3) Có chế: Có điều gì không đúng với phép định của lệ làng. https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com XI. Các Cụ Chỉ Chung Nhau Có Bát Nước Mắm Nhìn theo sổ sách, ai cũng phải cho C.L. là làng văn vật. Bởi vì nó là kinh đô của vua An Dương, trước mấy nghìn năm, hẳn đã từng chứa cái phồn hoa của áo xiêm, cung điện. Trong nước Việt Nam, làng ấy khai hóa rất sớm. Với bấy nhiêu năm tiến hóa, tự nhiên nó phải văn minh hơn những thôn xã mới lập sau này. Có đến mới biết. Sự thật ít khi đi với tưởng tượng. Hình như đã bị một dải thành đất giam hãm trong vành trôn ốc quanh co, "con ốc cổ" ấy tuy có sống lâu, nhưng vẫn không thể nhích đi bước nào. Nó chỉ hơn người cái lớn. Tính cả nam, phụ, lão, ấu, làng ấy có tới trên một vạn người. Riêng về số người phải đóng thuế thân, cũng đã đến gần ba nghìn. Ba nghìn người chung nhau một cái đặc tính. Các ngài về tỉnh Phúc An, bất kỳ hàng cơm hay quán nước, hễ thấy có kẻ ăn tục nói khoác, thì cứ hỏi họ có phải là người C.L. hay không. Nếu họ đáp không, ấy là họ nói dối. Đào tạo cho họ nên đặc tính ấy, một phần do ngôi chợ Sa, cái chợ rất lớn của tỉnh Phúc An. Hàng hóa nhiều nhất trong chợ là lợn. Cứ đến phiên chợ, lợn lớn, lợn nhỏ đo nhau nằm một dãy dài. Vì thế, trong cố đô của nhà Thục, sản xuất rất nhiều lái lợn. Họ đã tổ chức thành một nhóm hội, hội viên chừng cũng khá đông. Với một vành khăn tai chó ngất ngưởng trên bộ https://thuviensach.vn trán da đồng, hàng phiên, các hội viên ấy thi nhau xưng hùng bá ở dãy hàng lợn. Bất cứ kẻ mua, người bán, nếu không qua tay họ không xong. Nghề ấy rất có sức mạnh, nó đã làm cho cả làng biến thành quân thù của văn học. Họ cũng học đấy, song mà không cần phát đạt. Trong cái thời đại Hán học dằng dặc gần một nghìn năm, họ chỉ góp với các xứ một ông Tú tài. Từ ngày Tây sang đến giờ, chưa có người nào thi đậu Cao đẳng tiểu học. Nhưng mà người họ rất thọ. Các làng Bắc Kỳ, phần nhiều có lệ năm mươi nhăm tuổi thì được lên lão. Những ông gọi là lão nhiêu đáng lẽ phải đóng thuế thân thêm sáu năm nữa mới được miễn trừ, song vì tục dân trọng lão đã quen, cho nên dân phải vui lòng chia nhau gánh đậy (1) cho các lão ấy. Làng này hơi khác. Hạng lão của họ già hơn hạng lão các nơi năm tuổi, bởi vì cái tuổi lên lão của họ phải đúng sáu mươi. Vậy mà số lão ở đây mới đông làm sao! Có thể bằng một làng nhỏ. ----- (1) Gánh đậy: Chịu phần trả bù lại cho đủ. Chợ Sa họp vào ngày sáu, ngày một. Trong những ngày ấy, khoảng chín, mười giờ, đứng ở cổng chợ phía bắc, người ta sẽ thấy những ông tóc bạc, râu dài, lộc chộc chống chiếc gậy trúc kéo vào trong chợ từng lũ. Rồi đến buổi chiều, cũng ở chỗ ấy, từng đoàn gậy trúc lại đưa những ông cụ ấy trở vào cổng làng với những bộ mặt đỏ như mặt trời và những hơi thở sặc sụa mùi rượu. Các cụ no say về lợn. Bao nhiêu con lợn đem đến bán ở chợ Sa đều phải nộp thuế cho các cụ cả. https://thuviensach.vn Giữa chợ có một cái quán khá rộng, người ta thường gọi là "cầu các cụ". Cứ đến phiên chợ, các cụ ăn cơm thật sớm, rồi rủ nhau ra ngồi tại quán đó, để ra lệnh cho tên mõ chợ đi lùng trong dãy hàng lợn. Những người đi bán lợn con thường có một bộ đồ dùng đặc biệt. Họ nhốt lợn vào rọ, họ đựng rọ bằng chiếc lồng to, rồi họ dùng cây đòn tre khiêng cái lồng ấy vào chợ. Lồng lợn của họ vừa đặt xuống đất, mõ chợ đã đến thu mất cây đòn để đem về quán trình với các cụ. Bán hết lợn, muốn khiêng lồng về, người ta phải đến quán ấy mà chuộc lấy cây đòn ấy. Tiền chuộc tùy ý các cụ định liệu, ít nhất cũng phải hai hào. Đó là thuế một lồng lợn. Một cái thị trường rộng lớn như ngôi chợ Sa, mỗi phiên phải có hàng trăm lồng lợn. Bởi vì lợn của mấy huyện gần đấy đều phải bán ở chợ ấy. Cho nên, riêng số thuế lợn, mỗi ngày đã có vài chục đồng. Trừ ra một phần để dành, món tiền ấy sẽ làm cho các cụ no say trong ngày hôm ấy. Vì vậy, các cụ mong đến phiên chợ, chẳng khác con gái mong đến ngày cưới. Mưa bão chết cò, cũng cố dò đi, chỉ có khi nào ốm nặng mới chịu ở nhà. Trong lúc ăn uống, các cụ không thèm dùng đến đầy tớ, nhà bếp. Đã có cụ dưới đi phục dịch cụ trên. Thì ra cái tuổi lục tuần, ở các làng khác là tuổi cơm bưng, nước rót, con cháu dưới gối sum vầy, nhưng ở làng này, vẫn còn là tuổi chỉ để năm ngày một lần ra chợ thái thịt, đun bếp, xách bát, bưng mâm cho các người khác. Đấy là nạn hàng phiên. Cái nạn hàng năm còn khổ hơn nữa. Một làng C.L. tất cả trên sáu trăm cụ. Mỗi năm một lần, cứ đến hồi cuối tháng chạp, mấy trăm cụ đó họp nhau đánh chén một bữa. https://thuviensach.vn Chi phí về bữa chén đó đã có số tiền thuế lợn để dành trong hàng phiên. Các cụ chỉ cần người chứa. Những ai phải đóng vai ấy? Thì lại mấy cụ ngồi dưới. Họ kêu là "chức các cụ". Tôi đã bị một phen sặc cười khi nghe một cụ làng ấy thuật lại chi tiết của công cuộc đó. Cái đặc sắc của "cỗ việc làng" làng này chỉ là thịt chém mấu nứa. Các ngài nếu chưa ăn cỗ nhà quê, chắc chưa biết thứ thịt ấy. Nó là những miếng thịt luộc chặt ra, lớn bằng nắm tay đứa trẻ lên năm trùng trục như mấu cây nứa, người ta đựng bằng lá chuối và để lù lù giữa mâm, cỗ của làng này ăn uống tại đình, phần nhiều chỉ có món đó. Nhưng đến bữa tiệc tất niên của các bô lão thì lại không dùng kiểu ấy, các cụ ăn lối nửa chợ nửa quê. Đã có điều lệ nhất định, mỗi mâm phải tám thứ nấu, tám thứ giò nem, chả, lòng, thịt, tất cả cũng tám thứ nữa. Cộng trong một mâm, lớn, nhỏ hai mươi bốn thứ. Cứ thế cũng đủ chết người chứa rồi, vì không có hạng mâm nào đựng được hết bấy nhiêu thứ. Nhưng nào có thế mà thôi, nó còn gấp lên nhiều lần. Theo tục làng ấy, mỗi cỗ đều phải đóng sáu. Sáu người ngồi chung một cỗ, tránh sao cho khỏi cái tệ ăn tham? Với hạng trai trẻ, người ta có thể dùng cách bẻ đũa để trừng phạt những kẻ gắp nhiều, nhưng các cụ là bực đạo mạo, không thể làm theo kiểu ấy. Chắc hẳn ngày xưa đã có cụ nào nghĩ đến chỗ đó, nên mới đặt ra lệ ăn riêng. https://thuviensach.vn Trong một mâm, bất cứ món gì đều phải đủ con số sáu. Sáu giò, sáu nem, sáu bong bóng, sáu mắm mực. Cái gì cũng sáu tất cả. Các ngài hãy thử tưởng tượng hình dạng mỗi mâm ấy ra sao! Sáu lần hai bốn, thành ra một trăm bốn tư. Một trăm bốn tư bát, đĩa xếp vào một đống. Kém gì một cái gò nhỏ. Cố nhiên trong thế gian này, không có một thứ mâm nào bày được nhiều đĩa bát. Người ta phải đặt nó vào chiếc chiếu. Thế rồi, khi ăn, phần của ai thì người ấy gắp, các cụ chỉ chung nhau một bát nước mắm. Những cái dạ dày già nua chứa sao hết bấy nhiêu món ăn? Ăn không hết các cụ lấy phần. Mỗi phần ít ra cũng đầy một rổ. Chỉ khổ các cụ nhà chứa. Nhà nào sắm cho đủ bấy nhiêu đĩa bát. Trước ngày phải nhờ họ hàng đi mượn, sau ngày chứa lại cậy họ hàng đi trả. Bao nhiêu con lợn chết theo với cuộc chứa đó. Nhiều người làm ăn gom góp từ trẻ đến già, chỉ chứa một bữa là hết. Ngô Tất Tố Báo Con Ong, Số 33 - 17.1.1940 https://thuviensach.vn TẬP ÁN CÁI ĐÌNH VÀ DAO CẦU THUYỀN TÁN Ngô Tất Tố www.dtv-ebook.com XII. Vừa Tế Vừa Ngủ - Đám ma cụ Bá Tr.Th. chắc là lớn lắm. Hôm nọ, khi mà cụ ấy giở chứng, tưởng chừng không thể qua khỏi, ông Lý, con cụ, đã cho người nhà đi tậu sáu, bảy con trâu và nhờ họ mạc xay hộ hơn trăm thúng gạo tám thơm, ấy là chưa kể bò, lợn, gạo nếp. - Thôi, còn phải nói! Trước kia nhà ấy đã có tiếng giàu. Từ năm vỡ đê Canh Dậu, đồng làng Tr.Th. được bồi mấy thước phù sa, những ruộng chiêm khô, mùa thối đều thành ra nhất đẳng điền, nhà cụ lại càng giàu bội. Giết bao nhiêu trâu, ăn bao nhiêu gạo mà chẳng được. - Nghe đâu quan tài còn để trong nhà ba, bốn ngày nữa mới đưa ra đồng, nhưng đã bắt đầu ăn uống từ bữa trưa hôm nay. Người ta bảo rằng: Ông Lý sẽ mời nhiều nóc đến tế: ngày mai tư văn trong làng, ngày kia chức sắc hàng xã, ngày kìa thân hào hàng tổng; hàng tổng, hàng xã, mỗi nóc chỉ tế một tuần, còn làng thì tế ba tuần. Đám ấy chắc là vui lắm. Những người đi chợ kháo nhau như thế trong khi có tin cụ Bá Tr.Th. từ trần. Té ra thế gian lại có cái đám ma vui. Tôi rất muốn được tới nơi tìm thêm hạnh phúc cho hai con mắt. Chết vì với nhà ấy, tôi chỉ là người cùng tổng, không có họ hàng quen thuộc gì hết. Thế thì lấy danh nghĩa gì mà vào trong đám? Đóng vai đi xem thì không được rồi. https://thuviensach.vn Bỗng có thư của tang gia cậy người đưa lại. Thư bằng chữ Hán, đại ý nói rằng: "Chúng tôi bất hiếu, thân phụ chúng tôi đã bỏ chúng tôi từ sáng hôm nay. Anh em chúng tôi vâng mệnh thân mẫu, định đến ngày... thì nộp lệ làng. Vậy tới ngày đó, xin rước các ngài tạm dời gót ngọc tới tệ xá, dạy bảo lễ nghi, thì kẻ còn, người mất đều được cảm ơn...". Nhìn ở cuối thư, chỗ tin những người bị mời, thấy có tên rõ ràng. Thì ra ngoài đám thân hào dự tế, hiếu chủ còn mời tất cả những người có tiếng trong tổng, bất kỳ người quen hay người không quen. Thật là buồn ngủ gặp chiếu manh, may cho tôi quá. Đúng ngày hẹn, tới tang gia ngay từ sáng sớm, với một món đồ lễ, không bạc không hậu. Cách cổng nhà chủ độ vài chục bước, đã ngửi thấy mùi thịt trâu. Bước vào trong sân, mùi thịt trâu lại càng nồng nực, tôi đã lợm giọng, rức đầu, cực kỳ khó chịu, nhưng trót vào tới đó, không thể lùi ra, đành phải mạo hiểm tiến đến trước rạp. Khách khứa đã đông nghìn nghịt. Người ta mời tôi ngồi lên chiếc phản giữa rạp sau khi người đón đồ lễ đã dùng mâm đồng mà đệ đồ lễ của tôi vào bàn thờ. Hiếu chủ cúi mặt xuống đầu gậy tre, lom khom từ trong bậc cửa đi đến chỗ tôi. Ông ta gật đầu chào tôi và giơ ống tay áo sô bưng miệng mời tôi vào ngồi trong nhà. Đó là người ta đãi tôi vào bậc thượng khách. Nhưng tôi nhất định từ chối. Không phải là sự khiêm tốn, chỉ vì tôi cân nhắc rằng: Ở đây ngửi mùi thịt trâu tuy có nguy hiểm nhưng cũng còn hơn vào tận trong nhà mà sưởi bên cái "hòm đựng người". Một bọn khách nữa vừa đến. Họ cũng bị mời vào ngồi một chiếu với tôi. Hết một tuần nước, người ta cất dọn đèn điếu, ấm chén để đặt vào đó một chai rượu và một mâm cỗ. Cái mâm mới giống cái phản bán thịt ở chợ làm sao, trong mâm chỉ có thịt trâu là thịt trâu, đĩa nào đĩa ấy đều đỏ hon https://thuviensach.vn hỏn. Ngó qua tôi đã hết vía, liền phải dịch ra chiếu ngoài. Một ông thay mặt hiếu chủ mời tôi trở lại chỗ cũ uống rượu. Nhưng tôi khất đến trưa, lấy cớ không quen ăn cơm sáng quá. Phải hai, ba lần trần tình một cách thiết tha người ta mới để cho tôi ngồi yên. Mâm cỗ liền bị đưa vào trong nhà với mấy ông khách mới đến. Bây giờ không thấy mùi thịt trâu nữa. Khứu giác của tôi đã bị cái kỳ hương ấy ám ảnh làm cho mất hẳn bản năng, nó không đủ sức để làm phận sự của nó. Thảo nào những nhà hàng mắm không hề ngửi thấy mùi mắm bao giờ. Lúc này mới kịp ngắm cảnh tượng nhà đám. Đám to thật! Khắp các cột nhà, cột rạp, cột nào cũng có câu đối giấy xanh. Ngoài rạp cũng như trong nhà, trướng xa tanh, câu đối cát bá che kín các bức vách và các bức thuận. Quan tài cụ Bá lù lù nằm ở gian nhà chính giữa. Hợp với hương án trong kê trước giường thờ và hương án ngoài kê giáp bực cửa, nó đã thành ra hình chữ "công" để chứa một lũ con cháu trắng lốp giống như một đàn bồ câu trắng. - Trâu làng xong rồi! Các anh vào nhà sắp sửa chỗ tế! Mau lên! Kẻo chạ sắp tới bây giờ. Tiếng quát tháo thình lình nổi lên giục tôi phải quay đầu lại. Bao nhiêu bàn ghế ở gian giữa rạp đều phải khiêng đi nơi khác để nhường chỗ cho một cái nong và một đôi đẳng. Qua mấy phút nhốn nháo, lộn xộn, cái nong được an trí ngay ở phía trước thềm, đôi đẳng thì kê đối nhau ở ngoài cửa rạp. Đài rượu, be rượu, cây đèn, cây nến bày lên ngổn ngang. https://thuviensach.vn