🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tang Thương Ngẫu Lục Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU QUY CÁCH BIÊN TẬP TIỂU DẪN TIỂU TRUYỆN PHẠM ĐÌNH HỔ TIỂU TRUYỆN NGUYỄN ÁN TỰA I. II. PHẦN I. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - QUYỂN THƯỢNG THẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ(13) HIỂN TÔNG HOÀNG ĐẾ CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA ÔNG NGUYỄN DUY THÌ HỒ GƯƠM ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI NGƯỜI NÔNG PHU Ở NHƯ KINH NGƯỜI NÔNG PHU Ở AN MÔ MA ĐỒNG XUÂN ÔNG NGUYỄN CÔNG HÃNG ÔNG NGUYỄN BÁ DƯƠNG QUẬN MÃ ĐẶNG LÂN THÀNH ĐẠO TỬ ÔNG LÊ THÌ HIẾN ÔNG ĐỖ THẾ GIAI ÔNG HOÀNG NGŨ PHÚC CHÙA TIÊN TÍCH LIỆT PHỤ ĐOÀN PHU NHÂN NGƯỜI LÀM MƯỚN Ở KINH THÀNH https://thuviensach.vn ÔNG LÊ ANH TUẤN ÔNG BÙI THẾ VINH ÔNG NGUYỄN CÔNG HOÀN ÔNG LÊ HỮU KIỀU ÔNG NGUYỄN TRỌNG THƯỜNG BÀI KÝ CHƠI NÚI PHẬT TÍCH - (CHÙA THẦY) DẬT SỬ CỦA CỤ THÁI TỂ ÔNG ĐÀM THẬN HUY ÔNG LÊ TUẤN MẬU ÔNG DƯƠNG BANG BẢN ÔNG UÔNG SĨ ĐOAN HÓA HỔ ĐỨA CON ĐEN HANG NÚI ANH KẺ TRỘM LÀNG LÂM HỘ ÔNG ĐỖ UÔNG TƯỚNG QUÂN ĐOÀN THƯỢNG SÔNG DÙNG NÚI ĐÔNG LIỆT NÚI RẾT NỘI ĐẠO TRÀNG BÀ VỢ THỨ ÔNG NGUYỄN KIỀU PHẦN II. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - QUYỂN HẠ ÔNG CHU VĂN TRINH ÔNG LÊ TRÃI ÔNG BÙI CẦM HỔ THƠ MA ÔNG PHẠM NGŨ LÃO THI HỘI MẢ MẸ ĐÀO KHẢN CÁI MIẾU CỔ Ở CỬA ĐÔNG HOA TƯỢNG GIÀ LAM Ở NGÔI CHÙA ĐỒNG https://thuviensach.vn BIA NÚI THÀNH NAM CỤ THÁI TỂ TÔI SÔNG ĐỘC MẢ TỔ QUẬN BẰNG MIẾU THANH CẨM DẬT SỰ CỦA ÔNG TIÊN HỌ PHẠM. ÔNG ĐẶNG CHẤT ÔNG NGUYỄN TÔNG KHUÊ QUAN QUẬN LỘC Ở HÀM GIANG TẢ AO TIÊN SINH. THÀNH CŨ TRIỀU KHẨU ÔNG VŨ DUỆ ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI(102) MIẾU THUẦN DƯƠNG TỔ SƯ NGƯỜI KHỔNG LỒ ÔNG PHẠM ĐÌNH TRỌNG CHÙA THIÊN MỤ HỒ HOÀN KIẾM CỬA KINH THÀNH ÔNG HOÀNG SẦM ÔNG ĐẶNG TRẦN CÔN MẸ RANH CÀN SÁT ĐỀN TRẤN VÕ NÚI DỤC THÚY MẢ TỔ HỌ NGUYỄN LÀNG QUẾ Ổ ÔNG SẤM ÔNG DƯƠNG CÔNG CAO ÔNG NGUYỄN ĐĂNG CẢO ÔNG BÙI HUY BÍCH THÁP BÁO THIÊN TIÊN QUẬN CHÚA NGƯỜI BÁN THAN https://thuviensach.vn II III I II III IV PHẠM TẤU ÔNG VÕ CÔNG TRẤN ÔNG NGUYỄN TRẬT ÔNG VÕ SƯỞNG CHUYẾT CÔNG THIỀN SƯ ĐỀN LINH LANG CHÙA KIM LIÊN THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ THƠ ĐỀ SAU TỦ SÁCH ALPHA DI SẢN - GÓC NHÌN SỬ VIỆT Table of Contents Landmarks https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU QUY CÁCH BIÊN TẬP TIỂU DẪN TIỂU TRUYỆN PHẠM ĐÌNH HỔ TIỂU TRUYỆN NGUYỄN ÁN TỰA PHẦN I. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - QUYỂN THƯỢNG THẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ HIỂN TÔNG HOÀNG ĐẾ CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA ÔNG NGUYỄN DUY THÌ HỒ GƯƠM ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI NGƯỜI NÔNG PHU Ở NHƯ KINH NGƯỜI NÔNG PHU Ở AN MÔ MA ĐỒNG XUÂN ÔNG NGUYỄN CÔNG HÃNG https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN BÁ DƯƠNG QUẬN MÃ ĐẶNG LÂN THÀNH ĐẠO TỬ ÔNG LÊ THÌ HIẾN ÔNG ĐỖ THẾ GIAI ÔNG HOÀNG NGŨ PHÚC CHÙA TIÊN TÍCH LIỆT PHỤ ĐOÀN PHU NHÂN NGƯỜI LÀM MƯỚN Ở KINH THÀNH ÔNG LÊ ANH TUẤN ÔNG BÙI THẾ VINH ÔNG NGUYỄN CÔNG HOÀN ÔNG LÊ HỮU KIỀU ÔNG NGUYỄN TRỌNG THƯỜNG BÀI KÝ CHƠI NÚI PHẬT TÍCH - (CHÙA THẦY) DẬT SỬ CỦA CỤ THÁI TỂ ÔNG ĐÀM THẬN HUY ÔNG LÊ TUẤN MẬU ÔNG DƯƠNG BANG BẢN ÔNG UÔNG SĨ ĐOAN https://thuviensach.vn HÓA HỔ ĐỨA CON ĐEN HANG NÚI ANH KẺ TRỘM LÀNG LÂM HỘ ÔNG ĐỖ UÔNG TƯỚNG QUÂN ĐOÀN THƯỢNG SÔNG DÙNG NÚI ĐÔNG LIỆT NÚI RẾT NỘI ĐẠO TRÀNG BÀ VỢ THỨ ÔNG NGUYỄN KIỀU PHẦN II. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - QUYỂN HẠ ÔNG CHU VĂN TRINH ÔNG LÊ TRÃI ÔNG BÙI CẦM HỔ THƠ MA ÔNG PHẠM NGŨ LÃO THI HỘI MẢ MẸ ĐÀO KHẢN https://thuviensach.vn CÁI MIẾU CỔ Ở CỬA ĐÔNG HOA TƯỢNG GIÀ LAM Ở NGÔI CHÙA ĐỒNG BIA NÚI THÀNH NAM CỤ THÁI TỂ TÔI SÔNG ĐỘC MẢ TỔ QUẬN BẰNG MIẾU THANH CẨM DẬT SỰ CỦA ÔNG TIÊN HỌ PHẠM ÔNG ĐẶNG CHẤT ÔNG NGUYỄN TÔNG KHUÊ QUAN QUẬN LỘC Ở HÀM GIANG TẢ AO TIÊN SINH THÀNH CŨ TRIỀU KHẨU ÔNG VŨ DUỆ ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI MIẾU THUẦN DƯƠNG TỔ SƯ NGƯỜI KHỔNG LỒ ÔNG PHẠM ĐÌNH TRỌNG CHÙA THIÊN MỤ https://thuviensach.vn HỒ HOÀN KIẾM CỬA KINH THÀNH ÔNG HOÀNG SẦM ÔNG ĐẶNG TRẦN CÔN MẸ RANH CÀN SÁT ĐỀN TRẤN VÕ NÚI DỤC THÚY MẢ TỔ HỌ NGUYỄN LÀNG QUẾ Ổ ÔNG SẤM ÔNG DƯƠNG CÔNG CAO ÔNG NGUYỄN ĐĂNG CẢO ÔNG BÙI HUY BÍCH THÁP BÁO THIÊN TIÊN QUẬN CHÚA NGƯỜI BÁN THAN PHẠM TẤU ÔNG VÕ CÔNG TRẤN ÔNG NGUYỄN TRẬT ÔNG VÕ SƯỞNG https://thuviensach.vn CHUYẾT CÔNG THIỀN SƯ ĐỀN LINH LANG CHÙA KIM LIÊN THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ THƠ ĐỀ SAU TỦ SÁCH ALPHA DI SẢN - GÓC NHÌN SỬ VIỆT https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc thân mến! Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước. Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù gây tranh cãi - tạo nên lịch sử đó. https://thuviensach.vn Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội. Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước. Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản. Xin trân trọng giới thiệu. Công ty CP Sách Alpha https://thuviensach.vn QUY CÁCH BIÊN TẬP Tủ sách “Góc nhìn sử Việt” ra đời, mục đích giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm hay, có giá trị, đồng thời góp phần bảo lưu gìn giữ những giá trị văn hóa của đất nước. Để thực hiện bộ sách này, chúng tôi tuân thủ một số quy cách sau: 1. Bảo toàn văn phong, nội dung nguyên gốc, từ ngữ mang đậm văn hóa vùng miền trong tác phẩm (trừ khẩu âm). 2. Biên tập đối chiếu trên bản gốc sưu tầm được và có ghi rõ tái bản trên bản năm nào. 3. Chú thích từ ngữ cổ, từ Hán Việt. 4. Tra cứu bổ sung thông tin: tiểu dẫn, tiểu sử, sự kiện, nhân vật, phụ lục (nếu cần thiết)... 5. Sửa lỗi chính tả trong bản gốc. 6. Giản lược gạch nối từ ghép, khôi phục từ Việt hóa tiếng nước ngoài khi có đủ tài liệu tra cứu tin cậy (trừ trường hợp từ ngữ đó đã dịch thành thuần Việt). 7. Trường hợp thông tin lịch sử trong sách có sai lệch so với chính sử, chúng tôi sẽ chú thích hoặc đăng phụ lục ở cuối sách. 8. Một số hình ảnh trong sách gốc bị mờ, chất lượng kém… chúng tôi sẽ đăng bổ sung - thay thế các hình ảnh có nội dung tương tự, chất lượng tốt (nếu có). Mong đón nhận những ý kiến đóng góp của độc giả, hỗ trợ chúng tôi hoàn thiện tủ sách này. https://thuviensach.vn Alpha Books https://thuviensach.vn TIỂU DẪN Bộ Tang thương ngẫu lục 桑滄偶錄 này do hai ông Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cùng soạn về năm Gia Long, chép những chuyện lặt vặt trong triều, ngoài nội mà hai ông đã nghe hoặc thấy từ khoảng cuối Lê trở về trước. Toàn bộ gồm có 90 chuyện, chia làm hai quyển, quyển trên 40 chuyện, quyển dưới 50 chuyện. Hai ông sinh hồi cuối Lê, cái khoảng đời đã xảy ra rất nhiều những việc bể dâu biến đổi, mà bộ sách này chép nhiều câu chuyện biến thiên của hồi ấy, cho nên tên sách đặt là Tang thương ngẫu lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu. Ban đầu sách này chỉ có bản viết trong một thời gian gần trăm năm. Đến năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1896), ông Nghè Gia Xuyên Đỗ Văn Tân, Tổng đốc Hải Dương, quyên tiền khắc ván, từ đấy mới có bản in mà sự lưu hành mới được rộng hơn trước. Vì nghĩ là một bộ sách xưa, có bổ trợ cho nền sử học, nên chúng tôi đem phiên dịch in ra. Ngòi bút thô lậu của chúng tôi, không biết khỏi có những chỗ sai lầm chăng, còn chờ ở các bậc cao minh chỉ giáo. Người dịch https://thuviensach.vn TIỂU TRUYỆN PHẠM ĐÌNH HỔ Ông Phạm Đình Hổ 范廷琥 (1768-1839(1)), tự Tùng Niên 松年, hiệu Đông Dã Tiều 東野樵, người làng Đan Loan huyện Đường An(2) trấn Hải Dương, con quan Tham tri chính sự Phạm Đình Dư 范廷璵. Vì là con vị đại thần, nên đương thời thường gọi là ông Chiêu Hổ. Ông tư chất thông minh, học vấn rộng rãi. Tuổi trẻ thi đậu Sinh đồ, rồi vào học trường Quốc tử giám. Gặp khi quân Tây Sơn từ phương Nam kéo ra đất Bắc, nhà tan nước vỡ, từ đấy ông sống cái đời của một kẻ hàn nho. Bản triều đại định, trong đời Gia Long, ông có đi thi ba khoa hương, nhưng đều trượt cả. Nhân sĩ Bắc Hà, ai cũng biết tiếng ông là người hay chữ. Vì thế thấy ông thi trượt, có người bảo ông bị quan trường ghét mà đánh hỏng, bởi cớ ông nói năng không chịu giữ gìn. Hồi ấy ông có nhà ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương, trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn dạy học trò, và vui với văn chương học vấn, có soạn ra được nhiều sách vở, trở nên một nhà đại trước tác. Cũng trong hồi này ông kết bạn thơ rất thân mật với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thường cùng nhau vịnh ngâm xướng họa, có những bài quốc âm bén giọng chớt nhả. Niên hiệu Minh Mệnh năm đầu (1820), có chỉ triệu bọn các ông Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú vào kinh đợi mệnh cất dùng, nhưng ông đương ốm không đi được. Mùa đông năm sau, ngự giá ra Bắc, vời ông vào chầu ở điện Cần Chánh trong thành Thăng Long, hỏi về học vấn thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc, lại khuyên hễ có những sách vở về điển cố tiền triều, cùng là sách trước thuật ra được đều nên đem tiến trình. Bấy giờ ông cũng đương ốm yếu lệt bệt, vua truyền cấp cho mỗi tháng 2 phương gạo lương và 2 quan tiền. Ông lạy tạ trở về rồi có dâng lên bốn bộ sách chép tay là https://thuviensach.vn những bộ này: Lê triều hải điển (2 quyển); Bang giao điển lệ (1 quyển); Sứ quán bạn tiếp thư trát tập (1 quyển); Bạn tiếp thù phụng thi tập (1 quyển). Sau khi ông mạnh, được triệu vào kinh. Ban đầu lĩnh chức Hành tẩu trong viện Hàn lâm, sau thăng lên Biên tu, rồi lại thăng Thừa chỉ. Cuối cùng, được thăng đến chức Tế tửu ở trường Quốc tử giám. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), vì già yếu xin về trí sĩ. Những sách ông trước soạn ra được, ngoài bộ Tang thương ngẫu lục này soạn chung với ông Nguyễn Án thì còn có những bộ như: Vũ trung tùy bút lục, Hy kinh trắc lãi, Càn khôn nhất lãm v.v… Ông thọ đến ngoài 70 tuổi mới mất. https://thuviensach.vn TIỂU TRUYỆN NGUYỄN ÁN Ông Nguyễn Án 阮案 (1770-1815), tự Kính Phủ 敬甫, hiệu Ngu Hồ 愚湖, người làng Du Lâm, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (Bắc Ninh), cháu đích tôn của ông tiến sĩ Nguyễn Bá (sau đổi là Nguyễn Thưởng). Sinh gặp hồi cuối Lê loạn lạc, ông chỉ lấy thơ văn sách vở làm vui. Có làm nhà ở tại trên bờ hồ Gươm, tự hiệu là Kiếm Hồ ngư ẩn. Vì là bạn chơi thân của ông Chiêu Hổ, nên hai ông cùng nhau soạn chung ra bộ sách này. Bản triều thống nhất, niên hiệu Gia Long năm thứ 4 (1805), mở khoa thi hương đầu tiên ở xứ Bắc, ông Án đi thi đỗ Cống sinh. Năm Gia Long thứ 7 (1808), ông được bổ Tri huyện Tiên Minh (Hải Dương). Làm quan được 7 năm thì mất, thọ 46 tuổi. Văn chương trước thuật, trừ bộ sách Tang thương ngẫu lục soạn với ông Chiêu Hổ, ông còn có tập thơ Phong lâm minh lãi 風林 鳴籟詩集 nữa. https://thuviensach.vn TỰA I. Trời đất là một hóa cảnh, mở, đóng riêng chia, người vật là một sinh cơ, xưa, nay có khác. Duy lẽ đạo của ta như một bầu nguyên khí bàng bạc, mà thường ký ngụ ở trong khoảng chữ nghĩa văn chương. Ôi, gọi là tang thương, vì sao mà có tập sách này? Ốc hến trên núi, đó là tang thương của vận giời; gươm cổ trong ruộng, đó là tang thương của việc người; kinh xưa không thể lại thấy, chỉ thấy những sách chưa đốt của người Tần(3), sử đúng không thể lại được, chỉ được bản thảo đã thành của Ban, Mã(4), đó là tang thương của sách vở. Song có người đem xướng minh ra, thì lại có sự không tang thương ở trong. Nước Nam ta từ đời Hồng Lạc đến nay, chính thống thì như Đinh, Lý, Trần, Lê, tiếm ngụy thì như Mạc, Hồ, Nhạc, Huệ, lại nào sứ quân rạch đất, đô hộ cầm quyền, những cuộc tang thương, há chẳng đã rất nhiều rồi sao! Than ôi, đạo ta vốn không có thời kỳ tang thương, nhưng người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách tang thương này sở dĩ có là vì thế đó. Tùng Niên là quan Quốc tử Tế tửu, hiệu Đông Dã Tiều, do chân trưng triệu mà ra, ông họ Phạm đó; Kính Phủ là quan huyện doãn Tiên Minh, hiệu Ngu Hồ, ông họ Nguyễn đó. Hai ông sinh về cuối đời Lê, gặp những cuộc biến bể dâu, nhưng bể học của các ông vẫn giữ được nguyên trong lặng. Cho nên phát hiện ra văn, Tùng Niên viết bài ký núi Phật Tích, Kính Phủ viết bài ký núi Tiên Tích, trong lời ký như có nét vẽ, có thể cùng với bài ký nguồn Đào hoa của Uyên https://thuviensach.vn Minh đời Tấn cùng truyền. Lại còn như kể chuyện ba vị vua hiền đời Lê như Thánh Tông, Thần Tông, Hiển Tông mà tường cả đến việc cũ ở trong phủ chúa; kể chuyện các vị danh thần đời Trần như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, mà đến cả thói ngang ngạnh của Quận mã Đặng Lân. Chép chuyện đền miếu ở thôn ấp, thì đến cả việc Thuần Dương tổ sư nhận lầm là Liễu Hạnh công chúa, tượng cổ ở ngôi chùa đồng, bia đá ở núi Thành Nam, thần thiêng ở quán Trấn Võ, thánh giang ở đền Linh Lăng. Chép chuyện mả tổ nhà người thì đến cả mả mẹ Đào Khản, lại đem mả người thiếp của Phục Ba ra để đối chứng, thầy địa ở Tả Ao, mả phát ở Vân Điềm, tiết phụ nhà họ Đàm, võ thần làng Quế Ổ. Tuy bậc danh công của lịch đại, hay người tài nữ của một thời, đều vào trong ngọn bút phẩm bình. Chân nhân đi theo tiên, cùng là nông phu trông thấy quỷ, cũng không hiềm là quái đản. Thậm đến cột gỗ biện gian, Thái Tây truyền đạo, cùng những việc lạ ăn người, hóa hổ, cũng đều ghi chép. Từ Lý, Trần, Lê, Trịnh đến nay, trên dưới mấy trăm năm, có những điều quốc sử chưa ghi, dã sử chưa chép, hai ông đều thu cả vào trong cõi mắt tang thương. Nếu hai ông hết thảy đều cho là việc tang thương mà quên đi, thì những chuyện ấy phỏng được mấy lâu mà mai một đi mất. May mà lấy ngòi bút tang thương biên chép, nên nó còn là cánh bè chở bến mê, ngọn đèn soi nhà tối, đặt tên là Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết được vậy. Nay ông Gia Xuyên đã gặp thời mà để ý vào việc kiếm sách, bác Hải Nông chưa gặp thời mà dùng công vào việc khắc ván, cùng với tôi đều người trong cuộc tang thương mà ý thú tình cờ gặp nhau. Vì thế nên tôi quen mình bỉ lậu, viết mấy lời lên đầu giấy, mong rằng không vì tang thương mà phải bỏ đi thì may lắm. Hoàng triều năm Bính Thân(5) tháng tiểu xuân ngày thượng cán(6) https://thuviensach.vn Chủ nhân đình Tam An Phùng Dực Bằng Sô Cẩn tựa II. Việc không gì lớn bằng giữ gìn cái cũ, học không gì cần bằng bỏ trống chỗ ngờ, đó thật là lời nói biết lẽ. Nước Nam ta trải trăm nghìn năm, vẫn là một nước văn hiến cũ, nhà làm sử đời nào cũng có. Song từ Lê về trước phần nhiều giản lược, khiến cho người khảo cổ thường phải băn khoăn, vậy thì những dã sử ngoại truyện, sao nên để cho mai một. Mậu này từ thủa nhỏ hầu học gia nghiêm(7), thường được người đem những chuyện các bậc danh hiền đời trước của nước nhà mà kể cho nghe, như ông Hương cống họ Nguyễn ở làng Cổ Đô mải miết học tập(8), ông Thám hoa họ Giang ở làng Mông Phụ đi sứ vẻ vang(9), ông Trạng nguyên họ Vũ ở làng Trình Xá gieo ấn xuống bể mà chết theo nạn nước(10), và còn nhiều chuyện khác nữa. Đó cũng là đem những chuyện thật ở ngoài chính sử mà kể, trẻ dại biết gì, bấy giờ tôi chỉ biết vâng dạ mà thôi. Rồi sau đó đi làm quan xa, tôi từng được trông thấy tập Tang thương ngẫu lục ở nhà người bạn. Xem tên người viết thì là Tùng Niên và Kính Phủ, cũng chưa biết rõ là ai. Nhưng những chuyện biên chép trong đó, có nhiều chuyện đúng như tôi đã được nghe, vậy không còn ngờ gì đó là một tập chép những sự thực. Năm nay tôi ở nhà báo Đồng Văn, đã đem chuyện ông Hương cống Cổ Đô vào báo. Chợt người bạn cũ là bác Lê Hải Nông đem tập này đến mà bảo: “Đây là sách của bậc danh hiền làng tôi soạn ra, nay ông bạn đỗ đồng khoa của bác là quan Tổng đốc Hải Dương Đỗ https://thuviensach.vn Gia Xuyên quyên tiền lương bổng để khắc ván, vậy bác làm cho một bài tựa”. Hỏi ra thì Tùng Niên là quan Tế tửu Phạm Đình Hổ người làng Đan Loan, Kính Phủ là ông Hương cống Nguyễn Án đỗ khoa thi hương thứ nhất của Quốc triều, người làng Du Lâm. Hai ông sinh về thời Cảnh Hưng nhà Lê, đến khi hoàng triều dấy lên mới ứng mệnh mà ra làm quan. Trong khoảng đó Tây (Tây Sơn), Bắc (Tàu) tranh giành non sông biến đổi, trắng xanh nhấp nhoáng, chớp mắt muôn màu, những việc tang thương, nói làm sao xiết. Bộ sách này vốn không phải là đúng với bộ mặt thật, những chữ lầm lạc, không khỏi chen lẫn ít nhiều, vậy cứ để khuyết nghi là phải. Tựu trung ghi chép những việc tai nghe mắt thấy, đủ để bổ khuyết cho cái chỗ sử không chép đến. Có những câu chuyện quái đản, đại khái là rút ra từ nét bút của chức Tả sử(11) và để ngụ cái ý thâm vi. Ban đầu chép các vua Thần Tông, Hiển Tông, sau cùng thì lấy giấc mộng của Thánh Tông, Thuần Tông để kết. Chuyện thuộc về bên nhà Phật, đáng nhẽ người quân tử không nói, hai ông cũng đã rằng vậy. Vậy mà trong sách lại thường nói đến luôn, và chép một cách thẳng thắn, không tỏ ra nghi ngờ gì cả, chính là có ký thác một cái ý ở trong đó vậy. Chao ôi, đó há chẳng là ý “đối với cái thời các bậc anh hiền đời Tam Đại, ta chưa kịp thấy nhưng mà vẫn để lòng mong ước”(12) đấy ư? Thời nay phong khí mở mang, mỗi ngày mỗi lạ. Bên ngoài bể cả, bậc đá phẳng như đá mài, đường sắt giăng như bàn cờ, rực rỡ lầu pha lê, tưng bừng đèn điện khí, đó là nương dâu đó chăng? Lại như cắp cánh máy bay lên trên không, cưỡi khí cầu đi tìm Bắc cực. Sau đây mấy chục năm nữa, những dấu vết của thời kỳ cũ kỹ, há chẳng theo cùng một giấc mộng mà biến mất không còn tý gì. Song trạm khắc đã chán thì lại nhớ đồ mộc, góc giác đã vỡ thì lại nhớ hình tròn, đó là cái tình rất thường mà cái lý tất đến như thế. Lấy cái ý khuyết nghi tồn cổ mà suy, không nên cẩu thả làm cho văn xuôi chữ thuận, hẵng để dành lại cho những người học kỹ nghĩ https://thuviensach.vn sâu sau này, như nhời ở bài tựa quyển Chiến Quốc sách đã nói, Mậu đối với quyển sách này, cũng nghĩ như vậy. Niên hiệu Thành Thái năm Bính Thân sau tiết Đông chí. Phó bảng khoa Canh Thìn, trông coi công việc tòa báo Đồng Văn. Giá Sơn Kiều Oánh Mậu Cẩn tựa https://thuviensach.vn PHẦN I. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - QUYỂN THƯỢNG THẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ(13) Vua Kính Tông hồi tiên triều (triều Lê), ở ngôi lâu năm, mà chưa sinh hoàng nam để lập làm Thái tử, thường cầu khấn trời đất quỷ thần mãi. Rồi hoàng hậu Trịnh thị có mang, đến ngày lên giường cữ, mãi chưa sinh được, lòng vua lo lắng. Chợt vua chiêm bao thấy có người bảo: “Hoàng tử còn ở chợ Báo Thiên(14), hậu cung sinh mau sao được!”. Tỉnh dậy, vua sai nội giám thử ra chợ ấy dò xem. Bấy giờ vừa tang tảng sáng, chợ vắng tanh chưa có ai. Nội giám chỉ thấy dưới gầm phản hàng thịt, có lão ăn mày tóc bạc phơ, tuổi chừng 81, 82, đương nằm ở mặt đất mà rên hừ hừ, ngắc ngoải chờ chết. Nội giám vội chạy về tâu. Vua lại sai ra thăm hỏi xem. Sáng ra thì lão ăn mày chết mà giữa lúc ấy, trong cung hoàng hậu đã sinh ra hoàng tử. Hoàng tử nhớn lên nối ngôi, tức là Thần Tông. Khi ở ngôi, lấy ngày sinh làm tiết Thọ Dương. Hằng năm đến ngày, nhà chức trách dựng hành tại(15) ở chợ Báo Thiên; bộ Lễ sắm xe giá tàn quạt, đến nơi hành tại, rước hai cây thiên tuế, vạn tuế làm bằng trúc về cung; quan ở tòa Kinh Diên rước hai cây ấy đi quanh giường ngự ba vòng, chúc Hoàng đế sống lâu muôn tuổi. Lễ cử hành xong, vua ngự ở điện Vạn Thọ, chịu lễ chầu mừng, ban yến ở sân điện. Các triều vua sau cũng theo như thế, gọi là lễ Khánh Thọ bảo thần. Vua sinh được bốn con là Chân Tông, Huyền Tông, Gia Tông, Hy Tông đều lên ngôi thiên tử, phúc thọ vào bậc nhất ở đời trung hưng. https://thuviensach.vn Khoảng năm Vĩnh Hựu (1735-1740), vua Ý Tông thường chế hạc gỗ và lực sĩ Chiêm Thành (người phỗng) dâng cúng ở trước tượng thờ vua Lý Thần Tông tại chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích(16), vì tương truyền hậu thân vua Lý Thần Tông tức là vua Thần Tông triều Lê. Xét cái thuyết tiền thân, hậu thân là xuất tự kinh điển nhà Phật, người quân tử(17) chẳng hề nói đến. Nếu quả có chuyện ấy thật thì tiền thân vua Lý Thần Tông là thầy tu Từ Đạo Hạnh, hậu thân là lão già ở chợ Báo Thiên, lại hậu thân là vua Thần Tông triều Lê; một ông sư, một lão ăn mày, tái sinh vào nhà đế vương, khiến người không thể hiểu nổi. https://thuviensach.vn HIỂN TÔNG HOÀNG ĐẾ Năm Cảnh Hưng Ất Tỵ (1785), gặp kỳ lễ thọ thất tuần của Hiển Tông hoàng đế, đình thần là ông Bùi Huy Bích, ông Hồ Sĩ Đống ở trong chính phủ, bàn dâng tôn hiệu là Uyên Ý Khâm Cung Nhân Từ Đức Thọ Hoàng Đế và làm lễ trong ngày tiết Thánh Thọ. Bấy giờ việc chầu trong triều đường bỏ bễ từ lâu; nền điện cũ ở Nùng Sơn bỏ làm điện Kính Thiên, thờ Hiệu thiên Thượng đế (giời), Hậu thổ Địa kỳ (đất), và phụ phối đức Thái Tổ hoàng đế. Những ngày mồng một và rằm, vua ra coi chầu ở điện Cần Chính. Viện Đãi Lậu ở hai bên điện ấy nối nhau sụp đổ, cỏ mọc lên thềm và ngập đến đầu gối, phân ngựa vấy ra bừa bãi. Đến bấy giờ, sai viên Đề lĩnh đốc suất bọn vệ sĩ sửa dọn thềm son, chữa viện Đãi Lậu. Trước một ngày, quan Phủ doãn Phụng Thiên(18) là Hoàng Vĩnh Trân đem những thuộc quan mặc đồ triều phục, đến túc trực ở nhà giám Tư lễ, coi giữ biểu mừng. Đến ngày, hoàng thượng ngự lên bảo tọa, hai ban văn võ dàn theo thứ tự. Ông Hoàng tử Đại tư đồ Sùng Nhượng công đứng đầu võ ban, ông Hồ Sĩ Đống đứng thứ hai; Quốc lão quận công Nguyễn Công Hãng(19) đứng đầu văn ban, ông Bùi Huy Bích đứng thứ hai. Tòa Hồng lô róng rả các viên Tự ban trong sở Hạp môn, chia ra nội tán ngoại tán để xướng lễ. Ông Phan Huy Ích quỳ ở phía hữu ngự điện, tuyên đọc tờ biểu, tiếng vang ra tận cửa Đoan Môn. Lễ thành, viên thái giám mặc áo bào hồng, thắt đai văn tê, từ phía hữu ngự tọa xuống thềm tuyên chỉ, ban yến ở viện Đãi Lậu. Những ông già bà cả ở kinh đô đều nói: https://thuviensach.vn - Từ niên hiệu Chính Hòa(20) đến nay, trải 80 năm, không được trông thấy lễ này. Tờ biểu (có chép trong sách Hoàng Việt văn tuyển) mở đầu có hai vế: 黼座天開,龜籌薦壽康之福 Phủ tọa thiên khai, quy trù tiến thọ khang chi phúc, 彤庭日麗,虎拜揚保定之休 Đồng đình nhật lệ, hổ bái dương bảo định chi hưu. (Ngai thêu trời mở, thẻ rùa dâng phúc thọ khang. Sân son nắng chiếu, gối hổ chúc lành bảo định). Giữa có hai vế: 千春歷始登四紀 Thiên xuân lịch thủy đăng tứ kỷ, 萬年籌初逮七旬 Vạn niên trù sơ đại thất tuần. (Lịch nghìn xuân mới lên bốn kỷ(21); Thẻ muôn năm vừa tới bảy tuần). Còn nữa không chép ra đây hết. https://thuviensach.vn CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA Kính Phủ Sau khi vạc đổi(22), có tên Đang làm mướn cho tôi. Vốn là chân nội thị đời chúa Tĩnh Vương(23), kể lại những chuyện cũ ở trong cung phủ rất tường. Mỗi năm đến Tết trung thu, từ trước mấy tháng, chúa phát gấm trong cung ra để làm hàng trăm hàng nghìn cái đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Đến ngày, chúa ngự giá ra chơi Bắc cung. Cung có ao gọi là Long Trì, rộng nửa dặm, trong ao trồng rất nhiều hoa sen, hoa súng. Ven ao đắp đất, chồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, dàn đặt có hình có thế. Có những chỗ khuỷu để cho nhạc công ngồi đàn sáo. Bờ ao trồng hàng mấy trăm cây phù dung, treo đèn ở trên. Sóng trăng dập dờn, trông xa tựa hồ hàng vạn ngôi sao sáng. Nội thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn mặc áo như đàn bà, bày hàng ở rìa đường, bán những tạp hóa cùng các đồ hoa quả, chả, rượu, thức gì cũng có, chồng chất như núi. Cung nhân qua lại mua bán, vừa mua vừa cướp, không cần hỏi giá cả bao nhiêu; đua nhau đem những câu hát quê ra đối chọi với nhau, tiếng cười đùa vang cả trong ngoài. Nửa đêm chúa ngự kiệu đến ao, xuống thuyền. Quan hầu và các phi thiếp gõ ván hò reo, đi lại vùn vụt và lênh đênh trên sông. Chợt lúc lại đánh đàn, lại thổi sáo, lại ca hát, tiếng vang lanh lảnh, khiến người tưởng như lên chơi cung Quảng hàn(24) mà nghe khúc nhạc Quân thiên(25). Chúa nhìn ngắm lấy làm vui sướng, đến mãi gà gáy mới về. https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN DUY THÌ Quan Thượng thư Nguyễn Duy Thì là quan tể tướng có tiếng đời Trung hưng, giữ mình ngay thẳng và khéo xoay đổi được ý của vua chúa. Trong phủ chúa có một cái kiệu, kiểu cách và sơn vẽ rất lộng lẫy. Một hôm, ông đứng cạnh, chợt ngã vật vào trong kiệu, cấm khẩu, không nói được câu gì. Chúa sai khiêng đưa về phủ. Sáng hôm sau, ông vào khải(26) rằng: - Thần hôm qua ngộ cảm, đội ơn chúa thượng bao dung. Cái kiệu ấy, thần đã trót ốm nằm lên rồi, không tiện lại tiến phụng nữa. Xin sẽ sắm cái khác đẹp đẽ hơn, dâng nộp. Chúa hiểu ý, không trách hỏi nữa. Một lần, ông vào xin phép chúa để về Yên Lãng(27). Bấy giờ chúa yêu một bà phi người làng Mông Phụ, bà phi ấy được yêu chiều quý báu nên uy thế cũng khá to. Ông vẫn thường nói xa để khuyên ngăn chúa. Nay nhân dịp ông cáo về vắng, chúa ngự thuyền rồng lên kinh lý Sơn Tây, tiện đường rẽ vào thăm làng nhà bà phi. Thuyền chúa qua hạt Yên Lãng. Ông chờ rồi phục lạy ở bến sông, nói bốn phương không có giặc giã, sao lại vì một người đàn bà mà làm nhọc đến sáu quân, như vậy quốc thể còn ra sao nữa. Kíp truyền cho quân sĩ không được bơi thuyền tiến lên, hễ ai trái, sẽ lấy quân pháp trị tội. Chúa vì thế phải hồi loan. Trong phủ(28) của ông có một nếp nhà gọi là nhà Tư chính(29), đó là nơi để khi lui chầu, ông về nghỉ ngơi. Trong nhà ấy chỉ có hai gã tiểu đồng hầu hạ; bà vợ và hầu thiếp, không ai được bén mảng tới, và cũng không dám đem việc riêng kêu xin gì cả. Một lần, có một cái án lớn, tội nhân đáng phải tử hình. Người nhà đem tiền của chạy https://thuviensach.vn chọt hết các cửa quyền quý, nhưng ai cũng bó tay, không thể cứu nổi. Người vợ tội nhân đón hai tiểu đồng mà khóc lạy, nhờ đưa hai nghìn lạng bạc lễ ông để ông gỡ tội cho. Tiểu đồng xua tay nói: - Tướng công đây không phải là người đem vàng bạc làm động lòng được. Nhưng tôi không nỡ trông thấy chị đau đớn, vậy để hẵng thử xem. Tiểu đồng đem bạc vào nhà Tư chính, để trên cạnh giường ông nằm. Đêm khuya, ông chợt từ trong chính phủ về, trèo lên giường nằm, đụng phải; bạc rơi loảng xoảng xuống đất. Giật mình hỏi tiểu đồng sao lại có những vật này. Tiểu đồng quỳ xuống xin chịu tội chết và nói duyên cớ. Ông im lặng lúc lâu rồi nói: - Thôi cho đứng dậy, ta không bắt tội mày. Tử hình là một cái án lớn. Vì mối lợi hai nghìn lạng, mày là một đứa bé con dám đem cái chết để đương lấy. Hoặc giả bởi ý giời chăng? Thế mụ ấy cho mày bao nhiêu? - Bẩm sáu trăm lạng. - Thôi, số bạc này cho mày, ta không dùng gì đến. Liền ngay lúc ấy, ông đi xe đến gõ cửa cung. Chúa giật mình trở dậy, cho vời vào, hỏi chuyện, tưởng là có việc gì lớn lao về quân quốc. Ông nói hôm qua xét án, đã xử tội nhân phải chết, nhưng đêm về chiêm bao, thấy có người nói oan ức, không biết kêu đâu, vậy xin nhờ chúa xét lại! Chúa cười: - Tiên sinh chịu khó quá, để đến sáng mai vào hầu sẽ nói có được không? - Nhưng thần sợ để chậm, chốc lát rồi bị ý riêng nó làm thay đổi đi. https://thuviensach.vn Chúa ân cần yên ủy mà tên tù rồi được khỏi chết. https://thuviensach.vn HỒ GƯƠM Đời Lê, năm Cảnh Hưng Bính Ngọ [1786] mùa hạ, tại hồ Hoàn Kiếm, đương nửa đêm bỗng có vật gì mọc lên ở hòn đảo, sáng rực bốn bề, bay sang đến bờ nam thì tắt. Sóng hồ cuộn lên. Sáng hôm sau, tôm cá nổi lên mặt hồ không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói ở nhà Trung Hòa trong phủ chúa, cũng có vật gì mọc lên từ nóc nhà, sáng rực rồi tắt, cũng giống như ở hồ Hoàn Kiếm. Chưa bao lâu xảy ra việc quốc biến(30). https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI Ông Nguyễn Văn Giai ở Thiên Lộc(31) hồi chưởng quản Lục bộ, các bậc thân quý của vua chúa đều phải nín hơi, không dám xúc phạm. Một vị quận mã(32) trong phủ chúa đi đánh trận thua chạy, ông bắt bỏ ngục, rồi xử vào tội tử. Chúa muốn tha nhưng rất khó nói. Nhân cầu đến dụ chỉ nhà vua, cũng vẫn không lay được chí định của ông. Bấy giờ ông có nhiều vợ, có đến năm sáu bà, địa vị hầu như là bà Chính phu nhân, mà có bà Ba được ông yêu dấu lắm. Bà quận chúa đem châu ngọc, nhờ bà phó mẫu(33) dẫn đến thăm bà ba và kể việc quận mã. Bà Ba từ chối mà rằng: - Tướng công tôi là người thanh liêm, thẳng thắn. Việc lớn của triều đình, tôi đâu dám dự. Quận chúa cố nói thiết thảm, bà Ba bèn bảo: - Nếu vậy sáng mai, quận chúa cho đem một con lợn nhỏ luộc chín, một mâm xôi thổi nếp cái, và kèm cả tương giấm, dao thớt nữa, lựa lúc tướng công tôi đi vắng, đưa vào. Quận chúa mừng rỡ cảm ơn. Sáng hôm sau, sắp sửa vào triều, ông bảo dọn cơm sáng để ăn. Bà Ba nói: - Trong triều bây giờ các quan đến đầy rồi. Tướng công hãy vào rồi về sẽ xơi cơm thì hơn. Ông lên kiệu đi. Lúc ở trong triều về thì bụng đói ngấu, thấy cái lồng bàn đậy, mở ra, sẵn dao và thớt, thái luôn ngay thịt lợn ăn lẫn với xôi. Chỉ có một lúc hết cả. Ăn xong, ông chợt hỏi: https://thuviensach.vn - À, những thứ ấy ở đâu mà có thế nhỉ? Bà Ba kể duyên do. Ông rất tức bực, lúc lâu mới nói: - Ta lầm lỗi rồi! Ta lầm lỗi rồi! Nhưng vì một bữa ăn no mà làm sống một mạng người, chẳng cũng bởi giời hay sao! Liền lên xe vào phủ, xin tha cho người có tội. Chúa mừng rỡ mà nghe theo ngay. Một hôm, ông vào triều đi qua chợ Cửa Đông, thấy con cá mè lớn, bề ngang đẫy thước. Ông dừng lại hỏi và khen ngợi. Rồi ông về nhà, thấy rất nhiều người đem biếu cá, toàn là những khúc cá mè cả. Ông đùa, bảo thử chắp lại xem, thấy chỉ thiếu đuôi, còn thì đều đủ thân hình con cá. Ông than rằng: - Có lẽ con cháu ta sau này không được thịnh vượng chăng(34)? Sau khi ông mất, quả đúng như lời ấy. …(35) Sau đấy, Quốc lão Phạm Công Trứ cầm quyền quốc chính. Có một viên tù trưởng thượng du phạm tội chết. Chị vợ luồn lọt với người bếp nhà ông. Người bếp xui đem biếu chim sẻ vàng, vì đó là món ông rất thích. Đem chim sẻ đến, người bếp nướng chả dâng lên. Ông ăn xong rồi hỏi. Người bếp đưa số vàng lễ ra và phục xuống xin chịu tội. Ông thò tay vào cổ họng móc để thổ ra rồi nói: - Thôi, mày đem số vàng ấy đi, tao tha cho không quở trách nữa. Khi án đem ra xử, ông nói với chúa Trịnh tha cho người tù trưởng ấy. Chúa cũng nghe theo. Việc này với việc trên kia thật giống nhau. https://thuviensach.vn Ôi! Hai ông đều là những quan Tể tướng có tiếng đời Trung hưng; một người thì vì thịt lợn, một người thì vì chả chim, vậy những sự ưa thích, há chẳng rất nên cẩn thận! https://thuviensach.vn NGƯỜI NÔNG PHU Ở NHƯ KINH Tùng Niên Năm Kỷ Dậu (1789), binh lửa vừa yên, bệnh dịch nổi lên rất dữ. Người ta thường ban ngày trông thấy ma quỷ, tiếng kêu rên cùng tiếng khóc chen lẫn với nhau. Bạn tôi, bác Ninh Quý Hoằng, người ở Khôi Tri(36) thuật cho tôi nghe câu chuyện rằng: “Một bác nông phu, người làng Như Kinh, đi ra ngoài đồng kiếm củi, gặp một đám đại quân tiến đến, bèn đặt gánh củi xuống, đứng tránh bên đường. Người lính đi đầu, đầu quấn khăn đỏ(37), tay cầm gươm, chính là người quen cũ của bác nông phu. Người ấy thấy bác, rất vui mừng, trật khăn ở trên đầu mình, đội cho bác rồi rủ vào hàng cơm, uống rượu chả nướng. Chẳng thấy chủ hàng hỏi gì cả. Bấy giờ đương hồi đói khát, bác nông phu được bữa thết, ăn uống thật no say. Chẳng mấy chốc, đạo trung quân đến; xe ngựa kéo qua đông nghìn nghịt và rất mau gấp. Người lính vội đứng lên giật lấy cái khăn rồi đi ra. Bác nông phu ngồi đấy làm cho chủ hàng và khách ăn đều phải giật mình. Họ bắt giữ lấy vì cho là ma quỷ(38). Nông phu kể việc mình đã thấy, đưa chủ hàng đến chỗ mình đặt gánh củi bên đường thì hai bó củi vẫn còn nguyên. Chủ hàng bèn tha cho đi”. https://thuviensach.vn NGƯỜI NÔNG PHU Ở AN MÔ Ông Ninh lại nói chuyện: “Năm ấy, ở một làng nhỏ trong huyện An Mô, có người nông phu rất nghèo khổ, phải đi ăn xin, đêm cùng với một người đồng bạn ngủ ở cái quán trống không, bên cạnh đường cái quan. Đêm khuya, bụng đói nóng sôi, nằm trằn trọc không sao ngủ được. Bấy giờ trăng sáng lờ mờ, xa trông thấy quân mã kéo đi đông nghịt. Hai người cũng trông nhau sợ hãi, chui xuống gầm chõng nằm, khẽ nhìn ngó ra, nín hơi không dám thở mạnh. Ước độ nửa trống canh, thấy chiêng trống cờ quạt đi xúm chung quanh một cái kiệu bát cống đến, dừng lại ở trước quán. Trống chiêng tạm ngừng, thấy truyền gọi xã lệnh làng ấy ra hỏi, tiếng vang vang như là tiếng sấm. Không mấy chốc, thấy có một người đội mũ phốc đầu(39), mặc áo thụng, đến quỳ ở trước kiệu nói rằng: - Tôi là xã lệnh ở làng mỗ xin ra bái yết. Bác nông phu nhìn ra, thấy giống như tạc pho tượng ở đình làng. Rồi trong kiệu truyền hỏi sổ lính đã làm xong chưa. Xã lệnh dập đầu nói: - Chúng tôi đây làng nhỏ dân nghèo. Nay sau cơn binh lửa, họ đi trôi dạt chưa về, không lấy ai để bắt nộp được. Trong kiệu quát lớn: https://thuviensach.vn - Ta phụng lệnh điểm binh. Lệnh ra đã lâu mà nhà ngươi cố ý nói quanh, không nộp cho đủ. Vậy phải lấy quân pháp thi hành mới được. Bên cạnh kiệu có mấy viên mặc đồ triều phục quỳ xuống kêu xin: - Vị thần này sáng suốt thẳng thắn, vẫn được Đế đình ban khen, vậy xin ngài hãy rộng tha cho. Nhân thúc viên xã lệnh đưa sổ lính ra nộp. Xã lệnh bất đắc dĩ khai hai tên đinh ở trong làng, mà một tên chính là bác nông phu này. Cả hai đều là người nghèo kiết, không bấu víu vào đâu mà sống. Trong kiệu truyền ra cho quan hầu nhận sổ rồi lại rầm rộ kéo đi. Gà trong xóm lúc ấy đã bắt đầu gáy sáng. Bác nông phu sợ toát mồ hôi, cùng người đồng bạn lật đật ra về. Nhưng cũng lấy sự được thoát khỏi bể khổ làm mừng, nói với người làng cho một bữa ăn uống no say để chết. Người làng cũng ưng cho. Sau đó không bao lâu thì hắn ốm chết, mà một người nữa bị biên tên vào sổ cũng vậy”. https://thuviensach.vn MA ĐỒNG XUÂN Kính Phủ Ông Trần Văn Vỹ, người làng Từ Ô, khi đi thi hội, trọ ở phường Đồng Xuân, nhà cũ của viên nội thần là quận Báu, tức là ngụ sở của ông ngoại tôi là quan Thiêm hiến, hiệu Thanh Khê. Trên gác nhà ấy có lắm yêu quái, hoặc hiện thành một vật to như cái đấu, đỏ chói và sáng rực bốn bề, một nhoáng thì tắt; hoặc kêu reo ở trên xà nhà, soi đèn thì chẳng thấy gì cả. Ông Trần không tin, kê giường lên nằm trên ấy, nói ma quái muốn trêu thì cứ trêu mình. Ngày đêm đọc sách mải miết. Một hôm mỏi mệt nằm ngủ, ông thấy có một người con gái trẻ đẹp, đến gõ vào giường mà nói: - Nhà Lê sắp mất, ông cũng không đỗ, đừng đọc sách để nạt tôi nữa. Rồi ngâm một câu thơ: 沙場隱隱見漁村 Sa tràng ẩn ẩn kiến ngư thôn. Nghĩa là: Chốn sa tràng thấp thoáng thấy xóm phường chài. Trần tỉnh dậy hãy còn ghi nhớ, bèn phải triệt giường không dám nằm đấy nữa. Năm ấy, Trần đi thi không đỗ. Chưa bao lâu, xảy việc quốc biến. https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN CÔNG HÃNG Thượng thư Nguyễn Công Hãng là quan Tể tướng có danh đời chúa An Vương (Trịnh Cương)(40). Năm 21 tuổi, đỗ tiến sĩ, làm Đốc trấn An Bang (Quảng Yên). Đất trấn ấy, lưng dựa vào núi, mặt trông ra bể. Vua Hồng Thuận (Tương Dực) xưa có thơ ngự chế, khắc vào đá, trong có câu: 巨浸汪洋朝百川 Cự tẩm nông dương triều bách xuyên Nghĩa là: Bể lớn mênh mông trăm sông chầu về. Ông chép bài thơ ấy cho các bạn đỗ đồng niên, chép lầm chữ “巨 cự” ra chữ “匝 táp” nên có người thường chế giễu. Ông từ chức về kinh, học những điển cố, luật lệnh, sổ sách của triều đình, ba năm thuộc hết, bèn nói: - Được rồi! Bèn lại xin lĩnh chức. Ông đứng ở trong triều, gặp việc gì, cũng bạo can ngăn, lời nói thường tha thiết, thẳng thắn, làm cho chúa phải tan cơn giận. Khi đi sứ, làm bài khải tạ, có câu: “Xoa vuốt vây rồng, từng thấy tạnh quang cơn sấm sét”, chính là lời nói đúng sự thực. Năm thứ 57 niên hiệu Khang Hy (1719) đời nhà Thanh, gặp kỳ tuế cống, ông do chức Binh bộ Tả thị lang sung làm Chánh sứ. Nguyên xưa, đức Thái Tổ hoàng đế (Lê Lợi) cùng quân Minh đánh nhau ở núi Mã Yên(41), chém chết tướng Minh là An Viễn hầu Liễu Thăng. Đến khi giảng hòa, nộp cống, người Minh bắt đền, phải đúc người vàng thay thế. Đến hồi nhà Mạc cướp ngôi, Minh sai https://thuviensach.vn Cừu Loan, Bao Bá Ôn sang đánh; Mạc sợ phải đúc người vàng đút lót để cầu hòa. Đầu đời Trung hưng, nhà Minh lấy cớ tự tiện giết công thần của họ là Mạc Mậu Hợp, bắt phải đúc người vàng tạ lỗi, từ đấy thành thường lệ của sự tiến cống. Đến ông xin bãi bỏ lệ ấy. Các bộ viện đem cố sự ra hỏi. Ông nói: - Quốc vương tôi ngày nay giữ gìn nghiệp cũ, không dám bỏ khoáng việc chức cống. Còn cái chuyện cũ về việc thâu thành nạp khoản thì sứ thần không dám biết. Họ lại hặc(42) về chuyện Liễu Thăng. Ông nói: - Liễu Thăng là tướng nhà Minh. Hoàng Thanh(43) nay bao gồm có cả muôn nước, lại đi khư khư đòi món của đút để trả mối thù của người xưa. Như vậy sao đủ để làm khuôn mẫu cho người sau. Lệ cống phải có hũ nước để rửa ngọc trai, lấy ở cái giếng tại Loa Thành. Ông đổ đi, múc nước giếng Ba Sơn đem theo. Họ thử, không thấy nghiệm, kỳ kèo(44). Ông nói: - Vì khí mạch lâu ngày nó biến đổi đi. Hai thứ đồ cống ấy được miễn là bắt đầu từ ông vậy. Đi sứ về, cùng ông Lê Anh Tuấn ở Thanh Mai cùng làm Tể tướng, hăm hở lấy việc thiên hạ làm trách nhiệm của mình, đem hết tâm tư, nghĩ việc chế tác, những phép tắc các chốn dinh tòa, đều là do ông sửa định cả. Vì nghĩ từ hồi Trung hưng về sau, những thể lệ về việc mũ áo trăm quan chưa được đúng hợp. Khi đi sứ, ông để ý kiếm tìm chế độ nhà Minh đem về; bèn sửa lại các đồ phẩm phục. Phàm khi đại triều, các quan đội mũ phốc đầu, mặc áo bổ phục(45), đỏ là trên, lần xuống đến xanh, đến tím. Đồ mặc ngày thường làm việc thì văn chít khăn lang cân, võ chít khăn yến vĩ, mặc áo thanh cát che đằng sau, thứ đến hạng chít khăn chữ đinh. Quân https://thuviensach.vn phục thì nón thầy chùa, áo chẽn tay. Những thể thức ấy đến nay hãy còn dùng. Tính hay khích lệ khí tiết của kẻ sĩ; học trò trường Giám, thường cho được ngồi nói chuyện với các quan như thể ngang hàng. Bắt chước lối kinh nghĩa của Tàu, sai các Nho thần phải tập, muốn thay đổi thể văn để thi học trò nhưng việc không thành. Vì thấy sự tiêu dùng của nhà nước không đủ, nên giảm bớt số ruộng của các công thần, bị nhiều người oán. Chúa Trịnh muốn cho được mở phủ như ông Nguyễn Duy Thì đầu đời Trung hưng, sau có người gạt đi nên lại thôi. Khi Uy vương (Trịnh Giang) làm thế tử, An vương (Trịnh Cương) sai ông làm chức sư phó. Ông mật đệ tờ khải(46) lên chúa, nói thế tử là người lười biếng, không thể gánh vác công việc được. An vương nói: - Ta không phải không biết như thế, nhưng nghĩ từ ngày quyền lý việc nước, hắn không có lỗi gì lớn cho nên chưa nỡ. Ông dập đầu nói: - Biết con không ai bằng cha. Xin chúa thượng nên vì xã tắc mà lo tính. Chúa Trịnh bèn cất tờ khải vào trong một cái hộp. Gặp kỳ đại lễ, thế tử làm lễ sai nhầm. Chúa giận, vời đình thần vào họp, định truất bỏ đi. Việc chưa làm xong thì chúa nhân sang chơi Cổ Bi, mất ở dọc đường. Ông bấy giờ ở kinh, Kỳ Viên phi giấu không phát tang, về đến kinh mới báo tin dữ. Ông họp trăm quan ở Đô đường nói rằng: https://thuviensach.vn - Thế tử có tội với Tiên vương, Tiên vương đã có nói, vậy nay sao ta không bàn lập ông thứ? Mọi người đều lặng im. Ông Nguyễn Hiệu, người ở Lan Khê, là thầy học của thế tử, cãi lại nói: - Thế tử có lỗi gì đâu! Lời Tiên vương nói chỉ là để răn bảo. Không nên khinh dị mà bàn đến việc ấy. Thế tử lên nối ngôi, bắt được tờ khải của ông, bèn đem ông lên an trí ở Tuyên Quang, liền lại sai Trung sứ đánh thuốc độc cho chết. Xưa, An vương vì biết trong kiểu đất nhà mình có câu “truyền được tám đời thì vạ nổi từ trong tường vách”, nên mới bày cuộc xây dựng ở Cổ Bi để yểm trừ. Vương thường bảo ông rằng: - Đất quý Cửu Long, tiên sinh nên đem mả nhà đến mà táng, đừng để rồi họ khác chiếm mất. Vì thế rồi ông bị những nhời nói gièm. Khi đi sứ Tàu, qua thành Ứng Sơn, có làm bài thơ viếng Trung Liệt công(47) ở Dương Thúy am, trong có hai câu: 暗主休論崇愛豎 Ám chúa hưu luân sùng ái thụ, 皇天何忍毒忠臣 Hoàng thiên hà nhẫn độc trung thần. Nghĩa là: Kể gì chuyện một ông vua mờ tối đi tin yêu một anh quan hoạn, chỉ đáng phàn nàn sao ông giời lại nỡ độc hại người tôi trung. Hai câu này tỏ ra là lời sấm ứng nghiệm vào đời ông về sau. https://thuviensach.vn Đời truyền một hôm có một thầy xem bói chiết tự(48) vào thăm. Ông bảo xem cho mình. Nhân viết mấy chữ “十二月花殘 thập nhị nguyệt hoa tàn” (Tháng 12 hoa tàn) cho người ấy đoán; người ấy khuyên ông nên xử theo cách “cấp lưu dũng thoái”(49). Ông im lặng không nói gì. Chưa bao lâu thì xảy ra tai vạ. Người thầy bói này không rõ tên họ, thường hay đi lại ở các nhà công khanh, nói nhiều câu ứng nghiệm lắm. Cuối đời Long Đức (Lê Thuần Tông) (1732-1735) vua Hiển Tông là địa vị con nối mà không được lập, trốn ở trên cái gác chuông chùa Phật Tích, gặp người thầy bói ấy, vua bảo xem hộ và viết một chữ “景 cảnh”. Người ấy liền phục lạy mà nói: - Mặt giời soi xuống kinh đô(50), đó là cái tượng Thiên tử rồi. Quả nhiên, sau vua Ý Tông (1735-1740) nhường ngôi. Hiển Tông được lập, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786). Một thuyết nói: Khi ông làm Tể tướng, có một ông quan trong triều ốm sắp chết, học trò đến lễ cầu đảo ở đền Tản Viên, chiêm bao thấy thần bảo: “Tòa Nam Đẩu giữ việc chú sinh(51), đó không phải việc của ta”. Người học trò cố kêu xin. Thần bảo: “Tướng công Nguyễn Hãng là bậc dị nhân, sao không đến kêu với ông ấy!” Tỉnh dậy, người ấy về kể chuyện với ông. Ông bảo cho sống thêm một kỷ(52) nữa. Sau quả nhiên đúng như lời nói. https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN BÁ DƯƠNG Tùng Niên Ông Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyễn Xá, huyện Thần Khê. Tính tuệch toạc, thích uống rượu. Nhà nghèo kiết, nhưng vẫn sống một cách thản nhiên. Hồi lên du học ở kinh sư, ngoài một tấm áo, không có một cái gì đáng giá. Thường uống chịu rượu của người đàn bà kẻ Mơ (Hoàng Mai) nợ đến trăm đồng tiền, bị người đàn bà ấy đón đường để đòi. Cùng đi với người đàn bà, có cô con gái cũng người kẻ Mơ. Cô đặt gánh xuống can ngăn người đàn bà kia không được, tức mình cởi tiền lưng ra giả hộ, rồi vội quẩy gánh đi. Ông đuổi theo tạ ơn và hỏi họ tên. Cô xua tay nói: - Tôi thấy cậu là học trò, vì nỗi rượu chè mà bị xấu hổ với một người đàn bà, nên không đành lòng mà giả hộ, không có ý gì mong sự đền báo. Nói rồi đi thẳng, không ngoảnh lại. Ông trở lại, hỏi người đàn bà, rồi ghi để vào lòng. Sau quẩy cặp lên du học ở Sơn Tây, trọ ở một nhà hào trưởng. Thường làm văn, không có giấy viết, phải viết cả vào ghế, son mực nhằng nhịt, màu gỗ lèm nhèm. Gặp năm thi hương, ông từ biệt chủ trọ về quê đi thi. Qua các kỳ khảo ở huyện và ở trấn, nức tiếng là người hay chữ. Khoa ấy, thi đỗ Hương tiến, năm sau lại đỗ luôn Tiến sĩ, cùng bảng với ông Ngô Thì Sĩ. Các bạn đồng khoa ai nấy đã xe ngựa tôi đòi rộn rịp, nhưng ông vẫn nằm khoèo ở nhà trọ. Một bà quận phu nhân nghe tin ông đỗ, sai người đem kiệu đến đón, ước sự hôn nhân, gọi những con cháu https://thuviensach.vn mấy chục người ra, người nào cũng tha thướt gấm là, cho tùy ông kén chọn. Nhưng ông một mực xin lấy cô gái làng Mơ. Quận phu nhân nói: - Cũng được. Bèn sai đem xe ngựa vàng lụa đi đón cô gái làng Mơ về cho ông lấy làm vợ chính, còn người cháu gái quận phu nhân thì làm vợ thứ. Người ở kinh đô đều nắc nỏm khen là một câu chuyện hay. Làm quan trong triều, ông có tiếng là thẳng tính. Khi giữ việc hình án Ái Châu (Thanh Hóa), có viên án trấn Mỗ, cậy thế chính cung Đặng phi, làm việc càn bậy. Ông bắt trói, bách phải nộp ra số tiền ăn đút, nếu không sẽ đánh trượng cho chết. Mỗ phải nộp ra số tiền đã ăn đút bốn trăm lạng vàng. Ông bỏ Mỗ vào ngục, rồi lập tức giong xe về kinh, đem số vàng hối lộ, kèm cả một tờ khải đưa vào chúa Trịnh. Đặng phi nghe tin việc Mỗ bị nhục, khóc kể với chúa. Chúa cười mà rằng: - Số vàng ăn đút hiện có đây, còn oan gì nữa! Phi hổ thẹn lui ra. Mỗ bèn phải tội. Người Ái Châu đến nay hãy còn khen và kể lại. Đời truyền rằng khi ông chưa đỗ, du học ở kinh đô, một hôm gặp Bính Trung công, người ở Diên Hưng, đương chống gậy đứng ở cửa tư đệ(53). Công chợt hỏi rồi trỏ bức hình thông đá đắp ở trên tường bảo ông làm bài đề. Ông cầm bút đề ngay một bài tứ tuyệt: 石上青松百尺長 Thạch thượng thanh tùng bách xích trường, 飛花滿洞水生香 Phi hoa mãn động thủy sinh hương, https://thuviensach.vn 叮嚀樵子休輕伐 Đinh ninh tiều tử hưu khinh phạt, 留取他年作棟梁 Lưu thủ tha niên tác đống lương. Dịch: Trăm thước thông trên đá vững vàng, Hoa bay đầy động nước sinh hương. Đinh ninh dặn chú tiều đừng đẵn, Dành để mai sau chuốt cột rường. Bính Trung công khen ngợi, tặng cho năm quan tiền. Khoảng cuối niên hiệu Cảnh Hưng (1786), bài thơ đề vách ấy vẫn còn. https://thuviensach.vn QUẬN MÃ ĐẶNG LÂN Kính Phủ Quận mã Đặng Lân là em bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương(54), thường hay ngông càn phạm phép. Y cưỡng gian một người đàn bà không được, bèn cắt vú người ta. Người chồng kiện đến quan, y bị giam ở ngục Ngự sử đài, rồi vì có phi xin cho mà được tha. Tĩnh Vương đem nàng quận chúa thứ hai gả cho Lân, các đồ trang liêm và của hồi môn, so với các triều trước, nhiều gấp mười lần. Phủ đệ dựng ở phía tây nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức dùng đàng hoàng như một vị vương giả. Lân càng làm nhiều sự càn dỡ, nuôi trong nhà hơn trăm gia đồng, thường cho đội mũ, đeo gươm, ra ngoài chợ phố đi nhung nhăng, uống rượu say, đánh người bị thương. Quan Kinh doãn không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo đến hàng mấy chục con chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, hét trước hò sau, lấp cả đường lối. Một lần, nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là Sử Thọ hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào bắt. Quan Thự phủ quận mã Hoàng Bỉnh Khiêm đến quát mắng, Lân sợ không dám nhúc nhích, bèn bị bắt tống ngục. Đình thần họp bàn không biết quyết định ra sao, sau cùng xin với phi đày Lân ra ở An Quảng. Lân xếp dọn nhà cửa, mặc áo tù đi ra khỏi kinh. Nhà chức sự sắm sẵn ghe thuyền ở bến sông Nhị Hà, y đem theo nàng hầu vợ lẽ rất nhiều, tiếng đàn sáo véo von không dứt. Ra đến nơi, quan địa phương phải làm nhà cửa cho y ở. Về sau, Tuyên phi và Cung quốc công (Trịnh Cán) bị phế. Đặng Lân bị bắt bỏ ngục rồi nhịn ăn mà chết. https://thuviensach.vn THÀNH ĐẠO TỬ Thành Đạo Tử người ở Sơn Tây, tuổi trẻ thi đỗ Hương tiến, rồi chán nghề thi cử, đi giang hồ bông lông. Sau gặp và đi theo chân nhân Phạm Viên, vết chân trải khắp những sông to núi đẹp. Một hôm cùng với hai người đồng bối theo chân nhân đi chơi trên bể. Giữa khoảng gió to sóng lớn, bỗng thấy một con đường dài quanh co như ruột dê. Mọi người trèo lên chơi, rồi đi đến một trái núi, thấy có những cây cối um tùm, những quả đào lớn bằng cái đấu. Chân nhân ngồi tạm nghỉ, nghiêng bầu uống rượu, cho mỗi người mấy quả đào và bảo đừng ai giấu hạt đem về. Kẻ theo hầu đều vâng nghe. Uống rượu xong, chân nhân ra đi. Thành Đạo Tử đi sau, cho là chân nhân không biết, giấu hạt trong lòng. Rồi lẩn quẩn nửa ngày không tìm được đường đi ra. Nghĩ có lẽ vì hạt đào giấu ở trong mình, bèn sờ lấy vất đi, mới đi ra được khỏi núi. Chân nhân đương ở phía trước, ngồi rót rượu uống, thấy Thành Đạo Tử đến, cười mà bảo rằng: - Sao đi chậm thế? Rồi chân nhân lấy một quyển sách bí mật trao cho, đoạn cùng với mấy người theo hầu bay vụt đi mất. Thành Đạo Tử trở về, đi phóng lãng khắp nơi sơn thủy. Một lần cùng với kẻ đồ đệ đi chơi, dọc đường vào gõ cửa một nhà, hỏi thăm chủ nhân cận trạng(55) ra sao. Người coi cửa mỉm cười nói: - Chủ nhân tôi mắc chứng đau tim, bùa dấu tốn kém, vẫn chẳng ăn thua gì. Chẳng hay tiên sinh có chữa được không? Thành Đạo Tử đáp: - Chữa được. https://thuviensach.vn Người coi cửa mừng rỡ vào nói với bà chủ. Bà chủ mời vào, làm rượu thết, sai người nhà sắm sửa đàn tràng. Thành Đạo ngăn đi mà rằng: - Không cần. Kìa, trên nóc nhà có một con ma nó cầm ngọn giáo đâm vào tim người bệnh. Bây giờ bắt một con cóc treo lên dọa nó, tự khắc nó phải lui. Nhà chủ nghe nhời làm theo. Bệnh quả nhiên khỏi. Nhà chủ đưa biếu rất hậu, nhưng Thành Đạo nhất định không lấy. Thành Đạo lên chơi núi Thu Tinh, cầm đuốc vào soi xem trong hang, giữa chừng đuốc tắt, không biết lối nào mà ra cả. Trong hang có những tủy đá nát nhẽo như bùn, ăn thấy mùi thơm ngon và khỏi được đói. Sau lâu thấy có một cái kiệu đi qua, kẻ theo hầu rất rộn rịp. Đến gần xem thì người đi kiệu là một người bạn học đã chết từ trước. Người ấy giật mình hỏi: - Đây là nơi cửa ải của người và ma chia cách nhau. Sao bác lại đến đây làm gì? Người bạn cởi áo mặc cho. Thành Đạo thấy trước mắt sáng sủa, bèn theo lối trỏ mà đi ra khỏi hang. Về đến nhà thì người nhà tưởng là chết, đã để tang trở, sắp đến kỳ cúng giỗ hết rồi. Thành Đạo cùng với ông cụ họ Vũ làng tôi có quen, mỗi lần đến chơi, trong lúc uống rượu, thường giở ra nói chuyện. Sau không biết đi đằng nào mất. https://thuviensach.vn ÔNG LÊ THÌ HIẾN Kính Phủ Quan Thái úy Lê Thì Hiến là người làng Phú Hào, huyện Lôi Dương (Thanh Hóa) tính nết ngang tàng. Ông ra chơi Kinh, quen với chàng Năm là học trò ở Chiêu Văn quán. Chàng Năm là con nhà kép hát, không được thi cử, nhà rất nghèo nàn. Ông thường đi lấy trộm của người khác đem cho chàng Năm; hỏi ở đâu ra thì chỉ cười không đáp. Một hôm, chàng Năm bảo ông rằng: - Tôi nghe xứ Quảng, Thuận(56) đất hiểm mà dân giàu, vị chúa ở đấy lại biết đãi người một cách nhường nhún, đó là tư cách của bậc bá vương. Nếu ta đến đó, rồi đem mưu kế ra thuyết cho họ nghe, thì trên có thể làm được như Tề Hoàn, Tấn Văn, dưới cũng không mất được cái thế chân vạc. Ý bác nghĩ thế nào? Ông thủng thỉnh nói: - Chí tôi thì khác thế, nhưng tôi cũng không ngăn cản bác. Ông hỏi định bao giờ đi, chàng Năm nói sáng mai sẽ đợi để từ biệt ở trạm Hoàng Mai. Ông y hẹn, đi qua hiệu bán vàng bạc ở Hoàng Đình, vào cuỗm lấy hai món đồ rồi chạy đi rất nhanh không ai đuổi kịp. Đến Hoàng Mai, thấy vợ chồng chàng Năm đã ở đấy, hành lý trơ trỏng chỉ có mấy cân gạo. Ông đưa đồ vàng tặng; chàng Năm cầm tay từ biệt nói: - Chuyến này tôi đi xa muôn dặm mà được không chết, toàn là nhờ cái ơn của bác, tôi há dám chẳng ghi lòng. Ngày khác gặp nhau ở biên cương, tôi sẽ xin làm thành cái chí của bác để đền báo lại. https://thuviensach.vn Sau hơn một tuần, chàng Năm vượt qua bờ cõi châu Hoan đến bờ bắc Linh Giang(57). Quân canh giữ bến sông quát hỏi nghiêm ngặt. Thuyền không qua được. Chàng Năm phải chặt gậy tre chống cự rồi đè dòng đi tràn mới sang được đến bờ nam. Quân coi giữ bờ nam bắt được trói lại, đem về dâng với chúa. Sau khi trò chuyện, Nam chúa bằng lòng lắm, bèn tha ra cho và dùng làm tướng. Chàng Năm bày những kế đánh giữ; đắp lũy ở Đông Hải, dài hơn trăm dặm, cong như hình cầu vồng, chắn ngang nam bắc, dựng vòm khói, khoét cửa súng, hễ có việc cảnh cấp thì vừa bắn súng vừa đốt lửa, thông đến tận quốc đô; các cửa bể Minh Linh, Nhật Lệ, đều đóng cọc và buộc khóa sắt để ngăn cản tàu thuyền, tùy tiện bố trí một cách vững bền và liên lạc. Đoạn rồi đem quân qua sông sang bắc, hạ thành giết tướng không biết bao nhiêu mà kể. Triều đình quên ăn mất ngủ, lo tính mọi cách để chống giữ, tuy có làm cho họ bớt sự tràn lấn, nhưng bờ cõi vẫn chưa lấy lại được hết. Bấy giờ ông Lê Thì Hiến ứng mộ tòng quân, từng đã lập được nhiều công trận, được thăng lên làm Đốc trấn, coi giữ hết các việc quân ở châu Hoan. Chàng Năm nghe tin nói: - Tướng Bắc là bác Lê, vậy ta phải nên tránh mới được. Bèn thu binh lui về, đưa thư xin giả những đất đã lấn, tự xưng là Nam phiên. Ông Lê dâng thư về triều xin ưng cho, nam bắc nghỉ binh, nhân dân châu Hoan châu Diễn được yên ổn mà sống. Ông ở trấn hơn 20 năm, trong địa hạt được vô sự, tiến phong Thái úy Hào quận công, khi mất được tặng tước vương. Dân Hoan châu nhớ ơn, lập miếu lên thờ đến nay hãy còn. Cháu xa của ông là Thì Diểu đỗ Đồng tạo sĩ xuất thân, làm quan đến Hữu kiểm điểm, có quen với tôi, thường đem những chuyện cũ của ông nói cho tôi nghe. https://thuviensach.vn Một thuyết bảo khi chàng Năm sang qua sông, đi làm nghề chăn trâu cho người. Một hôm dắt trâu qua cửa nhà quan Tướng quốc, nghe thấy trên nhà có tiếng đọc sách sang sảng, bèn buộc trâu ở ngoài đi vào. Quan Tướng quốc lúc ấy đương mặc đồ nho phục, ngồi giảng sách với các học trò. Chàng Năm chắp tay đứng ở dưới thềm nhòm ngó vào lúc lâu. Quan Tướng quốc lấy làm lạ hỏi: - Có biết chữ không? Chàng Năm nói: - Tôi vừa thấy nói về Nho quân tử và Nho tiểu nhân, tôi thích được nghe lắm. Tướng quốc nói: - Thế nào là Nho quân tử và Nho tiểu nhân? - Về Nho thì tôi chưa được rõ. Tôi làm nghề chăn trâu, xin nói về kẻ chăn trâu. Này kẻ chăn trâu có kẻ chăn trâu quân tử, có kẻ chăn trâu tiểu nhân. Thế nào là tiểu nhân? Đi kiếm cỏ ở ngoài đồng kia đều là hạng này cả. Quân tử thì không thế; ôm tài chứa khí, bức bối không được cởi mở ra, bèn tạm trốn vào cái nghề đó, Ninh Thích gõ sừng, Bách Lý Hề bón cỏ, chính là hạng đó. Quan Tướng quốc nghe lời nói ấy rất lấy làm kỳ, bèn xuống dưới thềm đón rước lên, nhưng chàng Năm xua tay rồi đi. Dò được biết chỗ chàng làm mướn, Tướng quốc sai người đến vời. Chàng từ chối mà rằng: - Ngày xưa vua Tề Cảnh công đi săn, vời quan Ngu Nhân bằng cờ tinh mà người ta không đến, bởi vì không hợp lễ. Quan Tướng quốc đã không cho tôi là một kẻ hèn hạ, vậy mà lại muốn làm nhục https://thuviensach.vn tôi bằng cách vời không hợp lễ ư? Như vậy kẻ hèn hạ này không muốn đến. Người đi mời trở về. Quan Tướng quốc bèn hun xông trai giới, sai sứ đem thư và lễ vật đến đón. Chàng Năm bấy giờ mới đứng dậy mặc áo nâu ngắn, đầu trần chân không mà đi. Sứ giả xin thay áo, chàng khước đi mà nói: - Tôi vốn là một kẻ làm mướn, sao nên thay đổi cái vốn có của mình. Chàng đến nơi, quan Tướng quốc ngoảnh về phía đông mà tôn thờ làm thầy, rồi tiến dẫn lên với chúa; chúa đắp đàn phong cho làm tướng. Hai thuyết chưa rõ thuyết nào đúng, hãy chép lại cả(58). https://thuviensach.vn ÔNG ĐỖ THẾ GIAI ÔNG HOÀNG NGŨ PHÚC Kính Phủ Ông Đỗ, ông Hoàng khi chưa gặp thời, làm bạn với một viên quan hoạn, Uy Vương ốm, bọn tiểu nhân làm nát chính sự, bốn phương trộm giặc nổi lên như ong. Viên quan hoạn hăm hở nói: - Tôi xem vận giời và việc người, họ Trịnh chắc là sắp mất, vậy sao ta chẳng phù một vị hoàng tử, vào trong rừng núi nổi nghĩa binh như việc cũ của Đức Cao hoàng khi xưa, nghiệp lớn chắc có thể thành được. Hai ông nói: - Không phải. Nhà Trịnh có công lớn, giời cũng giúp vì, hoặc giả lại phục hưng cũng chưa biết chừng. Vả hãy để chờ xem, nếu không sẽ liệu cũng chưa muộn. Viên quan hoạn sầm mặt đứng dậy, vung áo đi. Một lúc ông Đỗ đi ra, qua phủ Lương Quốc, thấy người em thứ tư và cùng một mẹ với Uy Vương đương ở cửa phủ, cùng bọn nội giám ngồi ở đất xem đánh chọi gà. Ông trông thấy kinh ngạc, về nói với ông Hoàng rằng: - Đấy thật là vì chúa của ta. Bèn đem trâu rượu đến nói với người coi cổng để được vào yết kiến. Vương đệ rất trọng hai ông là người có tài khí. Chưa bao lâu Uy Vương thoái ngôi, vương đệ được lập, đó là Minh Vương. Vì hai ông đã theo từ khi ở tiềm để(59), nên chúa hết lòng tín dụng. Ông Đỗ chủ việc trong, ông Hoàng chủ việc ngoài, giặc cướp các nơi đều bị quét trừ đến hết. https://thuviensach.vn Viên quan hoạn đi, đem hoàng tôn Duy Chúc, Duy Mật cùng đi, đánh úp được đất Trấn Ninh mà chiếm giữ lấy, phụng hoàng tôn lên làm chúa, viên quan hoạn thì xưng là Minh quận công, đắp thành lũy, sửa giáp binh, hơn ba mươi năm, quân ngoài biên không được cởi giáp. Chúa Trịnh mỗi khi hỏi đến việc miền Tây (Trấn Ninh), hai ông lại thưa: - Mưu chủ của họ hãy còn, chưa thể đồ tính được. Duy Chúc mất, Duy Mật nối, quận Minh đã chết, ông Hoàng mới nói với triều đình: - Quận Minh chết thì hạ Trấn Ninh dễ dàng như thể đập nứa vậy. Chúa Trịnh bèn dấy quân, sai Đốc trấn Hoan Châu (Nghệ An) là ông Bùi Thế Đạt thống suất quan quân ba đạo tiến đánh. Duy Mật tự đốt mà chết, việc Trấn Ninh mới xong. https://thuviensach.vn CHÙA TIÊN TÍCH Chùa Tiên Tích phía Nam kinh thành, đời chúa Tĩnh có sửa chữa lại. Người ở kinh thành khuân tre gỗ, vác xẻng cuốc, bôn tẩu ở đường sá mấy năm công việc mới xong. Chùa rộng lớn, nóc chồng, cửa kép. Sân bảy tám miếng đá vuông, cao chừng hai thước, trên bày những chậu lan, gió thổi hây hây, thơm đưa phưng phức. Chùa đàng sau dựa vào đường cái, đàng trước trông xuống một con ngòi nước trong; cây tháp ở phía hữu cao chín tầng, bốn góc đeo nhạc, trang sức bằng những nét vàng xanh rực rỡ. Từ đàng phía tây đi về phía nam vào đền chúa, đường xe quanh co đều lát đá cả. Con kênh oằn oèo chảy ra một cái hồ. Hồ sâu mà rộng, nước rất trong, mùa hè hoa sen nở nhiều, mùi hương bay xa ra mấy dặm. Men bờ hồ vào đến bờ kênh, chỗ cây chỗ đá chen lẫn nhau. Phía trước chùa về phía tả, chỗ nước kênh chảy thông ra hồ có bắc cái cầu, dưới cầu ghe thuyền đi lại được, trên cầu dựng thành mái nhà, khắc vẩy rồng trên những tấm ván. Bên cạnh cầu mấy chục bước, phía nam kênh và phía bắc hồ, dựng cái ly cung để làm chỗ vua chúa ngự chơi, trồng sáu, bảy cây muỗm cây trắc và cây thông, cành lá chi chít đến nỗi ánh mặt giời không lọt xuống được. Dưới đất bầy trâu đá hươu đá mỗi thứ hai con, sừng châu vào nhau, chế tạo rất tinh tế và hoạt động. Đó là những vật cũ của nước Chiêm Thành, do ông Hoàng khi đi đánh Nam lấy được. Cách hồ là nhà Kiều Nhạc hầu Nguyễn Khản. Hầu là bạn áo vải của chùa, thường mặc quần áo thường ra vào trong cung. Mỗi khi chúa đến chơi chùa lại đến thăm nhà hầu, thân viết bốn chữ “Tâm phúc hòa chung” để ban cho. Trụ trì chùa ấy là con gái của bà Thái trưởng https://thuviensach.vn quận chúa, em họ ngoại của chúa. Chúa những khi nhàn rỗi ngự giá chơi chùa, cùng các phi tần nội thị thả thuyền chơi trên hồ, hát khúc ca hái sen, trên dưới thấp thoáng những ánh sóng bóng cây, so với cuộc đi chơi ở ngòi Vũ Lăng(60) cũng không phải quá đáng. Năm Ất Tỵ (1785), lính canh cửa chùa đêm thấy có tiếng lát chát, tiếng y ỷ tựa như khóc lóc rất thê thảm, lắng nghe thì tiếng ấy phát ra ở trên bờ hồ, lúc không lúc có. Sáng hôm sau ra xem chỗ ấy, thấy nước mắt của trâu còn ướt má, cỏ trên mặt đất đều bị xéo nát bừa bãi, hình như hai con trâu đá đã chọi húc nhau. Lính canh sợ hãi, bẩm báo vào triều: Triều đình sai thợ đá đập phá cả trâu lẫn hươu vất vào lò lửa. Chùa này đã triệt bỏ, khói mờ cỏ rậm phất phơ ở trong ngọn gió thu; muốn tìm lấy một hòn ngói vụn, một viên gạch tàn cũng không thể được. Trò đời thịnh suy thay đổi, buồn biết chừng nào! https://thuviensach.vn LIỆT PHỤ ĐOÀN PHU NHÂN Kính Phủ Liệt phụ Đoàn phu nhân là vợ thứ của ông Du Lĩnh hầu Ngô Phúc Du người làng Trảo Nha (Hà Tĩnh). Hầu là con nhà tướng, trong năm Cảnh Hưng quản đội quân tiền phong. Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1786), hầu chết tại trận. Bà vợ cả đi quy y cửa Phật. Đoàn đẹp mà không con, vẫn được hầu đối đãi như là vợ chính. Hầu chết nạn, Đoàn phu nhân vẫn cười nói như lúc thường; người nhà đều lấy làm lạ. Chưa bao lâu, phu nhân đem việc nhà dặn dò con hầu, rồi đến lập một đàn chay ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, tức chốn tu của bà vợ cả. Làm chay xong, phu nhân cùng bà vợ cả đem lũ con của hầu ra thiết vị ở bến Thúy Ái, nơi hầu chết nạn khi trước, ngoảnh về phía nam mà làm lễ chiêu hồn; mọi người xa gần kéo đến xem đông lắm. Đoạn rồi phu nhân vận mặc chải chuốt lịch sự, bơi một chiếc thuyền con ra giữa dòng, gieo mình xuống nước mà chết. Dân ở đấy lập miếu lên thờ. Quan Huấn đạo An Nhân Hà Sách Hiển có vịnh thơ rằng: 可憐二百餘年國 Khả liên nhị bách dư niên quốc, 天理民彝一婦人 Thiên lý dân di nhất phụ nhân. Nghĩa là: Thương thay một cái nước dựng nên đã hơn hai trăm năm (nói triều Hậu Lê), mà đến lúc mất, chỉ có một người đàn bà giữ được lẽ giời và đạo người. Người ta đều truyền tụng. https://thuviensach.vn NGƯỜI LÀM MƯỚN Ở KINH THÀNH Tùng Niên Kinh thành có một người làm mướn, thường đến ở làm lụng cho Phạm chân nhân. Hắn than mình nghèo khổ, xin chân nhân cấp giúp cho. Chân nhân im lặng, rồi thong thả bảo chìa bàn tay hữu ra, thầm vẽ bùa vào, dặn sau này khi nào gặp lúc cùng quẫn, nên ngửa tay ấy để xin người cho tiền, có thể được 36 đồng. Anh phúc bạc, đừng nên lấy quá. Người ấy theo nhời. Nhưng một hôm lại lấy quá số ấy, đến mãi năm quan mới thôi, rồi từ đấy không linh nghiệm nữa. https://thuviensach.vn ÔNG LÊ ANH TUẤN Tùng Niên Ông Lê Anh Tuấn khi cầm quyền chính phủ, bà phu nhân từ làng Thanh Mai đến kinh, đi qua làng Đắc Sở(61), ngủ trọ ở nhà cạnh đền quan Tướng quân Lý Phục Man, chiêm bao nghe thấy tiếng ngựa xe rộn rịp, rồi có người nói là bà phu nhân của quan Tướng quân họ Lý vào thăm. Ngồi chơi xong, Lý phu nhân nói: - Phu nhân đối với tôi là chỗ quen biết, tôi muốn nói xin một điều, chẳng hay có được không? - Xin vâng. - Nhờ phu nhân nói với tướng công hộ rằng, nhà cũ của chúng tôi đã nát, xin lưu ý cho. Hỏi duyên cớ sao thì nói: - Ông Lê Anh Vũ triều trước và ông Lê Anh Tuấn bây giờ, đều là hậu thân của Tướng quân tôi, phu nhân quên rồi sao? Lê phu nhân vâng nhời rồi bừng tỉnh, đến kinh nói với ông Lê. Ông tự bỏ tiền ra sửa chữa đền ấy. Nay đền hãy còn. https://thuviensach.vn ÔNG BÙI THẾ VINH Tùng Niên Ông Bùi Thế Vinh là cụ ngoại bẩy đời của tôi, đỗ tiến sĩ trong năm Diên Thành, làm quan đến Tự khanh. Nhà Mạc mất ngôi, ông lui về ở nhà, rồi cùng ông Đỗ Uông ở làng Đoàn Tùng, ông Nhữ Công Tòng ở làng Nhữ Xá đều bị tiên triều vời ra. Nhưng ông lấy một con dao rạch ở dưới đầu gối, rồi cáo bệnh không chịu ra. Bấy giờ bà Thường quốc phu nhân, tự thắt cổ tuẫn tiết. Hai người đều được người ta khen ngợi, có câu hát rằng: Loài chi mày Thượng Thông Thượng Nhữ(62), Những dơ tuồng tặc tử gian thần. Nào dao lá trúc Đông Luân(63), Nào thừng tiết nghĩa phu nhân kia là. https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN CÔNG HOÀN Tùng Niên Ông Nguyễn Công Hoàn người làng Cổ Đô huyện Tiên Phong(64), là thân phụ ông Thượng thư Bá Lân. Ông có tiếng văn hay lẫy lừng trong một thời; đối với ai ông cũng nhã nhặn lịch sự, nhưng về chữ nghĩa thì không nhường ai bao giờ cả, đó là cái thiên tính như vậy. Ông Lê Anh Tuấn người cùng huyện, thủa nhỏ với ông là bạn vong niên. Gặp kỳ khảo ở huyện, ông Lê trúng nhất, ông trúng thứ hai. Ông đem văn ra so sánh, nhất định không chịu là mình kém. Ông Lê đỗ rồi làm quan, ông không chơi với nữa. Ông Thượng thư Bá Lân thủa nhỏ học giỏi văn hay, tài năng suýt soát với ông, ông thường cùng ganh thi hơn kém. Ông Thượng cố tránh thì bị ông đánh chửi. Một lần hai cha con thả thuyền ở giữa dòng sông để làm văn thi, bảo hễ ai văn kém thì phải ném xuống sông. Văn làm xong, của ông hơi kém, liền nhảy xuống sông tự trầm thật; ông Thượng khóc lóc lôi vớt lên. Một lần đến thăm quan Tể tướng Nguyễn Công Hãng, đến cổng ông đã réo ngay tên. Người canh cổng vào báo, ông Hãng lật đật chạy ra đón rước. Xin ông làm thơ Lưu, Nguyễn vào Thiên Thai, trong tiệc ông làm thành sáu bài, còn truyền ở đời. Hồi xuống chơi kinh, làm bạn với chân nhân Phạm Viên; một hôm hỏi về sự cùng đạt, chân nhân nói: - Số ông tiếc không làm nên được, nhưng con ông thì làm nên to. Ông bèn bỏ cả việc đời, theo chân nhân học thuật nhìn lâu. Vào núi Mỹ Lương, nhưng dọc đường thiếu lương ăn, đến một xóm nọ. Trong xóm có ông già đón khách vào nhà… bảo làm món sơn hào https://thuviensach.vn đem lên. Chưa bao lâu, đi đến chỗ biệt nghiệp của sơn nhân, gã nhỏ dọn lên món thịt chuột thối để uống rượu, mùi hôi bẩn xông lên gớm chết, ông lấy vạt áo che mặt không dám trông. Chân nhân nói: - Ông tục duyên còn nhiều, chưa thể học được. Bèn đưa ông trở về. Ông Thượng thư khi đỗ Hội nguyên, cả hai cha mẹ đều còn. Các bạn đỗ đồng khoa đến họp cả ở làng Cổ Đô để mừng. Ông Hoàn mặc bộ quần áo quê mùa ra tiếp khách, cười mà nói rằng: - Thằng Bá Lân nhà tôi mà nó đỗ đầu thì ra thiên hạ vô nhân thật. Hồi ông Lê Anh Tuấn làm tể tướng, ông Lân vì việc công bị lỗi, nghĩ phải nhờ cha đi nói hộ thì không thể gỡ được, bèn nói với cha. Nhưng ông Hoàn mặc kệ không nói gì. Cả họ khóc lóc van nài, ông mới khẽ gật đầu một cái. Rồi ông đi chân không đến dinh quan Tể tướng, lội qua hồ mà vào, để chân bê bết những bùn vào ngồi chỗ công sảnh, hỏi tướng công có nhà không. Lê công áo đai chững chạc ra đón mời. Ông nói: - Vì chuyện thằng bé nhà tôi nên phải đến quấy quả cố nhân, một tiếng nhận nhời giá trọng nghìn vàng, tưởng tôi không phải nói lắm. Ông Lê vâng nhời thì ông liền đứng dậy ra về, nài thư thả nói chuyện vài câu, nhất định không ở. Tuổi ông càng cao, sức học càng sâu rộng. Nghe ở Thanh Trì có một người học trò tập văn trường Giám lần nào cũng trúng giải nhất, bèn dò tìm đến tận nơi. Đêm khuya vào làng, vì đường quanh co, bèn lội qua ao, đến gõ cổng nhà người học trò mà nói: https://thuviensach.vn - Ta là Nguyễn Công Hoàn đây. Có giỏi thì làm văn thi với ta nào. Người học trò lật đật đi ra, nói nhún nhường từ chối. Ông không nghe. Người ấy xin khất đến kỳ văn trường Giám, ông mới trở về. Sau ông làm bài thi, luôn mấy kỳ chiếm được giải nhất trường Giám, ông mới về Sơn Tây. Tuổi già, một lần ông đến thăm nơi thờ thiền sư Huyền Quang, chiêm bao thấy thiền sư bảo rằng: - Việc Bích Cơ(65) được ông tìm ra, nghe đâu Thượng đế tăng tuổi cho ông một kỷ đấy. Sau ông được sống lâu rồi mất. https://thuviensach.vn ÔNG LÊ HỮU KIỀU Ông Lê tuổi trẻ là người không chịu buộc mình theo lễ phép; học ông Thám hoa Vũ Thành, vẫn được ông Thám coi trọng. Thường giao du với chân nhân Phạm Viên. Một lần ông Thám ra bài cho tập làm, đầu bài là: “Về Sở, người Sở không tin; về Hán, người Hán sợ hãi, vậy thì túc hạ định về đâu?” Chân nhân đùa làm thử, nhờ ông đưa để ông Thám chấm cho. Ông Thám giật mình nói: - Người làm văn này phải là bậc thần tiên. Sai người đón mời nhưng chân nhân chối từ không đến. Ông đi theo mấy tháng, chân nhân khuyên nên trở về. Sau thi đỗ làm quan, giữ mình ngay thẳng không chịu a dua với ai, nhất là ghét đạo Phật lắm. Hồi đi sứ Tàu qua một cái chùa, thấy ở chỗ mái hồi lang(66) có một tòa tượng chữ đề là “Lê Hữu Kiều Bồ Tát”. Ông bỗng giác ngộ, từ đấy để tâm nghiên cứu kinh điển nhà Phật. Khi thôi làm quan, mở ra một sở tuyên giảng đạo Phật, người đến nghe giảng lúc nào cũng hàng mấy trăm, phần nhiều là những người có tiếng trong rừng thiền cả. Chúa Trịnh Minh Vương và Tĩnh Vương có ban cho nhiều vị sư được hiệu là hòa thượng, những vị ấy đều là những học trò nghe giảng của ông. https://thuviensach.vn ÔNG NGUYỄN TRỌNG THƯỜNG Ông Nguyễn Trọng Thường người làng Trung Cần huyện Thanh Chương (Nghệ An). Thủa nhỏ nhờ ông ngoại nuôi nấng dạy bảo, có khiếu văn chương; đến tuổi thành đồng thì theo thầy học ngoài. Một đêm ông chiêm bao thấy một mỹ nhân đem chè, quả đến tặng biếu, cùng ông trò chuyện nói cười thân mật. Từ đấy thường đêm vẫn chiêm bao thấy thế, nhưng trải mấy năm giời, giữa hai người không hề có chuyện sàm sỡ. Rồi một đêm mỹ nhân từ biệt để về, ông cầm tay hỏi ngày tái hội thì nói: - Chúng ta sẽ gặp nhau ở trạm Phù Dung tại hồ Động Đình. Năm 16 tuổi đỗ khoa hương, sắp sửa rồi tới kinh thi hội. Một hôm ông ngoại ra bài cho học trò tập, thấy trong bụi cây có một chàng thiếu niên chưa đến giờ ngọ đã vào nộp quyển rồi đi ra. Ông ngoại xem rồi nói: - Có lẽ là chân nhân Phạm Viên đùa ghẹo ta đây. Nguyễn Trọng Thường liền ném bút đi theo. Ra đến ngoài đồng thì theo kịp. Khi đó chân nhân đi chơi núi Long Hổ. Đến cửa ải Trấn Nam, ông quỳ xuống thỉnh giáo, chân nhân nói: - Việc thổ nạp không phải là việc của nhà ngươi. Tiền trình rộng lớn, đừng nên đi theo đuổi việc thừa. Bèn trao cho tập số Thái Ất, hẹn đến hồ Động Đình sẽ phải trả lại. Ông thi đỗ rồi, trải làm quan trong quan ngoài nhưng rất hững hờ, không lấy sự làm quan làm thú. Khi đi sứ Tàu, đem việc nhà dặn https://thuviensach.vn bảo con cái, rồi đem nhiều tiền của đi theo. Qua trạm Phù Dung ở hồ Động Đình, thấy ở vệ đường có hai cái miếu, mà một cái đã hầu đổ nát. Hỏi dân ở đấy thì họ bảo: “Cái miếu sắp đổ, thần húy là Nguyễn Trọng Thường, hương tàn khói lạnh đã mấy chục năm rồi. Còn một cái miếu kia thờ bà phu nhân”. Ông hoảng nhiên nghĩ ra, bỏ tiền của nhờ người dân đấy làm lại hộ. Khi đi sứ trở về, thuyền qua hồ Động Đình, ông giở cái hộp đựng tập số Thái Ất ném xuống, cái hộp cuộn vào trong nước mà chìm mất. Đêm ngủ ở trạm Phù Dung, lại thấy mỹ nhân đến. Sáng hôm sau ông mất ở thuyền, sứ bộ phải đưa tang về. https://thuviensach.vn BÀI KÝ CHƠI NÚI PHẬT TÍCH - (CHÙA THẦY) Tùng Niên Ngày 12 tháng Ba năm Bình Thìn (1796), cùng bác Nguyễn Nghiêu Minh, bác Trần Vấn Chi, bác Nguyễn Quế Nham, bác Hoàng Hy Đỗ đi chơi núi Phật Tích. Giờ mão từ kinh đô đi ra, giờ ngọ qua làng Kim Chỉ (làng Thìa ở huyện Đan Phượng), lên cái lầu chuông ở cạnh đường nhìn sang phía tây, trông núi Phật Tích thấy sắc núi xanh xanh. Qua bến đò Đắc Sở (Giá) đến làng Thụy Khuê, ở ngụ tại đền Nguyễn phu nhân ở phủ Quốc Oai. Phu nhân là em gái bà Minh Vương thái phi, xuất gia rồi chữa sửa các chùa ở làng Thiên Phúc, người dân đấy lập đền lên thờ. Đền gối vào núi. Núi ở giáp giới hai làng Thiên Phúc, Thụy Khuê, sử gọi là núi Thạch Thất, tục gọi là núi Thầy, đó là nơi chứng đạo của Từ Đạo Hạnh đời Lý. Phía tả núi là ngọn Hàm Long, hình thế cao ngất và bay bướm, có cái ao Long Trì ôm lấy; một cái gò dựa vào ngọn ấy, là chính điện chùa Thiên Phúc. Điện kề nước, do thiền sư họ Từ dựng nên, một gian hai chái, quy chế rất cổ. Giữa thờ Phật, bên tả là chân thân của thiền sư, bên hữu là ngự dung vua Lý Thần Tông. Trước ngự dung, có những tượng chim hạc và lực sĩ Chiêm Thành mỗi thứ đều hai, do khoảng năm Vĩnh Hựu sắc truyền chế tạo. Tương truyền vua Thần Tông triều Lê là hậu thân vua Thần Tông triều Lý. Hai bên nách chùa bắc hai cái cầu qua ao: bên tả là cầu Nhật Tiên, trông vào đền Tam Phủ ở cái đảo trong ao, bên hữu là cầu Nguyệt Tiên, chặn lên trên tay hữu trái núi. Giờ dần lên chùa Thiên Phúc, nhà sư trú trì là Tịch Khiết mời ngồi chơi nói chuyện. Tịch Khiết là người làng Thiên Phúc, trò chuyện rất có vẻ phong nhã. Giờ tuất trở về đền Phu nhân. Sáng https://thuviensach.vn hôm sau, Chân Túy Ông lên ngọn Hàm Long. Ông là con giai thứ ba của Nguyễn phu nhân, đỗ Hương tiến, nay nhập tịch làng Thụy Khuê. Phía tả ngọn Hàm Long độ nửa dặm, có mả và miếu thờ Lã Nam Đế, dân đấy bảo là di tịch của Lã Gia. Sách Thiên Nam quốc ngữ nói: “Mả Lã Gia ở vườn trúc”; chưa rõ đàng nào phải. Xét trong sử ký thì Nam đế là hiệu của hai vua Tiền Lý, Hậu Lý, Lã Gia chỉ là Thừa tướng của Triệu Ai Vương; lời dân đấy nói tựa như không đúng, hãy cứ ghi vào đây để đợi người thức giả. Trên sống núi có hai cái hang: một là Bồ Cốc, và một cái có cá sản ở trong nước gọi là Thần Cốc. Tiên triều đến ngự chơi đây, sai nội thần vào xem, thấy con rắn lớn lại phải quay ra. Giờ tỵ, qua cầu Nguyệt Tiên, lần bậc lên núi. Trên lưng có núi bia, khắc bài thơ ngự chế của chúa Định Vương (Trịnh Căn). Lên mấy bậc nữa đến chùa Thiên Phúc riêng, nơi thiền sư đốt hương trì tụng khi trước. Trụ trì chùa này nguyên là một viên nội thần của tiên triều, thấy khách đến mới thết ân cần bằng những món ăn trong núi. Trước chùa đi xuống ba bậc là vườn trúc, nay không có trúc nữa, trong vườn dựng bốn cây tháp. Động Phật Tích ở sau chùa, động ngoài không đến nỗi tối lắm, có bàn thờ Sơn thần ở bên phía tả. Một cái suối ở khe đá từ trên núi xuống, miệng suối có cái đầu rồng trỗi lên, đầy về mùa hạ mà cạn về mùa đông. Những tấm bia mài đá tạc thành nhớn nhỏ rất nhiều, nét chữ mập mờ, đều từ hồi Trung hưng trở về sau cả. Khoảng giữa động vách đá đứng sững. Chồng đá trèo lên độ một trượng đến cửa động trong, đi vào phải bò, gọi là hang Cắc Cớ. Động trong ngang dọc ước độ 1 trượng, thiền sư trút xác ở đó, vết đầu vết chân trên vách đá đến nay hãy còn, người ta thường lấy son rập in. Cạnh đấy là một pho tượng của thiền sư. Tôi có lưu đề ở động ngoài 11 chữ “丙辰季春松 年甫攜友登此 Bính Thìn quý xuân Tùng Niên phủ huề hữu đăng https://thuviensach.vn thử”, nghĩa là tháng quý xuân năm Bính Thìn, gã Tùng Niên dắt bạn lên chơi đấy. Giờ ngọ lên chỏm Chợ Giời, khắp giời mây quang, gió thanh hây hẩy. Đá núi lởm chởm, cái thành hình bàn, cái thành hình ghế, rồi hình lò rượu, hình chén rượu, vị trí thiên nhiên, khéo đẹp tuyệt vời. Trên đỉnh có một tảng đá phẳng phắn. Đứng trên ngọn này trông ra chung quanh, các núi Phượng Hoàng, Quy Lân, Mã Yên, Long Đẩu, Hoa Phát, đều quanh quất chầu lại cả. Bác Hoàng Hy Đỗ đốt hơn trăm cái pháo hoa, những kẻ kiếm củi chăn trâu đều trông nhau ngơ ngác. Trở về động ngoài động Phật Tích, Chân Túy Ông và Trần Vấn Chi cùng nhau uống rượu. Vượn núi ba bốn con thập thò qua lại ở khoảng nóc điện và cành cây. Hy Đỗ, Quế Nham vỗ tay cười, hang núi nổi lên những tiếng vang đáp lại. Giờ mùi xuống thăm chùa Phúc Lâm ở phía bắc núi, đề vài dòng chữ lên vách: 登山遊覽,不覺詩興滿山, 不能收拾 Đăng sơn du lãm, bất giác thi hứng mãn sơn, bất năng thu thập. Nghĩa là: Lên núi chơi xem, bất giác hứng thơ đầy núi, không thể thu nhặt lại được. Lạc khoản đề là “Song Thanh”. Bác Chân Ngô đùa mà đề nối vào rằng: 我亦不約而合 Ngã diệc bất ước nhi hợp. Nghĩa là: Ta cũng không ước hẹn mà đúng như thế. Rồi lên chùa Bối Am ở chỏm núi Bối Am. Chùa nhân cái động mà làm thành, nửa gỗ nửa đá. Theo bia ở trên vách đá thì do một bà tôn nữ họ Mạc về đời Hồng Ninh xuất của mà dựng nên. Trụ trì ở https://thuviensach.vn đó có nhiều những sư nữ. Trên vách thơ vịnh đề bừa bãi. Xem qua một lượt rồi trở xuống. Dưới núi ấy có hang Dũng Phật, thờ mấy tòa tượng cổ. Giờ thân kéo Chân Túy Ông, Trần Vấn Chi cùng đến ngồi uống rượu ở cầu Nhật Tiên. Sen trong ao mới mọc tốt tươi, màu xanh phơi phới trên mặt nước. Các bác Nghiêu Minh, Quế Nham, Hy Đỗ không biết uống rượu, ngồi bên bàn rượu uống nước trà. Đêm khuya mới trở về chỗ ngụ. Ngày 14, sáng sớm khởi hành lên núi Hoa Phát. Núi ở phía tả núi Phật Tích, ghềnh đá chật hẹp, kém núi Phật Tích. Trên lưng chừng núi có cái gác chuông, Phật điện là chùa Hoa Phát. Sư nữ trú trì nguyên là vợ người khách họ Phan, tuổi già xuất gia đầu Phật, pha trà thết khách, có cái phong vị chốn kẻ chợ. Đàng sau chùa đi xuống một bậc có cái tháp đá đứng sững. Từ phía tả chùa men đá đi lên đỉnh núi, thấy có một khối đá lớn bằng cái nhà, chênh vênh như muốn lăn xuống. Cạnh khối đá ấy có cái chùa nửa mái, gần đây do người ở Ô Châu quyên tiền dựng lên, quạnh vắng không có ai. Giờ tỵ từ núi Hoa Phát lên núi Phượng Hoàng. Hình thế núi này như một con chim lớn sà xuống. Giữa mở ra một cái động đá để bầy thờ Phật tượng; hơi lam nặng trĩu, ướt cả áo người vào du quan. Trong động có ba cái hang, hai cái nhỏ mà nông, còn một cái nhớn sâu thẳm không có đáy, tục truyền là có đường thông xuống địa phủ. Cửa động cây cối bà xòa, nhân nhóm lò ngồi nghỉ một lúc. Giờ mùi giã cảnh trở về phía đông. Đến làng Vân Canh (Từ Liêm), vào ngủ nhờ ở nhà người anh họ ngoại là ông Huyện thừa họ Phạm. Đêm nói chuyện về chùa Phật Tích, ông anh ngoại nói: https://thuviensach.vn - Cụ ngoại tôi là quan Bảng nhãn có bà con gái tức bà cô ngoại tôi, thủa nhỏ mộ đạo Phật, chỉ đòi đi tu. Cụ Bảng tôi ép lấy chồng, bà tự đốt hai ngón tay để tỏ chí. Rồi bà xuất gia tu ở chùa Tiên Lữ, thường sang chơi núi Phật Tích, vào hang Thần Cốc. Hang này tối đen mù mịt, ngày cũng như đêm. Đốt đuốc đi vào ước hai, ba ngày, hãy còn nghe tiếng gà tiếng chó kêu trên đất. Đi vào càng lâu càng thấy cảnh khác lạ, ở một chỗ thấp lõm, thấy những xương người chồng chất, nhũ đá rủ xuống, thành ra vô số hình hiểm quái, người đi thú bò, giường ghế mắc áo, không biết bao nhiêu mà kể. Bên cạnh đường, có một dòng nước, sắc xanh như lam; một ông lái cắm thuyền đợi khách. Bờ bên kia trời lờ mờ sáng, chợ búa người vật, không khác gì ở nhân gian. Hỏi thăm thì ông lái bảo đó là chợ âm phủ. Do con đường đá đi lên phía trước, gặp một ông già khuyên sư nên trở về. Sư không nghe. Chợt có một con rắn to bằng cái vựa nằm chắn ngang đường, bấy giờ sư mới chịu quay về. Ra khỏi hang thì tính từ khi đi đã được một tháng hai ngày. Sư là người trì giới rất cao, chắc không nói nhảm. Vì vậy cũng chép câu chuyện ấy vào đây. Trên này là kể đại lược của cảnh núi, còn những cái gì tai mắt không tiếp xúc đến thì không dám nhiều nhời. Ngày 15 giờ ngọ, Đông Dã Tiều Tùng Niên phủ chép. https://thuviensach.vn DẬT SỬ CỦA CỤ THÁI TỂ Kính Phủ Cụ Thái tể Trung Thuần công nhà tôi xưa đi công cán về, người Mạc bắt giữ lại. Bấy giờ, xa giá về Thanh Hoa, tin tức của triều đình đoạn tuyệt. Thượng thư nhà Mạc là ông Trần Lịch Chiêu, người làng Hoa Thiều cùng huyện, thấy ông là người có nghĩa khí, muốn tha cho, đem qua sở giam, nói chung chiêng là giời sắp sáng. Cụ hiểu ý, lén bước đi ra. Đến làng An Thường thì quân đuổi theo đã cấp bách, cụ phải trốn vào nhà người, đào hang mà ẩn, đổi lốt người làm mướn, gánh một gánh rau đi. Qua sông Bái, gặp một viên tướng du kích nhà Mạc là Mỗ. Hắn nhìn kỹ rồi mời về nhà, làm rượu khoản đãi. Cụ bỡ ngỡ không hiểu. Chợt viên ấy đưa vợ con ra, lạy mà rằng: - Năm nọ ngài ở đài sảnh, có người kiện chúng tôi, ngài xử kẻ ấy kiện trái lẽ, đã quên rồi ư? Bấy giờ cụ mới nhớ ra. Cụ ở đấy mấy bữa rồi viên ấy cũng theo cụ vào Nam (Thanh Hóa). https://thuviensach.vn ÔNG ĐÀM THẬN HUY Kính Phủ Ông Đàm Thận Huy người làng Ông Mặc (Bắc Ninh); bà mẹ là Mỗ phu nhân sinh ra được ông và ông thứ tên là Thận Giản. Trong làng bấy giờ có một ông già người làng Tả Ao, đất Hoan Châu (Nghệ An) đến làm địa lý, nhiều sự ứng nghiệm lạ. Phu nhân nghe tiếng, đến xin đặt hộ ngôi mả chồng. Ông già nhận nhời đặt cho nhưng cố ý trùng trình mãi, đi làm đất những đâu đâu, tối vẫn cứ về ở nhà họ Đàm. Một khi gặp mưa, ông già bắt phu nhân cõng mình, hai ông xin thay thì ông già không khiến. Phu nhân cũng vui vẻ xin cõng. Đến đêm, ông già lén vào buồng ngủ thì phu nhân chống cự một cách nghiêm nghị. Ông già than rằng: - Đó thật là một người đàn bà tiết tháo, ta phải đền bồi cho mới được. Rồi ông già chọn chỗ đất tốt đặt mộ cho. Sau hai ông nối nhau thi đỗ. Gặp khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông trưởng, nhân đương làm Thượng thư bộ Lại, đem quân đánh kẻ nghịch, bị thua mà chết. Triều Lê khi Trung hưng, tặng tước vương và lập đền tiết nghĩa để thờ. https://thuviensach.vn ÔNG LÊ TUẤN MẬU Kính Phủ Ông Lê Tuấn Mậu, người làng Xuân Lôi, huyện Yên Phong (Bắc Ninh) làm quan tiên triều đến chức Đô ngự sử. Bấy giờ Mạc Đăng Dung do đánh vật giỏi mà vụt lên đến quan to. Ông nhiếc hắn rằng: - Anh đừng cậy sức. Ta rất có thể như thế được, nhưng không thèm làm đấy thôi. Đăng Dung tức, xin với vua cùng ông thử sức. Ông hăng hái nhận lời, rồi bôi mỡ vào mình, cài kim vào tóc và khố, vật cho Đăng Dung ngã suýt chết. Khi Đăng Dung cướp ngôi, ông thác bệnh không ra. Y cố mời mãi, ông bảo người đỡ vực ông vào triều, rồi nhổ vào mặt y mà chết. https://thuviensach.vn ÔNG DƯƠNG BANG BẢN Ông Dương Bang Bản người huyện Thanh Liêm; được ban quốc tính, đổi là Lê Tung. Tuổi già sinh được cậu con giai, nhờ vợ người phường chài nuôi hộ. Nhớn lên về nhà, nhưng người con giai không thiết học hành, chỉ cứ đi theo nhà phường chài. Ông nghĩ vì tính nết đã quen, không lấy làm lạ. Gặp ngày tiên húy, đương khi ông ở kinh, chiêm bao về nhà thấy những con ma tóc đỏ ngồi chễm chệ ở trên giường thờ, còn ông cha của ông, đai mũ chỉnh tề, nhưng đều đứng giãn ra ngoài cả. Tỉnh dậy nghĩ ra, ông cho tìm khắp chốn. Nhưng thuyền trôi bè nổi, lênh đênh chẳng biết là về đâu. Nhà phường chài đem công tử đi, nhập tịch ở huyện Giao Thủy. Nhớn lên, công tử đỗ tiến sĩ. Khi vinh quy, người làng bảo nhau rằng: - Anh chàng ở đâu, sao lại đến ở làng chúng ta! Công tử nghe nói, dò hỏi những người thân cố, mới biết được gốc rễ. https://thuviensach.vn ÔNG UÔNG SĨ ĐOAN Kính Phủ Ông Uông Sĩ Đoan khi chưa đỗ, ở rể tại một nhà giàu kia trong làng tôi, sinh được một con giai. Người vợ dữ tợn, hễ thấy bè bạn chồng đến chơi đều đuổi quầy quậy và nói: - Cái đồ dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, làm gì mà bè bạn bắng nhắng lên thế! Gặp khoa, ông sắm sửa đi thi, người vợ keo kiệt không chịu cấp hành lý cho đủ. Ông giận dỗi, vùng vằng đi ra. Người vợ đuổi theo lột hết cả quần áo. Ông phải lội xuống ao náu núp. Một cô con gái làng bên cạnh, cùng bà mang vải đi chợ bán, thấy thế bảo bà thử hỏi xem đầu đuôi ra sao. Rồi xé vải tặng cho để ông đóng khố. Khoa ấy, ông thi đỗ, bèn cưới người con gái nọ làm vợ. Ông làm quan trong triều hơn 60 năm, thọ 99 tuổi. Người con gái ấy được phong là chính phu nhân. Quan Bồi tụng Sĩ Lãng, quan Huyện lệnh Cẩm Giàng Sĩ Thiến, quan Lại bộ lang Sĩ Trạch, đều do phu nhân sinh ra cả. https://thuviensach.vn