🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tần Thủy Hoàng Diễn Nghĩa Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Thông tin Ebook Tần Thủy Hoàng Diễn Nghĩa Tác giả: KIM THỨC Dịch giả: MỘNG BƯU – HUY TIÊU – LÊ TỊNH – HỮU TUYẾN Hiệu đính: Kiều Liên Tạo Ebook: Nguyenthanh-cuibap Tạo cover: rockyou Chỉnh lý, trình bày: 4DHN Nguồn text: chimviet.wordpress.com NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC 2010 Số trang: 840; Kích thước: 14.5 x 20.5 cm ****&&&**** https://thuviensach.vn MỤC LỤC Thông tin Ebook Tần Thủy Hoàng Diễn Nghĩa HỒI THỨ NHẤT CHÁU VUA TẦN LÀM CON TIN Ở THÀNH HÀM DƯƠNG NHÀ BUÔN Ở DƯƠNG ĐỊNH MUA ĐƯỢC MÓN HÀNG LẠ HỒI THỨ HAI QUA CỬA ẢI VUNG TIỀN NHƯ RÁC KHUA MÔI MÚA MÉP NẮM CHỦ BÀI HỒI THỨ BA HÔN LỄ CHƯA TÀN ĐÃ VỘI GIỤC TRIỆU CƠ CHƯA CƯỚI ĐÃ MANG BẦU [21] HỒI THỨ TƯ VUA TẦN XÉ BỎ THỎA ƯỚC, VÂY HÃM HÀM ĐAN VUA TRIỆU MẮC SAI LẦM, DOANH DỊ NHÂN THOÁT CHẾT HỒI THỨ NĂM DOANH DỊ NHÂN VỀ NƯỚC, TRỞ THÀNH CON TRƯỞNG KẾ THỪA NÀNG NHƯ CƠ TRỘM BINH PHÙ CỨU NƯỚC TRIỆU HỒI THỨ SÁU BỀ TÔI PHÒ VUA, TRẢI BAO VINH NHỤC CON NỐI NGÔI CHA, GIAN NAN THỬ THÁCH THỪA TƯỚNG LÃ BẤT VI ĐƯA QUÂN DIỆT ĐÔNG CHU CHÀNG NIÊN THIẾU DOANH CHÍNH LÊN NGÔI BÁU HỒI THỨ TÁM THIÊN TAI XUA CHÂU CHẤU VỀ HẠI NGƯỜI NHÂN HỌA ĐƯA THÀNH KIỀU PHẢN DOANH CHÍNH HỒI THỨ CHÍN THÁI TRẠCH ĐẾN YÊN ĐỂ GIAO HỮU VỚI NƯỚC XA CAM LA LỪA NƯỚC GẦN, LẤY NĂM THÀNH CỦA TRIỆU HỒI THỨ MƯỜI THÁI HẬU KHÔNG QUÊN TÌNH XƯA NGHĨA CŨ LÃ BẤT VI TÌM CÁCH ĐƯA LAO ÁI VÀO CUNG HỒI THỨ MƯỜI MỘT HAI PHE KÌNH ĐỊCH SUÝT ĐOẠT NGÔI VUA DOANH CHÍNH RA TAY DIỆT TRỪ LAO ÁI HỒI THỨ MƯỜI HAI XÉ XÁC LAO ÁI, BÃI CHỨC BẤT VI GIẾT EM GIAM MẸ, CÒN GÌ LÒNG NHÂN https://thuviensach.vn HỒI THỨ MƯỜI BA MAO TIÊU CAN GIÁN VÌ VIỆC NGHĨA TẦN VƯƠNG ĐÓN MẸ, NỐI TÌNH THÂN HỒI THỨ MƯỜI BỐN ĐỂ TRỪ HẬU LOẠN, BAN CHẾT BẤT VI ĐUỔI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI, LÝ TƯ CAN GIÁN HỒI THỨ MƯƠI LĂM DOANH CHÍNH THÂN CHINH, ĐẠI THẮNG NƯỚC TRIỆU HỌC GIẢ HÀN PHI, ĐI SỨ ĐẠI TẦN HỒI THỨ MƯỜI SÁU ĐỐ KỴ GHEN ĂN, BẠN THÀNH THÙ HÀN PHI PHẪN CHÍ, CHẾT RẤT OAN HỒI THỨ MƯỜI BẢY ÚY LIÊU BÀY MƯU, HỐI LỘ GIAN THẦN TRUNG QUÂN LÝ MỤC RƠI ĐẦU NGẬM OAN HỒI THỨ MƯỜI TÁM HÀN TRIỆU MẤT NƯỚC, TẦN VƯƠNG ĐẠI THẮNG THÁI HẬU BUỒN VUI, ĐI VỀ TIÊN TỔ HỒI THỨ MƯỜI CHÍN THÁI TỬ (YÊN) ĐAN ĐAU BUỒN TIỄN BIỆT KINH KHA GIẾT HỤT, NGÃ XUỐNG KHÔNG VỀ HỒI THỨ HAI MƯƠI YÊN ĐAN BỊ GIẾT, NƯỚC YÊN VẪN CÒN ĐẠI LƯƠNG NGẬP LŨ, NƯỚC NGỤY TIÊU VONG HỒI THỨ HAI MUƠI MỐT ĐƯỜNG THƯ ÁO VẢI, ĐẮC THẮNG VUA TẨN TƯỚNG SỞ HẠNG YÊN, ĐÁNH BẠI LÝ TÍN HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI VƯƠNG TIỄN GIẾT HẠNG YÊN, DIỆT NƯỚC SỞ VUA TỀ TUYỆT THỰC VÌ MẤT NƯỚC HỒI THỨ HAI MƯƠI BA NGÔI CAO TỘT ĐỈNH, XƯNG HOÀNG ĐẾ ĐẤT NƯỚC BAO LA, CHIA QUẬN HUYỆN HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN THU BINH KHÍ, ĐÚC MƯỜI HAI TƯỢNG ĐỒNG DỐC TIỀN CỦA, XÂY ĐẮP ĐƯỜNG “TRÌ ĐẠO” HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM ĐẶT CHỮ MỚI, CẢ NƯỚC CHUNG VĂN TỰ https://thuviensach.vn NÊU UY VŨ, DỐC SỨC XÂY TRƯỜNG THÀNH HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU KHẮC BIA CA NGỢI, LÝ TƯ CHẤP BÚT LÊN ĐỈNH THÁI SƠN, LÀM LỄ “PHONG THIỀN” HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY DỰNG ĐÀI LANG NHA, TỪ PHÚC LÒE PHÉP THUẬT LẶN SÔNG TỨ THỦY, HOÀNG ĐẾ MẤT CÔNG TOI HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM ĐỐT NÚI TƯƠNG SƠN, GẶP NẠN LANG SA ĐÀO HỒ LAN TRÌ, THẦN BIỂN GIEO HỌA HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN HỎI TỘI VIỆC ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ DỰNG CUNG XÂY LĂNG, XA HOA CỰC ĐỘ HỒI THỨ BA MƯƠI CAO TIỆM LY GẨY ĐÀN TRÚC GIẾT VUA TẦN THỦY HOÀNG SOI GƯƠNG GIẾT PHI TẦN HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT LỜI NGUYỀN HẦU SINH, HỌA TRONG THIÊN THẠCH SẤM NGỮ THÁNH KHỔNG, ĐIỀM DỮ BẠCH BÍCH HỒI THỨ BA MƯƠI HAI CÚNG TẾ THUẤN VŨ, TÔN SÙNG LỄ NGHĨA TUẦN DU NGÔ VIỆT, CẤM THÓI DÂM HỒI THỨ BA MƯƠI BA KIM LĂNG YỂM VÀNG, KIẾM TRÌ ĐÀO KIẾM LANG ĐÀI VỠ NGỌC, BÃI CHIẾN GIAO LONG HỒI THỨ BA MƯƠI TƯ TỪ PHÚC TRỐN NHƯ “TRÂU ĐẤT XUỐNG BIỂN”[179] THỦY HOÀNG ỐM, TỔ LONG SẮP CHẦU TRỜI HỒI THỨ BA MƯƠI LĂM ỨNG LỜI SẤM NGUYỀN, THỦY HOÀNG VONG MẠNG SOẠN DI CHIẾU GIẢ, HỒ HỢI CHIẾM NGÔI HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU ĐẠI TRẠCH DẤY BINH; TRẦN, NGÔ KHỞI NGHĨA HÀM DƯƠNG ỤP ĐỔ, SỞ HÁN TRANH HÙNG Chú thích https://thuviensach.vn HỒI THỨ NHẤT CHÁU VUA TẦN LÀM CON TIN Ở THÀNH HÀM DƯƠNG NHÀ BUÔN Ở DƯƠNG ĐỊNH MUA ĐƯỢC MÓN HÀNG LẠ N ăm thứ bốn mươi sáu triều vua Chiêu Vương nhà Tần, tức năm 261 trước Công nguyên, một hội chợ rất lớn được tổ chức tại quảng trường chung quanh Tùng Đài, nơi thường diễn ra các yến tiệc, các buổi triều chính nghị sự và đón tiếp tân khách của vua Hiếu Thành nhà Triệu. Triều đình cho mở hội chợ là để mừng được mùa. Trời mới vào đông nên hơi se lạnh. Màn đêm đang buông dần. Hàng trăm ngọn nến rực sáng chiếu rọi trên một biển hàng hoá: nông sản, gia súc, gia cầm, lương thực, thực phẩm, rau quả, tơ lụa, gấm vóc, vàng bạc, đồ trang sức bằng ngọc ngà châu báu, cung tên, kiếm kích, vải vóc, da lông thú… muôn vàn thứ cần thiết cho con người, từ người giàu sang đến người bình thường, từ nhu cầu đời sống hàng ngày đến trận mạc chinh chiến. Nghe nói đây là một hội chợ lớn chưa từng có, người xe tấp nập, ồn ào náo nhiệt cả một vùng. Ở chính giữa chợ là một “nhà lán” rất lớn vì hàng hóa trong nhà này được bày thành vòng tròn. Khách mua hàng vừa đi vòng quanh vừa xem hàng và lựa chọn, ưng mua cái gì thì có thể tiện tay cầm lấy, rất dễ dàng và nhanh chóng. Xem thế đủ biết chủ hàng là một tay cao thủ trong nghề buôn, biết tạo ra một môi trường bán hàng rất thuận tiện cho khách hàng. Ở trước cửa chính của “nhà lán” có dựng một cột cờ rất cao, trên đó treo một lá cờ viền sóng lượn nền trắng với bốn chữ rất lớn: “Họ Lã. Dương Địch”. Nét chữ rắn rỏi sắc sảo, thể hiện một trình độ văn hóa cao siêu. Gió đưa lá cờ phấp phới tung bay, càng tăng thêm vẻ oai phong ngạo nghễ. Người họ Lã, đất Dương Định (nay là huyện Ngu tỉnh Hà Nam) đó không ai khác, chính là Lã Bất Vi, một nhà buôn lớn lúc bấy giờ. Tuy tuổi đã ngoài bốn mươi, nhưng trông vẫn còn rất trẻ trung cường tráng, trán rộng, khuôn mặt nhẵn bóng và mồ hôi nhễ nhại, bước chân rất dài nhưng khoan thai. Lã Bất Vi nhã nhặn tiễn đưa một đoàn khách đi ra đến cửa, chắp tay và nói với khách như xin lỗi họ: – Thưa các vị vương hầu, công khanh, cao nha, đại hộ [1], kẻ tiểu thương này vừa mới chở hàng từ quê nhà ở Dương Địch đến đây hôm qua. Sở dĩ đến chậm như vậy là vì đường xá bị chiến tranh liên miên tàn phá, xe cộ đi lại rất khó khăn chậm trễ. Vừa đến nơi đã phải vội vàng bày biện để kịp chào đón quý khách, cho nên hàng hóa chưa thật dồi dào, mẫu mã chưa thật đầy đủ. Hôm nay được chư vị thượng khách không quản ngại thì giờ vẫn chiếu cố đến dự, chúng tôi thật vô cùng cảm kích và vinh dự. Chỉ rất đáng tiếc là lúc này còn quá ít những thứ thượng hảo hạng, chúng tôi rất áy náy trong lòng. Đợi vài ngày nữa, sẽ chọn một ít hàng tinh xảo quý hiếm và đích thân mang đến tận nhà quý vị… – Xin đa tạ, xin đa tạ. Đã nhận được quá nhiều rồi. – Một số vị khách, một tay cầm đồ trang sức hoặc da lông thú, một tay khoát về phía Lã Bất Vi, tỏ ý cảm ơn chủ hàng. Lã Bất Vi nói tiếp: – Các vị đã có tấm lòng thịnh tình như vậy, chúng tôi nhất định còn đến hầu hạ. Một vị khách đáp lại: – Ngài Lã hậu đãi như vậy, tôi cũng áy náy vô cùng. Không nhận thì bất kính, mà nhận thì rất phân vân. Một người khách khác lên tiếng: – Theo tôi thì cứ nên trả tiền cho ông chủ theo giá gốc của hàng hóa; không nên để cho nhà buôn cao quý ấy quá thiệt thòi! Lã Bất Vi vội nói: – Khỏi! Khỏi! Khỏi! Chư vị đều là các yếu nhân của quý quốc nhà Triệu, nay họ Lã tôi đây được may mắn gặp mặt làm quen, là điều vinh hạnh vô cùng to lớn cho kẻ tiểu thương này rồi. Những thứ mà chư vị đã chọn, chỉ là một chút lễ mọn của họ Lã. Chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình chứ không dám lấy tiền, không thể lấy tiền… Các vị khách cũng không khách sáo mãi nữa. Họ nói: https://thuviensach.vn – Quý nhau không bằng nghe lời nhau. Xin đa tạ tấm thịnh tình của ông chủ cao quý! Xin cáo từ. Xin ngài khỏi phải tiễn chân nữa. – Xin chào quý khách. Xin tha lỗi, không tiễn chân xa hơn nữa! Sau khi tiễn khách, Lã Bất Vi thấy trời đã tối hẳn, bèn dặn dò đám người giúp việc: – Hôm nay chỉ bày hàng đến đây thôi, bây giờ phải thu dọn, đem phân loại và chất lên xe đưa về nhà! Lã Bất Vi vừa dứt lời, mọi người liền bắt tay ngay vào việc thu dọn hàng hóa. Một số người dắt ngựa đến, vội lắp hàm thiếc vào mồm ngựa, lắp càng xe vào, chờ đến khi xe đầy hàng thì đánh ngựa đi về. Lúc này, người bạn tâm phúc và cũng là người quản lý sổ sách tiền nong của Lã Bất Vi là Lã Yên đến bên cạnh Lã Bất Vi. Lã Yên khe khẽ nói bên tai chủ: – Ông chủ, thế còn cái lán này? Lã Bất Vi nhìn lên bầu trời tối om, sau đó mới từ từ trả lời câu hỏi của người giúp việc: – Không cần tháo dỡ lán. Theo ta thì mấy ngày tới trời vẫn không mưa gió gì, lán được dựng ngoài trời, không gây trở ngại cho bất cứ ai. – Ông chủ nói đúng quá. Thế cũng đỡ mất công! – Lã Yên định quay gót bước đi, bỗng nhớ ra điều gì, liền dừng lại hỏi thêm – Có cần cắt cử người trông coi hay không? – Cũng được. Khi nào đưa hàng về nhà xong, phiền bác chọn mấy đứa trẻ khỏe ở nhà đến đây canh chừng ban đêm. Những đứa đã làm việc mấy hôm nay ở đây đều mệt nhọc bở hơi tai rồi, để cho chúng nghỉ ngơi ở nhà. Sau khi sắp xếp mọi việc đâu vào đấy, Lã Bất Vi cùng với Lã Yên đi kiểm tra một lượt tất cả các xe hàng, sau đó khoát tay ra hiệu cho một đoàn xe khởi hành. Hai người đứng nhìn đoàn xe lăn bánh khuất dần trong màn đêm. Bỗng Lã Bất Vi nhớ ra một điều gì, ông vội bảo người bạn già: – Bác chạy theo đoàn xe lấy lại mấy tấm da lông thú, chúng ta phải đi bộ vì xe chở quá nhiều hàng. Dọc đường, tôi và bác có thể đi qua nhà các yếu nhân trong triều hoặc các bậc đàn anh trong ngành buôn bán, những người mà hôm nay họ chưa đến đây, tiện thể chúng ta có cái làm quà biếu họ. Lã Yên gật đầu, im lặng vâng lời. Hai người rảo bước đi về. Khi hai người đi qua khu phố nhộn nhịp nhất, bỗng Lã Yên lên tiếng nhắc nhở Lã Bất Vi: – Ông chủ, trời đã sang đông, gió đang thổi mạnh, càng về đêm càng lạnh buốt, không thể coi thường. Có lẽ chúng ta nên dừng bước ở đây, hớp vài cén cho ấm người. Lã Bất Vi nghe người trợ thủ nói vậy, thấy cũng hợp lòng mình, bèn dừng chân và quay bước vào một quán rượu cạnh đường. Hai người vừa bước vào, chủ quán đã lập tức chạy đến đon đả mời chào: – Té ra là Lã đại nhân! Đã bao nhiêu ngày rồi chẳng thấy ngài chiếu cố đến cái quán nhỏ này! Lã Yên trả lời thay cho chủ: – Chúng tôi về quê Dương Địch lấy hàng, nay mới quay lại đây. Xin sắp xếp một chỗ ngồi riêng cho hai chúng tôi và thắp đèn sáng lên. Chủ quán lập tức đưa hai người vào một phòng riêng đúng theo yêu cầu và hỏi: – Xin hỏi hai vị dùng gì? – Cho một bình rượu đã hâm nóng, hai đĩa thịt, một canh hoa quỳ. Rượu thịt đã được mang lên, Lã Bất Vi vừa tớp một ngụm rượu vừa bảo Lã Yên mang mấy tấm da lông thú vắt lên tấm bình phong chắn gió. Lã Yên vừa ăn vừa nhỏ to với ông chủ: – Tôi nói thế này nếu không phải, xin ngài bỏ quá đi cho. Vừa rồi ngài quá vung tay, người ta đã nói đến chuyện trả tiền các tặng phẩm ấy, lẽ ra có thể chiều theo ý khách để https://thuviensach.vn thu về một ít vốn, hà tất phải lên mặt sĩ diện, nhất loạt miễn phí cho mọi người! – Không sĩ diện thì mặt của tôi vẫn thế. Bác không biết trên đời này từng có câu nói rằng kẻ đến thì chẳng tốt gì, người tốt thì không đến. Nếu lấy của họ một ít tiền để họ chê mình là anh chàng tiểu nhân, chi bằng cho không họ còn hơn. Mà mấy ông lớn này nhận được quà của mình, họ sẽ sai bảo quan chức cấp dưới của họ nới tay cho ta, ta có thể rộng đường định giá hàng hóa, họ cũng có thể đánh thuế của ta thấp hơn một chút. Vậy chẳng mấy chốc mà lại vốn! Đại quản gia của tôi có hiểu không? – Nói xong, Lã Bất Vi cười sảng khoái. – Ngài tính toán thật tinh tường chu đáo, già này xin phục sát đất! – Lã Yên vừa nói vừa nâng cốc. Lã Bất Vi chạm cốc và uống một hơi thật dài, rất đắc ý: – Làm cái nghề buôn bán này không phải chỉ biết nghĩ mà còn phải biết nhìn, nhìn thương trường đã đành, lại còn phải nhìn quan trường! Vừa lúc ấy bỗng có hai người đẩy cửa bước vào. Họ ngồi ở một phòng rộng bên ngoài, đối diện với căn phòng mà Lã Bất Vi đang ngồi. Sau khi nhấm nháp rượu thịt, vị khách lớn tuổi ngước mắt nhìn thấy tấm da lông thú vắt trên bức bình phong, hình như rất ưa mắt nên ông ta bước đến ngắm nghía rất kỹ, toan đưa tay sờ vào hiện vật. Lã Yên thấy vậy bèn vội bước tới can ngăn: – Hình như ngài muốn dùng mấy tấm da thú này phải không ạ? – Cố nhiên rồi. Loại hàng này, ta cũng có hiểu biết đôi chút. Chẳng qua ngồi đằng ấy hơi xa, trời lại tối, đèn dầu mù mờ nhìn không rõ, nên mới đến tận nơi xem kỹ một chút. – Vị khách nói hơi dài nhưng rất nhã nhặn. – Xem thì được, nhưng xin đừng sờ tay vào. – Lã Yên nói năng hơi nặng giọng một chút. – Không được sờ thì làm sao biết được tốt hay xấu. – Người khách tỏ vẻ không vui. Lã Bất Vi thấy hai người cứ đôi co mãi bèn vội đứng dậy phân giải: – Xin ngài quan khách chớ hiểu lầm chúng tôi. Mấy tấm da này chúng tôi sửa soạn đem biếu mấy đại nhân trong phủ, chứ không phải đem bán. Bác quản gia của tôi nói năng không rõ ràng, xin các vị bỏ quá đi cho. – Đã vậy thì không ép bán nữa. Vị khách kia nắm chặt hai tay để chào và cáo từ, nhưng bỗng nhận ra Lã Bất Vi, vội “ồ” lên một tiếng và mừng rỡ: – Té ra là Lã đại thương gia. Đây là hàng của Lã phủ Dương Địch, hẳn phải là loại thượng hảo hạng, danh bất hư truyền mà. Nghe nói vậy, Lã Bất Vi bất giác cảm thấy có chút ngỡ ngàng. Ông vội đáp: – Không dám, tôi chỉ vào hạng tiểu thương mà thôi. Xin hỏi đại nhân tại sao lại biết tôi là Lã Bất Vi? – Kẻ hạ quan là Công Tôn Càn, được triều đình giao cho chức “lễ tân” ở nhà khách Tùng Đài. Hạ quan đã nhiều lần nhìn thấy đại thương gia đến dự tiệc hoặc tiếp kiến tân khách ở đó. Nơi ấy chỉ đón tiếp các thượng khách của triều đình hoặc của các đại thần. Hạ quan rất may mắn được phục dịch nơi sang trọng đó và cũng từng chứng kiến phong độ quan lớn của ngài. – Vị khách kia một lần nữa nắm chặt hai lòng bàn tay để tỏ thái độ cung kính Lã Bất Vi. – Vậy ra ngài là Công Tôn đại nhân, thầy tớ chúng tôi có mắt như mù, chẳng nhận ra thượng quan tôn quý, để đến nỗi buông lời thất lễ, xin ngài rộng lượng hải hà. Nói xong, Lã Bất Vi còn ra hiệu cho Lã Yên nói lời xin lỗi. Lã Yên là con người rất khéo mồm khéo miệng: – Không đáng trách kẻ tiểu nhân không biết việc biết người. Công Tôn đại nhân là https://thuviensach.vn thượng quan nơi phủ đường, chắc là không chấp những chuyện nhỏ mọn ấy. – Nói xong, Lã Yên liền bảo chủ quán đưa rượu thịt của Công Tôn Càn đến phòng riêng của Lã Bất Vi, bốn người cùng chén thù chén tạc một bàn. Khi mọi người đã ngà ngà say, Lã Yên nhanh nhẩu đưa tiền thanh toán toàn bộ. Công Tôn Càn vừa gọi người trẻ tuổi kia cùng lại nhậu nhẹt vừa nói lời cảm tạ Lã Yên: – Ngẫu nhiên gặp nhau, sao lại để một mình quý ngài trả cả tiền, e rằng không tiện. Lã Bất Vi nâng cốc chúc rượu hai người, bỗng thấy nét mặt người trẻ tuổi không vui, lại còn cúi đầu như đang nghĩ ngợi điều gì mông lung ghê lắm, bèn hỏi Công Tôn Càn: – Xin ngài giới thiệu vị khách này để chúng tôi tiện bề giao tiếp. Chúng tôi là tiểu thương ở nơi khác đến đây, cũng chỉ là khách tạm trú và nương tựa vào sự giúp đỡ và chiếu cố của các thương gia quý quốc mà thôi. Hôm nay may mắn được gặp Công Tôn đại nhân, thật là duyên phận quá dày. Nay ngồi với nhau bên chén rượu với bữa cơm thường, chẳng phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ bày tỏ chút lòng thành kính của kẻ hèn mọn. Lúc này Công Tôn Càn mới sực nhớ ra, bèn vội vàng trả lời: – Xin ngài thứ lỗi, suýt nữa thì tại hạ quên mất một việc trọng đại. – Nói xong liền quay người sang hai phía và nói giới thiệu: – Đây là đại thương gia Lã Bất Vi, quê ở Dương Địch nước Hàn. Gã thanh niên vội nắm tay chào và nói: – Rất vinh hạnh! Rất vinh hạnh! Công Tôn Càn nói tiếp: – Đây là công tử Dị Nhân đến từ Hàm Dương nước Tần. Khách chưa nói dứt lời Lã Bất Vi đã rất kinh ngạc, bất giác thốt lên: – Vậy là đại huynh đây là cháu của vua Chiêu Vương nước đại Tần, là con của điện hạ An Quốc Quân. Và ngài đã đến đây làm con tin nhiều năm nay ở nước Triệu này? – Đúng thế, ta là công tử Doanh Dị Nhân! – Người thanh niên bẽn lẽn trả lời. Lã Bất Vi tỏ ra vui mừng, giọng nói cũng có vẻ xúc động. Ông ta nói rất trịnh trọng: – Kẻ tiểu thương này từ lâu đã hay tin đại vương nhà Tần cho người cháu của mình sang làm con tin ở nước Triệu và ở tại Tùng Đài, nhưng không ai cho gặp, nên không dám mạo phạm tiếp kiến. Nay bỗng được hội ngộ ở đây thật là dịp may ba kiếp đời[2] mới có một lần! – Ta cũng chỉ là khách ở Hàm Đan này mà thôi. Nhưng so với ngài thì còn hèn kém hơn, thật tự thẹn trong lòng. – Doanh Dị Nhân nói rất thẳng thắn. Lã Bất Vi tỏ vẻ hoảng sợ và nói rất khiêm nhường: – Họ Lã tôi đây bất quá cũng chỉ là một lái buôn, sao có thể sánh ngang với công tử là con cháu hoàng gia được! Doanh Dị Nhân không tiện đối đáp bèn đưa mắt ra hiệu cho Công Tôn Càn, có ý để ông ta nói. Công Tôn Càn biết ý bèn nói với Lã Bất Vi: – Ngài là đại thương gia, dù buôn chuyến hay buôn ngồi, cũng đều tự do làm theo ý mình. Còn công tử đây làm con tin, mỗi lời nói hay hành động đều bị theo dõi chặt chẽ. Bỉ chức tiếng là làm lễ tân nhưng thực ra là trực tiếp giám thị công tử Doanh Dị Nhân theo đúng lệnh của nhà vua Hiếu Thành nước Triệu. Câu trả lời ấy càng làm cho Lã Bất Vi thêm kinh ngạc, Lã hỏi lại: – Sao, có chuyện như vậy ư? – Cũng không hoàn toàn như vậy. – Doanh Dị Nhân vừa cười gằn đau khổ, vừa nói: – Mỗi khi hai nước hòa hiếu với nhau thì tôi được mặc gấm vóc, ăn cao lương mỹ vị, và nghiễm nhiên đóngai một sứ giả của nước lớn. Nhưng khi nào hai bên xảy ra bất hòa, https://thuviensach.vn chống đối lẫn nhau, lúc ấy người ta coi tôi chẳng khác gì một tên giặc ngoại xâm bị bắt làm tù binh, họ theo dõi từng lời ăn tiếng nói của tôi, chàng những làm nhục một công tử như tôi, mà còn liên lụy đến đại nhân Công Tôn Càn, làm cho ngài đây vô cớ bị oan, khiến lòng tôi luôn thấp thỏm lo âu. Đến đây, Lã Bất Vi thật sự cảm thấy rất khó ăn nói. Công Tôn Càn lại bổ sung thêm. Ông ta hạ giọng: – Lúc bình thường thì công tử là thượng khách; ở tại dịch quán Tùng Đài, bỉ chức làm phục dịch lễ tân. Công việc như vậy cũng vui vẻ êm xuôi. Nhưng chẳng hiểu cớ gì gần đây hai nước lại xích mích rồi đi đến gầm ghè lẫn nhau, bên nào cũng gươm tuốt khỏi vỏ, nỏ đã căng dây. Vua Triệu bèn đưa công tử ra ở ngoại thành Hàm Đan, tăng cường giám sát. Hạ quan đã theo hầu công tử nhiều năm, nên được triều đình tin cậy và giao cho giữ chức “úy” để giám sát công tử. Vai hôm nữa sẽ lên ngựa đi đến chỗ ngoại ô xa xôi hẻo lánh đó. – Tuổi còn trẻ thế này mà đã phải hứng chịu bao nỗi nhọc nhằn vì quốc sự. Đất trời xoay chuyển khôn lường, vậy mà công tử cũng chịu nổi! – Lã Bất Vi tỏ lòng đồng cảm sâu sắc với Doanh Dị Nhân. – Tôi đã nếm trải mười mấy năm trời trong cảnh ngộ biến đổi thất thường như thế này rồi. Hầu như chỉ còn cách nhẫn nhịn chịu lụy, chứ biết làm sao được? – Doanh Dị Nhân lại cười gằn trong đau khổ, rồi đăm chiêu hồi tưởng lại những năm tháng buồn thảm của cuộc đời. Mười tám năm trước đây, tức năm thứ hai mươi tám vua Chiêu Vương nhà Tần (năm 279 trước Công nguyên), nước Tần và nước Triệu ký kết thỏa ước ngừng chiến v hòa hiếu. Sở dĩ hai nước đi đến sự thỏa thuận lịch sử đó là vì nước nào cũng muốn được nghỉ ngơi để lấy lại sức sau bao nhiêu năm đánh nhau liên miên, lúc thì bên này thắng, lúc thì bên kia đánh bại bên này, gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho cả hai nước, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân ngày càng lầm than khốn khổ, nhân khẩu ngày một hao mòn. Trong hai nước, thì nước Tần dù sao cũng là nước lớn hơn, nên đã chủ động gửi con tin sang Triệu. Con tin đó phải là con cháu hoàng gia, như vậy sẽ có giá trị làm yên lòng nước Triệu. Sau khi suy nghĩ xếp đặt như trên, Tần Chiêu Vương cho gọi thái tử An Quốc Quân và vợ là Hoa Dương phu nhân đến và ra khẩu dụ: – Nay nước ta đã ngưng chiến và hòa hiếu với nước Triệu; lại còn phải đưa một hậu duệ hoàng gia sang Hàm Đan nước Triệu, thay mặt nước ta làm con tin bên ấy để giữ chữ tín với họ. An Quốc Quân chăm chú lắng nghe và có ý thăm dò suy nghĩ của vua cha. Tuy hơi sợ sệt những cũng hỏi lại: – Ý chỉ của phụ vương là tìm một người trong hàng anh em nhi thần?[3] – Không. Không. Không. Thế hệ các người đã quá tuổi tự lập. Hơn nữa, đều đã có gia thất, không tiện đi xa sang tận nước khác. – Nhà vua trả lời. – Như vậy thì chỉ có thể lựa chọn trong hàng cháu của phụ vương mà thôi. – Hoa Dương phu nhân nói. Nhờ có cương vị ở “đông cung”[4] của thái tử, nên Hoa Dương phu nhân có hiểu biết chút ít ý đồ của vua cha. Vì vậy, bà vừa nói xong, Tần Chiêu Vương liền gật đầu chấp nhận. – Ý trẫm cũng chính là ý nhà ngươi vừa nói. – Chiêu Vương vừa đưa tay vuốt nhẹ chòm râu vừa mỉm cười gật đầu. An Quốc Quân lập tức ủng hộ: – Phụ vương đã có chỉ dụ rõ ràng như vậy, nhi thần nhất định tìm người đúng theo ý chỉ phụ vương, quyết không để cho ai gây khó khăn cản trở. Chiêu Vương vẫn giữ thái độ khách quan, công bằng: – Trẫm và các cháu cách xa nhau một đời người, không hiểu rõ mọi chuyện nên chỉ có thể nói với các ngươi những hướng lớn vậy thôi. Cụ thể chọn ai, các ngươi phải bàn bạc và định đoạt. Khi nào lựa chọn được người cụ thể hãy trình lên Trẫm, để phát thánh chỉ, giao https://thuviensach.vn cho triều đình sai sứ đưa sang Hàm Đan nước Triệu. Việc này rất gấp cần làm ngay cho kịp. Vợ chồng thái tử An Quốc Quân trở về phòng của mình. Hai người ra lệnh cho các tỳ nữ và hoạn quan lui ra để bàn bạc kín đáo. Lúc này, An Quốc Quân tỏ ra rất do dự, chẳng biết nên lựa chọn đứa con nào của mình. Hoa Dương phu nhân chủ động nói với thái tử: – Thần thiếp rất thông cảm với nỗi lòng trắc ẩn của thái tử. Chỉ vì thần thiếp là chánh thất ở đông cung, nhưng ông trời không ban phúc cho thiếp, không sinh cho thái tử một đứa con làm thừa tự, nếu có con thì hôm nay đã có người đi làm con tin, thái tử sẽ bớt phần lo nghĩ. – Nàng không sinh con, hóa ra những lời vừa nói chỉ là “đánh giặc trên giấy”, chẳng giúp ích gì cho công việc trước mắt. Điều rất gay cấn hiện nay là ta có khoảng hai mươi đứa con trai do sáu, bảy cung phi sinh ra. Đưa một đứa đi làm con tin là hết sức hệ trọng, là chuyện sống chết. Các con đều là máu mủ của mình, các phi đều là mẹ đẻ của chúng. Ai có thể nhẫn tâm dằn lòng cho con mình đi xa ngoài nghìn dặm để quỳ lạy nơi thù địch, sống cuộc đời một tên tù cô đơn khổ hạnh? Hoa Dương phu nhân không cầm được nước mắt: – Thiếp vì số kiếp không sinh con, nhưng bẩm sinh vẫn có tình mẫu tử, vẫn đau cái đau của bất cứ người mẹ nào có con phải đi làm con tin. Phụ vương bảo thần thiếp phải cùng bàn bạc và định đoạt việc này là có ý coi trọng vai trò chủ trì đông cung của thiếp. Nhưng thiếp trộm nghĩ, nếu như các cung phi biết được thiếp có can dự vào việc này, e rằng khó tránh khỏi bị họ nghi kỵ, chê trách, thậm chí trả thù. Cho nên rất mong thái tử tự mình quyết lấy! An Quốc Quân cảm thấy những lời tâm huyết của người vợ mà mình chiều chuộng nhất, thật sự xúc động, chân thành, nên không trách móc nàng nữa. Ông quay ra ôn tồn an ủi Hoa Dương. Ông trằn trọc suy nghĩ rất lâu như trăm mối tơ vò, không sao chợp mắt được, mặc dù Hoa Dương đã thở đều đều trong lòng ông, bình an vô sự như không có bất cứ điều gì đang xảy ra. Ông hiểu rất rõ rằng dẫu cho đưa đứa con của bất cứ cung phi nào đi làm con tin thì cũng đều gieo tai họa đau đớn cho người mẹ. Vì vậy, phải suy xét thật chu đáo, cân nhắc kỹ càng xem mức độ chịu đựng đau khổ của mỗi người mẹ đối với người con như thế nào; cũng như quan hệ của bản thân ông đối với mẹ con họ ra sao, sau đó mới có thể quyết định. Bằng cách đó An Quốc Quân đã lần được manh mối, đã tìm được đứa con có thể làm con tin. Đến đây, ông thấy mình thư thái hơn, nhẹ nhõm hơn, thanh thản hơn, rồi giấc ngủ kéo đến với ông lúc nào không biết nữa. Lúc tỉnh dậy thì đã quá muộn, đã quá giờ Tỵ sắp sang giờ Ngọ rồi. Ông vội ngồi dậy, chải qua tóc và nói những điều suy nghĩ tối hôm qua với nàng Hoa Dương yêu quý. Một mặt, ông sai nô tỳ cho gọi nàng Hạ Cơ đến. Hạ Cơ ăn mặc sơ sài, khuôn mặt xanh xao vì đau yếu. Tuy nhiên đằng sau khuôn mặt u buồn với đôi mắt đẫm lệ của nàng vẫn lộ rõ những nét đẹp quyến rũ và dáng vẻ dịu hiền nhưng mềm yếu của người mẹ trẻ. Hạ Cơ quỳ xuống, sợ hãi trong lòng, nói khẽ khàng: – Thần thiếp cúi đầu vấn an thái tử điện hạ và Hoa Dương phu nhân. An Quốc Quân nói với nàng, giọng hơi dè dặt: – Ngươi hãy ngẩng đầu lên để nghe ta đọc ý chỉ của phụ vương. – Thần thiếp xin tuân thủ! – Hạ Cơ ngẩng đầu, nhìn thẳng. Đôi mắt nàng vẫn không giấu nổi sợ hãi và thất vọng. Trong khi đó, An Quốc Quân, người chồng đã có một con với nàng, nói rất trịnh trọng và nghiêm khắc: – Nước đại Tần ta và nước Triệu đã ngừng chiến giảng hòa. Để giữ chữ tín với đối phương, phụ vương đã chỉ định Doanh Dị Nhân, con trai nhà ngươi, sang làm con tin ở Hàm Đan nước Triệu, coi như đi làm sứ mạng theo mệnh lệnh quốc gia. – Bẩm thái tử điện hạ, con trai Doanh Dị Nhân của thiếp cũng là con của thái tử. – Hạ Cơ nhắc nhở đức ông chồng tôn quý – Nàng nói rất bình tĩnh. Tâm trí An Quốc Quân bỗng hụt hẫng chốc lát, ông phải gật đầu: https://thuviensach.vn – Điều đó là lẽ đương nhiên rồi. Cũng chính vì lẽ đó mà ta được giao việc truyền đạt ý chỉ phụ vương cho nhà ngươi, rất mong nhà ngươi thấu hiểu để làm theo đúng chỉ lệnh phụ vương. – Đã là ý chỉ của phụ vương, dù con đẻ hay con dâu, đều phải kính cẩn chấp hành. Có điều, việc lựa chọn này có lẽ không phải là ý tưởng của phụ vương! – Hạ Cơ tuy đang ở vào thế bị lép vế, nghịch cảnh, nhưng vẫn không kìm nổi đức tính ngay thẳng chân chất của mình. – Ngươi nói vậy, hóa ra trong chuyện này phải chăng có điều gì lắt léo, khuất tất? – Hoa Dương phu nhân nói xen vào. Nhưng nếu tinh ý thì thấy những lời của bà có vẻ giấu đầu hở đuôi. Nhân đà đó, Hạ Cơ nói tiếp, giọng đanh lại: – Phụ vương hàng ngày phải lo trăm công nghìn việc, luôn luôn nhọc nhằn vì quốc sự, rất hiếm khi phụ vương có thì giờ hỏi han đến đàn cháu vừa đông vừa xa cách về tuổi tác nên hầu như không hiểu hết mọi chuyện. Việc sai phái người làm con tin, sao không chọn những đứa cháu đàn anh đã khôn lớn hiểu đời, sao lại bắt con thiếp là đứa trẻ chưa một chút từng trải, còn rất non dại, phải gánh vác trọng trách quốc sự nặng nề như vậy. Theo thần thiếp, trong chuyện này chắc chắn là có điều gì lắt léo, khó hiểu! An Quốc Quân chịu không nổi nữa, bèn phát khùng lên: – Nhà ngươi sao dám nghi ngờ công việc tều chính, cả gan huyền hoặc phụ vương! – Thần thiếp không dám. Nhưng Doanh Dị Nhân miệng còn hôi mùi sữa, vậy mà cũng bắt đi làm con tin, rõ ràng là do lòng thiên vị của thái tử! – Hạ Cơ nói rất quyết đoán. An Quốc Quân không khỏi động lòng, song vẫn dè dặt bao che cho việc làm của mình: – Hai mươi mấy đứa con trai đều là ruột rà của ta cả, làm gì có chuyện thiên vị đứa này đứa kia?. Hạ Cơ đáp lại một cách lạnh lùng, chua chát: – Sự thiên vị của thái tử không phải nhằm vào con trai chúng ta là Doanh Dị Nhân, mà là nhằm vào thần thiếp đây này! – Xem ra nhà ngươi rất biết soi mình. Nhưng sở dĩ ta có đối xử thiên lệch với nhà ngươi, cũng đều là do nhà ngươi tự mình chuốc lấy mà thôi. – Như vậy, An Quốc Quân càng nói càng bộc lộ rõ sự thiên vị của mình, mặc dù ông ta cứ muốn ép đối phương tự nhận lấy mọi tội lỗi về mình. Đến đây, Hạ Cơ biết rằng chuyện này đã được định đoạt xếp đặt đâu vào đấy rồi, chắc không thể thay đổi được nữa, nên không tiếp tục tìm kiếm may rủi nữa, nàng không thể giấu mãi nỗi buồn chất chứa bấy lâu trong lòng: – Năm xưa thần thiếp được tuyển vào đây, chưa bao giờ dùng “mỹ sắc” để đùa bỡn với thái tử, thiếp chỉ dựa vào “mỹ đức” là điều duy nhất để phò tá thái tử đứng ra làm chủ đông cung. Ngờ đâu lại bị ghẻ lạnh đến nỗi này! – Nhà ngươi đã biết rõ là mình bị thất sủng, cớ sao cứ lấy chuyện nọ xọ chuyện kia để oán trách ta? – An Quốc Quân không muốn nghe Hạ Cơ nói tiếp nữa. Nhưng Hạ Cơ vẫn tiếp tục thổ lộ hết tâm trạng đau buồn trong lòng: . – Thái tử đã đối xử với thần thiếp như vậy, thần thiếp cũng chỉ biết cam chịu số phận. Nhưng vẫn trông ngóng thái tử nhìn nhận Doanh Dị Nhân với tình nghĩa cha con. Được vậy thì thiếp mãn nguyện lắm rồi. Ai ngờ nay lại vì ghét mẹ mà đày con đi xa, nhẫn tâm đưa giọt máu của mình cho kẻ thù chà đạp giày xéo. Hỡi trời cao đất đày, chẳng lẽ ngài lại lòng gang dạ sắt như vậy ư? Thái tử chẳng còn chút tình nghĩa gì với thần thiếp thì đã đành, nhưng với đứa con dứt ruột đẻ ra vẫn không chút thương xót nào hay sao? An Quốc Quân cảm thấy xấu hổ nhưng lại phát khùng phát cáu lên: – Nhà ngươi dám ăn nói bất kính với ta như vậy ư, thật quá lắm, quá lắm! Bay đâu, đem con giặc này vào “cấm cung”, từ nay không cho gặp Doanh Dị Nhân nữa! https://thuviensach.vn Mấy viên quan hoạn xộc vào, lôi xềnh xệch Hạ Cơ ra ngoài. Hạ Cơ vẫn tiếp tục nói: – Thần thiếp từ lâu đã không còn cầu mong gì đến chuyện sủng ái, nhưng thái tử lại nỡ chia lìa mối tình mẫu tử, tâm địa đâu mà tàn nhẫn thế, sao lại có người tàn nhẫn thế? – Tiếng kêu than não nùng của người mẹ đáng thương cứ xa dần, xa dần. Mọi người chứng kiến cảnh ấy ai cũng cảm thấy vô cùng sửng sốt nhưngai dám lên tiếng. Hôm nay, cung điện Hàm Dương nước đại Tần rộn ràng tiếng trống, văn võ bá quan tề tựu. Còn có mặt cả các hoàng thân quốc thích mà xưa nay rất ít tham dự triều chính. Họ đứng hai bên theo thứ tự đẳng cấp và vương vị trên dưới. Vua Tần Chiêu Vương ngồi chính giữa điện, tiếp nhận quần thần bái lạy. Sau đó ngài đưa tay ra hiệu cho An Quốc Quân tuyên đọc thánh chỉ. An Quốc Quân đứng trước mặt nhà vua, hai tay giơ thẳng bản thánh chỉ và đọc dõng dạc: Duy ngã đại Tần, đức uy viễn đá. Chư hầu hàm phục, cao tấu khải ca. Vi dân sinh tụ, vĩnh cố sơn hà. Toại dự Triệu quốc, đính ước câu hòa. Vương tôn Dị Nhân, thiên lý bôn ba. Vi chất bỉ bang, tương giao hòa mục. Quốc sự tại thân, xã tắc trọng thác. Khắc thành sứ mệnh, tổ đức di mô. Khâm thử. Dịch ý: Nước đại Tần ta, uy đức hải hà Chư hầu bái phục, khải hoàn ngợi ca Còn dân còn nước, xây đắp sơn hà Nay cùng Triệu quốc, hòa hiếu cầu thân Vương tôn Dị Nhân, cử sang quý quốc Đặng làm con tin, bang giao hòa mục. Việc nước nặng nề, xã tác giao phó. Làm tròn sứ mạng, báo đáp tổ tiên. Khâm thử. Hoa Dương phu nhân dắt tay Doanh Dị Nhân (năm ấy lên mười) đi nhanh đến trước mặt thái tử và ấn tay lên vai em, bảo quỳ xuống và nhắc: – Mau nhận chỉ, tạ ơn đi! Doanh Dị Nhân đang ngỡ ngàng trước khung cảnh lễ nghi quá ư long trọng, bỗng luống cuống nhắc lại như con vẹt lời nói của Hoa Dương phu nhân: – Mau nhận chỉ, tạ ơn đi! Mọi ngưGi bật cười. Nhà vua đành phải giải thoát cho mọi người bằng cách khẽ gật đầu và nói: – Xem ra tuổi còn hơi nhỏ. Nhưng từ nhỏ đã ít nhiều tiếp xúc với cuộc sống, sau này lớn lên mới có thể đảm đương được việc lớn! – Tiếp đó, ngài nói với Hoa Dương phu nhân – Hãy đốt hương tắm gội cho cháu, sau đó đưa đi chào từ biệt các cung thất. Dạy cho cháu nó ghi nhớ rằng mình là con cháu hoàng gia đại Tần ta. https://thuviensach.vn Hoa Dương thừa dịp, liền xin ý chỉ nhà vua: – Thưa phụ vương, thế còn mẹ đẻ của cháu là Hạ Cơ? – Ta đã nói rồi, không cho hai mẹ con gặp nhau nữa; vả lại Hạ Cơ đã bị đưa vào cung cấm rồi! – An Quốc Quân vẫn không thay đổi ý kiến. Nhà vua vội nói: – Dẫu rằng Hạ Cơ đã bị giam vào cung cấm, nhưng tình mẫu tử không thể cấm đoán được. Huống chi Doanh Dị Nhân lần này ra đi không biết ngày nào về, khó tránh hết rủi ro, có thể là chuyện “sinh ly tử biệt”, cho nên, hãy cứ cho hai mẹ con gặp nhau một lúc là hay hơn. Hoa Dương phu nhân vội vàng quỳ xuống và kéo cả Doanh Dị Nhân quỳ xuống, nói rất cung kính: – Tạ ơn đại đức phụ vương! – Nói xong liền dắt theo Doanh Dị Nhân lui nhanh ra phía ngoài. Trong khi triều đình đang diễn ra cảnh tượng long trọng trang nghiêm như vậy thì một không khí hoàn toàn trái ngược đang bao trùm nơi cung cấm. Cấm cung tuy cũng ở trong khuôn viên hoàng cung, nhưng đây luôn là nơi vắng lặng nhất, buồn tẻ nhất, là nơi đày đọa những người trong hoàng cung bị thất sủng. Hạ Cơ là người mới đến. Nàng bị nhốt trong một căn nhà thấp lè tè ở mé phía tây. Tiếng hát của nàng vọng ra nghe sao mà não lòng, tê tái. (Bài ngâm mỗi câu tám chữ, dịch ý như sau): Trăng lạnh sao buồn soi song cửa Một mình vò võ suốt năm canh Chàng hỡi sao mà bạc ác thế, Chia lìa đôi ngả mẹ con ta. Ngõ vắng đêm dài ai thấu chăng, Quạ đêm quang quác đến kinh hồn. Nhớ thương con nhỏ đau lòng mẹ, Ở nơi xa ấy họa hay lành? Hạ Cơ đang định ngâm tiếp thì cánh cửa nặng nề hé mở. Nàng bất ngờ hoảng hốt dán mắt ra phía cửa, tim đập thình thịch, căng thẳng, sợ hãi, tưởng như sắp có một tai họa gì đang ập tới. Nàng vội đưa tay sửa lại mái tóc đang rối bù, dụi khô hai hàng nước mắt trên gò má. Bỗng hai bóng người hiện ra trước khung cửa, họ bước lại phía nàng mỗi lúc một gần. Hoá ra là Hoa Dương phu nhân và đứa con yêu quý Doanh Dị Nhân. Hoa Dương phu nhân đến gần Hạ Cơ khẽ khàng lên tiếng: – Hạ Cơ, ta đưa Doanh Dị Nhân đến thăm em đây! Bất ngờ quá! Sự việc vượt quá sức tưởng tượng của mình, Hạ Cơ chẳng biết nói thế nào cho phải, chỉ biết quỳ xuống. ngước mắt nhìn chằm chặp vào hai người mới đến. Một phút ngỡ ngàng trôi qua, Hạ Cơ mới nói nên lời: – Cảm ơn phu nhân. Phu nhân còn đến đây được à? Lại còn cả Doanh Dị Nhân con ta nữa… – Mau gọi mẹ đi con. Hãy đỡ mẹ đứng dậy! – Hoa Dương vừa lau nước mắt vừa nhắc nhở cậu bé. Doanh Dị Nhân đang sững sờ trước thảm cảnh của mẹ mình, bỗng như bừng tỉnh sau lời sai bảo của Hoa Dương phu nhân. Em vội vàng cúi xuống đỡ mẹ đứng dậy và khóc oà lên: – Mẹ ơi mẹ. Mẹ ơi mẹ! – Em lăn xả vào lòng mẹ. – Hỡi ôi, con tôi. Hỡi ôi, con tôi! – Hạ Cơ ôm chặt con mình. Qua mùi thơm từ quần áo của Hoa Dương phu nhân và lời nói dịu ngọt của bà, một tia hy vọng vút qua trong đầu Hạ https://thuviensach.vn Cơ. Nàng hỏi, giọng hơi hấp tấp: – Vậy con không đi nước Triệu nữa à, cha con đã suy nghĩ lại rồi sao? Với bản tính nhút nhát, Doanh Dị Nhân chẳng biết trả lời mẹ thế nào, chỉ biết quay nhìn về phía bà Hoa Dương và ấp úng: – Con, con… Hoa Dương phu nhân nói với Hạ Cơ, giọng bà rất buồn: – Không phải đâu. Doanh Dị Nhân sắp đi rồi. Sáng nay thánh chỉ của phụ vương đã được tuyên đọc. Lúc phụ vương ra lệnh đưa cháu đi chào các cung thất, chị đã tranh thủ xin phụ vương khai ân, cho hai mẹ con em gặp nhau một lúc. – Vậy à? Sắp phải đi rồi sao? Thật sự phải xa mẹ rồi sao? Mẹ đã tưởng chẳng bao giờ được gặp con nữa. – Hạ Cơ ghì chặt con vào lòng và lẩm bẩm. – Nếu như không phải đến tận nước Triệu xa xôi ngàn dặm, thì chắc gì phụ vương đã ngó ngàng đến những đứa cháu này, và chắc gì ngài đã cho phép chị đưa cháu đến thăm em? – Hoa Dương phu nhân nói rất chân thật. Hạ Cơ nấc lên một tiếng rồi quỳ rạp xuống, nước mắt lã chã tuôn rơi: – Đa tạ phụ vương giàu lòng nhân đức. Mẹ con con khấu đầu bái lạy muôn lần. – Rồi bỗng nhiên giọng nàng lại đầy than thở: – Giá như thái tử có lấy một nửa tấm lòng đôn hậu của phụ vương, để không quên mối tình cốt nhục máu mủ, thì mẹ con ta đâu đến nỗi này! – Nói chưa dứt lời, nước mắt nàng lại đã tuôn như mưa. – Khốn nỗi con cái của thái tử quá đông; lại đang lúc quá ư tự trọng [5], rất khó chấp nhận những lời nói trái với ý muốn của mình, nên thái tử đã phải dồn ép em đến mức thế này. Nói thực lòng, việc cắt cử người làm con tin lần này là một việc rất khó xử đối với thái tử. Cuối cùng, thái tử đã phải quyết đoán đứa con nào có thể miễn cưỡng chấp nhận được [6] trong tất cả các đứa con ruột thịt của mình. Không may là lại rơi vào con của em, đó là điều khó tránh khỏi. – Hoa Dương phu nhân vẫn cố ý bao che cho chồng, rất thông cảm với chồng. Lúc này các cung nữ hầu cận nhắc nhở: – Đã quá muộn rồi, xin phu nhân và công tử về cung. Hoa Dương phu nhân đành phải chào từ biệt Hạ Cơ. Bà an ủi nàng: – Chị và cháu đi về đây. Em phải chú ý giữ gìn sức khoẻ, tâm tư phải thanh thản một chút. Khi nào gặp thái tử, chị sẽ tùy cơ ứng biến, sẽ giãi bày nỗi oan khuất của em. – Nói xong, bà quay sang nói với Doanh Dị Nhân – Mau chào mẹ con đi. Hai mẹ con lại ôm nhau nức nở. Hạ Cơ móc trong túi áo ra một bông hoa cài tóc bằng ngọc và đưa cho con. Nàng nói: – Vật này do bà ngoại cho mẹ, là bùa ngọc đuổi tà của mẹ. Con phải luôn luôn đeo vào cổ, khi gặp nạn có thể biến họa thành phúc. Nay con phải đi xa, sống ở nơi tha hương dị quốc, bất cứ nói gì làm gì con cũng phải thận trọng. Con phải luôn ghi nhớ công việc nặng nề mà đức vua – ông nội con đã giao phó. Con cũng không bao giờ được quên nỗi đau không nguôi trong lòng mẹ! Doanh Dị Nhân nhận lấy “bùa ngọc”, nghẹn ngào nói lời từ biệt mẹ: – Con sẽ ghi nhớ lời mẹ. Mong mẹ hết sức giữ gìn sức khỏe. – Con cứ yên tâm. Ta sẽ năng đi lại thăm nom mẹ của con. – Dương phu nhân dắt tay Doanh Dị Nhân đi ra. Hai người bước đi chầm chậm nặng nề, thỉnh thoảng còn ngoái cổ lại, ngập ngừng, luyến tiếc, xót thương. Hạ Cơ cũng bước theo mấy bước rồi vịn tay vào bộc cửa, đứng nhìn, đôi mắt tuyệt vọng dõi theo hình bóng của đứa con khuất dần trong đám cung phi theo hầu bà Hoa Dương. Bỗng nước mắt lại giàn giụa khiến nàng không còn nhìn thấy bất cứ một ai nữa. Cuộc sống cô quạnh buồn tẻ lại bắt đầu. https://thuviensach.vn Sau này mỗi khi nhớ lại giờ phút biệt ly thương tâm ấy, Doanh Dị Nhân lại giàn giụa nước mắt, lấy rượu giải sầu, ngâm nga những vần thơ não lòng (thơ tám câu, mỗi câu tám chữ, dịch đại ý như sau): Mẹ nơi cung cấm lạnh lẽo mưa dầm. Con ra đi xa, xẻ nghé đàn tan. Mẹ sống một mình heo hút cô đơn, Một ngày lại một điểm sương héo tàn. Hai nước hiếu hòa, anh em thân thiết. Lúc đánh nhau chí chết mới thôi. Sáng là thượng khách đứng ngồi trên cao, Chiều về nô lệ đưa vào nhà giam. Lời nói và giọng ca của Doanh Dị Nhân khiến cho mọi người xung quanh xúc động. Lã Bất Vi tỏ ra rất thương cảm. Ông nói rất chân tình: – Nay mới biết nỗi lòng u uất của công tử. Công tử chưa bước vào đời đã phải xa lìa cha mẹ, lại phải gánh nặng trên vai việc quốc sự to lớn! Buồn lắm thay. Thảm lắm thay! – Nói xong, Lã Bất Vi lấy hai tấm da lông thú tặng cho hai người. Ông nói: – Hôm nay bất ngờ gặp mặt, thật là duyên may hiếm thấy. Tôi là một thương nhân, chẳng có gì ngoài vật nhỏ mọn này. Mong hai vị vui lòng nhận cho, để tôi có dịp được bày tỏ lòng thành kính của mình. – Mới quen nhau trong cuộc gặp gỡ bất ngờ này, sao có thể nhận tặng vật quý giá như vậy? – Doanh Dị Nhân cứ nhún nhường mãi, không chịu nhận. Công Tôn Càn cũng lắc đầu ha lịa: – Hạ quan có tài đức gì đâu mà dám nhận của quý giá này. – Ồ, thưa hai vị, ông chủ tôi buôn bán khắp thiên hạ, coi việc giao tiếp bạn bè là trọng. Gặp nhau trao chút quà là việc thường tình. Xin hai vị chớ ngại. – Lã Yên vội phân bua. – Quý thương gia giàu lòng như vậy, chẳng nhẽ chúng tôi lại từ chối mãi. – Công Tôn Càn nói tiếp. – Có điều công tử đây chưa có gia thất, người nhà của hạ quan cũng vẫn còn ở quê. Nay hai tấm da này còn nguyên lông mượt mà, chưa may thành áo, chúng tôi chẳng biết mặc như thế nào? Nếu nhận về cũng chẳng biết để làm gì! Lã Bất Vi bật cười lớn: – Đó mới là lời nói chân thật. Xin để vài hôm nữa chúng tôi sẽ đưa tặng hai vị hai chiếc áo lông thật ấm.- Nói xong liền quay sang nhắc Lã Yên thanh toán tiền rượu thịt và cáo từ hai vị khách mới quen. Doanh Dị Nhân và Công Tôn Càn cũng rảo bước đi về dịch quán ở Tùng Đài. Vừa đi vừa nhỏ to về ông thương gia và người giúp việc ông ta. Doanh Dị Nhân nói: – Tay buôn họ Lã ấy thật hào phóng và mến khách, cũng không có chút gì là cao đạo vì giàu sang, phong độ lịch thiệp nho nhã. Con người như vậy thời nay thật hiếm. Công Tôn Càn muốn tỏ ra mình là người am hiểu nhân tình thế thái, bèn nói: – Hạ quan đã nhìn thấy ông ấy nhiều lần tại các bữa tiệc sang trọng ở Tùng Đài. Ông ta nói năng rất đàng hoàng, cử chỉ rất chững chạc, rất có phong độ của một thượng quan đại thần. Hạ quan còn nghe Bình Nguyên Quân [7] nói, tổ tiên ông ta làm ruộng, sau vì chiến sự liên miên, ruộng đồng bỏ hoang, phải bỏ nghề nông đi buôn. Lúc mới đầu cũng chỉ buôn vặt vài ba thứ kim chỉ kiếm sống qua ngày. Trải hai đời vất vả ngược xuôi mới có của ăn của để, giàu có dần lên, trở thành đại thương gia, nhà ngang dãy dọc, của cải ước có đến ức triệu quan. – Cũng vì lớn lên từ nơi chân lấm tay bùn nên mới gần gũi mọi người, giàu lòng thương người. Trên thế gian này hiếm ai được như thế. https://thuviensach.vn Câu chuyện giữa hai người đến đây thì vừa vặn bước đến cửa dịch quán. Mỗi người rẽ vào phòng ngủ của mình. Công Tôn Càn căn dặn Doanh Dị Nhân: – Ngày mai phải mang thêm một ít quần áo và đồ dùng để khi có thông cáo của triều đình, thì đi thẳng ra ngoại ô vào nhà “tù”! Hai thầy trò Lã Bất Vi cũng thong dong trên con đường dài đã quen thuộc. Ánh trăng mờ mờ tỏ tỏ như đang soi đường cho họ. Câu chuyện giữa hai người này cũng không kém phần rôm rả vì cùng đang chớm hơi men. – Ông chủ, người đời bảo trông mặt mà bắt hình dong. Hôm nay già thấy con người ấy có dáng vẻ tầm thường, nói năng khiếm nhã, sao ngài lại có thể tin rằng đó là con cháu vua Tần được cơ chứ? – Lã Yên tỏ ra rất thắc mắc trước việc làm của chủ. Lã Bất Vi giải thích: – Nếu bác cứ xét người theo tướng mạo bề ngoài thì rất khó nhận định cho đúng, do đó sẽ bỏ lỡ mất thời cơ. Tôi thì chưa từng trải nhiều, nhưng bằng ấy năm làm cái nghề buôn bán cũng đã nhận thấy, gặp thời bình phải cố dấn lên, phải nới tay hào phóng một chút, để có thể tiếp xúc với càng nhiều bạn hàng càng tốt. Kể như mấy năm trước, khói lửa chiến sự bùng phát liên miên, loạn lạc khắp thiên hạ, ai dám bỏ tiền bỏ của ra buôn bán? Đừng nói chi đến ta là đại thương gia, mà ngay cả bọn tiểu thương cũng đều co vòi rụt cổ, chẳng ai xuất đầu lộ diện. Ai cũng sợ thua lỗ mất vốn, thậm chí mất mạng như chơi. Thế mới hay, dù có phải bươn trải trong chốn thương trường thì vẫn còn tuyệt diệu hơn nhiều so với việc vung đao múa kiếm trên chiến trường! Nói đến đây, hai thầy trò bỗng nhớ lại năm nào họ đã từng gặp phải tai họa kinh hồn bạt vía! Năm ấy hai người đang áp tải mấy xe hàng với giá trị rất lớn vừa đến Lạc Dương. Họ vào tạm trú ở một quán trọ bên đường. Bỗng hai nước Triệu và Tần đánh nhau rất to. Lã Bất Vi thấy có nguy cơ sẽ bị mất sạch của cải, bèn lập tức quyết đoán, cho xe đi suốt đêm để quay về quê nhà Dương Địch. Từ đó, Lã Bất Vi cải trang thành người nhà quê làm ruộng, hơn nửa năm vẫn không ló mặt khỏi làng. Cho đến khi trận mạc qua khỏi, ông mới đưa Lã Yên đi khắp một lượt các đô thành và ấp trại lớn. Nhưng vẫn chỉ đóng vai một tiểu thương, chưa dám mang hàng hóa di theo. Chủ yếu là đi thăm dò đường sá tốt xấu thế nào, hậu quả chiến tranh ra sao, còn có giặc giã cướp phá dân lành nữa hay không? Sau khi nắm chắc tình hình, ông mới cho xe chở hàng từ làng quê mình đi tới các nơi. Nhưng bước đầu vẫn chưa dám đi xa, dần dần sau này mới đến thành Hàm Đan, thủ đô của nước Triệu. Lúc đầu chỉ mới buôn nhỏ, dần dần mở rộng phạm vi kinh doanh, cuối cùng đi đến chỗ buôn chức buôn quyền, có thể mua cả chức quan đứng đầu một khu vực rộng lớn. Đến đây, Lã Yên lại nhắc nhở ông chủ. Ông ta nói: – Người đời thường nói: “Yêu thổ trọng thiên”[8]. Đó là câu cách ngôn từ ngàn đời nay rồi. Nay ngài lại làm trái với điều răn dạy ấy của tổ tiên, không yên tâm làm ăn ở mảnh đất quê nhà, cứ muốn đi thật xa, ra tận ngoài biên ải, đến tận các nước xa xôi. Ngài đã di chuyển cả nhà đến Hàm Đan, chẳng lẽ ngài không sợ rằng cứ luôn luôn xuất đầu lộ diện ở đô thị phồn hoa này sẽ có lắm kẻ dòm ngó cạnh tranh, biết đâu sẽ gặp phải địch thủ cao cường, làm cho mình phải thất điên bát đảo, phá tan cả núi vàng sao? Lã Bất Vi cho rằng vài năm nay, hai nước Tần và Triệu đã ngưng chiến và bắt tay hòa giải với nhau. Cũng nhờ đó nên ngay cả nước Tần, nước Vệ cũng đã thôi đánh nhau. Trải bao chết chóc đau thương, nay mới có được khung cảnh yên bình. Thật quý giá vô cùng. Đây chính là lúc có thể biến gươm đao thành đồ trang sức cho đàn bà con gái. Vậy còn ngại gì mà không làm ăn mạnh tay hơn, mở rộng tầm hoạt động hơn? Còn nói về Dương Địch quê nhà, tuy đó là thủ đô của nước Hàn, nhưng rất nghèo về tài nguyên và sản phẩm, chưa có gì có thể gọi là hàng hoá để buôn to bán lớn. Nhất là Dương Địch ở vào một địa thế rất xa xôi hẻo lánh. Vì vậy, không đi ra ngoài là không được. Còn câu tục ngữ “Yêu thổ trọng thiên” là quan niệm quen thuộc của người làm ruộng. Vì người làm ruộng phải bám lấy ruộng đất (yêu thổ), xa rời ruộng đất là chết đói. Cho nên họ coi việc di chuyển đi nơi khác để sinh sống là chuyện bất đắc dĩ, coi việc di chuyển là hết sức quan trọng, phải cân nhắc thật cẩn thận, không thể tùy tiện, vì đó là việc trọng đại của cuộc sống lâu dài của cả gia đình. https://thuviensach.vn – Có thể thấy, trong hàng nghìn năm qua, hiếm thấy một nhà nông nào lại dám chuyển nhà đi nơi khác làm ăn, trừ khi họ bị chiến tranh xua đuổi. Còn nhà họ Lã này thì đã bị thua thiệt quá nhiều do bị ràng buộc bởi lối suy nghĩ cổ lậu đó cứ an phận trên mảnh đất của cha ông, chẳng bao giờ ăn nên làm ra để có thể ngóc đầu lên được. Cho mãi đến gần đây mới bứt ra được để chuyển sang buôn bán, cả nhà thấy cái nghề này làm ăn được. May mà tôi còn mạnh tay cứng chân, thua keo này bày keo khác, ngã rồi lại đứng ngay dậy. Nhờ vậy, mới tạo dựng được một cơ nghiệp khá vững vàng. Bây giờ thì có thể không ăn vào vốn nữa, mà chỉ dùng tiền lời cũng có thể nuôi sống cả nhà. Hơn nữa, có thể chuyển nghề này cho đời sau, còn bản thân thì có thể sống an nhàn vui thú. Sở dĩ có thể chuyển cả gia đình đến Hàm Đan nước Triệu, vì đây là đầu mối giao thông của mấy nước chẳng khác gì cái nồi trục của bánh xe, từ nồi trục mà căng ra bốn phương tám hướng. Nếu buôn bán tốt ở Hàm Đan này thì mọi nơi khác cũng dễ dàng thu lợi. Giống như đánh cờ vậy, đi thắng một nước cờ là thắng cả ván. Thậm chí, gặp thời một tốt cũng thành công. Vì vậy, chuyện thu hoạch mùa màng ít ỏi ở quê nhà Dương Địch còn có gì mà lưu luyến nữa? Nghe xong những lời đầy sức thuyết phục của ông chủ, Lã Yên hết sức khâm phục tầm mắt nhìn xa trông rộng của Lã Bất Vi cũng như nghị lực và dũng khí của ông. Tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy Lã Bất Vi là một đại thương gia nổi tiếng nhất ở nước Triệu, vậy cơn cớ gì mà phải đút lót và biếu quà cho những quan chức địa phương, nhất là những nhân vật chẳng có gì là quan trọng? Việc gì mà phải cung phụng hay nịnh bợ những hạng người đó? Nghĩ vậy nên ông đã hỏi thẳng Lã Bất Vi: – Bác không nghe người ta nói: “Thắp hương cúng thổ thần để khỏi xúi quẩy khổ thân” đó sao? – Lã Bất Vi lại kiên nhẫn nói rõ kinh nghiệm của mình, ông nói tiếp – Dù có nhiều vốn đến đâu, dù cho biết cách làm ăn tài giỏi như thế nào, nếu không mua được “Vé qua cửa quan”, thì không bao giờ thắng được một viên quan chức hạng bét. Lý do rất đơn giản: Dẫu anh tính toán giỏi giang như thế nào, cũng không địch nổi quan phủ lục soát niêm phong; dẫu cho bàn tính liên tục lách cách đến đâu cũng không cấm được nha môn gạch phăng xóa sổ. Vì vậy, thà sớm bỏ ra một ít tiền hay hiện vật để biếu tặng, đút lót cho những người có quyền cao chức trọng trong triều, và cho cả những quan chức nhỏ sở tại như “lệnh”, “úy”, “thừa”, nhưng là những người có thực quyền. Chỉ khi nào mua được những “tấm vé đi qua cửa quan” đó, mới có thể đứng vừng chân để làm ăn dễ dàng. Nói đến đây, Lã Bất Vi bỗng cảm thấy vui vui trong lòng. Bởi vì vừa rồi, trong quán rượu bên đường, ông và Lã Yên đã tình cờ gặp Công Tôn Càn và Doanh Dị Nhân. Do có nhiều kinh nghiệm trong giao tiếp, lại biết nhìn xa trông rộng, nên ông đã nhìn thấy một món “hàng lạ” có thể “nhất bản vạn lợi” (một vốn kiếm được vạn lời). https://thuviensach.vn HỒI THỨ HAI QUA CỬA ẢI VUNG TIỀN NHƯ RÁC KHUA MÔI MÚA MÉP NẮM CHỦ BÀI N hìn lại quá khứ, có thể thấy Lã Bất Vi đã xuất thân từ tầng lớp thấp hèn. Sau khi nhà cửa vườn tược bị chiến tranh tàn phá tan tành, chỉ còn một đống đổ nát, Lã Bất Vi bèn thu vén một ít đồng vốn, mua một ít hàng hóa nhỏ lẻ gánh trên vai để chạy chợ. Cuộc sống cứ thế trôi dần. Nhưng Lã Bất Vi không dừng lại ở đó. Ông tích góp từng xu, năng nhặt chặt bị, tích tiểu thành đại, cuối cùng trở thành đại phú hào trong thương trường, có nhà cao cửa rộng, tráng lệ nguy nga, thê thiếp đầy đàn, người ăn kẻ ở tấp nập, lừa ngựa từng bầy không đếm xuể. Để có những thành đạt như vậy, Lã Bất Vi đã phải trải qua những năm tháng bươn trải trong biết bao khó khăn trở ngại và đầy thăng trầm. Vì vậy ông luôn luôn quý trọng tất cả những gì mà mình có được sau biết bao vất vả gian nan, từ cái lớn như nhà cửa, xe ngựa, cho đến những thứ nhỏ nhặt như cái kim, cái lược, đôi bông tai… Ngay cả đến hôm nay, ông vẫn giữ thói quen là sau khi đi làm về, đi giao dịch ở thương trường, đi gặp gỡ và tiếp khách hàng và bạn bè, đi tham dự các cuộc hội lễ theo lời mời – bao giờ ông cũng đi thẳng đến bên chuồng ngựa để xem chúng ăn uống ra sao, đến kho hàng để kiểm tra lại. Chỉ khi nào thật sự yên tâm mới vào nhà chính, hỏi thăm cha già, gặp mặt thê thiếp để cùng cả nhà ăn cơm. Sau đó còn gặp người quản gia Lã Yên để cùng tính toán thu nhập trong ngày. Bàn tính lại lách cách. Xong xuôi mọi việc mới đi ngủ. Tối hôm nay công việc vẫn diễn ra theo thường lệ. Lã Bất Vi và Lã Yên đang kết toán sổ sách trong phòng làm việc. Hai thầy trò nhà họ đều là những tay cao thủ về bàn tính. Dù số tiền hay số hàng do người này đọc lên rất nhanh, người kia vẫn có thể “lách cách” tính toán kịp thời, không chút chậm trễ. Cứ mỗi lần tính xong một số, người kia lại gọi: “Đọc tiếp”. Mười ngón tay lại nhảy múa trên bàn tính và con số lại hiện ra, rõ ràng, chính xác. Trong cái ngón nghề này, Lã Bất Vi còn thông thạo hơn cả Lã Yên. Có thể tính cả hai tay hai bàn tính một lúc thế mà vẫn luôn luôn chính xác, không hề có sai sót. Ông được khen là “Hai ngựa cùng phi, cùng về đến đích”. Nhưng tối hôm nay, Lã Bất Vi đã sai mấy lần, nếu không sai ở con số bên trái, thì cũng quá chậm ở bàn tính bên phải. Cuối cùng phải cùng với Lã Yên tính lại từ đầu. Lã Bất Vi cảm thấy rất lúng túng, luôn luôn lắc đầu kêu lên: – Từ từ chút, từ từ chút! Toàn những món quá quen thuộc mà vẫn tính sai, không biết tại sao. Xem ra vẫn do cẩu thả. Lã Yên cũng thấy hơi lạ. Ông nói: – Có lẽ nào lại như thế? Sao tối nay ngài không thể “hai ngựa cùng phi”? Chắc hẳn là có chuyện gì đây? Lã Bất Vi cười gằn, ngửa cả hai bàn tay ra trước mặt Lã Yên và nói: – Ta luyện tay nghề này công phu như vậy mà vừa rồi vẫn sai, chủ yếu là do còn cẩu thả thôi. – Xưa nay ngài làm việc lúc nào cũng rất cẩn thận, hôm nay hơi lơ đãng, không thật tập trung vào công việc hay sao ấy? Lã Yên đối chiếu kết quả trên bàn tính với con số trong sổ sách, xong mới nói vậy. Lã Bất Vi lại quay lại những suy nghĩ cứ lởn vởn trong đầu từ chiều đến nay mà ông không thể nào xua đuổi đi được. Ông trả lời, nhưng cũng có vẻ như tự nói với mình: – Mạnh Tử nói: Học vấn không nhằm mục đích gì khác, chỉ là tìm cách làm cho con người được yên lòng mà thôi[9]. Vừa rồi tôi để cho lòng mình bị buông thả[10] không thể vãn hồi lại được, đến nỗi đã tính sai! – Ngài để cho tâm tư của mình buông thả đi đâu? – Lã Yên hỏi. Lã Bất Vi trả lời rất tự tin: https://thuviensach.vn – Lúc ấy tâm tư của tôi suy nghĩ rằng có một con chim hồng hộc sắp bay qua, tôi muốn mượn cây cung để bắn! Mà phải bắn một phát là trúng!. Lã Yên vội nói thêm vào: – Chẳng ngờ ngài lại muốn đi săn? Vậy Lã Yên này thế nào cũng đi theo giúp sức. – Ấy à, đừng đánh trống lảng nữa – Lã Bất Vi vừa nói vừa khoát tay. – Đánh trống lảng ư?[11] Già này đâu dám. Ngài bắn mục tiêu của ngài, tôi bắn của tôi. Già này bắn con chim trên trời, ít ra thì cũng bắn con thú trên mặt đất[12]. – Lã Yên vừa cười vừa nói tiếp – Cho dù ngài có buông thả cái tâm (phóng tâm) đi đâu nữa, già này cũng không bao giờ “đánh trống lảng”!. – Bác nói đến cái gì đấy, bác nói xong chưa? – Lã Bất Vi có ý trách. Lã Yên bị cụt hứng vì lời nói xẵng giọng của ông chủ, bèn trả lời hơi ngượng ngập: – Già nói xong rồi, à, tôi nói xong rồi – Nhưng ông ta vẫn cứ nói thêm một câu – Già này hễ cứ nhắc đến cung tên, là cứ muốn thử một phát xem sao! – Muốn thử ư? Bác định bắn cái gì? – Lã Bất Vi vẫn hơi bực mình, vặn hỏi ông già. – Bắn con chim nhạn ấy mà. – Lã Yên trả lời và còn giơ tay giạng chân như kiểu đang ngắm bắn thật. – Bắn con chim nhạn ư? Ai nói vậy? – Lã Bất Vi tỏ ra không hiểu. Bây giờ Lã Yên mới cảm thấy thoải mái. Ông trả lời: – Còn ai vào đây nữa? Chính ngài nói chứ ai. Chẳng phải là ngài vừa nói có một con hồng hộc sắp bay qua, và muốn mượn cây cung để bắn đó sao? Con hồng hộc ấy chính là chim nhạn đấy! – Bác đại quản gia của tôi ơi. Câu mà tôi vừa nói là của Mạnh Tử, chứ có phải của tôi đâu! – Lã Bất Vi hơi có chút châm biếm ông già. Lã Yên bèn nghiêm sắc mặt: – Tôi thấy cái bộ dạng của ngài có vẻ như sắp đi săn đến nơi rồi. Đến đây, Lã Bất Vi đi thẳng vào câu chuyện muốn nói: – Mạnh Tử nói có con hồng hộc sắp bay qua, chỉ là một ví dụ mà thôi, còn con hồng hộc mà tôi nói thì đã cất cánh bay lên rồi, tôi và bác phải sẵn sàng cung nỏ để bắn! – Có thế chứ! Già này đâu có nói sai. Hiện giờ gió tây đang mạnh lắm, từng đàn chim nhạn đang từ miền Bắc bay xuống miền Nam, cứ ngẩng đầu lên là thấy chúng, ngài tha hồ mà bắn. – Lúc này Lã Yên tỏ ra rất hiếu động, rất muốn đi săn. – Sao hôm nay bác hăng hái thế? – Lã Bất Vi vừa hỏi nhưng cũng như vừa van lơn ông già. Lã Yên vẫn nói rất ngay thẳng: – Đi săn mà không hăng hái thì lấy tinh thần ở đâu ra để ngắm cho trúng! Mà sai một ly đi một dặm đấy! – Con chim nhạn mà bác nói, không phải là con hồng hộc đâu! – Lã Bất Vi giải thích. – Không phải là chim nhạn, vậy là cái gì ?- Lã Yên cảm thấy tối nay ông chủ có phần nào hơi lộn xộn trong suy nghĩ. Chim nhạn không phải là hồng hộc[13], thật là kỳ lạ. – Tôi nói hồng hộc, thực ra là để ví dụ mà thôi. – Lã Bất Vi vừa cười vừa nói. Lã Yên tỏ ra rất sốt ruột: – Hóa ra chỉ là một ví dụ? Lã Bất Vi vẫn cười, nói tiếp với ông già: – Hiện giờ công việc đang bề bộn, thì giờ đâu mà đi săn với bắn? Con hồng hộc mà tôi nhìn thấy là một con người bằng da bằng thịt đấy! https://thuviensach.vn – Một con người ư, sao lại so sánh với con hồng hộc để săn bắn? Ngài làm cho tôi cũng đâm ra nói năng lung tung mất rồi. Lã Yên vừa nói vừa cười rất gượng gạo. – Tôi cũng chẳng phải giương cung giương nỏ để bắn như những kẻ đi săn, mà là giành cho được con người ấy. – Lã Bất Vi vừa nói vừa khoát tay ra hiệu rằng nhất định sẽ làm được. Tuy đã nói đến nơi rồi, nhưng ông già vẫn cố tình trêu chọc ông chủ vài câu: – Chắc hẳn là phải lòng cô em nào ở vũ trường chứ gì? Chẳng lẽ các thê thiếp ở nhà trong nhà ngoài của ngài còn chưa đủ vui thú hay sao? – Úi dà! Sao bác lúc nào cũng cứ nhằm vào đàn bà con gái như thế cơ chứ! – Lã Bất Vi bác bỏ lời đoán già đoán non của ông già, nói rất nghiêm chỉnh – Cái mà giới nữ mang lại cho chúng ta, không ngoài hai thứvà sắc. Theo con mắt của một thương nhân thì những thứ đó không thể thu lợi lớn. Còn con người mà hôm nay tôi muốn giành cho được, thì có thể đổi được mấy cái thành trì! Lã Yên rất kinh ngạc: – Người nào mà cao giá thế? – Không chỉ có thế. Đây thực ra là một món hàng lạ, đáng giá cả một triều vua, một đất nước ngàn dặm! – Lã Bất Vi vừa cười vừa nói rất đắc chí. – Vậy ư? Có một con người như vậy ư? Già không tin. – Lã Yên vẫn không tin, lắc đầu lia lịa. Ông cảm thấy ông chủ của mình hơi quá lời. – Bác tin hay không tùy bác. Hãy mau đi mời cụ nhà lại đây cho tôi. – Lã Bất Vi khoát tay bảo Lã Yên đi nhanh. – Ngài là con của cụ. Ngài không đến thăm sức khỏe của cụ, mà còn mời cụ đến đây với ngài, e rằng có chút không lễ nghĩa lắm. – Lã Yên không chịu đi. Lã Bất Vi đành phải nói rõ hơn: – Việc này có phải chuyện thường đâu. Trong nhà có đông người, đông người thì lời vào tiếng ra rất phức tạp, không tiện vào trong ấy để nói chuyện. Nên đành phải mời cụ ra phòng tôi. Bác cứ nói rõ cho cụ như vậy là được thôi. – Hôm nay đã khuya rồi, chỉ sợ cụ đã đi nằm. Ngày mai cụ cũng không đi chợ, hai cha con tha hồ mà nói chuyện. – Lã Yên vẫn cứ biện bạch. Lã Bất Vi vẫn sốt ruột, ông nhắc lại một lần nữa: – Bác đi ngay cho. Sao bác cứ muốn làm trái ý tôi như vậy cơ chứ? Bác học được kiểu ấy từ bao giờ thế? Nên nhớ rằng việc này rất hệ trọng và rất gấp. Tuy việc lớn phải bàn kỹ, song thời cơ rất gấp gáp, không thể chần chừ, trâu chậm sẽ uống nước đục. Hơn nữa, tôi đã dự định làm việc gì là phải trù tính, bàn định cho đến nơi. Nghĩ chưa xong việc là không thể chợp được mắt. Bác cứ đi đi! Lúc này Lã Yên mới chịu đi. Lã Bất Vi đi đi lại lại trong phòng, suy nghĩ ghê lắm. Ông đang nghĩ cách làm thế nào để chiếm được con chim “hồng hộc”. Bỗng nhớ ra là người cha già của mình sắp tới, ông bèn mở tủ thực phẩm lấy ra một cái đĩa to và một bình rượu, lấy thịt bò khô, dạ dày dê băm nhỏ, cánh gà chiên và nước chấm, để đầy lên một đĩa lớn làm đồ nhắm. Vừa sửa soạn xong thì có tiếng đẩy cửa. Lã Yên đã đưa ông cụ vào phòng. – Đêm đã khuya khoắt thế này, con có việc gì mà phải đưa ta đến đây vào lúc này thế? – ông cụ tỏ ra không thật hài lòng về việc phải đến phòng làm việc của con vào giờ này. Lã Bất Vi vội vàng đỡ cụ ngồi xuống, rồi lựa lời nói rõ sự việc: – Thưa cha, trong nhà có quá nhiều người, lại toàn con gái đàn bà, tai thì nhiều mà mồm cũng lắm, rất phức tạp. Chi bằng ngồi ở đây nói chuyện sẽ thoải mái hơn, yên tĩnh hơn, kín đáo hơn, con mong cha thông cảm cho. Ông cụ nhấp một hụm rượu, gắp một miếng thịt, vừa hỏi: https://thuviensach.vn – Con có việc gì to lớn mà lại sợ tiết lộ đến thế? Câu hỏi ấy đã nhắc nhở Lã Bất Vi. Ông cảm thấy việc này quả là rất hệ trọng. Hơn nữa, đây mới chỉ là ý tưởng thoáng qua, chỉ có thể bàn bạc giữa hai cha con với nhau, còn như, ngay cả Lã Yên cũng chưa thể cho biết được. Vì vậy, ông nói với Lã Yên: – Hôm nay bác vất vả quá rồi, bác đi nghỉ đi. Tôi và cụ còn nói chuyện dài dài, chưa biết lúc nào xong. Lã Yên chỉ tay vào những thứ đồ ăn uống ở trên bàn và nói: – Còn những thứ đồ này? – Thôi, cứ để đấy, mai hãy hay. Lúc nào xong việc thì tôi sẽ đưa cụ về phòng. – Lã Bất Vi nói xong liền đi ra mở cửa, có ý thúc giục người quản gia đi ra cho mau. Lã Yên giúp việc Lã Bất Vi đã nhiều năm, nên rất hiểu tính tình của ông chủ. Nếu việc gì ông ta chưa suy nghĩ chín chắn hoặc chưa quyết định, thì ông không muốn cho người khác góp ý kiến hoặc hỏi han. Nay thấy Là Bất Vi nói vậy, liền hiển ngay rằng ông chủ đang mưu tính một việc gì to lớn không muốn để cho mình tham dự. Ông ta bèn bước nhanh ra khỏi phòng nhưng không quên nhắc ông chủ: – Thưa ngài, nến trong đèn lồng phía sau cửa còn cháy đến một nửa giờ Thìn nữa là hết [14]. Lã Bất Vi ừ một tiếng cho xong chuyện, rồi cài then cửa thật chặt. Sau đó mới về chỗ ngồi của mình, đối diện với ông cụ và vội gắp thức ăn cho ông cụ. c Ông cụ nói: – Bây giờ thì yên tâm rồi chứ, có việc gì hệ trọng, con cứ nói xem nào? Lã Bất Vi nói rất lễ độ với cha: – Việc này con cũng không dám chắc nên mới xin cha cho ý kiến. – Cha với con mà còn khách sáo làm gì. Con cứ nói rõ ra xem nào? – ông cụ có vẻ hơi sốt ruột. Lã Bất Vi nói: – Thưa cha, làm ruộng thì lời lãi thế nào? – Nhiều nhất cũng lãi gấp mười lần là cùng. – Ông cụ một lời một cách nhanh chóng, không cần suy nghĩ, mà hình như cũng chăng để tâm đến câu trả lời của mình nữa. Lã Bất Vi mỉm cười gật đầu. Lại rót thêm rượu và gắp thêm đồ nhắm cho cụ, tiếp tục hỏi: – Nếu buôn đồ vàng bạc châu báu thì lời lãi bao nhiêu? – Ồ, những hàng cao giá ấy, dễ có lãi hàng trăm lần. – lần này ông cụ trả lời có vẻ cân nhấc hơn, nhưng bỗng hỏi vặn lại con – Con đã lặn lội hơn mười năm nay trong thương trường, đã dựng nên cơ nghiệp to lớn cho gia đình, sao còn hỏi cha những chuyện cỏn con như vậy? – Chẳng giấu gì cha. Đấy chỉ mới hỏi thử thôi, “ném đá dò đường” mà. Điều con muố hỏi cha là món lời chưa từng có, có thể đổi được chín cái đỉnh trong cung đình, có thể giành được cả một nước rộng vạn dặm, là món lợi khuynh nước khuynh thành. Chẳng biết cha có ý kiến gì không? – Lã Bất Vỉ mỉm cười, hỏi cha. Ông cụ cười nhưng hơi gượng gạo: – Cái món lợi kếch xù ấy ở đâu mà con mừng rơn lên thế? Lã Bất Vi quay lại, nói rất ngay ngắn: – Nếu như có một người nào đó có thể vào được trong cung, nối được ngôi vị, nắm được triều chính, được lập làm vua, thì món lợi thu được sẽ gấp mấy lần vốn, thưa cha? – Nếu việc ấy thành đạt, thì số lợi thu được không thể tính hết. – ông cụ cảm thấy rất kinh ngạc trước câu hỏi của con, vì chuyện này lớn quá, mênh mông biển cả chẳng biết https://thuviensach.vn đâu mà lần! Nhưng cách ăn nói của Lã Bất Vi thì hầu như không hề có một chút gì là làm cho to chuyện ra cả. Ông nói rất chân thật: – Thưa cha, cha cũng biết đó thôi, thời buổi này làm ăn thật khó khăn quá. Buôn bán thóc gạo [15] thì dù có lặn lội bươn trải đến đâu cũng ăn không đủ no mặc không đủ ấm. Nhưng nếu có thể phò tá và đưa được một người hiền tài, tuấn kiệt lên ngôi vua, nắm triều chính, thì có thể vinh hoa phú quý suốt đời, hơn nữa còn kéo dài đến đời cháu đời chắt. Vì vậy, con mới muốn giành cho được con người đó, và phò tá người đó làm nên nghiệp lớn. Đó là cơ hội ngàn năm mà dù có phải làm trâu ngựa đK phục dịch cũng đáng cái công. Thưa cha! Với cách nói đó, ông cụ đương nhiên là rất tán thành, nhưng cảm thấy trong chuyện này vẫn có điều gì không thiết thực cho lắm, cụ bèn khuyên con: – Con rất có chí hướng đấy, nhưng không thiết thực, có vẻ như con đang muốn bay lên thượng giới, nhưng cánh ở đâu mà bay cơ chứ? Ngày nay, thiên hạ này quá rộng lớn, chư hầu quá đông, nước nào cũng chiếm cứ một vùng, mỗi nước đều có dòng dõi hoàng gia của họ, còn có chỗ nào cho con len chân vào nữa? – Có con người như vậy, thưa cha. Nếu không có, thì con làm sao có thể vội vàng hỏi ý kiến cha như hôm nay! – Lã Bất Vi hơi có chút ma mãnh trong câu nói này. – Thật có người như vậy ư? Ở đâu? – ông cụ hỏi. – Nói xa thì cũng thật là xa, ở tận chân trời. Nói gần thì cũng rất gần, ở ngay trong thành Hàm Đan này thôi. – Lã Bất Vi nói rất mạch lạc, rất đắc chí. Ông cụ nói với con, có vẻ như trách móc, pha giọng ngà ngà hơi men: – Con lại đùa với ta rồi, phải không hả? Tại cái thành Hàm Đan của nước Triệu này, trên thì có vua Hiếu Thành, dưới thì có thừa tướng Bình Nguyên Quân và các công khanh, toàn bộ triều đình vững chắc như bàn thạch. Làm sao con có thể tìm kiếm ở trong đó một thái tử để chống lại triều đình, lập ra một triều đình khác, và hòng thay thế triều đình đang tồn tại? Lã Bất Vi trả lời rất tự tin: – Làm sao mà con có thể chống lại họ được! Người mà con thấy giống như một viên ngọc bị vua nước ấy vứt sang một nước khác như một cọng rác. Nhưng nếu khôi phục được bộ mặt vốn có của nó, nó sẽ sáng chói như xưa, hào quang của nó sẽ chiếu rọi khắp thiên hạ. Hòn ngọc ấy được đặt lên ngai vàng, tự khắc sẽ thành quốc vương một nước. – Lã Bất Vi nói rất tự tin. – Ai ngờ rằng ở đây mà lại có hổ ẩn nấp, rồng náu mình, im hơi kín tiếng đến thế là cùng? Nhưng rốt cuộc là ai cơ chứ? – ông cụ vẫn bán tín bán nghi như tự nói với mình vậy. Lã Bất Vi nâng cốc tu một hơi hết sạch, rồi ghé tận tai ông cụ thầm thì: – Người đó không phải ai khác, chính là… Tiếp đó, Lã Bất Vi kể lại câu chuyện tình cờ gặp Công Tôn Càn và Doanh Dị Nhân ở quán rượu chiều tối nay. Ông đặc biệt nhấn mạnh lai lịch của Doanh Dị Nhân: đã sang làm con tin ở nước Triệu mười tám năm nay, trải bao thăng trầm, nay đang bị giam lỏng như một tên tù nhân ở ngoại thành Hàm Đan. Nghe đến đây, ông cụ rất xúc động. Cụ nói: – Thật là cá mắc cạn, hổ chạy ra khỏi rừng. Thật oan uổng cho anh ta quá! – Cha nói rất phải. Công tử Doanh Dị Nhân chẳng khác gì con giao long mắc cạn, con mãnh hổ chạy ra cánh đồng hoang. Con có ý định giúp anh ta chữa trị vết thương tinh thần, khôi phục khí thế vốn có của một công tử cho anh ta. Chờ khi nào gặp hội gặp thuyền, sẽ cho hổ chạy về rừng, rồng về với biển cả. Lúc ấy, con sẽ là đệ nhất công thần vì đã ra tay cứu giúp anh ta lúc hoạn nạn, đã góp phần định đoạt trong việc đưa anh ta lên ngôi, rồi đưa tài năng ra phò tá anh ta nắm triều chính. Lúc ấy chắc chắn vị vua ấy sẽ ban cho con vinh hoa phú quý, đời đời kiếp kiếp không bao giờ hết. Có phải không thưa cha? https://thuviensach.vn Ha, ha, ha… – Lã Bất Vi quá vui, quá đắc chí, cất tiếng cười lớn. Nghe đến đây, ông cụ mới thật sự khâm phục con mình. Cụ khen: – Con là thương nhân, nhưng thật ra có thể sánh vai với Phạm Lãi[16] nước Ngô năm nào. Con buôn bán mà trở thành giàu có nhất nước. Con làm chính trị mà trở thành người có quyền lực điều hành đất nước. Họ Lã nhà ta đã sinh ra người lấy đá vá trời, lấy vàng giát núi. Con đã hơn cha là nhà có phúc vậy. – Đó chỉ mới là tâm nguyện của con. Thành hay bại còn phải xem công tử nhà Tần, Doanh Dị Nhân có quyết tâm hay không? Cũng còn xem mối bang giao giữa Tần và Triệu như thế nào nữa! Có điều, con sẽ không tiếc bất cứ giá nào, nhất định phải mua cho được món hàng lạ đó, rồi phải đưa đến chỗ được giá nhất, tức .là ngôi thái tử ở cung Hàm Dương nhà Tần. – Rõ ràng là Lã Bất Vi đã suy tính đâu vào đấy rồi, trong đầu óc đã sắp xếp mọi chuyện. Khi đưa cụ về phòng riêng của mình, hai cha con còn nói chuyện thầm thì to nhỏ mãi ở hành lang. * * * Ngoại ô Hàm Đan, nơi giam giữ con tin Doanh Dị Nhân là một thị trấn nhỏ heo hút, nhân khẩu lèo tèo, phố xá vắng tanh, chỉ có lưa thưa vi cái quán nhỏ, bán những thứ lặt vặt phục vụ đời sống hàng ngày. Ngoài ra còn có nhà “dịch quán”[17], được dùng làm nơi ở tạm cho các sứ giả, bưu tá hoặc những quan chức bị trừng phạt, đang chờ lệnh trên. Vì vậy, những ai đặt chân đến đây đều bị người sở tại coi khinh, nên ai cũng tự cảm thấy xấu hổ trong lòng. Công tử Doanh Dị Nhân và người giám thị Công Tôn Càn mấy hôm nay rất bồn chồn lo lắng, mặt mày buồn xỉu, vì bị đưa ra ở đây, coi như bị biếm, bị giam lỏng, bị trừng phạt. Hai người đang trong tâm trạng đau buồn như vậy thì bỗng giật nảy mình vì có người xô cửa bước vào, lại còn gọi đúng họ tên hai người nữa. Công Tôn Càn chỉ vâng một tiếng rồi im bặt. Mãi đến khi khách vào tận nơi, hai người mới đứng dậy và cảm thấy rất kinh ngạc, mặc dù không giấu nỗi mừng rỡ: – Ái dà, chẳng ngờ Lã đại nhân lại đến đây, chúng tôi không ra đón ngài được, xin thứ lỗi, xin thứ lỗi. – Nói xong, hai người ngồi dịch sang một bên và mời khách cùng ngồi. Lã Bất Vi không vội ngồi xuống. Ông đứng quay mặt ra phía ngoài, khoát tay gọi: – Bác Lã Yên, mau đưa tặng phẩm vào đây. Lúc ấy Lã Yên đang sai bốn người hầu khiêng hai cái hòm sơn đỏ từ trên xe ngựa xuống. Nghe tiếng Lã Bất Vi, Lã Yên bảo bốn người khiêng hòm vào trong nhà. Công Tôn Càn và Doanh Dị Nhân vội ra đón và chỉ chỗ cho họ đặt hòm xuống và mời Lã Yên vào nhà. – Xin hỏi đại thương gia, những thứ này là…? – Doanh Dị Nhân hỏi Lã Bất Vi về hai chiếc hòm, thái độ rất thận trọng. Lã Bất Vi đưa tay lên xoa cằm và nói: – Hôm chúng ta tình cờ gặp nhau ở quán rượu, biết được cảnh ngộ của công tử, nên kẻ tiểu thương này sinh lòng trắc ẩn. Hôm nay đến thăm ngài để tỏ chút lòng hâm mộ và tôn kính. – Ta ở đây chỉ làm con tin, tình cảnh ngày càng xấu, vậy mà quý ngài còn chiếu cố đến thăm, làm cho ta hổ thẹn quá – Nói đến đây, Doanh Dị Nhân nghẹn ngào không nói nên lời. – Công tử không nên hạ mình như thế, mà nên ngẩng cao đầu vượt mọi khó khăn để tiến lên mới phải. – Vừa nói Lã Bất Vi vừa ra hiệu cho Lã Yên mở nắp hòm, lấy tặng phẩm đưa cho Doanh Dị Nhân và Công Tôn Càn. Ông nói tiếp – Nay đã sang đông, trời se lạnh, xin kính biếu mỗi vị một bộ áo lông để chống rét. Ngoài ra còn có một ít châu báu, tiền vàng, phần to này xin kính biếu công tử để mời tiệc và giao du với các chính khách và thương gia. Còn phần nhỏ này xin kính biếu Công Tôn đại nhân để chi dùng hàng ngày. Doanh Dị Nhân rất bối rối, một mực từ chối: – Quý khách đến thăm, đã cam phiền quá lắm, nay còn cho nhiều thế này, chúng tôi https://thuviensach.vn thật không dám nhận. Công Tôn Càn cũng vội nói thêm: – Xin Lã đại nhân hoàn toàn yên tâm, đã có hạ quan đây chăm lo cho phúc họa an nguy của công tử rồi. – Vậy thì họ Lã này yên tâm rồi. – Lã Bất Vi cảm ơn Công Tôn Càn. Lúc này, người hầu đã hâm nóng rượu thịt và theo sự sắp xếp của Lã Bất Vi, họ bày mâm ngay trong phòng, chỉ có Lã Bất Vi, Doanh Dị và Công Tôn Càn ngồi vào mâm. Lã Yên phục dịch bên cạnh, còn những người khác xuống bếp ăn. Doanh Dị Nhân và Công Tôn Càn một lần nữa cảm ơn vị khách quý và tỏ ra lấy làm tiếc vì mình là “chủ nhà” mà không có gì để tiếp đãi khách. Lã Bất Vi nói với họ rằng ông ta rất biết nơi ngoại ô này của Hàm Đan khan hiếm mọi thứ, nên thôi thì cứ chuẩn bị sẵn mang đến đây, để cho mọi việc được chóng vánh gọn gàng, không rề rà rồi ảnh hưởng đến công việc mọi người. Qua lời giải thích đó, chủ nhà mới thôi không phân bua nề hà nữa, tất cả cùng ngồi xuống chén thù chén tạc, rượu vào lời ra, rất là rôm rả. Nhân đó, Lã Bất Vi bèn tìm cách đi sâu vào tìm hiểu kỹ hơn. Ông vờ như nhớ ra một việc gì đó bèn nói với Công Tôn Càn: – Ngoài kia có hai cỗ xe, mấy con ngựa phải cho ăn no, phiền ngài giúp lão quản gia đây, sai bảo bọn đầy tớ của tôi đưa ngựa xuống chuồng cho chúng ăn và uống. Công Tôn Càn ngừng tay, nói khiêm tốn: – Vậy xin bác quản gia cùng tôi đi lo liệu mọi việc. – Nói xong, ông ta đưa Lã Yên đi ra. Lã Bất Vi còn nói theo: – Xin ngài mang theo mấy cây đóm, kẻo lúc về trời tối, đường khó đi. Bây giờ Lã Bất Vi mới xích lại gần Doanh Dị Nhân, nói rất thân mật: – Tiểu thương này rất thông cảm với cảnh ngộ của công tử. Có việc gì, dù công hay tư, xin công tử cứ sai bảo. Lã Bất Vi này nhất định sẽ tận tâm tận lực giúp ngài. Doanh Dị Nhân vội vàng nói lời từ tạ: – Quý đại thương gia đã đem cho “hậu lễ”, tôi chưa biết lấy gì để đối đáp cho phải. Nay tôi chỉ là đứa con bỏ đi của thái tử nước Tần, chỉ là thân phận một con tin đã bao nhiêu năm rồi, còn có thể làm nên trò trống gì nữa? Lã Bất Vi nói rất trịnh trọng: – Xin công tử chớ tự ti. Lã Bất Vi còn có bộ gan to lắm, có thể giúp công tử nối ngôi vương vị, làm bậc quân vương của nước đại Tần, xây nên nghiệp lớn. Doanh Dị Nhân cười đau khổ: – Nói về của cải thì đại thương gia là đệ nhất thiên hạ, kinh doanh tài giỏi tuyệt vời, có thể sánh ngang Đào Chu Công [18]. Những chuyện đó hoàn toàn nằm trong tầm tay của dại thương gia. Còn việc đưa tôi về triều, dòm ngó ngôi báu, bước lên ngai vàng đại vương nhà Tần, chẳng hay đại thương gia có làm nổi hay không? – Lời của công tử rất phải. Phạm Lãi (Đào Chu Công) vừa là đại thương gia giàu có nhất thiên hạ, lại vừa là tể tướng nước Ngô của vua Phù Sai. Họ Lã tôi đây cũng có chí hướng như vậy. Cho nên cái phú quý vinh hoa mà Lã Bất Vi này chờ đợi, không phải ở chốn thương trường, mà là ở nơi công tử, ở sự thành đạt nghiệp lớn của công tử. Xin công tử lưu tâm cho. – Lã Bất Vi không ngần ngại nói rõ suy nghĩ và mục đích của mình. Doanh Dị Nhân nghĩ ngợi chốc lát rồi nói tiếp, vẫn không khỏi ngại ngùng: – Quý thương gia đặt kỳ vọng vào ta, thật là quá ư thịnh tình, nhưng ta đâu có một chút thế lực nào làm chỗ dựa, lại chẳng có cơ hội nào để ra tay?… – Chính vì vậy mà không thể “đặt lờ chờ cá” chui vào, mà phải chủ động vào hang bắt cọp. – Lã Bất Vi mách nước cho Doanh Dị Nhân. Ông nói tiếp – Vua Tần Chiêu Vương là ông https://thuviensach.vn nội của ngài, nay đã tuổi cao sức yếu, thân phụ ngài là An Quốc Quân đã được phong thái tử từ lâu. Lã tôi nghe nói thái tử rất chiều chuộng Hoa Dương phu nhân, nhưng không may cho bà Hoa Dương lại không có con. Bà là chánh thất làm chủ ở đông cung, là nơi mà các thái tử nương tựa và trưởng thành. Vì vậy, bà có thể hoàn toàn đàng hoàng dựa theo tiêu chuẩn nào đó của hoàng cung để nhận ai đó làm con mình… – Điều đó thì có liên quan gì với ta? – Doanh Dị Nhân vẫn chưa hiểu. Lã Bất Vi cảm thấy rất buồn cười. Đường đường một đấng vương tôn [19] đại Tần mà mất hết mọi nhạy cảm với cuộc đời, chẳng còn một sức lực nào chống chọi nổi số phận, đấy chính là hậu quả của sự đè nén sau hai mươi năm làm con tin. Tình hình thực tế là vậy, nhưng Lã Bất Vi không từ bỏ, mà còn cố gắng thuyết phục để lợi dụng, nhằm làm cho món “hàng lạ” này đạt được cái giá đắt nhất của nó. Nghĩ vậy, bèn kiên tâm giải thích và gợi mở cho Doanh Dị Nhân. Ông nói rõ rằng, mẹ của Doanh Dị Nhân là Hạ Cơ bị thất sủng, nên đứa con coi như bị bỏ đi, bị đày đi làm con tin ở đất khách quê người, cảnh ngộ thật thê lương, chẳng còn một chút thế lực gì, làm sao có thể đua tranh với người anh cả là Tử Hề và hơn hai mươi người con cùng cha khác mẹ trong việc giành giật quyền kế vị ngôi báu thái tử ở đông cung? Doanh Dị Nhân gật đầu lia lịa, tỏ ra rất chán chường vì mình quả là chẳng còn thực lực gì, chỉ muốn yên phận thủ thường, không dám mơ tưởng cao xa nữa. Lã Bất Vi không dừng lại ở đó. Nhân đà Doanh Dị Nhân đã phần nào thức tỉnh, nên chỉ ra những thế mạnh vốn có của Doanh Dị Nhân. Các lợi thế đó là, Doanh Dị Nhân ở rất xa cung đình, ở tận kinh thành nước Triệu, nên tất cả anh em của Doanh Dị Nhân, không ai coi Doanh Dị Nhân là địch thủ cạnh tranh của họ. Còn Hoa Dương phu nhân lại không có con, cho nên có thể coi bà là chỗ dựa chủ yếu. Nếu bà chịu nhận Doanh Dị Nhân làm con, thì có thể bất ngờ quay về nước Tần, để làm người kế vị của thái tử An Quốc Quân. Lã Bất Vi tiếp tục câu chuyện của mình với Doanh Dị Nhân: để có thể chu toàn mọi việc Lã Bất Vi sẵn sàng dấn thân sang tận Hàm Dương để dâng “đại lễ” (tặng phẩm quý) cho thái tử và Hoa Dương phu nhân, hết sức khuyên thuyết bà ấy nhận công tử làm con. Nếu được vậy thì những chuyện tiếp theo, như phong công tử làm thái tử, rồi làm chủ đông cung, sẽ thuận buồm xuôi gió, dễ dàng như trở bàn tay. Những lời đường mật nhưng đầy mưu trí và can trường của Lã Bất Vi thật sự đã lọt vào tai Doanh Dị Nhân. Doanh Dị Nhân vội vàng nói rất cung kính, còn chắp hai tay cúi xuống bái lạy: – Doanh Dị Nhân này nhất định sẽ làm theo mưu lược của đại nhân, sẽ quyết chí tiến lên. Sau này nếu công thành danh toại sẽ cùng đại nhân thụ hưởng giang sơn xã tắc đại Tần. Ta đã nói thế, quyết không nuốt lời. – Tốt lắm. Coi như thế là quyết định! – Lã Bất Vi vội đỡ Doanh Dị Nhân đứng dậy, và nhanh nhẹn chỉ cho anh ta thấy hòm vàng năm trăm dật (mỗi dật từ hai mươi đến hai mươi tư lạng) là của anh ta, coi như kinh phí cần .thiết để anh ta giao tiếp rộng rãi với các nhân vật lớn ở nước Triệu, nhằm thay đổi tình cảnh khốn khó hiện tại và nâng cao uy tín cũng như tiếng tăm của mình ở chốn quan trường nước Triệu. Khi Công Tôn Càn và Lã Yên xong việc ngựa xe quay về, thì Lã Bất Vì giả vờ thiu thiu vì choáng hơi men. Lã Yên vội thức ông ta tỉnh dậy, ăn cho xong bữa để còn về nhà. Lúc hai người ra về. Doanh Dị Nhân và Công Tôn Càn tiễn chân ra tận cổng thành, còn rối rít cảm ơn Lã Bất Vi. Lã Bất Vi thò đầu ra khỏi xe, liên tục vẫy tay và nói: – Xin đa tạ, xin dừng bước! Tiếng roi ngựa vút lên đưa hai cỗ xe xa dần và mất hút trong bóng đêm. Nhưng người đánh xe vẫn nhìn rất rõ con đường trước mặt vì nhờ ngọn đèn đang rực cháy ở càng xe. Chừng hai mươi ngày sau, đoàn xe ngựa mang cờ hiệu “Họ Lã. Dương Địch” từ từ đi vào Hàm Dương, thủ đô đại Tần. Tuy Lã Bất Vi đã từng đi qua lại nơi này, nhưng những lúc ấy chỉ là đến tìm kiếm thương trường, buôn bán làm ăn, chưa hiểu biết gì lắm đối với nội tình của hoàng cung và vương thất. Vì vậy, lần này, ông phải thân hành di thăm dò để nắm vững tình hình, tạo cơ sở cho những quyết định về sau. Trước hết, ông tổ chức các buổi yến tiệc và trao tặng lễ vật nhằm làm quen với những đại thương gia sở tại. Qua đó, https://thuviensach.vn kiếm một chỗ đứng vững chân trong chốn phồn hoa giàu sang của đại Tần, tạo ra một hướng mới cho công việc làm ăn. Mặt khác, có thể nhờ việc tiếp xúc với thương gia giàu có nước Tần để tìm hiểu nơi ở và tính tình, sở thích của các hoàng thân quốc thích. Sau khi suy nghĩ kỹ càng mọi việc cần làm, Lã Bất Vi bèn tìm cách gặp Dương Tuyền Quân, em của hoàng hậu Tần Chiêu Vương. Dương Tuyền Quân thường cậy thế làm càn, nhưng vẫn là một người biết lo trước ngừa sau, đầu óc luôn luôn mưu tính. Lã Bất Vi nắm được tâm lý đó và triển khai chiến thuật “công tâm” (tấn công vào tâm lý). Ông ta giả vờ đóng vai một nhân vật rất đáng thương hại và nói với Dương Tuyền Quân: – Thưa đại nhân quốc cữu [20], kẻ tiểu thương này từ nơi rất xa xôi đến đây, mong được trình lên quốc cữu đôi lời cảnh tỉnh. – Có việc gì trọng đại mà cất công mệt nhọc như vậy? – Dương Tuyền Quân vội hỏi. – Có kẻ đang rêu rao rằng tội của đại nhân phải xử cực hình. Chẳng hay quốc cữu đã nghe thấy hay chưa? – Lã Bất Vi nói như thật, rất nghiêm chỉnh, mỗi lời là một vận vào khó nghe. Dương Tuyền Quân bán tín bán nghi. Ông nói: – Không thể có chuyện đó được! – Sao lại không thể có được ạ? – Lã Bất Vi hỏi vặn lại một cách rất chắc nịch, và liến thoắng nói tiếp – Các thuộc hạ của đại nhân, không ai không quyền cao chức trọng, còn các môn hạ của thái tử An Quốc Quân thì người nào cũng thăng tiến như diều gặp gió. Trong phủ của đại nhân có biết bao châu báu ngọc ngà, trong chuồng trại của đại nhân là từng đàn tuấn mã. Trong nhà sau rộng lớn của dại nhân toàn là tuyệt thế mỹ nhân. Nay vua Tần Chiêu Vương tuổi đã cao sức đã tàn, chẳng may ngài ra đi thì người kế vị là thái tử An Quốc Quân. Lúc ấy, số phận của đại nhân như trứng quẩy đầu gậy, sống hôm nay nhưng chẳng biết ngày mai còn hay mất! – Chẳng ngờ lại có cái tai họa ấy, ta chưa lường tới bao giờ – Dương Tuyền Quân thật sự choáng váng trước những điều nguy cấp mà Lã Bất Vi vừa nói. Ông bồn chồn lo lắng, lòng dạ bất an. – Cũng may mà tiểu thương đây đã sớm nhìn thấy nguy cơ và đã ra tay lo liệu cho quốc cữu. Nếu đại nhân làm theo kế sách của tiểu nhân, thì vinh hoa phú quý sẽ trường tồn như núi Thái Sơn, sẽ vĩnh hằng vạn đại thiên thu. Xin thề với đại nhân, kế sách này không mảy may nguy hiểm. – Lã Bất Vi nói như đinh đóng cột, có vẻ như ăn chắc trăm phần trăm. Nghe những lời ấy, Dương Tuyền Quân càng thêm tin Lã Bất Vi, thấy rằng không dựa vào con người này e khó mà thoát khỏi mớ bòng bong này. Ông hỏi thêm ý kiến Lã Bất Vi. Lã Bất Vi được đà càng lấn tới: – Vua Tần Chiêu Vương nay đã già cả như thế. Hoa Dương phu nhân tuy là chánh phi của thái tử nhưng không có con để thừa tự. Con cả của thái tử là Tử Hề có quyền thừa kế ngôi vua, lại được trọng thần Đỗ Thương phò tá. Chừng nào Tần Chiêu Vương qua đời, Tử Hề sẽ kế vị ngôi vua của An Quốc Quân. Như vậy, gia tộc bên hoàng hậu của vua Tần Chiêu Vương sẽ bị chà đạp như cỏ rác ngoài đồng! Dương Tuyền Quân hình như đang lờ mờ nhìn thấy cảnh tượng thảm khốc đó. Ông kêu lên: – Ôi, không thể tưởng tượng được một kết cục đau lòng như thế! Lã Bất Vi liền đi ngay vào nội dung chính của câu chuyện: – Rất may là thái tử An Quốc Quân còn có một người con nữa là Doanh Dị Nhân, một công tử rất có tài đức, nhưng rất tiếc lại đang phải làm con tin ở nước Triệu. Mẹ là Hạ Cơ lại đang bị trừng phạt, cho nên, Doanh Dị NhânT coi như con không mẹ, suốt ngày nhìn về cũ quốc mà lòng quặn đau, muốn về quê mẹ đất cha nhưng không có bất cứ lý do gì để xin về. Nếu Hoa Dương phu nhân nhận Doanh Dị Nhân làm con, thì Doanh Dị Nhân sẽ có “đất nước” để trở về, còn Hoa Dương phu nhân thì đàng hoàng có con để thừa tự. Như vậy Doanh Dị Nhân có quyền thừa kế ngôi vua một cách danh chính ngôn thuận. Và mưu đồ của Tử Hề sẽ sụp đổ, quốc cữu đại nhân sẽ đời đời vinh hoa phú quý! https://thuviensach.vn Dương Tuyền Quân rất cảm động. Ông liên tục cảm tạ Lã Bất Vi: – Ngài quả là ân nhân cứu mạng cho quốc cữu ta đây. Ta tán thành cao kiến của ngài và sẽ hết sức khuyên Hoa Dương phu nhân nhận Doanh Dị Nhân làm con, cũng còn để bảo vệ cái mạng của ta nữa! – Nói xong liền gọi người nhà đem nhiều vàng tặng cho vị thuyết khách. Lã Bất Vi trở về nhà, vui mừng như mở cờ trong bụng. Sau khi cất số vàng được tặng, ông cùng Lã Yên đi ra nhà hàng nổi tiếng ở phía tây kinh thành, hai thầy trò uống cạn một lít rượu trắng, nhắm hết một đĩa thịt dê tái giòn, râu ria quanh mồm dính đầy dầu mỡ phải dùng nước nóng cọ rửa nửa ngày mới sạch. Mặc dù giấc ngủ đã ập đến nhưng Lã Bất Vi vẫn cứ trằn trọc mãi. Dương Tuyền Quân đã chấp nhận kế sách của ông nhưng xét cho cùng thì Dương chỉ là bên ngoại. Hơn nữa, mưu kế của ông chỉ mới học được ở ngay Hàm Dương này, chưa qua thử nghiệm, chẳng may quốc cữu nói rằng không đạt, không thuyết phục được Hoa Dương phu nhân thì công lao khó nhọc từ đầu đến nay coi như đổ xuống sông xuống biển. Vì vậy, Lã Bất Vi quyết định phải tự mình đến gặp Hoa Dương phu nhân, coi như tấn công vào mục tiêu bằng hai gọng kìm; như vậy, sẽ cầm chắc phần thắng. Nghĩ vậy, ông muốn ngâm hai câu hát ví của Dương Địch để thổ lộ tâm tình đang hưng phấn. Nhưng vừa há miệng thì thấy lưỡi cứng như tê dại. Hóa ra chiều tối vừa rồi đi uống rượu, húp phải níước canh quá nóng, thịt dê xào tái giòn lại có quá nhiều hành và ớt, vì quá chén nên thầy tớ cứ nhậu thật đã, quên hết mọi sự đời, hậu quả là lưỡi bị tê cứng, không tài nào cất giọng lên được. Nếu cứ như thế này mà đi gặp Hoa Dương phu nhân thì chẳng còn thể thống gì nữa. Nghĩ đến dây, bỗng Lã Bất Vi thấy lạnh ớn cả người. May mà ông ta đã từng buôn bán về thuốc đông y, nên có hiểu biết chút ít về cách chữa bệnh. Ông vội vàng tìm kiếm băng phiến, cho một ít vào mồm ngậm, nhờ vậy, lưỡi dần dần mềm lại, nói năng trở lại bình thường, lại có thể thao thao bất tuyệt. Nói chuyện với Hoa Dương phu nhân không dễ dàng như khi gặp quốc cữu Dương Tuyền Quân. Chủ yếu là bởi vì bà là chánh phi của thái tử, chủ trì đông cung, một nơi rất thâm nghiêm, được canh phòng tầng tầng lớp lớp, rất hiếm khi tiếp kiến quan khách từ ngoài vào. Thỉnh thoảng có ai đó cầu kiến xin gặp bà, trước hết phải gặp chị của bà, một người được giao giữ chức tiếp tân cho bà, nếu bà chị ấy thấy cần thiết mới cho gặp bà. Thật là nhiêu khê và vòng vo, nhưng không kinh qua những cửa quan ấy thì không xong việc. Chính Lã Bất Vi phải bỏ tiền bỏ của ra đút lót cho bọn hoạn quan ở nội cung, mới hiểu được ngọn ngành những chuyện đó. Vì vậy, Lã Bất Vi bèn sửa soạn lễ vật rất hậu, gồm toàn đồ trang sức của nữ bằng châu báu ngọc ngà quý giá, đem biếu chị của bà Hoa Dương, lại còn ca tụng hết lời đối với Doanh Dị Nhân trước mặt bà chị này. Ông ta nói, nào là Doanh Dị Nhân đã làm quen với rất nhiều đại thần và sứ giả các nước ở Hàm Đan nước Triệu, nào Doanh Dị Nhân có tài năng chính trị giao thiệp, được các giới thượng lưu ở nước Triệu ca ngợi hết lời. Bản thân Doanh Dị Nhân rất có tình nghĩa và kính trọng Hoa Dương phu nhân, coi bà như mẹ đẻ của mình, ngày đêm đẫm lệ trông ngóng về Hàm Dương, từng giờ từng phút tưởng nhớ thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân. Bà chị của Hoa Dương liền nói lại tất cả những chuyện đó với Hoa Dương phu nhân, và chuyển toàn bộ cổ vật châu ngọc của Lã Bất Vi trao tặng cho Hoa Dương phu nhân. Bà Hoa Dương vui mừng, lập tức cho triệu Lã Bất Vi vào gặp. Lã Bất Vi bắt đầu cuộc đàm thoại bằng câu chuyện rất hấp dẫn: – Thưa Hoa Dương phu nhân, Lã Bất Vi này thường nghe nói, dùng sắc đẹp để mua vui cho đàn ông, thì đến khi sắc phai xuân tàn, sẽ thất thế và bị đào thải. Phu nhân, là chánh phi của thái tử, được tôn quý bậc nhất, nhưng rất đáng tiếc là không có con thừa tự. Đó là điều thiệt thòi lớn nhất của một người đứng chủ đông cung. Vậy cớ sao không mau chọn một người hiền lương và hiếu thuận trong các con của thái tử làm con thừa tự của mình. Nếu tìm được con người như thế, thì khi phu nhân còn ở cương vị hiện nay, sẽ được triều đình và thiên hạ vô cùng tôn kính. Nếu chẳng may phu nhân đi về với tiên tổ, thì đứa con thừa tự đó sẽ kế vị ngôi vua, quyền thế của phu nhân vẫn không hề suy giảm. Như vậy, chỉ một câu nói “Nhận con làm thừa tự” mà lập nên cơ nghiệp vạn đại vinh thân, thật là mưu lược tuyệt diệu! Nếu không nhân lúc cành lá còn xum xuê để vun vén cho cây đại thụ thêm bền gốc chắc cành, đợi đến khi cành khô lá héo thì chẳng ai thèm nghe bất cứ lời nào mình nói ra nữa. Sự việc đã đến nỗi này, xin phu nhân suy xét cho kỹ. https://thuviensach.vn Hoa Dương phu nhân thật sự bàng hoàng trước những lời đầy thuyết phục của Lã Bất Vi. Bà kinh hãi đến mức run bắn cả người lên: – Nghe ngài nói vậy, ta mới tỉnh hẳn người, thấy rõ chỗ yếu lớn nhất của ta là không có con thừa tự. Đó là thế yếu. Nhưng rất khó có thể tìm được đứa con hợp với lòng ta. Lã Bất Vi thấy lửa đã bén mồi, bèn nói ra ý đồ của mình. Ông nói: – Kẻ tiểu thương này đã nhờ bà chị bẩm báo với phu nhân: may mà có công tử Doanh Dị Nhân đang làm con tin ở nước Triệu. Công tử tự hiểu rằng mình không thể trở thành thái tử, vì còn rất đông anh em. Huống chi mẹ công tử là Hạ Cơ lại bị thất sủng, hai mẹ con đều bơ vơ đơn độc, chẳng nơi nương tựa. Vì vậy công tử rất mong được nhận phu nhân làm mẹ. Nếu được vậy thì phu nhân có thể nhận công tử làm con, và công tử sẽ thừa kế ngôi thái tử. Từ đó, phu nhân sẽ suốt đời ngồi hưởng phú quý của nước đại Tần! Hoa Dương phu nhân vô cùng cảm ơn và khâm phục Lã Bất Vi đã nhìn xa trông rộng và mưu lược chu toàn của ông. Bà đích thân tiễn chân Lã Bất Vi ra tận cổng đông cung và còn dặn ông ta cứ yên tâm chờ đợi kết quả tốt đẹp. Mấy hôm nay, Hoa Dương phu nhân thấy thái tử mỗi lần đi thăm sức khỏe vua cha về, đều tỏ ra vui vẻ, bà thấy đây là dịp thuận tiện để nói chuyện với chồng. Bà nói: – Gần đây bọn hầu cận có bẩm báo rằng Doanh Dị Nhân làm con tin ở nước Triệu rất được các giới trong ngoài triều đình khen là con người hiền đức. Những người qua lại giữa Tần và Triệu cũng đều khen ngợi Doanh Dị Nhân. – Bà nói đến đây thì nước mắt lã chã. Bà như than thân trách phận – Thiếp được thái tử sủng ái, chủ trì đông cung. Nhưng cái số của thiếp quá mỏng, nay vẫn chưa sinh nở được, đã phụ lòng yêu thương của thái tử. Vì vậy thiếp muốn nhận Doanh Dị Nhân làm con để thần thiếp có nơi nương tựa suốt đời. Trước đó, Lã Bất Vi đã mời tiệc và đút lót các công khanh, đại phu trong triều đình nhà Tần, lại còn lợi dụng mọi cơ hội để đề cao Doanh Dị Nhân, nói nào là Doanh Dị Nhân rất có đạo đức, rất giỏi về công việc đối ngoại… vì vậy, thái tử An Quốc Quân cũng đã nghe bọn quan lại trong triều nói về những chuyện đó, nên cũng có những suy nghĩ tốt đẹp về Doanh Dị Nhân. Nay nghe vợ khẩn thiết yêu cầu, thấy cũng khớp với dư luận chu rất tin Hoa Dương và vui vẻ chấp nhận. An Quốc Quân trả lời rất nhiệt tình: – Việc này rất quan trọng, nên trao cho Doanh Dị Nhân một tấm ngọc bội, có khắc chữ hẳn hoi, để làm tin. Bà Hoa Dương thấy ước nguyện của mình được đáp lại nhanh chóng suôn sẻ, nên rất xúc động và cảm kích thái tử. Bà nói: – Xin thái tử nghĩ lời, để thiếp tự tay viết chữ. An Quốc Quân ôn tồn bảo vợ: – Cả hai chúng ta cùng nghĩ lời vậy. Hai người ghé sát tai nhau, thì thầm to nhỏ, lựa đi chọn lại rất kỹ, cuối cùng mới nghĩ ra một bài giao ước nhận công tử Doanh Dị Nhân làm con. Sau đó hai người lại chọn một viên ngọc bội có đầu rồng óng ánh màu tím. Bà Hoa Dương dùng con dao nhọn, khắc vào viên ngọc bội mấy hàng chữ rất đẹp: Duy ngã đại Tần, duy hùng đương thế Nhà xuất vương thất, khách cư vi chất Quyền quyền hiếu tư, trọng trọng quốc sự Nạp vi đích tử, thí bộc vi chí. Tạm dịch ý: Mùa đông năm thứ bốn mươi sáu Chiêu Vương Nước đại Tần ta, anh hùng đương đại Vẫn luôn trung hiếu, làm tròn quốc sự Nhận làm con cả, ban ngọc làm tin. https://thuviensach.vn Ngày hôm sau, thái tử An Quốc Quân và bà Hoa Dương cho gọi Lã Bất Vi vào tiếp kiến tại đông cung, và nhờ ông ta chuyển giúp ngọc bội cho Doanh Dị Nhân; còn gửi cho vị công tử này rất nhiều tặng phẩm và tiền bạc. Hai người nhờ Lã Bất Vi chăm sóc dạy dỗ Doanh Dị Nhân, để công tử biết giao tiếp rộng rãi, làm tốt mối quan hệ với vua quan nước sở tại, thúc đẩy sự hòa giải và hữu hảo giữa Tần và Triệu; để sớm chấm dứt cuộc sống con tin mất phẩm giá và gian khổ, nhanh chóng được trở về triều đình nhà Tần, phò tá phụ thân An Quốc Quân, kế tục đại nghiệp. Sau khi trao đổi mọi việc cần thiết, An Quốc Quân và bà Hoa Dương mở tiệc ở đông cung mời Lã Bất Vi. Trong yến tiệc, đôi bên chuyện trò rất vui vẻ. Hai vợ chồng thái tử lại nói lời cảm ơn Lã Bất Vi, bày tỏ hy vọng to lớn đối với Doanh Dị Nhân. Còn Lã Bất Vi thì luôn miệng hứa chắc chắn rằng sẽ không bao giờ phụ lòng tin của thái tử và phu nhân, nhất quyết giúp đỡ công tử cải thiện tình cảnh ở nước Triệu, xây dựng hình ảnh và uy tín của mình, cố gắng sớm về nước, để thể hiện lòng tận trung với nước, tận hiếu với cha mẹ. Tiệc tàn, Lã Bất Vi vui mừng khôn xiết. Khi về đến phòng riêng, ông vội dặn dò Lã Yên: – Ngày mai phải thu dọn mọi hàng hóa và ngừngviệc buôn bán ở địa bàn này. Mấy hôm sau, đoàn xe ngựa có lá cờ hiệu “Họ Lã. Dương Địch” lại rậm rịch đi ra khỏi cửa đông thành Hàm Dương tiến nhanh về hướng Hàm Đan. Trong xe, Lã Bất Vi ngồi lim dim hai mắt, thoải mái, mãn nguyện, nhưng ông nhìn thấy trận đấu vẫn còn ở phía trước. https://thuviensach.vn HỒI THỨ BA HÔN LỄ CHƯA TÀN ĐÃ VỘI GIỤC TRIỆU CƠ CHƯA CƯỚI ĐÃ MANG BẦU [21] V ào thời đại tiên Tần thời Chiến Quốc[22] các chư hầu nổi lên tranh hùng xưng bá, chiến sự liên miên. Sau nhờ có các nhân vật Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Thư đi khắp nơi để du thuyết và bày mưu tính kế nên mối quan hệ giữa các nước (chư hầu) có nhiều chuyển biến tốt. Hầu như nước nào cũng muốn bảo vệ lãnh thổ của mình, chống xâm lược từ bên ngoài. Vì vậy, họ ký kết thỏa ước với các nước láng giềng, cùng với lân bang phối hợp sách lược và hoạt động chính trị quân sự, thống nhất các chủ trương và biện pháp cụ thể, để cùng nhau chống lại kẻ thù chung. Tuy nhiên, mỗi khi tình hình có biến động, hoặc người cầm quyền thay đổi ý đồ, thì thỏa ước lập tức bị xé bỏ, thoắt một cái biến bạn thành thù, biến ân thành oán, chiến tranh lại bùng phát, lại máu chảy đầu rơi. Đánh rồi hòa, thù rồi bạn, sự thay đổi thất thường phức tạp đó gieo biết bao tai họa cho dân lành. Ngay cả các bậc quân vương, khanh tướng trong triều đình, những người cầm cân nảy mực của thiên hạ, nhiều khi cũng nát óc kiệt sức và bó tay trước cái cảnh sớm nắng chiều mưa, xoay đổi như chong chóng trong quan hệ giữa các nước. Vì vậy, hồi đó, có hiện tượng rất phổ biến là dùng con tin để giữ quan hệ bình thường lâu dài. Các nước có thỏa ước với nhau hoặc giữa các nước láng giềng với nhau, thường đưa người của mình đến đối phương làm con tin để tỏ tình hữu hảo, hòa hiếu. Người làm con tin có chức năng như một sứ giả ngoại giao, lại có giá trị đặt cược về chính trị; vì vậy, trở thành nhân vật rất nhạy cảm trên chính trường. Do đó, các nước thường chọn các con thừa tự của nhà vua tại vị làm con tin (cũng vì vậy mà gọi là “con” tin – chất tử).[23] Đưa con thừa tự của nhà vua đi làm con tin, đó là việc làm mạo hiểm đầy rủi ro, nhưng chỉ có thế mới giữ được lòng tin của đối phương. Việc đại thần Xúc Long nước Triệu khuyên thái hậu đưa con nhỏ của mình đi làm con tin được viết thành sách “Xúc Long khuyên thái hậu” là một trường hợp rất nổi tiếng [24]. Công tử Doanh Dị Nhân sang Triệu làm con tin không phải là con thừa tự, mà là con của thiếp (thứ mẫu) của thái tử, là cháu của vua Tần Chiêu Vương, tuổi mới lên mười, không có một thế lực làm chỗ dựa. Vì vậy thân phận của Doanh Dị Nhân chẳng có gì là cao giá. Trong suốt mười tám năm làm con tin ở Triệu, vua Tần Chiêu Vương và triều đình nhà Tần chẳng hề dòm ngó gì đến Doanh Dị Nhân, không kịp thời tiếp tế vật chất cho Doanh Dị Nhân, nếu có thì số lượng cũng rất ít ỏi. Đến nỗi, nếu so sánh với thái tử Cơ Hỷ của nước Yên đang làm con tin ở Hàm Đan lúc đó, thì hơn kém nhau một trời một vực. Thêm vào đó, quan hệ giữa nước Tần và nước Triệu lại lúc hòa lúc chiến, biến đổi thất thường, làm cho vua Hiếu Thành nhà Triệu rất có ác cảm với Doanh Dị Nhân, hay nghi ngờ. Vị vương tôn (cháu vua) nhà Tần cũng cảm thấy bị khinh rẻ nên lúc nào cũng mặt ủ mày chau, vừa buồn vừa xấu hổ. Tuy nhiên, tình hình gần đây có thay đổi. Vì Lã Bất Vi đã cho Doanh Dị Nhân cả đống tiền của, đã bơm vào chàng công tử đang khô héo những dòng máu tươi, những sức sống mới. Trong cái ngăn tủ vốn nghèo nàn của chàng công tử vương triều đại Tần, đã có đầy vàng bạc châu báu. Theo sự xếp đặt của Lã Bất Vi, hôm nay Doanh Dị Nhân nhận lời mời tham gia lễ tế mùa đông của nước Triệu (theo thông lệ, mỗi khi một nước cử hành hội lễ truyền thống, các sứ giả và con tin các nước đều được mời tham dự, chỉ trừ những nước đang đánh nhau). Doanh Dị Nhân ngồi trên một cỗ xe rất cao có bốn ngựa kéo, mặc áo bào bằng da lông chồn màu tím thêu hoa (một thứ da lông thú cực kỳ quý hiếm, do Lã Bất Vi tặng), đầu đội mũ da lông chồn có gắn ngọc mắt mèo. Hai chân đi đôi hài cao cổ có đế trắng ngần như tuyết. Lưng mang kiếm dài có bao bằng da rắn, chuôi kiếm khảm bảy ngôi sao bằng đá quý. Trông bộ dạng Doanh Dị Nhân lúc này thật uy nghi oai vệ, đúng là “Phật nhờ giát vàng, người nhờ phục trang”. Ngay cả người hầu cận là Công Tôn Càn cũng ăn mặc hoàn toàn mới, bước đi chững chạc, rất có phong độ. Khi Doanh Dị Nhân bước lên lễ đài, mọi con mắt đều đổ dồn vào anh ta với một vẻ nhìn vừa kinh ngạc vừa tôn quý, khác hẳn nhiều lần trước đây, họ chỉ đưa mắt liếc qua một ách https://thuviensach.vn khinh bỉ rồi quay mặt đi nơi khác. Trong quá trình hành lễ, các quân vương và đại thần nước Triệu, các sứ giả và con tin các nước, không ai không kinh ngạc trước bộ mặt hoàn toàn đổi mới của con tin nước Tần Doanh Dị Nhân. Từ chỗ kinh ngạc, đàm tiếu, đến chỗ kính phục, thân thiện và hữu nghị. Ngay cả Cơ Hỷ, thái tử nước Yên, một con tin khác ở Hàm Đan, cũng thay đổi thái độ trước đây luôn luôn bỉu môi, dè bỉu, chế giễu; nay cũng chủ động đến chào Doanh Dị Nhân rất cung kính và mềm nở. Tất cả những gì đang diễn ra trước mắt khiến Doanh Dị Nhân cảm thấy rất được an ủi và vui thích vì dang từ chỗ bị khinh rẻ đến chỗ được tôn vinh. Tuy nhiên, cảnh tượng đó cũng đụng chạm đến vết thương tâm linh do sự nhẫn nhục chất chứa lâu năm trong lòng. Doanh Dị Nhân bất giác cảm thấy chua xót đắng cay, đến nỗi không cầm được nước mắt, phải vội đưa ống tay áo lên mặt lau khô hai hàng nước mắt. Khi trấn tĩnh lại, và khi buổi lễ kết thúc, Doanh Dị Nhân chủ động bước ra khỏi lễ đài, bước xuống bậc tam cấp, nắm chặt hai bàn tay vái chào mọi người chung quanh. Khi lên xe, còn vén rèm che cửa, và bảo người đánh xe cho ngựa đi chầm chậm và đi một vòng quanh quảng trường rồi mới đi ra cổng chính, trở về nơi ở ở ngoại ô. Chuyến đi tuần hành có tính chất như một cuộc “duyệt binh” đó được tất cả những ai có mặt hôm đó đều trầm trồ khen ngợi. Họ nói rằng nước Tần quả thật đáng mặt một đại quốc, đưa một đứa cháu sang làm con tin nhưng rất có khí phách hiên ngang, oai nghiêm xuất chúng. Từ đó, vào các dịp như lễ cuối năm, lễ năm mới, rằm tháng Giêng, Doanh Dị Nhân đều hăng hái và tích cực tham gia. Lúc thì mở tiệc mời khách tại Tùng Đài, nơi tiếp khách quan trọng của triều đình nhà Triệu. Khi thì đến xem biểu diễn ở “Lưu Xuân Viên”, một nhà hát nổi tiếng ở Hàm Đan. Lúc thì mời các đại thần danh tiếng, các phú hào có thế lực của nước Triệu, và sứ thần cũng như con tin các nước tại Hàm Đan đến dự lễ mừng thọ cụ thân sinh ra Lã Bất Vi, nói là để tỏ lòng kính tạ tấm lòng thịnh tình của họ Lã. Tại những cuộc vui long trọng đó, không chỉ mâm cao cỗ đầy, ca múa tuyệt đẹp, mà còn trao tặng tất cả những người đến dự nhiều lễ vật có giá trị như vàng bạc, châu báu, đồ trang sức quý hiếm. Trong thơ cổ của Trung Quốc từng ca ngợi: “Chỉ cho một quả mộc đào, lại nhận được cả ngọc quỳnh ngọc dao”[25]. Giờ đây, khách của Doanh Dị Nhân được tặng ngọc quỳnh ngọc dao, hẳn là sẽ trả ơn bằng “phẩm giá con người. Đó là báu vật vô giá”. Tiếng tăm của Doanh Dị Nhân ngày một lan rộng. Tiếng lành đồn xa, đâu đâu cũng kháo nhau về những chuyện tốt lành của chàng công tử hào phóng. Điều đáng chú ý là lúc này, quan hệ hai nước Tần, Triệu đang hòa dịu dần, vua Triệu cũng thay đổi thái độ với con tin nước Tần. Trước kia là cử giám thị giám sát công tử, nay đổi lại là hầu cận; công tử không còn bị hạn chế hành động, mà được đối xử như thượng khách, được cung cấp mọi phương tiện cần thiết để hoạt động. Lại nói về Lã Bất Vi, sau khi đến Hàm Dương và thuyết phục được quốc cữu Dương Tuyền Quân và vợ chồng thái tử An Quốc Quân, ông vui mừng trở về Hàm Đan. Vì mã hồi sau “chiến thắng” nên ông cho ngựa phi nhanh, rút ngắn được ba ngày đường. Hơn nữa, mặc dù rất mệt nhọc sau gần mười ngày rong ruổi đường trường, vừa về đến nhà, ông đã vội hỏi thăm tình hình những ngày vừa qua của Doanh Dị Nhân. Cụ ông kể lại tỉ mỉ mọi chuyện cho con nghe. Nghe xong, Lã Bất vi gật đầu lia lịa vừa cười vừa nói: – Quả nhiên là hoàng tử nhà Tần có nòi có giống. Đèn mới thắp đã sáng ngay. Lời vừa nói ra là ứng nghiệm. Vị công tử non dại ấy thế mà đã thật sự trưởng thành, rất có triển vọng. – Nói xong lin quay sang bảo Lã Yên – Bác sai người sửa soạn một cỗ xe ngựa gọn nhẹ đón công tử về đây ngay cho ta. – Thưa ngài, ngài mới đi xa về, vất vả đi qua đi lại hai tháng nay rồi, nên nghỉ ngơi một chút đã chứ! – Gì hả? Hình như bác đã mệt mỏi rồi, không muốn nhấc tay động chân nữa phải không? – Lã Bất Vi hơi phật ý. – Không phải thế. Không phải thế. Tớ này đâu đám thế. Tớ này chỉ lo cho ngài thôi – Lã Yên tỏ ra rất lo sợ ông chủ hiểu lầm mình. Lã Bất Vi cười nhạt: – Vậy thì cảm ơn lòng tốt của đại quản gia. https://thuviensach.vn Lã Yên vẫn chưa yên tâm, vẫn cứ cái giọng xun xoe: – Thật không dám. Xin ngài cứ đi nghỉ ngơi. Sáng sớm mai, lão già này nhất định đưa công tử về đây cùng ăn sáng với ngài. – Im mồm! – Lã Bất Vi nổi nóng, không kiềm chế được nữa. ông nói như quát mắng – Uốn cành khi hãy còn non; rèn sắt khi còn nóng đỏ trên đe. Bác không cho thêm than thổi thêm lửa thì thôi, lại còn dội gáo nước lạnh vào đầu tôi, vậy là nguyên cớ gì? – Trái tim của lão ở chỗ này này, mong ngài thông cảm cho. – Lã Yên đưa tay đặt vào ngực, chỗ trái tim, nói tiếp, giọng nói có vẻ bị oan – Lão già này biết rõ ngài đi đường quên ăn quên ngủ, vất vả quá, nay mới về đến nhà. – Về đến nhà. Về đến nhà! Về đến nhà nhưng việc cần làm, chưa làm xong; người cần gặp, chưa gặp được! – Là Bất Vi có vẻ sừng sộ, hỏi vặn lại Lã Yên – Dù ông có trói tôi ở trên giường, tôi cũng không ngủ được. – Vậy thì… a ha, ha, ha… – Lã Yên bật cười, nhưng cười rất vu vơ, có vẻ ngớ ngẩn. Lã Bất Vi không muốn trách mắng ông ta nữa, chỉ giục: – Còn đứng ngẩn .tò te ra làm gì đấy, không mau đi đón khách về đây cho ta à? – Xin vâng – Lã Yên đáp lại rồi lui ra, vừa chạy vừa gọi lớn: – Cu Thuận, cu Hỷ ơi, mau đưa chiếc xe ngựa chạy nhanh nhất, theo tôi ra ngoại thành đón khách. Mau lên! Sau khi Lã Yên ra đi, Lã Bất Vi mới quay về phòng mình. Các thê thiếp vây xung quanh, rối rít hỏi han sức khỏe ông chồng. Lã Bất Vi trả lời qua quýt cho xong chuyện, rồi đi tắm nước nóng. Tắm xong, ông để cho người vợ yêu chải và búi lại tóc cho mình; đồng thời sai nhà bếp sửa soạn tiệc tối để đón khách sắp đến. Sau khi tóc đã được chải chuốt gọn gàng, Lã Bất Vi đến trước tấm gương lớn để ngắm nghía, ông hỏi các bà vợ đang đứng ở quanh đấy: – Các cô thấy tôi béo ra hay là gầy đi? – Em thấy chàng béo ra đấy! – Không phải đâu. Thiếp thấy không gầy đi, nhưng chỉ có mặt là có béo ra chút ít mà thôi. – Tôi nói thế này nhá, ông nhà không gầy đi mà cũng không béo ra. Thật đúng là trăm người trăm ý, chẳng ý nào đúng. Lã Bất Vi nói đùa: – Các cô rất khéo mồm khéo miệng, nhưng chẳng ai nói đúng cả! – Thế thì tại sao? – Mọi người nhao nhao lên. – Các cô rất sợ ta, không ai dám nói thật – Lã Bất Vi nhắc lại nhận xét của từng bà vợ. – Ai nói ta béo ra, chắc là muốn tranh thủ tình cảm của ta. Còn ai đó thấy ta gầy đi thật, nhưng chỉ dám nói chỉ có cái mặt là béo ra, đó là sợ ta không vui. Còn ai đó nói rằng ta không gầy không béo, thì đó là cách nói vô thưởng vô phạt nhất, chẳng được lòng, mà cũng chẳng mất lòng ta. Các cô có thấy thế không? Những lời nửa đùa nửa thật của ông chồng, làm cho các bà vợ ai cũng rất vui vẻ, hòa cả làng. – À, Triệu Cơ, sao cô chẳng nói năng gì cả? – Lã Bất Vi chỉ tay vào người vợ yêu vừa nãy chải tóc cho ông. – Thiếp nhìn mình trong gương kia chẳng khác gì bông hoa mờ mờ trong sương mù, thấy mình không còn ăn thua gì nữa, nên không dám nói – Triệu Cơ trả lời rất khôn ngoan mà cũng rất đẹp. Các bà vợ khác cười rộ lên và hỏi lại Triệu Cơ: – Vậy như thế nào mới là ăn thua? Triệu Cơ không đáp, chỉ hát mấy câu theo điệu dân ca sông Gianh như sau (dịch sát ý): Chng tôi rất hay vui đùa, https://thuviensach.vn Chị em đối đáp rất vừa lòng ông. Soi gương thấy rõ hình dong, Vừa gầy vừa béo khó lòng nói ra, Sắc tàn thì hết mặn mà, Triệu Cơ đành phải chẳng thà đứng im. – Thật là nhanh mồm nhanh miệng, lại có tài làm thơ nữa cơ chứ! – Mồm cô ấy hát, ai mà biết được cô ấy biết thật hay biết giả? Lại một trận cười nữa. Triệu Cơ vẫn đáp lại bằng lời ca: Thật lòng chẳng muốn nói ra Trừ khi thiếp được ông nhà ôm lưng! Sau câu hát này, không khí càng vui nhộn hơn. Các cô vợ tranh nhau nói: – Vâng ạ, mắt nhìn thì cũng như không, chỉ khi nào quàng tay ôm nhau thì mới là thật! – Vậy thì để ai ôm bây giờ nào? – Thì cô chứ còn ai nữa? – Không, chính cô ấy, cô ấy người to khỏe mạnh, vậy mới có sức mà ôm… Tất cả nói nói cười cười, rất rôm rả. Bỗng Lã Bất Vi nói, vừa mỉm cười nhìn về Triệu Cơ: – Thôi để ta nói nhé, tối nay để nàng ôm một lúc! – Chả trách mà cô ấy biết ngâm biết hát, lấy được trái tim của ông nhà rồi! – Thôi để cho cô ấy ôm vậy! – Mình bị thất sủng nên quên không nói cho chị em biết ông nhà béo hay gầy. Mọi người lại cười rộ lên. Lúc này Lã Yên đẩy cửa bước vào, nói với Lã Bất Vi: – Thưa ông chủ, công tử đã tới. – Mời đến phòng làm việc của ta. – Lã Bất Vi nói xong liền quay sang nói với Triệu Cơ: – Đi theo ta cùng tiếp khách. – Vâng! Triệu Cơ đi sau Lã Bất Vi cùng đến gặp Doanh Dị Nhân. Hai người vừa bước vào phòng, thì Lã Yên đưa Doanh Dị Nhân cũng vừa tới. Hai vợ chồng vội bước lại chào khách. Lã Bất Vi hỏi thăm, hai tay nắm chặt: – Chào công tử, từ ngày ấy đến nay, công tử vẫn được bình yên cả đấy chứ ạ? Doanh Dị Nhân vội đáp lễ: – Nhờ trời, vẫn bình yên. Ngài đi Hàm Dương lần này quá vất vả! Lã Bất Vi cười sảng khoái: – Việc của công tử cũng như việc của họ Lã này thôi. Công tử và Lã này tuy hai mà một rồi. Vừa nói, Lã Bất Vi vừa đưa tay mời khách đến chỗ ghế, hai bên cùng ngồi xuống. Doanh Dị Nhân và Triệu Cơ đã biết nhau từ buổi lễ mừng thọ cụ ông, nên không cần giới thiệu, hai bên cúi đầu chào nhau. Triệu Cơ ngồi bên cạnh Lã Bất Vi, nghe hai người nói chuyện. Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi mỗi người kể lại công việc của mình, đều tỏ ra vừa lòng với những gì đã làm trong những ngày qua. Lã Bất Vi nói xong phần mình, tỏ rất vui mừng đắc chí, bèn sai Lã Yên khiêng chiếc hòm sơn đỏ đến. Ông mở nắp hòm ra, bên trong có đến hai đấu báu vật, nào xuyến vàng, xuyến bạc, đồ trang sức bằng ngọc với đủ màu sắc: https://thuviensach.vn tím, xanh lam, xanh mắt mèo, tía, mận, da cam, tất cả óng ánh, choáng ngợp. Mọi người đều tặc lưỡi, trầm trồ khen ngợi. Lã Bất Vi nói với Doanh Dị Nhân rằng đây là những thứ mà cha mẹ công tử gửi cho. Doanh Dị Nhân hoàn toàn tin lời Lã Bất Vi và cầm lấy bản kê chi tiết các vật phẩm trong hòm, Lã Bất Vi chuyển giao tận tay, rồi đậy nắp hòm lại. Bây giờ Lã Bất Vi mới đưa viên ngọc bội ra, trân trọng chuyển cho công tử, và nói rất kính cẩn: – Đây là kỷ vật làm tin do thái tử và Hoa Dương phu nhân đích thân khắc chữ, xin công tử chú ý xem. Doanh Dị Nhân nhận viên ngọc bội, nhìn kỹ và đọc những dòng chữ rất nhỏ trên viên ngọc. Càng đọc càng xúc động, hai mắt đầm đìa, phải đưa tay lên chùi mắt. Triệu Cơ có vẻ tò mò, nàng nhẹ tay cầm lấy viên ngọc bội từ lòng bàn tay của công tử, đưa mắt nhìn kỹ, rồi nói rất trang trọng: – Từ nay mọi việc cửa công tử đều nhờ vào kỷ vật này, nên cất giữ cẩn thận! – Nói xong, trả lại cho chủ nó. Doanh Dị Nhân vội cầm lại ngọc bội và cảm ơn: – Đa tạ phu nhân có lời chỉ bảo. Vì cẩn thận, nên công tử đưa hai bàn tay để đỡ lấy viên ngọc trong bàn tay Triệu Cơ, nhưng lại gần như là nắm lấy bàn tay nàng. Triệu Cơ từ từ rút tay mình ra, còn đưa mắt nhìn thẳng vào công tử, vừa cười vừa nói: – Xin ngài cầm cho chắc tay, luôn giữ ở trong người. – Tôi nhớ rồi! – Doanh Dị Nhân đáp rồi quay sang Lã Bất Vi – Chuyến đi của ngài lần này đã nói thấu tình đạt lý với thái tử và Hoa Dương phu nhân, đã khuyên họ nhận tôi làm con thừa tự. Việc này đã đạt được kết quả bước đầu, thật mãn nguyện quá. Chỉ một chuyến đi mà chóng vánh mọi chuyện, công lao của ngài thật to lớn vô cùng! Lã Bất Vi mỉm cười, gật đầu lia lịa: – Mọi việc đều do hai chúng ta đã bàn định từ trước, chúng ta bắt tay nhau đồng tâm hiệp lực, cùng nhau gắng sức thì việc gì mà chẳng thành. – Nói xong liền đưa ra một bức thư – Xin công tử xem thư! Doanh Dị Nhân nhận lấy rồi mở ra xem, thì ra là thư của thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân tự tay viết cho công tử. Lời lẽ trong thư rất sâu sắc, chân tình, kỳ vọng tha thiết, làm xúc động lòng người. Thư viết: Gửi con Doanh Dị Nhân, Ngài Lã Bất Vi vào cung tiếp kiến, tấu báo tình hình của con gần đây. Con làm con tin ở nơi xa, vẫn ngày ngày trông ngóng về đông cung, nhớ cha thương mẹ, hiếu thuận bên lòng. Nay ban ngọc bội, nhận làm con trưởng. Ngài Lã đến đây, công lao to lớn, đáng tôn làm thầy, nghe ngài chỉ giáo, hiệp lực đồng tâm, sớm quay về nước. Mấy lời nhắn con. Cha và mẹ (ký tên)[26] Mùa đông năm thứ bốn mươi sáu Tần Chiêu Vương. Bức thư được viết trên lụa. Đọc xong, Doanh Dị Nhân xúc động nói: – Thật may cho tôi, được cha mẹ lo cho rất chu toàn. Chỉ sợ tôi tài hèn sức mọn, lực bất tòng tâm, xin chỉ bảo cho. Mời thầy ngồi xuống, để tôi bái lạy thầy. – Nói xong, phủ phục xuống khấu đầu bái lạy. Lã Bất Vi bỗng dưng thấy choáng váng trong đầu, mắt hoa chóng mặt, vốn định cúi xuống đỡ Doanh Dị Nhân đứng dậy, nhưng cứ loạng choạng và thở hổn hển, có vẻ như sắp ngã nhào xuống đất. Triệu Cơ thấy vậy, bèn vội vàng tự mình đỡ Doanh Dị Nhân dậy, mỉm cười với công tử, còn nói: – Công tử đại lễ như vậy, làm cho ông nhà thiếp bị kích động quá rồi! https://thuviensach.vn Doanh Dị Nhân đứng dậy, hai tay vướng vào tay nàng, bốn mắt nhìn nhau. Bây giờ công tử mới thật sự thấy rõ trước mặt mình là một tuyệt thế giai nhân, nên cứ ngây người ra mãi, tình cảm dồn nén lâu nay trong lòng bỗng bừng bừng thức tỉnh. Nhưng Doanh Dị Nhân cũng đã kịp làm chủ được mình, mặc dù hơi đỏ mặt, nhưng nói lịch thiệp: – Đa tạ phu nhân! – Khiêm nhường nhã nhặn như vậy, quả đáng là bậc vương tôn đại quốc – Triệu Cơ vừa nói vừa cười rất có duyên. Lã Bất Vi vẫn lấy tay ôm bụng, vừa gượng cười vừa nói: – Lã Bất Vi này làm gì có tài đức để làm thầy? Chẳng qua thái tủ và phu nhân nhờ cậy, nên mới đem chút tài mọn sức hèn này đưa ra đôi lời cho công tử xem xét mà thôi; tất cả đều là vì sự thành công của chúng ta. – Ông nhà ơi, nhờ có cái bái lạy vừa rồi của công tử mà chàng đã trở thành trưởng lão rồi đó! – Triệu Cơ cười, mặt mày rất rạng rỡ , lời nói rất cung kính với Lã Bất Vi. Doanh Dị Nhân cũng quay sang mỉm cười với Triệu Cơ: – Từ nay ta phải gọi phu nhân là “Sư mẫu” rồi đấy. – Nói xong liền chắp tay bái lễ.t Triệu Cơ vội giữ tay công tử lại, nói: – Không dám, không dám! – Rồi lại đưa mắt nhìn Lã Bất Vi, cười đắc chí – Thật nhờ có hồng phúc của chàng mà thiếp và công tử tuy cùng một tuổi, nhưng đã trở thành “trưởng lão” của công tử rồi, thật là thiệt cho thần thiếp. Trong lúc mọi người đang vui cười, thì các nô tỳ đã bày biện xong cơm tối, ba người ngồi vào mâm, lại trò chuyện râm ran. Vì đêm đã khuya, nên Doanh Dị Nhân ở lại nhà khách họ Lã. Trước khi công tử rời phòng, Lã Bất Vi vì quá vui nên đã say mềm, không thể đứng dậy được, bèn ra hiệu cho Triệu Cơ tiễn chân công tử. Doanh Dị Nhân luôn miệng nói: – Sư mẫu, xin dừng bước. Triệu Cơ đưa mắt nhìn theo, bóng đêm đang làm mờ dần hình bóng công tử, một vương tôn cao quý nhưng chưa thoát hẳn khỏi cảnh đắng cay đau buồn. Bất giác nàng cảm thấy rất thương cảm với thân phận con người. Lã Bất Vi được người nhà cho uống nước canh dã rượu, nên dần dần tỉnh lại, lại hớp thêm một ngụm trà đặc, nên cơn buồn ngủ cũng bị xua tan, bèn bước nhanh đến khuê phòng Triệu Cơ để “thực hiện lời hứa”. Sau khi mọi chuyện đã xong xuôi, người đẹp ghé vào tai chàng thì thầm to nhỏ gì đó, bỗng Lã Bất Vi ngồi phắt dậy, hỏi ngay: – Cái gì, có thật rồi à? – Sinh tử đại sự, sao thiếp lại dám dối chàng? – Triệu Cơ mỉm cười và trả lời. Lã Bất Vi lại hỏi tiếp: – Bao lâu rồi? – Thiếp mất kinh mới khoảng một tháng… – Triệu Cơ nói nhỏ nhẹ, có hơi chút ngượng ngùng. – Đúng là trời đã phù hộ ta! – Lã Bất Vi mừng rơn, ôm lấy Triệu Cơ, nói tiếp – Cái bụng của nàng đã lập công cho ta rồi đó? – Cái bụng của thiếp ư…? – Triệu Cơ muốn hỏi cho ra nhẽ, nhưng thấy Lã Bất Vi đã hắt hơi, có vẻ quá mệt mỏi. nên không muốn nhiễu nữa, bèn nghiêng mình ôm ấp bên cạnh cho chàng đi dần vào giấc ngủ. Thực ra Lã Bất Vi chỉ hắt hơi giả vờ. Ông không những không ngủ, mà là đang nhớ lại những gì đã đưa ông đến với Triệu Cơ. * * * Một buổi tối mùa hè cách đây nửa năm, Lã Bất Vi dạo bước hóng mát dưới ánh đèn https://thuviensach.vn sáng rực trên đường phố Hàm Đan, nhân đi qua nhà hát nổi tiếng “Lưu Xuân Viên”, bèn ghé vào xem ca hát. Các ca kỹ nối tiếp nhau hát hết bài này đến bài khác, mỗi người một nét đẹp riêng, không ai giống ai, nhưng đều rất duyên dáng. Theo lệ thường, Lã Bất Vi ném mấy đồng tiền vào cái đĩa trên bàn. Lúc này đã hết oi bức, trời mát dịu dần. Ông đang định ra về thì bỗng nghe thấy một kỹ nữ khoảng trên đôi mươi, má hơi phớt hồng, mày cong lá lúa, mắt sáng lung linh, thướt tha uyển chuyển. ã Bất Vi ngập ngừng giây lát rồi tiếp tục ngồi xuống. Sau khi cúi chào khán giả rất cung kính, cô gái cất giọng hát theo tiếng đàn phối âm: Dịch nghĩa: Mây trắng buồn chi, bay lững lờ Cõi trần ai, như cát bụi trong cơn gió Lệ sầu rửa sạch nét dung nhan Tiếng đàn ai oán, nỗi lòng kêu than. Chim muốn bay về nhưng không còn tỏ? Người nhớ cố hương nhưng chẳng còn thuyền Tiện đây ca hát, thân gái thuyền quyên. Xin chàng thưởng thức, thỏa nguyền mưu sinh. Lã Bất Vi nghe những lời ca bi thương sầu thảm ấy bỗng động lòng trắc ẩn, bèn đến tận sân khấu và bỏ ra một khoản tiền kha khá, còn lên tiếng ân cần hỏi cô ca kỹ: – Vừa rồi cô hát rất hay thật là chân ý chân tình, chẳng hay đó có phải là cuộc đời thật của cô? – Đại nhân đã nói phải rồi đấy ạ! – Cô ca kỹ đáp lại trong nước mắt. – Tiểu nữ họ Triệu, trước kia gia sản cũng thường thường bậc trung. Nhưng loạn lạc lâu năm, nhà tan cửa nát. cha mẹ qua đời, cuộc sống leo lắt, ở nhờ ông chú, theo ông đi hát đàn. Nay làm nghề này, không phải sống nhờ nữa, phải tự nuôi thân… – Chưa nói xong đã nức nở nghẹn lời, nước mắt lã chã. Lã Bất Vi cảm thấy rất thương tâm trước cảnh ngộ của Triệu Cơ, nên từ đó, ông luôn luôn lui tới Lưu Xuân Viên, mỗi lần nghe cô hát xong, đều có trọng thưởng. Triệu Cơ cũng ngày càng kính trọng người đàn ông hào phóng này, và mỗi lần hát xong đều tiễn chàng ra tận đầu phố, vái chào ba lượt rồi mới quay gót. Cứ thế trong hơn nửa tháng, rốt cuộc Lã Bất Vi lên tiếng khẩn cầu: – Cuộc sống tạm bợ như thế này e khó có thể nuôi sống cô em lâu dài. Ta muốn cưới em làm thiếp, để từ nay em không phải vất vả lặn lội với cuộc đời. Chẳng hay ý em ra sao? – Tiểu nữ này chỉ là hạng xướng ca vô loài, lại luôn được đại nhân đoái hoài trọng thưởng. Cái ơn ấy, tiểu nữ này chưa có gì đền đáp. Nay đại nhân lại đem lòng thương cảm, cứu thiếp khỏi nơi bụi trần, xin dâng trọn thân này để báo ơn báo đức của đại nhân! Triệu Cơ mặt đỏ bừng bừng, hai mắt đẫm lệ, quỳ xuống trước mặt Lã Bất Vi. Lã Bất Vi vội cúi xuống đỡ nàng đứng dậy, và cùng nàng đến gặp chủ gánh hát, nói rõ ý định: – Từ ngày mai Triệu Cơ không hành nghề ở đây nữa. Nói xong, quay gót rảo bước về nhà, căn dặn Lã Yên sửa soạn đưa cho chủ gánh hát và ca kỹ Triệu Cơ mỗi người một món tiền lớn, hoàn tất mọi việc cần thiết. Đồng thời, cho treo đèn kết hoa ở nhà riêng, đùng một căn phòng mới ở mé phía đông nội đường. Chọn ngày lành tháng tốt, mời thầy cúng, thầy bói, ba dàn trống kèn, một đội lực sĩ, hai hàng mỹ nữ, bốn chú tiểu đồng, cùng khiêng kiệu hoa và bốn hòm trang sức, rước Triệu Cơ về nhà, trong tiếng trống rộn ràng khắp làng khắp phố. Buổi đầu gặp gỡ giữa Lã Bất Vi và Triệu Cơ là như vậy. Cho nên. câu hát tối nay của Triệu Cơ “Thật lòng chẳng muốn nói ra. Trừ khi thiếp được ông nhà ôm lưng!”, vừa là câu trả lời sắc sảo, vừa là câu bông đùa vui vẻ lịch thiệp, trội hơn hẳn các thê thiếp khác. Vì vậy, nàng càng được yêu chiều sủng ái, được Lã Bất Vi quý mến nhất nhà. https://thuviensach.vn Cái khó và cũng là cái quý nhất hiện nay là cái thai trong bụng nàng. Đó là hạt giống thừa kế sự nghiệp to lớn của chồng nàng, Lã Bất Vi, con người đang ôm ấp một hoài bão chưa từng có trong lịch sử từ cổ chí kim. Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi vui sướng đưa tay sờ vào bụng Triệu Cơ vừa nói nhỏ nhẹ như tự nhủ: – Trời phù hộ ta. Trời phù hộ ta! – Sao thế? Đại nhân vẫn chưa ngủ à? Lại còn lẩm bẩm “Trời phù hộ ta. Trời phù hộ ta” cái gì kia chứ? Bàn tay của chồng làm Triệu Cơ thức tỉnh và giọng nàng có vẻ hơi khó chịu. Lã Bất Vi vội chuyển sang giọng đùa cợt: – Ồ, ta nói sai rồi. Ta muốn nói nàng đã phù hộ ta, nàng đã phù hộ ta đấy chứ! Triệu Cơ cũng đùa lại: – Không dám! Không dám! Đại thương gia họ Lã nhà chàng là người giàu có nhất thiên hạ, lại đứng đầu giới thương nhân, còn cần gì phải nhờ đến thiếp phù hộ. Chắc là đại nhân sẽ đi phù hộ người khác thì có! – Làm người chồng lại còn đi phù hộ ai nữa cơ chứ? – Lã Bất Vi không hiểu nàng định nói phù hộ ai. – Công tử Doanh Dị Nhân chứ còn ai nữa! – Triệu Cơ nói, nét mặt nghiêm lại. – Chàng là đại nhân, thê thiếp cả đàn, hưởng phúc tràn trề. Chàng cũng nên đoái nghĩ tới tình cảnh của người cháu vua đại Tần, đã gần “tam thập nhi lập” rồi mà vẫn cô đơn lạnh lẽo, với thân phận con tin ở phương trời xa xăm. Chàng là thầy của công tử, vậy cũng nên phù hộ anh ta một chút, tác thành cho anh ta nên vợ nên chồng, phần nào an ủi con người cô quạnh nơi tha hương. Lã Bất Vi chắp hai tay bái lễ Triệu Cơ, vừa cười vừa nói: – Xin lĩnh giáo. Xin lĩnh giáo. Nam đến tuổi dựng vợ, nữ đến tuổi gả chồng. Doanh Dị Nhân đã tôn ta làm sư phụ, vậy nàng cũng là sư mẫu của công tử. Sư mẫu cũng phải quan tâm đến học trò mới phải chứ! – Đại nhân nói rất chi là chí lý. Đã là sư mẫu, lẽ dĩ nhiên là không phủi tay đứng nhìn, mà cũng phải để ý đến học trò đôi chút – Triệu Cơ trả lời rất tự nhiên. Qua nhiều lần gặp gỡ Triệu Cơ cũng biết được hoàn cảnh trước đây và hiện nay của Doanh Dị Nhân. Nhất là, nàng đã từng sống quãng đời ca kỹ vui ít buồn nhiều; vì vậy nàng cũng phần nào rất thông cảm với cảnh ngộ của Doanh Dị Nhân. Cho nên, tuy là nói chuyện với Lã Bất Vi, nhưng nàng cũng không giấu nổi những suy nghĩ chân thành của mình đối với công tử nhà Tần. Mấy hôm sau, tại Hàm Đan có lễ hội rất lớn, khắp nơi đều tổ chức đón xuân và mừng năm mới. Hôm ấy, Doanh Dị Nhân đến xem hát múa ở Lưu Xuân Viên. Sau đó đến nhà Lã Bất Vi (theo lời mời) ăn uống. Họ xưng hô với nhau vẫn là thầy thầy trò trò rất có thứ bậc, nhưng cũng rất chân tình vui vẻ. Triệu Cơ ngồi ở giữa hai người, luôn luôn chúc rượu và gắp thức ăn cho cả hai bên. Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân đều rất hài lòng, luôn cười ha hả. Bỗng Lã Bất Vi cau mày, đặt chén rượu xuống chiếu, nhăn nhó kêu rằng: – Mấy hôm nay tiếp khách buôn bán quá nhiều, ăn uống không điều độ, nên trong người rất khó chịu, không thể uống được nữa, rất thất lễ với công tử. Lã Bất Vi nói xong liền đứng dậy bước ra ngoài. Triệu Cơ vội đỡ Lã Bất Vi một bên nhưng Lã Bất Vi xua tay thoái thác: – Say ít thôi mà, không có chuyện gì đâu, ta tự đi được mà. Nàng hãy ngồi tiếp công tử, uống thêm vài chén – Nói xong liền đi ngay về phòng mình. Triệu Cơ quay lại, ngồi vào mâm như cũ, tiếp tục chúc rượu Doanh Dị Nhân; lại còn hỏi han thân mật tình hình gần đây của công tử và tỏ ra rất thông cảm với tình cảnh làm con tin của công tử. Những lời an ủi đầy thương cảm của Triệu Cơ làm cho Doanh Dị Nhân bồi hồi xúc động. Chàng uống một hơi hết cả cốc rượu, đặt cốc xuống rồi ngâm nga (dịch đại ý): https://thuviensach.vn Chiếu hoa trải rộng nữ hoa đường Nến kia ánh bạc rọi sắc xuân Thân này tầm gửi nơi dị quốc Đời vui vì tuyệt thế giai nhân. Ngâm xong, tự mình rót đầy rượu vào chén, quay về phía Triệu Cơ, nâng cốc và nói: – Tôi ca những điều tự đáy lòng mình, bộc bạch nỗi oan khuất của chính mình. Xin uống cạn chén này và vui lòng nhận ở học trò này tấm lòng ái mộ. – Đa tạ công tử có lòng thành! Triệu Cơ nâng cốc đưa lên ngang tầm với Doanh Dị Nhân. Chàng cũng nâng cốc đáp lại, dôi mắt nhìn nhau, tình trong như đã mặt ngoài còn e, rồi mỗi người đều uống cạn cốc rượu. Triệu Cơ cũng chẳng tay đứng dậy, đáp lại bằng lời ca: Dịch ý là: Tuổi xuân này, trải bao chiếu hoa Đưa đẩy nhan sắc với lời ca quên mình Gặp gỡ tri ân thời quá muộn Rượu đầy xin chúc muôn vàn niềm vui. Hai người đều thổ lộ tâm can của mình, người nào cũng từng nếm trải cuộc sống đau buồn, cô đơn, nên họ nhanh chóng thông cảm nhau, rất hiểu lòng nhau. Nhất là Triệu Cơ, tuy là thiếu phụ đã có chồng, nhưng những gì của quá khứ vẫn đang đọng lại sâu sắc trong tâm trí, nên đã “thầm yêu trộm nhớ” con người cùng cảnh ngộ với mình. Nay lại chỉ có hai người đối mặt với nhau, lửa tình dào dạt. Doanh Dị Nhân cũng vờ say đưa tay nắm chặt lấy bàn tay mềm mại của Triệu Cơ rồi nói âu yếm: – Bấy nay ta đã linh cảm thấy được tình thương của nàng dành cho ta. Nay lại được gần gũi bên nhau, ta muốn ôm nàng vào lòng để đền ơn đáp nghĩa. Nói xong liền dang rộng cánh tay ôm chặt lấy nàng. Triệu Cơ vốn là cô gái đa tình, rất mau rung động trước chàng trai dòng dõi nhưng đang sống cô đơn mà nàng đã thương yêu, nên không hề từ chối, còn mở phanh ngực và ôm chặt ngang lưng chàng. Hai người đang má kề má, môi kề môi thì bỗng có tiếng kẹt cửa, Lã Bất Vi đột ngột xông vào. Hai người hoảng hốt vội buông nhau ra. Nhưng chẳng thể biện bạch được gì nữa, đành ngượng ngập đứng nhìn, chân tay cứ lúng ta lúng túng, chẳng biết giấu đi dâu cho đỡ vướng. Lã Bất Vi bước lại mấy bước, chỉ tay vào Doanh Dị Nhân quát mắng: – Ta và nhà ngươi không hề quen biết, chẳng qua chỉ ngẫu nhiên gặp nhau, nhưng ta đã hết sức lo chạy cứu mệnh cho ngươi, mong cho ngươi được hiển vinh phú quý, mở mặt mở mày. Nào ngờ ngươi lại được đàng chân lân đàng đầu, vong ơn bội nghĩa, trêu ghẹo ái thiếp của ta, thật là quá sức chịu đựng! Doanh Dị Nhân sợ hãi run bắn cả người lên, vội kêu lên một tiếng rồi quỳ xuống khấu đầu xin lỗi: – Học trò bị hơi men làm cho thất lễ, mạo phạm sư mẫu, làm ô uế đạo thầy, xin nể tình cha mẹ học trò mà lượng thứ cho. Học trò nghiêm khắc sửa lỗi, giữ phép luân thường, lần sau quyết không dám tái phạm! – Sách lễ viết: “Nam nữ thụ thụ bất thân”[27]. Nhưng nay hai người đã cho nhau rồi, cũng đã nhận rồi. Chỉ một lần thế cũng quá đủ, sao còn nói lần sau không dám? – Lã Bất Vi lại đay nghiến, rất giận dữ đến nỗi giọng nói run lên, mặt tái xanh tái ngắt. Triệu Cơ đứng bên cạnh, đang sụt sùi, cũng sợ hết hồn, vội quỳ xuống, kêu oan: – Thiếp mang thân phận đàn bà con gái, vốn tính tình yếu hèn, không giữ nghiêm được những điều không nên làm giữa nam và nữ, thật là có lỗi. Chỉ xin nhớ cho người https://thuviensach.vn thiếp đã… – Ngươi nói “người thiếp” cái gì? “Người thiếp” cái gì hả? – Lã Bất Vi rất sợ nàng nói lộ chuyện bí mật tầy đình, nên vội vàng cắt ngang lời Triệu Cơ và nói lảng sang ý khác. – Ngươi nói người thiếp không làm chủ được mình phải không? Những chuyện như thế này phải là do hai bên đồng tình với nhau mới diễn ra được. Doanh Dị Nhân và Triệu Cơ cố nhiên không dám thanh minh nữa, chỉ luôn miệng xin được rộng lượng tha thứ mà thôi. – Ấy à. Xem ra hai người cũng có duyên phận với nhau đấy chứ. Việc đã đến thế này, đành tiến hành hôn lễ, nhằm thu xếp cho êm thấm mới được. – Lã Bất Vi nhân đà nói toạc ra ý đồ của mình. Đôi trai ái đa tình này vốn tưởng rằng tai họa sắp giáng xuống đầu, chẳng ngờ màn kịch bất chợt vừa qua lại biến thành chuyện kết tóc xe duyên thật sự; vì vậy, cả hai đều vui mừng khôn xiết, vội chắp tay bái lạy tạ ơn Lã Bất Vi muôn ngàn lần. Lã Bất Vi bèn tiếp tục trách móc Doanh Dị Nhân: – Nhà ngươi mong được ước thấy, mãn nguyện rồi, chớ có sống theo kiểu cầu may nữa nhé. Sau này nếu nuốt lời, mất tình mất nghĩa, ta là thầy giáo, nhất quyết không tha đâu. Doanh Dị Nhân vội vàng thề thốt: – Thầy đối với tôi ơn sâu nghĩa nặng, như mang lại mạng sống thứ hai cho tôi. Từ nay, tôi dối với Triệu Cơ nhất định không thể chơi cho liễu chán hoa chê rồi vứt bỏ. Nếu làm như vậy thì tôi phải chịu tội chết. – Xin công tử đừng nói gở nữa! – Triệu Cơ vội ngăn chàng lại và đỡ chàng đứng dậy. Đôi bạn tình tuổi xuân phơi phới này đứng sát bên nhau, trông thật xứng đôi. Lã Bất Vi lại trịnh trọng nhắc nhở Doanh Dị Nhân: – Từ nay, dẫu cho được vinh hoa lộc hậu như thế nào chăng nữa, cũng phải coi Triệu Cơ, là chánh thê (vợ cả). Doanh Dị Nhân nói: – Duyên mới hôm nay sẽ giữ vững suốt đời. Với cách tính toán chu toàn, Lã Bất Vi đã bỏ ra một khoản tiền lớn, mua một ngôi nhà rất khangrang cho người chú của Triệu Cơ (cha mẹ mất sớm, nên Triệu Cơ ở với ông chú), và giúp cho ông ta buôn bán, để ngoi lên tầng lớp trên trong xã hội. Làm như vậy, theo thâm ý của Lã Bất Vi, là cốt để Triệu Cơ có một cơ ngơi môn đăng hộ đối đối với vai trò chánh thê, tạo ảnh hưởng trong bách tính; mặt khác, cũng là để mở mày mở mặt cho Doanh Dị Nhân, đồng thời cũng có tác dụng ràng buộc anh ta. Khi làm lễ cưới, kiệu hoa và đồ cưới của Triệu Cơ ra đi từ nhà ông chú, một đoàn người rất dài, đông vui náo nhiệt, đi một mạch đến tận ngôi nhà lộng lẫy mới mua của Doanh Dị Nhân ở phía Nam thành Hàm Đan. Nhờ sự thu xếp của Lã Bất Vi nên lễ cưới của hai người được tổ chức rất long trọng, chẳng khác gì một ngày hội. Các nhân vật tai to mặt lớn trong chính giới và trong thương giới của nước Triệu, các sứ thần và con tin các nước ở Hàm Đan đều đến dự và chúc mừng, khách ngồi chật mâm trên cỗ dưới, ca múa rộn ràng, song hỷ lâm môn. Cô dâu Triệu Cơ cố nhiên là cảm thấy hết sức hạnh phúc, bởi vì cô xuất thân từ nghề ca kỹ, nay được môi giới để trở thành chánh thê của cháu vua Tần. Rõ ràng là Triệu Cơ vui sướng tột đỉnh. Bỗng nàng nhớ lại những ngày ân ái vừa qua với Lã Bất Vi. Lã Bất Vi không những đã từng cưới nàng, mà còn là ân nhân cứu nàng, vì vậy không thể dễ dàng rời bỏ được Vì vậy Triệu Cơ đã nhân lúc mọi người đang vui vẻ trò chuyện rất ồn ào, bước nhanh tới phòng quan khách để gặp Lã Bất Vi. Triệu Cơ cảm ơn và nói lời lưu luyến. Lã Bất Vi tỏ ra rất khoan dung độ lượng, chân tình an ủi: – Nàng còn trẻ, nếu làm thiếp của ta thì uổng phí cả cuộc đời. Nàng vốn có cảm tình với Doanh Dị Nhân, nên ta tác thành cho hai người. Mấy hôm nữa sẽ về triều đình nước Tần, vợ chồng hưởng vinh hoa phú quý; đó mới là nơi quy tụ chính đáng của nàng. Triệu Cơ rất xúc động trước tình nghĩa của Lã Bất Vi cho nên chỉ tay vào bụng đang có https://thuviensach.vn mang của mình, rồi nói một cách rất luyến tiếc: – Nhưng còn cái thai trong này…? – Chính là vì nàng có thai, nên ta mới nghĩ ra diệu kế này. – Chính vào lúc tình nghĩa vợ chồng sắp đi đến hồi cuối này, Lã Bất Vi mới thổ lộ điều thầm kín nhất trong lòng mình. Ông nói tiếp – Doanh Dị Nhân hiện nay là cháu vua Tần, sau này sẽ là thái tử. Ta thì chắc sẽ trở thành thầy học cho thái tử (thái phó), nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là một viên quan rỗi việc tán gẫu mà thôi, chẳng có mấy vai vế! Chi bằng để cho giọt máu cốt nhục của ta và nàng cùng theo nàng vào cung, rồi phải tranh cho được ngôi báu trong cung. Nếu sinh con gái thì sẽ là công chúa, cũng hưởng vinh hoa lộc hậu. Nếu may mắn sinh con trai, thì đó thật sự là trời phù hộ ta đó. Nó sẽ làm vua nước đại Tần, tạo nên danh tiếng muôn đời cho họ Lã của ta đây. Triệu Cơ nghe Lã Bất Vi nói lên mưu lược to lớn của ông, thấy vừa kính phục vừa lo sợ. Nàng băn khoăn rằng nếu bị Doanh Dị Nhân phát hiện ra sự thật thì chẳng phải chuyện chơi, mà tai họa sẽ giáng xuống. Lã Bất Vi kiên tâm khuyên giải: – Nàng mang thai mới ít ngày thôi, chỉ cần bản thân mình không tự nói ra, rồi khéo chiều chuộng, biết xử sự như người vợ yêu, thì anh ta chẳng thể nhận ra đâu. Lã Bất Vi nói tiếp những cách thức cụ thể để Triệu Cơ biết nên làm như thế nào khi chung chăn gối với chồng và giục nàng mau quay về động phòng hoa chúc, đừng để cho Doanh Dị Nhân sinh nghi ngờ và ghen tuông. Quả nhiên, không sai với điều mà Lã Bất Vi dự đoán. Khi Triệu Cơ đang vội vàng bước vào thì Doanh Dị Nhân đã ngồi chờ ở đó từ bao giờ, mặt buồn và giận. Chàng hỏi vợ với vẻ chẳng vui vẻ gì: – Hôm nay là đêm tân hôn [28], cớ sao nàng không chờ ta lại bỏ đi đâu? Triệu Cơ đã chuẩn bị sẵn mọi tình huống rồi, nên đáp lại rất nhẹ nhàng và cung kính: – Theo chàng, thì con người thiếp đã thuộc về chàng; nhưng theo thiếp thì trước hết chàng phải đến nhà thiếp để ở rể. Huống chi, bây giờ thiếp phải đi chào từ biệt nhiều chị em và thầy dạy ca kỹ, toàn là những người mà thiếp đã sống lâu năm với họ, tình sâu nghĩa nặng cả, nay xa nhau rất lưu luyến. Chàng thì đi tiễn khách, thiếp thì đi chào từ biệt, nên về chậm một chút, sao chàng lại nỡ trách thiếp? Doanh Dị Nhân bị vợ thuyết giáo cho một chập, thấy đuối lý bèn nói khéo: – Ta đâu có trách móc gì nàng, chỉ vì đã yêu nhau thì không muốn rời một bước, huống chi đêm nay là đêm tân hôn, một khắc giờ cũng đáng ngàn vàng. – Nói vậy thì còn có cái lý của nó. Thân này sao chẳng muốn sớm hưởng mưa xuân! – Triệu Cơ cũng lựa theo lời của chồng để nói một câu cho đẹp lòng chàng. Để khỏi phải sớm bộc lộ sự việc, Triệu Cơ vội kêu bọn hầu gái đưa canh giải rượu cho chồng, còn mình thì chui vào màn trước, kê cao gối và ôm lấy chăn, kiên nhẫn chờ. Doanh Dị Nhân húp vội bát canh đang nóng, chỉ thấy mùi canh thơm phức và cứ trôi tuột vào bụng, cả người nóng ran, lửa tình hừng hực. Lúc này “tòa thiên nhiên” ở trong màn cũng đã sẵn sàng, chàng thì cũng mê mẩn tâm thần vì đây là lần đầu trong đời được nếm mùi vị của người “trong ngọc trắng ngà”, hoàn toàn chẳng hay biết gì ngoài khoái cảm đang dâng trào tột đỉnh. Tiếp theo là một giấc ngủ rất say. Cuộc giao hoan lần đầu đã trôi qua thật suôn sẻ. Triệu Cơ sờ vào bụng và thở phào nhẹ nhõm. Từ nay, việc chung chăn gối chẳng cần phải canh chừng gì nữa, mọi chuyện cứ để cho nó diễn ra được tự nhiên, không khép nép, không giữ gìn, buông thả hết mình. Hơn một tháng sau, Triệu Cơ mới ghé vào tai chồng thì thầm: – Có lẽ là thiếp đã có tin mừng. Điều này làm cho Doanh Dị Nhân rất vui, chàng liền sờ tay vào bụng nàng và nói đùa: – Nàng thật là một miếng đất quá tốt, chỉ mới gieo mấy hạt mà đã có quả rồi. https://thuviensach.vn – Đó là vì công tử gặp may, còn thiếp thì gặp phúc đó thôi! – Triệu Cơ nói ngon nói ngọt, nhưng trong lòng thì cười mãi. Thực ra Triệu Cơ lấy Doanh Dị Nhân sau khi đã có thai hai tháng. Nếu phải mang thai mười tháng mới sinh, thì Doanh Dị nhân chỉ mới làm cha đứa bé trong bụng Triệu Cơ tám tháng. Nhưng rất may là Triệu Cơ đã sinh muộn, những mười hai tháng sau mới sinh một con trai. Do vậy, đã bảo vệ được danh tiết của mình, lại tháo gỡ được sự dị nghị có thể có sau này của người “cha thiếu tháng”. Vì vậy, đứa bé ấy được quan chép sử viết một cách đàng hoàng vào cuốn “Sử ký. Tần Thủy Hoàng bản kỷ” như sau: “Tháng Giêng năm thứ bốn mươi tám đời vua Tần Chiêu Vương, Tần Thủy Hoàng sinh tại Hàm Đan, tên là Chính”. https://thuviensach.vn HỒI THỨ TƯ VUA TẦN XÉ BỎ THỎA ƯỚC, VÂY HÃM HÀM ĐAN VUA TRIỆU MẮC SAI LẦM, DOANH DỊ NHÂN THOÁT CHẾT T ần Thủy Hoàng Doanh Chính (tên lúc mới đẻ là Triệu Chính) ra đời lúc mà chế độ nô lệ của Trung Quốc đang trong quá trình tan rã, giai cấp thống trị sống rất xa hoa dâm loạn, lại rất hung hăng hiếu chiến, luôn luôn gây sự đánh nhau chí mạng, không ai chịu ai. Đó chính là thực trạng của sáu nước trong bảy nước nổi tiếng của “Thất hùng thời Chiến Quốc” (bảy nước hùng mạnh thời Chiến Quốc)[29], gồm Tần, Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy. Chiến sự liên miên hàng trăm năm đó đã làm cho sáu nước suy sụp về kinh tế, chính trị, quân sự. Duy chỉ có nước Tần hùng cứ phía Tây bắc, là vẫn giữ được thế lực hùng mạnh. Đó là nhờ có thế vững chãi của vùng Hào Sơn và Hàm Cốc lại có đất Ung Châu làm bàn đạp. Trong triều chính thì vua tôi cố kết, đều muốn dòm ngó ngôi thiên tử nhà Chu. Trải qua gần một trăm năm cố gắng liên tục của bốn đời vua Hiếu Công, Huệ Văn Vương, Vũ Vương, Chiêu Vương, nhà Tần đã luôn luôn mở rộng bản đồ nước mình bằng cách xâm canh xâm cư, ăn hiếp các nước chung quanh. Vì thế, lực lượng của Tần ngày càng lo ớn mạnh. Mặc dù Tần đã trao đổi con tin với nước Triệu, đã ký thỏa ước ngừng chiến, nhưng cái thói xâm lược đã trở thành bản tính khó thay đổi, dã tâm hiếu chiến của Tần trở thành một xu thế không có gì ngăn cản nổi. Trao đổi con tin và ngừng chiến chỉ là để tạm thời nghỉ ngơi, củng cố lực lượng. Khi đã phục hồi được kinh tế, đời sống nhân dân đã khá lên, sức mạnh quân sự đã hùng hậu, thì ngựa lại quen đường cũ, hùng hổ gây chiến, xâm phạm lân bang. Ngay từ năm 262 trước Công nguyên, tức năm thứ bốn nhăm đời Tần Chiêu Vương, cũng tức là ba năm trước khi Tần Doanh Chính ra đời, vua Tần Chiêu Vương đã sai Vũ An Quân (tức tướng Bạch Khởi) đưa hai mươi vạn quân tấn công miền Thượng Đảng của nước Hàn, trước hết nhằm chiếm khu vực Dã Vương ở ngoại vi nước Hàn, để cắt đứt con đường nối liền Thượng Đảng (nay là phía Bắc thành phố Trường Trị tỉnh Sơn Tây) và nước Hàn. Phùng Đình, thái thú quận Thượng Đảng, biết rõ cái thế nhỏ hẹp của đất Thượng Đảng rất khó có thể chống cự nổi kiêu binh và dũng tướng của quân xâm lược từ nước Tần tới nhưng ông ta lại quyết tâm không chịu khuất phục nhà Tần. Vì vậy, Phùng Đình sai sứ giả đến Hàm Đan nước Triệu, bày tỏ ý muốn nhường quận Thượng Đảng cho Triệu. Vua Triệu Hiếu Thành không nghe lời can gián của Bình Dương Quân, vồ vập nhận lấy Thượng Đảng. Kết quả là gây nên sự tức giận của vua Tần, Tần quay sang tấn công Triệu. Và sự việc diễn ra không giống như Phùng Đình dự đoán (Phùng Đình cho rằng Hàn Triệu bắt tay với nhau sẽ chống lại được Tần). Thực ra, quân Triệu và quân Tần đã đánh nhau lâu dài ở Trường Bình. Tại đấy, tướng Triệu là Liêm Pha, một lão tướng trí dũng song toàn, uy danh khắp các chư hầu. Liêm Pha thi hành chiến lược lấy phòng ngự để tấn công, lấy “tĩnh” chế ngự “động”; ông kiên trì cố thủ ba năm. Đến năm thứ bốn bảy Tần Chiêu Vương (năm 260 trước Công nguyên), thừa tướng nước Tần là Phạm Thư sai gián điệp đưa hối lộ rất lớn cho cận thần vua Triệu, lại còn phao tin rằng quân Tần chỉ sợ tướng Triệu Quát của Triệu, chứ chẳng sợ gì tướ Liêm Pha. Vua Triệu Hiếu Thành mắc phải mưu kế phản gián của Tần, thay Liêm Pha bằng Triệu Quát. Triệu Quát là con của danh tướng Triệu Xa, một tướng tài dược ban danh hiệu “Mã Phục Quân”. Triệu Quát còn trẻ, tính hiếu thắng, nôn nóng lập công, tuy rất thuộc binh pháp, nhưng không trải nghiệm thực tế. Sau khi được cử ra phòng thủ Trường Bình, Triệu Quát bỏ chiến lược cố thủ và “tiêu hao chiến” của Liêm Pha, tự mình đưa quân xuất kích rất liều lĩnh. Cách đánh đó đã mắc vào mưu của Bạch Khởi: điệu hổ ly sơn, chia cắt để diệt. Bạch Khởi tự mình ra trận nghênh chiến, nhưng giả vờ binh lực mệt mỏi, không dám xông trận, nên cứ rút lui mãi. Triệu Quát thấy quân Tần thua chạy, càng kiêu ngạo tự đắc, thúc quân đuổi riết, đuổi mãi đến một con đường hẻm, hai bên là núi cao. Quân Tần mai phục ở hai bên, bỗng xông ra chém giết, hoàn toàn cắt đứt đường rút lui của quân Triệu. Toàn bộ quân Triệu do Triệu Quát chỉ huy bị vây chặt trong thung lũng đó bơn mươi sáu ngày. Người và ngựa chen chúc nhau, giẫm đạp lên nhau, không ai thoát ra được Triệu Quát vô cùng lo lắng, nhưng vẫn quyết đấu đến cùng, kết cục bị quân Tần bắn chết. Hơn bốn mươi vạn quân Triệu xin hàng. Bạch Khởi nhẫn tâm chôn sống toàn bộ trong hẻm núi đó, gây ra một vụ thảm sát kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh từ cổ chí kim. Triệu Quát tuy đã hiến thân cho đất nước, nhưng đã để lại bài học “đánh nhau trên giấy”[30] cho người đời; và câu nói ấy trở https://thuviensach.vn thành một thành ngữ nhắc nhở hậu thế. Thừa thắng ở Trường Bình, Bạch Khởi tiếp tục tấn công nước Triệu và vây hãm đô thành ở Hàm Đan. Hai bên cầm cự rất lâu ở dây. Tuy nhiên, nước Triệu vừa thất bại thảm hại ở Trường Bình, từ kinh tế đến quân sự đều yếu thế, khó có thể đủ sức để bảo vệ Hàm Đan, nguy cơ mất nước đang đến gần. Vừa lúc ấy, nước Triệu thực hiện kế sách “Dùng phương kế của họ để tị con người của họ”. Tức là sai Tô Đại, một môn đồ (môn khách) của Triệu Thắng (Bình Nguyên Quân) mang theo rất nhiều tiền vàng, bí mật đến thủ đô nước Tần là Hàm Dương, tìm gặp thừa tướng nhà Tần là Phạm Thư. Tô Đại đút lót cho Phạm Thư và gièm pha rằng tướng Bạch Khởi đánh chiếm được Hàm Đan của Triệu, công lao to lớn, vua Tần nhất định trọng dụng Bạch Khởi, và địa vị Phạm Thư sẽ chẳng còn gì là quan trọng. Khi nào Bạch Khởi giữ được chức thừa tướng, thì cảnh ngộ của Phạm Thư chắc là không thể lường trước được. Quả nhiên, Phạm Thư mắc mưu kẻ địch, bèn vội vàng bẩm tấu một cách vô căn cứ với vua Tần rằng, quân Tần chinh chiến đã quá lâu dài, tinh thần quân sĩ giảm sút, quân nhu và tiếp tế quá lớn, làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Hơn nữa, chiến tranh lâu ngày đã gây nhiều oán thán trong dân chúng, ảnh hưởng rất lớn đến an ninh đất nước. Vua Tần đã nhẹ dạ tin ngay lời xiểm nịnh của Phạm Thư, buộc Bạch Khởi rút toàn bộ quân lính về nước. Miếng ăn sắp đến mồm rồi mà còn bị kẻ khác gạt mất, Bạch Khởi hết sức bất bình trước quyết định đó, liền bị giáng chức. Phạm Thư tuy củng cố được địa vỉ của mình, nhưng đã tạo điều kiện cho nước Triệu giữ được Hàm Đan, thoát được họa mất nước. Thế mới hay, cái được, cái mất, cái vinh, cái nhục, luôn luôn đi kèm nhau. Bên này được thì bên kia mất và ngược lại. Cái vòng xoáy ấy cứ biến hóa khôn lường. Đó chính là đặc điểm của giai đoạn lịch sử nói trên. Mặc dù rút quân, nhưng nước Tần vẫn cố giành được một chiến thắng nào đó, nên đã chấp nhận đề nghị của Phạm Thư, trao cho Tô Đại nhiều vàng bạc và gấm vóc, để nhờ ông này thuyết phục hai nước Triệu và Hàn cắt đất cho Tần và hòa giải với Tần. Lúc ấy, Triệu và Hàn đang đứng trước nguy cơ mất nước (do Tần uy hiếp) lại thiếu lực lượng chống Tần, nên khi nghe Tô Đại bày mưu tính kế, liền lập tức nghe theo. Hai nước này đã cắt nhượng cho Tần bảy thành (Triệu sáu, Hàn một). Nếu tính cả quận Thượng Đảng do Tần dã chiếm từ trước, thì đã cho Tần mười bảy quận huyện. Tần rất khoái, vì chẳng mất một mũi tên mà chiếm được bao nhiêu là lãnh thổ nước khác. Do vậy, thỏa ước hòa bình giữa Tần và hai nước Triệu, Hàn được ký kết. Đến năm 257 trước Công nguyên, tức là năm thứ năm mươi Tần Chiêu Vương, khi Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng sau này) vừa tròn hai tuổi, cũng tức là chỉ hai năm sau khi ký thỏa ước nói trên, vị vua Tần “già cả nhưng giả làm trai trẻ” ấy lại hăng máu lên, xé bỏ thỏa ước, sai đại tướng Vương Hột đưa hai mươi vạn quân tấn công nước Triệu. Hơn nữa, Tần Chiêu Vương còn đích thân ra trận đốc chiến, hòng tự mình can dự một chút vào việc xua quân diệt địch, phá thành chiếm đất, bắt vua của Triệu, ra oai ngạo mạn. Thiết triều vừa tan, thái tử An Quốc Quân cùng vợ là Hoa Dương đến thăm vua cha tại phòng ngủ, và tấu xin Tần Chiêu Vương: – Nhi thần bẩm tấu phụ vương, việc ngừng chiến với nước Triệu chỉ mới được hai năm, vậy mà bách tính ra sức cày cấy dệt vải, đua nhau buôn bán, dân mạnh của nhiều, đất nước phú cường. Nay nếu khởi sự đánh nhau e rằng sẽ mất lòng con dân trong nước, lại phá bỏ mất đồng minh với nước láng giềng, xin phụ vương minh xét lại lợi hại… Chiêu Vương trả lời rất rành mạch: – Từ cổ chí kim, dân là để cho vua sử dụng, yếu thì bị mạnh ức hiếp. Liệt tổ liệt tông ta khai phá lãnh thổ biên cương, đó là kế thừa tiền bối và mở đường cho hậu duệ. Nhờ có nuôi nấng bách tính trong nước và mở rộng lãnh thổ… mới có nước đại Tần “hổ ngồi trên núi, chim ưng bay là” như ngày nay. Nếu phụ vương ta đây chỉ biết giữ thành, không biết tấn công, thì lấy gì để về gặp tiên tổ, truyền lại cơ nghiệp cho con cháu? Hoa Dương phu nhân vội tâu: – Phụ vương hùng đồ đại lược[31], phận làm con không dám lên tiếng! Chỉ có điều Doanh Dị Nhân là con thừa tự của con. đang làm con tin ở nước Triều; vả lại đã lấy vợ sinh con. Nếu nước ta tấn công Triệu, chẳng biết an nguy của con mình ra sao, thật đáng ngại lắm thay. Nay vợ chồng chúng con dám xin phụ vương soi xét. https://thuviensach.vn Tần Chiêu Vương không thèm nghe lời khuyên gián của họ, nhẹ nhàng nói rằng: – Ta lại chẳng nghĩ tới đứa cháu Doanh Dị Nhân hay sao? Nhưng nay việc nước đang gấp chẳng lẽ lại chịu thua nước Triệu ư? Vả lại nghe nói vua Triệu gần đây đối xử tử tế với Doanh Dị Nhân, đó chính là vì nước Tần ta cường thịnh. Lần này trẫm thân chinh đưa đại quân đi đánh phạt, nếu vua Triệu dám lấy con tin ra để ép ta, ta sẽ lập tức phá hết thành trì, hủy hết tôn miếu, diệt cả gia tộc, chiếm cả đất đai, đưa chúng đến chỗ không còn đất để chôn. Hãy xem chúng có dám làm cái chuyện tầy trời ấy không nào? – Đã vậy chúng con xin tuân chỉ. Chỉ xin phụ vương gia ân cho phép con được sai mật sứ báo cho Doanh Dị Nhân biết để trốn tránh sớm, đề phòng tai họa. – Thái tử An Quốc Quân cẩn trọng cầu xin. Chẳng ngờ việc này lại làm cho Tần Chiêu Vương nổi giận. Ông ta vung mạnh tay, nói quả quyết rằng: – Việc dùng binh từ cổ đến nay, thứ nhất là thần tốc, thứ nhì là bí mật. Nay nếu người của ngươi sai đi bị sa vào tay quân địch, chẳng những Doanh Dị Nhân khó thoát nạn mà còn làm hỏng việc lớn của đại quốc ta. Ý ta đã quyết, ngươi chớ thêm lời mạo phạm! Vợ chồng An Quốc Quân đành vâng vâng dạ dạ lui ra, chẳng dám hé răng nói thêm nửa lời. Về đến phòng mình, chỉ biết dặn nhau không được nói chuyện này cho bất cứ ai, để tránh sự quở mắng của phụ vương, mặc dù hai người cảm thấy không vừa lòng trước thái độ chuyên quyền độc đoán, ngạo mạn cố chấp của vua cha. Bà Hoa Dương là con người cương trực, hiền hậu, nên vẫn lén đến cung cấm để nói cho Hạ Cơ (mẹ đẻ của Doanh Dị Nhân) biết sự việc vừa kể trên. Hạ Cơ cảm thấy rất bất ngờ, lại rất lo lắng và thương con. Nàng nói: – Trước đây nhờ ơn phụ vương cho phép Doanh Dị Nhân đến gặp em, em khắc cốt ghi lòng cái ơn đó. Nay cớ sao ngang nhiên đánh Triệu mà chẳng thèm nghĩ đến tính mạng của đứa cháu, thẳng thừng vứt bỏ tình máu mủ như vậy ư? Hoa Dương phu nhân tìm cách an ủi Hạ Cơ, bà nói: – Phụ vương cao ngạo hiếu chiến, hùng hổ đã quen, ai làm trái ý, dẫu là con đẻ cũng chẳng tha. Việc đã đến thế này, chỉ còn cách duy nhất là cầu trời phù hộ cho Doanh Dị Nhân được tai qua nạn khỏi, thì nơi cung đình nhà Tần này sẽ được may mắn và chị em ta mới bình an vô sự. – Nói xong, bèn cùng với Hạ Cơ quỳ xuống bái lạy trời xanh, cầu mong ông trời cứu giúp Doanh Dị Nhân. Sau đó hai người chào nhau rồi từ biệt. ** * Lãnh thổ của nước Tần cổ đại là vùng cao nguyên miền Tây Cam Túc hiện nay, hầu hết đều là đất đỏ, chỉ một cơn gió nhẹ cũng tung bụi bay mù, đất cát bao phủ khắp nơi. Quân Tần đông tới hai mươi vạn, hùng hổ hành quân, ngựa chiến rầm rập, chiến xa ùn ùn, bộ binh thần tốc, cờ hiệu rợp trời, đi đến đâu cát bụi tung lên đến đấy, ở xa mười mấy dặm đã nhìn thấy từng đám từng đám mịt mù. Do vậy, dân chúng phải tránh con đường bụi bẩn ấy, người đi buôn cũng vậy, thế là tin tức không cánh mà bay. Quân Tần vừa vượt qua sông Lạc, ở Hàm Đan đã biết tin. Vua Triệu Hiếu Thành hết sức hoảng sợ, vội điều động quân đội, tăng cường phòng thủ, gia cố thành lũy. Nhờ vậy, khi quân Tần áp sát chân thành, quân Triệu đã chống đỡ được mấy cuộc tấn công đầu tiên. Sau đó, vua Triệu cho họp văn võ bá quan, cùng bàn bạc kế hoạch chống Tần lâu dài. Hiếu Thành nhìn khắp một lượt các đại thần đang đứng khom mình ở hai bên, rồi nói với vẻ lo lắng: – Trước đây ta và Tần đã đánh nhau ở Trường Bình, Triệu Quát tử nạn, bốn mươi vạn quân bị chôn sống. Mấy năm nay có tuyển quân mộ lính, nhưng sĩ khí chưa vực dậy được. Nay Tần đưa tướng Vương Hột, dẫn hai mươi vạn đại quân đánh ta, Chiêu Vương còn đích thân đốc trận phía sau, khí thế của họ lớn chưa từng thấy. Mặc dù quân dân ta đã kiên trì cố thủ, tạm giữ được thành trì, nhưng làm sao có thể trụ vững lâu dài, chiến thắng kẻ địch, mong các khanh nói rõ ý mình, cùng nhau hiến kế, sớm định quyết sách. – Thần xin khởi tấu bệ hạ! – Một giọng nói sang sảng vang lên như tiếng chuông đồng. Đó là lão tướng Liêm Pha, nhanh nhẹn bước ra khỏi hàng võ tướng, mũ đen trên đầu, tóc mai điểm bạc, râu trắng phất phơ, dõng dạc tấu trình: – Trận Trường Bình thất bại thảm https://thuviensach.vn hại là do tướng Triệu Quát “đánh trận trên giấy” tùy tiện xuất kích, nên mắc mưu đị. Hàm Đan là kinh đô nước Triệu, quyết không thể mất. Tướng sĩ của ta tuy không thật nhiều, nhưng đều căm thù quân địch. Quân uy sĩ khí của ta đang lên cao là sức mạnh to lớn chống Tần. Tuy nhiên, do quân số hai bên chênh nhau quá lớn, cho nên, bên ta chỉ nên kiên trì cố thủ, không thể khinh xuất nghênh chiến. Thần tuy tuổi già, nhưng xin thề chết chống quân Tần tàn bạo, bảo toàn giang sơn nước Triệu ta. Bình Nguyên Quân tán thành Liêm Pha và nói thêm: – Ngoài việc quân dân nước Triệu ta đồng tâm hiệp lực, bảo vệ đất nước, còn có thể cầu viện nước láng giềng, hợp sức chống Tần. Nếu đơn độc tác chiến, e rằng châu chấu đá xe, chỉ có thể đi nhanh đến diệt vong mà thôi. Tiếp đó là mấy vị đại thần cũng lên tiếng. Tất cả đều dõng dạc khảng khái, nhất trí chủ chiến, kiên quyết chống Tần. Tuy nhiên, vua Hiếu Thành vẫn còn rất phân vân, vì thảm bại Trường Bình vẫn còn in sâu trong tâm trí ngài, nên ngài chưa hết lo lắng. Nhà vua nói: – Ý kiến của các khanh, đều hợp lý cả. Làm như vậy có thể kiềm chế hoặc tránh được mũi nhọn tấn công của quân Tần. Nhưng việc cầu viện nước láng giềng, thì nước xa không dập tắt được lửa gần. Cho nên chỉ bằng phải dùng mưu kế để đánh một đòn quyết đoán, chặn đứng cái thế hung hăng của bọn cuồng chiến. Các khanh có sách lược gì hay về điều trẫm vừa nói? Bình Nguyên Quân lập tức trình tấu: – Bệ hạ suy nghĩ rất phải. Thần thấy có một người có thể đẩy lui quân Tần. – Có con người đó sao? Cớ gì không nói sớm? Mau đi mời người đó đến đây, cùng bàn đại sự. – Các đại thần nhao nhao thúc giục Bình Nguyên Quân. Bình Nguyên Quân có vẻ bí hiểm: – Con người nhỏ mọn ấy, việc gì phải mời, chỉ cần gọi là đến ngay. – Nói xong liền sai bảo bọn thị vệ đứng ở cửa, lập tức cho người đi sửa soạn mọi thứ cần thiết, và sắp đặt sẵn mảnh tre dùng để viết chữ và dao nhọn để khắc. Kể từ khi quân Tần quay lại bao vây Hàm Đan, nước Triệu lại dùng lão tướng Liêm Pha chỉ huy việc bảo vệ, kiên trì cố thủ, không ra nghênh chiến. Trong khi đó, quân Tần từ xa đến, phải qua suối qua đèo, người ngựa đều mệt, sức mạnh suy giảm, phải kéo dài việc cầm cự. Về phía Doanh Dị Nhân, do làm con tin lâu ngày, đứng trước tình hình lộn xộn của nước Triệu, biết rõ mình đang lâm nguy. Khi quân Tần áp sát chân thành, quân Triệu ra sức chống trả. Doanh Dị Nhân không dám bước ra khỏi nhà, không dám gặp bạn bè, không tham dự tiệc tùng, chỉ đóng cửa ngồi im, co ro một xó. Ngay dù có vợ yêu chiều chuộng, con nô đùa bên cạnh, cũng cứ mặt ủ mày chau, chẳng khác người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng từ sáng đến tối. Trước đó không lâu, thái tử Đan của nước Yên cũng đến Hàm Đan để làm con tin. Vị thái tử này được nhiều người ở thủ đô nước Triệu rất tôn kính vì ngài rất cao thượng và hào phóng. Khi nghe tin Doanh Dị Nhân đang ở trong tình thế rất khó khăn, thái tử Đan rất thông cảm và thương tình, nên luôn đến thăm, an ủi và động viên Doanh Dị Nhân. Khi quân Tần sang đánh Triệu, toàn thành Hàm Đan vùng lên chống Tần quyết liệt, thái tử Đan lại càng hay đến thăm Doanh Dị Nhân, nhằm giúp công tử nước Tần bớt căng thẳng. Hôm nay, thái tử nước Yên đang ngồi nói chuyện với Doanh Dị Nhân, bỗng có hai lính thị vệ của hoàng cung xông vào nhà, cao giọng nói với Doanh Dị Nhân: – Này, tên con tin của quân địch kia, mau đi theo ta! – Xin hỏi quan thị vệ, tôi phải đi đâu ạ? – Doanh Dị Nhân hỏi với vẻ hốt hoảng. – Hỏi thì được cái gì, khắc có chỗ cho nhà ngươi đến. – Lính thị vệ trả lời gắt gỏng. Nói chưa xong đã dấn xốc nách Doanh Dị Nhân đi nhanh ra ngoài. Thái tử Đan muốn an ủi Doanh Dị Nhân mấy câu, nhưng không kịp nữa rồi, chỉ nghe tiếng công tử nước Tần nói vọng lại: https://thuviensach.vn – Nhờ thái tử báo gấp cho thầy học của đệ là Lã Bất Vi rằng chú ý săn sóc người nhà của tiểu đệ! Tiếng nói xa dần. Thái tử Đan vội vàng vào trong nhà trong để nói cho Triệu Cơ biết chuyện vừa xẩy ra, căn dặn hai mẹ con nàng nhất thiết phải bình tĩnh. Sau đó, thái tử Đan cấp tốc đi tìm Lã Bất Vi, bàn cách cứu Doanh Dị Nhân. Doanh Dị Nhân bị hai lính thị vệ xốc nách hai bên, vừa đi vừa nhảy như con lật đật dọc đường, cuối cùng cũng đến Tùng Đài, nơi mà vừa mới đây anh ta còn tham dự bữa tiệc với tư cách là khách mời của triều đình, nay thì chỉ là thân phận của một tên tù bị xét hỏi. Doanh Dị Nhân ruột đau như cắt, hai mắt lệ tuôn như suối, luôn luôn phải đưa tay áo lên chùi. Bỗng nghe thấy tiếng vua Hiếu Thành quát hỏi: – Này con tin Doanh Dị Nhân, nhà ngươi có biết tội gì không? Doanh Dị Nhân này đến quý quốc đã mấy năm, đã cố gắng kiệt sức vì mối bang giao hòa mục giữa hai nước. Tuy không có công lớn, nhưng cũng không có tội gì. Xin bệ hạ minh xét Trải qua hơn hai mươi năm sống trong vòng xoáy của mâu thuẫn gay gắt, phức tạp giữa hai nước, Doanh Dị Nhân đã hiểu được và cũng đã học được sách lược đấu tranh “khi không có việc gì thì chớ bạo dạn, khi có việc thì cần bạo dạn” (“vô sự nghi đảm tiểu, hữu sự nghi đảm đại”). Giờ đây, chiến sự hai nước đang ở lúc quyết liệt nhất, Doanh Dị Nhân thấy không thể đánh mất tư cách cháu vua (vương tôn) một nước lớn, bèn trả lời vua Triệu một cách mạch lạc, có lý có lẽ. Vua Triệu chợt nghĩ, cũng thấy chẳng cần gì phải bàn cái công tội của Doanh Dị Nhân, bèn nói toạc ra rằng: – Việc đó hãy tạm gác lại đã, nay ông nội nhà ngươi lại xé bỏ thỏa ước đồng minh, đưa binh lực đến vây hãm đô thành của ta, hai nước đã trở thành thù địch. Doanh Dị Nhân vội bày tỏ thái độ của mình: – Bạn thù thay đổi, chiến hòa thất thường, đó là chuyện luôn luôn xẩy ra giữa hai nước, Doanh Dị Nhân này xưa nay không hề can dự vào những việc đó, tự vấn lương tâm cũng thấy thanh thản. – Nói cái gì mà tự vấn lương tâm cũng thấy thanh thản? Đã làm con tin thì phải có trách nhiệm chứ. – Thừa tướng Bình Nguyên Quân nói thêm vào để làm tăng sức nặng lời phán của vua Triệu (Việc xét hỏi này, đã được chuẩn bị từ trước). Doanh Dị Nhân thản nhiên đáp: – Doanh Dị Nhân tự biết rằng đã làm con tin của một nước, lúc hòa là bạn, lúc đánh là thù. Nay là người tù, chẳng biết còn có trách nhiệm gì nữa! – Con người của ngươi ở đây, cũng chẳng đáng là cái gì. Nhưng với tư cách là con cháu vương triều đương đại, ắt phải có vai trò không nhỏ. Vì vậy phải viết một bức thư cho tướng Tần Vương Hột, giục hắn ngừng chiến giải vây. Nếu được vậy ta sẽ cho xe chở cả nhà công tử trở về Hàm Dương, hai nước lại thân thiện với nhau – Vua Triệu đặt điều kiện với Doanh Dị Nhân. Ngài nói ôn tồn. Doanh Dị Nhân trả lời ngay, thái độ tích cực: – Phàm việc gì trên đời cũng nên dĩ hòa vi quý. Đó là triết lý của tiền nhân, và Doanh Dị Nhân tôi cũng mong muốn như thế. Huống chi sự việc hôm nay vừa có ích cho bang giao hai nước, lại có can hệ đến an nguy của cả nhà tôi. Nếu sớm biết quý quốc có chủ trương đó thì cần gì phải phiền đến thị vệ đón tôi. Chỉ cần có khẩu dụ, là hạ bút xong ngay. – Vậy thì xin hạ bút! – Thừa tướng Bình Nguyên Quân vội ra lệnh cho bọn thị vệ bày bàn, đặt mảnh tre và dao khắc lên bàn, để Doanh Dị Nhân khắc chữ. Nhờ không khí hòa dịu, nên tâm trạng của Doanh Dị Nhân vốn rất căng thẳng, hoang mang nhưng rồi dần dần trấn tĩnh lại, hơn nữa, còn cảm thấy tự tin đối với địa vị và năng lực của mình. Suy nghĩ giây lát, Doanh Dị Nhân cầm lấy con dao và bắt đầu khắc chữ. Vì đã có sự chuẩn bị trước về nội dung bức thư, nên Doanh Dị Nhân nhanh chóng đưa ngọn https://thuviensach.vn dao vào mảnh tre. Mọi người chung quanh chỉ nghe thấy tiếng rạch vỏ tre sột soạt, một lát sau là viết (khắc) xong. Doanh Dị Nhân trao bức thư cho thừa tướng Bình Nguyên Quân, để ông này đọc cho nhà vua nghe: Kính gửi tướng quân Vương Hột, Được biết hai nước Tần, Triệu gần đây lại bất hòa, ngài đưa quân tấn công nước Triệu, Hàm Đan nguy cấp. Thừa hành chiếu dụ của Triệu Vương, nay viết thư này cho tướng quân, xin giải tỏa ngay việc bao vây, trở lại hòa hiếu như xưa. Nếu không, tướng sĩ hai nước không tránh khỏi thương vong, sinh linh phải bị hủy diệt. Doanh Dị Nhân ta đang làm con tin, khó bảo toàn tính mạng, vợ con vô tội cũng làm mồi cho cá. Đây là việc rất đau buồn, xin tâu trình gấp lên đức vua bệ hạ (nguyên văn: “tổ vương”, tức vua – ông nội). Nếu rủ lòng thương, chấp nhận tấu trình, là vận may to lớn cho hai nước; là vận may rất lớn của cả nhà Doanh Dị Nhân. Con tin Doanh Dị Nhân kính thư. Vua Triệu nghe xong mỉm cười gật đầu, nói: – Nếu ông nội công tử cũng có tình có nghĩa như công tử thì có hy vọng hai nước sẽ hòa hiếu trở lại. Tiếp đó, vua Triệu bảo Bình Nguyên Quân lấy danh nghĩa quốc gia để viết công văn cho tướng Vương Hột để nhờ tướng này chuyển lên Tần Chiêu Vương. Công văn nói vua Triệu cũng có sự mong muốn như công tử Doanh Dị Nhân, và bảo hôm sau phải sai sứ đưa công văn đó đến doanh trại quân Tần. Trước khi bãi triều, vua Triệu nói với Doanh Dị Nhân: – Cả hai bên cùng ra tay, mới mong sớm có hiệu quả. Thừa tướng lại bảo hai viên thị vệ đưa Doanh Dị Nhân về nhà. Mỗi bên đều dự kiến, chỉ mấy ngày nữa là có tin mừng. Trên đường quay về nhà, Doanh Dị Nhân nhớ lại việc viết thư vừa rồi và cảm thấy đây là sự việc có giá trị nhất của mình trong hai mươi năm qua, trong việc phụng sự đất nước, thúc đẩy việc chung sống hòa bình giữa Tần và Triệu. Tự nhiên, Doanh Dị Nhân thấy rất vui nhưng lại nghĩ, không biết bây giờ mẹ con Triệu Cơ ra sao? Ở đâu? Hay là đã đến nhà Lã Bất Vi? Nghĩ đến đây, Doanh Dị Nhân cất bước nhanh hơn, đến nỗi hai viên thị vệ phải luôn luôn kêu lên và yêu cầu công tử đi chầm chậm lại. – Lúc ta đi thì các ngươi vừa nghi ngờ vừa sợ hãi, lôi xềnh xệch như kéo thuyền dọc bờ sông, sao lúc ấy không đi chầm chậm. Bây giờ quay về vừa vui vừa vội, giống như thuyền xuôi theo dòng nước chảy, cho nên càng đi càng nhanh mới phải chứ. Khi nào Doanh Dị Nhân cao hứng lên, thì nói năng vui vẻ pha cười, làm cho hai viên thị vệ cũng cười theo. Khi Doanh Dị Nhân bước vào nhà với tâm trạng rất sốt ruột, thì thấy nô tỳ và đầy tớ đang có vẻ kinh hoàng hoảng hốt, chẳng biết làm gì. Nhất là cánh cửa của phòng trong đang đóng chặt, có tiếng kêu khóc của đàn bà con gái ở trong phòng vang ra ngoài. Doanh Dị Nhân vội tìm mọi cách để mở cửa phòng ra, thì thấy Triệu Cơ đang bế Triệu Chính (sau này là Tần Thủy Hoàng) và khóc lóc, lại còn đang giơ tay để nhặt dây chuyền bằng hạt trân châu. Trong khi đó thì Lã Bất Vi và thái tử Đan đang vội vàng gói ghém quần áo, đồ đạc trong phòng rất lộn xộn. Doanh Dị Nhân vội kêu to: – Thôi, dừng tay lại. Dừng tay lại! Các người đang làm cái gì thế này? Lúc ấy, mọi người mới để ý thấy Doanh Dị Nhân đã về, họ vội vàng bỏ đồ đạc trên tay xuống, và hơi ngỡ ngàng. Một người hỏi: – Công tử đã về đấy ư? Triệu Cơ vội chạy ngay đến và sà vào lòng công tử, vừa nức nở vừa hỏi rất thương tâm: – Công tử, chàng bị bắt đi đến tận đâu? Doanh Dị Nhân cũng rất xúc động, cũng nước mắt lưng tròng, vừa xoa vào mái tóc của vợ yêu, vừa nói rất ôn tồn: https://thuviensach.vn – Chẳng phải là ta đã về đây một cách đàng hoàng đó sao? Còn khóc cái nỗi gì nữa? Tiếp đó, Doanh Dị Nhân kể lại những điều vừa diễn ra tại Tùng Đài, ở đó, theo gợi ý của vua Triệu, Doanh Dị Nhân dã viết thư cho tướng Vương Hột, kêu gọi ngừng chiến, giải vây. Đến đây, mọi người mới vỡ nhẽ, và vui mừng hẳn lên. Triệu Cơ đưa con trai cho Doanh Dị Nhân bế, và kể lại sự việc sau khi Doanh Dị Nhân bị lính thị vệ giải đi, thái tử Đan đã báo tin đó Triệu Cơ và nàng đã lập tức tìm Lã Bất Vi để bàn cách cứu công tử. Theo Lã Bất Vi, thì cung đình đã đưa lính thị vệ đến, chắc là sẽ đưa công tử đến hoàng cung hoặc triều đình, như vậy, trước mắt có thể chưa có nguy hiểm gì đối với tính mạng. Chỉ sợ sự việc sẽ diễn biến xấu và sẽ có tai họa đến vợ con. Vì vậy, Lã Bất Vi đã vội vàng giúp Triệu Cơ thu vén một ít đồ đạc gọn nhẹ, tạm đến lánh ở nhà Lã Bất Vi; sau đó, tìm hiểu tình hình của công tử, rồi tìm cách cứu công tử. Không ngờ công tử lại về được sớm như thế này, lại còn làm được một việc có lợi cho việc ngừng chiến và vãn hồi hòa bình, thật sự làm cho mọi người rất mừng, quên cả mệt nhọc. Lúc này, Doanh Dị Nhân vội đi ra ngoài, nói với các nữ tỳ v đầy tớ đừng lo lắng gì nữa, phải bình tĩnh lại; phải giúp Triệu Cơ thu dọn, sắp xếp đồ đạc lại như cũ. Lại còn bảo người làm bếp chuẩn bị bừa cơm thịnh soạn để thết đãi tạ ơn thầy giáo Lã Bất Vi và thái tử Đan. – Hôm nay công tử tuân chỉ nhà vua để viết thư, là một dấu hiệu mở đầu rất tốt. Vua Triệu cũng có thư cho quân Tần để cầu hòa và ngừng chiến, thiết nghĩ rằng tướng quân Vương Hột sẽ không từ chối – Triệu Cơ vừa bế và nựng con vừa nói. Thái tử Đan nhắc nhở nàng: – Từ lâu ta đã nghe nói Vương Hột hiếu chiến, tham vọng lập công, nhưng những năm gần đây chẳng làm nên trò trống gì. Nay được thăng cấp làm chủ soái, chắc sẽ thừa dịp đánh chiếm Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu giành lấy công to, lấn lướt vương triều, sao có thể dễ dàng ngưng chiến và giải vây? – Thái tử nói chí phải… – Lã Bất Vi đặt mạnh cốc rượu xuống chiếu, tỏ ra rất đồng ý với cách nhìn của thái tử Đan. Lã Bất Vi còn nhấn mạnh – Huống chi mấy chục năm qua, Tần Chiêu Vương luôn luôn hiếu chiến, thường dốc toàn lực ra tiến hành chiến tranh. Lần này lại xé bỏ thỏa ước đồng minh, lại còn ngự giá thân chinh đốc chiến, đang ở cái thế không diệt được Triệu sẽ không chịu buông tay. Vương Hột đi tiên phong phía trước, nhà vua đi phía sau làm hậu thuẫn cho Vương Hột. Đây thật sự là “kẻ đến thì chẳng tốt gì, người tốt thì không đến”. E rằng một vài lá thư không lay chuyển nổi ý đồ ban đầu của họ. – Nghe ngài nói vậy, thật không ai trong giới thương trường lại có những cao kiến như thế. Đó mới là cái tài kinh bang tế thế của bậc thừa tướng, đại tướng. Khâm phục lắm thay! – Thái tử Đan nói xong,ọ nâng cốc chúc rượu Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cũng nâng cốc chúc lại thái tử Đan, và nói rất khiêm tốn: – Thái tử quá khen! Doanh Dị Nhân nghe hai người nói chuyện, thầm hiểu sâu sắc rằng Lã Bất Vi có con mắt nhận biết sự việc sắc bén, rất tinh vi và chính xác, tầm nhìn rất rộng lớn. An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân bảo mình phải coi ông ấy làm thầy, thật là biết dùng người. Còn thái tử Đan vốn là con người có ý thức về những sự nghiệp chính nghĩa, từng rất thông cảm với hoàn cảnh của mình (Doanh Dị Nhân), rất quan tâm tới mình. Hôm nay, ông ấy đến đây, vô tình gặp phải sự việc đột biến, thấy mình gặp nạn, sinh lòng trắc ẩn, nói năng chân tình, ra sức cứu giúp. Hai vị ấy quả là “lương sư ích hữu (“thầy tốt bạn tốt”) rất hiếm có. Chẳng những là những người có thể làm bạn tri kỷ trong hoạn nạn, mà còn là chỗ dựa vững chắc nhất của mình trong con đường dựng nghiệp từ nay về sau. Nghĩ đến đây, Doanh Dị Nhân cảm thấy rất vui, liên tục chúc rượu và gắp đồ nhắm cho hai người. Cả ba người nói chuyện rất rôm rả, hầu như chẳng còn biết gì đến tình hình chiến sự và hoàn cảnh khó khăn đang diễn ra rất căng thẳng. * * Lúc này, hơn mười vạn quân Tần đang khép chặt vòng vây chung quanh thành Hàm Đan, một đô thành rộng mấy chục dặm vuông. Trong nội thành, lão tướng Liêm Pha chỉ huy quân đội rất nghiêm, kỷ luật chặt chẽ. Lão tướng nói năng rất nghiêm khắc, mặc dù trong lòng ngài luôn luôn giàu tình thương người. Ngài kiên tâm giải thích cho tướng sĩ https://thuviensach.vn phải xóa bỏ ý muốn cấp tốc diệt địch để trả thù; không thể nôn nóng như vậy, mà phải kiên nhẫn cố thủ, tăng cường canh phòng, nêu cao cảnh giác, quyết không ứng chiến, mặc cho quân Tần cố tình khiêu khích, kêu gào. Trong lúc ấy, với tư cách là đại soái quân Tần, Vương Hột vừa lo rằng để lâu sẽ không đánh chiếm được Hàm Đan, thì sĩ khí quân lính sẽ giảm sút, lòng quân dao động; nhất là phía sau lại có vua Tần Chiêu Vương đốc chiến, nếu mình không có tiến triển gì, chắc sẽ bị khiển trách là tác chiến chậm chạp… Vương Hột càng nghĩ, càng sất ruột, lo lắng không yên. Hôm nay, bầu không khí trong lán chỉ huy quân Tần đang vắng lặng, bỗng mấy tên lính gác cửa dẫn viên sứ giả nước Triệu đi vào xin gặp. Bất kể đến gặp về việc gì đi nữa, thì đây cũng là dấu hiệu của một biến chuyển gì đó, cứ coi như là một thay đổi đối với tướng Vương Hột. Vương Hột lập tức sửa lại cổ áo rồi ngồi thẳng dậy, chờ tướng dưới quyền “trung quân” đưa bức thư bằng tre đến cho mình. – Ồ, một lúc có những hai bức thư. Chuyện này thật chẳng nhỏ chút nào! Vương Hột nói một mình và giở thư ra đọc. Trước hết ông ta xem thư của vua Triệu, bất giác bĩu môi, ông ta cho rằng vua quan nhà Triệu bắt đầu hết hơi rồi, nên mới cầu xin ngừng chiến; còn việc bằng lòng trả lại con tin, chẳng qua chỉ là té nước theo mưa, đẩy thuyền theo gió mà thôi. Điều cốt yếu nhất là phải đánh chiếm được Hàm Đan, từ đó cứu được Doanh Dị Nhân. Đó mới là chiến thắng lớn nhất để có thể xin vua Tần Chiêu Vương ban thưởng công trạng. Cho nên, ông ta không trả lời dứt khoát bức thư của vua Triệu. Ông chuyển sang xem bức thư thứ hai, coi trong đó có gì mới hay không, để có thể lựa chọn và quyết định. – Cái anh Doanh Dị Nhân này mới lạ chứ! Lúc đạiT quân ta sắp chiếm được thành đến nơi rồi, lại không biết đường mà thừa thắng để thúc ép vua Triệu đầu hàng, còn quay ra khuyên ta giảng hòa giải vây. Chỉ lo cho tính mạng của bản thân và vợ con, thật xấu hổ với thân phận cháu vua Tần! Vương Hột không những không thông cảm với cảnh ngộ và ý đồ tốt lành của Doanh Dị Nhân, mà còn cho rằng anh ta đang ngáng trở công việc của mình, cho nên tức giận và vứt trả lại hai bức thư. Còn nói: – Bản soái lần này đến đây là cốt để lấy cho được Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu các ngươi. Vì vậy, ta chỉ tiến không lùi. Nếu chủ nhân các ngươi biết điều thì mở cổng thành ra hàng. Như vậy, kết cục sẽ được thể diện hơn. Bằng không, ta sẽ không sợ phải hy sinh, quyết đánh chiếm cho được đô thành này. Lúc ấy, tính mạng của vua quan và bách tính các ngươi sẽ giống như số phận ở trận Trường Bình năm nào. Đi đâu và làm gì, các ngươi phải nhanh chóng quyết định. Bản soái không thể chờ lâu nữa! – Nói xong còn khoát mạnh tay áo và quát lớn – Lại còn không cút đi cho rảnh mắt ta! Sứ giả của Triệu sợ sệt cúi đầu cụp đuôi lui ra. Sau khi sứ giả của Triệu ra về, tướng “trung quân” nhặt hai bức thư và nói với Vương Hột: – Thưa tướng quân, tuy nói rằng “tướng ngoài mặt trận có thể không nghe lệnh vua” nhưng xem ra vua Triệu và cháu vua Tần là Doanh Dị Nhân đều có nói rõ cầu xin Tần Chiêu Vương bệ hạ xem qua những thư này. Nay tướng quân trả lại thư ngay tại chỗ, nếu vì vậy mà hại đến tính mạng công tử và vợ con thì… – Ôi! Bệ hạ từ lâu đã coi Doanh Dị Nhân là đồ bỏ đi rồi, không cần lo gì chuyện mất hay còn nữa. – Vương Ht trả lời rất kiên quyết. Trung quân vẫn kiên nhẫn nhắc lại: – Nếu bệ hạ lại muốn sử dụng lại đứa cháu bỏ đi đó, làm diệu kế để chiếm nước Tần bằng mưu, hoặc là bằng lòng ngồi lại thương lượng với nước Triệu chẳng hạn. Theo mạt tướng (tướng hạng bét), thì cứ tấu trình thánh thượng cái đã. Việc này có liên quan đến tính mạng của người kế vị thái tử chứ chẳng chơi, nên thận trọng một chút thì hơn. Vương Hột suy nghĩ một lúc, thấy viên tướng dưới quyền nói có phần nào hợp lý, bèn sai kỵ binh đi nhanh đưa hai bức thư cho Tần Chiêu Vương ở phía sau. Còn sai quân phía trước dùng cung bắn một bức thư vào thành Hàm Đan, bảo vua quan nước Triệu cứ chờ trả https://thuviensach.vn lời. Do vậy, tình hình căng thẳng dịu dần xuống. Mặc dù lực lượng hai bên, trong và ngoài thành, vẫn đều đang khẩn trương chuẩn bị tác chiến, nhưng cục diện và lòng người thì đỡ căng hơn. Nhất là cả nhà Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi, thái tử Đan đều cảm thấy yên tâm và vui mừng vì tạm được sống bình an và tự do. Họ mong rằng lá thư tràn đầy nhân đức của Doanh Dị Nhân có thể làm cho ông nội, là vua Tần Chiêu Vương phải suy nghĩ lại, và như vậy, may ra sẽ có thể “biến gươm đao thành cuốc cày”[32]. Mọi người mỏi mắt trông chờ hơn một tháng mới có chỉ dụ phúc đáp của Tần Chiêu Vương. Đúng như vị tướng “trung quân” dự đoán: lúc mới đầu thì Tần Chiêu Vương coi đứa cháu Doanh Dị Nhân là một vật thế chấp rẻ tiền, chẳng bao giờ hỏi han tới, càng không nghĩ tới việc chuộc anh ta về. Nay đưa quân hòng nhanh chóng tiêu diệt Triệu, nhưng mãi vẫn không chiếm được Hàm Đan. Ngài e ngại rằng nếu chiến sự kéo dài, quân sĩ sẽ sinh ra chán nản. Hơn nữa, nếu lại có nước khác đưa quân đến giúp Triệu, thì tình hình sẽ bất lợi cho Tần… Nay lại có hai bức thư tre do Vương Hột đưa trình. Trong thư, vua Triệu khẩn thiết xin hòa và còn dựa vào cái thế “thượng phong” là đang nắm giữ con tin Doanh Dị Nhân để ép nước Tần giải vây và giảng hòa. Tần Chiêu Vương cũng nhân cái đà đó, viết thủ dụ cho Vương Hột, tỏ ra chấp nhận ý đồ của vua Triệu. Trong đó, ông ta (Chiêu Vương) viết rằng Doanh Dị Nhân đã là con trưởng của Hoa Dương phu nhân, có quyền kế vị thái tử An Quốc Quân, vì vậy nhà vua và toàn bộ vương triều nhà Tần rất coi trọng công tử Doanh Dị Nhân. Nay nước Triệu muốn ngừng chiến và giảng hòa, nhà vua cũng đồng ý, nhưng trước hết phải đưa công tử về nước Tần đã, để chứng tỏ lòng thành của quý quốc. Nhận được chỉ dụ nói trên của nhà vua, Vương Hột hiểu ngay, và tỏ ra rất khâm phục sự hiểu biết và kiến nghị của “trung quân”, bèn lấy danh nghĩa đại nguyên soái quân Tần viết thư trả lời thừa tướng nước Triệu là Bình Nguyên Quân. Trong thư nói rằng, tuân theo ý chỉ của vua Tần Chiêu Vương, nước Triệu phải “trước lễ, sau binh”, tức là phải đưa gấp Doanh Dị Nhân về doanh trại quân Tần, sau đó mới bắt đầu đàm phán. Nếu không, sẽ kiên quyết dùng vũ lực Sau khi nhận được thư phúc đáp, vua quan nước Triệu vội họp bàn đối sách. Tại cuộc họp, có người cho rằng, vua Tần đã bày tỏ ý muốn đàm phán giảng hòa, chi bằng cứ trả cả nhà con tin Doanh Dị Nhân về nước, sau đó đàm phán. Đó là con đường ngắn nhất để cứu nước Triệu khỏi nguy cơ mất nước, khôi phục hòa bình và bang giao hai nước. Lão tướng Liêm Pha, con người mưu lược sâu xa, đã thẳng thừng bác bỏ cách suy nghĩ ngây thơ ấu trĩ đó. Ông vạch ra rằng, xưa nay “dùng binh thì phải lừa”; nhất là vua Chiêu Vương nhà Tần, con người rất thất thường, trở mặt như lật bàn tay, gian trá khó lường. Cho nên hoàn toàn không thể nhẹ dạ cả tin vào lời hứa lần này của vua Tần, vừa phải tăng cường chuẩn bị chiến tranh, để đI phòng những cuộc tấn công ác liệt hơn. Vua Hiếu Thành và các đại thần có mặt đều tán thành ý kiến của Liêm Pha, và cùng nhau bàn về sách lược tiếp tục chống Tần. Trải qua bàn bạc sôi nổi, mọi người thống nhất như sau: trước hết, không thể có ảo tưởng đối với nước Tần mà phải bày tỏ bằng thái độ cứng rắn cho họ biết nước Triệu không hề yếu hèn mà kiên quyết chống nước Tần tàn bạo. Vì vậy, người phải chịu đòn dầu tiên là Doanh Dị Nhân, anh ta phải bị áp tải lên đoạn đầu đài (giá chặt đầu). Đại tướng Liêm Pha phụng chỉ sai tướng Lý Đồng đưa bốn tên đao phủ và một đội lính tuần, áp giải Doanh Dị Nhân đi khắp phố phường Hàm Đan. Doanh Dị Nhân mặc áo tù màu đỏ từ đầu đến chân, trước ngực mang một tấm biển có đề mấy chữ rất to “Tử tù Doanh Dị Nhân. Con tin của Tần”. Mấy người cầm thanh la đi đầu, tiếng thanh la kêu inh ỏi, não nùng. Người Hàm Đan đổ ra đường ngày càng đông, họ chen chúc hai bên đường mà đoàn áp tải tử tù đi qua, bày tỏ lòng căm thù đối với quân Tần xâm lược. Doanh Dị Nhân bị bao trùm trong không khí khủng bố khủng khiếp, sợ run bắn người lên, toàn thân rất lạnh nhưng toát đầy mồ hôi. Sau khi đi một lượt khắp mọi xó xỉnh trong thành, Doanh Dị Nhân được đưa lên lầu thành. Lúc ấy, tướng Lý Đồng đứng trên một trạm gác cao, ở cạnh “tử tù” (xung quanh thành Hàm Đan có bốn trạm gác cao như thế), gọi rất to cho quân Tần đang vây thành ở ngoài rằng: – Doanh Dị Nhân, cháu vua các người, nay là tù nhân của nước Triệu, đã bị kết tội tử hình. Nếu các người tiếp tục tấn công vào thành, Doanh Dị Nhân sẽ bị chém đầu, dùng máu của y để tế cờ và ăn thề, quyết huyết chiến với bọn xâm lược các người đến cùng. https://thuviensach.vn Vương Hột nghe binh sĩ ở phía trước về báo tin đội mũ mặc giáp, rồi lên ngựa đến chân thành để xem xét tình hình. Mặc dù Vương Hột chê trách Doanh Dị Nhân là một kẻ ươn hèn tham sống sợ chết, làm ô nhục quốc gia, nhưng xét cho cùng thì vẫn là cháu của quốc vương, lại đang sắp bị chém đầu rồi; cho nên, ông ta không khỏi băn khoăn, lo lắng. Nghĩ vậy, bèn thúc ngựa về bản doanh và ra lệnh cho binh lính không ai được đứng xem, càng không được có bất cứ hành động gì. Vì ông sợ rằng nếu gây ra một sự việc gì đó có tính chất đe dọa đối phương, thì nước Triệu sẽ lập tức giết Doanh Dị Nhân. Dù sao thì việc đó cũng là một sự hy sinh không cần thiết của nước Tần. Người đời có câu “Trời không bao giờ bịt hết mọi con đường của con người”. Thời gian mà Doanh Dị Nhân bị áp tải đi rong ngoài đường phố rồi lên thành lầu để từ biệt quân Tần cũng khá lâu. Chính trong lúc ấy, Lã Bất Vi và thái tử Đan đã kịp đến gặp vua Triệu ở cung đình, tâu với Hiếu Thành rằng cách làm như vậy là thất sách. Vua Hiếu Thành nói, không làm như vậy sẽ không ngăn cản được khí thế hùng hổ của quân Tần, không đủ để khích lệ tinh thần và quyết tâm của quân dân Triệu đứng lên kiên quyết chống Tần đến cùng. Lã Bất Vi và thái tử Đan vạch rõ rằng, Doanh Dị Nhân đã bị coi như một người vứt đi, nên mới đưa đến Triệu. Còn việc được nhận làm con trưởng để kế vị thái tử An Quốc Quân, là việc của Hoa Dương phu nhân; bà này muốn củng cố địa vị của mình ở đông cung nên mới làm như vậy. Do đó làm cho uy thế của Doanh Dị Nhân tăng lên, thực ra đó chỉ là hữu danh vô thực. Bởi vì An Quốc Quân có những hai mươi mấy đứa con, dù cho Doanh Dị Nhân không còn nữa, thì tìm một đứa khác, dễ như không. Nhưng nay nhà vua làm như thế là bịt hết mọi con đường hòa giải, Tần vương có thể lấy cớ trả thù cho cháu mình để dấy lên cuồng vọng chiến tranh trong tướng sĩ và dốc toàn lực đánh Triệu. Như vậy, thành Hàm Đan vốn đã nguy khốn trăm bề, liệu còn có thể giữ được nữa hay không? Lúc đó, xã tắc và tôn miếu của nước Triệu sẽ biến thành của nước Tần. Đáng sợ biết bao? Nguy hiểm biết bao. Vua Triệu vội đứng dậy, chắp hai tay, nói lời cảm ơn: – Cảm ơn hai vị chỉ giáo. Nếu hai vị không nhắc nhở, trẫm đã phạm sai lầm lớn rồi! Tiếp đó, nhà vua sai thị vệ cung đình phi ngựa ngay đến bảo Lý Đồng dừng tay lại, không đưa Doanh Dị Nhân lên đoạn đầu đài nữa, mà đưa về chỗ cũ ở ngoại thành Hàm Đan, giam vào nhà tử tù, và tùy theo tình hình tác chiến với Tần để xử trí sau. Mặc dù Doanh dị Nhân dã từ chỗ cận kề với lưỡi hái tử thần, nay được cứu sống quay về, nhưng chưa thoát khỏi nguy hiểm. Nếu chiến sự còn tiếp diễn, thì tính mạng của Doanh Dị Nhân chỉ là nghìn cân treo sợi tóc. Để cho Doanh Dị Nhân thật sự an toàn, Lã Bất Vi đã tỏ ra hết sức xuất sắc và can trường. Ông đã làm như sau: Nhân lúc vua Tần Chiêu Vương chưa có phản ứng gì khi biết Doanh Dị Nhân đã bị kết tội là tử tù, sắp bị xử chém; do đó, cục diện chiến sự tạm lắng xuống, vua Triệu cũng đang ở trong tâm trạng bình thường; Lã Bất Vi bèn đến xin gặp vua Triệu. Trước mặt vua Hiếu Thành, Lã Bất Vi tỏ ra rất đau buồn. Ông nói rằng, Doanh Dị Nhân tuy đã được miễn tội chết, nhưng vẫn lành ít dữ nhiều. Bản thân Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân có quan hệ thầy trò, huống hồ Triệu Cơ lại do ông tự đứng ra xe duyên cho Doanh Dị Nhân, quan hệ ba bề bốn bên. Trước khi vận hạn sắp giáng xuống đầu họ, gia đình sắp chia lìa đôi ngả, xin cho Lã Bất Vi được đưa mẹ con Triệu Cơ đến nhà ngục để thăm chồng lần cuối, đặng thể hiện đạo vợ chồng mà trời đất đã kiến tạo. Sau đó sẽ thu xếp ổn thỏa cho mẹ con Triệu Cơ. Xong việc này, ông sẽ đưa cha già và thê thiếp về quê Dương Địch, vì ở Hàm Đan đang chiến sự căng thẳng, không thể làm ăn gì được; trong khi một nhà đông người như vậy, ngày nào cũng phải sống phải ăn. Cho nên ông không thể ở lại nước Triệu được nữa[33]. Nói đến đây, Lã Bất Vi khóc lên thật sự, bộ mặt rất đau buồn. Vua Triệu nghe Lã Bất Vi nói vậy, cảm thấy cũng có tình có lý. Nhất là cái bộ dạng đáng thương của ông ta, đã làm cho ngài rất xúc động, bèn nhận lời thỉnh cầu của ông ta, sai những người hữu quan cấp giấy thông hành cho ông ta thăm nhà tù. Quá giờ Ngọ hôm sau, Lã Bất Vi mời thái tử Đan và mẹ con Triệu Cơ đi hai xe ngựa, chở đầy quần áo chăn màn và rượu thịt đến ngoại thành Hàm Đan. Quan canh cửa xem giấy thông hành xong, bèn mở cửa cho họ vào. Khi đến chỗ nhà tử tù, vẫn thấy Công Tôn Càn làm giám thị. Nhờ biết Lã Bất Vi từ trước, nên Công Tôn Càn rất dễ dãi. Ông ta tháo xích tay và cùm chân của Doanh Dị Nhân, để cho Doanh Dị Nhân được nói chuyện với người https://thuviensach.vn nhà. Doanh Dị Nhân khi nhìn thấy vợ con đã khóc nức nở. Vợ chồng, cha con níu chặt lấy nhau, trông rất thảm thương. Lã Bất Vi và thái tử Đan vừa an ủi họ, vừa nhân lúc Công Tôn Càn đi ra ngoài, đã vội ghé tai Doanh Dị Nhân nhỏ to gì đó. Lúc ấy rượu thịt cũng đã được bày ra, khá thịnh soạn, nhưng đây là nhà tù, lại sắp phải chia ly, không chừng là ly biệt cuối cùng, tâm trạng người nào cũng ngổn ngang lo nghĩ, cho nên ít thấy ai đụng đến bát đũa, chỉ uống rượu là nhiều. Riêng vợ chồng Doanh Dị Nhân thì chẳng ăn mà cũng chẳng uống, chỉ nhìn nhau qua làn nước mắt, trông thật đáng thương. Lã Bất Vi và thái tử Đan thay nhau chúc rượu và gắp thức ăn cho Công Tôn Càn, nhờ ông ta chăm sóc công tử. Công Tôn Càn nói rằng nếu sau này Doanh Dị Nhân không bị án tử hình, thì ông ta nhất định sẽ tìm cách trả lại cho mọi người vị công tử cháu vua Tần này. Bữa cơm tối ấy kéo dài đến quá nửa đêm, khách mới ra về. Doanh Dị Nhân và Triệu Cơ ôm mặt khóc, bịn rịn dùng dằng, chẳng muốn rời nhau. Lã Bất Vi và thái tử Đan khuyên can mãi, cuối cùng đẩy cả mấy người lên xe rồi bảo người đánh xe cho ngựa chạy nhanh. Ra đến cổng thành, quan canh cổng hỏi cớ sao nửa đêm còn ra ngoài làm gì. Lã Bất Vi dúi cho ông ta sáu trăm đồng tiền vàng và nói thác đi rằng vì có việc khẩn, nên ở trong ấy quá lâu, nay mới xong việc. Quan canh cổng mở cửa cho ra. Xe vừa đi được một quãng chưa dài lắm thì mỗi người một ngả: thái tử Đan đưa mẹ con Triệu Cơ đến lánh nạn ở nhà mình; Lã Bất Vi và Doanh bị Nhân thì cho ngựa phi nước đại đến trận địa quân Tần. Khi Công Tôn Càn tỉnh rượu và đi xem xét căn phòng nhà tù, thì chỉ thấy một đống chăn gối được xếp thành hình người đang nằm ngủ, còn người thì chẳng thấy đâu. ông ta kêu lên: “Thôi bị lừa rồi! Sai lầm to rồi!”. Nhưng ông ta không biết rằng người sai lầm lớn nhất trong vụ việc này chính là vua Triệu Hiếu Thành và các đại thần của ngài. https://thuviensach.vn HỒI THỨ NĂM DOANH DỊ NHÂN VỀ NƯỚC, TRỞ THÀNH CON TRƯỞNG KẾ THỪA NÀNG NHƯ CƠ TRỘM BINH PHÙ CỨU NƯỚC TRIỆU K hi xe chở Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân chạy như bay đến ngã ba đường, thì xe chở cả nhà Lã Bất Vi đã chờ sẵn ở đó. Không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ có người đuổi theo phía sau, nên tất cả nhóm người này cảm thấy yên tâm. Lã Yên kéo mạnh dây cương về phía tay phải, con ngựa lập tức quay đầu, cất bước chạy nhanh theo hướng Bắc. Các xe sau cứ nối đuôi nhau chạy tiếp. Đi được khoảng mười dặm, thấy phía trước trời tối đen như mực, nhưng trong khoảng không tối đen đó, lại nổi lên một đám ánh đèn lấp lánh dày đặc như sao trên trời. Lã Bất Vi biết rằng đó chính là đại bản doanh của quân Tần. Ông vội bảo thắp đuốc lên, và tiếp tục đi tới. Nhưng Lã Yên có chút lo sợ, vội nói: – Thưa ông chủ, thắp đuốc sáng thế này, nếu quân địch nhìn thấy thì chẳng phải là đi vào chỗ chết hay sao? Lã Bất Vi giải thích: – Xe chúng ta chạy như bay trong đêm tối thế này, có thể sẽ bị quân Tần tưởng lầm là quân Triệu đánh tập kích, nên bắn cung tên loạn xạ, nếu chúng ta tử nạn thì cũng chẳng ai viết điếu văn cho mình nữa. Đành phải chịu số phận cơm đến miệng rồi còn bị cướp mất! [34] Lã Yên nghe vậy, biết vậy, cứ vâng vâng dạ dạ rồi thắp đuốc sáng lên, nhưng cứ co dúm người lại, rất sợ mũi tên ác nghiệt nào đó sẽ bắn vào mình. Quân tuần tra của Tần đột ngột nghe thấy tiếng xe chạy, vội mở to mắt quan sát, chỉ thấy hai chiếc xe ngựa đang chạy về phía quân Tần. Hai chiếc xe được đuốc chiếu sáng rõ mồn một. Quân Tần liền nổi trống cảnh báo. Vương Hột lập tức đội mũ giáp và ra ngoài doanh trại, thét lớn, ra lệnh cho binh sĩ giương cung lắp sẵn mũi tên sẵn sàng bắn. Hai bên cách nhau ngày càng gần. Bên nào cũng rất căng thẳng. Lã Bất Vi vung mạnh cánh tay, ra hiệu dừng xe, kéo Doanh Dị Nhân đứng dậy và đẩy anh ta ra đứng phía trước. Lúc ấy, vừa có một loạt mũi tên rào rào bay tới, may mà chẳng trúng ai, nhưng làm cho Doanh Dị Nhân thần hồn nát thần tính, rụt lại phía sau và kêu to: – Sư phụ ơi là sư phụ. Người đi cứu ta hay là đưa ta đi đến chỗ chết đây? – Ngồi yên. Ngồi yên. Hãy hét to lên về phía quân Tần! – Lã Bất Vi ra lệnh cho Doanh Dị Nhân. Doanh Dị Nhân không hiểu, bèn hỏi: – Ta không biết hét cái gì bây giờ. Người đứng dậy mà hét. Lã Bất Vi vẫn cầu khẩn anh ta: – Tôi nói giọng nước Hàn, sợ họ không hiểu rõ. Công tử nói giọng nước Tần, vậy nói ngay đi, nói thế nào cũng được. Doanh Dị Nhân đang suy nghĩ nên nói gì thì có mấy mũi tên lại bay tới, xạt qua bên đầu và tai, kinh hãi quá, bèn hét lên rất lớn, không kịp suy nghĩ trước: – Đừng bắn nữa. Đừng bắn! Ta đây mà. Ta đây… Cái giọng thổ âm địa phương rất nặng của Doanh Dị Nhân làm chữ “ta” biến thành chữ “tha”. Nhưng hai tiếng “tha đây” của Doanh Dị Nhân lại rất có hiệu nghiệm. Phía quân Tần nghe tiếng “tha đây” liền ngừng bắn và hỏi lại: – Tha là ai? – Tha là… Tha là… – Trong lúc quá căng thẳng, Doanh Dị Nhân nói không nên lời nữa. Thấy vậy, Lã Bất Vi bèn đưa tay cầm lấy viên ngọc bội mà anh ta đang đeo ở cổ, giơ lên https://thuviensach.vn trước mặt anh ta, chỉ tay vào viên ngọc bội và nói: – Ngài là, ngài là, ngài là cái này này… Doanh Dị Nhân hiểu ngay đó là cái gì, bèn nói to với đối phương rằng: – Ta là, là con của thái tử nước đại Tần đây! Đối phương chỉ nghe được hai chữ “thái tử”, không nghe rõ chữ “con”, bèn chửi ầm lên rằng: – Thái tử của đại Tần đang ở Hàm Dương. Ông đừng có mà giả mạo. Cứ bắn đi! Doanh Dị Nhân nghe vậy, lại sợ run lên, vội nói thêm: – Đừng bắn. Đừng bắn. Hãy nghe ta nói. Ta không phải là thái tử, mà là con của thái tử. Những binh sĩ bắn cung vẫn chưa hiểu mô tê gì cứ ngơ ngác nhìn nhau và hỏi nhau: – Con của thái tử sao không ở Hàm Dương, mà lại ở đây? Chẳng ai giải thích nổi. Lại bắn! Vừa lúc ấy, nguyên soái Vương Hột đến nơi, nghe những binh sĩ này nói vậy, bèn ra lệnh không bắn nữa, và sai một, binh sĩ đi lên phía trước hỏi cho rõ tình hình. Lúc đó Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi cũng đã đến sát trước mặt quân Tần. Doanh Dị Nhân chưa kịp nói gì với người lính của Vương Hột, thì Lã Bất Vi đã đưa viên ngọc bội cho đối phương và nói : – Hãy đưa cho tướng quân các người. Cứ xem thì rõ. Vương Hột nhận viên ngọc bội từ tay người lính cầm cung soi đuốc vào xem. thốt lên kinh ngạc: “Té ra là công tử Doanh Dị Nhân”. Rồi lập tức bảo mấy binh sĩ đi lên dẫn cỗ xe ngựa và hỏi gấp: – Xin hỏi vị nào là công tử Doanh Dị Nhân? Doanh Dị Nhân vội xuống xe đi lên một đoạn rồi nói: – Ta là con tin đây. – Bản soái Vương Hột, áo giáp trên người, không thể hành lễ, xin được lượng thứ. – Vương Hột chỉ chắp hai tay chào Doanh Dị Nhân và trả ngọc bội cho công tử. Doanh Dị Nhân vội vẫy tay gọi những người phía sau xuống xe. Khi mọi người đều xuống xe, Vương Hột không thấy Triệu Cơ và đứa bé mà ông ta nghe nói từ lâu, bèn hỏi: – Sao không thấy người nhà của công tử? – Ta là con tin, vậy mà còn sống để đến được đây, thật không dễ dàng chút nào; còn hỏi sức đâu mà lo đến vợ con! – Doanh Dị Nhân nói xong bèn giới thiệu Lã Bất Vi và Vương Hột cho hai người biết nhau. Sau khi chào hỏi nhau, tất cả đều đi vào doanh trại quân Tần. Vương Hột lập tức mở tiệc mời khách, coi như để xua đuổi nỗi kinh hoàng và tẩy sạch bụi trần cho họ. Trong khi ăn uống, Doanh Dị Nhân nói qua về quá trình thoát khỏi tội tử hình và được cứu ra khỏi nhà tù như thế nào. Vương Hột và các tướng lĩnh có mặt nghe Doanh Dị Nhân nói xong, đều nâng cốc cảm ơn Lã Bất Vi. Khi nói về mẹ con Triệu Cơ, mọi người không khỏi lo lắng, chẳng biết hai người này đi đâu và tình hình như thế nào? Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và người nhà nghỉ ngơi mấy ngày trong doanh trại quân Tần, tinh thần đã trở lại ổn định và thoải mái. Nguyên soái Vương Hột sai một viên tướng dẫn mấy chục binh sĩ lanh lợi nhất, hộ tống hai xe của Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi đi ra phía sau để bái yết Tần Chiêu Vương. Còn kèm theo một bản tấu, xin nhà vua cho chỉ dụ gấp về giai đoạn tác chiến sắp tới. Mọi người đều biết, thời kỳ tiên Tần, tình hình đấu tranh chính trị, quân sự rất gay gắt, phức tạp. Trong khi đó, vua Chiêu Vương đại Tần, một nước luôn luôn chống lại sáu nước khác, thường phải luôn luôn lo lắng và hao tâm kiệt sức về những việc đại sự của một nhà nước quân sự. Vì vậy, nhà vua này hình thành một tính cách lý trí nhiều hơn tình https://thuviensach.vn cảm, lạnh lùng nhiều hơn nhiệt tình; đến nỗi rất ít khi dòm ngó, hỏi han gì đến đứa cháu của mình. Lần này, trong thư của vua Hiếu Thành nước Triệu, có nói tới việc nước Triệu muốn sau khi hai nước đạt được thỏa thuận, sẽ trả con tin Doanh Dị Nhân về Tần. Điều này có gây xúc động ít nhiều trong lòng Tần Chiêu Vương, nhưng ông ta vẫn không để tâm lâu. Nay thấy người ta đưa cháu mình từ ngoài mặt trận về, thân hình tiều tụy, vẻ mặt đau buồn, nhà vua có phần nào thương cảm. Nhất là khi nghe nói Doanh Dị Nhân bị vua quan nước Triệu khép tội và suýt nữa bị xử tử, nhà vua càng cảm động, để rơi mấy giọt nước mắt già nua. Ngài an ủi Doanh Dị Nhân: – Hiền tôn [35] từ nhỏ đã phải xa cung đình, đi làm con tin ở nước khác, nhẫn nhục gánh vác trọng trách, trải nghiệm thử thách gian nan. Nhất là vừa rồi suýt nữa phải hiến thân vì nước, làm cho ta rất kinh hoàng, vô cùng thương cháu! Nghe những lời tha thiết thân tình như vỗ về của nhà vua, Doanh Dị Nhân, một con người từ lâu nay vốn rất thiếu sự vỗ về yêu thương, thường có ác cảm và oán hận ông nội mình, nay lại thay đổi hẳn thái độ, cảm thấy trước mặt mình là người ông hiền từ, nhân hậu, lời ông nói thật ấm áp tình người và hết sức cảm kích. Doanh Dị Nhân xúc động, quỳ rạp mình xuống đất, nước mắt lã chã, khấu đầu tạ ơn: – Cháu thật bất hiếu, chưa có gì để làm vui ông nội lại còn suýt nữa gặp bất trắc để ông phải lo sợ. Nay được ân sủng, cháu lại càng lo lắng hơn, một lần nữa cháu xin đa tạ long ân của tổ vương [36]. Tần Chiêu Vương đưa tay ra hiệu cho Doanh Dị Nhân đứng dậy, hỏi thăm tình hình vợ con, và chỉ chỗ cho Lã Bất Vi ngồi, rồi nói lời cảm ơn: – Vợ chồng thái tử An Quốc Quân nhận cháu Doanh Dị Nhân làm con trưởng thừa tự, trẫm cũng sớm được biết đó là nhờ có tiên sinh ra sức giúp đỡ nên mới thành đạt như thế. Bây giờ lại cứu cháu ta thoát khỏi bàn tay đao phủ, trốn chạy khỏi ngục tù, thật là can trường dũng cảm, cứu người hoạn nạn, trẫm cảm kích vô cùng! Lã Bất Vi quỳ xuống tấu đáp: – Số phận công tử gặp nhiều điều không may, giống như châu ngọc dính đầy cát bụi. Tiểu nhân lực ít công mọn, đâu dám nhiều lời. Nay đã tai qua nạn khỏi, được đến đây để bái yết đức vua, thật là nhờ sự anh linh của tiên tổ đại Tần và hồng phúc của đức vua bệ hạ. Tiểu nhân được theo gót công tử đến gặp mặt rồng đại vương, thật là vinh hạnh vô cùng, suốt đời cảm kích. Những lời phỉnh nịnh ngon ngọt của Lã Bất Vi đương nhiên là Tần Chiêu Vương rất vừa lòng. Ngài mỉm cười tán đồng và nói: – Tiên sinh đa tài. Những hạng người thô tục, chỉ biết khua môi múa mép để kiếm ăn, làm sao mà có thể sánh được với tiên sinh. Trẫm sẽ đích thân ra chỉ dụ cho con trai và con dâu của trẫm trọng dụng tiên sinh, giữ chức đại thần trong triều đình ta. Sau khi nghe những lời đó, Lã Bất Vi biết rằng cái món “hàng lạ” – công tử Doanh Dị Nhân – mà mình đã đầu tư vốn vào đó bất chấp rủi ro và đã một mình phấn đấu gian khổ trong bao nhiêu năm, nay đã bắt đầu sinh lợi. Đó là viên gạch đầu tiên trên con đường tiến thân của mình, con đường buôn bán kiếm lời, trữ hàng lấy lãi, vừa làm con buôn, vừa làm quan lại. Hơn nữa, viên gạch ấy lại được đặt ra bằng chính bàn tay của nhà vua Tần Chiêu Vương, vị quân chủ tối thượng của vương triều đại Tần, thật chắc chắn và vững chãi làm sao! Mình nhất định phải bò dần từng bước, từng bước trên cái viên gạch ấy, không ngừng tiến lên phía trước để đạt đến đỉnh cao nhất! Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi bất giác cười một mình “Hây! Hây! Hây!” quên khuấy mất mình là ai và đang ở đâu. – Nghe trẫm nói, cớ sao tiên sinh lại cười? Việc cười lớn trước mặt vị quân chủ tối cao là hết sức vô lễ, nhất là lại cười sau khi nghe ngài ban “lời vàng ý ngọc”, lại càng mắc tội phạm thượng khi quân. Do đó, Chiêu Vương chau mày cật vấn ngay. – Tiểu nhân tấu trình bệ hạ, vừa rồi được chiêm ngưỡng dung nhan bệ hạ, lại được nghe đại vương ban truyền khẩu dụ, nên cảm thấy sâu sắc rằng đại vương có phong độ oai nghiêm, thiên hạ vô địch, mưu lược vô cùng, cử thế vô song. Tiểu nhân thấy một hình ảnh https://thuviensach.vn tương phản với đại vương, đó là vua Triệu Hiếu Thành. Hiếu Thành chẳng qua chỉ là cóc ngồi đáy giếng, chuột trốn trong hang; lại chẳng lượng sức mình, không biết nhìn vào cái gương tầy liếp của trận Trường Bình, hòng dựa vào thành Hàm Đan đơn độc, để chống lại binh hùng tướng mạnh của bệ hạ, há chẳng hóa ra là châu chấu đá voi, trứng chọi với đá, ngớ ngẩn ngu muội, cố chấp nực cười, đó sao? Lã Bất Vi tùy cơ ứng biến, ý đẹp lời hay, chẳng những che giấu được tiếng cười đắc chí do vô tình buột miệng, lại còn tâng bốc Tần Chiêu Vương lên tận mây xanh, còn Hiếu Thành nước Triệu thì bị đạp xuống bùn đen như ếch nhái chuột bọ, đáng buồn và cũng đáng cười. Tần Chiêu Vương không những không phát hiện ra chỗ sơ hở của Lã Bất Vi, mà còn cho là thật. Quả là ngài đã ngây ngất say sưa trước những lời nịnh hót quá khôn khéo, nên lập tức sai bọn thái giám trọng thưởng cho Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi; riêng Doanh Dị Nhân được ở lại bên xa giá để gần gũi nhà vua; còn Lã Bất Vi thì được tiếp đãi như quan “thượng khanh”; gia đình và đầy tớ của ông đều được ban thưởng; tất cả đều được lưu lại mấy hôm trong doanh trại của đoàn xa giá. Một ngày trước khi Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và gia đình đi Hàm Dương (Kinh thành của Tần), vua Tần Chiêu Dương còn bày tiệc tiễn chân họ. Trong bữa tiệc, hai bên nói chuyện về tình hình chiến sự, Tần Chiêu Vương bèn hỏi ý kiến Lã Bất Vi: – Theo bản tấu của tướng Vương Hột, vừa qua vua tôi nước Triệu đã mang cháu ta là Doanh Dị Nhân ra làm sức ép, hòng buộc quân Tần giải vây và giảng hòa. Trẫm và tướng Vương Hột đều nghĩ rằng Doanh Dị Nhân đang làm con tin, sợ ném chuột sẽ vỡ bình, nên không dám tăng cường tấn công, nhưng điều đó đã làm cho vua quan nước Triệu được kéo dài hơi tàn. Nay trẫm muốn ra lệnh cho tướng Vương Hột lại dốc sức tấn công mạnh, nhằm chiếm được Hàm Đan trong một trận. Nhưng hiềm một nỗi không thật hiểu rõ lắm tình hình bố phòng bên trong thành. Tiên sinh ở đó lâu ngày, chắc là nắm chắc tình hình trận địa và sĩ khí của họ, mong tiên sinh giúp ta chỉ giáo để có phương hướng dùng binh, đặng một khi dã khởi sự thì phải nắm chắc phần thắng trong tay. Lã Bất Vi nay đã đi khỏi Hàm Đan, quyết tâm đưa món “hàng lạ” Doanh Dị Nhân đến nước Tần; từ nay có thể đổi lái thay chèo, bước lên con đường chính lộ. Vì vậy, có thể không phải luyến tiếc tất cả những hậu đãi của vua quan nước Triệu đã ban phát cho mình trong nhiều năm qua, cũng như tình nghĩa sâu nặng với họ. Nghĩ vậy, bèn nói hết tất cả những gì mà ông ta hiểu biết, không hề giấu giếm. Sau cùng còn chỉ rõ: – Tâu hoàng thượng, nước Triệu nay không còn nắm được Doanh Dị Nhân nữa, cho nên cũng không ảo tưởng việc giảng hòa để giải vây nữa. Vì vậy, họ sẽ liều chết cố thủ. Hơn nữa, họ có thể cầu viện nước khác để liên hợp đánh Tần, nhằm tránh khỏi bị diệt vong. Trước tình hình đó, ta phải dốc toàn lực, không sợ hy sinh, nhằm chiếm Hàm Đan trong thời gian ngắn nhất, quyế chiến thắng nước Triệu. – Tiên sinh nói rất phải, trẫm sẽ lập tức ra lệnh cho tướng Vương Hột tăng cường tấn công Hàm Đan. Trẫm sẽ tăng viện ở phía sau, phải đảm bảo chỉ đánh một đòn là chiếm được Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu. – Tần Chiêu Vương rất tán thưởng ý kiến của Lã Bất Vi và quyết định ngay kế hoạch tác chiến sắp tới. Hôm sau, đoàn xe chở Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và gia quyến cùng với rất nhiều tặng phẩm, đồ đạc, cùng mấy chục binh sĩ hộ tống, kéo nhau ra khỏi doanh trại quân Tần để đi về phía kinh đô Hàm Dương. Mọi người ngồi trên xe đều nhìn thấy ở nước Tần cũng như ở nước Triệu, dọc theo hai bên đường phần lớn ruộng đồng hoang vu, người dân thưa thớt. Trong khi đó thì có từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi trên đường. Họ là tân binh và phu phen do triều đình tuyển mộ để bổ sung quân lực và để phục dịch trong cung đình và nha phủ. Doanh Dị Nhân nhìn thấy cảnh ấy, cảm thấy chua xót trong lòng: chiến tranh đã gây ra biết bao tai hại cho đất nước và cho dân chúng. Đi xa lâu ngày, nay tận mắt nhìn thấy quê hương ảm đạm hoang tàn, chàng thanh niên sắp tròn ba mươi này không khỏi chạnh lòng và đau khổ. Trong khi đó, Lã Bất Vi thì chẳng hề quan tâm đến tình cảnh đó. Ông đang say sưa nghĩ về những thành công do mưu lược của mình và đang mường tượng một tương lai tốt đẹp hơn ở nước Tần. Sau gần mười ngày đi đường, đoàn xe của Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi về đến Hàm Dương. Doanh Dị Nhân muốn lập tức vào cung để được gặp cha mẹ (nuôi), còn Lã Bất Vi https://thuviensach.vn nhất quyết muốn ở tạm tại “dịch quán”. Học trò đành theo thầy. Tối hôm đó, Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân đến quán rượu Tây kinh, nơi mà trước đây Lã Bất Vi đã uống nửa lít rượu trắng hâm nóng và bỏng cả lưỡi, ăn hai đĩa lớn món “tam vị đại bổ” gồm óc bò, cật dê, dương vật ngựa. Sau khi về dịch quán, tắm nước nóng sạch sẽ xong mới lên giường ngủ, cạnh giường là chậu than hồng dược đun bằng hương liệu, mùi thơm bốc lên ngào ngạt, rất ấm. Doanh Dị Nhân ngủ say lúc nào không biết. Hôm sau, thức dậy Doanh Dị Nhân cảm thấy khỏe khoắn sảng khoái, vội mặc bộ áo da còn mới tinh, chải tóc xong liền sang thức thầy dậy để sửa soạn vào cung sớm. Nào ngờ, khi thấy Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi liền nói ăn mặc như thế không được. Nói đoạn, ông ta lấy trong tủ ra một bộ trang phục nước Sở, gồm mũ nhẹ phương Nam, áo da hươu điểm trắng hoa mai và bó chặt người, giày cổ rộng và hơi cao, dây lưng da. Ông yêu cầu Doanh Dị Nhân mặc vào. Doanh Dị Nhân có phần nào không hiểu, nên hỏi thầy: – Học trò là người Tần, sao lại mặc theo kiểu của người Sở? – Sao không nhớ rằng Hoa Dương phu nhân, người nhận công tử làm con trưởng ấy, chính là con gái yêu của hoàng gia nước Sở, và được gả làm chánh thất cho phụ thân công tử đấy? – Lã Bất Vi trả lời một cách nghiêm nghị. – Đa tạ thầy đã chỉ bảo cho học trò chu đáo. Học trò quên khuấy mất. Doanh Dị Nhân chắp hai tay cảm ơn thầy rồi thay trang phục. Sau đó, ngồi xe ngựa đi thẳng đến cửa hậu cung, đưa danh thiếp cho thị vệ xem. Quan thị vệ ở ngoài cung chuyển tấm danh thiếp vào trong, đi qua các cửa: ngoại khuyết, nội cấm, hậu uyển, đông cung, tầng tầng lớp lớp được canh gác cẩn mật, cuối cùng đến tay thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân. Hai người vui mừng khôn xiết, vội đi ra cửa đông cung để đón. Xe ngựa dừng lại trước cửa hình vòm của tường vây đông cung, Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi xuống xe đi bộ đến cửa đông cung, bước lên tam cấp, đến trước mặt vợ chồng thái tử. Doanh Dị Nhân quỳ xuống, nói rất cung kính: – Con rất bất hiếu, xa phụ mẫu đã lâu. Hôm nay được trở về cung, mới trọn được đạo làm con, xin phụ mẫu lượng thứ. – Đã xa cách hai mươi năm, nay mới được về nhà. Con của ta quá gian nan khổ hạnh. – Đường sá xa xôi, con của ta thật vất vả, nay đã về đây rồi, hãy mau đứng dậy. Hoa Dương phu nhân và thái tử An Quốc Quân đều ra hiệu cho Doanh Dị Nhân đứng dậy và nói với Lã Bất Vi lúc ấy đang quỳ chào bên cạnh: – Xin tiên sinh đứng dậy, vào trong nhà nói chuyện. Khi đã yên vị, Doanh Dị Nhân kể lại tỉ mỉ với thái tử và Hoa Dương phu nhân về việc bị lôi lên đoạn đầu đài, rồi sau đó bị đưa vào nhà tử tù, trói lại chờ chém đầu; sau nhờ Lã Bất Vi và thái tử Đan can thiệp và lập mưu nên vượt ngục thành công, nay mới được sống lại và trở về nước, gặp mặt mẹ cha. Vợ chồng thái tử quay sang Lã Bất Vi cảm ơn sâu sắc. Hai người nói rằng nhất định sẽ tuân theo chỉ dụ nhà vua, sẽ trọng dụng Lã Bất Vi. Đó vừa là để đền đáp sự quan tâm giúp đỡ của ông đối với Doanh Dị Nhân từ bấy lâu nay. Mặt khác cũng là để cất nhắc và sử dụng trí tuệ của ông, một con người đại tài về chính trị, có đảm lược, rất thức thời, biết ứng biến, giỏi quyết đoán, có tài hùng biện. Điều làm cho Hoa Dương phu nhân vui mừng nhất là, sau khi mọi người ngồi vào chỗ, bà đưa mắt nhìn qua Doanh Dị Nhân đang ngồi gần bên cạnh, bỗng thấy Doanh Dị Nhân mặc một bộ trang phục nước Sở. Đúng, một bộ trang phục đúng kiểu nước Sở, chỉ dành cho các bậc danh sĩ cao quý. Bà cảm thấy rất quen thuộc thân thiết, bèn mỉm cười và hỏi Doanh Dị Nhân: – Con ta sao biết ăn mặc như người Sở vậy? Doanh Dị Nhân vội đứng dậy trả lời nghiêm túc: – Từ lâu lòng con đã hướng về phu nhân. Từ khi được ban cho ngọc bội, con đã được https://thuviensach.vn phu nhân nhận làm con. Nay biết mẹ là con cháu của hoàng gia nước Sở, cho nên ăn mặc trang phục người Sở để tỏ lòng tôn kính ân đức của mẹ. – Nói hay lắm! Nói hay lắm! Lời nói ấy của con rất hợp lòng ta, cho thấy ta và con rất có duyên phận mẫu tử do trời ban cho. – Bà Hoa Dương vui quá đến nỗi rơm rớm nước mắt. Thái tử An Quốc Quân mỉm cười và nói: – May mà ngài Lã Bất Vi có con mắt nhìn người, hiểu được con ta và đã tác thành nhờ đó mới có chuyện mẹ nhận con và con về nước như ngày hôm nay. – Tất cả đều do thái tử anh minh, phu nhân ân đức và công tử hiền thảo. Tiểu nhân chẳng qua chỉ xâu chỉ luồn kim, dựa vào duyên trời để tác thành (việc của con người) mà thôi. – Lã Bất Vi miệng nói rất khiêm nhường, nhưng trong lòng rất đắc chí, kiêu ngạo. Tiếp đó là bàn về việc nhận con trưởng thừa tự. Lã Bất Vi nói: – Con nuôi thừa kế tông miếu là phù hợp tục lệ cổ xưa, dù ở trong triều đình hay ngoài xã tắc, mọi người đều có thể làm như vậy. Nhưng việc nhận con thứ (con của thiếp sinh ra) làm con của chánh thất, và trở thành người kế vị ngôi vua thì chưa từng có. Vì vậy, cần tổ chức buổi lễ long trọng, có thông cáo nghiêm chỉnh. Như vậy mới danh chính ngôn thuận, nội ngoại đều phục. Vợ chồng thái tử chấp nhận ý kiến đó, đồng ý sẽ tổ chức long trọng lễ thái tử và phu nhân nhận công tử Doanh Dị Nhân làm con trưởng, giống y như lễ sắc phong thái tử trước đây. Khi đang bàn về nghi thức buổi lễ này, Doanh Dị Nhân nêu ý kiến rằng, nên cho mẹ đẻ Hạ Cơ tham dự, nhưng An Quốc Quân phản đối. Ông nói: – Người thiếp ấy đã phế bỏ từ lâu rồi, quan hệ mẫu tử không còn nữa. Hơn nữa, việc Doanh Dị Nhân làm con nuôi, không có quan hệ gì với mẹ đẻ, cho nên không cần để cho bà ấy dự lễ. Doanh Dị Nhân là con người đã trải nghiệm nhiều khổ nạn, nên thương cảm sâu sắc với nỗi đau và sự khốn khổ của mẹ đẻ mình, nên quyết tâm nhân cơ hội này cứu giúp và an ủi mẹ. Doanh Dị Nhân quỳ xuống, khẩn cầu: – Con được nhận làm con trưởng và được thừa tự, đó là ơn đức của phụ mẫu đã ban cho con. Nhưng mẹ đẻ không có con [37] thì không có ai thờ phụng hương khói sau này. Cây có cội, suối có nguồn, sao nỡ bỏ rơi. Phụng dưỡng cha mẹ là đạo làm con, muôn vạn lần xin được ân chuẩn. Hoa Dương phu nhân cũng là con người nhân từ khoan hậu nên đã hết sức nói thêm; cuối cùng, thái tử cũng không cố chấp, đồng ý cho Hạ Cơ được dự lễ, nhưng chỉ cho ngồi ở một bên (giống như hiện nay chỉ dự thính). Cách đối xử đó, Doanh Dị Nhân vẫn cảm thấy thiệt thòi cho mẹ đẻ, nhưng Hạ Cơ thì cảm thấy rất vừa lòng. Hơn nữa, điều đó còn làm cho bà cảm thấy “khổ tận cam lai”[38], là bước ngoặt của số phận. Mặc dù cuộc đời chẳng còn dài, song có thể sống những năm còn lại dễ chịu hơn. Lã Bất Vi là người đã cứu Doanh Dị Nhân thoát nạn, lại chắp nối để trở thành người kế vị thái tử, là ân nhân cứu mạng và là công thần, cho nên, nghiễm nhiên [39] trở thành người chủ trì buổi lễ. Ông chọn một ngày lành trong “hoàng đạo”, thành lập một đội thị vệ cầm long đao hình quạt sơn son thếp vàng và đội nhạc đi đầu; thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân ngồi trên xe ngựa chạm rồng đi từ từ; theo sát đó là xe có sơn hoa văn do bốn ngựa kéo chở Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi. Tiếp theo là xe có mui vải thô do hai ngựa kéo chở Hạ Cơ. Xe của một số đại thần công khanh đi sau cùng. Đội xe ngựa của hoàng gia này xuất phát từ hoàng cung, dạo qua các đường trong nội thành Hàm Dương, cuối cùng đến đền thờ họ Doanh (thái miếu) ở phía Đông đô thành. Theo nghi lễ, cúng tế tiên tổ, đầu tiên là thắp nến, nổi trống, dâng vật hy sinh [40]. Vợ chồng thái tử An Quốc Quân đứng ở hàng trên cùng. Doanh Dị Nhân theo sau. Hạ Cơ là thiếp, nhưng lại là mẹ đẻ, đứng ở bên cạnh. Lã Bất Vi chủ tế. Các đại thần quỳ hai hàng, một bên văn, một bên võ, ở phía dưới tam cấp. Sau khi dâng hương là bái lạy. Lã Bất Vi đọc bài văn tế tổ trong đó nói về việc vợ chồng thái tử An Quốc Quân nhận Doanh Dị Nhân làm con trưởng, thừa tự, và đọc cả thông cáo gửi toàn thiên hạ. Tiếp đó, thái tử An Quốc Quân tuyên đọc: – Nay Doanh Dị Nhân đã trở thành con trưởng của đông cung, phu nhân Hoa Dương, https://thuviensach.vn người chủ sự đông cung, là người nước Sở, nên đổi tên Dị Nhân thành Tử Sở. Từ nay, Tử Sở là người kế vị thái tử. Tất cả các thành viên hoàng gia và các đại thần đều gập đầu bái lạy, bày tỏ thái độ hoàn toàn ủng hộ và chúc mừng. Hạ Cơ cũng cảm thấy vui mừng vì trút bỏ dược cái nhục lâu nay canh cánh bên lòng vì cái tên Dị Nhân, cái tên được đặt ra có phần nào khinh rẻ. Qua việc tế tổ và bố cáo thiên hạ, công tử Tử Sở được xác lập làm con trưởng thừa tự của vợ chồng thái tử đông cung [41]. Lã Bất Vi có công giúp đỡ công tử nên được tôn làm thầy của Tử Sở. Lại còn tham gia góp ý nhiều vào việc quan trọng của thái tử nên có vai trò quan trọng trong triều đình. Trong và ngoài triều đình đều cho rằng cuộc lễ long trọng vừa qua của hoàng gia, là sự mặc nhiên thừa nhận nết na hiền thục của Hạ Cơ và lòng hiếu thảo của Tử Sở. Nhờ Hoa Dương phu nhân là người nhân đức, sống có tình nghĩa, nên công tử mới trở thành con trưởng thừa tự ngôi thái tử và Hạ Cơ được đồng tình và giúp đỡ để thay đổi cuộc đời. Mặc dù thái tử vẫn ngần ngại và giữ thái độ lạnh nhạt với Hạ Cơ, nhưng cũng để mặc cho bà Hoa Dương và Tử Sở cải thiện thực trạng của Hạ Cơ. Đưa bà ra khỏi cấm cung để đến ở tại cung của các thê thiếp khác. Tại đó, Hạ Cơ có người hầu, và Tử Sở có thể lui tới thăm nom, thể hiện tình mẫu tử và đạo hiếu làm con. Trong một buổi tối, hai mẹ con gặp nhau, Hạ Cơ vuốt tóc con và hát (dịch ý): � Năm nào con đi, ta vào cung cấm. Nay con vinh hiển đến thăm mẹ già. Tiếng đàn đã đục, sắc đã tàn phai. Mẫu tử tình thâm, uẩn khúc lòng ta. Tử Sở cũng hát để đáp lại, thổ lộ tình yêu thương đối với mẹ đẻ (dịch ý): Năm nào xa mẹ, con phải ra đi, Như giun như dế. Nay ngẩng cao đầu. Ở hiền gặp lành, chữ hiếu cao sâu. Tình nghĩa mẹ con, đạo trời còn mãi. Cuộc đời đầy khổ nạn và lòng hiếu thảo đã làm cho Tử Sở trở thành một vị minh quân tương đối nhân hậu, khoan dung thuộc thế hệ quân chủ nhà Tần. Trong khi đó, tại Hàm Đan, tuy cùng chung một ánh trăng với Hàm Dương, nhưng bầu không khí hoàn toàn khác hẳn. Ở đây chẳng có một chút bình yên nào. Quân Tần thì tấn công dữ dội, quân Triệu liều chết chống trả, thương vong nặng nề, lòng người hoảng loạn. Tướng Lý Đồng nêu ý kiến với thừa tướng Bình Nguyên Quân rằng, trong khi quân dân thì liều chết tử chiến chống quân Tần, hoàng gia và các phủ đệ vẫn ăn chơi xa hoa hưởng lạc, làm sao mà dân chúng có thể phấn khởi tác chiến được! Và đề nghị Bình Nguyên Quân nên đưa người trong giaT đình tham chiến, đưa tài sản sung vào quân đội. Như vậy, binh sĩ và dân chúng nhất định sẽ hăng hái, anh dũng diệt địch. Bình Nguyên Quân nghe lời Lý Đồng, đưa vợ con và tất cả gia quyến vào quân đội; đưa toàn bộ tài sản gồm vàng bạc châu báu… dùng vào việc sản xuất vũ khí, trang bị và hậu cần. Lão tướng Liêm Pha nghe tin này vội kêu gọi ba quân đề cao khí thế, xông thẳng vào tập kích quân Tần liên tục mấy ngày liền, đánh cho quân Tần bị thương vong rất lớn, phải rút ra xa ba mươi dặm. Lý Đồng anh dũng tác chiến, luôn luôn đi đầu, làm gương cho binh sĩ, đã hy sinh vẻ vang. Bình Nguyên Quân cho làm tang trọng thể để biểu dương lòng trung nghĩa của ông. Nhờ có tinh thần quyết chiến kiên cường của quân Triệu, nên Hàm Đan tạm thời trụ vững. Vua quan nước Triệu hiểu rõ rằng lực lượng của mình quá yếu kém xa so với quân Tần, nhưng không thể cứ ngồi chờ chết. Vì vậy, Bình Nguyên Quân viết thư cho em vợ mình là công tử Vô Kỵ nước Ngụy, cầu cứu nước Ngụy đưa quân cứu Triệu. Mặt khác, Bình Nguyên Quân đích thân sang gặp vua Khảo Liệt nước Sở, khẩn cầu vua Sở hợp lực với Triệu đánh lui quân Tần. Khi lựa chọn hai mươi người tùy tùng để cùng đi sang nước Sở, duyệt đi duyệt lại mãi, chỉ chọn được mười chín người. Đang lúc phân vân thì có một môn khách [42] tên là Mao Toại, xung phong nhận làm nhân viên tùy tùng thứ hai mươi. Bình Nguyên https://thuviensach.vn Quân nhận thấy người môn khách này đã ăn ở ở đây ba năm, chưa thấy có biểu hiện gì về tài năng, phân vân không biết Mao Toại có thể đủ “văn thao vũ lược”[43] để đi ra ngoài làm ngoại giao không. Mao Toại nói rằng: “Hôm nay môn đệ mới xin ngài, nếu như ngài sớm bỏ môn đệ vào cái túi da của ngài, thì cái dùi nhọn của môn đệ đã chọc thủng cái túi ấy từ lâu rồi”. Lúc này Bình Nguyên Quân mới tuyển Mao Toại vào đoàn tùy tùng sang Sở xin cứu viện. Đến Sở, trong những ngày chờ đợi vua Sở tiếp, Mao Toại chuyện trò với mọi người về việc làm một sứ giả thì cần có tài trí và sách lược ngoại giao gì, mười chín người kia đều rất bái phục Mao Toại. Phải khó khăn lắm mới được vua Khảo Liệt cho vào tiếp kiến, nhưng khi Bình Nguyên Quân đưa ra đề nghị “hợp tung”[44], tức là hợp lại để chống Tần, thì ông vua một nước lớn như nước Sở lại tỏ ra sợ Tần như sợ hổ beo. Ông ta ngồi nghe từ sáng tới trưa, cứ chần chừ do dự, chẳng nói rõ ý định của mình như thế nào. Các sứ giả của Triệu rất bực mình, mười chín người kia nói với Mao Toại rằng, giờ là lúc anh nên ra tay rồi đó. Nghe vậy, Mao Toại bèn đứng dậy, cầm lấy đốc kiếm, bước một bước mấy bậc tam cấp liền, đến hỏi Bình Nguyên Quân rằng, “Hợp tung” là một chủ trương rất rõ ràng, đúng đắn; chỉ vài ba chữ là xác định được, tại sao lùng nhùng mãi đến trưa rồi vẫn chưa đi đến đâu cả? Vua Khảo Liệt đang lúc rất bí, chưa biết ứng phó thế nào, bèn nhân chuyện này đổ mọi tức giận lên đầu Mao Toại, khiển trách anh ta tìm cách đánh trống lảng. Không chờ Bình Nguyên Quân đứng ra hòa giải, Mao Toại bước gần tới chỗ vua Sở, cầm đốc kiếm giận dữ nói rằng: “Sở dĩ đại vương hét mắng tôi, chẳng qua cũng chỉ là dựa vào cái thế đông người mà thôi. Bây giờ ngài và tôi chỉ cách nhau không đầy mười thước, người nước Sở dù có đông mấy cũng chẳng ăn thua gì, tính mạng của ngài đang nằm trong tay tôi”. Vua Sở sợ hết vía, bèn tỏ ý muốn nghe cao kiến của anh ta. Thấy vậy, Mao Toại bèn nói: “Ngày xưa vua Thành Thang lấy bảy mươi dặm đất mà làm vua thiên hạ[45], vua Văn Vương lấy một trăm dặm thì các chư hầu đều thần phục [46L]. Thế mới biết việc đánh thắng kẻ địch không phải là do người nhiều hay ít, mà là do biết lợi dụng tình thế để phát huy chỗ mạnh của mình. Nước Sở rộng tới năm nghìn dặm, có cả trăm vạn quân lính, thế mà bị Bạch Khởi của Tần dựa một đội quân nhỏ nhoi mấy vạn tên, chỉ đánh một trận mà chiếm được hai thành lớn là Yên và Dĩnh; đánh trận thứ hai thì đốt cháy Di Lăng. Đánh đến trận thứ ba thì chửi mắng tiên vương của các ngài rất thậm tệ. Đó là những lúc mà nước Triệu chúng tôi cảm thấy rất khó chịu, không hề chấp nhận được. Vì vậy, “hợp tung” là vì nước Sở, các ngài không hiểu điều đó, nên chúng tôi phải nói ra, vậy cớ sao ngài lại quở mắng quân chủ chúng tôi?” Sau khi nghe Mao Toại nghiêm khắc chỉ trích, vua Sở đành phải hứa sẽ đứng ra làm “trưởng liên minh hợp tung” (nguyên văn: “tung ước trưởng”). Tiếp đó, Mao Toại còn ép vua Sở chích máu ăn thề, và sau khi Bình Nguyên Quân chích máu, bản thân anh ta và mười chín tùy tùng đều chích máu ăn thề. Nhờ “hợp tung”, nên nước Sở đã sai Hoàng Yết (Xuân Thân Quân) đem tám vạn quân cứu Triệu. Từ đó câu chuyện “Mao Toại tự tiến”[47] trở thành một giai thoại[48] được lưu truyền mãi về sau. Sau chuyến đi sang Sở này, Bình Nguyên Quân thu hoạch được rất lớn, vì nhờ có Mao Toại mà thực thi được chiến lược “hợp tung”, được nước Sở giúp đỡ về quân sự. Qua đó, phát hiện Mao Toại trí dũng song toàn, từ đó đã thay đổi kiểu nhìn người chỉ dựa theo vẻ mặt bên ngoài. Tuy nhiên, đạo quân nước Ngụy mà ông tưởng rằng cứ gọi là đến ngay thì chờ mãi chẳng thấy. Bình Nguyên Quân cứ tưởng rằng, mình lấy em gái vua An Ly nước Ngụy, quan hệ gần gũi vậy thì viết vài lá thư là sẽ có viện binh đến giúp. Nhưng sự đời đâu có dễ thế. Vì vua An Ly của Ngụy là một “thiên tử thời bình”, tính tình lại nhu nhược, sau khi nhận được thư của Bình Nguyên Quân, An Ly cũng đã sai đại tướng Tấn Bỉ đưa mười vạn quân đi cứu Triệu. Nhưng sau khi nghe nói nước Triệu đòi hỏi nước đi cứu phải ra thông cáo tấn công trước, An Ly sợ quá, bèn cho kỵ binh chạy suốt một đêm đuổi theo Tấn Bỉ, bảo đóng quân “án binh bất động” tại đất Nghiệp (nay thuộc địa phận tỉnh Hà Nam). Trong khi đó, đạo quân nước Sở do Hoàng Yết chỉ huy cũng thấy chỉ có một mình nước Sở đến giúp Triệu, lực lượng rất mỏng, nên cũng đóng quân dừng lại ở Vũ Quan (nay thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây) để nghe ngóng. Vậy là thành Hàm Đan vẫn chơ vơ nguy ngập! Công tử Vô Kỵ (Tín Lăng Quân) của nước Ngụy là em trai của vua An Ly, cũng tức là em vợ của Bình Nguyên Quân. Khi Vô Kỵ nhận được bức thư của Bình Nguyên Quân yêu cầu https://thuviensach.vn khẩn cấp cứu viện, đã khuyên và đốc thúc anh mình (vua An Ly) sai Tấn Bỉ đưa quân đi giúp Triệu. Nhưng nay Tấn Bỉ phụng chỉ dừng quân, Vô Kỵ cũng đành bó tay. Bình Nguyên Quân sai sứ thần sang Ngụy, xin yết kiến công tử Vô Kỵ theo nghi thức ngoại giao. Sứ thần khẩn thiết cầu cứu, nói rằng sở dĩ Bình Nguyên Quân kết duyên với quý quốc là vì ngưỡng mộ công tử có tình nghĩa cao thượng, sẵn sàng cứu người khỏi cơn nguy nan. Nay nguy cơ của Hàm Đan đang tính từng ngày, vậy mà đạo quân cứu viện của Nguy chẳng thấy đâu, vậy làm sao có thể chứng tỏ công tử Vô Kỵ là người nêu cao đạo nghĩa cứu người hoạn nạn đây? Cho dù công tử có khinh thường Bình Nguyên Quân, bỏ mặc cho quân Tần tàn bạo đánh bại, nhưng chẳng lẽ công tử lại chẳng thương tiếc gì người chị của mình? Tín Lăng Quân (Vô Kỵ) rất đau đớn trong lòng, nhưng cũng rất khó xử. Ông lại liên tiếp khuyên can vua Ngụy. Các thượng khách của hoàng gia và các biện sĩ (thuyết khách) đều phân tích lợi hại và can gián vua Ngụy. Nhưng vua An Ly vẫn không nghe, vì quá sợ nước Tần. Tín Lăng Quân thấy mình không thể tham sống sợ chết, để mặc cho nước Triệu bị tiêu diệt. Nghĩ vậy, bèn cùng với mấy nghìn môn khách của mình, huy động hơn một trăm cỗ chiến xa, hùng dũng đi cứu Triệu, kề vai sát cánh với Bình Nguyên Quân, huyết chiến đến cùng với quân Tần. Khi đoàn quân của Tín Lăng Quân đi qua Di Môn, gặp Hầu Doanh là quan canh cửa Di Môn. Tín Lăng Quân vốn rất thân thiết với Hầu Doanh nên đã nói cho ông này biết mình sắp đi tử chiến với quân Tần, và lần này là từ biệt Hầu Doanh. Nghe vậy, Hầu Doanh nói rằng: “Xin Tín Lăng Quân hãy tự lo liệu lấy, tôi đã cao tuổi rồi, không thể đi theo Tín Lăng Quân được nữa”. Tín Lăng Quân đưa đoàn quân đi được mấy dặm, trong lòng rất buồn, tự than thân trách phận rằng mình đối xử với Hầu Doanh rất tốt, cả nước ai cũng biết; vậy mà nay mình sắp tử chiến nơi xa trường, ông lại không nói với mình một lời từ biệt, chẳng phải là lúc bình thường mình có điều gì không phải với ông? Nghĩ vậy, Tín Lăng Quân quay lại hỏi Hầu Doanh cho ra nhẽ. Hầu Doanh cười, nói: “Tôi đoán rằng công tử hẳn sẽ quay lại. Thưa công tử Vô Kỵ, đức khiêm nhường của ngài đối với các bậc hiền tài, học sĩ, là tiếng thơm mà toàn thiên hạ đều biết. Nay có người gặp tai họa, ngài đi liều chết với quân Tần, khác nào đem mồi cho hổ dữ, chẳng phải là uổng công vô ích đó sao? Nhưng ngài vẫn đến từ biệt lão phu này, ngài thật là rất tốt với lão phu, nhưng lão phu lại không tiễn chân ngài vài bước, lão phu biết rằng ngài sẽ tức giận và nhất định sẽ quay lại”. Công tử Vô Kỵ một lần nữa xin lỗi và xin Hầu Doanh chỉ giáo. Hầu Doanh vội đưa Vô Kỵ đi riêng ra một chỗ và nói nhỏ với ông: “Lão phu biết cái “hổ phù” do tướng Tấn Bỉ dùng để chỉ huy quân đội, có một nửa được cất giấu trong phòng ngủ của vua An Ly, và Như Cơ là vợ yêu của ngài, được tự do ra vào phòng ấy, Như Cơ nhất định có thể lấy được tấm hổ phù [49] ấy”. Công tử Vô Kỵ cho rằng đây là một biện pháp hay, nhưng lo rằng liệu Như Cơ có gan làm chuyện đó hay không? Hầu Doanh nói kiên quyết rằng: “Cha Như Cơ bị người ta giết chết, Như Cơ dành dụm trong ba năm được một số tiền lớn, đem số tiền đó nhờ các hoàng thân và dũng sĩ của vua Ngụy trả thù cho cha, nhưng không thành. Như Cơ từng khóc lóc kêu van ngài, nên ngài đã cử môn khách của mình chặt đầu kẻ giết người và giao cho Như Cơ. Vì vậy, Như Cơ nhất định phải trả cái ơn đó của ngài. Chắc chắn là Như Cơ không bao giờ chối từ, chẳng qua là chưa có dịp nào mà thôi. Nay nếu ngài khẩn khoản yêu cầu Như Cơ, chắc chắn sẽ được đền đáp. Nhất định sẽ lấy trộm được tấm hổ phù đó và dùng nó để nắm lấy quyền chỉ huy quân đội từ tay Tấn Bỉ. Ngài sẽ giương cao ngọn cờ cứu viện nước Triệu, đánh bại quân Tần, lập nên chiến công hiển hách kém gì Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công trong năm cường quốc xưng bá thời Xuân Thu vậy”. Quả đúng là Như Cơ không bao giờ quên ơn công tử Vô Kỵ đã trả thù cho cha mình. Nàng khắc cốt ghi tâm việc làm nhân nghĩa đó của Vô Kỵ và luôn luôn nghĩ rằng mình phải đền ơn báo đáp. Vì vậy, khi thấy Vô Kỵ đến nhờ cậy, Như Cơ lập tức nhận lời, nói rằng sẽ liều mình lấy cho được hổ phù, dù phải đắc tội đại hình, chỉ nhằm giúp Tín Lăng Quân giành được quyền chỉ huy quân lính, cấp tốc cứu viện nước Triệu. Lịch sử ghi chép rằng, lúc bấy giờ là vào thời kỳ cuối của thời Đông Chu, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, chiến tranh liên miên. Vì vậy các vua chúa phải luôn luôn cảnh https://thuviensach.vn giác, lúc nào cũng lo nghĩ về chiến sự, đến nỗi phòng ngủ của nhà vua biến thành nơi cơ mật để bàn về việc quân. Những hiện vật cơ mật nhất như thông điệp chiến tranh, binh phù (hổ phù)… đều được cất giấu ở đó. Như Cơ là ái phi rất được vua An Ly chiều chuộng, được tự do ra vào phòng ngủ của vua-, nhưng ngoài việc mua vui cho nhà vua, Như Cơ chưa bao giờ dám để ý hoặc dòm ngó đến các văn bản tấu trình, chưa hề biết cái hổ phù kinh khủng ấy để ở đâu, cho nên không dám làm bừa, trong lòng rất lo lắng. Sau khi suy nghĩ rất kỹ, Như Cơ quyết định chia làm hai bước, bước thứ nhất là tìm cho ra chỗ cất hổ phù, sau đó là tìm cách lấy cho được tấm hổ phù đó một cách kín đáo nhất. Vào giờ Tỵ [50] ngày hôm sau, vua An Ly vừa dùng cơm sáng xong, đang phê duyệt các bản tấu, bỗng thấy Như Cơ bước nhanh vào phòng, vẻ mặt lo lắng điều gì, nhà vua liền hỏi, giọng rất thông cảm: – Sao ái phi ăn mặc xộc xệch như vậy và lại gấp gáp như thế? – Thưa, sáng nay thần thiếp chải tóc, bỗng thấy mất bông hoa cài tóc bằng ngọc xanh có hoa văn màu hồng, nhân trắng, thần thiếp tìm mãi khắp nơi không thấy, nên vội đến xem có quên ở đây hay không? – Như Cơ bẩm tấu vua Ngụy, với vẻ rất cung kính nhưng rất sốt ruột. Vua Ngụy rất lơ đãng, chẳng coi chuyện đó là gì, chỉ nói với Như Cơ: – Cái bông hoa bé xíu ấy đáng giá bao nhiêu, mất rồi thì thôi, ta sẽ cho một cái khác là được chứ gì? Như Cơ nói rất nghiêm nghị: – Được đại vương rộng lòng như thế, thiếp chẳng bõ công đi tìm nữa, nhưng vẫn rất tiếc vì đó là viên ngọc có ba sắc: xanh, hồng và trắng, bây giờ rất hiếm. Hơn nữa, bông ngọc cài tóc ấy là của đại vương ban cho thiếp để làm “vật tín hiệu” (“tín vật”), nay để mất, chẳng phải đã phụ lòng ân sủng của đại vương đó sao? Vì vậy, cho dù đại vương quên nó đi, thần thiếp cũng phải tìm cho ra, để tỏ lòng tôn kính và yêu quý đại vương! Vua An Ly thấy Như Cơ kính trọng và gắn bó với mình như vậy, cảm thấy vui sướng lắm, bèn xua tay nói: – Ái phi đã chung tình với viên ngọc đó như vậy, thôi thì cứ tìm đi? Một lần nữa Như Cơ bái lạy vua Ngụy, sau đó, bắt đầu tìm kiếm, từ giường của vua, đến mấy cái bàn, giá sách. Vừa tìm vừa lẩm bẩm rằng, hôm trước ngồi ở đây để hầu đại vương, sau đại vương sai đi lấy văn bản cho người, rồi rót rượu dâng rượu, đến khuya mới lên giường hầu vui, không biết bông hoa ngọc ấy rơi lúc nào ở đâu, thật khó quá! Vua Ngụy cười nàng cứ hay tự trách mình làm gì, chỉ cần cố gắng kiên nhẫn một chút là được. Nói xong cúi gầm xuống xem các văn bản tấu trình, chẳng thèm để ý đến gì nữa. Như Cơ thấy An Ly không hề nghi ngờ mình, và cũng không chút phòng ngừa, bèn lật xem rất kỹ những văn bản cơ mật được xếp trên giá sách, lật mãi mới thấy tấm “hổ phù” nằm kẹp trong một tập khâm mệnh thánh chỉ. Vừa vui vừa sợ, Như Cơ thấy lúc này là lúc phải hết sức thận trọng, bèn quay lưng về phía vua Ngụy để che khuất tầm nhìn của ông, một tay khẽ nâng tập văn bản bằng tre lên, một tay rút nhanh tấm hổ phù ra. Khi nàng đút nhanh tấm hổ phù ấy vào ống tay áo, không ngờ làm quá gấp nên chạm vào tập văn bản vừa mới đặt vào chỗ cũ gây nên tiếng kêu lắc rắc, lắc rắc, rồi mấy bản rơi xuống. Vua An Ly nghe thấy tiếng động bỗng quay mặt đưa mắt liếc nhìn và hỏi: – Thế nào, nàng tìm đến cả tập văn bản cơ mật đó sao? Như Cơ giật mình kinh hãi, nhưng đã nhanh trí rút ngay ở trong ống áo ra một bông hoa cài tóc khác, cũng bằng ngọc, được dự phòng từ trước để dùng lúc cần, vừa mỉm cười vừa nói : – Thật là nhiêu khê, thiếp đã tìm thấy cái “vật làm tín hiệu” do đại vương ban cho ở chính chỗ này. Ở hiền gặp lành mà[51]. Vua Ngụy có chút khó hiểu, bèn hỏi: – Bông hoa ngọc ấy cài trên mái tóc của nàng, lẽ ra sẽ rơi xuống giường khi hai ta https://thuviensach.vn quyện vào nhau, sao lại nằm ở chỗ ấy? – Có thể là trước khi lên giường, lúc hầu đại vương xem các bản tấu, thiếp có đến lấy các văn bản ở đây, vì không cẩn thận nên để rơi nó ở đây. Thế mà cứ tìm kiếm mãi, may mà ông trời phù hộ, nên mới không phụ ơn thánh thượng. Trong lúc nguy cấp, con người ta thường nảy ra sáng kiến. Như Cơ đã đáp lại, nói cứ trơn tru như cháo chảy, lại rất có lý có tình. Sau đó, liền cúi nhặt những văn bản rơi xuống đất, đặt vào chỗ cũ, rồi rút một văn bản ở một chồng khác, đút vào chỗ của cái “hổ phù”, lấp chỗ trống, xóa mọi dấu vết! Vua Ngụy thấy Như Cơ đã tìm được báu vật, công việc xét duyệt các văn bản cũng tàm tạm, bèn gọi Như Cơ lại để chung vui chăn gối. Lúc ấy, Như Cơ đã lấy được hổ phù, chỉ muốn chạy thật nhanh đến đưa cho ân nhân của mình là công tử Vô Kỵ, nhưng An Ly nhất thiết muốn giữ nàng lại. Như Cơ phải tìm cách thoái thác: – Nay của đánh mất đã tìm lại được, thiếp phải sửa sang lại quần áo và trang điểm để hầu đại vương cho thật chu đáo. Xin cho phép thần thiếp được về phòng chút xíu rồi quay lại cũng còn kịp ạ. Chẳng ngờ vua Ngụy có vẻ như không thể chờ đợi được nữa, cầm lấy tay Như Cơ, vừa mỉm cười vừa nói: – Nàng có khác gì Tây Thi, trúc xinh trúc đứng đầu đình cũng xinh [52], thôi, khỏi phải trang điểm gì nữa! Như Cơ rất sợ, nếu cứ dùng dằng mãi sẽ để lộ vết tích, nên đành phải ở lại, nhưng tương kế tựu kế, nàng chỉ ngồi xuống cùng hầu cơm trưa với nhà vua. Trong khi ăn, nàng chúc rượu liên tục, dâng đồ nhắm, cười đùa vui vẻ để làm đẹp lòng nhà vua. Vua An Ly không từ chối bất cứ một ly rượu nào do người đẹp dâng lên tận miệng nên say mềm. Lúc này, Như Cơ bèn gọi bọn hoạn quan và cung phi đến, vực nhà vua lên giường và căn dặn bọn họ phải hết sức săn sóc thánh thượng. Sau đó đi về ngay phòng mình. Theo lời hẹn riêng từ hôm qua, Tín Lăng Quân đã chờ ở đây từ lâu, với lý do đến để nhờ “ái thiếp” của nhà vua đưa một bản tấu trình. Khi thấy Như Cơ quay về, Tín Lăng Quân vội bước lên chào, giả vờ hỏi rằng có thể xin gặp đại vương được hay không. Như Cơ biết ý, bèn đáp rất tự nhiên rằng thánh thượng đã choáng hơi men nên đang ngủ say, có việc gì gấp xin chờ buổi chầu sáng mai sẽ dâng bản tấu. Trong lúc đang nói, thì rút nhanh “hổ phù” từ trong ống tay áo và đưa cho Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân đã có chuẩn bị từ trước, chỉ trong nháy mắt nhận ngay lấy hổ phù rồi cúi đầu lui nhanh ra ngoài. Khi ra khỏi cung, Tín Lăng Quân phi ngựa theo hướng đã định. Lúc này, Tín Lăng Quân nhớ Hầu Doanh có dặn rằng các tướng lĩnh chỉ huy ngoài mặt trận có thể không theo lệnh quan. Nay dù đưa hai mảnh hổ phù ra đối chiếu khớp nhau, nhưng ngộ nhỡ Tấn Bỉ không chịu trao lại binh quyền, hơn nữa, có thể ông ta lại tấu xin ý kiến chỉ dụ của nhà vua, thì sự việc sẽ bại lộ. Nhưng Hầu Doanh đã giới thiệu cho Vô Kỵ một lực sĩ tên là Chu Hợi. Chu Hợi sẽ đi theo Vô Ky. Nếu Tấn Bỉ trao lại quyền binh thì tốt. Nếu không trao, Chu Hợi sẽ giáng cho ông ta một chùy chết tươi. Không ngờ công tử Vô Kỵ khóc nức nở! Hầu Doanh tưởng công tử sắp vào trận, sợ chết nên khóc. Nhưng công tử nói: – Tấn Bỉ là một lão tướng nóng nảy hay cáu; tôi nghĩ rằng ông ta sẽ không nghe tôi, như vậy không thể không giết ông ta. Mà giết thì rất đáng thương, tôi thương khóc ông ta. Chu Hợi nói với công tử: – Tôi chỉ là một người làm nghề đồ tể kiếm sống. Ngài đã từng đến chỗ tôi mua thịt nhiều lần, ngài tỏ ra rất tốt đối với tôi, làm cho tôi rất cảm kích, tôi cứ nghĩ rằng nếu tôi có đền đáp thì cũng là việc quá nhỏ bé, chẳng có giá trị gì. Nay công tử có việc khẩn cấp, đó chính là lúc mà tôi có thể đền đáp lại ngài. Công tử Vô Kỵ bèn dắt tay Chu Hợi cảm ơn Hầu Doanh. Hầu Doanh nói: – Lẽ ra tôi phải đi theo công tử, nhưng tôi đã già rồi, không thể đi được nữa. Tôi ở đây sẽ tính toán thời gian của công tử, khi nào công tử đến bản doanh của Tấn Bỉ, tôi sẽ quay nhìn về hướng Bắc và tự kết liễu đời mình bằng lưỡi kiếm này, để đền đáp lại sự đối xử rất tốt của công tử đối với tôi. https://thuviensach.vn Sau khi chào Hu Doanh, Vô Kỵ cho ngựa chạy nhanh về hướng Nghiệp Hạ, gặp Tấn Bỉ. Vô Kỵ tay cầm hổ phù, miệng giả truyền chỉ dụ của vua Triệu: tước bỏ binh quyền của Tấn Bỉ. Tấn Bỉ đón lấy hổ phù, ghép hai mảnh với nhau, nhìn kỹ trên dưới phải trái mặt trước mặt sau (hổ phù thời cổ thường làm bằng một mảnh tre dày đặc, lớn. Một đầu có khắc đầu con hổ. Phía dưới đầu con hổ, khắc lệnh của nhà vua trao quyền chỉ huy quân đội. Sau đó, chẻ làm đôi, hai miếng cân nhau. Khi giao quyền cho ai, nhà vua và người được giao quyền, mỗi bên giữ một nửa. Lúc cần thiết, có thể đem hai mảnh ghép lại, nếu khít là thật, không khít là giả (nguyên văn: “hợp” là thật, không “hợp” là giả. Chúng tôi dịch “hợp” là khít. Vì vậy, có câu thành ngữ “nhược hợp phù tiết”[53] có nghĩa là các bằng chứng rất hợp với nhau không hề có sai sót. Trạng từ “phù hợp” hiện đại, cũng xuất xứ từ đó). Lúc ấy, Tấn Bỉ áp hai nửa hổ phù vào nhau, thấy rất ]à khít, nhưng cho rằng hổ phù là thật, còn người cầm hổ phù là giả. Nghĩ vậy, Tấn Bỉ chỉ tay vào công tử Vô Kỵ nói rằng: – Tôi dẫn mười vạn quân chốt giữ ở biên cương, đó là trọng trách của đất nước trao cho. Nay chỉ căn cứ vào mấy cỗ xe này của ngài để thay thế tôi, đó là việc gì vậy? Tấn Bỉ kiên quyết không trao binh quyền. Thấy vậy, Chu Hợi rút cái chùy lớn nặng bốn mươi cân (20kg) ở trong ống tay áo ra, đánh một đòn khiến Tấn Bỉ chết tươi. Công tử Vô Kỵ giơ cao hổ phù, nói lớn: – Tấn Bỉ chống lại lệnh vua nên phải xử tội chết. – Rồi ông nói với ba quân [54]: – Ai có cha và con ở trong quân đội thì cha được về nhà. Anh em ở trong quân đội thì anh được về nhà. Ai là con một, cũng được về để phụng dưỡng cha mẹ. Mệnh lệnh đó được ba quân hết sức ủng hộ. Công tử Vô Kỵ lựa chọn tám vạn tinh binh, đều là những binh sĩ có tinh thần tác chiến cao, quyết tâm chống lại quân Tần. Lúc ấy, tại thành Hàm Đan của nước Triệu, quân Tần đã tấn công lâu ngày, binh sĩ hết sức mệt mỏi. Quân tiếp viện của Vô Kỵ đến ứng cứu rất đột ngột, mau lẹ, khiến cho quân Tần trở tay không kịp. Trong khi đó, Bình Nguyên Quân và lão tướng Liêm Pha của Triệu từ trong thành đánh mạnh ra. Quân Tần bị đánh từ hai phía, thất bại thảm hại, thương vong hơn một nửa. Vua Tần Chiêu Vương buộc phải hạ lệnh rút quân. Đến đây, thành Hàm Đan được giải phóng sau bốn năm bị vây hãm. Lúc ấy, một đơn vị hai vạn quân Tần do tướng Trịnh An Bình chỉ huy đến cứu viện, cũng bị quân Ngụy cắt đứt đường rút lui, nên tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng phải đầu hàng. Trận Hàm Đan này được kết thúc bằng thất bại thảm hại rất hiếm thấy của quân đội nhà Tần thường vỗ ngực là “đội quân luôn luôn chiến thắng” (“thường thắng quân”). Điều quyết định thắng bại của trận đánh là do Như Cơ “trộm hổ phù cứu nước Triệu”[55]. Câu chuyện này trở thành giai thoại truyền tụng ngàn đời. https://thuviensach.vn HỒI THỨ SÁU BỀ TÔI PHÒ VUA, TRẢI BAO VINH NHỤC CON NỐI NGÔI CHA, GIAN NAN THỬ THÁCH N ăm ấy, Tần Chiêu Vương ngự giá thân chinh, ngạo mạn khinh đời, huyênh hoang rằng chỉ đánh một trận là hạ được thành Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu, nhưng rốt cuộc đã bị quân của Ngụy và Triệu đánh giáp công và đại bại, thương vong trên một nửa tướng sĩ. Đó thật sự là một đòn nặng nề giáng vào dã tâm bành trướng quân sự của vua Tần. Nhưng sức mạnh của tính hiếu thắng đã nâng đỡ ông ta; cái thói hay làm bộ làm tịch đã che giấu nỗi đau trong lòng nhà vua già. Trên con đường ròng rã mười mấy ngày từ Hàm Đan về Hàm Dương, Tần Chiêu Vương không bao giờ ngừng suy nghĩ để tìm một cách thức như thế nào nhằm ứng phó với sự nghênh đón và chiêm ngưỡng của thần dân Hàm Dương đối với đức vua. Tuy đã rất lao tâm khổ tứ, nhưng vẫn nghĩ không ra, bởi vì nhà vua chưa hình dung được mọi người sẽ đón tiếp mình như thế nào. Nhưng khi cỗ “ngự xa” của nhà vua tiến dần đến dịch quán ở phía Đông Hàm Dương, thì cảnh tượng đập vào mắt ngài đã xua tan mọi âu lo của ngài. Nhà vua vui mừng ra mặt. Lần này trở về, nhà vua không muốn thấy khung cảnh tưng bừng náo nhiệt chào đón thường thấy như từ trước đến nay, vì nếu vậy thì sẽ biến thành sự chế giễu đối với thảm bại vừa qua. Nhưng đức vua cũng không muốn nhìn thấy cảnh tượng buồn tẻ và vắng lặng, nếu vậy thì đó lại là quá lạnh nhạt đối với bốn năm chinh chiến uổng côngi, của ngài. Trước mắt nhà vua không phải sự phô trương cường điệu cũng không phải là những khuôn mặt rũ rượi ưu phiền. Ngài chỉ thấy một cỗ “xa giá” mà ngài vẫn dùng thường ngày đang chờ ngài; lá cờ thêu rồng phượng và nhật nguyệt có viền lượn sáng đang phất phới bay trước gió; đội kiêu binh tay cầm long đao đứng nghiêm kính cẩn đón chào. Người ra đón chỉ có một số ít đại thần văn võ quan trọng gồm Phạm Thư, Đỗ Thương, Mông Ngao, Trương Đường, không phải là toàn bộ triều đình đều ra nghênh đón. Người của hoàng gia cũng không phải tất cả thê thiếp, cung phi đều có mặt, mà chỉ có một số người trong đông cung và một số nhân vật thân cận của hoàng gia. Tất cả do thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân dẫn đầu. Nhưng người mà vị vua cao niên này chú ý nhiều nhất là Tử Sở và Lã Bất Vi đứng bên cạnh công tử. Tần Chiêu Vương đã chuẩn bị tinh thần từ trước, nên ngài ngẩng cao đầu mặt mày hớn hở, từ trên cỗ chiến xa từ từ bước xuống. Vợ chồng thái tử và mọi người trong hoàng gia quỳ rạp xuống bên phải để bái chào đại vương. Thái tử nói: – Nhi thần đưa phi tần, vương tôn đông cung và hoàng gia cung kính nghênh đón phụ vương thánh giá![56] – Chúng thần cung kính nghênh đón đại vương thánh giá. Các đại thần do Phạm Thư dẫn đầu đứng một hàng bên trái, cứ phủ phục xuống đất. Nét mặt nhà vua tươi cười rạng rỡ: – Tất cả bình thân. – Nhà vua nói. – Cảm tạ phụ vương! – Cảm tạ ân điển đại vương! Hai hàng người quỳ ở hai bên lóp ngóp đứng dậy; nhưng bỗng tất cả lại đồng thanh: – Đại vương chinh chiến nhiều năm, hết sức gian nan vất vả! Có vẻ như việc nghênh đón đang diễn ra chưa đủ mức nhiệt thành đối với đấng quân chủ chí tôn. Câu chúc tụng ấy đã làm cho Chiêu Vương cảm thấy rất lúng túng. Nhưng trong đầu nhà vua đã có chuẩn bị trước, nên ngài khoát tay rất tự nhiên và nói: – Bụi trần chinh chiến chưa rửa sạch. Chuyện đó hãy tạm gác lại bàn sau. – Nói xong bèn vẫy tay gọi Tử Sở lại gần, đặt tay lên vai đứa cháu và nói – Nếu nói gian nan vất vả thì đều vì đứa cháu này đây! – Cháu bất hiếu, làm liên lụy đến “tổ vương” phải thân chinh ra trận, trải bao chiến sự. https://thuviensach.vn Đó là tội lớn của cháu! – Tử Sở phủ phục xuống đất, tỏ ra vừa cảm kích vừa lo sợ, nước mắt lã chã, không dám ngước mắt nhìn lên. – Công tử trở về bình an, đó là nhờ được thần uy của đại vương và các tiên vương phù hộ! – Rốt cuộc thì các đại thần cũng tìm được một lời chúc tụng phù hợp thực tế, lại vừa tỏ lòng trung thành và phải phép, giọng nói lại đều răm rắp và vang sảng. Tần Chiêu Vương cảm thấy bản thân từ bị động đã chuyển sang chủ động, bèn nhanh nhẹn ra hiệu cho Tử Sở đứng dậy và đến gần, nói: – Nói được lắm! Nói được lắm! Sau đó, nhà vua lên xe rồng. Bọn thị vệ nội cung hô lớn: “Khởi giá hồi cung!”. Xe rồng từ từ đi về nội thành, phía trước là đội tiêu binh cầm long đao, phía sau là hoàng gia và các đại thần. Buổi nghênh đón như vậy, Tần Chiêu Vương cảm thấy rất vừa lòng, vừa không quá đông người, không làm ầm ĩ ồn ào, cũng không thầm lặng quá mức. Đặc biệt, sự có mặt của Tử Sở giúp cho nhà vua có thể nói lảng sang một chủ đề khác, khỏa lấp được cái khó coi và sự hẫng hụt của một vị vua bại trận. Tối hôm đó, vợ chồng thái tử đưa Tử Sở đến vấn an nhà vua, ngài mới biết rằng buổi lễ vừa phải ban ngày là do Lã Bất Vi nêu lên sau khi đã suy xét rất cẩn thận. Vua Tần Chiêu Vương cảm thấy nhà đại thương gia Dương Địch này rất có cao kiến trong việc phán đoán tâm trạng con người để có những đối sách thích hợp. Những tài năng như vậy, nếu được sử dụng trong chính trị sẽ có tác dụng lớn hơn nhiều. Nhân sự việc này, nhà vua lại nghĩ tới những ấn tượng tốt khi ngài nghe Lã Bất Vi nói về công tử và nước Triệu lúc ông này gặp ngài trên đường đốc chiến ở Triệu; nghĩ vậy, ngài cho rằng việc sử dụng và giao trọng trách cho Lã Bất Vi là chuyện không cần bàn cãi nữa. Nhà vua chỉ nghỉ ngơi ba ngày rồi lên triều như thường lệ. Ngài không muốn nghỉ lâu, mặc dù tuổi cao và quá mệt mỏi sau nhiều năm chinh chiến. Đó là vì ngài muốn nhanh chóng xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực do bại trận gây nên, lập lại uy quyền của mình. Nhà vua ngồi trên ghế rồng, đưa mắt nhìn xuống hàng ngũ chỉnh tề các đại thần đang bái phục chúc tụng mình. Ngài nghiêm sắc mặt, hỏi: – Các khanh tưởng rằng trẫm mc ất bốn năm, đi xa hàng nghìn dặm, đưa hai mươi vạn người, đánh phạt nước Triệu, là thắng hay bại? Một bầu không khí lặng ngắt như tờ bao trùm căn phòng rộng lớn. Câu hỏi khó này, ai trả lời được đây? Nhà vua đưa mắt hướng thẳng vào hàng võ tướng, nói to: – Vương Hột. Vương Hột. đứng ra ngoài hàng, quỳ mọp xuống, vừa run vừa nói: – Có thần! – Ngươi nói bại hay thắng? – Vua Tần Chiêu Vương hỏi thêm, cố làm ra vẻ bình thản. – Bại ạ… – Vương Hột nói rất khẽ, rõ ràng là cũng cảm thấy đau lòng. – Tại sao lại nói vậy? – Tần Chiêu Vương tiếp tục cật vấn. Vương Hột mồ hôi tuôn ra như mưa, nói tiếp: – Mất bốn năm trời, thương vong mười vạn, không giành được một tấc đất, không chiếm được một thành trì, sao không gọi là bại? Tần Chiêu Vương nhìn một lượt khắp mọi người, hỏi tiếp: – Các khanh nhận xét thế nào? – Chúng thần cho rằng đãhất bại rồi ạ! – Các đại thần đồng thanh trả lời. Tần Chiêu Vương mỉm cười, gật đầu, quay sang phía Lã Bất Vi đang quỳ bên cạnh Tử Sở, hỏi: – Lã khanh, ý của ngươi như thế nào?[57] https://thuviensach.vn – Theo ngu kiến của vi thần, như thế là thắng ạ![58] – Lã Bất Vi hơi ngẩng đầu lên, trả lời cung kính. Các quan đại thần giương mắt nhìn nhau, chẳng ai dám hé răng. – Tại sao nói vậy? – Tần Chiêu Vương hỏi. Lã Bất Vi thẳng lưng nói một mạch, rất ngay thẳng: – Việc chiến sự, ra quân là vì chính trị, chính trị là thực chất, còn quân sự là phép thuật. Bệ hạ ngự giá thân chinh, mất bốn năm ròng, tổn thất mười vạn, không chiếm một thành trì hay tấc đất nào. Về phép thuật, đó là thất bại. Nhưng uy quyền của đại vương được nêu cao, vũ lực của ta được khai triển, nước Triệu khiếp sợ, Hàm Đan lâm nguy. Nhất là công tử Tử Sở thoát khỏi kìm kẹp và trở về cố quốc, chấm dứt hai mươi năm làm con tin. Nói về thực chất, há chẳng phải là đại thắng, vì đã cảnh cáo sáu nước, răn đe chư hầu đó sao? – Rất tốt. Rất tốt. Lời của Lã khanh, dù Tô Tần hay Trương Nghi[59] cũng không ằng. – Chiêu Vương nói. ngài khoát tay ra hiệu cho Lã Bất Vi đứng dậy, sau nghiêm sắc mặt, nói tiếp – Theo trẫm, thất bại ở Hàm Đan, thứ nhất là do công tử nằm trong tay địch, Vương Hột trong thời kỳ đầu không tấn công mạnh. Thứ hai, Triệu được Nguy hỏa tốc đến cứu, quân ta bị đánh từ hai mặt: trước và sau lưng [60], nhất thời đảo ngược mạnh yếu, đến nỗi phải chịu thất bại sau bốn năm ròng rã với đội quân hai mươi vạn, không đáp ứng được ý nguyện của tiên vương và trọng trách của xã tắc. Trẫm không thể thoái thác tội lớn ấy. Các đại thần thấy nhà vua nói rất xúc động, bèn vội khuyên ngài chớ quá tự trách: – Bệ hạ nặng lời quá! – Tuy nhiên, lần này trẫm đi đánh Triệu, vốn là muốn chiếm Hàm Đan để tiến tới tiêu diệt nước này, nhưng đồng thời lại còn nhằm cái đích là cứu cháu ta đang làm con tin bên ấy. – Tần Chiêu Vương càng nói càng hăng – Nay tác chiến tuy bại nhưng cháu ta công tử Tử Sở thoát khỏi tù ngục ở kinh đô nước Triệu, trở về cung nhà Tần, vào đông cung làm thừa tự, sau này thờ phụng tôn miếu. Đó là đại thắng của trận này! Các khanh thấy thế nào? – Bệ hạ hoành quan thánh kiến [61], chúng thần rất kính phục! Dưới điện vang lên những lời a dua phỉnh nịnh. Nhưng trong khi tâng bốc nhà vua, các quan lại nhà Tần cũng không khỏi khâm phục sự khôn ngoan xảo quyệt của Lã Bất Vi, ông ta rất giỏi ăn nói, rất được lòng mọi người. Tần Chiêu Vương lần này thiết triều nhằm nêu lên những câu hỏi mà ngài đã suy nghĩ rất kỹ, cốt dồn cho các đại thần không thể bàn cãi được; từ đó, khôn khéo đổ tội thất bại ở Hàm Đan cho người khác và các nguyên nhân khách quan. Còn về bản thân mình thì nói qua quýt cho xong chuyện, cũng nói vài lời nhận lỗi đấy, nhưng là nghĩ một đằng nói một nẻo. Cuối cùng nói rằng Tử Sở thoát hiểm trở về là một trong những mục đích của ông ta trong cuộc chiến tranh này. Điều này hoàn toàn trái ngược với bản tính độc đoán tàn nhẫn của Tần Chiêu Vương khi ông ta bỏ ngoài tai những lời khuyên của vợ chồng thái tử, cứ để cho đứa cháu nhỏ tuổi của mình (Doanh Dị Nhân) đi làm con tin, coi đứa cháu như cọng rơm cọng rác, vứt bỏ đi như không có. Nay ông ta lợi dụng việc Tử Sở quay về, coi như là chiến lợi phẩm để trút bỏ trách nhiệm thất bại lẽ ra phải gánh chịu. Lại còn huyênh hoang rằng mình đã rất quan tâm đến số phận của cháu mình. Hơn nữa, còn khẳng định rằng sau này Tử Sở sẽ kéo dài tôn miếu nhà Tần, là người kế vị ngôi vua hợp pháp. Các quan trong điều đương nhiên chỉ dám tung hô và ủng hộ. Vợ chồng thái tử tuy hiểu rõ chân tướng, nhưng cũng chỉ có thể im lặng, ngoài miệng cứ phải lải nhải cảm tạ muôn vạn ơn nặng tình sâu của phụ vương; và còn răn dạy Tử Sở phải ghi lòng tạc dạ sự quan tâm săn sóc của ông nội cũng như cái giá nặng nề mà ngài đã phải trả. Người được lợi nhiều nhất trong cuộc chơi vừa rồi là Lã Bất Vi. Buổi tối một ngày trước khi có buổi thiết triều nói trên, vua Tần Chiêu Vương có hỏi ý kiến Lã Bất Vi về nguyên nhân thất bại của trận Hàm Đan. Lúc đó, Lã Bất Vi đã nghĩ rằng cần phải hướng dẫn dư luận. Vì vậy, ông ta nghĩ ra luận điệu nguy biện xảo quyệt, đi từ “chất” và “thuật” (phương pháp), để nói bừa rằng không phải là thất bại mà là thắng lợi về chất. Lúc thiết triều, Lã https://thuviensach.vn Bất Vi và Tần Chiêu Vương ngầm thỏa thuận với nhau: ông ta nói đại ra những ý kiến của mình, coi như đề tài làm nền cho cuộc bàn thảo; sau đó, nhà vua quy nạp lại, đổ tội gây ra thất bại cho người khác, vơ hết chiến lợi phẩm vào mình. Cái màn kẻ xướng người họa ấy rất ăn ý nhau, nên rất có kết quả. Vì vậy, tiết mục cuối cùng của buổi thiết triều này là thái tử An Quốc Quân tuyên đọc chỉ dụ của Tần Chiêu Vương dưới sự chủ trì của đích thân nhà vua. Chỉ dụ như sau: Khanh Lã Bất Vi, tài trí siêu phàm; cứu vương tôn khỏi cảnh khốn cùng, góp cao kiến với An Quốc Quân thái tứ, nói năng trung thực, đạt lý thấu tình. Hoa Dương vui vẻ nhận con. Dị Nhân lại được ấm tình mẫu tử. Lại còn cứu khỏi lưỡi dao thần chết, đưa con tin thoát hiểm trở về. Tấm lòng ấy thật khẩn thiết nhiệt thành, thủy chung son sắt. Khi luận bàn chiến sự, phán đoán sâu sắc chính xác, sức du thuyết dọc đất ngang trời. Những công lao ấy, trẫm cho là rất lớn. Nay ra tuyên chiếu, phong làm thượng khanh [62]. Khâm thử. Trong khi thái tử An Quốc Quân đang nói lời cuối cùng: “Thánh chỉ đọc xong, mau mau tạ ơn”, Lã Bất Vi (đang phủ phục xuống đất) rất cảm kích, sụt sịt như đang khóc, khấu đầu lia lịa, miệng nói: – Nhờ ơn thái tử tiến cử, được đại vương rủ lòng thương hại, tiểu thần mới được tham dự triều chính, phò tá quân vương. Xin thề đem hết sức mọn tài hèn, dốc bầu nhiệt huyết, vắt cạn trí óc, toàn ý toàn thân, tự thôi thúc mình phụng mệnh thánh vương, chăm chỉ chuyên cần, để báo đáp một phần nhỏ nhoi “long ân” trời biển của bệ hạ! – Sau đó đứng dậy đón nhận thánh chỉ. Lúc ấy hoạn quan nội triều hô lớn “Bãi triều”. Tiếp sau đó, các cung nữ cầm quạt “rồng bay phượng múa dưới ánh mặt trời” vây lấy vua Tần Chiêu Vương và về cung. Còn lại thái tử An Quốc Quân, Tử Sở, Lã Bất Vi và Phạm Thư, Đỗ Thương, Mông Ngao, Trương Đường, Vương Hột… Tất cả đều cung kính đứng nhìn để tiễn đưa nhà vua rời triều, sau đó mới lần lượt ra về theo ngôi thứ của mình. Lã Bất Vi tuy được phong làm “khách khanh”, nhưng lại là thầy học của công tử Tử Sở, cho nên không xây nhà (phủ đệ) riêng, mà được dành riêng một cung trong khuôn viên của đông cung, để tiện cho ông ta trong việc dạy học Tử Sở. Nếu so sánh Lã Bất Vi và Phạm Thư thì khác hẳn nhau. Tuy là đại thần trong triều cả, nhưng Lã Bất Vi thì nhẹ bước thanh vân, như diều gặp gió, hiển hách vinh quang. Còn thừa tướng Phạm Thư thì ngôi cao chực đổ, liên lụy nhiều điều, “tội” “nhục” xen kẽ. Nhớ lại năm nào, Phạm Thư gièm pha tướng Bạch Khởi (Vũ An Quân), không ngần ngại đánh mất thành quả chiến thắng nước Triệu (mà Bạch Khởi sắp giành được), cốt để củng cố quyền thế và địa vị của mình. Vì vậy, Bạch Khởi bị bãi chức, cuối cùng bị vua Tần ban chết. Lúc đó thì Tần Chiêu Vương chưa biết sự thật, về sau, ngài dần dần hiểu ra. Nhưng ngài cũng không truy cứu trách nhiệm của Phạm Thư, cốt để che giấu sai lầm của mình do quá nhẹ dạ cả tin nên đã trừng phạt không đúng. Tuy nhiên, đối với Phạm Thư, thì điều này đã trở thành một mối lo canh cánh trong lòng, không bao giờ nguôi ngoai đi được. Nói chuyện xa là vậy, còn chuyện gần là việc Tần Chiêu Vương thiết triều vặn hỏi nguyên nhân thất bại ở Hàm Đan. Trong đó có việc hai vạn quân tăng viện của Tần đầu hàng quân Nguy. Tướng chỉ huy đạo quân này là Trịnh An Bình, một người do Phạm Thư tiến cử. Theo luật nhà Tần, Phạm Thư phải chịu liên đới trách nhiệm. Vua Tần thấy Phạm Thư từng có công lớn với đất nước, nên không trừng phạt. Nhưng trong đám quần thần, có nhiều người chỉ trích Phạm Thư về việc này, khiến Phạm Thư rất xấu hổ, ăn không ngon ngủ không yên. Để lập công chuộ tội, Phạm Thư kiến nghị vua Tần Chiêu Vương dưa quân đánh diệt nhà Chu [63], để lên ngôi hoàng đế. Sở dĩ Phạm Thư làm việc này là nhằm lợi dụng tâm lý vốn có của vua Tần Chiêu Vương: hiếu chiến, háo danh, háo công, luôn luôn muốn thôn tính thiên hạ để trở thành bá chủ. Trong khi đó, Tần Chiêu Vương cũng không cam tâm chịu đựng cái nhục thất bại ở Hàm Đan, nhất quyết phải tìm cách cứu vãn uy tín, giành lại uy quyền vốn có, bèn sai tướng Vương Hột đánh nước Tề. Hai người này đánh chiếm được một số thành trì, nhưng thành quả không lớn. Năm sau, lại sai tướng Doanh Liêu đánh nước Hàn, chiếm được thành Dương Thành và Phụ Thử, trực tiếp đe dọa nước Tây Chu ở bên cạnh. https://thuviensach.vn Tây Chu lúc này đã ở vào thời kỳ cuối cùng của triều đại nhà Chu sau khi trải qua mấy trăm năm thay ngôi đổi chủ, biến động triền miên. Thế của nước Chu lúc này như ngọn đèn trước gió. Huống chi, lại còn phân chia thành Đông Chu và Tây Chu với hai hệ thống chính quyền riêng rẽ, một ở Lạc Dương, một ở Củng Huyện, lực lượng bị dàn mỏng, rất dễ bị đánh bại. Trong lúc đó, vua Noãn Vương nhà Tây Chu là người nhu nhược bất tài, không thể chống đỡ nổi quân Tần hùng mạnh đang áp sát chân thành, đến nỗi không dám nghênh chiến, sẵn sàng đầu hàng, quân sĩ chán nản, lòng người hoang mang. Phạm Thư bèn xúi giục vua Tần tập trung binh lực để đánh Tây Chu, kẻ chiêu tập các nước chư hầu để chống lại nước Tần, chứ không nên phân tán lực lượng. Nếu đánh dược Tây Chu thì sẽ lên ngôi hoàng đế, hoàn thành sự nghiệp bá chủ. Tần Chiêu Vương nghe lời Phạm Thư, sai đại tướng Doanh Liêu đưa hai mươi vạn quân đi qua Dương Thành, tấn công Tây Chu. Doanh Liêu đưa quân vây chặt ngoài thành, đánh trống thổi tù, rung trời dậy đất đập vỡ cổng thành. Vua Tây Chu Noãn Vương dẫn triều thần ra quỳ lạy xin hàng, dâng cho Tần toàn bộ ba mươi sáu thành trì, ba vạn nhân khẩu; lại còn tự mình đến Hàm Dương bái yết vua Tần Chiêu Vương, tự trách mình đã liên hợp chư hầu đem quân đến núi Y Khuyết để tấn công nước Tần, và xin chịu hình phạt. Hạ nhà Chu lần này rất thuận lợi, Noãn Vương lại đích thân đến xin chịu tội, thái độ có vẻ rất khiếp sợ, đáng thương hại, nên không giết ông ta, chỉ cắt bỏ chữ “vương”, giáng xuống làm “công”, và cho phép ông ta đến ở tại đất phong là Lương. Vì làm một ông vua mất nước, phải sống lưu vong, Noãn Vương không khỏi tưởng nhớ quê hương đất nước nên đau buồn rồi sinh bệnh, không lâu sau thì chết. “Vua mất thì nước không còn”. Đó là lý do mà Chiêu Vương nhà Tần đưa ra để ra lệnh cho Doanh Liêu đưa quân san bằng đền thờ tổ của nhà Chu. Đưa một đội thuyền lớn chở chín cái đỉnh lớn tượng trưng cho chủ quyền quốc gia của Chu từ Lạc Dương về Hàm Dương của Tần. Tuy nhiên, một ngày trước khi chở đỉnh về nước, bỗng dông bão nổi lên đùng đùng suốt đêm. Ngày hôm sau, chiếc đỉnh của Châu Dự trong số chín chiếc đỉnh của nhà Chu không cánh mà bay. Tìm mãi không thấy, Doanh Liêu và Trương Đường chỉ còn cách nói dối rằng chiếc đỉnh đó đã rơi xuống sông Tứ Thuỷ, mò mãi không thấy. Từ đó việc mất một chiếc đỉnh của nhà Chu trở thành câu chuyện bí hiểm thiên cổ, không ai giải thích nổi. May mà lúc ấy vua Tần Chiêu Vương đang say sưa vì diệt được Chu, lại lấy được đỉnh, nên việc mất một chiếc đỉnh, ngài cũng không thật chú trọng truy cứu nữa. Ngài đang vội lo mở rộng đền thờ nhà Tần để đặt tám chiếc đỉnh lớn mới giành được. Ngài lấy tên của tám quẻ[64] trong sách Chu Dịch để đặt tên cho tám chiếc đỉnh và đặt chúng theo đúng vị trí của tám quẻ ấy. Đó là: càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn. Vua Tần coi đó là đã làm xong việc chuẩn bị để xưng đế. Với tư cách là người chủ định việc đánh diệt nhà Chu, thừa tướng Phạm Thư có công lớn, vì vậy cái cảm giác mắc tội vốn có từ trước, nay cũng tiêu tan. Thay vào đó là một bộ mặt đắc chí. Tiếp theo đó là triều đình nhà Tần mời các nước đến dự lễ tế đỉnh và nạp cống cho nhà Tần. Trong buổi lễ long trọng ấy, các nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn đã cử thừa tướng đến dự, riêng nước Ngụy không đến. Vua Tần Chiêu Vương cho rằng đó là làm nhục mình, bèn sai Vương Kê, tướng bảo vệ quận Hà Đông, đưa quân đột kích nước Ngụy. Nhưng Vương Kê là tướng chốt giữ biên giới, có quan hệ rất tốt với nước Ngụy, đã không tấn công Ngụy, mà còn thông báo cho Ngụy biết chủ trương đánh Ngụy của vua Tần. Sau đó, vua Ngụy vội vàng sai sứ sang Tần tạ tội. Lại còn đưa thái tử đến Tần làm con tin. Đây là một hiện tượng không bình thường, vì trước đó thì Ngụy không đến dự lễ tế đỉnh, tỏ ra ngạo mạn, sau thì hạ mình cung kính. Vua Tần Chiêu Vương rất hoài nghi. Ngài gọi tướng Vương Kê tới xét hỏi. Vương Kê nhận tội đã thông đồng với địch. Tần Chiêu Vương nổi giận, chém đầu Vương Kê ngay trước mặt triều thần. Điều đáng chú ý là Vương Kê cũng do Phạm Thư tiến cử. Nếu kết hợp việc này với việc Trịnh An Bình hàng Ngụy trong trận đại bại ở Hàm Đan (Trịnh An Bình cũng do Phạm Thư tiến cử), thì rõ ràng là Phạm Thư không phải ngẫu nhiên nhìn nhầm người! Lần này, Phạm Thư lẽ ra cũng phải chịu tội liên đới với Vương Kê và cũng bị xử tử. Thật là họa vô đơn chí. Trong lúc Phạm Thư đang hoang mang lo lắng, thì Thái Trạch, một thuyết khách hùng biện của nước Yên đến Hàm Dương. Trước khi gặp vua Tần, Thái Trạch tung tin nói rằng https://thuviensach.vn mình là một hiền tài bác học hùng biện, chỉ cần được gặp vua Tần, thì nhà vua sẽ đưa ông ta lên làm thừa tướng, thay chân Phạm Thư. Phạm Thư tự cho mình là người biết rất rõ những việc từ thời “Tam hoàng Ngũ đế”[65], các học thuyết của bách gia chư tử; biết bao nhiêu nhà du thuyết hùng biện đều ngã gục trong tay ông, chẳng lẽ lại sợ một kẻ vô danh tiểu tốt như Thái Trạch giành mất chức vụ của mình? Nghĩ vậy, bèn cho mời Thái Trạch đến gặp. Khi Thái Trạch đến, thấy Phạm Thư, Thái Trạch cũng không quỳ xuống, chỉ chắp tay chào. Phạm Thư thấy bộ dạng và mặt mũi Thái Trạch xấu xí, hai vai rộng, mũi dẹt, lông mày dựng ngược, chân vòng kiềng, ông ta (Phạm Thư) trông thấy chẳng ưa mắt tí nào, bèn hỏi nhỏ Thái Trạch: “Có phải ông từng nói rằng ông sẽ làm thừa tướng thay tôi phải không?”. Thái Trạch bèn nói toạc ra, chẳng kiêng nể gì. Phạm Thư yêu cầu Thái Trạch nói rõ lý do. Thái Trạch than rằng kiến thức của ông (Phạm Thư) quá kém cỏi, một năm bốn mùa, hết xuân đến hạ, hết hạ đến thu, đông; cũng như người hiền tài sinh sau sẽ thay thế các bậc tiền bối, đó là quy luật rất tự nhiên, không thể tùy thuộc vào ý chí ai. Những người có công lớn rất xuất sắc của triều đại trước như Thương Ưởng của Tần, Ngô Khởi của Sở, Văn Chủng của Việt[66] đều chết bất đắc kỳ tử. Vậy ông có muốn như vậy không? Phạm Thư biết rằng Thái Trạch đang nêu lên một vấn đề nan giải, nhưng vẫn nói rất cứng rằng, những người ấy trung với vua, giữ nghiêm luật pháp, hết lòng vì đất nước, dù đều bị xử tử, nhưng là chết quang vinh, chẳng có gì là không tốt. Thái Trạch nói: – Người làm tôi phải gặp đức vua khoan dung nhân hậu, mới có thể hiến dâng trọn vẹn. Thử hỏi, xét về các mặt như: được mọi người tin cậy, có sự đôn hậu với mọi người, có tình nghĩa sâu nặng với bầy tôi và không trở mặt, bội bạc và trừng phạt công thần, thì đức vua mà ông phụng mệnh, có sánh được bằng Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương và Việt Vương Câu Tiễn từng trọng dụng Thương Ưởng, Ngô Khởi, và Văn Chủng hay không? Phạm Thư nói ấp úng: – Làm sao có thể sánh bằng được? Đến đây Thái Trạch bèn nói thẳng ra những nhược điểm của Phạm Thư. Ông ta nói: – Đức Vua của ông không bằng ba vị vua kia, công lao của ông cũng không bằng Thương Ưởng, Ngô Khởi và Văn Chủng. Ông lại còn đố kỵ và hãm hại người có tài, phản bội Bạch Khởi. Tướng Trịnh An Bình và tướng Vương Kê do ông tiến cử đều phản bội nhà Tần để quay sang Ngụy, người thì bị chu di họ tộc, người thì bị xử tử. Theo luật nhà Tần, lẽ ra ông phải lên đoạn đầu đài rồi. Vua Tần chưa trừng phạt ông, đó là còn may cho ông. Nhưng ông vẫn còn ngông nghênh tự đắc, khư khư giữ lấy chức quyền, không chịu tỉnh ngộ để tự động lui về. Nếu cứ để cho sấm sét giáng vào đầu rồi mới chạy, thì không kịp đâu. Cho nên tôi cho rằng ông làm như thế là không khôn ngoan chút nào. Phạm Thư hiểu ra vấn đề, bèn nói: – Ngài nói đúng, tôi đã từng nghe câu cách ngôn: “Cứ theo đuổi mãi thì sẽ đánh mất cái đã giành được; có rồi mà vẫn thấy chưa đủ thì sẽ đánh mất cái đã có”! Lời dạy của ngài, làm cho tôi sáng ra rất nhiều. Tôi nhất định làm theo ý của ngài. – Nói xong bèn cung kính mời Thái Trạch ngồi lên ghế trên, coi như thượng khách. Phạm Thư giữ Thái Trạch ở lại làm bạn với mình, ăn ở chân tình, tỏ ra hết sức khâm phục Thái Trạch có tư duy sâu sắc và nhạy bén, có kiến thức độc đáo và sâu rộng. Đặc biệt, nhờ có gợi ý và cảnh báo của Thái Trạch, mà Phạm Thư hiểu ra vấn đề, thấy rõ rằng vinh quang hay nhục nhã, thành công hay thất bại, đều phụ thuộc lẫn nhau, tương phản nhau nhưng cũng tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Thực tiễn càng diễn ra như vậy trong một thể chế lấy “nhân trị” làm nhân tố quyết định. Vì vậy, con người trong cuộc phải biết xử sự đúng mực với “công quá[67] vinh nhục” ; tức là phải biết như thế nào là đủ, chớ quá tham lam; khi được hiển vinh phải biết tránh điều nhục; khi lập được công phải nhớ đến sai lầm, không tiến lên được nữa tự khắc thoái lùi. Như vậy mới giữ được tiếng thơm đến cùng. Nghĩ đến đây, Phạm Thư cảm thấy như trút bỏ được gánh nặng trong lòng, tâm tình nhẹ nhàng thoải mái hẳn lên. Mấy hôm sau, sau khi tham dự thiết triều, Phạm Thư đến nội cung bái yết Tần Chiêu Vương. Ông nói: – Tâu hoàng thượng, có người khách tên là Thái Trạch, ở Sơn Đông đến, là người hùng https://thuviensach.vn biện kỳ tài, biết rõ chuyện của vua Hạ, Thương, Chu [68]; am hiểu cơ nghiệp của ngũ bá Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công… Đặc biệt, Thái Trạch nắm rất vững tình hình hiện tại, sự biến động của thế sự. Thật là một cây đại thụ mà nền chính sự đại Tần ta có thể dựa vào. Tần Chiêu Vương hỏi lại một cách thận trọng: – Có ngôi sao tuấn kiệt như vậy ư? Phạm Thư đáp chân thành : – Vi thần đã đi khắp chư hầu, trải nghiệm sâu rộng, quen biết rất nhiều anh tài hiền sĩ, nhưng không ai bằng Thái Trạch. – Nhưng so với thừa tướng thì như thế nào? – Chiêu Vương một lần nữa thăm dò thâm ý của Phạm Thư. Thừa tướng nói rất khiêm nhường : – Thần không bằng ạ! Thần không bằng ạ! Tần Chiêu Vương vẫn ngần ngại. Ngài hỏi: – Quả thật như vậy ư? – Bệ hạ có bao giờ thấy hạ thần khen người khác giỏi hơn mình chưa? Lúc này Tần Chiêu Vương mới thật tin. Ngài bảo Phạm Thư truyền chiếu, cho gọi Thái Trạch vào nội cung để ngài trực tiếp hỏi chuyện. Ngài nêu lên hàng loạt vấn đề như sự thăng trầm, hưng thịnh, suy vong của các triều đại trước ra sao? Thực trạng của các nước hiện nay và sự đối đầu giữa các nước đó với nhau, nguyên nhân tại sao? Xu thế phát triển của các nước…? Thái Trạch đối đáp lưu loát, phân tích sâu sắc, trích dẫn phong phú. Tần Chiêu Vương tỏ ra rất hài lòng, bèn phong Thái Trạch làm “khách khanh”. Sau khi Thái Trạch được bổ nhiệm không bao lâu, Phạm Thư bèn viện cớ có bệnh nên trao lại ấn tín thừa tướng cho Tần Chiêu Vương. Chiêu Vương không nghe, bắt Phạm Thư dù bị ốm cũng cứ phải tham dự chính sự. Phạm Thư bèn nói bệnh quá nặng, không thể làm việc được nữa. Tần Chiêu Vương đành phải chấp nhận cho Phạm Thư từ nhiệm, bãi chức thừa tướng của ông. Về sau, Chiêu Vương rà soát lại cẩn thận các tấu trình của Thái Trạch về nội chính, ngoại giao, chính trị, kinh tế, đều thấy rất hài lòng. Ngài rất mừng, bèn phong Thái Trạch làm thừa tướng, giao cho việc chuẩn bị chiến lược bành trướng sang phía Đông, đánh diệt hoàn toàn nhà Chu. Chỉ mấy tháng sau khi Thái Trạch được giao chức thừa tướng, đã có lời ong tiếng ve đả kích ông, cài bẫy làm hại ông. Thái Trạch sợ bị đố kỵ, do đó, có thể bị giết, cho nên cũng cáo bệnh và trao lại ấn tín thừa tướng. Sau đó, Thái Trạch ở lại nước Tần mười mấy năm, hiến kế bày mưu cho Tần Chiêu Vương, Hiếu Văn Vương (An Quốc Quân) và Trang Tương Vương (Tử Sở), tham gia bàn thảo đại sự của nhà Tần; cuối cùng phò tá Tần Thủy Hoàng. Sau cùng, Thái Trạch được cử đi sứ nước Yên. Ở cương vị này, ông cũng thu được kết quả rất tốt, nâng cao được uy tín của Tần. Bao năm sau, nước Yên khiếp sợ trước sức mạnh của nhà Tần, đã chủ động bày tỏ thiện chí với Tần, và đưa thái tử Đan sang Tần làm con tin. Do những cống hiến to lớn và phẩm chất của mình, Thái Trạch được tôn vinh là Cương Thành Quân [69]. Tại sao Phạm Thư và Thái Trạch lại có vai trò quan trọng như vậy trong lịch sử thời kỳ tiên Tần?[70] cố nhiên đó là do họ có công lớn trong thời kỳ phò tá Tần Chiêu Vương. Điều quan trọng hơn là do họ biết kịp thời quả quyết rút lui khi đã đạt tới đỉnh cao hiển vinh của mình, như thế mới giữ được cải tiết tháo, danh thơm lúc cuối đời. Quả là họ đã làm theo đúng câu cách ngôn trong sách “Thư kinh”[71]: “Thành công chi hạ, bất khả cửu xứ” (“khi đã thành công, không thể ở lâu). Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, nhiều người ganh đua chèn ép nhau, đố kỵ nhau, thậm chí đấu đá hãm hại nhau, họ (Phạm Thư và Thái Trạch) làm như vậy là khôn ngoan, tinh đời. Đúng như nhà viết sử Tư Mã Thiên từng tóm lược rằng: câu “dài tay áo, dễ múa; lắm tiền tài, dễ buôn” mà Hàn Phi nói cũng có nghĩa là: người có tài trí xuất chúng, thường biết cách sử dụng và phát huy cái thế mạnh đó của mình. Lịch sử thời bấy giờ cho thấy, Phạm Thư và Thái Trạch đã thăng tiến đến chức đại https://thuviensach.vn thần, thừa tướng, lại giữ được trọn vẹn công danh đến cuối đời, thật là quá hiếm. Bởi lẽ biết bao hiền tài khác đương thời, hoặc là suốt đời sáng vác ô đi tối vác về không có gì khởi sắc; hoặc là công lao hiển hách nhưng rồi bất đắc kỳ tử! Cho nên cái thành công của hai nhân vật trên là ở chỗ họ hiểu rõ cái ranh giới của vinh và nhục và biết kịp thời tiến và lùi. Thái Trạch biết sống “khôn sống mống chết”, “có thân phải biết lo thân”, “quân tử phòng thân” (“minh triết bảo thân”, “cấp lưu dũng thoái”), cho nên ông đã giữ được tiếng thơm và khí tiết cho đến cuối đời. Như vậy: có thể nói, ông đã “công thành danh toại”. Chính Thái Trạch đã viết nên những trang sử hết sức lạ lùng và bí hiểm của nước Tần và của cả Trung Quốc. Đó là vì ông đã chỉ làm thừa tướng mấy tháng rồi từ chức. Trong thời gian bốn năm, kể từ khi ông từ chức (năm 255 trước Công nguyên, năm thứ 52 Chiêu Vương) cho đến năm Chiêu Vương mất (năm thứ 56 Chiêu Vương), không thấy có ghi chép ai kế vị thừa tướng của Thái Trạch, mặc dù lúc đó việc chép “quốc sự” hàng ngày đã rất có nề nếp. Đó là điều vô cùng kỳ lạ của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi đó. Hơn nữa, đàng sau cái vỏ bề ngoài đầy màu sắc kỳ bí đó, lại ẩn giấu một sự thật lịch sử bí hiểm. Sự thật đó được ghi trong sách “Chiến Quốc sách. Tần sách” (mặc dù những điều ghi chép của “Chiến Quốc sách. Tần sách” về Lã Bất Vi đến Hàm Dương du thuyết, khác rất xa so với những ghi chép của nhà chép sử Tư Mã Thiên trong “Sử ký” như sau: Lã Bất Vi nói với Dương Tuyền Quân, em hoàng hậu vua Tần rằng, nhà vua tuổi đã cao, hoàng hậu không có con, Tử Hề được kế vị cơ nghiệp của vua, Đỗ Thương lại phò tá Tử Hề. Một khi nhà vua băng hà, Tử Hề được lập làm thái tử, Đỗ Thương được trọng dụng…”. Tử Hề là con trưởng của AQuốc Quân, từ nhỏ được sống và trưởng thành trong cung đình; cho nên, Tử Hề đương nhiên là người được An Quốc Quân chọn làm thái tử để kế vị ngôi vua sau này. Nhưng khi vua Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân kế vị ngôi vua, nhìn lại bốn năm trước đó (từ khi Thái Trạch thôi làm thừa tướng), nhân vật thực tế làm công việc của Thái Trạch trong “thời gian chân không” đó, phải là Đỗ Thương. Nhưng tại sao sử liệu nhà Tần không ghi chép việc đó? Nguyên nhân như sau: Từ lâu, Tử Hề đã dòm ngó cái ngôi báu thái tử đông cung. Vì vậy, khi vua Chiêu Vương (ông nội của Tử Hề mất, cha là thái tử An Quốc Quân kế vị ngôi vua, nhân lúc mọi người đang bận rộn với việc quốc tang, Tử Hề đã để cho thừa tướng Đỗ Thương triệu tập các đại thần để bàn bạc và nhất trí ủng hộ việc lập Tử Hề làm thái tử. Sau khi quyết định như vậy, bèn mời An Quốc Quân đến (lúc này là Hiếu Văn Vương). Thừa tướng Đỗ Thương nói với nhà vua mới rằng: Theo phép tắc truyền thống và thể chế truyền ngôi xưa nay của nhà Tần, thì con trưởng của nhà vua phải được lập làm thái tử. Đó là việc làm chính đáng, không ai ngăn cản được. Lúc ấy Hiếu Văn Vương đang trong thời gian làm lễ tang cho vua cha, lại vừa mới gánh vác trọng trách quốc sự, trăm công nghìn việc, rối như mớ bòng bong, ruột gan như lửa đốt; nay lại bị Đỗ Thương và các đại thần hùng hổ gây sức ép. Vì vậy ngài buộc phải đồng ý lập con trưởng Tử Hề làm thái tử. Tin trên được lan ra, Tử Sở và Lã Bất Vi rất bàng hoàng vì quá bất ngờ, bèn vội đến gặp hoàng hậu Hoa Dương bẩm báo: – Thần được biết bệ hạ đã nghe theo ý kiến của thừa tướng Đỗ Thương và các đại thần, lập Tử Hề làm thái tử. Hoàng hậu sẽ làm gì bây giờ, xin mau quyết sách. – Vừa qua, đại vương phải hầu hạ thuốc thang cho tiên vương. Nay lại đang thời gian lễ tang, không có lúc nào để nhìn ngó tới việc lập thái tử. Không ngờ thừa tướng Đỗ Thương đã thừa cơ tấn công trước, còn đại vương đang ở trong thế “thân cô thế cô”, đành phải gật đầu chấp nhận. Ta tuy là hoàng hậu và đứng chủ chánh cung nhưng rất ít tham dự chính sự. Vả lại, sự việc diễn ra rất mau lẹ, bất ngờ, không kịp đối phó. – Hoàng hậu Hoa Dương nói, tỏ ra rất bối rối, bế tắc. Tử Sở buồn rầu than vãn: – Thầy Lã Bất Vi khuynh gia bại sản, bản thân con suýt nữa chết cay chết đắng trong nhà tù của Triệu; cha mẹ cũng đã khắc chữ vào ngọc bội nhận con làm thừa tự; hằng mong sẽ được sắc phong đúng như những gì đã làm. Nhưng… – Tử Sở không dám nói tiếp những gì thực tế đã diễn ra, chỉ nức nở nghẹn ngào. Lúc này, Lã Bất Vi dùng chiến thuật lùi để tiến, nói rất khéo rằng: – Vi thần đã cố gắng làm thỏa lòng hoàng hậu trong việc nhận con thừa tự, đã giúp https://thuviensach.vn công tử thực hiện ước mơ quay về với người thân, thần đã hết sức chèo chống một mình, nhưng nay đã đổ hết xuống biển xuống sông, thật là uổng công vô ích. Tuy nhiên, hoàng hậu và công tử không phải chỉ mất cái danh nghĩa mẹ nuôi và danh phận con trưởng mà thôi. Vì nếu như Tử Hề và Đỗ Thương nắm được quyền thế, hoàng hậu ắt sẽ bị bãi chức chánh cung, công tử lại sẽ bị vứt bỏ. Chẳng lẽ hoàng hậu và công tử lại để cho ý tưởng to lớn năm nào phút chốc trở thành mây khói? – Đúng thế, thưa mẫu hậu! Tử Hề và Đỗ Thương nhất quyết không bỏ qua cho mẹ con ta. Bây giờ phải làm như thế nào đây? – Tử Sở bất giác khóc nức nở. Hoàng hậu Hoa Dương cũng không cầm được nước mắt, nói với Lã Bất Vi như cầu khẩn: – Tình hình đột biến. Lòng ta rối như tơ vò, rất mong Lã tiên sinh mau mau tìm cách ứng phó… Lã Bất Vi ngập ngừng giây lát rồi nói: – Muốn tháo khuy phải tìm người đã cài khuy. Không ai khác ngoài thánh thượng. Nếu ngài không ra tay, thì vô phương cứu chữa. – Người đời nói: Vua không nói chơi. Nay đại vương đã hứa rồi! – Hoàng hậu Hoa Dương nói, trong lòng rất lo lắng. Tử Sở cũng gật đầu lia lịa và nói : – Đúng thế! Cái khó chính là ở chỗ đó. – Đại vương đã lên ngôi, nhất quyết không thể nói lời rồi lại nuốt lời. Nhưng việc này nếu thẳng thắn can gián, rất sợ nói năng không khéo sẽ làm hỏng việc. – Lã Bất Vi thận trọng hơn; ông nói ra những điều mà mình suy nghĩ. – Tiên sinh nói rất phải, vậy thì làm thế nào để khỏi hỏng việc? Hoàng hậu tỏ ra sốt ruột, hỏi lại. – Mỗi khi có quốc tang thì cả nước đều đau thương cho nên phải xuất phát từ tình hình đại cục để góp ý với đại vương, như vậy mới làm vơi bớt nỗi đau buồn của ngài, nhằm giữ vững ngôi vị chánh cung hoàng hậu, và bảo vệ danh phận con trưởng của công tử. Hoàng hậu thở dài, nói : – Lúc này mà cứ nói đại cục với tiểu cục làm gì cơ chứ? ngay cái thân phận của ta dây còn chưa yên nữa là! Tử Sở vội thúc giục Lã Bất Vi: – Xem ra thầy Lã Bất Vi đã suy nghĩ cả rồi, vậy xin thầy đến bẩm tấu với đại vương là hay nhất. – Ồ! Không thể được. Không thể được. Việc này có liên quan đến số phận của ba người chúng ta ở đây, nếu một trong ba chúng ta di nói chuyện này sẽ chẳng hay ho gì. – Lã Bất Vi vừa nói vừa xua tay. – Ngài và ta không đi nói, vậy ai nói cho đây? – Hoàng hậu nói thêm, bà thấy khó gỡ quá. – Việc này rồi sẽ có cách… Lã Bất Vi cười có vẻ bí hiểm. Nói xong, Lã Bất Vi hạ giọng, thì thầm to nhỏ với hai mẹ con hoàng hậu. Người ngoài chẳng nghe rõ ông ta nói gì, chỉ thấy ông mặt mày hớn hở, còn hoàng hậu và công tử thì rất chăm chú lắng nghe. Sau khi bàn định xong xuôi, Tử Sở và Lã Bất Vi rời ngay khỏi đông cung, để khỏi bị lộ, gây nghi ngờ cho mọi người. Còn hoàng hậu Hoa Dương thì tỳ tay nghiêng đầu vào mép bàn để tĩnh tâm nhớ lại mọi việc mà Lã Bất vi vừa nói, để theo kế đó mà hành sự. Theo tục lệ cổ, dù nhà vua chết vì lý do gì (bệnh, tử trận, bị thích khách giết) lễ tang đều phải tiến hành đủ bốn mươi chín ngày, chia làm bảy tuần. Chỉ khác nhau ở mức độ: hậu hay bạc (mỏng), đơn sơ hay phong phú (phồn). Ngày cuối cùng của mỗ tuần, đều phải làm lễ tế rất long trọng, để tỏ lòng thương nhớ của con cháu; và cầu thần linh và tiên https://thuviensach.vn vương ban phúc. Lúc này, tang lễ của Chiêu Vương đã đến tuần thứ bảy (tuần cuối cùng). Hiếu Văn Vương đang bận rộn tíu tít về công việc đó. Hoàng hậu Hoa Dương chờ đến khi Hiếu Văn Vương về đông cung và ăn cơm xong, bà bèn vội vàng bảo cung phi mang canh đến cho ngài. Sau đó, bà mới hỏi han đến lễ tế cuối cùng. Hiếu Văn Vương nói mọi việc đều sẵn sàng rồi và dặn dò các bộ phận hữu quan phải làm mọi việc theo đúng giờ đã định. Hoàng hậu thở dài nói rằng tiên vương tuổi cao, bị bệnh lâu ngày, lúc sắp mất không còn tỉnh táo, còn sinh ra lú lẫn, không nói một điều gì về quốc sự và những việc về con cháu, làm cho người làm dâu như bà rất không yên tâm. Vì vậy, đại vương có thể nêu chuyện này trong văn tế tuần chay cuối cùng này, để xem anh linh của tiên vương có phán xét gì không? Hiếu Văn Vương liên tục cảm tạ hoàng hậu. Ngài nói rằng bà đã suy nghĩ rất chu toàn, thật đáng mặt người chủ trì đông cung; và sai ngay thị vệ nội cung báo cho “chủ lễ” viết thêm nội dung vừa kể vào phần cuối của văn tế. Vừa vặn lúc ấy, Tử Sở và Lã Bất Vi bước vào để “vấn an” đại vương. Hoàng hậu bèn nói rằng việc này không cần đến ai khác, cứ bảo ngài Lã Bất Vi đến bảo “chủ lễ” sửa soạn văn tế cho thật tốt. Bà còn sai người đi mời thầy cúng và bà đồng nổi tiếng nhất ở Hàm Dương đến cúng bái và làm lễ phù phép để cầu xin anh linh tiên vương giáng thế. Lã Bất Vi nói ngay: “Xin tuân mệnh thánh dụ của bệ hạ và ý chỉ của hoàng hậu”. Nói xong bèn cúi mình lui ra. Vào giờ Dậu (từ năm đến bảy giờ chiều) của ngày thứ bảy tuần chay cuối cùng, lễ tế long trọng uy linh được tiến hành tại thái miếu nhà Tần. Có mặt đông đủ các thành viên hoàng gia, thừa tướng, tướng lĩnh, các đại thần người nước khác (khách khanh), các sứ giả và con tin các nước. Mọi người đều đến để thành kính tiễn đưa anh linh tiên đế quang vinh của đại Tần. Khói hương nghi ngút, ánh đuốc lung linh, sáng rực lửa vàng, chuông khánh rền vang, trống dậy liên hồi, nhạc buồn trầm lắng, trướng bay rợp trời. Chưa bao giờ có một cuộc cúng tế linh hồn người quá cố trang nghiêm long trọng hoành tráng đến thế. Thật là không tiền khoáng hậu. Mọi chuyện đang diễn ra theo đúng trình tự đã sắp xếp từ trước. Sau khi dâng rượu và hiến tế “tam sinh” (bò, lợn, dê), nhà vua Hiếu Văn Vương dẫn đầu con cháu và quần thần khấu đầu ba lần, sau quỳ phủ phục xuống đất. Chủ lễ hắng giọng, cất cao lời đọc văn tế, lúc trầm lúc bổng, lúc chậm lúc nhanh, phân minh tiết tấu. Cuối cùng là các thầy cúng bà đồng chạy ra, tay cầm kiếm, vừa đi vừa nhảy múa, tóc xõa lồng bồng, đeo mặt nạ nền đen trắng đỏ với hình vẽ khuôn mặt hung ác dữ tợn ghê sợ, áo rộng thùng thình, mồm hát nghêu ngao, nhạc đệm rập rình. Trong cảnh tượng rộn ràng uy nghi đó, bỗng một thầy cúng nhảy lên bàn tế nói to lên rằng : – Ta là Chiêu Vương nước đại Tần đây! Mọi người nghe vậy liền phủ phục xuống đất, khấu đầu lia lịa: – Xin đón tiên vương giáng thế! Chỉ nghe vị “Chiêu Vương” ấy dõng dạc nói to: – Nay vừa mãn bảy tuần đại tế, ta về nghe cúng lễ. Vừa nghe văn tế, được biết vua tôi các ngươi tưởng nhớ đến ta, trung hiếu đôi bề, ta có lời khen – Nói xong ngài thét lớn – Đưa huyết tam sinh lại mau! Chủ lễ vội bê một chậu huyết lại trước mặt ngài “Chiêu Vương”. Ngài vội dúng ngón trỏ vào huyết và viết trên tấm vải thô trải trước bn tế, di chiếu như sau (dịch ý): Ta là Chiêu Vương, tháng trước về trời.. Bảy tuần nghe tế, triền miên quốc sự. Thái tử Quốc Quân, nối ngôi vương vị. Tuổi gần sáu mươi, thể chất suy nhược. Việc lập thái tử, phải thật cẩn trọng. Tử Hề tuy trưởng, nhưng lực bình thường. Đỗ Thương làm “tướng” đắc thế chuyên quyền. https://thuviensach.vn Nội tình rối loạn, ắt có ngoại xâm. Tử Sở hiền sáng, chí hiếu chí trung. Hoa Dương nhận con, ngọc bội làm “bằng”. Đã trình tiên tổ, bố cáo chư hầu. Cấp tốc sắc phong, ra mặt thiên hạ. Kế thừa cơ nghiệp, mở mang đại Tần. Sau khi viết xong, ngài “Chiêu Vương” đưa ngón tay còn đầy huyết vào mồm, nuốt chửng ngon lành. Sau đó, thét lớn: “Đại vương ta hồi quy!”, rồi ngã vật xuống đất, hai mắt trợn ngược, chỉ còn lòng trắng, mồm sùi bọt mép, chân tay co giật, lên cơn động kinh. Một lúc sau mới thôi, nằm im như chết. Những thầy mo thầy cúng khác và cô đồng vội đến vây xung quanh, kẻ nói người hô: “Buổi tế hôm nay, trung hiếu thật lòng, rung cảm trời đất, tiên vương giáng trần, viết lời thánh dụ. Vì vậy mà ngài thuật sư này mệt mỏi quá mức…” Hiếu Văn Vương vội sai người trọng thưởng cho đám thầy mo cô đồng. Việc tiên vương giáng trần viết thánh dụ diễn ra trước hàng trăm con mắt. Bản thánh dụ nền trắng chữ đỏ, chỉ rõ chọn ai làm thái tử, lại còn nói Tử Hề bất lực, Đỗ Thương không thể tin cậy vì ông ta sẽ gây ra rối loạn nội bộ, do đó dẫn đến ngoại xâm. Điều này là đại sự quốc gia, ai dám không nghe, ai dám kháng chỉ! Vì vậy, Tử Hề bị giáng xuống làm dân thường, Đỗ Thương cũng không được dùng nữa. https://thuviensach.vn HỒI THỨ BẢY THỪA TƯỚNG LÃ BẤT VI ĐƯA QUÂN DIỆT ĐÔNG CHU CHÀNG NIÊN THIẾU DOANH CHÍNH LÊN NGÔI BÁU C hắc hẳn là âm hồn của vua Tần Chiêu Vương không thể nào ngờ rằng ở dưới hạ giới lại có một vở kịch đứng tên ngài viết di chiếu vào ngay buổi tối cuối cùng của tuần tế thứ bảy; mà vở diễn lại được thể hiện kỳ bí và uy nghiêm đến thế! Mặc dù tất cả những người có mặt không ai kịp suy nghĩ xem màn diễn ấy là do đâu và đằng sau nó là ai, họ chỉ kịp chấp nhận bản di chiếu mang danh Tần Chiêu Vương được viết bằng máu của “tam sinh” (bò, lợn, dê); và màn diễn ấy đã làm tan biến thành mây khói giấc mơ của Tử Hề, con trưởng của Hiếu Văn Vương, từng ôm ấp bấy lâu ngôi báu đông cung và của Đỗ Thương, người kế nhiệm Thái Trạch, đang dòm ngó mãi cái ghế thừa tướng. Tử Sở được phong làm thái tử; việc này đã có ngọc bội làm bằng chứng. Thêm vào đó, “Chiêu Vương” hiện hình thuyết pháp và mọi người dự lễ “tận mắt chứng kiến”. Cho nên ngôi báu thái tử thuộc về Tử Sở là không có gì phải bàn cãi nữa. Tuy âm mưu chiếm ngôi báu thái tử của Tử Hề và Đỗ Thương cuối cùng phải chịu thất bại, nhưng việc Tử Hề và Đỗ Thương lợi dùng thời cơ để thực hiện ý đồ của mình cũng làm cho hoàng hậu Hoa Dương, công tử Tử Sở và Lã Bất Vi “khách khanh” giật mình. Nay thì mọi chuyện đã êm đẹp rồi, nhưng cả ba người vẫn còn lo sợ. Cả ba người đều thấy rằng cái vinh, cái nhục và sự thành bại của họ là gắn liền chặt chẽ với nhau, tuy ba mà là một. Vì thế, cần phải làm thế nào để Lã Bất Vi có quyền và địa vị hơn nữa. Tuy nhiên, nhà vua Hiếu Văn Vương lại có ý kiến riêng của ngài về việc lựa chọn thừa tướng. Trước đây, Tần Chiêu Vương quá chuyên quyền và bám giữ ngôi vị quá lâu, cho nên An Quốc Quân giữ chức thái tử trong một thời gian quá dài. Trong thời gian đó, lại không hề tham gia việc chính sự và quân sự của triều đình. Mãi đến khi đã năm mươi tám tuổi, mới được kế ngôi vua. Lúc này ngài hoàn toàn không còn đủ tài năng, trí tuệ và tinh lực để đáp ứng trọng trách. Cho nên, cần có một vthừa tướng đắc lực phò tá, ngài mới có thể ứng phó công việc triều chính hàng ngày. Với suy nghĩ đó, Hiếu Văn Vương thấy có hai người có thể lựa chọn. Người thứ nhất là Đỗ Thương. Đỗ Thương đã phò tá tiên vương rất lâu. Trong suốt hai mươi năm chủ trì triều chính của Chiêu Vương, Đỗ Thương là bộ óc quan trọng của triều đình: Hơn nữa, ông ta là bậc bề trên đã dạy dỗ Tử Hề trưởng thành trong một thời gian lâu dài. Một người nữa là Thái Trạch. Ông này là người kế nhiệm Phạm Thư. Thái Trạch đã nêu lên những đường hướng cơ bản của chiến lược phát triển sắp tới. Ông ta đã thôi chức thừa tướng, đó là do quan hệ cá nhân căng thẳng lúc đó buộc ông ta phải rút lui; chứ thực ra, ông vẫn rất muốn đóng góp. Chỉ cần chọn một trong hai người đó làm thừa tướng, thì cái ngôi vua này của mình mới ổn. Nghĩ vậy, nhà vua bèn cho gọi Lã Bất Vi vào nội cung để gặp và nói cho Lã Bất Vi biết suy nghĩ của mình. Nhà vua nói: – Trẫm nay tuổi đã cao, gần sáu mươi mới lên ngôi vị. Hàng ngày thiết triều, trăm công nghìn việc, rất khó chu toàn. Mong khanh góp ý giúp trẫm tìm một nhân tài để phong làm thừa tướng, phò tá cho trẫm và giúp việc trong triều. Lã Bất Vi nghĩ rằng nhà vua cho gọi riêng mình, lại vừa bước vào đã thấy ngài nói ngay đến việc bổ nhiệm thừa tướng, cho nên, đây chắc chắn là ngài muốn chọn mình đây! Mặc dù nghĩ vậy nhưng Lã Bất Vi cũng phải làm một động tác để thăm dò ý tứ của nhà vua. Nghĩ vậy, bèn nói: – Đại vương nói rất phải. Nước không thể một ngày không có Vua. Vua không thể một ngày không có thừa tướng. Chẳng hay đại vương đã chọn ai? Hiếu Văn Vương nói rất trịnh trọng: – Chỉ có hai người đã từng phụng sự tiên vương, đã có tài năng làm thừa tướng và cũng đã từng trải công việc đó. – Nhưng chẳng hay đại vương muốn chọn ai? – Lã Bất Vi nghe nhà vua nêu lên những điều kiện đó, bèn hiểu ngay là mình không có phần, nên không khỏi cảm thấy chột dạ, tim đập mạnh. Tuy nhiên, ông ta cũng trấn tĩnh ngay lại và hỏi tiếp. https://thuviensach.vn Hiếu Văn Vương nói với giọng thăm đò: – Một người là Đỗ Thương, người kia là Thái Trạch, theo khanh thì ai hơn? Đối với Đỗ Thương, Lã Bất Vi chẳng coi là gì, vả lại ông cũng đã từng cho ông ta lao đao một phen rồi, nên cố ý nói rất nghiêm túc: – Tiên vương đã đích thân viết bằng máu bản thánh dụ, nói rằng nếu Đỗ Thương làm thừa tướng sẽ đắc thế chuyên quyền. Chẳng lẽ đại vương quên rồi hay sao? – Sao mà quên được. Trẫm nghĩ rằng Tử Hề coi Đỗ Thương là thầy, quyền lực rơi vào tay ông ta, nhưng ta chỉ dùng Đỗ Thương làm phò tá, lại còn luôn luôn canh chừng, không để cho chuyên quyền. – Hiếu Văn Vương suy nghĩ quá đơn giản. Lã Bất Vi nói với giọng rất nghiêm túc: – Ông ta đã nắm được Tử Hề trong tay, tất sẽ có dã tâm chuyên quyền. Lời dạy của tiên vương cần được ghi nhớ! Hiếu Văn Vương đành bác bỏ người thứ nhất vì cái gọi là “lời dạy của tiên vương”, và đành phải nêu người thứ hai: – Vậy còn Thái Trạch thì như thế nào? Khi bàn về Đỗ Thương, Lã Bất Vi đã suy nghĩ sẵn câu trả lời đối với người thứ hai. Lúc này, Lã Bất Vi tỏ ra có bộ óc rất sâu sắc, nhìn xa trông rộng, phản ứng nhạy bén, chẳng khác gì như một kỳ thủ có thể đi trước mười nước cờ, vì vậy ông mới được triều đình đại Tần trọng dụng. Ông thận trọng nhắc nhở nhà vua: – Năm xưa Thái Trạch chỉ khua môi múa mép một thôi một hồi là đoạt được cái chức thừa tướng của Phạm Thư, và được tiên vương liệt vào hàng ái khanh. Nhưng chỉ làm việc được ba tháng thì trong triều đã nổi lên biết bao điều chỉ trích, nên phải cáo bệnh xin lui. Ông ta tiến rất nhanh mà rút cũng rất đột ngột. Hành động của ông ta thật bí hiểm, tâm địa ông ta thật khó lường, thần không thể biết được con người này lòng dạ nông sâu thế nào. Trong khi đó thì bệ hạ lại khoan dung nhân hậu như thế! Xin đại vương suy xét cho thật kỹ! Lời nói của Lã Bất Vi không khỏi có chút dựng chuyện hoang đường, thổi phồng sự việc, vì vậy, đã làm cho Hiếu Văn Vương phải gạch bỏ hai người kia và chuyển sang Lã Bất Vi: – Theo ý khanh, Trẫm cũng không cố chấp nữa; nhưng phải sớm tìm được người thích hợp, để giúp Trẫm xử lý công việc. Lã Bất Vi biết rõ Hiếu Văn Vương rất sốt ruột, nhưng vẫn tránh câu trả lời thẳng, chỉ nói: – Nếu nhân tài thích hợp mà gọi một tng đến ngay, thì ngay bây giờ thần chưa thể nghĩ ra, xin cho phép thần xem xét thêm. Câu nói này của Lã Bất Vi nhằm để lót sẵn viên gạch cho con đường tiến thân của mình, chứ không vội vàng nhìn thấy mồi là vồ vào ngay. Khi ra khỏi nội cung, Lã Bất Vi tìm ngay Tử Sở, nói riêng câu chuyện giữa ông ta và nhà vua cho Tử Sở biết; rồi viết một văn bản nói rất tỉ mỉ kế mưu của mình, xong nhờ Tử Sở đưa cho hoàng hậu Hoa Dương. Sau khi xem xong, hoàng hậu rất mừng vì Lã Bất Vi đã biết được Hiếu Văn Vương đã có suy nghĩ về việc chọn người làm thừa tướng. Vì vậy mới có kế mưu tuyệt vời này. Nếu không, “bộ ba” này sẽ bị rớt lại đàng sau, thậm chí còn bị hất cẳng xuống vực sâu không biết chừng! Bà đã suy nghĩ kỹ và lén đốt bức thư viết trên lụa (kế mưu) của Lã Bất Vi để khỏi bị lộ. Sau đó, bà đến các phòng để xem xét tình hình các cung phi. Đặc biệt, bà đến phòng của Hạ Cơ, ngồi ở đó một lúc; nói cho Hạ Cơ biết tình hình gần đây của Hiếu Văn Vương, mãi đến gần tối mới về phòng mình. Hiếu Văn Vương vẫn chưa có quyết đoán gì, cho nên, sau khi cơm tối xong, ngài chủ động cho gọi hoàng hậu Hoa Dương và thái tử Tử Sở đến, nói cho hai người này biết câu chuyện chưa đến đầu đến đũa của ngài với Lã Bất Vi. Hoàng hậu trách ngài: https://thuviensach.vn – Sao việc nhân sự trọng đại thế mà đại vương không bàn trước với thần thiếp? Hiếu Văn Vương nói: – Các người không hiểu hết các đại thần, nên trẫm thấy không cần bàn. Tử Sở nói: – Mẹ con nhi thần không thể suy nghĩ thay cho phụ vương, nhưng cũng có thể nêu một số ý kiến để phụ vương xem xét thêm. Hiếu Văn Vương gật đầu cười và nói: – Vậy thì bây giờ Trẫm có thể nghe các người nói đây. Lúc này hoàng hậu mới nói: – Thần thiếp cho rằng Lã Bất Vi nói đúng, Đỗ Thương và Thái Trạch không thể lại được giữ chức thừa tướng, vì không còn thích hợp nữa. Các đại thần khác, thần thiếp không hiểu lắm, nên không dám có ý kiến; nhưng tại sao đại vương không xem xét Lã Bất Vi? Hiếu Văn Vương nói : – Trẫm cũng có nghĩ tới, nhưng ngại rằng ông ta là một thương gia, chưa từng tham dự công việc triều chính, lại chưa bao giờ tham gia vào những việc đại sự của nhà nước, như thế thì có giữ được trọng trách một thừa tướng hay không? Huống chi ông ta đến nước Tần chúng ta còn ngắn ngày quá… Tử Sở vội phản đối, Thái tử nói: – Lã Bất Vi đã giúp nhi thần, đã làm một việc rất lớn là giúp hoàng hậu nhận con làm thừa tự, chính ông ta cũng là người đã xông vào hiểm nguy để cứu nhi thần từ cõi chết trở về. Đó chẳng phải là đại sự của nước Tần hay sao? Còn nói về thời gian dài hay ngắn, thì Thái Trạch đến Hàm Dương, chỉ bảy ngày được phong làm khách khanh, một tháng sau được đưa lên chức thừa tướng. Có ai có thời gian ngắn hơn thế nữa không? Đến đây, Hiếu Văn Vương đã bị hai mẹ con hoàn toàn thuyết phục. Tiếp đó, hoàng hậu lại nêu lên mối quan hệ thân thiết giữa Lã Bất Vi và hai mẹ con bà để nhấn mạnh rằng Lã Bất Vi đã dốc hết tài sản và đưa cả nhà đến đây để cầu vinh, như vậy, ông ta chỉ còn một đường duy nhất là trung thành với chúng ta; vì thế, đó là phụ tá đáng tin cậy nhất của nhà vua. Cái chức thừa tướng không về tay ông ta thì còn ai nữa? Nghe vậy, Hiếu Văn Vương bèn quyết định phong Lã Bất Vi làm thừa tướng; tuy nhiên, vẫn lo ngại rằng trong số các lão thần sẽ có người không phục. Hoàng hậu liền đề nghị, mấy hôm nữa là Tết ngày rằm tháng Giêng, nhân dịp này nên mời các đại thần cùng chung vui, rồi nhân tiện thăm dò ý kiến của họ. Nhà vua và thái tử đều tán thành. Cuộc nói chuyện giữa ba người đã đưa đến kết quả đúng như sự gợi ý và dự kiến của Lã Bất Vi. Đêm hôm rằm tháng Giêng, trong khuôn viên cung đình, đâu đâu cũng treo đèn kết hoa, người dự hội đi lại như mắc cửi. Các hoàng thân quốc thích, các công chúa công tử, các văn võ đại thần, vừa thủng thẳng bách bộ, vừa xem hoa ngắm đèn, vừa chuyện trò to nhỏ. Họ cầu phúc cho năm mới, và cũng không quên bàn chuyện chính sự triều đình. Có người nêu lên câu hỏi rằng, nhà vua mới vừa mãn lễ tang bảy tuần chay tiên vương đã lên ngai thiết triều, nhưng ghế thừa tướng vẫn bỏ trống, chẳng biết vị quan văn nào có may mắn được giao trọng trách đó? Thế là mọi người nhao nhao lên, đoán già đoán non, người này người nọ, rất rôm rả. Vừa lúc ấy, nhà vua và hoàng hậu đi qua, nghe họ bàn tán vậy, bèn thừa dịp hỏi dò suy nghĩ của họ. Tất nhiên là khi đứng trước mặt nhà vua thì mọi người không dám nói, cứ ấp a ấp úng, chẳng ai chịu nói rõ ý kiến của mình. Rốt cuộc phải đến lượt hoàng hậu Hoa Dương đứng ra góp chuyện. Bà nói: – Để giúp vui, ta cùng nhau chơi trò “phù loan”[72] một lúc. Nghe vậy, mọi người vui vẻ hẳn lên. Thế là nhà vua hoàng hậu, Tử Sở… đi trước, các đại thần ùn ùn chen bước theo sau, cùng đến chỗ “đình ngắm mây” (át vân đình), ngồi thành vòng tròn. Một người bảo thị vệ nội cung gọi thầy cúng cô đồng đến. Một lát sau, một thầy cúng và hai cô đồng khiêng một khung gỗ lớn đựng đầy cát (sa bàn) đến đặt vào chính giữa. Sau khi thắp hương, đèn, thầy cúng đứng ở phía đầu, tay trái giơ cao làm động https://thuviensach.vn tác cầu khấn thần linh, tay phải đặt lên ngực, mồm lầm rầm tụng niệm nhỏ to. Hai cô đồng đưa tay làm cho mặt cát rất phẳng phiu, không để một chỗ nào lồi lõm không đều. Sau đó, mỗi người cầm một đầu của một thanh gỗ dài, ở giữa thanh gỗ đó lại có lắp một thanh gỗ nhỏ hơn, được lắp thẳng đứng tại điểm giữa của thanh gỗ ngang đó, mũi nhọn của thanh gỗ vừa chạm vào mặt cát, hơi ngập một chút xuống cát. Sau khi mọi việc đã xong xuôi, thầy cúng đứng ở phía trên bèn nhắm mắt lại, hỏi mọi người: – Thiên sư đã giá lâm, các người có việc gì cứ hỏi! Chưa ai kịp mở mồm, thì thái tử Tử Sở đã nhanh nhẩu hỏi: – Phụ vương đã lên ngồi ở ngai vàng, nhưng thừa tướng vẫn còn khuyết. Dám hỏi ai là người xứng đáng, xin thánh nhân phán truyền! Bỗng thầy mo ngẩng đầu lên trời, lẩm bẩm điều gì đó, rồi dõng dạc tuyên bố: – Thiên sư đã có lời phán truyền, xin hãy nhìn kỹ vào sa bàn. Mọi con mắt đều đổ dồn vào mặt cát phẳng lặng. Bỗng thấy cái đầu nhọn của thanh gỗ thẳng đứng kia bắt đầu chuyển động. Nó tự động vẽ ngang rồi vẽ dọc, sang trái rồi sang phải, từng chữ từng chữ cứ lần lượt hiện ra trước mắt mọi người: Ngày rằm cúng “phù loan”, thánh nhân đã lo toan. Hai khẩu mở to mồm, ngậm lại là “tiêu” luôn. Chữ Hàn còn một nửa; thừa tướng của nhà Tần [73]. Khi thanh gỗ ngừng chuyển động, thầy cúng nói to: – Phán truyền đã xong, thần xin bái biệt! Mọi người có mặt đều nhìn rõ mấy cây được viết rõ trên mặt cát và đều hiểu nội dung của nó: Lã Bất Vi làm thừa tướng phò tá vua Tần. Bỗng chốc có tiếng nói nhao lên từ mọi phía. Người thì tỏ ra rất kinh ngạc, người thì rất vui mừng và hoan hô, người thì thở dài thất vọng. Bỗng có người nói: – Thánh nhân ở trên trời mà linh thiêng như vậy. Thật tuyệt vời! Nhưng cũng có người lắc đầu bĩu môi: – Ý trời hay là ý người? Nhưng dù cho mọi người nói ngược nói xuôi thế nào, thì nhà vua, hoàng hậu và thái tử đã tin chắc vào lời phán truyền, tức là Lã Bất Vi phải là người thích hợp nhất để làm thừa tướng. Lã Bất Vi tỏ ra rất bất ngờ, tuy được trọng vọng nhưng không khỏi lo âu. Mới đầu, ông xua tay không dám nhận. Nhưng cuối cùng, ông nói: – Đã là ý trời thì xin tuân lệnh nhà vua. Vi thần xin đem hết tài hèn sức mọn để phò tá đại vương, kế thừa cơ nghiệp đại Tần. Như vậy, Lã Bất Vi được nhà vua Hiếu Văn Vương phong làm thừa tướng vào năm đầu tiên niên hiệu Hiếu Văn Vương (năm 250 trước Công nguyên). Lúc ấy là đầu năm, lúc mà Hiếu Văn Vương đang trong thời kỳ để tang vua cha, chưa làm lễ lên ngôi, thừa tướng cũng chưa được chính thức bổ nhiệm. Cũng may là hồi đó, các chư hầu đều đang ra sức khôi phục nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh liên miên, khôi phục sức mạnh của đất nước. Vì vậy, nước Tần đang chịu tang cũng được nghỉ ngơi một thời gian. Hiếu Văn Vương nhân lúc quan hệ ngoại giao tương đối hòa dịu, gửi thư cho vua Triệu là Hiếu Thành Vương, yêu cầu cho đưa vợ con thái tử Tử Sở về Tần. Khi Tử Sở vượt ngục ở ngoại thành Hàm Đan để chạy về Tần tám năm trước, vua Triệu hết sức tức giận, lúc đó ngài đã xử tử ngay Công Tôn Càn. Nhưng viên quan gác cổng thành ăn hối lộ của Lã Bất Vi thì vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Bởi vì, Lã Bất Vi có giấy thông hành của triều đình nhà Triệu cấp phát; quan canh cổng đã xem giấy hẳn hoi rồi mới cho Lã Bất Vi đi; nên được miễn truy cứu. Sau đó, nhà cầm quyền bắt đầu cuộc truy lùng để bắt mẹ con Triệu Cơ. Lúc bấy giờ, sau khi (thái tử Đan) lừa được Công Tôn Càn, cứu được Tử Sở trốn thoát, còn lại mẹ con Triệu Cơ đang đau khổ vì phải xa cách Tử Sở, thái tử https://thuviensach.vn