🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tấn Bi Kịch Y
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
TẤN BI KỊCH Y
—★—
Nguyên tác: The Tragedy of Y (1932) Tác giả: Barnaby Ross
Người dịch: Ngô Anh Tuấn
Nhà xuất bản Văn Học
ebook©vctvegroup
11-09-2018
https://thuviensach.vn
NHÂN VẬT
DRURY LANE - Nghệ sĩ kịch Shakespeare đã giải nghệ, có sở thích phá án. Một lần nữa cảnh sát New York phải nhờ ông phá một vụ án mạng bí ẩn chưa có lời giải.
Thanh tra THUMM - Cương trực, thẳng tính, là thanh tra của đội trọng án thành phố New York.
Công tố viên WALTER BRUNO - người đồng hành cùng thanh tra Thumm trong việc phá án.
Bác sĩ SCHILLING - Chuyên gia pháp y của hạt New York; thấp béo, với cặp mắt kiên định chuyên phát hiện dấu vết trên xác chết. Gia đình HATTER:
YORK - người bố, nhà hóa học, có thể còn viết văn.
EMILY - bà vợ độc đoán của York. Cai trị gia đình bằng bàn tay sắt.
BARBARA - con gái cả.
CONRAD - con trai, nhu nhược và ăn chơi phóng đãng. MARTHA - vợ Conrad, bị chồng ruồng rẫy và bị mẹ chồng chi phối.
JACKIE và BILLY - con trai của Conrad; ngỗ nghịch, ngang ngạnh và khôn sớm.
JILL - con gái út của York, sống với chữ S viết hoa.
LOUISA - mù, câm và điếc. Là đứa con duy nhất mà Emily thể hiện tình yêu thương.
https://thuviensach.vn
Bác sĩ MERRIAM - bác sĩ gia đình của nhà Hatter. Nắm được mọi thông tin sức khỏe của gia đình này.
Thuyền trưởng TRIVETT - vị thuyền trưởng nghỉ hưu có mối liên hệ kỳ lạ với một số thành viên nhất định của gia đình Hatter.
https://thuviensach.vn
NHẬP ĐỀ
“Những vở kịch như những bữa ăn… Mở màn là món khai vị nhẹ.”
https://thuviensach.vn
CẢNH 1
Nhà Xác
Ngày 2 Tháng Hai
9:30 P.M
Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác.
Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh.
Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo
https://thuviensach.vn
kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay.
Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả.
Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác.
Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm.
https://thuviensach.vn
Người ta chẳng tìm thấy dấu vết nào về hành tung của ông ta sau đó. Bà Hatter thì không tài nào giải thích nổi sự biến mất của chồng mình, ủy ban tìm kiếm người mất tích đưa ra giả thuyết rằng ngài Hatter đây đã bị bắt cóc hòng đòi tiền chuộc. Ý kiến này bị bác bỏ trên cơ sở là chẳng có tin tức nào được gửi đến gia tộc giàu có của ông ta từ bọn bắt cóc giả định kia. Những giả thuyết khác thì chình ình trên mặt báo: Ông ta đã bị sát hại, dẫn nguyên văn lời của một người rằng mọi thứ đều có thể nếu chuyện dính dáng đến gia tộc Hatter. Nhưng họ đã cương quyết phủ nhận điều đó; York Hatter là một người sống chừng mực chẳng làm mất lòng ai, một người kín đáo ít bạn bè và, tính đến giờ, không có kẻ thù nào. Một tờ báo khác, có lẽ dưới sức nặng của lịch sử đầy kỳ bí và sôi sục của nhà Hatter, đã táo bạo cho rằng thực ra ông ta chỉ đơn thuần là chạy trốn - trốn khỏi bà vợ mặt sắt, những đứa con lập dị và phiền phức, rồi cả đám người nhà gây nhức đầu hại não nữa. Giả thuyết này, một lần nữa, bị bỏ qua khi cảnh sát điều tra được tài khoản ngân hàng cá nhân của ông ta vẫn còn nguyên. Một thực tế nữa là cả cái phỏng đoán viển vông về “một tình nhân bí ẩn” cũng đã sớm chết yểu. Bà Emily Hatter, trong cơn điên tiết vì bị ám chỉ này nọ, đã xổ luôn một tràng rằng chồng bà nay gần bảy mươi rồi - cái tuổi mà chẳng mấy ai còn bỏ nhà, gia đình, và tài sản để theo đuổi cái thứ gọi là ảo mộng tình yêu gì đó. Suốt năm tuần lễ tìm kiếm không ngừng nghỉ, cảnh sát chỉ bám vào giả thuyết duy nhất - tự tử. Lần này thì có vẻ như họ đã đúng.
Thanh tra Thumm của tổ trọng án thuộc Sở Cảnh sát New York rất hợp để làm người chủ trì cho buổi tang lễ đơn sơ của York Hatter. Nét nào của ngài thanh tra cũng vừa xấu vừa thô: khuôn mặt nhàu nhĩ khắc khổ, cái mũi gãy, đôi tai dập nát, chân tay to bè và thân hình phương phi. Người ta hẳn sẽ tưởng ngài từng có thời kỳ là võ sĩ quyền Anh hạng nặng, các đốt ngón tay ghồ ghề xương xẩu, di chứng từ những đòn đánh mãnh liệt khi phá án. Mái tóc hoa râm nửa xám nửa đỏ, đôi mắt màu xám, khuôn mặt rám hồng. Thanh tra Thumm cho ta cảm giác vững vàng đáng tin cậy. Ngài cũng là dạng có đầu óc nữa. Khi hết giờ làm, Thumm lại là một người cương trực và lương thiện. Thumm có thừa kinh nghiệm với một cuộc chiến gần như tuyệt vọng.
https://thuviensach.vn
Nhưng chuyện này thì lại khác. Một vụ mất tích, nỗ lực tìm kiếm không thành công, một cái xác bị cá rỉa được tìm thấy. Và hàng tá dấu vết cần nhận dạng nữa. Mọi thứ đều để ngỏ và chưa thể kết luận gì, nhưng người thanh tra cảm nhận được rằng đây là một vụ giết người và nhiệm vụ của ngài là làm sáng tỏ câu chuyện này.
Bác sĩ Schilling, chuyên gia pháp y của hạt New York, ra hiệu cho người trợ lý, và cái xác trần trụi được nhấc khỏi bàn mổ để chuyển về băng ca. Thân hình béo lùn gốc Đức của Schilling khẽ cúi xuống bồn rửa cẩm thạch; ông rửa tay, khử trùng rồi lau thật khô. Khi đôi tay ngắn núc ních đã thật khô, ông lấy ra một chiếc tăm bằng ngà voi đã mòn kha khá và bắt đầu cẩn trọng xỉa răng. Viên thanh tra khẽ thở dài; công việc đã xong xuôi. Thời điểm bác sĩ Schilling xỉa răng cũng là lúc để bắt đầu nói chuyện.
Họ cùng nhau đẩy chiếc băng ca tới phòng chứa xác. Chẳng ai nói với ai một lời. Thi thể của York Hatter được đưa lên một tấm phản kim loại. Thumm quay ra dò hỏi, “Chưa cho xác vào ngăn sao?” bác sĩ Schilling chỉ khẽ lắc đầu.
“Kết luận thế nào, bác sĩ?”
Vị chuyên gia pháp y bỏ cái tăm khỏi miệng. “Một vụ rõ ràng, Thumm à. Ông ta gần như chết ngay tức khắc sau khi xuống nước. Các lá phổi cho thấy thế.”
“Ông bảo nạn nhân chết đuối ngay tức khắc ư?”
“Không. Ông ta không bị chết đuối. Ông ta chết vì nhiễm độc.” Thanh tra Thumm nhìn cái xác vẻ cau có. “Vậy đây là một vụ giết người, và chúng ta đã sai. Hồ sơ sẽ chất như núi cho xem.”
Cặp mắt nhỏ của bác sĩ Schilling khẽ lóe lên sau chiếc gọng kính vàng kiểu cổ. Trên cái đỉnh đầu hói nhẵn bóng kỳ cục của ông là một chiếc mũ vải xám nhỏ nhắn. “Thumm à, ngài khờ quá. Nhiễm độc chưa hẳn là do giết người… Có nhiều dấu tích của axit prussic trong cơ thể. Nhưng thế thì sao? Tôi chỉ dám nói ông ta đã đứng trên thành tàu, nuốt axit prussic, rồi nhảy hay thả mình xuống nước. Mà nước biển thì mặn. Thế có gọi là giết người không? Tự sát, Thumm à, và ngài đã đúng.”
https://thuviensach.vn
Vị thanh tra có vẻ bị thuyết phục. “Tuyệt! Rồi ông ta chết ngay khi chạm mặt nước - axit prussic giết ông ta phải không? Hay đấy.” Bác sĩ Schilling tựa vào tấm phản, đôi mắt ông hấp háy vẻ buồn ngủ. Ông ta lúc nào cũng buồn ngủ. “Nói là giết người thì hơi khó. Chẳng có dấu vết nào có thể quy cho tác nhân hữu ý cả. Chỉ có vài chỗ xương bị thâm và xước xát trên da thịt - vì nước biển như một chất bảo quản mà, hay là ngài cũng chẳng biết, hả cái đồ ngốc kia? - Thì không nghi ngờ gì chính là do cái xác bị va đập vào đá ngầm dưới biển. Những vết va chạm rõ ràng. Một bữa tiệc cho lũ cá.”
“À ha. Mặt ông ta không thể nhận dạng, rành rành là thế. Quần áo của ông ta để trên chiếc ghế gần đó thì như một đống giẻ rách, bị xé toạc và nhai nát. Sao chúng ta không phát hiện ra cái xác sớm hơn nhỉ? Một thi thể không thể nổi lềnh phềnh suốt năm tuần liền phải không?”
“Dễ hiểu mà, suy nghĩ đi. Ngài như kẻ mù ấy!” Vị chuyên gia pháp y vớ lấy tấm áo trùm ướt nhoẹt tả tơi của người chết và chỉ vào chỗ rách trên thớ vải sau lưng áo. “Cá rỉa đúng không? Không phải! Cái lỗ này bị thứ gì đó to và sắc đâm thủng. Thi thể ông ta đã bị móc vào một khúc cây dưới nước, Thumm à. Thủy triều hay một chấn động nào đó đã giải phóng nó ra, có thể là cơn bão từ hôm kia. Dễ hiểu khi ta không tìm thấy cái xác suốt năm tuần qua.”
“Rồi từ vị trí mà thi thể được tìm thấy,” viên thanh tra trầm ngâm tiếp lời, “thật dễ để ghép thành câu chuyện hoàn chỉnh. Ông ta nuốt thuốc độc, nhảy xuống biển, có thể là từ trên phà đi đảo Staten, rồi bị cuốn trôi xuống tận vùng eo biển Narrows… Thế những đồ đạc của người chết đâu? Tôi muốn xem qua chúng.”
Thumm và Schilling đi quanh bàn để đồ. Một đống thứ linh tinh nằm trên đó: những mảnh giấy mềm nhão và bị vo viên đến không thể nhận ra, một chiếc tẩu làm từ rễ thạch nam, một hộp diêm ướt, một chùm chìa khóa, một cái ví ngâm nước có chứa tiền mặt, một vốc tiền xu đủ loại. Đầu kia chiếc bàn là một cái nhẫn khá nặng có khắc dấu được lấy ra từ một con cá, hay ngón áp út bàn tay trái người chết; cái dấu được khắc bạc những chữ cái YH.
https://thuviensach.vn
Nhưng viên thanh tra chỉ chú ý đến một di vật duy nhất - túi thuốc lá. Nó được làm từ da cá và chống thấm nên sợi thuốc vẫn khô nguyên. Tránh được nước biển, bên trong túi là một mảnh giấy gấp. Thumm lần mò giở nó ra, một thông điệp được viết bằng mực rõ nét theo kiểu chữ in gần như hoàn hảo, gọn ghẽ và cân đối như đánh máy. Thông điệp như sau:
21 tháng Mười hai, 19—
GỬI NGƯỜI ĐỌC ĐƯỢC TIN NHẮN NÀY:
Tôi tự sát trong trạng thái minh mẫn về tinh thần. YORK
HATTER
“Ngắn gọn và đúng trọng tâm,” bác sĩ Schilling nhận xét. “Hỡi người có cùng suy nghĩ với tôi. Tôi tính tự sát. Tôi vẫn tỉnh táo. Chẳng còn gì để vấn vương. Tiểu thuyết bằng một câu văn, ngài Thumm.”
“Ầy, xin thôi đi, không tôi bật khóc mất,” viên thanh tra làu bàu. “Về phần vợ nạn nhân. Tôi sẽ báo cho bà ta đến đây nhận dạng thi thể.” Ngài vơ lấy một tấm mền nằm dưới chân phản và phủ đại lên thi thể. Từ yết hầu bác sĩ Schilling khẽ bật ra mấy từ tiếng Đức, rồi ông đứng sang một bên, cặp mắt lấp lóe.
Một đoàn người lặng lẽ tiến vào nhà xác: một phụ nữ và ba người đàn ông. Đừng thắc mắc tại sao người phụ nữ lại đi trước đám đàn ông; nhìn bà ta là có thể cảm nhận được người này luôn thích lãnh đạo, chỉ huy và sai khiến người khác. Bà ta đã già, dạn dày và cứng cỏi như đá. Mũi bà ta khoằm như móc câu, tóc bạc trắng, cặp mắt xanh lạnh lùng, tinh tường như mắt cú vọ. Một con người sắt thép chưa từng biết quy lụy là gì… Đó là phu nhân Emily lừng danh thiên hạ, ai hay đọc báo mà chả biết đến con người “giàu không tưởng”, “lập dị”, “bà đầm thép” của khu Washington Square này. Bà ta sáu mươi ba tuổi, nhưng vẻ ngoài thì già hơn đến cả chục tuổi. Trang phục trên người thì đã lỗi mốt từ thời tổng thống Woodrow Wilson* tuyên thệ nhậm chức. Ánh mắt bà ta chỉ chú ý đến tấm phản đang phủ mền. Từ lối vào bà ta tiến đến với vẻ hiên ngang, đĩnh đạc, như của một vị thần số
https://thuviensach.vn
mệnh. Thanh tra Thumm chú ý đến người đàn ông đi sau bà ta, tóc vàng, dáng cao, vẻ căng thẳng, mang nhiều nét giống Phu nhân Hatter. Ngài muốn ngăn người phụ nữ lại, nhưng bà ta cứ thây kệ mà lầm lừ tiến vào không dừng, bước tới chỗ cái xác, lật mền ra rồi ngắm nghía khuôn mặt bị hủy hoại đến không thể nhận dạng mà chẳng hề chớp mắt đến một cái.
Thanh tra Thumm để mặc bà ta được thể hiện nét vô cảm mà không can dự. Ngài quan sát khuôn mặt bà ta trong giây lát, rồi quay sang đám người hộ tống bên cạnh. Người tóc vàng cao kều kia, tuổi tầm hơn ba mươi, hẳn là Conrad Hatter, con trai duy nhất của ngài York và phu nhân Emily Hatter. Cũng giống mẹ, khuôn mặt anh ta lộ vẻ đanh ác, nhưng lẩn khuất nét yếu mềm nhu nhược, thêm chút chán chường mơ hồ nữa. Anh ta dường như không được khỏe, chỉ dám liếc nhìn mặt người chết rồi cúi ngay xuống sàn nhà, chân phải bắt đầu run lẩy bẩy.
Bên cạnh anh ta là hai người đàn ông khác, mà Thumm có thể nhận ra sau quá trình điều tra vụ mất tích của York Hatter. Một người là vị bác sĩ tư, cao và xanh xao, dễ phải đến bảy mươi tuổi, với đôi vai nghiêng gầy: bác sĩ Merriam. Ông ta chẳng lộ ra vẻ khó chịu gì khi xem mặt người chết, nhưng dễ thấy ông ta không được thoải mái, phản ứng mà viên thanh tra quy cho mối thâm giao với người quá cố. Người cuối cùng cũng là người lạ lùng nhất đám - với thân hình cao kều mang vẻ biển cả, rất lêu nghêu mảnh dẻ. Đó là thuyền trưởng Trivett, một chủ tàu đã nghỉ hưu và là bạn thâm giao của nhà Hatter. Thanh tra Thumm lộ vẻ kinh ngạc khi quan sát người này - ngài chưa từng nhận ra trước đó! Thế mới hay chứ lại - rằng chân phải của thuyền trưởng Trivett không còn nữa, thay vào đó là một chiếc chân giả bịt da nhô ra từ ống quần. Phản ứng của Trivett không chỉ là những tiếng khò khè trong cổ họng. Ông ta đặt bàn tay sương gió của mình lên vai bà Hatter như để tỏ lòng an ủi. Người phụ nữ liền hẩy sự an ủi đó ra bằng cánh tay rắn chắc. Thuyền trưởng Trivett tái mặt và lùi lại đằng sau.
Rồi bà ta cất những lời đầu tiên phá vỡ sự im lặng. “Đây có phải…? Tôi không dám chắc, ngài thanh tra à.”
Thumm bỏ tay ra khỏi túi áo choàng, hắng giọng đáp. “Không. Tất nhiên là không thể rồi. Thi thể bị hủy hoại quá nhiều, bà Hatter ạ… Đằng kia! Bà
https://thuviensach.vn
có thể nhận diện quần áo và đồ đạc.”
Người phụ nữ già chỉ gật đầu, khi theo Thumm tới chỗ chiếc ghế nơi để đống quần áo ướt, bà ta cũng chỉ để lộ một cảm xúc duy nhất - bà ta khẽ khàng liếm môi một cái, như hành động của con mèo ăn xong bữa. Bác sĩ Merriam thế chỗ bà ta ở chỗ tấm phản, ra hiệu cho Conrad Hatter và thuyền trưởng Trivett rời khỏi chỗ đó rồi phủ mền che trở lại. Bác sĩ Schilling quan sát ông ta với vẻ hoài nghi mang tính nghiệp vụ.
“Quần áo của York. Ông ấy vẫn mặc đồ giống cái ngày biến mất.” Giọng nói của bà ta, cũng như khuôn miệng, thật kín kẽ và gan góc. “Và giờ, thưa bà Hatter, những đồ đạc cá nhân này.” Viên thanh tra dẫn bà ta tới chỗ chiếc bàn. Người phụ nữ chậm rãi cầm lấy chiếc nhẫn đưa lên, cặp mắt lạnh lùng lão luyện quét qua cái tẩu, chiếc ví, chùm chìa khóa… “Cái này của ông ấy,” bà ta cất giọng khô khốc. “Chiếc nhẫn. Chính tôi tặng cho ông ấy - Cái gì đây?” Bỗng nhiên bà ta bị kích động rồi vớ lấy mảnh giấy và liếc đọc thông điệp trong đó. Rồi bà ta lại tỏ ra lạnh lùng như trước và gật đầu vẻ lãnh đạm. “Bút tích của York, không nghi ngờ gì nữa.” Conrad Hatter khom người xuống, nhìn hết thứ này sang thứ khác như thể chúng chưa được yên nghỉ. Rồi anh ta cũng lộ vẻ kích động trước thông điệp của người quá cố, anh ta lần mò trong túi áo rồi giơ ra mấy tờ giấy và khẽ nói:
“Vậy là bố tôi đã nuôi ý định tự sát. Tôi không nghĩ ông ấy có vấn đề thần kinh. Ông già lẩm cẩm…”
“Bút tích của ông ấy ư?” viên thanh tra bất ngờ ngắt lời. Chẳng rõ lý do gì khiến ngài đột ngột làm vậy.
Người con trai giao mấy tờ giấy cho Thumm. Viên Tranh tra chăm chú soi xét chúng với vẻ cau có. Sau khi liếc nhìn xác chồng và vật dụng thêm lần nữa, phu nhân Hatter chỉnh lại chiếc khăn quàng.
“Đây là bút tích của ông ấy, khớp rồi,” viên thanh tra lầm bầm. “Được rồi. Theo tôi thế là ổn.”
Miệng nói thế nhưng Thumm vẫn đút cả đống giấy này vào túi rồi liếc về phía tấm phản. Bác sĩ Merriam vừa thay cái mền mới. “Ông nói gì cơ bác sĩ? Ông thấy tình trạng thi thể chứ. Đó là York Hatter sao?”
https://thuviensach.vn
“Vâng, đích thân tôi đã cắt ruột thừa cho ông ấy mười tám năm trước. Rồi một lần lấy sỏi mật nữa. Ca đó không nghiêm trọng lắm. Bác sĩ Robins của viện John Hopkins đã phẫu thuật… Đây đích xác là York Hatter.”
Phu nhân Hatter nói: “Conrad, thu xếp cho đám tang đi. Làm riêng tư thôi. Thông báo ngắn gọn cho báo chí. Không hoa hoét. Làm ngay đi.” Bà ta bắt đầu tiến về phía cửa. Thuyền trưởng Trivett dõi theo vẻ lo lắng không an tâm. Conrad Hatter thì thầm gì đó hình như là đã đồng thuận.
“Chờ chút, thưa phu nhân Hatter,” Thumm lên tiếng. Bà ta dừng bước và nhìn ông chằm chằm. “Xin đừng về vội. Tại sao chồng bà lại quyết định tự sát vậy?”
“Tôi xin nói, giờ…” Conrad khẽ cất giọng.
“Conrad!” Chỉ thế thôi là anh ta liền ngoan như cún luôn. Người phụ nữ già quay bước về phía viên thanh tra, sát gần đến mức ngài cảm nhận được làn hơi thở chanh chua từ bà ta. “Ngài còn muốn gì đây?” bà ta nói bằng một giọng cực gắt gỏng. “Ngài chưa thỏa mãn với việc chồng tôi tự sát sao?”
Thumm chỉ biết kinh ngạc. “Tại sao… à vâng. Tất nhiên rồi.” “Thế thì chuyện này xong xuôi rồi. Tôi không muốn bị quấy rầy thêm nữa.” Rồi bà ta quay bước, gửi lại ngài thanh tra cái liếc xéo đầy ác ý. Thuyền trưởng Trivett tỏ ra nhẹ nhõm và nặng nề bước theo. Conrad thì nuốt nước bọt, mặt tái nhợt rồi cũng theo chân họ luôn. Đôi vai gầy của bác sĩ Merriam như rũ xuống thêm, sau đó ông ta cũng rời đi trong lặng lẽ. “Chà, ngài đây,” bác sĩ Schilling lên tiếng khi cánh cửa sập lại, “đã biết vị thế của mình rồi chứ!” Ông ta cười thầm. “Trời đất, phụ nữ gì mà!” Rồi ông ta đẩy tấm phản vào trong hốc tường.
Thanh tra Thumm khẽ cằn nhằn bất lực và trút giận vào cánh cửa. Bên ngoài, một người đàn ông trẻ với đôi mắt sáng tóm lấy cánh tay ngài rồi họ cùng sánh bước. “Thanh tra! Xin chào, hân hạnh được gặp. Tôi được tin ngài đã tìm thấy xác của ngài Hatter, thế là sao nhỉ?”
“Mụ quỷ cái đó,” Thumm cằn nhằn.
“Vâng,” tay phóng viên hồ hởi đáp lời. “Tôi vừa thấy bà ta bước ra. Đúng là mặt sắt! Đanh như nắm đấm của Dempsey*… Nghe này, ngài
https://thuviensach.vn
thanh tra, ngài ở đây thì hẳn là có chuyện rồi, tôi đoán là có vấn đề gì đó phải không nào?”
“Chẳng có gì đâu. Bỏ tay tôi ra, đồ khỉ gió.”
“Sao mà phải khó chịu thế, ngài thanh tra thân mến… Tôi có nên nghi rằng có mưu toan cố ý nào đó chăng?”
Thumm ép chặt đôi tay vào trong túi áo và nhìn chằm chằm tay phóng viên. ”Nếu anh làm thế, tôi sẽ bẻ từng đốt xương trên người anh. Lũ sâu bọ các người không biết điểm dừng sao? Đó là một vụ tự sát, khốn kiếp!” “Theo tôi thì ngài thanh tra đây đang bảo vệ cho…”
“Xéo đi! Nhận dạng trùng khớp, nói cho mà biết. Giờ thì biến mau, thằng trẻ ranh, đừng để tao phải tống tiễn mày đi.”
Ngài thanh tra bước nhanh ra khỏi khu nhà xác và vẫy một chiếc taxi. Tay phóng viên vẫn dõi theo với vẻ dò xét, nhưng nụ cười đã biến mất. Một người đàn ông chạy tới từ đại lộ Thứ Hai, thở không ra hơi. “Này, Jack!” anh ta la lên. “Có gì mới về nhà Hatter không? Thấy mụ phù thủy già đó không?”
Tay phóng viên chỉ nhún vai, vẫn dõi theo chiếc taxi chở Thumm khi nó quành qua góc đường. “Có thể. Câu hỏi thứ hai - có, nhưng chỉ thế thôi. Dù sao thì đó cũng là một câu chuyện đặc sắc đáng theo dõi rồi…” Anh ta thở dài. “Chà, có phải giết người hay không đây, tôi chỉ dám nói là: Ơn trời vì cái nhà Hatter Điên loạn.”
https://thuviensach.vn
CẢNH 2
Nhà Hatter
Chủ Nhật, Ngày 10 Tháng Tư
2:30 P.M
Nhà Hatter Điên loạn… Nhiều năm trước, trong thời kỳ đầy những tin tức bất thường về nhà Hatter, từ một nhân vật trong truyện Alice ở xứ sở diệu kỳ, một phóng viên với trí tưởng tượng phong phú đã gán cho họ cái biệt danh này. Có lẽ đó là mấy lời nói quá tai hại. Gia đình này đâu có điên khùng bằng một nửa cái nhân vật Hatter kia, cũng chẳng thú vị bằng một phần ti tỉ. Theo như lời mà những người hàng xóm trong khu Square khuất nẻo hay thì thầm với nhau, thì họ chẳng qua là “một gia đình ô trọc.” Và mặc dù là gia tộc lâu năm nhất nhì khu Square này, họ chưa bao giờ được coi là thuộc về nơi này; họ luôn nằm ngoài danh sách những thứ đáng trân trọng thuộc khu làng Greenwich*. Cái biệt danh đó lớn dần theo năm tháng. Tin tức thì lúc nào cũng nhắc đến một ai đó thuộc gia đình này. Nếu không phải là tay Conrad tóc vàng cố phá quấy một quầy rượu trong cơn say mèm, thì cũng là quý cô Barbara tỏa sáng khi tổ chức một buổi khiêu vũ côticông nên thơ, hay chủ trì một buổi đàm đạo dưới con mắt đầy ngưỡng mộ của những nhà phê bình văn học. Hay đó là Jill, người trẻ nhất trong ba đứa con nhà Hatter, xinh đẹp, hư đốn, với chiếc mũi chỉ thèm đánh hơi được rắc rối. Từng có chút tin đồn về việc cô ta dính vào ma túy; thi thoảng là chuyện ngồi lê đôi mách về buổi ăn chơi trác táng cuối tuần ở Adirondacks; và cứ đều đặn hai tuần một lần, không thể thiếu được việc
https://thuviensach.vn
tuyên bố rằng cô ta sẽ “đính hôn” với một cậu quý tử con đại gia nào đó… mà chẳng bao giờ là với một cậu trai nhà dòng dõi, ấy thế mới lạ. Cả ba người bọn họ chẳng những là bản sao tốt, mà còn là những bản sao xấu từ cha mẹ. Tuy kỳ quặc, trác táng, lập dị, không thể đoán trước như thế nhưng chẳng người nào vượt qua được cái tiếng xấu lẫy lừng của bà mẹ. Với một tuổi xuân còn hoang đàng hơn cả cô con út Jill, bà ta đã bước vào tuổi trung niên như một kẻ độc đoán, chuyên quyền, không thể phản kháng, như một người mang họ Borgia*. Không có “động thái” nào qua nổi sự tinh tường của bà ta, chẳng có hoạt động thao túng thị trường nào quá rối rắm khó hiểu hay liều lĩnh với một kẻ khôn ngoan, hăng máu và thích đánh cược như bà ta. Đã nhiều lần có tin đồn rằng bà ta đã thua đậm trong đầu tư chứng khoán, rằng đống tài sản cá nhân kếch sù được thừa kế từ bao đời thị dân người Hà Lan giàu có lọc lõi, đã bốc hơi hết theo cái sự nghiệp đầu cơ của bà ta. Không một ai, thậm chí là đám luật sư, biết chính xác quy mô tài sản của bà ta. Khi đám báo lá cải đó chuyển sang chủ đề New York sau Thế chiến I, bà ta vẫn luôn được coi là “người đàn bà giàu nhất nước Mỹ” - một tuyên bố rõ ràng chẳng đúng, nhưng lời cáo buộc rằng bà ta đang ở bên bờ vực phá sản đến nơi rồi, cũng chỉ hoàn toàn là thêu dệt.
Sau tất cả những điều đó - gia đình, những vẻ vang cá nhân, đời tư, tiểu sử ghê gớm - thì người đàn bà mang tên Emily Hatter lại bỗng trở thành tâm điểm xì xào của cánh báo chí. Họ ghét bà ta, vì bà ta như một mụ phù thủy già chỉ biết gắt gỏng; nhưng họ lại cũng thích bà ta, vì như lời chủ bút của một tờ báo lớn, “Cứ liên quan tới phu nhân Hatter, thì đều là tin tức.”
Trước khi York Hatter đắm mình xuống làn nước lạnh giá của Vịnh Lower, đã có những đồn đoán vô căn cứ rằng thể nào cũng có ngày ông ta tự sát. Họ bảo York Hatter cũng chỉ là con người bằng xương bằng thịt thôi, ông ta sao có thể chịu đựng mãi được. Người mà gần bốn thập niên qua đã bị quất roi như chó săn và bị điều khiển như ngựa. Dưới miệng lưỡi thao túng của bà vợ, ông ta chỉ còn biết thu mình lại, chịu mất đi bản lĩnh đàn ông, trở thành một cái bóng vật vờ suốt cả ngày, đầu tiên là vì sợ, sau đó là vì tuyệt vọng, và cuối cùng là trong vô vọng. Bi kịch của ông ta ở chỗ, một
https://thuviensach.vn
con người bình thường với sự nhạy cảm và trí tuệ đã bị xiềng xích trong một môi trường đầy dục vọng, phi lý trí, cay độc, điên rồ. Ông ta luôn bị coi là “chồng của Emily Hatter” - ít nhất là kể từ lễ cưới ba mươi bảy năm về trước, tại chính thành phố New York hoa lệ, khi những bức tượng sư tử đầu chim còn là món trang trí thời thượng và vải bọc ghế là những món phụ kiện không thể thiếu trong phòng khách. Từ ngày họ lui về căn nhà trên phố Washington Square - vốn là nhà của bà vợ, tất nhiên rồi - thì York Hatter đã biết thế nào là địa ngục. Hồi đó ông ta còn trẻ, và có lẽ từng vật lộn chống lại cái tinh thần đàn áp, những cơn thịnh nộ và quyền lực của bà vợ. Có lẽ ông ta đã khiến bà ta nhớ rằng mình từng li dị người chồng đầu tiên, Tom Campion Điềm tĩnh, trong hoàn cảnh khá là khó hiểu. Nghĩa rằng, với tất cả thiện ý, bà ta nợ ông, người chồng thứ hai, một chút ân tình và chút gia giảm của cái tư cách đạo đức loằng ngoằng từng làm cả New York phải choáng từ ngày bà ta nổi danh. Khi phản kháng, định mệnh của ông ta coi như đã an bài; về tay Emily Hatter, người không cho phép sự phản kháng nào chống lại những mệnh lệnh của mình, người không thể bị thao túng vô điều kiện. Định mệnh của ông ta được an bài và cái sự nghiệp xuất sắc đầy hứa hẹn cũng tiêu tan dần.
York Hatter là một nhà hóa học - trẻ tuổi, nghèo khó, một nhà khoa học tập sự - và là người cần mẫn phục vụ các nghiên cứu hòng tạo ra những điều thay đổi thế giới. Lúc lập gia đình, ông ta đang thử nghiệm những hợp chất keo dính, trong một hướng đi chưa từng có của nền hóa học thời kỳ cuối thế kỷ 19. Chất keo, sự nghiệp, danh tiếng đều tiêu tan dưới những đòn tấn công của bà vợ với tính cách quá ư hung hăng. Thời gian trôi đi, ông ta trở nên ngày càng ủ ê, cuối cùng là bằng lòng với việc chỉ biết lãng phí thời gian trong cái phòng thí nghiệm thay thế tầm thường mà Emily cho phép ông ta sử dụng khi ở nhà. Ông ta gần như biến thành một cái xác trống rỗng, kẻ phụ thuộc đáng thương hại vào mớ tài sản kếch sù của vợ (và bị nhắc nhở đều đặn về sự thật đó), một ông bố của đám con tính khí thất thường, nhưng chỉ dám cư xử với chúng không hơn gì một người giúp việc.
https://thuviensach.vn
Barbara là người con lớn nhất trong nhà Hatter, và cũng là người thừa hưởng nhiều nhất dòng máu từ Emily. Một quý cô tuổi ba mươi sáu, dong dỏng, mảnh dẻ, tóc vàng nhạt, cô là đứa con duy nhất không để phí những tinh túy từ bà mẹ, người thể hiện một tâm hồn yêu mọi thứ sống động và một mối đồng cảm vô bờ bến với thiên nhiên khiến cô khác biệt với những kẻ còn lại. Trong ba đứa con nhà Hatter chỉ có mình cô là được thừa hưởng những tính tốt của người cha. Nhưng đồng thời cô cũng không thoát được cái tính dị thường di truyền từ người mẹ, như một thứ mùi hương khó chịu đeo đuổi cả cuộc đời, trừ việc tính dị thường của cô có xu hướng của một thiên tài và tự giải phóng thành thi ca. Cô đã được ví như nữ thi sĩ lỗi lạc nhất mọi thời đại - một nhà thơ vô chính phủ, người ta gọi thế trong những nhóm văn chương với thiện ý, một kẻ lãng du mang ngọn lửa của thần Prômêtê trong tâm hồn, một nhà trí thức với món quà tuyệt diệu từ nàng thơ. Một khi tác giả của vô số những vần thơ bí ẩn này tỏa sáng, cô ta hòa cùng nỗi buồn của mình, với cặp mắt xanh lịch duyệt của người dẫn đường chỉ lối cho giới trí thức New York.
Người em trai Barbara là Conrad không có chút năng khiếu nghệ thuật nào để bù đắp cho cái sự dị thường của mình. Anh ta chẳng khác nào phiên bản nam giới của bà mẹ, một gã Hatter hoang đàng điển hình. Anh ta là thành phần bất hảo của ba trường đại học, bỏ hết trường này đến trường khác sau những hành động hoang đàng liều lĩnh, ngu ngốc hết chỗ nói. Hai lần anh ta phải ra hầu tòa vì đã phá bỏ lời cam kết không tái phạm. Một lần anh ta lái xe quá tốc độ rồi đâm chết một khách bộ hành bằng chiếc xe mui trần và chỉ được trắng án nhờ những núi tiền hối lộ khẩn cấp từ đám luật sư của bà mẹ. Và còn vô số lần anh ta tìm cách trút cơn bực dọc lên những người phục vụ quầy bar hiền hòa lúc dòng máu lạ thường trong huyết quản phản ứng gay gắt với chất cồn, anh ta đã bị vỡ mũi (đã được phẫu thuật tạo hình lại cẩn thận), rạn xương cổ, rồi còn vô số vết khâu và thâm tím nữa.
Nhưng lại một lần nữa, anh ta gặp phải rào cản không gì lay chuyển nổi là ý chí của bà mẹ. Người đàn bà già này cứ thế tóm cổ anh ta lôi ra khỏi vũng bùn và sắp đặt để anh ta ngồi vào vị trí kinh doanh với một chàng trai trẻ điềm đạm, chu toàn, hết sức mẫu mực mang tên John Gormly. Điều đó
https://thuviensach.vn
không giữ Conrad tránh khỏi cám dỗ, anh ta vẫn thường ngựa quen đường cũ, để rồi lệ thuộc vào bàn tay kiên định của Gormly trong việc duy trì kinh doanh môi giới.
Đâu đó trong một khoảnh khắc tương đối điên rồ Conrad đã gặp và cưới một phụ nữ trẻ không may mắn. Hôn nhân, tất nhiên, không làm sự nghiệp ăn chơi của anh ta giảm sút. Người vợ tên Martha, một phụ nữ nhỏ bé nhu mì cùng tuổi với anh ta, đã sớm nhận ra mình bất hạnh đến nhường nào. Bị cưỡng bách phải sống trong ngôi nhà bị bà mẹ chồng thống trị, bị chồng xem thường và khinh miệt, khuôn mặt mang nét duyên ngầm của cô đã nhanh chóng mang vẻ hoang mang thường trực. Như York Hatter, người bố chồng, linh hồn cô ta coi như đã sa vào hỏa ngục. Martha tội nghiệp hẳn đã hy vọng kha khá khi quyết định kết hôn với người chồng phóng túng này; và chút an ủi đến từ hai đứa con, một đứa mười ba tuổi tên Jackie và một đứa bốn tuổi tên Billy… không phải là một niềm vui tuyệt đối, khi Jackie thì ương ngạnh, khó bảo, sớm tinh khôn, một đứa trẻ hung hăng với đầu óc tinh ranh và có thiên hướng hành động tàn nhẫn, là sự lo lắng liên miên của không chỉ bà mẹ mà còn của cả nhà Hatter. Đứa em, Billy, cũng bắt chước y hệt thế; điều đó đã biến cuộc sống trái ngang của Martha thành một cuộc chiến dữ dội để cứu chúng khỏi hư hỏng.
Về phần Jill Hatter… như Barbara đã nói: “Nó vĩnh viễn như một con chim non mới ra ràng. Chỉ biết sống cho thỏa ý mình, Jill là đứa con gái hư thân mất nết nhất mà tôi từng biết - càng tệ hơn khi nó chẳng xứng đáng với sự hứa hẹn đến từ đôi môi xinh và cái dáng điệu phóng đãng đó.” Jill mới hai mươi hai tuổi. “Nó là nữ thần Calypso* thiếu đi vẻ quyến rũ mê hoặc, một sinh vật hết mực ti tiện.” Cô ta đã ngủ với nhiều đàn ông. “Sống là phải viết hoa chữ S,” phương châm sống của cô ta luôn như thế. Tóm lại, Jill là một phiên bản tươi trẻ, chịu chơi hơn của bà mẹ.
Có người sẽ cho rằng gia đình này thế là đủ độ điên lắm rồi - một bà phù thủy già sắt đá làm chủ nhà, ông bố York hốc hác nhỏ bé có khuynh hướng tự tử, thiên tài Barbara, dân chơi Conrad, kẻ vô luân Jill, người sống trong sợ hãi Martha, hai đứa trẻ bất hạnh. Nhưng vẫn chưa hết. Gia đình này còn một người nữa, một người thật khác thường, thật thống khổ bi ai, đến nỗi
https://thuviensach.vn
những thành viên bất thường kia chỉ như người bình thường bên cạnh cô ta. Đó là Louisa.
Cô ta tự gọi mình là Louisa Campion vì cô ta là con gái của Emily nhưng cha ruột cô ta không phải là York Hatter mà là người chồng đầu tiên, Tom Campion. Cô ta đã bốn mươi tuổi, thấp người, hơi tròn trĩnh, vẻ như không hề bị tác động bởi cái trại thương điên quanh mình. Đời sống tinh thần của cô khá ổn, tính tình dễ chịu, nhẫn nại, không than phiền, một phụ nữ đức hạnh. Ấy thế mà, với những thành viên đầy tai tiếng nhà Hatter bao quanh, cô chẳng hề bị lu mờ mà lại trở thành người nổi danh nhất của gia đình này. Đến mức mà ngay từ khi chào đời tiếng tăm của cô ta đã nổi như cồn, và cái tiếng vọng đó thì cứ lẵng nhẵng bám theo cô ta suốt quãng đời tăm tối, lạ thường sau này.
Là con của Emily và Tom Campion, Louisa đến với thế giới trong nỗi tuyệt vọng khi vừa bị mù vừa bị câm, cộng với tình trạng điếc nhẹ mà các bác sĩ bảo rằng sẽ trở nên nặng hơn khi cô trưởng thành, và cuối cùng sẽ chuyển thành điếc đặc. Quả đúng như lời tiên đoán của các bác sĩ. Vào đúng sinh nhật thứ mười tám - với món quà từ các thần linh hắc ám, những kẻ như đang nắm giữ vận mệnh của cô - Louisa Campion đã nhận lấy sự phũ phàng cuối cùng của đời mình, thính giác của cô mất hoàn toàn.
Với một người chưa thực sự trưởng thành, việc đó hẳn đã để lại một vết thương chí tử. Trong suốt thời kỳ mà các cô gái khác tung tăng đến bên đời rực rỡ, Louisa tự cảm thấy như bị mắc kẹt trong thế giới đơn côi của chính cô, một thế giới vắng bóng âm thanh, hình ảnh, hay sắc màu; một thế giới không được và không thể biểu đạt. Thính giác, cây cầu vững chắc duy nhất nối với cuộc sống, đường cứu sinh phía sau cô, vậy mà đám thần linh hắc ám cũng thiêu trụi nốt. Không còn đường lui nữa, cô đối mặt với sự cự tuyệt, sự thiếu thốn, một cuộc đời cạn kiệt nguồn sống. Thiếu đi những giác quan chính kia, cô nào khác gì người chết đâu. Vẫn cố sống, nhút nhát, bối rối, tàn phế vô dụng, nhưng có gì đó cứng lại trong bản tính của Louisa - có lẽ đó là chút lợi lộc thừa kế từ bà mẹ dữ như quỷ - tôi luyện con người cô, để cô có thể đối mặt với cuộc đời vô vọng trong sự bình thản được sinh ra từ lòng can đảm đáng kinh ngạc. Nếu hiểu được sao mình phải chịu đau
https://thuviensach.vn
khổ như thế, Louisa cũng không bao giờ biểu lộ ra; và chắc chắn là quan hệ của cô với người phụ nữ sản sinh ra cảnh không may kia cũng như mọi mối quan hệ giữa mẹ và con gái khác.
Dễ thấy là tai họa của Louisa có nguyên nhân từ người mẹ. Có tin đồn khi cô sinh ra rằng cha cô, Tom Campion, là người chịu trách nhiệm; rằng có thứ gì đó xấu xa trong máu ông ta đã truyền sang đứa con. Nhưng khi Campion và Emily li dị rồi Emily đã tái giá chỉ để sinh ra những đứa trẻ nhà Hatter điên của riêng mình, mọi người đều tin chắc rằng lỗi lầm thuộc về bà mẹ. Điều này được củng cố bởi sự thật mà sau đó người ta mới nhận ra là Campion từng có một đứa con trai hoàn toàn bình thường trong cuộc hôn nhân trước đó. Cánh báo chí quên luôn Campion, ông ta chết vài năm sau khi li dị Emily trong hoàn cảnh bất thường; người con trai biến mất; và Emily, giữ được York Hatter bất hạnh cho trái tim mình, đưa đứa con gái tật nguyền của cuộc hôn nhân đầu đến ngôi nhà thừa kế từ tổ tiên ở khu Washington Square… ngôi nhà mà, sau một thế hệ đầy tai tiếng, được định sẵn sẽ bị nhấn chìm trong bi kịch, thứ bi kịch nhức nhối và đớn đau đến nỗi những gì đã xảy ra trước đó chỉ như một khúc dạo đầu nhạt nhẽo.
Vở kịch cay đắng bắt đầu khoảng hơn hai tháng sau khi xác chết của York Hatter được vớt trên vịnh. Nó bắt đầu một cách hết sức bình thường. Theo thông lệ, bà Arbuckle, người giúp việc và bếp núc của nhà Hatter, đang chuẩn bị món cocktail trứng sữa hằng ngày cho Louisa Campion sau bữa trưa. Đây là món được chuẩn bị theo yêu cầu của bà Emily; Louisa, ngoài chuyện có một trái tim khá yếu ớt, thì thể trạng khá tốt, và có thể nói là ở cái tuổi bốn mươi, phúng phình và mềm mại, cô không cần nhiều chất đạm khi ăn kiêng. Nhưng đâu thể chối từ sự nài nỉ của phu nhân Hatter; bà Arbuckle chỉ là người hầu, và luôn được nhắc nhở về sự thật đó; còn Louisa, người đủ mềm mỏng để bàn tay sắt của bà mẹ uốn nắn, chỉ còn biết hằng ngày cứ sau bữa trưa thì tự giác tới phòng ăn tầng dưới cùng để uống thứ đồ tinh túy của tình mẫu tử kia. Một thói quen lâu ngày, đủ quan trọng để sau này nó sẽ còn được nhắc lại. Bà Arbuckle, người không dám mơ về việc trái lời bà chủ dù chỉ một li, thì luôn đặt một cái ly cao ở góc tây nam bàn ăn, cách rìa bàn tầm năm phân - nơi mà Louisa luôn có thể sờ thấy, cầm
https://thuviensach.vn
lên, và uống cạn mỗi buổi chiều một cách không do dự, như thể cô có thể nhìn rõ.
Trong cái ngày xảy ra bi kịch, hay thật ra là gần như bi kịch, một Chủ nhật đẹp trời tháng Tư, mọi thứ đều diễn ra bình thường… cho đến khi có chuyện. Lúc 2 giờ 20, thanh tra Thumm sau đó đã cẩn thận xác định mốc thời gian - bà Arbuckle đang chuẩn bị pha đồ uống trong bếp ở đằng sau nhà (từ những thành phần mà bà ta miễn cưỡng trình ra trong cuộc điều tra của cảnh sát), tự mình mang nó trên chiếc khay quen thuộc tới phòng ăn, đặt nó xuống bàn ở góc tây nam, năm phần từ mép bàn, và - công việc thế là xong - rời khỏi phòng ăn để trở về bếp. Chẳng có ai khác, bà ta xác nhận, ở trong phòng khi bà bước vào, hay có ai đi vào khi bà đặt món cocktail xuống. Có vậy thôi, rõ như ban ngày.
Có chút khó khăn để xác định chính xác chuyện diễn ra sau đó; lời khai không hoàn toàn rõ ràng. Lúc đó quá náo động và chẳng ai nhận thức được một cách đủ khách quan để nắm bắt và chỉ rõ cái ấn tượng chính xác về vị trí, từ ngữ và những sự kiện. Lúc đó khoảng tầm 2 giờ 30, thanh tra Thumm cũng chưa hoàn toàn chắc chắn lắm, khi Louisa đi xuống lầu từ phòng ngủ cùng bà mẹ, hướng về phía phòng ăn và món cocktail trứng. Họ dừng lại ở ngưỡng cửa. Nữ sĩ Barbara Hatter, người theo họ xuống lầu, đi ngay đằng sau họ và quan sát; tại sao, thì sau đó cô ta cũng không thể giải thích, chỉ biết là cô ta có một cảm nhận mơ hồ rằng có gì đó sai sai ở đây. Cũng tại thời điểm đó, Martha, cô vợ nhỏ bé nhu mì của Conrad, mệt mỏi lê bước xuống sảnh, tiến ra từ đâu đó phía sau. Giọng nói thiếu sinh khí của cô ta cất lên: “Jackie đâu rồi? Thằng bé lại giẫm nát hết hoa trong vườn rồi.” Cô ta cũng dừng lại và lưỡng lự trong giây lát trước ngưỡng cửa. Trùng hợp thay, cả người thứ năm cũng nhìn vào phòng ăn, cặp mắt dán vào con người ở giữa. Đó là một thủy thủ già cụt một chân, thuyền trưởng Trivett, hàng xóm của nhà Hatter, người đồng hành cùng mẹ con Conrad trong hành trình buồn đến nhà xác để nhận dạng hai tháng trước đó. Trivett xuất hiện sau cánh cửa thứ hai dẫn vào phòng ăn - cánh cửa không dẫn ra hành lang chính mà nối với căn buồng cạnh phòng ăn, một thư viện.
https://thuviensach.vn
Thứ mà mắt họ trông thấy chẳng lấy gì làm đặc biệt. Họ thấy, một mình trong căn phòng, là hình dáng nhỏ con của Jackie Hatter mười ba tuổi, con trai lớn của Martha. Thằng bé đang cầm ly cocktail trứng trong tay và quan sát nó. Cặp mắt sắc lẻm của Emily càng trở nên sắc hơn, bà ta mở miệng định nói gì đó. Chợt nhận ra mọi người quanh nó, Jackie cúi đầu vẻ có lỗi; khuôn mặt như của người lùn nhăn lại, cặp mắt ngỗ nghịch ánh lên vẻ tinh quái, rồi thằng bé đưa cái cốc lên miệng, nhanh chóng làm một ngụm đầy thứ chất lỏng mịn như kem đó.
Sự việc sau đó không rõ ràng. Ngay lập tức - lúc mà bà nội thằng bé lao về phía trước và tát đen đét vào tay nó, miệng thì la: “Mày biết đó là của bác Louisa, thằng nhãi láo toét! Đã bao lần bà bảo mày không được thó đồ của bác hả!” - Jackie buông rơi cái cốc, vẻ kinh ngạc cùng cực hiện lên trên khuôn mặt láu lỉnh hơi bất cần đời của nó. Cái cốc thủy tinh rơi xuống sàn vỡ tan, phần bên trong bắn tung tóe khắp sàn phòng ăn. Thế rồi, vừa vỗ đôi tay nhỏ như của người lùn vào miệng, thằng bé bắt đầu hét lên mà chẳng thành tiếng. Tất cả mọi người chỉ biết đứng ngây ra đó, rồi thì cũng nhận ra đây chẳng phải trò ăn vạ, mà là hậu quả của cơn đau đớn thật sự khủng khiếp. Thân thể gầy nhắng của Jackie bắt đầu giật mạnh, đôi tay co quắp lại, cậu bé gập người lại quằn quại, hơi thở khò khè, và khuôn mặt tái đi một cách dị thường. Cậu ta gục xuống sàn, trong khi vẫn rít lên. Một tiếng hét khác vang lên từ phía lối vào, Martha lao tới, mặt cắt không còn hạt máu, quỳ sụp xuống, kịp thấy được vẻ hãi hùng trên thân thể vẹo vọ của người con, trước khi lăn ra bất tỉnh.
Những tiếng hét khuấy động cả căn nhà: bà Arbuckle chạy bổ vào, và ông chồng George Arbuckle - người gia đinh kiêm tài xế; Virginia, cô hầu phòng già cao gầy xương xẩu; Conrad Hatter, trong bộ dạng lôi thôi và mặt vẫn đỏ gay từ những cuộc nhậu sớm Chủ nhật. Louisa, đứa con khiếm khuyết, bị bỏ quên; cô đứng bất lực trước cửa, nép sang một bên, lộ vẻ hoang mang. Dường như bằng giác quan thứ sáu, cô nhận ra rằng có gì đó bất thường, nên cô ngần ngại không tiến lên, chỉ đưa mũi ngửi để tìm bà mẹ, và bắt đầu giật lấy cánh tay bà ta một cách tuyệt vọng.
https://thuviensach.vn
Không hổ danh là Emily Hatter, bà ta là người đầu tiên bình tĩnh lại trước sự cố cháu nội bị co giật và con dâu ngất lịm. Bà ta lao tới chỗ Jackie, xô thân thể bất tỉnh của Martha sang một bên, tóm lấy cổ đứa cháu - khuôn mặt cậu bé giờ đã chuyển sang tím tái - rồi ép cho cặp hàm cứng mở ra và nhét ngón tay xương xẩu xuống cuống họng. Cậu bé ọe một cái và nôn ra ngay tức thì.
Cặp mắt màu mã não sáng lên. “Arbuckle! Gọi cho bác sĩ Merriam ngay!” bà ta thét lên. George Arbuckle chạy vội ra khỏi phòng. Ánh mắt bà Hatter trở nên dữ dằn, không hề có động thái nào thừa khi bà ta lặp lại động tác cấp cứu, và cậu bé lại phản ứng lần nữa. Những người còn lại, trừ thuyền trưởng Trivett, dường như đều không dám cử động. Họ chỉ biết chưng hửng nhìn bà già và cậu bé đang quằn quại.
Nhưng thuyền trưởng Trivett, gật đầu tán đồng với cách xử trí lanh lẹ của bà Hatter, đã lê chân quanh phòng để tìm cái người mù câm điếc kia. Louisa cảm nhận được tay ông ta khẽ chạm vai mình, dường như nhận ra đó là ai, liền đưa tay nắm và bám chặt lấy
Phần quan trọng nhất của câu chuyện đang tiếp diễn mà chẳng được quan sát thấy. Khi không ai để ý, chú chó nhỏ tai đốm của Billy đã lần mò vào phòng ăn. Trông thấy chỗ cocktail trứng rơi rớt trên sàn, nó ẳng lên vui mừng và nhào tới, vục mũi xuống chỗ chất lỏng. Đột nhiên cô hầu Virginia bắt đầu hét lên. Cô ta chỉ tay vào con chó. Nó đang giãy giụa một cách yếu ớt trên sàn. Con chó rùng mình, co giật một chút. Rồi bốn cái chân lố bịch bắt đầu cứng lại. Phần bụng nó bỗng phồng lên dữ dội, và nó nằm im bất động. Rõ là con chó sẽ không thể liếm món đồ uống kia lần nữa.
Bác sĩ Merriam sống ngay gần đó, đã đến nơi chỉ sau năm phút. Mặc kệ đám người nhà Hatter đang chết đứng, ông ta chẳng thèm để mắt đến họ. Vị bác sĩ có thâm niên hẳn đã biết bệnh nhân của mình là ai. Ông ta quan sát con vật đã chết và cậu bé đang nôn ọe, cả người run rẩy, cặp môi mím chặt. “Lên gác ngay. Conrad, anh giúp tôi đưa thằng bé lên.” Khi bế Jackie lên và đưa cậu bé lên phòng, một ánh nhìn hãi hùng hiện lên trong cặp mắt giờ đã tỉnh rượu của Conrad. Theo ngay sau là bác sĩ Merriam, với túi thuốc đã mở sẵn.
https://thuviensach.vn
Một cách máy móc, Barbara Hatter quỳ sụp xuống và bắt đầu xoa xoa đôi tay ẻo lả của Martha. Bà Hatter chẳng nói năng gì, những nếp nhăn trên khuôn mặt bà ta vẫn trơ như đá. Jill Hatter, với cặp mắt mang vẻ ngái ngủ, bước hối hả vào phòng trong bộ đồ kimono. “Có chuyện quái gì thế?” cô ta ngáp. “Ông bác sĩ lên gác cùng Connie và thằng quỷ…” Cặp mắt cô ta mở to ra và đột ngột ngừng lời: cô ta đã thấy xác con chó trên sàn, chỗ cocktail tung tóe và Martha đang bất tỉnh. “Sao lại…?” Chẳng ai để ý tới cô ta, chẳng ai thèm trả lời. Cô ta ngồi phịch xuống ghế, nhìn chòng chọc vào khuôn mặt tái nhợt của bà chị dâu.
Một phụ nữ trung tuổi cao lớn, to béo trong chiếc áo sơmi trắng bước vào - đó là bà Smith, Y tá của Louisa, sau này bà ta kể với thanh tra Thumm rằng khi đó bà ta đang đọc sách trong phòng mình trên gác. Bà ta nhìn qua là nắm được tình hình, và một nỗi sợ nào đó xâm chiếm toàn cơ thể. Người y tá nhìn từ Emily Hatter, người vẫn trơ như đá, đến Louisa, đang run lên bên cạnh thuyền trưởng Trivett. Rồi bà ta thở dài gạt Barbara sang một bên, quỳ xuống và chẳng hề câu nệ gì và bắt đầu chăm sóc cho người đang nằm ngất.
Chẳng ai nói được lời nào. Cùng với nhau, như thể bị tác động bởi cùng một lực đẩy, họ quay đầu và chú tâm đến bà y tá một cách đầy lo lắng. Nhưng khuôn mặt của bà Hatter có gì đó bí hiểm, bà ta quàng cánh tay quanh đôi vai đang run rẩy của Louisa và bắt đầu quan sát những động tác khéo léo của bà Smith với Martha mà không bộc lộ thái độ gì. Một lúc lâu sau họ mới chịu động đậy. Họ nghe được tiếng bước chân nặng nề của bác sĩ Merriam đang đi xuống lầu.
Ông ta chậm rãi bước vào, đặt túi xuống, nhìn qua Martha, giờ đang bắt đầu hồi tỉnh nhờ được bà Smith chăm sóc, khẽ gật đầu và quay sang bà Hatter. “Jackie đã qua cơn nguy hiểm rồi, thưa bà Hatter,” ông ta nói bằng giọng trầm tĩnh. “Nhờ bà cả đấy, xử trí thật tuyệt vời. Cậu bé đã không nuốt một lượng quá nhiều để gây tử vong, nhưng rõ ràng việc gây nôn tức thời đã giúp tránh được tác động trầm trọng. Cậu bé sẽ ổn thôi.”
Phu nhân Hatter gật đầu kiểu gia chủ, rồi bà ta giật mạnh đầu lại và nhìn thẳng vào vị bác sĩ bằng vẻ lạnh lùng như băng. Bà ta thấy được điều gì đó
https://thuviensach.vn
chẳng lành trong giọng nói của ông ta. Nhưng bác sĩ Merriam đã quay người đi và xem xét xác con chó, rồi ngửi thử thứ chất lỏng trên sàn, cuối cùng là lấy một ít bỏ vào lọ nhỏ trong túi, vặn chặt nút lại rồi cất nó đi. Ông ta đứng dậy và thì thầm gì đó với bà Smith. Bà ta gật đầu rồi rời khỏi phòng, họ có thể nghe thấy tiếng bước chân nặng nề đi lên gác tới phòng bọn trẻ, nơi Jackie đang nằm rên rỉ trên giường.
Rồi bác sĩ Merriam cúi xuống chỗ Martha, xem xét một lượt, điềm tĩnh trấn an cô ta - trong khi những người quanh đó vẫn lặng im như tờ - rồi người phụ nữ nhỏ bé hiền thục đó, với một biểu cảm lạ lùng rõ là chẳng hiền thục gì trên mặt, lảo đảo bước ra khỏi phòng ăn và theo chân bà y tá Smith lên gác. Cô ta băng qua người chồng trên đường đi lên, chẳng nói lấy một lời. Conrad chếnh choáng bước vào phòng và ngồi xuống. Như thể đang chờ sẵn hành động ấy, như thể sự đi vào của Conrad là một dấu hiệu, phu nhân Hatter đập cái ầm xuống bàn. Mọi người đều giật nảy mình, tất cả ngoại trừ Louisa, người dính chặt hơn vào khuỷu tay của bà mẹ. “Giờ thì!” bà ta bật khóc.
“Lạy trời, giờ chúng ta có thể tìm hiểu ngọn nguồn chuyện này. Bác sĩ Merriam, thứ gì trong ly cocktail đã làm con chó thành ra như thế?” Bác sĩ Merriam lẩm bẩm: “Chất Strychnine.”
“Chất độc à? Tôi cũng nghĩ thế, nhìn con chó là biết.” Phu nhân Hatter dường như rướn cao hơn đến vài phân, bà ta gườm gườm nhìn toàn thể gia đình. “Ta sẽ tìm cho ra chuyện này, lũ quỷ vô ơn!” Barbara khẽ thở dài, cô ta đặt những ngón tay dài thanh tú lên phần lưng chiếc ghế và ngả người ra sau.
Bà mẹ gay gắt nói tiếp bằng giọng lạnh lùng. “Đó là thức uống của Louisa. Nó uống một ly như thế mỗi ngày, vào cùng một thời gian tại cùng một chỗ. Tất cả đều biết thế. Kẻ bỏ chất độc vào đồ uống giữa thời điểm Arbuckle đặt nó xuống chiếc bàn ăn và thời điểm thằng quỷ sứ kia bước vào và vồ lấy cái ly, hẳn đã biết rằng Louisa sẽ uống nó!”
“Mẹ,” Barbara lên tiếng, “thôi đi.”
“Yên nào! Thói háu ăn của Jackie đã cứu mạng Louisa và khiến nó suýt chết. Louisa tội nghiệp đã an toàn, nhưng sự thật vẫn còn đó là có người
https://thuviensach.vn
định đầu độc nó.” Phu nhân Hatter ôm chặt đứa con mù câm điếc vào lòng, Louisa chỉ biết khóc thút thít bằng những âm thanh chẳng rõ lời. “Mẹ đây, mẹ đây, con yêu,” bà mẹ già dỗ dành, như thể Louisa có thể nghe được, và khẽ vuốt mái tóc cô ta. Rồi giọng bà ta lại rít lên the thé. “Ai đã bỏ độc vào đồ uống?”
Jill khịt mũi. “Đừng làm quá như thế, mẹ.”
Conrad khẽ đáp lại: “Mẹ nói chẳng có lý gì cả. Làm gì có ai trong bọn con dám nghĩ tới…?”
“Ai? Tất cả bọn mày! Bọn mày ghét nó không để đâu cho hết! Lou khiếm khuyết tội nghiệp của mẹ…” Đôi tay bà ta siết chặt Louisa. “Sao đây?” bà ta gầm gừ, cả cơ thể già nua rung lên vì giận dữ. “Lên tiếng đi! Ai đã làm vậy?”
Bác sĩ Merriam lên tiếng: “Bà Hatter.”
Cơn thịnh nộ của bà ta liền tan biến ngay, thay bằng sự ngờ vực trong đáy mắt. “Khi tôi muốn ý kiến của ông, Merriam, tôi sẽ hỏi. Đừng xía vào chuyện này!”
“Chuyện đó,” bác sĩ Merriam lạnh nhạt đáp, “tôi e là không thể.” Cặp mắt bà ta nheo lại. “Ý ông là sao cơ?”
“Nghĩa là,” bác sĩ trả lời, “bổn phận của tôi phải được ưu tiên. Đây là một hành vi tội ác, thưa bà Hatter, và tôi không có lựa chọn nào khác.” Ông ta chậm rãi bước tới góc phòng nơi có chiếc điện thoại nối dài đặt trong hộc.
Người phụ nữ già chưng hửng, khuôn mặt bà ta tái đi như Jackie vừa xong. Buông Louisa ra, bà ta lao tới và tóm lấy vai bác sĩ, bắt đầu lay ông ta dữ dội. “Không, ông không được phép!” bà ta la lớn. “Ôi, không, đồ trời đánh thánh vật kia! Ông định công khai ra sao? Thêm chuyện thiên hạ, thêm… Đừng đụng vào nó, Merriam! Tôi sẽ…”
Mặc kệ cho bà ta điên cuồng níu chặt lấy cánh tay mình, miệng thì không ngừng trút lên đầu ông những tiếng chửi rủa, bác sĩ Merriam vẫn bình tĩnh cầm lấy điện thoại. Và báo cho trụ sở cảnh sát.
https://thuviensach.vn
MÀN I
“Một vụ giết người, dù không có lưỡi, sẽ lên tiếng với chất giọng diệu kỳ nhất.”
https://thuviensach.vn
CẢNH 1
Lâu Đài Hamlet
Chủ Nhật, Ngày 17 Tháng Tư
12:30 A.M
Khởi thủy, thanh tra Thumm mơ màng, Chúa tạo ra thiên đường và trần thế, Con người đã làm một việc thật vĩ đại nữa, đặc biệt khi con người tới sông Hudson, cách trung tâm thành phố vài cây, ở quận Westchester.
Viên thanh tra cừ khôi này hiếm khi có tâm trạng đức hạnh hay duy mỹ, từ lúc ngài thấy cần thiết phải mang lên đôi vai rộng của mình sức nặng đặc biệt của trách nhiệm người cảnh sát, nhưng ngay cả với một ngài thanh tra đầy những ý nghĩ trần tục, vẫn không thể nào duy trì sự vô tình thêm nữa trước vẻ đẹp xung quanh.
Chiếc xe của viên thanh tra đang lê qua một con đường hẹp hút gió, thẳng tắp, như đường lên thiên đàng, với cảnh tượng huyền ảo rối rắm hơn cả những bức tường có lỗ thành lũy, tháp nhọn bao quanh bằng cỏ cây hoa lá, được che phủ bên trên bằng mây trắng xanh, và để tương phản là một tia nước nhỏ của sông Hudson, với những gợn sóng xanh biếc trộn lẫn với các đốm trắng của thuyền bè bé tí ở xa đằng dưới. Không khí mà viên thanh tra hít sâu vào hai lá phổi được rắc thêm mùi gỗ và thông lá kim, hoa và bụi thơm, mặt trời buổi trưa đang chiếu rực rỡ, bỗng làn gió nhẹ tháng Tư mang hơi lạnh luồn qua mái tóc hoa râm của ngài. Thật vui mừng khi vẫn còn sống, viên thanh tra phản ứng đầy dứt khoát khi ngài ta điều khiển xe trước một khúc quành bất ngờ trên đường, có tội hay vô tội. Đây không phải chuyến viếng thăm lần đầu tới lâu đài Hamlet, nơi trú ngụ lạ thường
https://thuviensach.vn
của Drury Lane, viên thanh tra nghĩ, và cứ mỗi lần tới đó thì cái nơi chết tiệt ấy lại càng trở nên thân thiết hơn.
Ngài thanh tra cho xe dừng lại trước cây cầu nhỏ quen thuộc, tiền đồn án ngữ vùng đất của Drury Lane, và vẫy tay như trẻ con với người đứng gác, một ông già nhỏ thó hồng hào cười tươi rói đang làm động tác vuốt tóc chào lịch sự. “Chào bác! Thumm kêu to. “Hôm nay ngài Lane có nhà không nhỉ?”
“Dạ có, thưa ngài,” người gác cầu đáp lời. “Có, thưa ngài. Cứ rẽ phải rồi đi tiếp, ngài thanh tra. Ngài Drury bảo ngài luôn được tiếp đón. Chính lối đó ạ!” Ông ta chạy tới chỗ cây cầu, kéo mạnh cánh cửa kẽo kẹt ra đằng sau và ra hiệu cho chiếc xe của viên thanh tra băng qua mặt cầu bằng ván gỗ vừa cổ vừa lạ.
Viên thanh tra thở phào nhẹ nhõm và nhấn chân ga. Một ngày đẹp trời chết tiệt, ơn trời! Khung cảnh thật thân quen - con đường rải sỏi tuyệt mỹ, bụi cây hoang xanh mướt, và đột nhiên, như trong một giấc mơ lạ thường, một khoảng rừng trống hiện lên trước tòa lâu đài. Không chỉ nằm cao chót vót trên vách đá dốc cheo leo cách sông Hudson cả trăm mét, tòa lâu đài còn là đỉnh cao ước nguyện của ngài Drury Lane.
Ý tưởng về nó đã bị các nhà phê bình hiện đại chỉ trích, kiến trúc của nó bị đám chim non em chã từ Viện công nghệ Massachusetts chê bai, những kẻ có hàng đống bản vẽ với cấu trúc tháp nhọn bằng thép cao vút và những thành trì bằng bê tông vững chắc. Người tạo ra nó bị chế giễu là “Khốt ta bít,” “Đi sau thời đại,” “Gã hề nửa mùa,” -cái biệt danh cuối là do một thanh niên nghiêm túc từ một ngôi trường mới về phê bình kịch nghệ đặt cho, người mà bất kỳ nhà soạn kịch nào sống trước thời Eugene O’Neill và bất kỳ diễn viên nào sinh trước Leslie Howard đều chỉ là hạng “vớ vẩn,” “tầm phào,” “cổ lỗ,” và “không đáng nói.”
Nào đã hết, với những khu vườn nhiều cây trồng, những cây thủy tùng được lựa cẩn thận, một ngôi làng thời nữ hoàng Elizabeth với nhà có mái hiên, đường sỏi, vỉa hè, cầu kéo có hào bao quanh, và trên tất cả là sự kỳ vĩ của kiến trúc đá tảng tạo nên chính tòa lâu đài. Nó là một miếng thịt mỡ của kiến trúc thế kỷ 16, một miếng bánh thời phong kiến Anh, và chút gia
https://thuviensach.vn
vị từ Shakespeare… sự bài trí quen thuộc cho một quý ông già ẩn cư giữa những kỷ vật thời trai trẻ. Cái thời mà ngay cả những tay phê bình khó tính nhất cũng không thể phủ nhận, cái thời đã được hào phóng hiến dâng cho sự bất diệt của kịch nghệ, hiến dâng thứ như tài năng thiên phú cho sự nghiệp trong cái nhà hát đã mang đến cho ông một gia tài lớn, danh tiếng lớn, và một niềm hạnh phúc cá nhân vô bờ.
Và đây là nơi cư ngụ của ngài Drury Lane, ông hoàng đã thoái vị của sân khấu. Kệ cho đám đông xô bồ thành thị kia đánh giá thế nào, thanh tra Thumm tự rút ra quan điểm riêng. Một ông già khác mở cánh cửa sắt nặng nề trên bức tường đá cao bao quanh lâu đài, đây chính là sự yên bình và nó thật đẹp, nó là sự giải thoát cho bầu không khí quay cuồng của New York.
Thumm nhấn phanh đột ngột, và chiếc xe kít lên dừng lại. Cách bên trái viên thanh tra sáu mét là một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Một vườn hoa tulip với bồn nước bằng đá có hình nàng tiên cá Ariel đang mỉm cười… nhưng chính con người với bàn tay xương xẩu rám nắng đang té nước trong bồn mới thu hút ông. Suốt quãng thời gian quen biết Drury Lane và người hầu của ông ta, viên thanh tra chưa từng mất đi cái cảm giác huyền ảo lạ kỳ khi trông thấy vị thần lùn già này. Ông ta nhỏ thó, da rám nắng, nhăn nheo, hói đầu, râu mọc rậm, và trên lưng của người lùn là một cái bướu gù lên - con người đáng kinh ngạc này mang tạp dề da, một hình ảnh thợ rèn hài hước. Con người gù lưng cổ lỗ đó nhìn lên, cặp mắt nhỏ tinh tường sáng lên. “Xin chào, Quacey!” viên thanh tra la lớn. “Ông đang làm gì thế?”
Quacey, người gắn bó mật thiết với quá khứ của Drury Lane - người làm tóc và trang điểm suốt bốn chục năm - đặt đôi bàn tay nhỏ bé lên cặp môi cong mỏng. “Tôi đang quan sát con cá vàng,” ông ta đĩnh đạc nói, bằng chất giọng khò khè cụt lủn của người cao tuổi. “Ngài là người lạ ở đây, thanh tra Thumm!”
Thumm bước ra khỏi xe và vươn hai cánh tay ra. “Tôi cũng đoán thế. Tình hình ông già thế nào?”
Bàn tay của Quacey phóng ra như một con rắn và rụt ra khỏi mặt nước với một thứ nhỏ bé giãy giụa. “Màu sắc đẹp thật,” ông ta nhận xét, khẽ chép đôi môi mỏng. “Ông bảo ngài Drury ư? Khỏe, rất khỏe.”
https://thuviensach.vn
Ông ta đột nhiên mở lời, và tỏ ra buồn phiền. “Ông già ư? Ngài ấy còn trẻ hơn cả anh, thanh tra Thumm à, và anh biết điều đó. Ngài ấy mới sáu mươi, ngài Drury, nhưng có thể bỏ xa anh như… như một con thỏ, và ngài ấy bơi sáu kilômét trong hồ nước lạnh đằng sau kia mỗi sáng. Anh có làm vậy được không?”
“Chà, chắc là không,” viên thanh tra trả lời với một nụ cười, cẩn thận bước men theo luống hoa tulip. “Ông ấy đâu?”
Con cá vàng mất đi dũng khí, và đột nhiên nó ngừng không quẫy nữa. Với vẻ gần như tiếc nuối, người lưng gù ném nó trở lại dòng nước. “Đằng sau đám cây thủy lạp. Họ đang cắt tỉa chúng. Một người duy mỹ tuyệt vời, ý tôi là ngài Drury. Những người làm vườn yêu thích…”
Nhưng viên thanh tra, cười khoái chí, đã bước vượt lên trên ông già - không quên tiện tay chạm vào cái bướu kỳ cục kia, với Thumm đó là một người thợ xuất chúng. Quacey cười ha hả và nhúng cả hai bàn tay như vuốt chim săn mồi vào làn nước.
Thumm đến chỗ một cây thủy lạp bị cắt cụt có tính toán, đằng sau nó là một đống vụn và vết khía do công việc, cùng với giọng nói thâm trầm dễ chịu của Lane, một chất giọng không thường thấy. Thumm bước tới và cười tươi với một người cao gầy mặc quần nhung bao quanh với một đám thợ làm vườn. “Ngài Drury Lane đây rồi, bằng da bằng thịt,” viên thanh tra thốt lên, chìa bàn tay hộ pháp ra. “Chà chà! Ngài không thể già đi chút nào sao?”
“Thanh tra!” Lane reo lên bằng giọng vui mừng. “Một bất ngờ thú vị. Trời ạ, tôi rất mừng được gặp ngài!” Ông buông cái kéo nặng xuống và bắt chặt tay Thumm. “Sao ngài tìm được tôi? Mọi người thường tha thẩn quanh lâu đài Hamlet hàng giờ trước khi tìm thấy gia chủ là tôi.”
“Quacey,” viên thanh tra đáp, ngồi vội xuống thảm cỏ rực rỡ. “A… a.. a! Cảm giác thật tuyệt! Ông ta đang ở chỗ vòi phun.”
“Tra tấn con cá vàng, tôi biết thừa,” Lane cười khẩy.
Ông gập người lại như một cái lò xo và ngồi xuống bên cạnh viên thanh tra, “Thanh tra, ngài đang nặng nề hơn đấy,” ông phê bình, khi nhìn vào
https://thuviensach.vn
chỗ bụng phệ của Thumm. “Ngài nên tập luyện thêm. Từ lần trước ta gặp nhau ngài phải tăng thêm dăm ký rồi đấy.”
“Ngài nói chuẩn không cần chỉnh,” Thumm làu bàu. “Xin lỗi vì tôi không thể khen trả như thế. Ngài trông phong độ tuyệt vời luôn.” Ngài thanh tra quan sát người bạn đồng hành với vẻ dường như là thiện ý. Lane là người cao và gầy, còn tràn đầy sinh lực nữa. Dù bộ râu bạc trắng đã mọc rậm quanh cổ, ông ấy dường như chỉ mới tứ tuần chứ không phải đã sáu mươi: nét mặt cổ điển nghiêm nghị của ông không hề có chút nếp nhăn và vẫn tươi trẻ. Trong cặp mắt xanh xám, vừa sắc vừa sâu, dĩ nhiên là chẳng có chút tuổi già nào. Sau chiếc áo trắng với cổ áo mềm là một cần cổ cứng cáp, vạm vỡ và cường tráng. Khuôn mặt ông, với vẻ trầm tĩnh bất động mà vẫn đủ khả năng bất ngờ chuyển trạng thái, là khuôn mặt của một người đang ở đỉnh cao phong độ. Ngay cả giọng nói của ông, mạnh mẽ, đầy uy lực, lại vừa sắc nhọn như mũi kiếm cho những biểu đạt cần thiết - chất giọng như rót mật vào tai đám đông thính giả - cũng khiến ta nhầm tưởng về những năm tháng hơi phiêu lãng. Nhìn chung thì ông để lại ấn tượng về một nhân vật lạ thường.
“Có gì đó,” Drury Lane nháy mắt nhận xét, “gì đó không hoàn toàn là chuyện xã giao khiến ngài phải đi xa từ tận thành phố đến đây, thanh tra à. Suy luận cơ bản thôi, từ khi ngài chẳng thèm thăm hỏi tôi suốt mùa đông - thực ra thì, từ lúc đỉnh điểm của cái vụ Longstreet*. Có chuyện gì khiến đầu óc các ngài phải vướng bận à?” Cặp mắt xuyên thấu của ông dán vào đôi môi của viên thanh tra. Người nghệ sĩ này bị điếc nặng, đó chính là nguyên nhân buộc ông phải giải nghệ sân khấu. Với khả năng lạ thường trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới, ông đã nhanh chóng tự học được kỹ năng đọc môi, ông thành thạo nó tới mức hầu như ai giao tiếp với ông đều không nghĩ ông bị điếc.
Thumm tỏ vẻ ngập ngừng. “Tôi không nên nói ra. Tôi không nên xác nhận gì cả, ngài Lane… Nhưng đúng là có chút chuyện đang diễn ra ở New York khiến chúng tôi mệt đầu. Tôi nghĩ ngài sẽ muốn thử xem qua, đại loại thế.”
https://thuviensach.vn
“Một tội ác,” người nghệ sĩ trầm tư. “Không phải vụ nhà Hatter đấy chứ?”
Viên thanh tra tươi tỉnh. “Vậy là ngài đã đọc vụ đó trên báo! Vâng, chính là cái nhà Hatter Điên loạn ấy. Âm mưu hạ độc người con gái cả của bà già đó - Louisa Campion.”
“Cô ta bị câm, điếc và mù.” Lane nghiêm nghị. “Cô ta khiến tôi quan tâm đặc biệt đấy, ngài thanh tra. Một ví dụ điển hình cho khả năng của con người trong việc vượt qua những bất lợi về thể chất… Và, tất nhiên, các ngài đã không thành công.”
“Vâng,” viên thanh tra tỏ vẻ bực dọc, tiện tay vặt một nắm cỏ trên mặt đất. Khung cảnh tươi đẹp này dường như đột nhiên không còn được Thumm để mắt tới. “Bó tay hoàn toàn. Chẳng biết mò mẫm ra sao nữa.”
Lane sắc sảo nhìn viên thanh tra. “Tôi đã đọc mọi thông tin trên các báo,” ông nói, “dù có thể những chi tiết bị cắt xén và toàn bộ câu chuyện chưa được kể. Dù sao thì tôi biết chút ít về gia đình này, vụ hạ độc món cocktail, đứa cháu suýt chết vì tham ăn - tất cả bề nổi của sự thật.” Ông đứng phắt dậy. “Ngài đã dùng bữa trưa chưa, thanh tra?”
Thumm cào cào cặp hàm xanh. “Chà… tôi cũng chưa đói lắm…” “Vớ vẩn!” Lane chộp lấy cánh tay lực lưỡng của Thumm và lôi dậy. Viên thanh tra ngạc nhiên khi thấy mình gần như bị nhấc lên khỏi thảm cỏ. “Theo tôi và đừng làm bộ thế. Chúng ta sẽ ăn gì đó và thảo luận vấn đề của ngài khi cùng uống cạn bia lạnh. Ngài vẫn thích uống bia mà, nhỉ?” Thumm lê chân đi và trông có vẻ khát. “Tôi chẳng nói mình thích, nhưng tôi cũng chẳng nói không…”
“Tôi nghĩ vậy. Các ngài đều giống nhau. Thận trọng nhưng thích thì nhích. Nhiều khả năng cũng sẽ thuyết phục được Falstaff, người quản gia nhỏ của tôi, để phục vụ chút rượu, xem nào, Martel Ba sao…”
“Không!” viên thanh tra phấn khởi đáp lời. “Giờ ư, trời ạ, chúng ta đang bàn chuyện mà, ngài Lane!”
Ngài Drury Lane tản bộ dọc theo vỉa hè cong cong và nở nụ cười thầm khi thấy cặp mắt bắt đầu trở nên ngỡ ngàng của vị khách. Sau khi đi qua đám cây cối, họ tiến tới ngôi làng cổ bao quanh lâu đài. Những mái ngói
https://thuviensach.vn
thấp đỏ và con đường rải sỏi, những lối đi hẹp, mái nhọn và hiên đầu hồi, tất cả đều hết sức quyến rũ. Viên thanh tra ngỡ ngàng đến ngây người. Chỉ khi trông thấy một đám đàn ông, phụ nữ mặc quần áo của thế kỷ XX thì ngài mới bắt đầu bình thường trở lại. Dù đã ghé lâu đài Hamlet không ít lần, nhưng đây là lần đầu tiên Thumm tới ngôi làng này. Họ dừng chân trước một kiến trúc thấp màu nâu với cửa sổ có chấn song và có biển gỗ treo bên ngoài. “Ngài đã nghe về quán Mermaid Tavern, nơi gặp gỡ của Shakespeare, Ben Jonson, Raleigh, Francis Beaumont và những người khác chưa?”
“Hình như tôi biết đấy,” viên thanh tra tỏ vẻ kinh ngạc, “ở London, quán rượu này là nơi lũ choai choai rủ rê tới ăn nhậu đập phá.” “Chính xác. Ở phố Bread, Cheapside - gần phố Friday. Và còn hàng tá tên tuổi kỳ lạ ngài có thể nhận ra khi đến đó vào các Chủ nhật. Đây,” Drury Lane tiếp tục, với một động tác khom người lịch sự, “là bản sao hoàn chỉnh nhất của quán rượu bất diệt đó, thưa thanh tra. Cùng vào thôi.” Thanh tra Thumm cười tươi. Căn phòng với trần bằng xà dầm đầy những khói thuốc, tiếng huyên náo và mùi rượu bia nồng nặc. Viên thanh tra gật gù tán thưởng. “Nếu đây là kiểu giải trí của các chàng trai từ vài trăm năm trước, thì ngài Lane ạ, tôi tới luôn. Được đấy!”
Một người dáng thấp bụng phệ với nước da đỏ au, với tạp dề trắng tinh quấn chặt quanh eo, hối hả lao đến chào mừng họ.
“Ngài còn nhớ Falstaff, nhà vô địch Falstaff không?” Lane hỏi, vỗ vào mái đầu hói của mình.
“Nhớ chứ!”
Falstaff khom người và cười tươi. “Vại đầy chứ, ngài Drury?” “Đầy, và thêm một vại cho thanh tra Thumm, cùng một chai brandy, và thêm đồ nhắm ngon. Tới đây nào, thanh tra.” Ông dẫn lối qua căn phòng đông đúc, gật đầu và mỉm cười với đám thực khách ồn ã. Họ tìm thấy một góc bàn trống và tự ngồi xuống một băng ghế dài. Falstaff, với tư cách chủ quán hơn bao giờ hết, đôn đốc việc chuẩn bị món khai vị bữa trưa và tự mình đưa lên phục vụ. Viên thanh tra thở dài một hơi và vục cả chiếc mũi to vào vại bia đầy bọt.
https://thuviensach.vn
“Giờ thì, thanh tra,” người nghệ sĩ nói, khi Thumm đang mải nhai miếng ngon cuối và cạn nốt chỗ rượu trong chai, “kể cho tôi chút gì đó về vấn đề của các ngài đi.”
“Có một sự rắc rối,” viên thanh tra phàn nàn. “Chẳng có gì nhiều để kể đâu. Nếu ngài đã đọc báo thì cũng biết gần bằng tôi rồi. Ngài cũng biết chuyện ông chồng bà già đó tự tử vài tháng trước rồi phải không?”
“Biết. Tất nhiên là đầy tin về vụ mất tích của York Hatter trên các mặt báo rồi. Kể tôi nghe tình hình khi ngài tới hiện trường vụ kia xem nào.” “Được thôi,” Thumm đáp lời, ngả người ra sau tựa vào lưng ghế cao, “điều đầu tiên tôi làm là muốn xác định thời điểm khi chất Strychnine được đưa vào món cocktail. Đầu bếp và quản gia, bà Arbuckle, đã đặt chiếc ly trên bàn phòng ăn lúc 2 giờ 25 chiều, và tầm năm đến mười phút sau, tôi ước chừng như thế, thì bà Hatter cùng cô con gái mù câm điếc bước vào và thấy Jackie, đứa cháu tinh nghịch đang uống trộm thứ cocktail làm riêng kia. Chẳng có thông tin gì nhiều phải không?”
“Không,” Lane đáp lời. “Từ hoàn cảnh có liên quan, mà tôi tin là các ngài đã thông tin cho cánh báo chí, những ai đã có cơ hội hạ độc vào đồ uống. Ngài đã thẩm vấn cậu nhóc để xác định thời điểm nó lẻn vào phòng ăn chưa?”
“Rồi, nhưng trẻ con mà. Biết trông đợi gì đây? Nó nói nó lẻn vào phòng ngay trước khi bà nội và bác Louisa bước vào. Và chúng tôi không thể xác định được ai có thể lẻn vào đó trước thằng nhóc.”
“Tôi hiểu. Đứa trẻ đã hồi phục rồi nhỉ?”
Thanh tra Thumm khịt mũi. “Ổn rồi. cần thêm chút độc nữa để giết nó. Đúng là trẻ con! Hạng trẻ ranh làm người ta muốn tức chết. Tất nhiên là nó không muốn uống trộm chỗ cocktail - không, tất nhiên rồi! Nó chẳng biết sao lại muốn uống nó. Nó bảo: ‘Bà nội Emily dọa cháu sợ, thế là cháu nuốt luôn.’ Kiểu như thế. Tiếc là nó không nuốt thêm tí nữa.”
“Tôi cược là ngài không phải cậu ấm cô chiêu gì khi còn nhỏ, thanh tra à,” Lane khẽ cười. “Vậy suốt quãng thời gian mà nhiều khả năng món cocktail bị hạ độc, mọi người đang làm gì ở đâu? Thông tin báo chí không rõ ràng.”
https://thuviensach.vn
“À, vâng, lộn xộn lắm, ngài biết đấy. Viên thuyền trưởng, Trivett - ông ta ở ngay phòng bên cạnh, là thư viện, để đọc báo. Nhưng ông ta bảo chẳng nghe thấy gì hết. Còn Jill Hatter, cô ta ở trong phòng trên gác, sắp thức dậy, trên giường. Lúc hai rưỡi chiều, xin nhắc lại!”
“Hẳn là cô gái trẻ đã đi chơi đêm,” Lane nhận xét cộc lốc, “trong một cuộc vẫn được gọi là cuộc rượu triền miên, tôi đoán thế. Như một kẻ vô luân. Thế còn những người khác?”
Thumm đưa ly rượu brandy lên nhìn với vẻ buồn rầu. “Còn cái cô Louisa - người lạ lùng - vẫn thường ngủ trưa một chút. Cô ta và mẹ nằm cùng một giường trên gác. Đại khái là bà Hatter, người vừa ra vườn để chuốc phiền cho ai đó, đã lên phòng đánh thức Louisa, và gần tới hai rưỡi thì họ xuống lầu cùng nhau, đi tới chỗ món cocktail. Còn tay hám gái, Conrad - cha của đứa trẻ - thì cứ quanh quẩn khắp hành lang khu phía đông tòa nhà và hút thuốc. Anh ta khai rằng bị đau đầu - phần nhiều do say rượu - và muốn được hít thở. Còn cô con gái chuyên viết thơ, Barbara Hatter - một nhân vật quan trọng, tôi hiểu, và mang vẻ con người nhất trong đám người kia, ngài Lane ạ, chỉ là một cô gái đẹp có đầu óc - cô ta đang viết lách trong phòng trên gác. Bà Smith, y tá của Louisa, thì có phòng ngủ ngay cạnh buồng của Louisa, trông được xuống hành lang phía đông - cô ta khai đang ở trong phòng mình và đọc báo Chủ nhật.”
“Còn những người khác?”
“Linh tinh cả. Bà quản gia Arbuckle thì ở sau bếp, dọn rửa sau bữa trưa với cô hầu Virginia. Ông chồng George Arbuckle thì ở trong gara đằng sau và lau chùi xe. Chỉ thế thôi. Khá là vô vọng, phải không?”
Lane gật đầu, cặp mắt ông dán chặt vào đôi môi của viên thanh tra. “Vị thuyền trưởng một chân Trivett,” ông nói. “Một nhân vật thú vị. Ông ta khớp vào chỗ nào của câu đố đây, hả thanh tra? Ông ta làm gì trong tòa nhà đó lúc hai rưỡi Chủ nhật?”
“Ô, ông ta,” Thumm lẩm bẩm. “Ông ta là một cựu thuyền trưởng, sống cạnh gia đình Hatter khá nhiều năm rồi - mua chỗ đó khi ông ta nghỉ hưu. Chúng tôi đã điều tra ông ta, đừng lo. Giàu sụ ra - ông ta đã đi biển với con tàu chở hàng của mình suốt ba chục năm. Bị buộc phải nghỉ hưu sau một
https://thuviensach.vn
trận bão tồi tệ trên biển Nam Đại Tây Dương. Biển cả nổi sóng và đánh văng ông ta xuống nước - một chân bị va đập vào nhiều chỗ. Viên thuyền phó khiến cái chân ấy bị nhiễm trùng, và khi cập cảng thì họ buộc phải cắt bỏ. Đó quả là một ông già biển cả.”
“Nhưng ngài chưa trả lời câu hỏi của tôi, thanh tra,” Lane nhẹ nhàng nói. “Sao ông ta lại hiện diện trong nhà họ?”
“Tha cho tôi đi được không?” Thumm làu bàu.
“Vậy mạn phép. Tôi đang cảm thấy thư thái thì ngài nhắc tôi về vụ việc này… Trivett luôn lui tới nhà Hatter. Họ bảo ông ta là người bạn thực sự duy nhất của York Hatter - hai ông già đơn độc kết thân với nhau, tôi đoán là, bởi họ có chung nỗi cô đơn. Trivett cũng bị sốc vì vụ mất tích và tự tử của York Hatter, tôi hiểu. Nhưng ông ta không hề ngừng viếng thăm. Ngài thấy đấy, ông ta như ánh nắng chiếu vào Louisa Campion - có lẽ bởi cô ta là một người dịu dàng bị khuyết tật nặng chẳng biết phàn nàn, còn ông ta thì bị mất một chân. Nhiều khả năng. Những khiếm khuyết thân thể mang người ta lại gần nhau. Vậy là vị thuyền trưởng tốt bụng chỉ đơn thuần là đến để thăm hỏi Louisa Campion?
“Đó là tấm vé vào cửa. Tìm đến cô ta mỗi ngày. Họ đã đủ thân thiết, và ngay cả bà mẹ cũng tán thành - thậm chí là quá mừng vì có người chịu để ý tới một người câm điếc - Chúa mới biết sao những người khác không làm thế. Ông ta tới vào tầm hai giờ chiều, bà Arbuckle bảo rằng Louisa đang ngủ trên gác, và ông ta vào thư viện ngồi chờ. Làm thế nào họ giao tiếp được, thanh tra? Rốt cục thì đó vẫn là một phụ nữ tội nghiệp không thể nghe, nhìn hay nói chuyện.”
“À, họ hẳn đã tìm ra cách nào đó,” viên thanh tra đáp. “Cô ta không bị điếc cho đến khi mười tám tuổi, và trước thời điểm đó cô ta đã được học nhiều thứ. Dù sao thì chủ yếu vẫn là thuyền trưởng Trivett ngồi và nắm tay cô ta. Cô ta cũng khá thích ông ta.”
“Khổ thân họ! Giờ thì thanh tra, về phần chất độc Strychnine. Ngài đã thử xác minh nguồn gốc của nó chưa?”
Thumm cười chua chát. “Thật không may. Chúng tôi tóm lấy đầu mối này ngay từ đầu. Tất nhiên rồi. Nhưng đó là đường cụt. Ông thấy đấy, York
https://thuviensach.vn
Hatter chưa bao giờ quên đi niềm yêu thích hóa học - đam mê cháy bỏng từ khi còn là một chuyên viên nghiên cứu hóa chất thời trai trẻ, tôi hiểu là như thế. Ông ta có bố trí một phòng thí nghiệm trong buồng ngủ. Thường dành ra cả ngày trong đó.”
“Lối thoát cá nhân khỏi cuộc sống đáng ghét. Hẳn là vậy. Và chất Strychnine đến từ phòng thí nghiệm đó?”
Thumm nhún vai. “Tôi đoán thế. Ngay cả ở đó, chúng tôi cũng gặp rắc rối. Kể từ khi ông chồng qua đời, bà ta đã cho khóa chặt phòng thí nghiệm đó lại. Nghiêm cấm lui tới, không ai được phép đi vào. Một kiểu lăng mộ tưởng nhớ, đại loại thế. Bà ta muốn giữ nó y nguyên như lúc York Hatter bỏ đi - đặc biệt là hai tháng trước đây khi cái xác được tìm thấy và ông ta được xác định là đã chết. Thấy không? Chỉ có một chìa khóa, và bà ta lúc nào cũng mang theo nó. Không còn lối vào nào khác - mọi cửa sổ đều có song sắt. Ngay khi biết về căn phòng thí nghiệm đó, tôi đã chạy lên đó xem xét, và…”
“Ngài có chìa khóa từ bà Hatter ư?”
“Vâng.”
“Bà ta luôn giữ nó suốt thời gian qua, ngài chắc chứ?”
“Đấy là bà ta bảo thế. Dù sao, chúng tôi cũng tìm thấy những viên thuốc chứa Strychnine trong một cái lọ trên đống giá để đồ mà Hatter đã dựng lên. Nên chúng tôi đoán chất độc đến từ cái lọ đó - thật dễ để cho một viên vào món cocktail so với việc mang theo một nhúm bột hay chất lỏng. Nhưng làm cách nào mà có kẻ vào được trong đó?”
Lane chưa vội trả lời ngay. Ông ngoắc ngón tay dài, rắn chắc, màu xám về phía Falstaff. “Rót thêm bia… Một câu hỏi hoa mỹ, thanh tra à. Cửa sổ có song sắt - Hatter hẳn đã quá muốn bảo vệ con đường trốn thoát của mình - cửa thì khóa, và chiếc chìa duy nhất luôn nằm trong tay bà Hatter. Hừm… Không cần thiết phải có một sự giải thích cầu kỳ. Có những thứ như là sáp in hình mà.”
“Hẳn rồi,” Thumm lầm bầm, “và chúng tôi lại không nghĩ đến thứ đó sao. Tôi có chỉ ra ba khả năng khả thi, ngài Lane à. Khả năng đầu tiên: kẻ hạ độc đã đánh cắp chất Strychnine từ phòng thí nghiệm trước khi York
https://thuviensach.vn
Hatter biến mất, khi căn phòng để mở và ai cũng vào được, hắn cất giữ chất độc cho đến hôm Chủ nhật rồi…”
“Mưu trí đấy,” Lane nhận xét. “Tiếp đi thanh tra.”
“Thứ hai, ai đó đã dùng sáp để sao chìa khóa, như ngài gợi ý, làm một chiếc chìa tự chế, và tiếp cận được phòng thí nghiệm để lấy chất độc ngay trước vụ mưu sát.”
“Hoặc là trước từ lâu rồi, phải không thanh tra?”
“Còn khả năng thứ ba, chất độc được đưa vào từ một nguồn bên ngoài.” Thumm nhận lấy vại bia đầy ắp bọt từ tay Falstaff, và uống cạn nó cho thỏa cơn khát. “Ngon lắm,” Thumm nói bằng giọng líu ríu. “Ý tôi là bia. Chúng tôi đã làm mọi việc có thể làm. Giả thuyết về chiếc chìa khóa - có vẻ khả thi - công cuộc tổng rà soát mọi thợ khóa và cửa hàng ngũ kim… không phát hiện ra gì cả. Nguồn chất độc bên ngoài - chúng tôi đang tiến hành điều tra, tới nay vẫn chưa có tiến triển nào. Và tình hình tới hôm nay là thế.”
Lane trầm ngâm gõ tay lên mặt bàn. Quán đang vãn khách dần, họ gần như chỉ còn lại một mình. “Và ngài đã nảy ra ý nghĩ,” ông nói sau một hồi im lặng, “là món cocktail có thể bị hạ độc trước khi bà Arbuckle mang nó vào phòng ăn?”
“Trời đất ạ, ngài Lane,” Thumm lẩm bẩm, “ngài nghĩ tôi là ai chứ? Tất nhiên tôi nghĩ đến chuyện đó. Khám xét căn bếp, nhưng chẳng có dấu vết gì của chất Strychnine hay kẻ hạ độc. Tuy nhiên, quả là bà Arbuckle đã để thức uống trên bàn bếp trong vài phút và đi đến chỗ kho đồ ăn lấy gì đó. Cô hầu Virginia đã vào phòng khách một phút trước để dọn dẹp. Nên ai đó có thể lẻn vào bếp và hạ độc vào đồ uống trong khi bà Arbuckle không để ý.”
“Tôi bắt đầu đánh giá cao sự rắc rối của ngài rồi đấy,” Lane nói với một nụ cười rầu rĩ. “Và để bổ sung thêm, thanh tra à. Không còn ai khác trong tòa nhà vào chiều Chủ nhật đó ư?”
“Tôi chẳng phát hiện ra thêm ai nữa cả. Nhưng cửa trước không hề khóa, và bất kỳ ai cũng có thể lẻn vào mà không bị phát hiện. Việc chuẩn bị món cocktail hằng ngày trong gian bếp lúc hai rưỡi chiều thì nhà Hatter ai cũng biết hết.”
https://thuviensach.vn
“Tôi hiểu là có người trong đám gia nhân đã không ở trong nhà khi vụ việc xảy ra - Edgar Perry, gia sư riêng cho hai đứa con của Conrad Hatter. Ngài đã kiểm tra anh ta chưa?”
“Chắc chắn rồi. Perry được nghỉ Chủ nhật đó, và sáng hôm ấy anh ta khai mình bận đi dạo, qua công viên Central - dành cả ngày cho bản thân. Không về nhà tới khi chiều muộn, khi tôi ghé qua đó trước.” “Vậy anh ta phản ứng thế nào khi biết tin về vụ hạ độc?”
“Có vẻ kinh ngạc và, tôi nghĩ, khá là lo lắng khi biết tin đó. Không thể đưa ra lời giải thích nào.”
“Dường như chúng ta,” Drury Lane nhận xét, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt như tượng, một cái cau mày hiện ra giữa cặp mắt, “đang bị đẩy sâu vào một màn sương mù. Và động cơ? Mấu chốt của sự việc có thể nằm ở đó.”
Thanh tra Thumm cứ thế rên lên, như một người tráng kiện rống lên thể hiện sức mạnh. “Bất kỳ người nào trong số họ cũng có động cơ hết. Gia đình Hatter là một đám người dở hơi - điên có tổ chức, sung sức có đào tạo, ngoại trừ cái nàng thơ Barbara, mà ngay cô ta cũng gàn dở theo cách riêng, gàn dở bằng thơ ca. Ngài thấy đấy, bà Hatter dành cả đời để bao bọc cho đứa con gái mù câm điếc. Trông nom cô ta như một bà mẹ hổ. Ngủ chung phòng, tự tay cho ăn, giúp mặc đồ - dành cả đời để khiến Louisa thoải mái nhất có thể. Việc làm duy nhất khiến mụ hồ ly tinh đó trông như con người.”
“Và, tất nhiên, những đứa con khác sẽ ghen tị,” Lane lầm bầm với đôi mắt sáng chợt lóe lên. “Họ sẽ ghen tị. Sự mãnh liệt, hoang dại cộng với bản năng bạo lực không bị chi phối bởi bất kỳ sự suy xét đạo đức nào… Đúng thế. Tôi bắt đầu nhìn ra những khả năng rồi.”
“Tôi đã theo dõi họ suốt cả tuần,” viên thanh tra chen vào. “Sự chú tâm của bà mẹ dành cho Louisa kiên định đến mức những đứa con khác phát phiền và tị nạnh. Không phải chuyện hiền hòa thân thiện và con yêu mẹ, mẹ thân mến đâu!” Viên thanh tra mỉm cười tinh quái. “Tôi không nghĩ đó là tình yêu thương. Chỉ là sự kiêu căng và có phần ngang ngạnh. Hơn thế,
https://thuviensach.vn
xin nhắc là còn liên quan đến chuyện Louisa không phải chị ruột của họ, thưa ngài Lane, mà chỉ là chị em cùng mẹ khác cha.”
“Có sự khác biệt đáng kể ở đây,” Lane đồng tình.
“Nó làm mọi chuyện thay đổi hẳn. Như Jill, đứa con út chẳng hạn, chẳng có ân oán gì với Louisa, tuyên bố sự có mặt của cô chị khiến ngôi nhà như có tang và không có người bạn nào của cô ta thích đến đó, vì Louisa khiến mọi người không thoải mái với những biểu hiện kỳ dị. Biểu hiện kỳ dị! Cô chị biết làm sao đây, nhưng Jill chẳng buồn bận tâm chút nào. Không phải cô ta. Giá mà cô ta là con gái tôi.”
Bàn tay Thumm vỗ bốp xuống bắp đùi mình. “Conrad cũng có suy nghĩ tương tự - luôn cãi nhau với bà mẹ nhằm đưa Louisa tới một tổ chức nào đó cho khuất mắt. Bảo rằng cô chị khiến họ không thể có cuộc sống bình thường được. Bình thường cơ đấy!” viên thanh tra cười nhạo. “Kiểu sống bình thường của hắn là có rượu để sẵn dưới bàn và có gái vây quanh.”
“Còn Barbara Hatter?”
“Đó lại là một câu chuyện khác nữa.” Dường như Thumm có cảm tình với cô thi sĩ này, nên viên thanh tra nhấm nháp vại bia, liếm mép, rồi trả lời bằng giọng trầm ấm sau cái nhìn tò mò của Lane: “Điều tôi muốn nói - cô ta là một cô gái tốt, ngài Lane ạ. Tinh tế. Tôi không bảo cô ta yêu quý người chị, nhưng từ những gì tôi thấy thì Barbara xót thương cho người chị, cố giúp cô ta có chút niềm vui sống - điều mà ta mong một phụ nữ chân chính có trái tim sẽ thực hiện.”
“Cô Hatter này rõ là đã chinh phục được ngài.” Lane đứng dậy. “Theo tôi nào, thanh tra, ra hít chút khí trời.”
Thumm cố đứng dậy, tháo lỏng thắt lưng, và từ quán rượu bước ra con đường nhỏ lạ kỳ. Họ quay trở lại chỗ khu vườn. Lane đắm chìm trong suy tư, cặp mắt ông u uất và miệng ông mím lại.
Thumm bước theo sau với vẻ buồn bã. “Conrad và vợ anh ta không hòa hợp lắm, tôi nhận ra…” Lane cuối cùng cũng lên tiếng, thả mình xuống một băng ghế đẽo thô. “Ngồi xuống đi, thanh tra.”
Thumm nghe theo, vẻ yếu ớt, như một người đã chán việc suy nghĩ. “Họ không hợp. Như chó với mèo ấy. Cô vợ bảo rằng cô ta sẽ đem hai đứa nhỏ
https://thuviensach.vn
đi khỏi ‘căn nhà đáng sợ này’ ngay khi cô ta có thể - bất ngờ ở chỗ cô ta nói thật luôn… Tôi biết thêm chút thông tin thú vị về cô ta từ bà Smith, Y tá của Louisa. Vài tuần trước Martha và bà mẹ chồng đã có ẩu đả. Hình như bà ta đã đánh lũ trẻ và thế là Martha tức điên lên. Gọi bà mẹ chồng là ‘đồ quỷ cái’ nguyền rủa bà ta là người chuyên chọc gậy bánh xe, và bảo rằng giá mà bà ta chết đi cho rồi - ngài biết phụ nữ phản ứng thế nào khi họ bị kích động rồi đấy. Đại loại là, nó biến thành một cuộc đấu bứt tóc. Bà Smith đưa lũ trẻ ra khỏi phòng - ai cũng sợ cứng người… Martha thì hiền như cừu, ngài hiểu chứ, nhưng khi điên lên thì ghê gớm lắm. Tôi thấy tội nghiệp cô ta, phải sống với một hội điên. Tôi sẽ không để con cái mình lớn lên trong một môi trường như thế, thực lòng mà nói.”
“Còn bà Hatter là một phụ nữ giàu có,” Lane trầm ngâm, như thể ông chưa hiểu hết ý câu chuyện của Thumm. “Có thể tiền là động cơ đằng sau…” Với mỗi khoảnh khắc trôi qua, ông lại trở nên âu sầu hơn.
Họ ngồi trong yên lặng. Không gian trở lạnh, từ ngôi làng nhỏ vang lên tiếng cười to. Viên thanh tra khoanh tay trước ngực, quan sát khuôn mặt Lane. Thứ mà ngài thấy rõ ràng không thỏa mãn, nên ngài cất tiếng: “Vậy, kết luận thế nào đây, ngài Lane? Có manh mối gì không?”
Drury Lane thở dài, khẽ cười, rồi lắc đầu. “Tiếc là tôi đâu phải siêu nhân, thanh tra à.”
“Ý ngài là?”
“Là tôi chưa có ý niệm mơ hồ nào cho câu trả lời. Ai đã bỏ độc vào đồ uống? Không có giả thuyết nào khả dĩ cả. Sự thật, sự thật - không đủ cho một giả thuyết xác đáng.”
Thumm lộ vẻ buồn bã. Ngài đã vừa mong vừa lo cái cảnh này. “Có gợi ý gì chăng?”
Lane nhún vai. “Chỉ có một cảnh báo. Một kẻ hạ độc sẽ luôn là kẻ hạ độc. Không nghi ngờ gì, chắc chắn sẽ có lần mưu sát khác nhằm vào Louisa Campion. Tất nhiên là chưa diễn ra ngay đâu. Nhưng một ngày nào đó, khi kẻ hạ độc nghĩ rằng hắn an toàn…”
“Chúng tôi sẽ làm tất cả có thể để ngăn ngừa điều đó,” viên thanh tra đáp bằng giọng không quá tự tin.
https://thuviensach.vn
Người nghệ sĩ già đột nhiên vươn thân hình gầy guộc đứng dậy, và Thumm ngắm nhìn với vẻ kinh ngạc. Khuôn mặt Lane vẫn trơ trơ - dấu hiệu không thể sai của việc ông đang mải suy nghĩ. “Thanh tra. Tôi hiểu là bác sĩ Merriam đã lấy mẫu chất độc từ chỗ cocktail bị đổ trên sàn phòng ăn đúng không?” Thumm gật đầu, tò mò dõi theo. “Và bên pháp y đã phân tích mẫu đó phải không?”
Viên thanh tra nhẹ người. “À,” ngài trả lời. “Vâng, chính bác sĩ Schilling đã xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thành phố.”
“Đích thân bác sĩ Schilling đã thông báo kết quả phân tích ư?” “Này, này!” viên thanh tra đáp. “Ngài nghĩ sao vậy? Chẳng có gì kỳ bí ở đây cả, ngài Lane. Chính ông ấy đã báo cáo kết quả.”
“Thế ông ấy có bảo lượng thuốc độc trong cocktail là đủ liều gây chết người không?”
Viên thanh tra khịt mũi. “Gây chết? Dám cá rằng là đủ. Bác sĩ bảo chỗ thuốc độc trong đồ uống đủ để giết cả tá người luôn.”
Một khoảnh khắc trôi qua, khuôn mặt Lane lấy lại nét dễ chịu thường ngày, và khẽ thêm nét thất vọng, còn viên thanh tra đọc được vẻ hụt hẫng trong cặp mắt xanh xám. “Và tôi chỉ có thể quyên chút phần thưởng nhỏ nhoi cho chuyến hành trình dài nóng nực của ngài, thanh tra ạ!” Drury Lane lên tiếng, “là các anh phải theo dõi nhà Hatter Điên loạn thật sát sao.”
https://thuviensach.vn
CẢNH 2
Giường Ngủ Của Louisa.
Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu
10:00 A.M
Có thể thấy rằng ngay từ đầu vụ việc nhà Hatter đã diễn ra theo cách nhẹ nhàng. Chẳng hề liên quan đến chuyện án mạng cứ nối tiếp án mạng, một mớ những sự kiện, những tin tức gây chấn động. Nó diễn ra thật chậm rãi, với nhịp điệu gần như khoan thai và bởi sự việc quá chậm nên người ta không thấy xót thương gì cả, như cuộc diễu hành của Jagannath.
Theo đó, việc tiến triển chậm chạp của sự kiện này dường như đặc biệt có ý nghĩa, dù tại thời điểm ấy chẳng ai, gồm cả Drury Lane, có thể đoán được khoảng cách đến sự thật. Vụ mất tích của York Hatter vào tháng Mười hai, việc phát hiện ra thi thể vào tháng Hai, chuyện mưu sát cô con gái mù câm điếc vào tháng Tư, và thêm nữa, chỉ chưa đầy hai tháng sau, vào một sáng Chủ nhật nắng đẹp tháng Sáu…
Lane, ẩn mình lánh đời trong tòa lâu đài bên sông Hudson, đã quên mất vụ việc của nhà Hatter và chuyến viếng thăm của Thumm. Những bài báo cứ mất dần hứng thú với vụ hạ độc kia, cho đến khi cuối cùng toàn bộ vụ việc biến khỏi mục tin tức. Dù thanh tra Thumm đã nỗ lực hết sức, chẳng có thêm điều gì được hé lộ, chẳng thể quy kết ai là kẻ đầu độc dù chỉ là chút đỉnh. Cơn háo hức lắng xuống, cảnh sát cũng chìm theo. Cho đến ngày mồng năm tháng Sáu.
Drury Lane biết chuyện qua điện thoại. Ông đang nằm giãn mình trên bức tường lỗ rỗng của lâu đài, sưởi nắng cho cơ thể, thì ông già Quacey
https://thuviensach.vn
chạy bổ lên cầu thang xoắn của tòa tháp, khuôn mặt của người lùn tái đi vì cố sức. “Thanh tra Thumm!” ông ta thở khò khè. “Đang chờ điện thoại, ngài Drury! Ngài… ngài…”
Lane bật dậy ngay. “Có chuyện gì, Quacey?”
“Ngài ấy bảo là…” Quacey tiếp tục hổn hển, “vừa có chuyện tại nhà Hatter!”
Lane trườn mình ra phía trước và ngồi xổm trên mái vòm dốc. “Vậy là cuối cùng cũng có chuyện,” ông ta chậm rãi nói. “Khi nào? Là ai? Thumm bảo thế nào?”
Quacey lắc cái trán nhễ nhại. “Ngài ấy chẳng bảo gì. Ngài ấy đang rất kích động, viên thanh tra ấy. Ngài ấy gào lên với tôi. Tôi chưa từng hộc tốc đến thế suốt…”
“Quacey!” Lane đứng dậy. “Nói nhanh đi.”
“Vâng, ngài Drury. Nếu ngài muốn biết tường tận, ngài ấy bảo, hãy tới nhà Hatter ngay lập tức. Phố Washington Square North. Mọi thứ đang chờ ngài đến. Nhưng nhanh lên, ngài ấy nói!”
Lane liền lập tức lao xuống cầu thang xoắn.
Hai tiếng sau, được dẫn đường bởi một thanh niên trẻ miệng không ngớt cười mà Lane gọi là Dromio - ông thường gọi vui bạn hữu bằng tên nhân vật của Shakespeare - thì chiếc limousine Lincoln đen bóng của Lane đã lách qua được dòng xe đông đúc phía dưới đại lộ Thứ Năm. Khi họ lướt qua dòng xe ở phố Thứ Tám, Lane có thể trông thấy một đám đông từ đằng xa đang bu quanh công viên Washington Square, bị cảnh sát hò hét và làm tắc lối vào bên dưới cổng vòm chính. Hai xe môtô cảnh sát dừng Dromio lại. “Không được qua!” một người hét lên. “Quay đầu đi vòng!”
Một sĩ quan mập ú, mặt đỏ chạy tới. “Xe của ngài Lane phải không? Thanh tra Thumm bảo cho họ qua. Nào, các cậu. Lệnh đấy.” Dromio cho xe bò quanh góc đường dẫn vào khu Waverly Place, bỏ lại toàn bộ khu phía bắc phần công viên giữa đại lộ Thứ Năm và phố Macdougal. Những lối đi bộ của công viên cắt qua con phố đang kẹt cứng người xem, phóng viên và dân quay phim đang chạy như kiến vỡ tổ. Cảnh sát và đám mật vụ nặng nề ở khắp nơi.
https://thuviensach.vn
Khi thấy nơi xuất phát của cảnh nhốn nháo xáo động, Dromio liền dừng xe lại trước chỗ đó. Một kiến trúc như khối hộp cao ba tầng xây bằng gạch đỏ tươi, một ngôi nhà cũ với phong cách cổ xưa - di tích từ thời còn đường xe ngựa, với những ô cửa sổ rộng che màn kín, một đường viền trang trí trên gờ mái, và bậc tam cấp bằng đá trắng với tay vịn sắt hai bên, và ở đầu mỗi bên, chỗ chân thềm, là hai con sư tử bằng gang đã chuyển xanh theo thời gian. Đám thanh tra đứng chen nhau trên bậc tam cấp. Án ngữ lối vào là cánh cửa ô trắng to tướng mở toang, để lộ ra một khu tiền sảnh nhỏ.
Lane xuống khỏi chiếc xe với vẻ u sầu. Ông mặc bộ complet bằng vải lanh mát, đội mũ vành, đi giày trắng, và cầm theo một cây gậy mây. Ông quan sát thềm nhà, thở dài, và bắt đầu bước lên những bậc đá. Một người ló ra khỏi tiền sảnh. “Ngài Lane đúng không ạ? Mời đi lối này. Thanh tra Thumm đang đợi ngài.”
Viên thanh tra - với khuôn mặt hiện rõ sắc đỏ cáu gắt - gặp Lane trong nhà. Một nơi tĩnh lặng: một đại sảnh dài lạnh ngắt, rộng và sâu, các cửa bên đều đóng cả. Ở trung tâm hành lang là một cầu thang kiểu cũ bằng gỗ dẫn lên lầu trên. Và, đối lập với con phố ồn ã, bên trong căn nhà im ắng như một lăng mộ. Chẳng có ai hết - ngay cả cảnh sát cũng không, như tới giờ Lane nhận thấy.
“Chà,” Thumm cất giọng bi kịch, “đã có chuyện.” Viên thanh tra có vẻ ngập ngừng chẳng nói nên lời trong giây lát, “đã có chuyện” như đại diện cho giới hạn tột đỉnh của ngôn từ.
“Louisa Campion ư?” Lane hỏi. Một câu hỏi dường như vô nghĩa. Còn có thể là ai khác ngoài Louisa Campion đây, khi hai tháng trước đó cô ta bị mưu sát?
Thanh tra Thumm thốt lên: “Không.”
Vẻ ngạc nhiên của Lane suýt biến thành lố bịch. “Không phải Louisa Campion!” ông thốt lên. “Vậy là ai…?”
“Bà mẹ già. Bị sát hại!”
Người nọ nhìn người kia trong hành lang lạnh ngắt, mắt giao nhau, và chẳng tìm được niềm an ủi nào trên khuôn mặt người kia. “Phu nhân
https://thuviensach.vn
Hatter,” Lane nhắc lại lần thứ ba. “Lạ thật, thanh tra à. Như thể có người cố ý muốn sát hại cả nhà Hatter, chứ không chỉ một người cụ thể.” Thumm di chuyển vội vã về phía cầu thang. “Ngài nghĩ vậy sao?” “Tôi chỉ vừa bật ra ý nghĩ đó thôi,” Lane đáp lời khô khốc. “Rõ là ngài không đồng tình với tôi.”
Họ bắt đầu sóng đôi leo lên cầu thang. Viên thanh tra bước đi nặng nhọc, như thể đang bị đau. “Tôi cũng chẳng phản đối ý kiến đó. Chỉ là tôi vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo vụ việc ra sao.”
“Là chất độc à?”
“Không. Chí ít cũng không có vẻ như thế. Nhưng ngài có thể tự xem.” Họ dừng lại tại đầu cầu thang. Lane quét ánh mắt sắc bén. Họ đang đứng trên một hành lang dài. Cửa ở mỗi bên đều đóng kín, và trước mỗi ô cửa đều có một cảnh sát đứng canh.
“Đây là các phòng ngủ, phải không thanh tra?”
Thumm xác nhận và bắt đầu đi men theo hàng tay vịn gỗ đầu cầu thang. Viên thanh tra dừng lại ngay sau đó, tỏ vẻ căng thẳng, đụng nhau với Lane đi đằng sau. Một viên cảnh sát béo lùn đứng tựa vào cửa ở góc phía tây bắc hành lang đột nhiên hô to: “Ôi!” và lảo đảo ngả người ra sau khi cánh cửa sau lưng anh ta bị mở mạnh.
Viên thanh tra thở phào. “Lại là đám nhãi ranh đó nữa,” ngài càu nhàu. “Hogan, trời ạ, anh không thấy là lũ chuột đó đang ở trong phòng sao?” “Có, thưa ngài,” Hogan thở hổn hển, cảm thấy bối rối. Một cậu nhóc nhỏ thó, đang la hét ầm ĩ, lao mình qua giữa đôi chân mập ú của anh ta và trườn xuống sảnh với một quyết tâm ra trò.
Hogan vừa lấy lại thăng bằng thì lại bị quấy rầy bởi một cậu nhóc còn nhỏ hơn nữa, chỉ vừa chập chững biết đi, chạy lon ton giữa cặp chân đầy mời gọi, cũng hân hoan bắt chước la hét như cậu anh trai. Viên cảnh sát chồm người ra trước, theo sau là một phụ nữ mang vẻ ưu phiền đang gắt lên: “Jackie! Billy! Cái bọn này, các con biết là không được phép thế!”
“Martha Hatter?” Lane thì thầm. Cô ta là một phụ nữ khá đẹp, nhưng đã có nếp nhăn quanh mắt và không còn vẻ khỏe khoắn tươi vui. Thumm gật đầu, mải dõi theo màn đuổi bắt.
https://thuviensach.vn
Hogan đã tóm gọn được Jackie, cậu nhóc mười ba tuổi, từ tiếng la của Jackie, thì có vẻ cậu ta đang muốn xem xem có chuyện gì xảy ra, cậu nhóc hét lên và đá vào chân viên cảnh sát, khiến anh ta lúng túng trong đau đớn. Martha Hatter đã bắt kịp cậu con thứ đang bắt chước người anh, đá liên hồi vu vơ nhưng đầy uy lực vào mắt cá chân của Hogan. Trong cảnh hỗn loạn của tay, chân, mặt mũi và tóc tai rối bù, cả bốn người họ đều biến vào trong căn phòng. Từ tiếng la vang lên sau cánh cửa, có thể thấy cục diện cuộc chiến đã hoàn toàn đổi hướng.
“Và đây,” Thumm cất giọng cay đắng, “chính là minh họa cho tổ hợp gia đình quái đản này. Lũ quỷ nhỏ khiến cho mọi người lộn cả ruột lên… Chỗ này đây, ngài Lane.”
Đối diện đầu cầu thang là một cánh cửa, cách góc hành lang về phía đông chưa đầy hai mét. Cánh cửa đang khép hờ. Thumm mở nó đủ rộng để đi vào và đứng qua một bên. Lane dừng lại trước ngưỡng cửa, đôi mắt ánh lên vẻ tìm kiếm bóng người. Căn phòng hầu như trống trải: chỉ có một chiếc giường. Có hai cửa sổ lồi ra đối diện cánh cửa trước, trông ra ngoài khu vườn nằm hướng bắc, hay đằng sau của tòa nhà. Cánh cửa ở bức tường phía đông gần cửa sổ dẫn đến một buồng tắm riêng biệt, Thumm giải thích. Ô cửa hành lang mà Lane và Thumm đang đứng nằm bên trái của bức tường phòng ngủ, còn ở bên phải, Lane để ý thấy có một buồng để đồ dài và sâu, điều đó giải thích tại sao hành lang lại hẹp lại ở phía ngoài đầu cầu thang, vì buồng để đồ đã chiếm thêm diện tích dọc theo phần còn lại của hành lang về hướng đông, nơi có một căn phòng khác.
Từ nơi đang đứng, Lane có thể thấy hai chiếc giường - một cặp giường giống nhau - được đặt đầu quay về phía bức tường phải, và phân cách với nhau bằng một cái bàn đầu giường lớn đặt cách mỗi bên khoảng nửa mét. Chiếc giường gần cửa hơn có một cây đèn ngủ nhỏ, được gắn vào thành giường, còn chiếc giường kia không gắn đèn. Ở bức tường bên trái, phía trung tâm và đối diện với hai chiếc giường là một lò sưởi lớn bằng đá kiểu cũ, dường như đã lâu không dùng dù bộ đồ lò vẫn được xếp trên cái giá bên cạnh. Những quan sát trên là theo bản năng và tức thời. Sau khi quan sát
https://thuviensach.vn
nhanh để biết đồ đạc cơ bản được bố trí thế nào, Lane dời mắt về phía hai chiếc giường.
“Lò sưởi lạnh như cá chết,” Thumm lầm bầm, dựa người vào mặt bên lò. “Nhìn được mọi thứ. Trông bà ta đẹp chưa kìa!”
Trên chiếc giường gần cửa - chiếc giường có gắn đèn - là phu nhân Hatter đang nằm. Bình luận chua cay của Thumm là thừa thãi, đang nằm vặn vẹo giữa tấm ga trải giường sọc màu, cặp mắt vô hồn vẫn mở to, khuôn mặt đờ đẫn, gân nổi lên và tái đi, người đàn bà già nua đó là sinh thể thiếu sức sống nhất có thể mường tượng ra được. Có vài dấu vết đặc biệt dị thường trên trán bà ta - những vết máu dính vào mái tóc rối hoa râm.
Lane quan sát chúng, lộ vẻ bối rối, rồi chuyển sự chú ý sang chiếc giường còn lại. Nó trống không, có một chồng ga giường sạch để ở trên. “Giường của Louisa Campion?”
Thumm gật đầu. “Giường của cô gái mù câm điếc đó, nhưng cô ta đã được chuyển ra chỗ khác. Cô ta được tìm thấy trên sàn sáng sớm nay, bất tỉnh.”
Đôi mày bạc óng của Lane nhướng lên. “Bị tấn công ư?”
“Tôi không nghĩ thế. Tôi sẽ kể đầu đuôi sau. Cô ta đang ở phòng bên - phòng của bà y tá Smith. Cô ta đang được chăm sóc.”
“Nhưng cô Campion ổn cả đúng không?”
Thumm nhếch mép cười chua chát. “Hay thật nhỉ? Ngài đoán là thảo nào cũng có kẻ trong ngôi nhà ngày tìm đến cô ta, dựa trên sự việc mấy lần trước. Nhưng cô ta lại ổn, còn bà mẹ lại thành nạn nhân.”
Có tiếng bước chân ở hành lang phía sau, và cả hai người đều quay phắt lại. Khuôn mặt Lane sáng bừng lên.
“Ngài Bruno! Thật hân hạnh.”
Họ bắt tay nồng ấm. Walter Bruno, công tố viên của hạt New York, là một người tráng kiện với khuôn mặt khổ hạnh, cao tầm thước và đeo kính không vành. Ngài ấy có vẻ mỏi mệt. “Rất vui được gặp, ngài Lane. Dường như chúng ta chỉ được gặp nhau khi có ai đó xuống địa ngục.”
“Lỗi tại ngài hết. Như thanh tra Thumm, cả mùa đông mà ngài chẳng thăm hỏi gì tôi. Ngài tới đây lâu chưa?”
https://thuviensach.vn
“Nửa tiếng rồi. Ngài nghĩ sao về vụ này?”
“Chưa có gì cả.” Cặp mắt người nghệ sĩ tiếp tục lang thang trong căn phòng chết. “Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra?”
Vị công tố viên dựa người vào lò sưởi. “Tôi vừa thấy cô Campion. Thật đáng thương. Cái xác được tìm thấy lúc sáu giờ sáng bởi bà Smith - bà ta ở ngay phòng bên, trông được cả ra khu vườn đằng sau và lối đi hướng đông…”
“Vị trí đắc địa, phải không, ngài Bruno?” Lane khẽ nói.
Bruno nhún vai. “Có thể sẽ quan trọng. Dù sao thì Louisa cũng là người dậy khá sớm, và bà Smith thường dậy lúc sáu giờ để đến đây và xem xem Louisa có cần gì không. Bà ta phát hiện ra bà Hatter chính xác như lúc bây giờ ngài thấy, trên giường, nhưng Louisa thì nằm trên sàn, đại thể là giữa chỗ giường và lò sưởi, đầu hướng về phía cái lò và đôi chân nằm giữa chỗ trống của hai giường. Đây, để tôi chỉ cho ngài.” Ngài ấy định bước vào phòng, nhưng Lane đã đưa tay ra ngăn lại.
“Tôi nghĩ tôi hình dung được,” ông nói. “Tôi còn nghĩ là, chúng ta càng hạn chế bước chân lên sàn càng tốt. Mời tiếp tục.”
Bruno nhìn ông vẻ hiếu kỳ. “Ô, Ý ngài là những vết chân! Bà Smith đã ngay lập tức nhận ra bà chủ đã chết, nên nghĩ là Louisa cũng chết theo rồi. Thế là bà ta la lên, phụ nữ ấy mà, và đánh thức Barbara cùng Conrad Hatter. Họ chạy xộc vào, biết ngay tình hình, và chưa chạm vào thứ gì hết…”
“Ngài chắc chắn vậy chứ?”
“Vâng, họ đều khai như thế, nên chúng tôi phải tin họ thôi. Không chạm vào thứ gì nhưng họ vẫn biết bà mẹ đã chết. Còn cô ta vẫn nằm trơ đó, Louisa ấy, tuy nhiên họ đã nhận ra cô ta chỉ bị bất tỉnh thôi, liền đem cô ta qua phòng bà Smith. Conrad gọi điện cho Merriam, bác sĩ của gia đình, và cảnh sát, chẳng có ai nữa được phép vào đây.”
“Merriam tuyên bố bà Hatter đã chết, rồi họ vào phòng bà y tá,” Thumm tiếp lời, “để chăm sóc con người câm điếc ấy. Ông ta vẫn ở đó. Chúng tôi vẫn chưa thể trò chuyện với cô ta được.”
https://thuviensach.vn
Lane gật đầu trầm tư. “Vậy chính xác thì cô Campion được tìm thấy trong tình trạng thế nào? Có thể kể chi tiết hơn nữa được không, ngài Bruno?”
“Lúc đó cô ta đang nằm sõng sượt, mặt úp xuống. Bác sĩ bảo cô ta bị ngất. Có vết va chạm trên trán, nên giả thuyết của bác sĩ Merriam là khi ngất trán cô ta đã bị đập thẳng xuống sàn. Cô ta giờ đã tỉnh, nhưng vẫn còn hơi choáng váng, vấn đề là liệu cô ta có biết chuyện xảy ra với bà mẹ không, vì Merriam chưa cho phép chúng ta thông báo gì hết.”
“Cái xác đã được khám nghiệm chưa?”
“Ngoại trừ lần xem xét qua loa của bác sĩ Merriam, tôi hiểu là,” Bruno nói và Thumm gật đầu, “vẫn chưa. Chúng tôi đang đợi bên pháp y. Schilling vốn có tiếng là lề mề.”
Lane thở dài. Rồi ông quyết định xem xét căn phòng lần nữa, lần này là nhìn xuống. Cặp mắt ông dán vào tấm thảm xanh xù xì phủ toàn bộ sàn phòng. Từ vị trí đứng ông thấy có nhiều vết bột lốm đốm màu trắng của gót và mũi giày, nằm cách xa nhau. Có vẻ chúng xuất phát từ một chỗ nằm giữa hai chiếc giường, dù đứng ở đây thì Lane không nhìn thấy. Những dấu mũi giày hướng về phía cửa chính, và được in dấu rõ nét trên nền thuần một màu xanh của tấm thảm, ở ngay đằng sau chân giường người chết, khuất khỏi tầm nhìn từ phía cửa.
Lane bước vào phòng, đi quanh chỗ có dấu chân. Ông dừng lại ngay trước khu vực giữa hai giường để quan sát thật kĩ. Những vết giày, giờ ông đã thấy, bắt nguồn từ một đám bột trắng bị vung vãi ra giữa hai chiếc giường. Nguồn gốc của chỗ bột đó ngay lập tức bị phát hiện. Có một chiếc hộp các tông lớn hình tròn chứa bột phấn trắng, giờ đã trống không, nằm cạnh chân giường của Louisa Campion - bột phấn rôm, theo như nhãn ghi trên hộp. Toàn bộ phần thảm nằm giữa hai chiếc giường bị phủ bởi thứ bột này.
Cẩn thận tránh chạm vào dấu chân và bột phấn, Lane len vào giữa hai chiếc giường để tìm vị trí quan sát tốt hơn cái bàn đầu giường và sàn nhà. Có thể thấy ngay là hộp phấn từng được đặt ngay rìa bàn đầu giường, bởi có những vết trắng và màng bụi trên mặt bàn, và một vòng tròn của bột
https://thuviensach.vn
phấn cho biết vị trí chiếc hộp trước khi nó rơi xuống sàn. Cách vòng tròn đó vài phân là một vết lõm còn mới toanh trên phần mặt bàn gỗ, như thể có một vật sắc đã chạm mạnh vào đó.
“Theo tôi thì,” Lane nhận xét, “chiếc hộp đã không được đậy kín, và phần nắp bị rơi ra khi hộp bị đổ.” Ông cúi xuống chỗ mặt sàn dưới chân bàn và nhặt nắp hộp lên. “Các ngài thấy cả chứ?” Thumm và Bruno khẽ gật đầu. Trên phần đầu gần phía rãnh xoắn có vài vệt mảnh song song. Những vệt màu đỏ. Lane tò mò quan sát chúng.
“Là máu,” viên thanh tra thốt lên.
Nơi xuất hiện những vệt máu là phần phía trên nắp đã bị biến dạng, như thể thứ để lại những vệt máu kia đã bị tác động mạnh rồi bị va vào rìa của nắp hộp. Lane gật đầu đồng tình. “Không nghi ngờ gì nữa, thưa các ngài,” ông nói. “Hiển nhiên là chiếc hộp đã bay khỏi bàn sau một cú va chạm mạnh, mà hãy còn lưu lại vết tích trên mặt bàn và cái nắp, rồi rơi xuống chỗ thảm gần chân giường của cô Campion, khiến cho chỗ bột vung vãi ra sau mất nắp.” Ông đặt cái nắp hộp về vị trí cũ, mắt không ngừng quan sát. Có quá nhiều thứ để nhìn nhận.
Ông chọn việc xem xét chỗ dấu chân trước. Ở chỗ mà bột rơi dày nhất, có một đống vết cách nhau chừng mười phân, theo hướng bàn chân thì dẫn từ đầu giường người chết đi song song với thành giường về phía bức tường lò sưởi. Ở ngay cạnh rìa khu vực bột rơi vãi là hai vết mũi giày rõ nét in đậm bột phấn, từ vị trí quan sát này thì chúng xoay dần về phía phía chân giường và hướng về phía cửa, các vết ở phần gót và mũi giày sau đó hiện lên rõ ràng, còn độ rộng của bước chân, tính từ khoảng cách giữa dấu chân, có thể thấy là được kéo dài ra đáng kể. “Về cơ bản chứng tỏ rằng,” Lane lầm bầm, “kẻ để lại dấu chân kia đã bắt đầu chạy lúc đi vòng quanh giường. Vết bước chạy chỉ xuất hiện trên phần thảm không rắc bột - do phần đế giày của kẻ bỏ chạy bị dính bột. Khá mờ nhạt, thanh tra à,” Lane vừa nhận xét vừa nhìn lên, “tôi dám bảo rằng các ngài đã gặp may đấy. Đó chính là dấu chân của hung thủ.”
”Có thể chúng ta ăn may, và cũng có thể là không,” Thumm lầm bầm. “Sao mà tôi chẳng thích những dấu vết này nhé. Thật quá dễ dàng! Dù sao
https://thuviensach.vn
thì chúng ta cũng có thể đo được kích thước từ những dấu chân rõ ràng, cỡ giày 40 đến 42 mũi nhọn, đế mòn cả đôi. Người của tôi sẽ lục tung cả ngôi nhà để tìm ra một đôi giày như thế.”
“Rốt cục thì sự việc có vẻ khá dễ dàng,” Lane bình luận. Ông quay lưng về phía phần khoảng không giữa chân giường. “Tôi hiểu là cô Campion được tìm thấy khi đang nằm cạnh chân giường mình, ở rìa chỗ bột rơi vãi, gần như đúng chỗ mà dấu chân hung thủ chuyển hướng?”
“Đúng vậy. Cô ta cũng để lại vài dấu vết trên chỗ bột nữa, ngài sẽ nhận ra.”
Lane gật đầu, trên chỗ bột dẫn đến vị trí mà Louisa Campion đã ngất đi là những vết chân trần của phụ nữ. Những dấu vết này ngang theo thành giường của cô ta, nơi cái nắp rơi xuống, rồi men theo thành giường tới chỗ chân giường.
“Không nghi ngờ gì nữa, tôi đoán đúng không nhỉ?”
“Chắc chắn trăm phần trăm,” Bruno đáp. “Có thể khẳng định chúng là vết chân của cô ta. Quá dễ để hình dung ra sự việc lúc đó. Dễ thấy cô ta đã bò ra khỏi giường và men theo thành giường đến chỗ chân giường. Thế rồi có chuyện xảy ra khiến cô ta bất tỉnh.”
Lông mày của Drury Lane nhíu lại, có gì đó khiến ông băn khoăn. Ông cẩn trọng bước tới đầu giường bà Hatter và nghiêng mình để nhìn rõ người chết. Những dấu vết dị thường trên trán bà ta mà ông nhận ra trước đó khiến ông chú tâm một hồi lâu. Chúng gồm những vết thẳng mảnh và sâu, dài ngắn khác nhau, song song và hơi lệch sang một bên - về phía cái bàn đầu giường. Chúng không kéo dài hết phần trán lộ ra, chúng bắt đầu từ chỗ giữa lông mày và chân tóc, kéo về phía phần tóc xám cứng. Máu rỉ ra từ chỗ những vết cắt lạ lùng. Cặp mắt Lane như thể đang mải tìm sự xác minh nào đó trên tấm thảm bên dưới cái bàn, và ông gật đầu. Và đây, nằm trên sàn nhà bên dưới cái bàn, là một cây đàn mandolin cũ méo mó với mặt có dây hướng lên.
Ông cúi xuống để quan sát gần hơn, và quay sang hai người đồng sự. Công tố viên Bruno đang mỉm cười chua chát. “Ông đã tìm ra nó,” ngài nói. “Hung khí.”
https://thuviensach.vn
“Vâng,” Lane hạ giọng. “Chính là nó đây. Các ngài có thể thấy vết máu trên phần dưới của đám dây thép.” Một dây đàn đã đứt và tất cả đều gỉ sét, như thể đã lâu rồi đàn không được chơi, nhưng thật dễ nhận ra một sắc máu đỏ tươi trên đó. Lane cầm cây đàn lên quan sát, nhận ra nó nằm trên một lớp bột phấn: có những dấu ấn rõ ràng trên lớp bột chỗ cây đàn đã nằm. Khi xem xét ông còn nhận ra có một chỗ trầy mới ở rìa phần bên dưới nhạc cụ, dấu vết đáng nghi như chỗ lõm trên mặt bàn.
“Thật là một thứ vũ khí giết người kỳ lạ, phải không ngài Lane?” Thanh tra Thumm thốt lên. “Một cây đàn mandolin, trời đất!” Ngài lắc đầu như thể tự hỏi tội ác còn sử dụng phương thức gì nữa đây. “Lần tới chúng sẽ dùng hoa loa kèn mất.”
“Kỳ lạ, rất lạ,” Lane nhận xét khô khốc. “Vậy là quý phu nhân Hatter toàn năng đã hứng trọn mặt cây đàn mandolin đập vào trán… Dấu mốc đáng nhớ của vụ việc này, thưa các ngài, không phải là sự lựa chọn vũ khí mà chính là sự thật rằng như thế không thể đủ để gây nên cái chết, tôi xin cam đoan vậy sau khi đã đánh giá độ sâu của vết thương. Vâng, quả thực là lạ… Lúc này chúng ta cần nhờ cậy bác sĩ Schilling giải đáp.”
Ông đặt lại cây đàn về vị trí chính xác như khi tìm thấy nó, và quay sự chú ý sang chiếc bàn lần nữa. Ông chẳng phát hiện ra gì liên quan đến án mạng: một bát trái cây (ở chỗ gần giường của cô con gái), một chiếc đồng hồ, những dấu vết của hộp phấn, hai thanh giá chặn một cuốn Kinh thánh cũ, và một lọ hoa đã héo. Trong cái bát có một quả táo, một quả chuối, một chùm nho non, một quả cam, và ba quả lê.
Bác sĩ Leo Schilling, pháp y trưởng của hạt New York, hiếm khi là một người dễ xúc động. Hằng hà sa số xác chết đã để lại dấu ấn trong sự nghiệp chính thức của ông - xác người tự tử, xác người bị sát hại, xác chết vô danh, tiêu bản thí nghiệm, xác người nghiện, và còn biết bao những trường hợp chết bất thường khác nữa - đã khiến ông trở nên chai lỳ một cách hết sức tự nhiên. “Buồn nôn” không có trong từ điển của ông và thần kinh ông cứng chẳng kém những ngón tay cầm dao mổ. Cộng sự của ông thường băn khoăn liệu bên dưới lớp vỏ lạnh lùng vì công việc kia, có một trái tim con người đang đập không, tuy nhiên vẫn chưa ai giải đáp được.
https://thuviensach.vn
Ông ta đã tới chốn yên nghỉ cuối cùng của phu nhân Emily Hatter, khẽ gật đầu chào Bruno, làu bàu với Thumm, nói gì đó không rõ với Drury Lane, rồi liếc nhanh bao quát căn phòng, lưu ý đến những dấu chân trắng trên thảm, và quăng chiếc túi lên giường - Drury Lane rùng mình khi nó hạ cánh đánh uỵch lên đôi chân chết cứng của bà ta.
“Tôi bước qua những dấu chân nhé?” Schilling hỏi tỉnh bơ. “Vâng,” viên thanh tra trả lời, ”mọi thứ đã được chụp lại. Mà bác sĩ này, lần sau ông nên cố gắng đến đúng giờ hơn chút nhé. Tốt nhất là hai tiếng rưỡi sau khi tôi…”
“Es ist eine alte Geschichte, doch bleibt sie immer neu,”* vị bác sĩ béo bụng cười xòa. ”Chuyện cũ mà lúc nào cũng như mới… Phải kiên nhẫn chờ chứ, thanh tra. Những người chết này còn biết kiên nhẫn mà.” Ông ta kéo phần mũ vải xuống - cái trán hói láng bóng khiến ông khá nhạy cảm - rồi đi quanh giường, cứ dẫm thẳng lên những dấu chân rồi bắt tay vào việc.
Nụ cười nhạt đi trên khuôn mặt béo tròn, và cặp mắt ông ta trở nên chăm chú đằng sau cặp kính gọng vàng cũ. Lane dõi theo cử động mấp máy của cặp môi trề khi thấy những vết xước thẳng trên đỉnh đầu người chết, và gật đầu đồng tình khi thấy ánh mắt bác sĩ chuyển sang cây đàn mandolin. Rồi ông ta cẩn trọng giữ phần đầu người chết giữa đôi tay nhỏ cơ bắp và bắt đầu bới mái tóc, nhanh chóng kiểm tra phần sọ. Có gì đó sai sai ở đây, sai rõ luôn, nhưng mặt ông ta vẫn trơ như bê tông và, bỏ qua mái tóc rối bù, ông ta bắt đầu khám nghiệm tử thi. Họ quan sát ông trong im lặng. Viên bác sĩ pháp Y cừ khôi đang ngày càng trở nên bối rối, đến độ ai cũng thấy, ông ta lẩm bẩm: “Der Teufel!”* vài lần, đầu lắc lắc, đôi môi hớp hớp, ậm ừ một khúc tửu ca ngắn… Đột nhiên ông ta quay sang phía họ. ”Bác sĩ riêng của bà ta đâu?”
Thanh tra Thumm rời khỏi phòng và sau hai phút quay lại cùng bác sĩ Merriam. Hai vị bác sĩ chào nhau lịch sự, như những đấu thủ. Bác sĩ Merriam trịnh trọng đi quanh giường, và cùng nhau họ gập người chết lại, vén cái váy ngủ cao lên, nhỏ tiếng trao đổi khi cùng khám nghiệm xác chết. Trong khi đó bà y tá mập mạp Smith của Louisa Campion lại hối hả lao vào phòng, vớ lấy bát trái cây trên bàn, và lại vội vàng lao ra. Thumm, Bruno,
https://thuviensach.vn
và Lane chỉ biết im lặng dõi theo. Cuối cùng hai vị bác sĩ cũng đứng dậy, và khuôn mặt già nua thanh thoát của Merriam đã tiết lộ một nét lo lắng đầy xúc cảm. Vị bác sĩ pháp y thì lại giật mạnh cái mũ vải xuống thấp hơn nữa trên cái trán lấm tấm mồ hôi. “Kết luận thế nào, bác sĩ?” Bruno hỏi.
Schilling nhăn mặt. “Bà ấy không chết do chấn động từ cú đánh.” Drury Lane khẽ gật đầu hài lòng. “Bác sĩ Merriam và tôi đồng ý rằng bản thân cú đánh chỉ đủ để khiến bà ấy choáng váng.”
“Thì sao,” Thumm lầm bầm, “vậy cái quái gì đã giết chết bà ta?” “Tuy nhiên, thanh tra à, ngài luôn nói trước,” bác sĩ Schilling gắt gỏng. “Ngài đang lo gì thế? Cây đàn mandolin khiến bà ta chết, dù không trực tiếp. Và bằng cách nào? Đó là khiến bà ta bị sốc nặng. Tại sao? Vì bà ta đã sáu mươi ba tuổi - và bác sĩ Merriam bảo bà ta bị bệnh tim. Phải không, thưa bác sĩ?”
“Ra vậy,” viên thanh tra lộ vẻ nhẹ nhõm. “Tôi hiểu rồi. Có người đánh vào đầu bà ta, chấn động từ cú đánh khiến bà ta lên cơn đau tim, và chết. Thế thì, thực tế là bà ta chết trong khi ngủ!”
“Tôi không nghĩ vậy,” Drury Lane lên tiếng. “Ngược lại, thanh tra à, bà ta không hề ngủ mà thực ra lại rất tỉnh táo.” Hai vị bác sĩ cùng gật đầu đồng tình. “Dựa trên ba căn cứ. Trước hết: xin hãy để ý là cặp mắt bà ta mở to, nhìn trừng trừng, vẻ khiếp hãi. Có ý thức, thanh tra à… Thứ hai: các ngài sẽ nhận thấy có một nét biểu cảm thật lạ trên khuôn mặt bà ta. Nói thế là chưa đủ, Emily Hatter chết với khuôn mặt vặn vẹo vì cơn đau khủng khiếp và sự kinh ngạc tột cùng. Ngay cả đôi tay cũng hơi nắm lại, như muốn cào… Căn cứ thứ ba thì có hơi khó thấy.” Lane tới bên giường và chỉ vào những vết máu do dây đàn gây ra trên trán người chết. “Vị trí của chúng chứng tỏ rõ rằng bà Hatter đã ngồi dậy trên giường khi bị đánh!”
“Làm sao ngài luận ra được?” Thumm thắc mắc.
“Tại sao, rất đơn giản. Nếu bà ta đang ngủ khi bị đánh - tức là đang nằm, ngoài ra từ tư thế tổng thể có thể thấy bà ta nằm ngửa người thẳng lưng - thì dấu vết do những sợi dây đàn sắt sẽ không chỉ xuất hiện ở phần đỉnh trán mà còn cả ở phần dưới, và trên cả mũi, thậm chí còn trên cả môi nữa. Còn
https://thuviensach.vn
từ thực tế, bà ta hẳn đã ngồi dậy hay ở tư thế nửa ngồi nửa nằm. Dựa trên căn cứ đó, có thể kết luận ngay là bà ta đang thức.”
“Rất thông minh, thưa ngài,” bác sĩ Merriam nói, người đứng cứng đơ, và những ngón tay trắng dài thì đan vào nhau vẻ bồn chồn. “Rất có cơ sở. Bác sĩ Schilling, theo ông ước đoán thì bà Hatter chết vào mấy giờ?”
Bác sĩ Schilling lôi cái tăm ngà từ túi áo gilê và bắt đầu xỉa răng. “Chết sáu giờ trước. Tức là, bà ta chết vào tầm bốn giờ sáng.”
Lane gật đầu. “Có một chi tiết quan trọng đấy, bác sĩ, đó là biết chính xác nơi kẻ sát nhân đã đứng khi hắn đánh bà Hatter. Ông có thể xác định rõ vị trí đó không?”
Bác sĩ Schilling trầm ngâm liếc nhìn cái giường. “Tôi tin là có thể. Tên sát nhân đứng giữa hai cái giường, không xa cái giường người chết lắm. Từ vị trí của thi thể và góc chéo của những vệt máu trên trán. Ông nghĩ sao bác sĩ Merriam?”
Viên bác sĩ già bắt đầu. “À, thì tôi khá đồng tình,” ông ta vội đáp lời. Thanh tra Thumm cau có mở cặp hàm nặng nề. “Chi tiết cây đàn mandolin chết tiệt… Làm tôi rối trí, chẳng biết sao nữa. vấn đề là, đau tim hay không đau tim, thì có khả năng nào là cú đánh đó đã giết chết bà ta không? Ý tôi là, sau rốt, nếu một kẻ muốn giết người, ngay cả khi hắn chọn một thứ vũ khí buồn cười thì hắn sẽ chọn thứ có thể đánh lừa người ta.” “Vâng, không thể loại trừ các khả năng, Thumm à,” Schilling cất tiếng. “Một cú đánh với lực mạnh từ một thứ vũ khí tương đối nhẹ như đàn mandolin có thể giết chết một phụ nữ mang bệnh và đã già như bà Hatter. Nhưng cú đánh này thì lại khá nhẹ.”
“Vậy là không có dấu vết nào khác trên thân thể của hành vi bạo lực?” Lane hỏi.
“Không.”
“Thế còn chất độc?” Bruno thắc mắc. “Có dấu vết nào không?” “Không dấu vết gì,” bác sĩ Schilling cẩn trọng đáp lời. “Ngoài ra - vâng, tôi sẽ tiến hành mổ tử thi. Ngay tức thì.”
https://thuviensach.vn
“Dám cá là ông sẽ làm thế,” Thumm trả miếng. “Chỉ để chắc rằng không có chút chất độc nào hết. Tôi không nắm bắt nổi vụ án này nữa rồi. Đầu tiên có người cố đầu độc cô con gái câm điếc, và giờ có người đánh chết bà mẹ già quỷ quái. Tôi sẽ thử ngó xem quanh đây có dấu vết chất độc nào không.”
Cặp mắt sắc bén của Bruno sáng lên. “Đây là một vụ án mạng, dĩ nhiên, ngay cả khi cú đánh đó không gây chết người trực tiếp - mà chỉ đơn thuần là dư chấn sau đó. Có một điều chắc chắn: ý đồ giết người.”
“Vậy sao lại đánh nhẹ như thế hả ngài Bruno?” Lane hỏi cụt lủn. Vị công tố viên nhún vai. “Và tại sao,” người nghệ sĩ già tiếp tục, “lại chọn thứ vũ khí quá ư là ngớ ngẩn như thế? - một cây đàn mandolin! Nếu mục đích là giết bà Hatter bằng một cú đánh vào đầu, tại sao hung thủ lại chọn cây đàn khi có hàng tá thứ vũ khí nặng nề hơn trong chính căn phòng này?”
“Trời ạ, tôi chẳng nghĩ được đến thế,” Thumm lẩm bẩm, khi Lane chỉ vào cái giá treo bộ đồ đun lò bằng sắt bên lò sưởi, và chỉ vào hai thanh chặn sách nặng nề trên cái bàn đầu giường.
Lane quay nhanh một vòng quanh phòng, đôi tay đan hờ hững sau lưng. Bác sĩ Schilling đang bắt đầu tỏ ra thiếu kiên nhẫn, bác sĩ Merriam vẫn đứng yên, như một binh sĩ đứng gác, Bruno và Thumm thì càng lúc càng thêm bối rối. “Và nhân đây,” cuối cùng Lane cũng mở lời, “có phải cây đàn được đặt sẵn trong phòng không?”
“Không,” viên thanh tra trả lời. “Được lấy từ một tủ kính trong thư viện dưới lầu. Bà Hatter bảo quản nó như thế sau khi York Hatter tự tử - như một sự tưởng nhớ. Nó thuộc về ông chồng… Có thể nghĩ đến việc…”
Drury Lane đưa tay ra dấu hãy im lặng, cặp mắt ông ta nheo lại. Bác sĩ Schilling đang kéo tấm ga giường che người chết lại. Và, khi kéo căng tấm ga ra, một vật nhỏ, óng ánh như tia nắng chiếu qua cửa sổ, rơi từ một chỗ nếp gấp xuống lớp bột trên thảm. Lane tiến tới và nhặt nó lên. Đó là một ống tiêm trống rỗng.
Những người còn lại bu vào quanh ông, vẻ hoạt bát hẳn lên khi thấy phát hiện mới đáng chú ý. Cẩn thận cầm phần pitton của ống tiêm, Lane ngửi
https://thuviensach.vn
ngửi cái kim đã dây bẩn, rồi đưa nó lên chỗ sáng. Bác sĩ Schilling tóm lấy cái ống tiêm từ tay Lane và đi ra chỗ cửa sổ cùng bác sĩ Merriam. “Ống rỗng không,” vị bác sĩ pháp y lẩm bẩm. “Số 6 trên ống có nghĩa gì? Phần cặn còn lại có thể… có thể…”
“Là gì?” Lane thúc giục.
Bác sĩ SchiIIing nhún vai. “Tôi sẽ phải phân tích.”
“Không có dấu vết tiêm trên người nạn nhân sao?” Lane hỏi tiếp. “Không.”
Rồi đột nhiên, như thể bị bắn, Lane đờ người ra, cặp mắt xanh xám lấp lánh… Còn Thumm kinh ngạc há hốc mồm. Khuôn mặt Drury Lane chuyển sang vẻ kích động cực độ, ông lao về phía cửa, la lên: “Bà y tá - căn phòng…” Những người còn lại lao theo.
Phòng của bà Smith nằm ngay cạnh phòng người chết. Họ gặp một ánh mắt khá điềm tĩnh khi lao vào. Trên chiếc giường, với cặp mắt mù vẫn mở, là Louisa Campion đang nằm nghỉ ngơi. Và ngồi trên chiếc ghế bên cạnh, đang khẽ bóp trán cho cô ta, là bà Y tá mập mạp. Tay Louisa đang vặt nho như một cái máy và trệu trạo nhai cho có. Trên cái bàn gần giường là cái bát trái cây mà bà Smith đã lấy từ phòng bên kia trước đó ít lâu.
Drury Lane phản ứng như chớp. Ông băng nhanh tới và giật lấy chùm nho khỏi tay Louisa - một hành động thô thiển khiến bà Smith nhảy dựng người và kêu lên vẻ hốt hoảng, còn cô gái mù câm điếc thì giật nảy người, đôi môi nhăn nhó, một biểu hiện của nỗi sợ bị dồn nén trên khuôn mặt vẫn như vô hồn. Cô ta bắt đầu khóc thút thít như một đứa trẻ, bàn tay dò dẫm bà y tá, và nắm chặt lấy. Làn da còn đang run rẩy vì sợ hãi, đôi tay cô ta ngay lập tức nổi hết gai ốc. “Cô ta ăn nhiều chưa?” Lane hỏi gấp.
Bà y tá tái mặt. “Ông làm tôi giật cả mình! Một… một nhúm.” “Bác sĩ Merriam! Bác sĩ Schilling! Cô ấy ổn chứ?” Lane giật giọng. Bác sĩ Merriam hối hả lại gần, khoảnh khắc Louisa cảm nhận được tay
ông ta chạm lên trán, cô ta liền ngừng thút thít. Ông ta chậm rãi nói: “Dường như vẫn hoàn toàn bình thường.”
Drury Lane lấy khăn tay thấm mồ hôi trán, những ngón tay ông vẫn còn đang run lên. “Tôi sợ rằng chúng ta đã tới quá trễ,” ông khẽ thốt lên.
https://thuviensach.vn
Thanh tra Thumm nắm chặt tay lại và tiến tới, nhìn xuống bát trái cây. “Chất độc đúng không?” Họ cùng nhìn về phía cái bát. Trước mặt họ là một quả táo, một quả chuối, một quả cam và ba quả lê đang nằm vẻ vô hại.
“Đúng thế,” Lane đáp lời. Giọng trầm xuống. “Tôi dám chắc luôn. Và sự thật sẽ chứng tỏ, thưa các ngài, cục diện của toàn bộ vụ này đã… thay đổi.” “Sao lại…” Bruno tỏ vẻ bối rối. Lane phẩy tay lơ đãng, như thể ông không muốn giải thích gì thêm tại thời điểm này, ông chỉ chú tâm vào Louisa Campion. Cô ta đang yên vị dưới đôi tay vỗ về của bác sĩ Merriam và nằm đó yếu ớt. Bốn chục năm sống trong cảnh tật nguyền đã để lại nét dấu ấn ít ỏi trên khuôn mặt bình thản của cô ta. Theo cách nào đó cô ta vẫn khá đẹp: mũi thanh thoát và cao, đôi môi cong thanh tú.
“Tội nghiệp cô ấy,” Lane lẩm bẩm. “Tôi tự hỏi cô ấy đang nghĩ gì…” Cặp mắt ông sắc lên khi quay sang bà y tá. “Vừa lúc trước bà lấy cái bát trái cây từ cái bàn phòng bên,” ông nói. “Thường thì chúng vẫn được để trong phòng à?”
“Vâng, thưa ngài,” bà Smith trả lời vẻ lo lắng. “Louisa rất thích ăn trái cây. Lúc nào cũng có một bát trái cây để sẵn ở đó.”
“Vậy cô Campion có đặc biệt thích loại trái cây nào không? “À, không. Cô ấy thích ăn đủ loại.”
“Tôi rõ rồi.” Dường như Lane đang bối rối bởi điều gì đó, ông muốn phát biểu, rồi lại đổi ý, thôi mở miệng, và chìm vào trầm tư suy tính. “Thế còn bà Hatter?” cuối cùng ông cũng hỏi. “Bà ta có bao giờ ăn trái cây trong bát không?”
“Rất hiếm khi.”
“Không thường xuyên ư?”
“Không, thưa ngài.”
“Nhưng bà ta cũng thích ăn đủ loại, đúng không bà Smith?” Ông hỏi một cách nhẹ nhàng, nhưng cả Bruno và Thumm vẫn thấy vẻ quan trọng trong giọng nói.
Bà Smith cũng nhận ra, bà ta đáp chậm rãi: “Chà, câu hỏi lạ đây. Không, thưa ngài, bà Hatter không thích một loại trái cây, bà ấy ghét cay ghét đắng lê - không ăn chúng suốt nhiều năm.”
https://thuviensach.vn
“À há,” Drury Lane reo lên. “Tuyệt vời. Có ai trong đám gia nhân biết điều này không, bà Smith?”
“Có chứ. Đó là chuyện đùa gia đình nhiều năm qua mà.”
Drury Lane có vẻ hài lòng. Ông gật đầu vài lần, nhìn bà Smith đầy thân thiện, và rồi, tới chỗ cái bàn gần giường bà y tá, xem xét bát trái cây mang từ phòng Louisa Campion sang.
“Bà ta ghét lê,” ông lẩm bẩm. “Nhìn này, thanh tra. Tôi dám nói quan sát kĩ mấy trái lê này sẽ phát hiện ra.”
Hai trong ba quả lê trong bát không có gì khác thường - chín vàng, giòn chắc. Quả thứ ba… Lane hiếu kỳ xoay nó trên những ngón tay. Nó đã hỏng, vỏ có đốm chuyển nâu, và đốm nào cũng mềm và xốp. Lane khẽ thốt lên và đưa quả lê đó lên sát mắt phải. “Đúng như tôi nghĩ,” ông lẩm bẩm. Ông quay sang bác sĩ Schilling với một điệu bộ hân hoan. “Tìm ra rồi, bác sĩ,” ông nói, đưa cho Schilling cả ba quả lê. “Ông sẽ tìm thấy vết tiêm trên vỏ quả lê bị hỏng, trừ phi tôi hoàn toàn nhầm lẫn.”
“Chất độc!” cả Thuram và Bruno đều la lên.
“Chưa thể nói trước đâu, nhưng tôi nghĩ thế. Vâng… Để cho chắc, bác sĩ, ông hãy xem xét cả ba quả. Báo cho tôi, khi ông xác định được loại của chất độc, có thể quả lê bị hỏng do chất độc, cũng có thể hỏng trước khi chất độc được tiêm vào.”
“Đã rõ,” bác sĩ Schilling đáp, rồi ông đem ba quả lê ra khỏi phòng như mang báu vật.
Thanh tra Thumm dài giọng: “Có gì đó uẩn khúc… Ý tôi là, nếu có chất độc trong lê, và bà mẹ không thích ăn lê…”
“Thì vụ giết bà Hatter hẳn chỉ là tai nạn, hoàn toàn không được dự tính, và quả lê có độc là dành cho cô con gái tội nghiệp!” Bruno kết luận. “Chuẩn rồi!” viên thanh tra kêu lên. “Chuẩn xác, Bruno! Hung thủ lẻn vào phòng, tiêm chất độc vào lê, rồi bất chợt bà mẹ thức dậy - thấy không? Thậm chí có thể nhận ra kẻ hạ độc nữa - nhớ nét mặt bà ta không. Thì sao? Rầm! Bà ta bị đánh vào đầu bằng cây đàn mandolin, và chết sau đó.” “Đúng, và giờ chúng ta đã có chút tiến triển. Quả lê độc chắc chắn là tác phẩm của chính kẻ đã hạ độc vào món cocktail hai tháng trước đây.”
https://thuviensach.vn
Drury Lane chẳng nói gì. Có một nét lúng túng mờ nhạt giữa đôi mày ông. Bà Smith dường như cũng bối rối. Về phần Louisa Campion, mặc kệ thực tế là cảnh sát vừa kết luận rằng đây là lần thứ hai cô bị mưu sát - cô vẫn bám lấy bàn tay bác sĩ Merriam bằng sự dai dẳng sinh ra từ bóng tối và nỗi tuyệt vọng.
https://thuviensach.vn
CẢNH 3
Thư Viện
Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu
11:10 A.M
Đây là cảnh chuyển màn. Những con người đi vẩn vơ, có ai đó với thái độ lo lắng thông báo cho thanh tra Thumm về việc không có dấu tay được tìm thấy trên ống tiêm và cây đàn mandolin, còn bác sĩ Schilling thì cứ làm ầm lên khi giám sát việc di dời tử thi.
Trước sự hối hả của những nhân viên nhà xác, Drury Lane vẫn đứng lặng im trầm tư, gần như luôn nhìn vào khuôn mặt trống rỗng của Louisa Campion như thể đó là lời gợi ý cho đáp án. Ông nghe rõ công tố viên Bruno nhận xét rằng, không tìm thấy dấu vân tay nào chứng tỏ hung thủ có đeo găng.
Cuối cùng trật tự cũng được vãn hồi, bác sĩ Schilling rời đi cùng cái xác, và thanh tra Thumm đóng cánh cửa phòng bà Smith. Drury Lane chợt nói: “Cô Campion đã biết chuyện chưa?”
Bà Smith lắc đầu, còn bác sĩ Merriam bảo: “Tôi nghĩ tốt nhất nên đợi đến khi…”
“Khi sức khỏe của cô ấy không còn bị đe dọa?”
Bác sĩ Merriam mím cặp môi mỏng. “Đó sẽ là một cú sốc. Tim cô ấy không được tốt. Nhưng giờ phần lớn cơn kích động đã lắng xuống rồi, và trước sau gì cô ấy cũng phải biết…”
“Làm sao để giao tiếp với cô ấy?”
https://thuviensach.vn
Bà Smith lặng lẽ đến bên giường, lục lọi dưới một cái ghế, rồi đứng thẳng lên tay cầm một thiết bị lạ lùng. Gồm một cái bảng phẳng có rãnh, hơi giống một cái bàn tính, và một chiếc hộp lớn. Bà ta bỏ nắp hộp ra, nó gồm những miếng kim loại nhỏ, như quân cờ domino, mỗi miếng có một đầu nhô ra có thể trượt vào rãnh trên tấm bảng. Mặt những miếng kim loại được tán những chấm lồi, khá lớn, sắp xếp theo một kiểu riêng và không miếng nào giống miếng nào. “Chữ nổi Braille?” Lane hỏi.
“Vâng,” bà Smith thở dài. “Mỗi miếng đại diện cho một chữ cái khác nhau của bảng chữ Braille. Bộ dụng cụ này được thiết kế đặc biệt cho Louisa… Vật bất ly thân của cô ấy.”
Để hỗ trợ cho những người không quen đọc thứ ngôn ngữ “viết” dành cho người mù, cạnh những chấm nổi còn có thêm cả chữ cái tiếng Anh màu trắng in phẳng trên bề mặt - tương ứng với từng chữ cái của bảng chữ Braille.
“Thật tài tình,” Lane trầm trồ. “Nếu bà không phiền, bà Smith…” Ông nhẹ nhành đẩy bà y tá sang một bên, vớ lấy bộ chữ, và nhìn xuống chỗ Louisa Campion.
Đó gọi là khoảnh khắc định mệnh, họ đều cảm thấy thế. Cái sinh thể dị thường, héo úa đó đã hé lộ điều gì? Rằng cô ta đã cảm nhận được không khí căng thẳng đang hiện diện khắp nơi. Những ngón tay trắng thon thả chỉ có một cử động duy nhất - cô ta đã rời tay khỏi bác sĩ Merriam trước đó - và Lane khẽ rùng mình khi nhận ra những ngón tay kia đang ve vẩy như râu của một con bọ, dao động có ý thức, khát khao sự khai sáng. Đầu cô ta quay từ bên nọ sang bên kia vẻ lo lắng, dồn dập, khiến cô càng giống một con côn trùng. Đồng tử cô mở to, nhưng mờ đục và đờ đẫn - một cặp mắt mù. Trong khoảnh khắc đó, khi mọi sự chú ý đổ dồn vào Louisa, người ta quên mất dáng điệu bên ngoài nhạt nhòa của cô - cô hơi phúng phính, cao chưa đến mét sáu, với mái tóc nâu mọc dày và nước da hồng hào. Những đường nét đặc biệt khiến họ ấn tượng - cặp mắt trơ trơ, nét mặt cứng đơ, trống rỗng, gần như vô hồn, các ngón tay run rẩy…
“Có vẻ cô ấy bị kích động,” Thumm lẩm bẩm. “Xem những ngón tay cô ta kìa. Tôi thấy sợ rồi đấy.”
https://thuviensach.vn
Bà Smith lắc đầu. “Đó… đó không phải là do căng thẳng. Cô ấy muốn nói, đặt câu hỏi.”
“Nói ư!” vị công tố viên thốt lên.
“Dĩ nhiên rồi,” Lane lên tiếng. “Ngôn ngữ bằng tay của người câm điếc, Bruno à. Cô ta đang điên cuồng muốn nói gì vậy, bà Smith?” Bà y tá mập đột nhiên ngồi sụp xuống ghế. “Tôi… tôi bắt đầu hiểu được rồi,” bà nói bằng giọng khàn khàn. “Cô ấy đang lặp đi lặp lại thế này: ‘Có chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy? Mẹ đâu? Sao mẹ không trả lời? Có chuyện gì vậy? Mẹ đâu?”’
Drury Lane thở dài đánh thượt rồi lặng im, rồi nắm lấy đôi bàn tay cô ta bằng đôi tay rắn chắc của mình. Chúng vùng vẫy điên cuồng, rồi mềm đi và lỗ mũi cô gái run lên, như thể cô ta đang cố ngửi mùi ông. Thật kỳ lạ. Sự đụng chạm của Lane hẳn đã trấn an cô ta, hay có lẽ chính do cái hơi phảng phất quen thuộc với mọi loài vật mà hầu hết con người không cảm nhận được, đã khiến cô ta dịu đi, trượt những ngón tay ra khỏi…
Có chuyện gì vậy. Mẹ đâu. Ông là ai.
Ngay lập tức chọn ra những miếng chữ cái từ chiếc hộp, Lane xếp chúng thành các từ, đặt tấm bảng vào lòng Louisa và đôi tay cô ta hăm hở vồ lấy chúng. Các ngón tay lướt qua những miếng kim loại. “Tôi là bạn,” thông điệp của Lane. “Tôi muốn giúp cô. Tôi có tin xấu cho cô. Cô phải vững tâm.”
Cô ta phát ra một tiếng gừ trong cổ họng, đáng thương, bị bóp méo, thanh tra Thumm co người lại và gần như quay đi. Bác sĩ Merriam như hóa đá đằng sau cô ta. Rồi Louisa Campion thở dài một tiếng và đôi tay cô ta lại bắt đầu hoa lên. Bà Smith lại mất công giải thích. Vâng. Vâng. Tôi vững tâm đây. Có chuyện gì.
Những ngón tay của Lane thò vào trong hộp, xếp lại các chữ cái thành từ mới… Một sự im lặng hữu hình trong phòng. “Cuộc sống của cô là một bản anh hùng ca về lòng can đảm. Hãy tiếp tục vững vàng. Đã có một thảm kịch. Mẹ cô bị sát hại đêm qua.”
Đôi tay Campion lóng ngóng giật ra khỏi cái bảng. Nó rơi khỏi lòng cô, những miếng kim loại nhỏ rơi khắp sàn. Cô ngất đi.
https://thuviensach.vn
“Ra ngoài, tất cả ra ngoài!” bác sĩ Merriam hét lên khi mọi người lao đến với cặp mắt thương xót. “Bà Smith và tôi sẽ lo liệu.”
Họ dừng lại và theo dõi ông ta nâng thân thể mềm oặt của Louisa lên cái ghế bằng nỗ lực từ những cơ bắp già nua. Dù không đành lòng họ vẫn kéo nhau ra khỏi phòng. “Tôi giao cô Campion cho ông đấy,” Thumm thì thầm với vị bác sĩ. “Đừng rời cô ấy dù chỉ một giây.”
“Tôi sẽ không chịu trách nhiệm gì nếu các ngài chưa chịu ra ngoài!” Họ nghe theo, Lane là người ra cuối cùng. Ông khẽ đóng cánh cửa và đứng trầm ngâm một lúc lâu. Rồi ông mệt mỏi đặt ngón tay lên thái dương trong một điệu bộ lạ kỳ, sau đó lắc đầu, thả tay xuống, rồi theo chân Bruno và Thumm xuống lầu.
Thư viện nhà Hatter nối liền với phòng ăn. Nó đã cũ và thơm mùi da thuộc. Thư viện chủ yếu gồm sách khoa học và thi ca. Một không gian ghi nhiều dấu vết sử dụng với đồ đạc đã cũ kha khá. Đây là căn phòng dễ chịu nhất trong nhà, và Lane ngồi xuống cái ghế bành với một cái thở dài nhẹ nhõm. Thumm và Bruno cũng ngồi xuống theo, cả ba người cứ nhìn nhau mà chẳng nói năng gì. Ngôi nhà im ắng, chỉ có hơi thở to của viên thanh tra là nghe rõ. “Thế đấy, các ngài,” cuối cùng Lane cũng lên tiếng, “đây là một câu đố.”
“Dù sao đi nữa vẫn là một câu đố thú vị, thanh tra à,” Lane nói tiếp. Ông ngả sâu người vào ghế và duỗi thẳng đôi chân dài. “Mà nhân đây,” ông hỏi nhỏ, “Louisa Campion có biết rằng hai tháng trước có người đã cố giết mình không?”
“Không. Chẳng cần phải nói cho cô ấy. Cô ấy đã có đủ chuyện khó khăn rồi.”
“Tất nhiên rồi.” Lane mơ màng trong khoảnh khắc. “Làm thế thì thật ác nghiệt,” ông đồng tình. Rồi đột nhiên Lane đứng dậy và băng qua phòng để xem xét một vật trông giống cái đôn đang dùng để đặt một cái tủ kính. Trong đó trống không. “Tôi đoán đây chính là chỗ để cất cây đàn mandolin.”
Thumm gật đầu. “Và,” viên thanh tra khẳng định, “không có dấu vân tay.”
https://thuviensach.vn
“Theo tôi,” Bruno nói, “chuyện quả lê có độc - nếu thực sự thế - đã đơn giản hóa vấn đề đi rất nhiều.”
“Chuyện quả lê ư? Ít ra chúng ta biết hung thủ muốn giết Louisa,” Thumm gắt. “Thôi, đi xem tình hình thế nào đi.” Ngài đứng dậy và đi đến chỗ cánh cửa dẫn tới hành làng. “Này, Mosher,” ngài gọi. “Kêu cô Barbara Hatter xuống đây nói chuyện đi.” Lane lại tiến về phía cái ghế bành.
Ngoài đời trông Barbara Hatter còn dễ chịu hơn nhiều so với trên những bức ảnh đại chúng. Những đường nét tự nhiên như tạc trên ảnh làm nổi bật lên khuôn mặt thanh thoát của cô, trong đời thực, không chỉ thanh thoát, chúng còn mềm mại nữ tính, với vẻ đẹp thuần nhất đã khiến Kurt, một nhiếp ảnh gia nổi tiếng, trong quá trình chụp ảnh cho cô phải rung động tâm can. Cô rất cao và vương giả, lộ rõ ở tuổi ba mươi. Cô di chuyển thật yêu kiều, gần như là nhịp nhàng. Và cô gây ấn tượng về sự bừng sáng từ bên trong, một ngọn lửa khẽ tỏa ra bên ngoài và sưởi ấm cho từng điệu bộ. Barbara Hatter, nữ thi sĩ, khiến người ta cảm nhận, về không chỉ một phụ nữ thông minh mà còn là một tạo vật đặc biệt với bao cảm xúc tinh tế.
Cô gật đầu chào thanh tra Thumm và cúi mình trước vị công tố viên. Cặp mắt cô mở to khi thấy Lane. “Ngài Lane!” cô cất giọng trầm tĩnh. “Ngài cũng đang điều tra cái mớ đời tư hổ lốn của chúng tôi hay sao?”
Lane e dè. “Tôi bị cô Hatter đây trách cứ rồi. Không may, tôi là một kẻ tò mò.” Ông nhún vai. “Sao cô không ngồi xuống? Có vài câu hỏi đây.” Dường như ông không bất ngờ khi cô ta biết mặt ông và gọi tên ông ngay lần gặp đầu tiên, mọi người vẫn thường làm thế với ông.
Barbara ngồi xuống, cặp lông mày dày cong vút lên, và sẵn sàng để được thẩm vấn. “Vâng,” cô khẽ thở dài, “tôi đã sẵn sàng rồi. Hỏi đi.” “Cô Hatter,” viên thanh tra bắt đầu luôn, “xin hỏi cô biết gì về chuyện tối qua.”
“Rất ít, thưa thanh tra. Tôi về nhà lúc hai giờ sáng - tôi đi dự một buổi tiệc thông thường ở nhà người bạn làm chủ báo. Những quý ông ở đó quên mất cư xử cho phải phép, hay là họ đã uống quá chén, dù sao đi nữa, tôi đã về nhà một mình. Mọi thứ yên ắng. Các ông cũng biết là phòng tôi ở mặt trước, trông ra công viên, đi qua hành lang chỗ phòng mẹ tôi. Tôi xin cam
https://thuviensach.vn
đoan rằng mọi cửa phòng ngủ trên gác đều đóng… Lúc đó tôi mệt nên lên giường ngay. Tôi ngủ tới sáu giờ sáng, rồi bị đánh thức bởi tiếng hét của bà Smith. Tất cả có vậy thôi.”
“Chà,” viên thanh tra nhíu mày.
“Tôi đồng ý,” Barbara nói với một nụ cười mỏi mệt, “rằng câu chuyện của tôi không thật sự cuốn hút lắm.”
Cô ta quay đầu nhìn Drury Lane, như thể chờ đợi câu hỏi từ ông. Nhưng dường như cô ta khá ngạc nhiên với câu hỏi, cặp mắt nheo lại và cô ta nhìn trừng trừng vào Lane. Ông hỏi: “Cô Hatter, khi cô và em trai Conrad chạy vào phòng ban sáng thì có người nào bước vào giữa chỗ hai chiếc giường không?”
“Không, thưa ngài Lane,” cô ta đáp tỉnh bơ. “Chúng tôi thấy ngay là bà đã chết. Khi nâng Louisa khỏi sàn chúng tôi đi men theo những dấu chân dẫn ra cửa và tránh bước vào vị trí giữa hai giường.”
“Cô có chắc anh cô cũng thế không?”
“Chắc.”
Công tố viên Bruno đứng dậy, gập cơ bắp đùi và bắt đầu bước tới bước lui trước mặt Barbara. Cô ta kiên nhẫn chờ đợi. “Cô Hatter, tôi sẽ nói thẳng. Cô là người phụ nữ thông minh hơn bình thường rất nhiều, và chắc chắn cô nhận thức được về.. ờ… sự bất bình thường của những thành viên trong gia đình. Nhận thức được vậy, cô hẳn phải đau xót… Tôi muốn yêu cầu cô tạm thời dẹp sang một bên chuyện cân nhắc về sự trung thành với gia đình.” Ngài dừng lại với nét mặt điềm tĩnh chẳng biểu lộ gì. Ngài công tố viên hẳn cảm thấy câu hỏi chưa thích đáng, nên lại nhanh chóng nói tiếp: ”Tất nhiên, cô không buộc phải trả lời nếu không muốn. Nhưng nếu cô có bất kỳ lời giải thích nào về âm mưu đầu độc hai tháng trước và vụ án mạng đêm qua, thì chúng tôi rất nóng lòng muốn nghe.”
”Thưa ngài Bruno thân mến,” Barbara đáp, “ý ngài là sao? Phải chăng các ngài muốn ám chỉ rằng tôi biết kẻ nào đã giết mẹ mình?” “Không, không… chỉ là một giả thuyết thôi, tôi chỉ muốn nói cho rõ…” “Tôi chẳng có giả thuyết gì sất.” Barbara nhìn thẳng xuống những ngón tay trắng dài. “Ai cũng biết, thưa ngài Bruno, rằng mẹ tôi luôn thể hiện
https://thuviensach.vn
mình là một bạo chúa ngang ngược. Tôi tin là nhiều người đã từng hay vẫn đang có động cơ để chống lại bà. Nhưng giết người thì…” Cô ta rùng mình. “Tôi không biết. Không thể tin được. Việc lấy đi mạng sống ai đó…”
“Ô,” Thumm khẽ đáp, “vậy là cô tin rằng có người muốn giết mẹ mình?” Cô ta giật mình, và liếc nhìn Thumm nhanh như chớp. “Ngài đang cố lái câu chuyện đi đâu vậy, thưa thanh tra? Tất nhiên tôi giả định rằng bà bị sát hại nếu có người mang ý định… Ô!” Cô ta chợt khựng lại và bám chặt lấy
ghế ngồi. ”Ý ngài đó là… đó là một vụ giết nhầm tai hại ư?” “Đó chính là điều ngài thanh tra đây muốn nói, thưa cô Hatter,” Bruno lên tiếng. “Chúng tôi tin rằng mẹ cô bị giết trong một tai nạn - do cơn bốc đồng trong giây lát. Chúng tôi khá chắc mục tiêu giết người của hung thủ khi lẻn vào phòng không phải mẹ cô, mà chính là người chị cùng mẹ khác cha Louisa!”
“Vậy thì tại sao,” Drury Lane chen ngang bằng giọng từ tốn trước khi Barbara kịp trấn tĩnh, “tại sao lại có người muốn hãm hại con người tật nguyền tội nghiệp trên gác kia, thưa cô Hatter?”
Barbara đột nhiên đưa tay lên mắt và che chúng lại. Cô vẫn ngồi im đó. Khi bỏ tay xuống, họ thấy một khuôn mặt thất thần. “Tội nghiệp Louisa,” cô lẩm bẩm. “Tội nghiệp Louisa.” Cô nhìn đăm đăm vô định vào cái đôn đặt bên kia phòng. “Cuộc đời vô nghĩa, tàn nhẫn với chị ấy. Lúc nào cũng là nạn nhân.” Đôi môi cô mím lại và cô nhìn họ với một cảm xúc mãnh liệt. “Như ngài nói, ngài Bruno, những mối ràng buộc gia đình - gia đình tôi - cần được gạt sang một bên. Bất kỳ ai dám cả gan đụng đến con người tàn phế ấy đều không đáng được tôn trọng dù chỉ một li. Tôi sẽ kể mọi chuyện, ngài Lane,” cô tiếp tục, cặp mắt tha thiết nhìn ông, “ngoại trừ mẹ và tôi, thì cả nhà này ai cũng ghét Louisa. Căm ghét chị ấy.” Giọng cô trở nên dữ dội. “Bản chất ác nghiệt của loài người. Thôi thúc muốn dẫm lên một thứ côn trùng hạ cấp… Ôi, thật tởm lợm.”
“Ra vậy,” vị công tố viên đáp lời, mắt không ngừng dõi theo Barbara. “Có đúng là mọi thứ thuộc về York Hatter trong ngôi nhà này đều không được đụng vào không?”
https://thuviensach.vn
Cô ta gật đầu xác nhận. “Vâng,” cô khẽ nói. “Mẹ tôi tôn trọng ký ức về cha tôi hơn rất nhiều so với việc tôn trọng ông ấy.” Rồi cô im lặng, có lẽ mải ngẫm lại những ký ức không dễ chịu, bằng một thái độ buồn và có phần chua xót. “Sau cái chết của cha, mẹ tôi đã cố bù đắp bao năm tháng bạo ngược bằng việc bắt chúng tôi phải nghiêng mình tưởng nhớ cha. Tôn thờ mọi thứ thuộc về ông. Tôi nghĩ rằng vài tháng qua bà đã nhận ra…” Cô ta không nói hết mà ủ rũ trông xuống sàn nhà.
Thanh tra Thumm đứng ngồi không yên. “Chúng ta chưa đi đến đâu cả. Tại sao cha cô lại tự tử?”
Một nỗi đau hiện lên trên mặt Barbara. “Tại sao ư?” cô thẫn thờ nhắc lại. “Tại sao có người lại tự tử khi mà thú vui duy nhất trong đời bị tước mất, bóp nghẹt, khiến người đó sống như một nô lệ?” Có gì đó phẫn uất, thăng hoa và cùng lúc đó nỗi đau len vào giọng nói của cô. “Người cha đáng thương của tôi đã bị thao túng suốt cuộc đời. Ông không thể tự quyết, không dám phát ngôn gì trong chính ngôi nhà mình. Con cái thì chẳng thèm vâng lời, coi thường ông. Thật tàn nhẫn… tuy nhiên - con người thật kỳ lạ - trái tim mẹ tôi vẫn có chút thương cảm dành cho ông. Tôi hiểu rằng ông khá đẹp trai khi họ gặp nhau. Tôi nghĩ mẹ tôi thao túng cha vì bà cho rằng ông cần cứng rắn hơn. Theo bà thì ai quá yếu mềm trước bản thân đều cần trở nên cứng rắn hơn.” Barbara thở dài. “Thay vì khiến cha tôi mạnh mẽ thêm, nó lại khiến ông suy sụp. Ông trở nên xa lánh, sống gần như vờ vật. Ngoại trừ ông bạn già lạ lùng hàng xóm, là thuyền trưởng Trivett, cha tôi chẳng có bạn. Và ngay cả ông ta cũng không thể khiến cha tôi thoát khỏi sự ơ hờ đó. Tôi đang nói nhăng nói cuội rồi…”
“Ngược lại đấy, cô Hatter,” Lane nhẹ nhàng nói, “cô đang sáng suốt kể những chuyện rất quan trọng đấy. Lệnh cấm của mẹ cô đối với cây đàn mandolin và phòng thí nghiệm có được tôn trọng không?”
“Mọi người luôn tôn trọng mệnh lệnh của bà, ngài Lane ạ,” Barbara khẽ đáp. “Tôi có thể thề rằng chẳng ai dám mơ đến chuyện chạm vào cây đàn mandolin hay là đi vào phòng thí nghiệm… Không, thật ngớ ngẩn. Có người đã làm chuyện đó.”
https://thuviensach.vn
“Lần cuối cô trông thấy cây đàn còn ở trong tủ kính đằng kia là lúc nào?” viên thanh tra thắc mắc.
“Chiều hôm qua.”
“Nó có phải,” Bruno hỏi với một chút phấn khích, như thể ông ta vừa nảy ra ý nghĩ gì đó, “là nhạc cụ duy nhất trong nhà không?” Lane liếc nhìn ông ta sắc bén, còn Barbara tỏ ra ngạc nhiên. “Vâng, đúng thế,” cô đáp. “Dù có ý nghĩa gì… Tôi cho rằng nó không liên quan đến tôi. Gia đình tôi không có năng khiếu âm nhạc. Nhà soạn nhạc ưa thích của mẹ tôi là Sousa, và cây đàn của cha tôi là kỉ vật từ thời sinh viên. Từng có một cây đàn piano cánh - một trong những món đồ hoa mỹ nhất nhà, đầy họa tiết và sơn son thếp vàng, phong cách rococo những năm 1890 - nhưng mẹ tôi đã ném nó đi vài năm trước. Bà tỏ ra bực bội…”
“Bực bội?” Bruno thắc mắc.
“Vấn đề là Louisa không thể cảm nhận được nó.”
Bruno cau mày. Bàn tay to bản của Thumm thò vào túi áo lục lọi và giơ ra một chiếc chìa khóa. “Cô nhận ra nó chứ?”
Barbara chăm chú quan sát nó. “Đó là chìa khóa của hãng Yale phải không? Tôi không biết nữa. Chúng trông khá giống nhau mà…” “Chà,” Thumm thốt lên, “đó là chìa khóa phòng thí nghiệm của cha cô. Tôi tìm thấy nó trong đống đồ đạc của mẹ cô.”
“Ra thế.”
“Đây là chiếc chìa khóa duy nhất của căn phòng đó đúng không?” “Tôi tin như vậy. Tôi đoán mẹ tôi đã giữ nó kể từ lúc có tin cha tôi tự tử.”
Thumm cất chìa khóa vào túi. “Đúng như điều tôi đã được nghe. Chúng ta phải ghé qua phòng thí nghiệm đó.”
“Cô có hay ghé vào phòng thí nghiệm của cha mình không, cô Hatter?” Bruno tò mò hỏi.
Khuôn mặt Barbara hoạt bát hẳn lên. “Có chứ, ngài Bruno. Tôi là một trong những kẻ tôi tớ trong ngôi đền khoa học thần thánh của cha. Những thí nghiệm của ông đã cuốn hút tôi, dù tôi chẳng hiểu chúng. Tôi thường dành cả tiếng với ông trên gác. Đó là những lúc mà ông hạnh phúc nhất -
https://thuviensach.vn
ông như sống vì khoảnh khắc ấy.” Cô chìm vào trầm tư. “Martha - người chị dâu - cũng đồng cảm với ông, thi thoảng chị ấy cũng xem ông làm việc. Và tất nhiên còn cả thuyền trưởng Trivett nữa. Những người khác…”
“Vậy là cô không biết gì về hóa học,” Thumm xác nhận lại với giọng không đồng tình.
Barbara mỉm cười. “Ngài thanh tra ơi. Chất độc ư? Ai cũng đọc được tên ghi trên nhãn chai mà. Không, tôi không có khiếu về hóa học.” “Từ những điều được nghe,” Drury Lane bình luận, với thứ mà viên thanh tra đánh giá là không phù hợp, “việc không có khiếu khoa học khiến cô thăng hoa thành thiên tài thi ca, cô Hatter à. Cô phô bày một bức tranh thú vị, cô và người cha: Nàng thơ ngồi dưới chân Khoa học gia.” “Vớ vẩn,” thanh tra Thumm nói rõ ràng.
“Ồ, hẳn là thế rồi,” Lane đáp lời và mỉm cười. “Lúc này đây tôi không bình luận vậy chỉ vì muốn phô bày mớ kiến thức cũ rích đâu, thanh tra à… Điều tôi muốn biết là. Thưa cô Hatter: liệu Khoa học gia có bao giờ ngồi dưới chân Nàng thơ không?”
“Làm ơn giải thích rõ ràng cái,” viên thanh tra gắt. “Tôi cũng muốn biết câu trả lời mà.”
“Ngài Lane đây muốn hỏi,” Barbara trả lời với nét ửng hồng trên đôi má, “liệu cha tôi có hứng thú với việc tôi làm thơ như thế không. Câu trả lời, thưa ngài Lane, là có. Cha tôi luôn có niềm đam mê mãnh liệt dành cho thơ ca của tôi - nhưng tôi e là không bằng dành cho thành quả hóa học của ông. Ông thường không hiểu nổi những vần thơ của tôi…”
“Tôi cũng thế, thưa cô Hatter,” Lane nói và hơi chúi người. “Cha cô đã bao giờ thử làm thơ chưa?”
Barbara tỏ vẻ nghi hoặc. “Hiếm lắm. Ông đã thử sức với việc viết sách một lần, nhưng tôi không tin ông đã có thành quả gì. Cha tôi không thể làm gì đó thật lâu dài - tất nhiên là ngoại trừ những thí nghiệm không ngừng với bình cong, đèn cồn và hóa chất.”
“Chà,” Thumm nói xen vào, “nếu chỉ có vậy, tôi xin phép quay lại chuyện chính. Chúng ta không có cả ngày đâu, ngài Lane… Cô là người về nhà cuối cùng đêm qua, phải không cô Hatter?”
https://thuviensach.vn
“Tôi chịu thôi. Tôi quên mang chìa khóa - chúng tôi đều có chìa khóa riêng - nên tôi đã bấm chuông tiền sảnh. Cái chuông nối trực tiếp với phòng của nhà Arbuckle trên tầng áp mái, và ông George Arbuckle xuống lầu sau tầm năm phút để mở cửa cho tôi vào. Tôi liền đi lên gác luôn. Arbuckle lên sau… Vì vậy, tôi không thể nói tôi có phải là người cuối cùng hay không. Có lẽ ông Arbuckle biết.”
“Sao cô lại không mang chìa khóa? Thất lạc? Đánh mất?” “Ngài thật dễ đoán, thanh tra à,” Barbara thở dài đáp. “Không, nó không bị thất lạc, không bị mất, cũng không bị đánh cắp. Chỉ là tôi quên mang, như tôi đã nói. Nó nằm ở một cái ví khác trong phòng tôi, tôi đã kiểm tra lại trước khi đi ngủ.”
“Ngài có nghĩ đến khả năng nào khác không?” viên thanh tra hỏi Bruno sau một hồi im lặng.
Vị công tố viên lắc đầu.
“Còn ngài thì sao?”
“Sau cái cách ngài ngắt lời tôi, thanh tra à,” Lane đáp bằng một nụ cười rầu rĩ, “không.”
Thumm tỏ vẻ hối lỗi rồi nói: “Xong rồi, thưa cô Hatter. Xin cô đừng rời khỏi nhà.”
“Không,” Barbara Hatter mệt mỏi đáp. “Tất nhiên là không rồi.” Cô đứng lên và rời khỏi phòng.
Thumm giữ cửa mở và dõi theo bước chân cô. “Chà,” ngài lẩm bẩm, “dù tôi thẩm vấn như thế, đó vẫn là một phụ nữ thật đẹp. Được rồi,” Thumm nói tiếp, đôi vai gồng lên, “có thể chúng ta sẽ xử lý được những kẻ điên này. Mosher, cho gọi nhà Arbuckle xuống đây để thẩm vấn.”
Viên thám tử vội lên gác. Thumm đóng cửa, móc ngón tay cái vào đỉa quần rồi ngồi xuống.
“Những kẻ điên?” Bruno nhắc lại. “Tôi tưởng nhà Arbuckle thì bình thường.”
“Không đâu,” viên thanh tra gắt. “Trông thì bình thường thế thôi. Họ điên bên trong đấy. Họ điên chắc luôn.” Ông nghiến hàm răng lại. “Bất cứ
https://thuviensach.vn
ai sống trong ngôi nhà này đều điên hết. Tôi bắt đầu cảm thấy mình cũng bị điên rồi.”
Vợ chồng Arbuckle đều cao ráo, vẻ khỏe mạnh của tuổi trung niên; họ trông giống anh trai và em gái hơn vợ chồng, cả hai đều có nét mặt thô và da mặt sần sùi, với lỗ chân lông to và nhờn: những người nông dân, cả hai bọn họ, được thừa hưởng gien to béo và óc lãnh đạm - cả hai đều nghiêm túc và không cười, như thể cái không khí đang trấn áp ngôi nhà này đã nghiền nát họ.
Bà Arbuckle tỏ ra lo lắng. “Tối qua tôi đi ngủ lúc mười một giờ,” bà nói. “Với George - chồng tôi. Chúng tôi là những người hiền hòa; chúng tôi không biết gì về chuyện này hết.”
Viên thanh tra gắt. “Ngủ cho đến sáng sao, cả hai người?” “Không,” người phụ nữ nói. “Khoảng hai giờ sáng thì có tiếng chuông reo. George bật dậy, mặc vội quần áo và đi xuống nhà.” Thumm gật đầu ủ ê; có lẽ ngài chờ đợi một lời nói dối. “Khoảng mười phút sau ông ấy trở lên và bảo: ‘Barbara, cô chủ để quên chìa khóa.’” Bà Arbuckle hít một hơi. “Sau đó chúng tôi ngủ tiếp và không biết chuyện gì khác cho đến tận sáng.” Mái đầu bờm xờm của George Arbuckle khẽ gật. “Đúng vậy,” ông nói. “Có Chúa chứng giám. Chúng tôi chẳng hề biết gì sất.”
“Ông chưa được phép lên tiếng,” Thumm nói. “Giờ thì…” “Bà Arbuckle,” Lane bất ngờ xen vào. Bà ta nhìn ông bằng vẻ tò mò của phụ nữ - một phụ nữ trông như đàn ông. “Bà có thể cho chúng tôi biết là trái cây được đặt trong phòng của bà Hatter mỗi ngày phải không?” “Đúng thế. Cô Louisa Campion thích ăn trái cây.” bà Arbuckle xác nhận. “Hiện trên gác đang có một bát trái cây. Nó được để đấy từ bao giờ?” “Hôm qua. Tôi luôn giữ cho bát đầy trái cây tươi. Bà Hatter muốn vậy.” “Cô Campion thích tất cả các loại trái cây à?”
“Vâng. Cô ấy…”
“Vâng, thưa ngài,” thanh tra Thumm xẵng giọng.
“Vâng thưa ngài.”
“Còn bà Hatter thì sao?”
https://thuviensach.vn
“Vâng… cũng thích thế. Bà ấy chỉ ghét lê thôi. Không bao giờ ăn lê cả. Những người trong nhà hay lấy đó làm chuyện vui về bà ấy.” Drury Lane liếc mắt với thanh tra Thumm và công tố viên Bruno đầy dụng ý. “Giờ thì, bà Arbuckle,” ông ân cần nói tiếp, ”bà đã mua trái cây ở đâu?”
“Tại tiệm Sutton khu University Place. Cung cấp đồ tươi mỗi ngày.” “Thế có ai ngoại trừ cô Campion ăn chỗ trái cây này nữa không?” Bà Arbuckle nâng cằm lên và nhìn ông chằm chằm. “Sao ông lại hỏi lạ
thế? Chắc chắn những người khác cũng cùng ăn chứ. Tôi luôn lấy cho cả nhà cùng ăn mà.”
“Hừm. Có ai đã ăn lê từ đợt hàng hôm qua không?”
Gương mặt người quản gia tối sầm lại với sự nghi ngờ; có vẻ vấn đề trái cây này đã khiến bà ta căng thẳng. “Có!” bà ta ồ lên. “Có! Có…” “Có, thưa ngài,” viên thanh tra nhắc.
“Có… thưa ngài. Tôi đã ăn một quả, chính tôi, nhưng thế thì sao ạ?” “Không có gì, bà Arbuckle, yên tâm đi,” Lane nhẹ nhàng đáp. “Bà đã ăn một quả lê. Mỗi mình bà thôi sao?”
“Bọn trẻ, Jackie và Billy, mỗi đứa một quả nữa,” bà lẩm bẩm, sự căng thẳng dịu xuống. “Và một quả chuối nữa, chúng ăn như hạm ấy.” ”Và không bị sao cả,” Bruno nhận xét. “Dù sao vẫn cần thông tin này.” “Trái cây được đem đến phòng cô Campion thời điểm nào hôm qua?” Lane vẫn nhẹ nhàng hỏi tiếp.
“Vào buổi chiều. Sau khi ăn trưa, thưa ông.”
“Tất cả trái cây đều tươi mới?”
“Vâng… Vâng, thưa ngài. Một vài quả nằm trong bát từ ngày hôm kia, nhưng tôi đã bỏ chúng ra,” bà Arbuckle nói, “và đặt quả mới vào. Louisa rất kén chọn đồ ăn thức uống. Đặc biệt là trái cây. Cô ấy sẽ không ăn trái cây chín quá hay dập nát.”
Drury Lane bắt đầu; ông định nói điều gì đó, nhưng lại thôi, rồi cứ thế nín thinh luôn. Người quản gia chỉ biết chằm chằm nhìn ông vẻ thẫn thờ; còn ông chồng thì sáp tới đứng cạnh, gãi cằm và tỏ ra không thoải mái.
https://thuviensach.vn
Viên thanh tra và Bruno dường như bối rối bởi phản ứng của Lane; họ dõi theo ông từng chút một.
“Bà có chắc chắn về chuyện đó?”
“Chắc như bắp luôn.”
Lane thở dài. “Có bao nhiêu quả lê được bỏ vào bát buổi chiều hôm qua, bà Arbuckle?”
“Hai quả.”
“Cái gì!” viên thanh tra thốt lên. “Tại sao, chúng ta tìm thấy…!” Thumm nhìn Bruno, và Bruno nhìn Lane.
“Thế đấy,” vị công tố viên lẩm bẩm, “thật lạ lùng đấy, ngài Lane ạ.” Lane tiếp tục không hề nao núng. “Bà có dám thề không, bà Arbuckle?” “Xin thề? Để làm gì? Có hai quả thôi, tôi bảo rồi. Tôi phải biết chứ.” “Chắc chắn là bà biết. Bà có tự tay mang cái bát lên gác không?” “Tôi luôn làm thế.”
Lane mỉm cười, vẻ trầm tư, rồi ngồi xuống với một cái phẩy tay khe khẽ. “Tới lượt ông, ông Arbuckle,” viên thanh tra gắt. “Barbara Hatter có phải là người cuối cùng về nhà đêm qua?”
Viên tài xế kiêm gia đinh run lên thấy rõ khi tên mình được xướng lên. Ông ta liếm môi. “Dạ… dạ… tôi không biết nữa, thưa ngài. Sau khi mở cửa cho cô Hatter, tôi chỉ đứng dưới nhà một lúc đủ để thấy rằng tất cả cửa ra vào và cửa sổ đều khóa. Tôi đã tự tay khóa cửa trước, sau đó lên gác đi ngủ. Vì vậy, tôi không thể nói còn ai vào nhà nữa không.”
“Còn tầng hầm?”
“Nó không được sử dụng,” Arbuckle trả lời chắc chắn hơn. “Nó được khép lại và đóng ván gỗ cả trước cả sau nhiều năm rồi.”
“Thế à,” Thumm nói. Viên thanh tra đi ra cửa, ló đầu ra ngoài và hét lên: “Pinkussohn”
Một thám tử cất giọng khàn khàn: “Vâng, thưa sếp?”
”Đi xuống tầng hầm. Kiểm tra một vòng đi.”
Viên thanh tra đóng cửa lại và về chỗ ngồi. Công tố viên Bruno đang hỏi ông Arbuckle: “Tại sao ông lại cẩn thận kiểm tra cửa ra vào và cửa sổ lúc hai giờ sáng?”
https://thuviensach.vn
Arbuckle cười bối rối. “Thói quen của tôi, thưa ngài. Bà Hatter luôn bảo tôi phải kiểm tra cẩn thận, vì cô Campion - cô ấy sợ có kẻ trộm. Tôi đã kiểm tra trước khi đi ngủ, nhưng tôi nghĩ để chắc chắn thì nên kiểm tra lần nữa.”
“Cửa đều được đóng và khóa lúc hai giờ sáng?” Thumm hỏi. “Vâng thưa ngài. Nội bất xuất ngoại bất nhập.”
“Vợ chồng ông làm việc ở đây bao lâu rồi?”
“Tám năm,” bà Arbuckle nói, “mốc là tháng ba vừa rồi.”
“Được rồi,” Thumm nói, “tôi nghĩ thế là xong. Còn câu hỏi nào không, ngài Lane?”
Người nghệ sĩ đang ngồi ườn trên ghế, mắt dán chặt vào vợ chồng người quản gia. “Ông bà Arbuckle,” ông nói. “Ông bà có cảm thấy khó khăn khi làm việc cho nhà Hatter không?”
George Arbuckle trở nên hoạt bát hẳn lên. “Khó khăn, ngài bảo thế ư?” Ông ta khịt mũi. “Tôi sẽ nói thật, thưa ngài. Điên rồ, họ ấy, tất cả bọn họ luôn.”
“Thật khó mà làm vừa lòng họ,” bà Arbuckle ủ ê nói.
“Vậy tại sao,” Lane hỏi bằng giọng dễ chịu, “hai người vẫn tiếp tục làm việc cho họ suốt tám năm qua?”
“À, cái đấy thì!” bà Arbuckle đáp trong bằng giọng điệu của một người không xem câu hỏi này là thích hợp. “Chẳng có gì là uẩn khúc đâu. Tiền công hậu hĩnh - rất hậu hĩnh, thế nên chúng tôi mới ở lại. Ai cũng thế thôi.”
Lane tỏ vẻ thất vọng. “Có ai nhớ là hôm qua còn trông thấy cây đàn mandolin trong tủ kính đằng kia không?”
Ông bà Arbuckle nhìn nhau, và cả hai đều lắc đầu. “Chúng tôi không rõ,” họ nói.
“Cảm ơn hai người,” Drury Lane nói, và nhà Arbuckle được viên thanh tra cho phép ra ngoài.
Người hầu gái, Virginia - không ai nghĩ đến việc hỏi họ của cô ta - là một phụ nữ độc thân cao ráo to xương với khuôn mặt lưỡi cày. Cô ta cứ mải vặn tay và chỉ chực khóc. Cô đã làm việc cho nhà Hatter được năm năm. Cô thích công việc của mình. Cô yêu công việc của mình. Tiền công… Không,
https://thuviensach.vn
thưa ngài, tôi đi ngủ sớm tối qua… Cô không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì, và không biết gì. Nên cô được phép ra ngoài.
Pinkussohn, viên thám tử, vào phòng với sự ghê tởm hiện rõ trên khuôn mặt lớn. “Chẳng có gì trong hầm cả, sếp ạ. Trông như thể nó đã không được mở ra nhiều năm rồi, bụi thì dày cả tấc…”
“Cả tấc?” viên thanh tra đáp lại vẻ khó chịu.
“Vâng… có lẽ ít hơn. Cửa ra vào và cửa sổ chưa ai đụng vào. Không có dấu chân nào trên sàn.”
“Bỏ cái thói hư cấu đi,” Thumm gắt. “Có ngày cậu sẽ biến con chuột thành con voi mất, và thế là lớn chuyện đấy. Được rồi, Pink.” Khi thám tử biến mất qua cánh cửa một cảnh sát bước vào chào. “Này,” Thumm hỏi, “có chuyện gì vậy?”
”Có hai người bên ngoài,” viên cảnh sát cho biết. “Họ muốn vào đây. Họ nhận là luật sư của gia đình và một trong số họ là đối tác hay đại loại thế với Conrad Hatter. Cho họ vào nhé, thanh tra?”
“Cho vào đi,” Thumm gắt. “Tôi đã chờ họ cả buổi sáng nay. Thật đấy!” Hai người mới đến bước vào thư viện, mang theo nét kịch tính và thứ gì đó hài hước. Độc lập với nhau, dù là những mẫu người hoàn toàn tương phản, họ vẫn có thể là bạn bè, tuy nhiên, mọi khả năng của sự thân tình đã bay biến hết, cùng với sự hiện diện của Jill Hatter. Jill, xinh đẹp, sắc sảo, khuôn mặt cô gợi nét đau buồn dưới cặp mắt và trong các đường nét quanh mũi và miệng mang biểu trưng cho đời sống vương giả, rõ ràng đã biết những người đàn ông trong hội trường từ trước. Cô ta đến chỗ họ, chen vào giữa, bám riết vào một cánh tay nam tính, buồn bã nhìn họ, chuyển từ người nọ sang người kia, chấp nhận những lời chia buồn vội vã bằng bộ ngực đầy và đôi môi ủ rũ…
Lane, Thumm, Bruno âm thầm dõi theo họ. Người phụ nữ trẻ này thật biết làm dáng, chỉ nhìn qua là có thể thấy ngay. Trong mỗi cử động khôn khéo của cơ thể đều ẩn chứa lời mời gọi dục vọng, và phảng phất nét nhục cảm. Cô ta coi hai người đàn ông kia như vật làm nền, chồng người nọ lên người kia, gây mâu thuẫn, khiến họ đụng độ một cách vô thức, lợi dụng sự ra đi đầy bi kịch của bà mẹ với quyết tâm lạnh lùng là để thu hút họ đến
https://thuviensach.vn