🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm thức Israel Ebooks Nhóm Zalo Dành tặng mẹ Hay Gratch và cha Avraham Gratch đã khuấtEbook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Rabbi bước lên bục. Ông ban phúc lành và cầu nguyện cho cậu bé trong lễ trưởng thành(1), chính là con trai tôi. Rồi, khi đã mời các thành viên trong giáo đoàn an tọa, ông bắt đầu thuyết một bài về việc quân đội của Israel vừa đánh thọc vào dải Gaza. Sau khi giải thích và biện hộ cho hành động ấy của Israel, ông kết luận với một giọng đầy cảm xúc, khẳng định rằng cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1967 là thời khắc huy hoàng nhất của Israel. Đúng khoảnh khắc đó, một vị khách mời của lễ trưởng thành, một doanh nhân người Israel đang vào tuổi ngũ tuần, đứng dậy. “Rabbi,” ông nói rất nghiêm túc, “Con phản đối những nhận định này!” Bầu không khí im lặng bao trùm cả giáo đường thênh thang, lộng lẫy. Chẳng hề bối rối, Rabbi đáp lại một cách đầy tôn trọng, “Bạn của tôi, tại sao hai ta không bàn về chuyện đó sau buổi lễ nhỉ.” Nhưng ông ta, ngồi ngay đằng sau vợ tôi và tôi, và tình cờ lại là anh tôi, đáp trả, “Không thưa Rabbi, con muốn nói với cả giáo đoàn đây.” “Xin thứ lỗi, ta không thể để con làm chuyện đó được.” “Con chỉ muốn nói một từ thôi,” anh tôi nài nỉ. Khi đang chờ xem từ đó có thể là gì thì tôi nghe thấy vợ mình – một người Mỹ nổi bật với vẻ lịch duyệt và duyên dáng – nhăn nhó quát vào mặt anh ấy, “Ariel, nếu anh không thôi ngay đi thì anh sẽ chết với em!” Chẳng hề nao núng, Ariel cự lại, “Có vài thứ đáng để chết vì nó.” Nhưng anh ấy đã nghe theo, anh ngồi xuống để buổi lễ được tiếp tục. Lúc này, bạn chỉ có thể biết được là anh trai tôi ngoài cái tên thì chẳng có gì giống với cựu thủ tướng Israel đã đem quân tiến vào dải Gaza. Tất nhiên ngoại trừ một điều, cả hai đều là người Israel. Tôi ngờ rằng đây là lần đầu tiên, Rabbi cũng như toàn thể giáo đoàn này, những người sống bình yên ở khu ngoại ô cao ráo ngay phía bắc thành phố New York, phải chạm trán với một cuộc chất vấn như thế này. Thể nào cũng có câu chuyện lúc trà dư tửu hậu sôi nổi sau buổi lễ, khi những hân hoan của buổi lễ lạt đã trở lại câu lạc bộ kiểu thôn dã yên bình bên bờ sông cách đây một vài dặm. Nhưng ở đâu cũng vậy, cho dù đó có là một chốn thượng lưu của đám nhà giàu, tâm thức Israel vẫn tự mình hiện diện. Có lẽ vì vợ tôi và tôi đều là những nhà tâm lý học, hoặc đơn giản chúng tôi không phải là những con người của tôn giáo, nên buổi lễ kỷ niệm trưởng thành của con trai chúng tôi không theo nghi lễ chuẩn mực. Bên cạnh nhiều thủ tục khác, chúng tôi đã nhờ bảy người đàn ông có vai trò quan trọng trong đời sống gia đình phát biểu trước đông đủ mọi người mấy lời khuyên về việc trở thành một người đàn ông, vì một lễ trưởng thành đòi hỏi phải làm thế. Chúng tôi chọn bố vợ tôi, hai anh trai tôi, ba người bạn thân thiết của gia đình cùng cha tôi, và chúng tôi đã dặn dò họ khá cụ thể. Bố vợ tôi và ba người bạn Mỹ kia đã làm theo đúng hướng dẫn. Họ học thuộc lòng những lời khuyên xúc động, hài hước, và chân thành cởi mở đối với lớp trẻ trong tờ giấy. Bạn đã gặp một trong những ông anh của tôi, Ariel, rồi đấy. Anh ấy đã khuyên nhủ thằng bé, chẳng trật phom tí nào, rằng “hãy luôn đi theo tiếng gọi của lòng can đảm”. Nhưng bây giờ đến lượt người anh khác của tôi đi theo lòng can đảm của anh ấy, hoặc chính xác hơn, là bước theo nhịp quân hành của riêng mình. Đến lượt mình, Eli tự hào tuyên bố rằng anh ấy chẳng chuẩn bị gì cả. Anh ấy nồng nhiệt chúc mừng con trai tôi rồi ngồi xuống. Khác với Ariel, anh ấy không đưa ra một phát ngôn chính trị nào, nhưng làm sao nó lại có thể nằm ngoài tiết mục của anh ấy được cơ chứ. Anh lớn hơn tôi 10 tuổi, năm 1969, khi 21 tuổi, anh vận động cho ứng cử viên cánh tả trung thành của Israel, Menachem Begin, và quản lý một trong những văn phòng ở Jerusalem của ông ta. Chẳng bao lâu sau, anh đổi họ từ Gratch sang Gadot. Việc này không liên quan gì đến việc nhiều người Israel thường làm là Hebrew hóa họ châu Âu của mình để cho hợp với một lý tưởng người Do Thái Israel mới. Mà đây là cách thể hiện cá nhân tình yêu của mình với một Israel Vĩ đại hơn, Eli đã chọn một họ được dịch thành “đôi bờ”, ám chỉ cả hai bờ sông Jordan. Nó xuất phát từ trường phái xét lại Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái cánh hữu, cho rằng không chỉ Bờ Tây, mà còn cả phần còn lại của Palestine cổ, bao gồm lãnh thổ của nhà nước chủ quyền Jordan, cũng thuộc lãnh thổ của Israel. Nhiều năm sau, khi đã kết hôn và truyền lại họ ấy cho những đứa con mình, quý ngài Gadot đã hoàn toàn thay đổi quan điểm, chuyển sang phe cực tả, chấp nhận Bờ Tây và thậm chí cả Đông Jerusalem thuộc về người Palestine. Nhưng hiện tại anh ấy và con cháu có cùng khuynh hướng chính trị lại chẳng đổi được cái họ Gadot. Bây giờ, danh sách đã đến lượt người phát biểu cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng – hay nói chính xác hơn thì người đó đã chẳng đến – đó là cha tôi. Trước đó, ông nói với tôi rằng ông sẽ kể câu chuyện từ hồi lễ trưởng thành của chính ông, câu chuyện mà tôi sắp kể đây. Ngay trước khi ông được sinh ra ở vùng đất Palestine vào năm 1918, còn đang nằm dưới sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ, cha của ông đã bị trục xuất đến Syria vì, không muốn cầm súng chống lại quân Đồng minh trong Thế chiến I, ông đã trốn quân dịch nhằm tăng cường cho quân Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vậy ông nội đã không thể tham dự Lễ cắt bì của cha, một nghi lễ tôn giáo cắt bao quy đầu dành cho các bé trai người Do Thái. Nhưng khi đó, ở Damascus, ông đã thề rằng dù thế nào ông cũng nhất định phải làm lễ trưởng thành cho con trai mình. Ông nội đã làm, và trong lễ ấy, ông kể cho cha nghe toàn bộ câu chuyện này. Cha tôi đã nói với tôi: “Bây giờ khi ta đến lễ cắt bì của con trai con – cháu trai nhỏ tuổi nhất của ta, ta thề là sẽ đến lễ trưởng thành của nó, để theo trọn chu trình này.” Cha đã định bay từ Jerusalem đến New York ở cái tuổi 87, và chuẩn bị để kể câu chuyện này. Nhưng sau đó cha nói chuyện đó với mẹ, rõ ràng là bà phản đối, bà lý luận rằng câu chuyện ấy chẳng đâu vào đâu trong lễ trưởng thành của con trai tôi và bởi vậy chẳng nên kể chút nào. Vậy nên mặc cho tôi cố thuyết phục đến đâu, cha tôi cũng quyết định không phát biểu gì. Thay vào đó, mẹ tôi giúp ông viết một vài lời thích hợp kiểu giáo huấn về tuổi trưởng thành cho con trai tôi, mà ông cứ thế mà đọc. Nhưng trong buổi lễ, sau khi sáu người đã phát biểu và vợ tôi giới thiệu cha tôi đã sống sót qua năm cuộc chiến tranh và một cuộc hôn nhân 58 năm, mẹ tôi đứng dậy và bước đến bục. Bà giải thích rằng cha tôi cảm thấy không được khỏe và bà sẽ đọc bài phát biểu của “ông”. Để bạn khỏi nghĩ rằng mẹ tôi là một người khác thường và chỉ có đàn ông trong gia đình tôi mới “đi theo lòng can đảm của mình” hay bước theo bất cứ nhịp quân hành nào phát ra từ trái tim dũng cảm ấy, một người chị dâu của tôi đã tuyên bố rằng sẽ quyết không trùm bất cứ cái “giẻ rách” nào lên đầu như Hội đoàn Do Thái yêu cầu, và một cháu gái họ của tôi đã nói với con trai tôi rằng nó chẳng tin vào Thiên Chúa và bởi thế cho nên sẽ không chấp nhận vinh dự mở chiếc rương, và tương tự, tại sao thằng bé con tôi lại chịu đựng từ đầu tới cuối cái trò vớ vẩn này nếu nó, như lời nó đáp lại chị họ, cũng chẳng tin vào Thiên Chúa...? Tôi là nhà tâm lý học lâm sàng, tôi viết sách và sống tại New York. Tôi được sinh ra và lớn lên ở Jerusalem, là con thứ ba và là con trai út trong một gia đình với gốc gác không bình thường ở Đất Thánh. Một trong những kỷ niệm ấu thơ mạnh mẽ nhất của tôi là vào buổi sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967. Lúc đó tôi học lớp 4, con đường đến trường, tôi đang lên dốc chỗ đường Ussishkin – đặt theo tên của một lãnh tụ Phục quốc Do Thái gốc Nga vào buổi ban đầu – thì tiếng còi hụ lên ầm ĩ. Nó không kéo một hồi dài liên tục như là tín hiệu cho một phút mặc liệm theo đúng kiểu của những ngày Holocaust(2)và dịp tưởng niệm những nạn nhân cuộc Đại thảm sát, mà đúng hơn là một hồi còi hụ lên hụ xuống liên tiếp, tín hiệu báo chiến tranh. Tôi dừng lại nhìn quanh. Rất nhiều người đi đường khác cũng làm y thế. Rồi, như thể đã ngấm ngầm nhất trí với nhau, chẳng ai bảo ai, chúng tôi đều cho đó là tín hiệu báo động lầm hoặc chỉ là một cuộc tập trận khác. Tôi tiếp tục bước đi. Nhưng khi tôi đến trường, hóa ra đó là còi báo động thật. Chiến tranh đã xảy ra, và lũ lĩ khoảng 400 đứa trẻ chúng tôi được tập trung tại phòng gym ở tầng trệt để chờ bố mẹ đến đón về. Trưa, ngoại trừ tôi và một đứa bạn sống ở bên kia đường, tất cả trẻ con đều đã được đón, giáo viên của chúng tôi đã nhóm hai đứa lại và bảo chúng tôi cùng nhau tự đi bộ về. Khoảng 15 phút sau, khi đã đi được nửa đường, chúng tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng nổ. Hàng loạt tiếng súng cối ì ùng bị ngắt quãng bởi những tiếng súng bán tự động dội lại từ đằng xa. Chúng tôi biết rằng chỉ cách con đường của chúng tôi một hai tòa nhà, ở Thung lũng Thập giá, nằm ở bên dưới Bảo tàng Israel, Lực lượng quốc phòng Israel đã đóng chốt một đơn vị pháo binh được ngụy trang. Chúng tôi cũng biết rằng ngôi nhà của thủ tướng, cũng ở gần đó, có thể là mục tiêu nã pháo của quân Jordan. Dù thế nào cha tôi cũng đã quyết lao vào ô tô, tức tốc từ nơi làm việc về nhà, vừa lúc tôi và bạn đến được tòa nhà của chúng tôi – lúc này ông bảo tôi cùng bạn đi đến cửa hàng tạp hóa ở góc đường. Ngay sau khi chúng tôi mua thực phẩm dự trữ cho nhiều ngày thì hai cha con tôi tụ tập cùng với những người hàng xóm trong một căn hầm nhỏ của tòa nhà chung cư 5 tầng của chúng tôi. Một vài người hàng xóm cũng từng người từng người lần lượt lách vào căn hầm, cửa hầm đang được vài người chống đỡ với một bức tường làm bằng những bao cát chất lên. Suốt đêm, pháo liên tục nã và tòa nhà kế bên hứng trọn một quả, nó run rẩy rồi những ô cửa sổ vỡ tan tành bắn vào tòa nhà chúng tôi. Sáng hôm sau, tiếng pháo đã ngớt, cha mẹ tôi bàn nhau chuyển từ căn hầm tới một căn hộ hai tầng bỏ trống của một người hàng xóm. Chúng tôi đang sống trên tầng ba và cha mẹ tôi có lẽ đã nghĩ rằng tầng hai thì an toàn hơn. “Sao nhà mình không ở lại đây?” tôi hỏi. “Gì cơ, con sợ à?” mẹ tôi đáp. Sau này, tôi mới nhận ra rằng lúc đó mẹ cố gắng an ủi và trấn an tinh thần tôi bằng cách xua đuổi có phần ngạc nhiên và gần như là khinh thường nỗi sợ hãi tưởng tượng của tôi. Thật lạ lùng là suốt cả ngày hôm đó, tôi chẳng cảm thấy sợ sệt chút nào. Nếu tôi nhớ không lầm thì việc tôi gợi ý ở lại căn hầm có lẽ cũng na ná như việc các ông bố bà mẹ cho rằng trong một ngày trời lạnh mà mặc áo len chui cổ, áo khoác và đội mũ cho đứa con bé bỏng của mình thì thật là bất thường. Ngày tiếp theo với tôi vẫn qua đi với cùng một thái độ đầy lý trí như vậy, và có lẽ cùng với một niềm lâng lâng tự hào nào đó khi chúng tôi ló mặt ra khỏi căn hầm và ra đường để quan sát những chiếc máy bay phản lực của quân đội Israel đánh bom một ngôi làng người Palestine hoặc một vị trí quân sự của Jordan cách một vài dặm ở Bờ Tây. Còn với mẹ, nhiều năm sau tôi mới hiểu cảm giác của mẹ lần ấy khi bà kể cho tôi nghe về hồi bà ở Jerusalem, lúc đó đang trong vòng vây hãm của cuộc chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948, hoặc hồi Chiến tranh giành độc lập của Israel. Một người mẹ trẻ mới 23 tuổi, với khẩu phần lương thực eo hẹp tùy ý sử dụng, phải bòn nhặt xung quanh chỗ ở xem có thứ gì để nuôi sống đứa con một tuổi đang đòi ăn, chính là anh cả tôi. Bà thấy một người đàn bà gần đó nuôi gà ở sân sau, thành ra họ đổi một hộp cá sardin lấy mấy quả trứng gà. Giữa lúc đạn pháo đang nổ rầm trời thì mẹ ôm mấy quả trứng về nhà, nâng niu nó còn hơn cả mạng sống của bản thân. Một kỷ niệm cũng tương tự, chỉ mấy tháng trước, cha tôi nhớ lại lúc ông giống như một người lính bộ binh thuộc một trong những lực lượng an ninh tiền nhà nước Do Thái, phải đối mặt với một đơn vị pháo của Anh đang nhằm vào một mảng tường vôi vữa cách chỗ ông chỉ đúng 50 yard(3). Nói cách khác, đối với cha mẹ tôi, cảm thương với nỗi sợ hãi từ lâu đã là một việc làm xa xỉ mà họ không thể làm nổi. Không biết nên vui hay buồn, nhưng trong lịch sử gia đình tôi, những câu chuyện bi tráng kiểu này chẳng phải là biệt lệ. Và những trường hợp bi kịch đặc biệt này – và cả những tổn thương nặng nề – mà gia đình đã phải hứng chịu trong suốt chiều dài hai thế kỷ, cùng với những chuyện như thể đã đi vào tích truyện ngụ ngôn răn đời đặc trưng của gia đình, đã được đan dệt tinh vi phức tạp vào câu chuyện về Do Thái và Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, những câu chuyện đã nâng cao tính cách dân tộc của người Israel. Từ các shtetls(4) ở Đông Âu, qua những thành phố thánh là Safed và Jerusalem, cho đến các bờ biển của Bắc Mỹ, với những mất mát và gượng dậy tại mỗi khúc quanh của lịch sử, gia đình tôi lúc nào cũng đóng góp cho nó những con người mộ đạo và những kẻ nổi loạn trường kỳ, những bậc anh tài tự phong và tự tay làm nên cơ đồ, những kẻ mộng mơ, những kẻ mưu lược, những kẻ bùa phép và những kẻ lang băm, những chiến sĩ chiến đấu vì tự do, những kẻ khủng bố và những tù nhân chiến tranh, những người bán rong vặt vãnh và những doanh nhân, và tất nhiên, những người đàn ông và đàn bà bình thường trong một mạng lưới lịch sử với đầy những va chạm và dịch chuyển của thực tế. Rồi bạn sẽ thấy, lịch sử gia đình này không chỉ hình thành nên rồi truyền đạt cho người viết, mà nó còn minh họa và báo trước những phức tạp và mâu thuẫn của cuộc sống tại đất nước Israel đương thời. Mẹ tôi thuộc thế hệ thứ sáu của một gia đình Do Thái tại Thành Cổ Jerusalem. Tổ tiên bên ngoại của mẹ là những môn đệ của “Thiên tài thành Vilna”, một rabbi chính thống giáo, người Ba Lan – Lithuania của thế kỷ 18 và là học giả khuyến khích học trò mình hành hương về Đất Thánh và học kinh Torah ở đó. Những kẻ hành hương tôn giáo này không phải là những người Phục quốc Do Thái. Thực tế, một số con cháu của họ là thành viên của hội bàiZion Neturei Karta, hay còn gọi là giáo phái Những người giữ thành (Guardians of City). Giống như cộng đồng chính thống cực đoan lớn hơn ở Palestine cùng thời, nhóm Do Thái tuy nhỏ nhưng ồn ào này tin rằng chỉ có Messiah(5) mới có thể khôi phục được chủ quyền của người Do Thái tại Jerusalem. Nhưng không giống với nhóm lớn hơn, sau khi thành lập nhà nước Do Thái, nó đã tự tách ra để tìm cách sáp nhập chiến lược với các nhóm khủng bố người Palestine và sau này là với những quan chức người Iran cực nguy hiểm chống lại người Israel. Một trong những người thành lập và là lãnh tụ sau cùng của giáo phái này là một người cháu họ của bà ngoại tôi. Tuy nhiên, phần lớn học trò của Thiên tài này đều không dính dáng gì đến chính trị, và người cháu trai của một trong những học trò này là ông ngoại của mẹ tôi. Là một sinh viên chăm chỉ chuyên ngành tôn giáo và tự học về kiến trúc, cụ đã thiết kế trần của một trong những giáo đường Do Thái lớn nhất ở Jerusalem, và nhiều thứ khác nữa. Cụ cũng là một kỳ thủ huyền thoại ở địa phương, từng chơi và đánh bại một đối thủ nặng ký trong một ván cá cược tiền để trang trải chi phí phẫu thuật ở nước ngoài cho một trong những người con của cụ. Bà ngoại tôi là con út trong số 11 anh chị em, sáu người chết từ hồi còn bé. Trong số năm người còn lại, ba trai hai gái, chỉ hai người con gái là còn sống đến ngoài 20 hoặc 30 tuổi. Như mẹ tôi kể: “Hồi đó, ở Palestine chẳng có thuốc men hay bác sĩ gì cả.” Ông nội của mẹ tôi, cũng là một người chính thống cực đoan, ngay từ khi còn là một đứa trẻ đã rời Nga đến Palestine. Cả gia đình cụ cũng định cư ở Thành Cổ Jerusalem, và ngày còn thanh niên, cụ mở một xưởng rượu vang nhỏ ở đó. Để tránh bị sung vào quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trong suốt Thế chiến I, cụ bỏ thành phố và sống ở bên ngoài thành, mở một cửa hàng tạp hóa, dần dần chỗ này được biết đến với cái tên Tây Jerusalem. Cụ bà mất khi con trai cụ, ông ngoại tôi, mới 17 tuổi. Vì ông ngoại không hợp với mẹ kế, nên ông bỏ nhà đi năm 17 tuổi. Ông học làm thầy giáo nhưng cuối cùng lại làm quản lý cho một chi nhánh ngân hàng. Ông kết hôn với bà ngoại tôi thông qua mai mối. Ông có hai anh chị em cùng cha cùng mẹ và bốn người cùng cha khác mẹ. Chị của ông kết hôn với một người trong gia đình Yehoshua Stampfer, một thành viên Zion có vai vế từ buổi đầu của phong trào, một trong những thành viên sáng lập nên Petah Tikva vào năm 1878, đó là thành phố mới đầu tiên của người Do Thái ở Palestine. Em trai cùng cha khác mẹ của ông, Meir Feinstein, là thành viên của Irgun, một tổ chức vũ trang ngầm chiến đấu để hất quân đội Anh ra khỏi Palestine sau khi Anh giành giật với Thổ Nhĩ Kỳ quyền kiểm soát mảnh đất này sau cuộc Đại chiến. Năm 1946, chàng trai Meir vừa mới 19 tuổi, tham gia một kế hoạch của Irgun, âm mưu đánh bom một nhà ga xe lửa tại Jerusalem dành cho binh lính Anh. Anh ta cụt mất một tay trong trận đó và phải rút lui, nhưng cảnh sát Anh đã theo vết máu và truy đuổi anh cùng kẻ đồng mưu. Họ bị đem ra xét xử và bị kết án treo cổ. Phủ nhận quyền cai trị của Anh trên mảnh đất Palestine, Meir từ chối quyền được có đại diện pháp lý và quyết không ký vào đơn kháng án. Khi đến thăm anh ở khu xà lim tử tù, bạn gái đã tuồn cho anh hai quả lựu đạn đút trong hai quả cam rỗng ruột. Kế hoạch của các tù nhân là dùng một quả tấn công kẻ hành hình và quả kia để tự sát. Nhưng khi họ biết rằng rabbi của nhà tù ấy cũng sẽ tham dự buổi hành hình, họ thay đổi kế hoạch và, chỉ vài giờ trước buổi hành quyết, họ tự làm mình tan xác trong xà lim. Khi luật sư của Meir gọi điện cho cha tôi để thông báo tin tức – ông bà tôi chưa có điện thoại – ông nội tự nhủ rằng thà để Meir chết bởi chính bàn tay của ông ấy còn hơn là của những kẻ cầm quyền bất hợp pháp. Những người anh chị em cùng cha khác mẹ khác của ông nội tôi cũng chết khi còn trẻ, và tất cả đều trong những bi kịch thương tâm. Khi còn là đôi vợ chồng son, ông bà ngoại của tôi sống ở Khu phố Do Thái trong thành cổ. Vào đêm đầu tiên của Lễ Vượt Qua(6) năm 1920, giữa khuya khoắt, họ bị tiếng hô Itbach al yahood, nghĩa là “Giết chết lũ Do”, đánh thức và tiếng ồn của những đám đông dân Ả Rập bâu lại bên ngoài cửa sổ của họ. Sự việc đó xảy ra sau Tuyên bố Balfour(7), mà chính phủ Anh tuyên bố họ có ý đồ dọn đường cho việc thành lập một nhà nước quê hương cho người Do Thái ở Palestine. Cũng chỉ cần một thời gian ngắn sau khi lãnh đạo Zion cánh hữu Ze’ev Jabotinsky đến Jerusalem và bắt đầu huấn luyện cho những người Do Thái ở đó cách cầm súng. Tất cả điều này đã góp phần gây thù hận trong lòng người Ả Rập đối với sự hiện diện của người Do Thái trên mảnh đấy này. Mặc dù vậy, sẩm tối hôm đó, lại có một sự việc khác diễn ra trên mảnh đất này, ông bà tôi từ buổi lễ trở về, phải đứng ở ngoài cổng, sân trong đang khóa kín, những người bán hàng người Ả Rập đã mời họ vào nhà uống cốc cà phê và ăn chút bánh. Tuy nhiên, vì đang trong kỳ ăn kiêng nên họ không thể nhận lời mời đó được. Ngay trước bình minh, khi mối đe dọa từ đám đông tăng lên, cảnh sát Anh mới được gọi tới và tất cả những người Do Thái trong địa phận ấy đều bị giải tỏa. Bởi vậy, ông bà tôi bị buộc rời khỏi nhà mình với hai bàn tay trắng, theo đúng nghĩa đen, và họ buộc phải bắt đầu một cuộc sống mới ở khu dân sinh Tây Jerusalem mới mọc. Chính nơi đây, mẹ và cậu tôi đã ra đời. Sau khi sinh cậu tôi, bà ngoại phải vật lộn với tình trạng không sinh thêm được nữa. Nhiều năm sau, bác sĩ phụ khoa chữa trị cho bà bằng những mũi kháng sinh ăn cắp được từ nơi cấp thuốc cho bệnh viện chỉ dành riêng cho binh lính Anh. Việc điều trị hóa ra lại cứu được bà thoát khỏi căn bệnh viêm tử cung, nhưng đến lúc đó thì bà ngoại tôi đã quá già để có thể sinh thêm con. Năm 1947, ngay trước khi Israel giành được độc lập, cậu tôi lúc đó 22 tuổi, đứng trong hàng ngũ của lực lượng phòng vệ hạt nhân của Israel tại Palestine, Haganah, cậu tham gia kế hoạch đột nhập vào Thành Cổ và hỗ trợ những người Do Thái bị cô lập và đang sống thoi thóp. Vừa mới chui ra từ một đường hầm mà trước đó họ đã đào để tránh đụng độ với súng đạn của kẻ thù từ trong những bức tường thành, cậu tôi và những người đồng chí đã bị quân Jordan tinh nhuệ hơn phát hiện và bắt bớ. Cậu tôi bị đưa tới Aman, vùng Transjordan, Jordan hiện nay, và trở thành tù binh chiến tranh ở đó 9 tháng. Người anh em họ thứ hai hay thứ ba gì đó của mẹ tôi cũng ở cùng trại tù binh với cậu. Có lần trong suốt thời gian đó, cha mẹ của người cậu họ này – ông là giáo trưởng của Kotel, hay bức tường Phía Tây, bức tường Than khóc – bị chết trong một cuộc ném bom khủng bố ở Jerusalem. Cậu tôi và người anh em họ đó được phóng thích và trở về nhà nhờ có cuộc trao đổi tù binh trong thời gian hưu chiến của chiến tranh năm 1948 tiếp đó. Về phía đằng ngoại của cha tôi, ông là hậu duệ những môn đệ của Thiên tài thành Vilna, mặc dù nhóm này định cư ngoài Jerusalem xa về phía bắc, trong thành phố Safed linh thiêng. Khi người ta tìm thấy giữa đống đất đá núi lửa ngổn ngang bởi một trận động đất nhấn vùi hầu hết thị trấn và giết hại toàn bộ gia đình, kị bà của cha tôi mới có 3 hay 4 tuổi gì đó. Phía đằng nội, ông nội của cha tôi là con trai lãnh tụ cộng đồng tôn giáo trong một thị trấn nhỏ tại biên giới giữa Nga và Ba Lan. Trong suốt thập niên 1880, một loạt những cuộc polgrom(8) ở những địa phận người Do Thái bắt đầu ngừng lại. Trong khi hai trong số các anh chị em của ông đến Mỹ nhập cư, thì ông nội tôi, lúc đó mới chỉ là thiếu niên, lại đi theo tiếng gọi của phong trào Phục quốc Do Thái. Lúc rời gia đình, ông mới 15 tuổi và đã nhập đoàn với một gia đình khác trên đường đến Palestine, rồi định cư ở Jerusalem. Vài năm sau, cụ tôi cũng đi theo con đường đó. Khi đã ổn định ở Palestine, cụ tôi nuôi gia đình bằng cách ra nước ngoài quyên góp từ thiện cho những gia đình Do Thái ở Jerusalem. Bằng tiền cụ ông kiếm được, cụ bà mua một căn nhà và một cửa hàng tạp hóa bán hàng cho toàn bộ khu đó. Cha tôi vẫn thường kể một câu chuyện là cụ bà đã rất kinh ngạc khi khám phá ra rằng một thùng dầu ăn bán lẻ của cụ chẳng bao giờ cạn. “Thật nhiệm màu,” nhiều năm trời cụ vẫn thường nói như vậy. Khi cha tôi hỏi cụ ông, ông biết được rằng cụ ông đã giấu cụ bà, nhờ một người bạn chuyên nhập dầu bí mật đổ đầy thùng dầu mỗi khi cụ bà ra ngoài. Như đã nói từ trước, ông tôi bị trục xuất tới Syria sau khi trốn đi quân dịch cho quân đội Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng câu chuyện thì phức tạp hơn thế. Trước khi bị trục xuất, ông ẩn mình trong gác mái của giáo đường trong hai năm để tránh quân quyền Ottoman. Sau đó để chắc chắn, ông làm hộ chiếu Mỹ thông qua sự giúp đỡ của một lãnh sự thân thiện tại lãnh sự quán Mỹ ở Jerusalem. Nhưng ông không hề biết rằng khi người Mỹ tham gia Thế chiến I chiến đấu chống lại Thổ Nhĩ Kỳ, thì ông sẽ lại một lần nữa bị nhà cầm quyền Thổ Nhĩ Kỳ truy bắt, lần này là vì ông là một công dân Mỹ. Khi bị bắt, ông bị đối xử như tù nhân chiến tranh, tức là chỉ bị trục xuất. Một người cũng trốn lính như ông cùng bị bắt với ông thì kém may mắn hơn: ông ta bị xử treo cổ. Cha tôi có tám anh chị em. Một người chết từ khi lên tám, một người nữa chết lúc 27 tuổi. Một người họ hàng gần, một người anh họ, là phi công cho Không lực Nga. Bác hy sinh khi chiến đấu trong Thế chiến II. Sau đó, vào cuối thập niên 1960, cả nhà bác cả rời Israel đến Canada. Vào lúc ấy, bỏ Israel – thường xuyên và chính thức được coi là yerida, ngược với aliyah có nghĩa là quay lưng, một từ vẫn được dùng để chỉ người Do Thái từ Diaspora(9) đến định cư ở Israel – bị hiểu như một kẻ phản bội, bởi vậy ông nội tôi phản đối nhà bác. Ông không nói chuyện với bác tôi trong 7 năm rồi mới chịu làm lành. Mặc dù là người chính thống cực đoan, nhưng khi việc đó mâu thuẫn với chủ trương của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, ông nội tôi lại chọn đứng về phía Zion. Bởi vậy, ông đồng ý để cha tôi làm việc cho Haganah vào ngày Shabbat(10). Ông cũng đồng ý để Haganah xây một một nơi cất giấu súng bí mật đến tài tình, bên trong rương đựng kinh Torah trong giáo đường của ông. Từng là quản lý trong một công ty nội thất lớn, ông tôi thật sự đã xây nên giáo đường đó và sau này ông làm thủ quỹ ở đó. Mặc dù cuối cùng cũng đạt được một sự nghiệp thành công trong ngành bảo hiểm, nhưng giống như nhiều người Israel giai đoạn đó, sự nghiệp sớm sủa của cha tôi bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh năm 1948. Hồi mới khởi nghiệp, cha tôi làm việc trong cửa hàng bán dụng cụ của một người bác, nhưng công việc kinh doanh tiến triển quá chậm đến mức chẳng bao lâu sau, ông bác phải tìm cách rút. Ông đã phóng hỏa đốt cửa hàng để lấy tiền bảo hiểm và sử dụng số tiền đó mở một đại lý bảo hiểm. Cha tôi cũng xin vào làm ở đó 10 năm, rồi ông bác bị một cơn đau tim nguy kịch. Đó là vào cuối năm 1947 và thành Jerusalem bị những người dân và lực lượng dân quân ở những ngôi làng Ả Rập quanh đó bao vây. Vì bệnh tình quá ngặt nghèo nên người ta cho phép ông bác theo đoàn hộ tống cuối cùng rời khỏi Jerusalem trước khi con đường duy nhất để ra khỏi thành phố bị phong tỏa. Tuy nhiên, ông đã chết trước khi đến được bệnh viện Tel Aviv, và ngay sau đó chiến tranh nổ ra. Cha tôi được yêu cầu gia nhập Lực lượng Quốc phòng Israel mới thành lập, và đại lý bảo hiểm phải đóng cửa. Sau một năm phục vụ quân đội trong một đơn vị công binh phải chiến đấu ác liệt, cha tôi lại bắt đầu công việc kinh doanh, những người bạn chiến đấu của cha chính là những khách hàng đầu tiên mà ông ký kết việc làm ăn. Chẳng bao lâu sau, công ty của ông trở thành đại lý bảo hiểm tư nhân lớn nhất Jerusalem. Cha mẹ tôi là thế hệ đầu tiên của những cặp vợ chồng kết hôn không do mai mối mang màu sắc tôn giáo. Họ gặp nhau vào năm 1946 trong một quán cà phê nhiều người lui tới ở trung tâm Tây Jerusalem. Cả cha tôi và người bạn thân nhất của ông đều để mắt tới mẹ tôi lúc đó ngồi cách một hai cái bàn cùng với bạn bè, bởi thế nên mới dẫn đến chuyện họ tranh nhau xem ai là người mời mẹ đi chơi, họ nhất trí phương án tung đồng xu, và cha tôi đã thắng. Bởi lẽ cả cha lẫn mẹ đều xuất thân từ những gia đình chính thống, nên các bậc phụ huynh hai bên đều tán thành chuyện hai người tìm hiểu và kết hôn. Tuy nhiên, dù chúng tôi chỉ sống cách ông bà vài phút đi lại, và tuần nào cũng đến thăm họ, nhưng cha mẹ tôi lại chẳng bao giờ thể hiện với ông bà rằng họ đã dần trở nên thế tục như thế nào. Cha mẹ không bảo với ông bà là họ vẫn lái xe vào ngày Shabbat, vấn đề là nhà của ông bà ngoại tôi ở trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ nhìn xuống con đường cái dẫn ra thành Jerusalem. Bởi thế nên bất cứ khi nào chúng tôi lái xe ra ngoài thành phố vào những sáng muộn thứ Bảy, thường trùng với nghi lễ cà phê và bánh ngọt sau buổi lễ giáo đường trên hiên nhà của ông bà, nên ba đứa con trai chúng tôi ngồi ở ghế sau phải thụp người xuống để ông bà không nhận ra. Như các bạn đã thấy, tuổi thơ của chính tôi cũng trải qua thử thách của cuộc chiến tranh, mặc dù không kịch tính như tuổi thơ của cha mẹ. Sau chiến tranh năm 1967, lúc đó tôi vẫn còn là một thiếu niên, tôi có chú ý đến những tầm nhìn chính trị của nhà nước Israel Vĩ đại. Nhưng cuộc sống thường nhật của tôi dành trọn cho bóng đá, bạn bè và trường học. Vào những ngày thứ Bảy cũng như ngày Yom Kippur(11)và những ngày lễ Do Thái giáo khác, khi tất cả mọi hoạt động đều ngưng lại để dành cho việc thực hành các hoạt động tôn giáo, tôi cùng chúng bạn đi đến Đông Jerusalem phía bên Ả Rập, để mặc cả mua bán ở những souk(12) trong Thành Cổ và đánh chén món hummus và labneth(13)cho bữa sáng. Trong suốt thời kỳ đó, nền kinh tế của Israel, cùng với sự tự tin của chính đất nước này, trỗi dậy. Cha tôi ăn nên làm ra và cha mẹ nới rộng căn hộ hai giường ngủ khiêm tốn của gia đình mà trước đây ba anh em chúng tôi phải ở chung một phòng. Khi anh cả tôi rời gia đình vào quân đội, hai anh em chúng tôi không chỉ phải sử dụng một phòng chung mà tôi còn có được một phòng ngủ cho riêng mình. Năm 16 tuổi, tôi mang về cho khu dân sinh yên ả của chúng tôi với tầng lớp từ trung lưu đến trên trung lưu, bao gồm hầu hết là những người Do Thái châu Âu và giới hàn lâm, một chút không khí sôi nổi. Với vài đô la, tôi mua được con lừa từ một lái buôn người Ả Rập trong souk và dong nó về nhà. Bấy giờ một đứa con trai trên lưng một con lừa – dù không phải là đứa con trai Do Thái da trắng ở khu chúng tôi ở – không phải là một cảnh tượng hiếm gặp trên đường phố Jerusalem. Nhưng khi con lừa bắt đầu hí lên vào giữa đêm khuya, thì những người hàng xóm trong tòa nhà chúng tôi ở và những nhà xung quanh mới nhận ra có một con lừa ở sân sau, lúc đấy thì đúng là trời sập đến nơi rồi. Một năm sau, chiến tranh Ả Rập – Israel 1973 hay chiến tranh Yom Kippur(14) nổ ra. Lần này dù không có đụng độ vũ trang ở khu vực Jerusalem nhưng trường học vẫn phải đóng cửa 3 tuần. Để bù lại nguồn nhân lực nhà nước thiếu hụt do được gọi đi làm lực lượng dự bị quân đội, tôi tình nguyện làm việc trong một lò bánh mỳ lớn, ngày ngày làm bánh mỳ. Cho đến lúc ấy, tôi vẫn còn đang trong giai đoạn dậy thì vật vã, lại gặp đúng cơn hỗn loạn về văn hóa và chính trị. Bạn bè tôi, hầu hết đều có thiên hướng nghệ thuật và thông minh đĩnh ngộ, và tôi không đồng ý với những chính sách của chính phủ. Chúng tôi băn khoăn liệu chính phủ có cam kết theo đuổi một nền hòa bình hay bị áp lực với một sự kết hợp quân đội – kinh tế đang ngày càng lớn mạnh. Khi chúng tôi đến tuổi bắt buộc phải vào quân ngũ, một vài người bạn của tôi trốn tránh bằng cách giả vờ, hay có lẽ chỉ cần tỏ ra, là đang có vấn đề về tâm thần. Trong khi thông thường, một người rơi vào tình huống như tôi sẽ dễ sa vào việc trốn tránh, thì tôi lại chẳng hề nghĩ tới nó, bởi vậy hai tháng sau khi tốt nghiệp cấp ba, tôi đã ở trong quân đội. Nhưng ngoài thời kỳ 6 tháng canh gác tại một khu định cơ hiu quạnh tại dải Gaza, tôi thậm chí còn chưa đến gần mà tận mắt chứng kiến một cảnh súng ống tàn sát nhau như thế nào. Trải qua nhiều công việc khác nhau, cuối cùng tôi cũng yên vị với một công việc văn phòng, tư vấn về tài chính và nghề nghiệp cho thương binh và thân nhân những gia đình liệt sĩ. Những người đến chỗ tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ mà tôi dành cho họ, nhưng phần lớn những gì tôi cảm nhận thấy lúc đó, dù khi ấy chẳng phải lúc nào tôi cũng nhận ra được, đó là sự hổ thẹn. Dẫu cho đã cảm thấy được an ủi phần nào khi nhận thức rằng chính mình là người phản đối cuộc chiến tranh và những chính sách hòa bình của chính phủ, nhưng tôi không thể nào thôi cảm thấy xấu hổ rằng mình chỉ là một anh lính (bàn) giấy, chứ chẳng phải một người lính thực thụ, một người cầm súng xông pha trận mạc. Năm tháng trôi đi, dù quan điểm chính trị của tôi đã trải qua vô vàn những thay đổi ngoắt ngoéo, thì cảm giác hổ thẹn ấy vẫn còn vẹn nguyên. Vậy nên dù chẳng ham hố gì với vẻ đẹp của người lính, nhưng tôi luôn ngưỡng mộ và đố kỵ với những người sẵn sàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng giữa lằn ranh súng đạn và biên giới quốc gia để bảo vệ tổ quốc. Thời gian phục vụ trong quân đội còn chĩa vào gáy tôi một cảm xúc vô cùng khó chịu, một cảm xúc mà tôi đã cố phủ nhận hoặc kiềm chế từ khi còn là cậu nhóc học lớp 4: sợ. Nỗi sợ hãi nhất loạt nổi lên trong suốt kỳ huấn luyện cơ bản vào cái lúc tôi phải đối mặt với cảnh tượng mình phải ném một quả lựu đạn. Tôi kinh hãi với ý nghĩ rằng sau khi giật nắp lựu đạn ra, lóng ngóng thế nào tôi lại không thể ném nó đi đủ nhanh để đến nỗi nó nổ ngay trong chính bàn tay mình. Tuy vậy về đại thể, tôi vẫn không hé răng chút nào về những thể loại sợ hãi như thế này, vì trong suốt ba năm tôi phục vụ trong quân đội, chẳng có cuộc chiến chiến tranh nào xảy ra. Nhưng nhìn chung cũng tương tự thời đi lính của hai anh tôi, mặc dù một trong hai người đã tận mắt thấy giao tranh tại bờ Đông của kênh đào Suez của Ai Cập trong suốt cuộc Chiến tranh Tiêu hao (War of Attrition) giữa Israel và Ai Cập vào cuối thập niên 1960. Một trong những khía cạnh rõ rệt nhất trong thời kỳ phục vụ quân ngũ mà tôi cảm nhận được đó chính là việc mất tự do cá nhân. Mãi nhiều năm sau, tôi mới nhận ra rằng, chẳng khác gì trường đại học(15) ở Mỹ, quân đội đối với hầu hết những thanh niên Israel là nơi trung chuyển giữa nhà và “trường đời”; một nơi chắc chắn không có nhiều lựa chọn nhưng cũng đầy rẫy cơ hội cho sự phát triển cá nhân. Trong khi đối với hầu hết giới trẻ Israel thế hệ chúng tôi, việc mất tự do cá nhân bị lu mờ trước cảm giác về lòng tự hào và ý thức trách nhiệm với quốc gia dân tộc, nhưng đối với tôi, nó lại vô cùng ngột ngạt. Đến một lúc mà từng đường da thớ thịt trên cơ thể tôi đang gào thét đòi tự do và quyền tự trị với cá nhân, thì đúng theo nghĩa đen, tôi đã trở thành tài sản của nhà nước này. Tôi vô cùng bực bội với hàng hà sa số những luật lệ và phép tắc, bị cảnh sát quân đội giám sát và kiểm soát thậm chí ngay cả trong kỳ nghỉ phép. Tôi cũng cảm thấy chết ngạt với những buổi nói chuyện liên miên lúc nào cũng chỉ là chính trị và “những tình thế”, bởi cường độ của những sinh hoạt tập thể và bởi những ranh giới giao tiếp hổng lỗ chỗ bị đánh lận con đen với đặc trưng văn hóa. Bởi vậy chỉ vài ngày sau khi được “thả” – thực sự là trong tiếng Hebrew, người ta sử dụng từ này để chỉ việc hết hạn quân dịch – tôi rời Israel để đi học đại học ở Mỹ. Tôi định đến California luôn, nhưng bởi lẽ đây là lần đầu tiên xuất ngoại nên tôi dừng lại ở London vài ngày. Vào buổi sáng đầu tiên ở London, khi tôi đang ngó nghiêng ở một trong những hiệu sách huyền thoại của thành London thì một người đàn ông địa phương tiến tới. Cứ nghĩ tôi là người trông sách ở đó nên ông ta đưa cho tôi xem một mẩu ghi chú nhỏ và nhờ tôi giúp ông ta tìm cuốn sách tựa đề ghi trong đó. Tôi liếc mắt nhìn vào mẩu ghi chú và không thể tin vào mắt mình. Nó viết là 25 năm nghiên cứu xã hội ở Israel của Haya Gratch. Cái tựa đề cực kỳ hàn lâm mơ hồ ấy, với chỉ một vài trăm bản in, là của cuốn sách do chính mẹ tôi viết, lúc đó bà là thư ký, biên dịch viên và biên tập viên cho một tổ chức học thuật phi lợi nhuận ở Jerusalem. Đúng là thế giới thật nhỏ bé làm sao, nhưng nghĩ lại, tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc đọc một chút phần chỉ dẫn của cuốn sách. Khép lại vòng tròn nhỏ bé đó, trong suốt 35 năm tiếp theo, tôi chẳng nghe thấy thêm điều gì khác về cuốn sách của mẹ tôi, nhưng rồitôi lại nhận được email từ một nghiên cứu sinh không hề quen biết từ trường Đại học New York. Sau khi tra cứu trên Google họ của mẹ tôi, anh ta hỏi tôi rằng liệu tôi có giữ một bài báo được viết trong phần tham khảo cuốn sách đó không, bởi lẽ kho dữ liệu lưu trữ những bài báo như thế ở Israel đã bị thiêu rụi rồi. Nhưng ở Bắc California, tôi không phải trải qua những chuyện như vậy. Mối quan hệ của tôi với Israel trong suốt bốn năm tôi ở San Francisco có thể cô đọng lại trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi khi tôi đang lái xe dọc đường cao tốc số 1 ở phía bắc thành phố này và ngắm nhìn khung cảnh hai bên đường. Khi dừng lại tại một bãi biển lô nhô sỏi đá để hít căng buồng phổi làn khí của đại dương, tôi nói chuyện phiếm với một hành khách khác cũng độc hành như tôi, và anh ta đã thắc mắc về giọng nói của tôi. Không những mù tịt về Israel, anh ta còn chẳng hứng thú gì với chiến tranh, các vấn đề về địa chính trị, hay chính trị – của Israel hay của Mỹ thì cũng vậy. Tôi rất ngạc nhiên với tâm trí tự do không vướng bận gì của anh ta, và từ đó trở đi, điều ấy cứ luẩn quẩn trong đầu tôi cùng với hình ảnh Duyên hải Thái Bình Dương. Trong suốt những năm học đại học ở California, tôi chẳng hề để tâm tới quê nhà hay bất cứ thứ gì. Tôi về Israel có hai lần, chẳng đọc báo chí hay sách vở gì về Israel, không bạn bè Do Thái và cũng chẳng lễ lạt Do Thái giáo. Hay ít nhất là tôi tự nhủ như vậy. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất đó chính là người bạn nối khố của tôi. Chúng tôi học cùng trường mẫu giáo, trung học cơ sở, trung học phổ thông và bây giờ thật là ngẫu nhiên làm sao, chung cả trường đại học. Anh ấy học về sân khấu, còn tôi học về làm phim, và năm học thứ hai, cả hai quyết định cùng đổi chuyên ngành sang tâm lý học. Anh ấy bây giờ đang hành nghề bác sĩ tâm lý ở Jerusalem. Ngày đầu tiên đi học lớp sau đại học, trước buổi học đầu tiên, tôi nói chuyện với một bạn học cùng lớp, một phụ nữ người Li-băng, cô ấy vừa từ Beirut đến. Lúc đó đang diễn ra cuộc chiến Li-băng năm 1982 mà kẻ tấn công chính là Israel, và vì sân bay Beirut đã bị đóng cửa, nên để bay tới New York, cô ấy phải đến Jordan. Thực sự là cô ấy đã phải tháo lui khỏi Beirut trên một chiếc taxi trong khi những chiếc phản lực đang quần đảo và ném bom từ trên bầu trời thành phố. Hai chúng tôi bị cuốn vào cuộc nói chuyện về Trung Đông, mải mê đến mức bị muộn tiết học với chủ nhiệm khóa. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn thân và duy trì tình bạn ấy đến tận ngày nay. Chúng tôi đã luôn ý thức được rằng đó là vì xét về đại thể, chúng tôi là những kẻ đồng cảnh ngộ. Trong suốt thời gian học sau đại học, trong khi học tiến sĩ về tâm lý học lâm sàng, tôi trở nên say mê với tâm lý nhóm và đề tài giải quyết xung đột. Tôi cũng ấp ủ nỗi tò mò và niềm say mê nồng nhiệt với chính trị Mỹ. Tôi đã hò hẹn, kết hôn và bắt đầu nghĩ đến việc vun đắp cho một gia đình êm ấm. Vợ tôi là người Do Thái – còn Do Thái hơn cả tôi lúc đó, thậm chí hơn cả những người bạn thân thiết mà tôi đã kết bạn ở New York. Tôi chẳng thích thú gì với tôn giáo, và ngược lại với tất cả những gì tôi được nuôi nấng dạy dỗ, tôi đã tiêm nhiễm vào đầu ý tưởng rằng một người có thể là người Do Thái xét về mặt văn hóa tôn giáo, nhưng không có nghĩa là nhất thiết phải gắn bó với Israel. Nói ngắn gọn, trong khi Israel là nơi tôi được sinh ra và lớn lên, thì bây giờ tôi chỉ là một người New York, hoặc cùng lắm là một người Do Thái quốc tịch Mỹ theo thế tục. Nhưng rồi sự kiện 11/9 xảy ra và cùng lúc, tất cả Trung Đông quay trở lại trong cuộc sống của tôi. Ba tuần trước khi vụ tấn công khủng bố làm thay đổi toàn bộ nước Mỹ xảy ra, anh trai tôi Ariel – chuyển từ Jerusalem tới New York vài tháng trước khi tôi bắt đầu học đại học – thường nói vui với một người bạn trong lúc đang chơi golf ở New Jersey rằng: “Thế nào cũng có ngày một vài kẻ khủng bố sẽ cướp một chiếc máy bay rồi lái nó đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới.” Sau những vụ tấn công đó, khi người Mỹ đang tranh luận về những giá trị được mất của cuộc chiến tranh với Iraq, Ariel được tờ The New Yor Times phỏng vấn cho một bài báo bàn về cảm nhận của những người nhập cư đối với nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Iraq. Anh ấy nói: “Tôi hi vọng nước Mỹ sẽ tiến hành cuộc chiến tại Iraq, vì khi đó nó sẽ ngập ngụa trong vũng lầy Trung Đông đến mức ngay tức khắc và mãi mãi, nước Mỹ sẽ học được là phải tránh xa nó ra.» Nhiều năm trôi đi, Ariel vẫn luôn giữ liên lạc với Israel chặt chẽ hơn tôi rất nhiều. Anh ấy bay về đó vì công việc kinh doanh, vợ anh là người Israel, và chẳng như tôi, anh ấy nói tiếng Hebrew với các con. Nhưng tôi cũng có chung với anh ấy những suy nghĩ nhạy cảm và những mâu thuẫn tư tưởng của người Israel, và tôi nhận ra điều này rõ ràng nhất khi chúng tôi tranh luận về sự can thiệp của Mỹ tại Trung Đông thời hậu 11/9. Trong suốt thời gian này, tôi bắt đầu nhận ra rằng, ồ, bạn có thể đem một cậu bé ra khỏi Jerusalem – mặc dù sau sự kiện ngày 11/9, người ta có hơi nghi ngờ chuyện đó – nhưng bạn không thể đem Jerusalem ra khỏi cậu bé ấy được. Ngẫm nghĩ sâu xa hơn, tôi cũng nhận ra rằng kể từ khi rời khỏi Israel, hiếm có ngày nào trôi đi mà tôi lại không cảm thấy, bằng một cách nào đó, ý thức về con người Israel trong tôi, tuy có phần mơ hồ. Quanh thời điểm ấy, tôi bắt đầu ấp ủ ý tưởng viết về tính cách dân tộc của người Israel. Tuy nhiên trong một thời gian dài, tôi đã giằng co lưỡng lự. Đó là một chiếc bẫy vô cùng hại não, tôi tự nhủ như vậy. Nó đụng đến quá nhiều vấn đề về phương pháp luận, quá nhiều những câu hỏi về học thuyết và những sắc thái chính trị. Thực sự là, tôi đã nói chuyện với một học giả người Israel và ông đã cảnh báo tôi rằng một khái niệm tập trung vào tính cách dân tộc có thể mang màu sắc phân biệt chủng tộc. Tất cả những điều này đều đúng, bao gồm cả nguy cơ khiến khái niệm ấy sa đà vào sự phân biệt chủng tộc. Nhưng đó không phải là những lý do thực sự khiến tôi do dự, chỉ là tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng rồi, một vài năm sau, một người bạn từ Israel đến thăm tôi. Cô ấy không phải là một nhà tâm lý học, đúng hơn là một nhà nghiên cứu văn học cần cả kiến thức phân tâm học để lý giải những câu chuyện trong Kinh Thánh, cô ấy đã lắng nghe những ý tưởng cũng như cả những mâu thuẫn trong tư tưởng của tôi. Khi tôi nói xong, cô ấy mỉm cười vẻ thông thái và nói: “Có lẽ anh sợ phải đến gần một điều gì đó mà anh đã cố giữ khoảng cách trong suốt những năm qua.” Lời lý giải đơn giản, nếu không nói là hiển nhiên, mà chẳng phải tôi hay nhà phân tích tâm lý của tôi đã nghĩ đến trước đó, đã giáng cho tôi một cú, mà nói theo thành ngữ Hebrew, giống như sấm rền trong một ngày trời trong mây tạnh. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi sặc mùi Hollywood kiểu như một sự tiến triển đột phát trong việc chữa trị bệnh, những mâu thuẫn trong tôi được tháo gỡ và những nghi ngại của tôi biến thành một trong những quyết định hào hứng nhất trong cuộc đời mình: tôi sẽ theo đuổi dự án này không chỉ như một nỗ lực của trí não nhằm thấu hiểu tâm thức của người Israel, mà còn như một hành trình của tâm hồn để cuối cùng hợp nhất quá khứ Israel và hiện tại Hoa Kỳ của tôi. Cùng với hệ thống kiến thức chuyên môn tâm lý học của mình, tôi sẽ mang đến cho công việc này nhận thức nội-ngoại tại độc đáo của mình, cố gắng vẽ lên một bức chân dung khách quan nhưng còn thô nhám. Kể từ lúc đó, tôi lại nhúng mình một lần nữa vào bất cứ thứ gì thuộc về Israel. Tôi đã nghiên cứu hàng trăm bài luận hàn lâm trong các lĩnh vực sử học, xã hội học, nhân chủng học, tâm lý học, chính trị học, giáo dục và văn học Israel. Tôi đã đọc và nghiên cứu hàng trăm nguồn tài liệu thứ cấp bao gồm nhiều cuốn sách, nhiều bài báo, phim ảnh, âm nhạc và tranh ảnh tư liệu. Tôi về Israel thường xuyên hơn và lưu lại cũng lâu hơn. Tôi đã gặp và phỏng vấn những nhà tâm lý học, nhà xã hội học, nhà lịch sử, nghiên cứu chính trị, những nhà báo, nghệ sĩ và những doanh nhân hàng đầu của Israel. Tôi đã thuê nhiều trợ lý nghiên cứu người Israel để giúp sàng lọc qua hàng thập kỷ những nghiên cứu xác đáng theo lối thực nghiệm, cũng như phỏng vấn một lượng khá đủ những người Israel “bình bình” gồm tất cả mọi thành phần, giai tầng của xã hội. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tôi đã tập thói quen theo dõi các kênh truyền hình Israel và nghe đài phát thanh Israel trực tuyến mỗi ngày. Sử dụng kết quả điều tra của chính mình tại Israel, những nghiên cứu hàn lâm hiện tồn, thuyết phân tâm và những kinh nghiệm đời tư cũng như nghề nghiệp của bản thân, tôi đã cố gắng dựng lên một câu chuyện sâu sắc, khơi gợi và đi vào lòng người về tâm thức Israel. Những gì tiếp theo đây là một bản đồ chỉ dẫn tới hành trình ấy, và xin mời bạn đọc hãy đồng hành cùng tôi. Gia đình tôi có thể đại diện được bao nhiêu phần trong tính cách của quốc gia Israel? Tự bản chất, những gốc gác mang tính lịch sử của gia đình tôi bắt rễ ở Jerusalem rất độc đáo. Về mặt địa lý, những câu chuyện thời tiền Zion (Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái(17)) ở Palestine và tác động của chúng lên văn hóa gia đình thực sự mang tính độc nhất vô nhị. Người ta nói rằng, như các bạn sẽ thấy, có nhiều chủ đề ngầm ẩn và đã định nghĩa cách tồn tại của gia đình tôi, bao gồm cả những chủ đề được hình thành trong những ngày tiền Zion tại vùng Đất Thánh, là tấm gương phản chiếu những bối cảnh văn hóa và lịch sử sản sinh ra tính cách dân tộc của người Israel nói chung. Chắc chắn là, thế hệ con cháu của gia đình trong thời đại ngày hôm nay, hoặc ít nhất là ứng xử của họ trong buổi lễ trưởng thành của con trai tôi tại New York, dường như là tinh hoa phẩm chất Israel. Với nhiều người Israel, ứng xử này sẽ chỉ như một ví dụ mờ nhạt về “Israel xấu xí”, hoặc nghĩ theo hướng tích cực, là một Israel thẳng thắn quyết liệt. Hành vi ấy thích hợp với một vài trong số những nhận thức phổ biến mà người ngoài nghĩ về phong cách đối nhân xử thế của người Israel. Ví dụ, hãy xem cách các nhà ngoại giao và lãnh tụ chính trị Hoa Kỳ nhớ lại và miêu tả những người đồng cấp ở phía Israel. Ám chỉ đến tính cách của rất nhiều thủ tướng Israel từ cả hai phía(18)trên bản đồ chính trị, các Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, Bill Clinton và Ngoại trưởng James Baker đã đưa ra một số tính từ miêu tả sau: hung hăng, kiêu ngạo, bảo thủ, cứng đầu, cố thủ, ngoan cố, thích tranh luận, cứng nhắc, cộc cằn, bướng bỉnh, vô lý, tiêu cực, bất tín, ngang ngạnh và khiêu khích. Ở đâu cũng vậy, mỗi tính từ khó nghe trong số này cũng có thể và nên được hoàn thiện bởi hệ quả tất yếu mang tính tích cực của nó. Nhưng bất chấp, nếu chúng ta buộc phải áp dụng kỹ thuật “phân tích nhân tố”(19) mang tính thống kê cho danh sách này, thì chắc chắn chúng ta sẽ rút gọn được một số những tính từ miêu tả bao quát và chính xác hơn. Thậm chí chỉ cần nhìn qua cũng nhận ra rằng tất cả những thích tranh luận, tiêu cực, ngoan cố, cứng đầu, và cố thủ rõ ràng đều là biểu hiện cho cùng một đặc điểm tính cách hoặc thái độ cơ bản. Liên hệ với những bức tranh trắc nghiệm tâm lý vết mực (inkblot) nổi tiếng của Rorschach(20), kiểu ứng xử này có thể xem như nhìn những hình ảnh trong nền trắng thay vì đối tượng màu đen nổi bần bật. Trong bối cảnh Israel, có lẽ cách diễn đạt hoàn hảo nhất là bằng từ davka trong tiếng Hebrew, có nghĩa là một thái độ nào đó nằm giữa hai khái niệm “mặc dù” và “chính xác là vậy”. Một đứa trẻ Israel hoặc thậm chí là một người lớn, sẽ nói: “Tại sao anh lại chống tôi davka(21)?” với một người bạn có vẻ như vô ý phản đối họ. Nói một cách ngắn gọn, đó là xu hướng nói không để phản đối nhằm đạt được lợi ích nào đó. Một lần, tôi đang dự bữa tiệc buffet trong một căn hộ kép ngột ngạt trên Đại lộ Công viên ở Manhattan. Khi tôi bước đến bàn buffet ở bên phải, một người phụ nữ cầm đĩa đang đi ngược về phía tôi. Tôi nhìn thấy hàng người đằng sau cô và nhận ra đây là lối đi một chiều và mình đã đi ngược, tôi bèn đùa rằng: “Xin lỗi, cô đang đi sai đường rồi.” Rồi tôi tiếp: “Tôi đùa thôi, người Israel mà mắc lỗi thì thế nào cũng nói người khác sai.” Người phụ nữ cười phá lên và nói: “Thật buồn cười; mẹ tôi là người Israel và cả đời tôi đã được bà đối xử như vậy!” Bây giờ, khi mà tất cả hoặc hầu hết người Israel đều có khuynh hướng ứng xử như vậy, có hai vấn đề nổi lên. Thứ nhất, tại sao người Israel lại quá không giống ai? Đó có thể là một cơ chế phòng vệ dần dần, người ta đã phát triển để phản ứng với một tổng hòa cụ thể những bối cảnh không gian và lịch sử? Cũng giống như các cơ thể sinh vật, các cá nhân, các tổ chức phát triển mô thức vận hành quen thuộc trong một bối cảnh nhất định, các quốc gia cũng vậy. Những ứng xử này được xem là một hành vi “phòng vệ” vì chúng bảo vệ chúng ta khỏi những hiểm nguy và giúp chúng ta sinh tồn. Vì chúng cần thiết và hữu dụng ngay từ những khoảnh khắc đầu tiên, mang tính bản lề và/hoặc trong một khoảng thời gian dài, nên chúng trở thành một phần không thể tách rời trong tính cách của chúng ta và tiếp tục tự tung tự tác ngay cả khi chúng ta không còn cần đến chúng hoặc chúng đã có phần phản tác dụng. Một cuộc khám phá chớp nhoáng lịch sử của phong trào Phục quốc Do Thái sẽ tức khắc giải thích được tại sao người Israel cần phải phát huy kiểu cơ chế phòng vệ nói-không này. Hãy xem xét những điều người Do Thái nhập cư vào Palestine cuối thế kỷ XIX và những người Do Thái đã định cư hoặc được sinh ra ở đó trong suốt quá trình thành lập nhà nước Do Thái đã phải chấp nhận nói không. Không với cha mẹ và gia đình mà họ bỏ lại nơi đất nước quê nhà; không với những nghề nghiệp Do Thái truyền thống lâu đời và kiểu sống bằng cách cho vay tiền, bán hàng rong, và nghiên cứu kinh Torah, bị những kẻ tiên phong làm việc kiểu chân lấm tay bùn trên mảnh đất quê hương cười nhạo và tẩy chay; nói không với thực tế và ý thức tự thân về người Do Thái Diaspora mọt sách, rụt rè và thụ động, bị những người tiên phong này từ chối như một hành động thuộc về ý thức hệ, để tạo ra một Do Thái mới, lao động chân tay, quyết đoán và chủ động; nói không với ngôn ngữ Yiddish(22)và sự đa ngôn ngữ và nhiều giọng pha tạp từ các nước khác, tất cả đều được thay thế bằng tiếng Hebrew trong Kinh Thánh được hiện đại hóa và phục sinh rầm rộ; nói không với những đặc tính dân tộc và những di sản văn hóa từ những nước gốc gác, mà người ta định rằng chúng sẽ ngay lập tức được hòa tan vào một sự giao thoa văn hóa mới; nói không với tôn giáo như là nguyên tắc tổ chức của cộng đồng sẽ được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội hoặc tính hiện đại thị thành; nói không với những diễn ngôn công cộng hướng đến giai tầng đã được chau chuốt về văn hóa Âu châu, đơn giản nó không thể đọ sức được với nóng nực, hoang mạc, những tập tục Đông phương trên đất bản địa và thái độ thù địch của người Ả Rập; nói không với những đất nước và xã hội nơi họ sinh ra, đã bảo vệ hoặc thất bại trong việc bảo vệ họ, những người Do Thái, khỏi chủ nghĩa bài Do và Holocaust; nói không với quyền cai trị Palestine của người Anh khi nó bắt đầu hạn chế công cuộc trở về và độc lập của người Do Thái; nói không với việc dựa dẫm vào chính phủ và cánh tay bảo vệ của lực lượng cảnh sát nước ngoài, như họ đã làm trong một vài thiên niên kỷ; nói không với việc “bước đến lò sát sinh như những con cừu”, như người Israel đã nhận thức về những nạn nhân của Holocaust trong lịch sử; nói không với việc di tản tới một nơi an toàn hơn, như phản ứng thường thấy của người Do Thái khi phải đối mặt với gian nguy; nói không với những thập kỷ đầy áp lực về chuyện nơi ăn chốn ở của những người Palestine mà cả thế giới đã đè nặng lên vai họ; và nói không với Liên hợp quốc, vốn đã bị người Israel cực lực phủ nhận và coi là Oom Shmom, dịch nôm na là “Liên hợp Khỉ mốc”, vì nó đã phủ nhận nhà nước Israel. Như đã được nói rõ trong câu chuyện này, việc trở thành một người Israel có nghĩa là từ chối thỏa hiệp với cả thế lực bên ngoài và bên trong. Nhưng trong khi, về mặt tâm lý mà nói, đối kháng với các thế lực bên ngoài – quân Anh, Ả Rập, thế giới, vv... – là một việc khá rành rẽ, thì việc đối kháng lại những phần bên trong bản thân nó lại phức tạp hơn. Xét cho cùng, tất cả chúng ta đều không thể rũ bỏ chính danh tính của con người mình. Vậy nên cũng có lý khi cho rằng dù có lòng quyết tâm sắt đá, những người Zion không hề toàn thắng trong việc rũ bỏ con người Do Thái cũ trong chính bản thân mình. Có lẽ, với giả định này, họ đã khoác lên một vẻ ngoài tân tiến và cứng rắn kiềm chế hay trấn áp, nhưng không nhổ tận rễ tất cả tính rụt rè nhút nhát của những kẻ Diaspora. Có lẽ có một sự thực cho một khuôn sáo cũ kỹ rằng, giống như sabra – quả xương rồng mà những người Israel bản địa đã được mệnh danh – người Israel gai góc ở bên ngoài nhưng ngọt ngào ở bên trong. Nhưng những gì nằm dưới vẻ ngoài cứng rắn của người Israel mà chúng ta gặp cho đến nay – nhu mì, ngọt ngào, hoặc thẳng thắn, cũng như chúng ta sẽ thấy, một phức hợp đa rắc rối hơn của những cấu trúc tâm lý – chính xác là vấn đề được bàn tới trong cuốn sách này. Vấn đề thứ hai liên quan tới khuynh hướng đối lập trong tính cách dân tộc Israel, đó là tại sao chúng ta phải quan tâm đến nó? Ồ, đối với người Israel, đó là vấn đề thuộc về bản tính tò mò, một niềm thích thú thuộc bản chất tâm lý của riêng họ. Nhưng nó cũng là vấn đề của sự sống còn. Nếu họ không thể chăm chú quan sát chính mình và làm một cuộc đánh giá cần thiết, họ đơn giản sẽ không thể tồn tại như một quốc gia. Tuy nhiên, cả thế giới có quyền được biết đến tâm thức của người Israel. Mới hơn 100 năm trước, thời điểm mà ở Palestine những vụ bạo động của người Ả Rập chống lại cộng đồng Zion vẫn còn vô cùng thiểu số, có một người theo quốc gia chủ nghĩa tên là Najib Azuri đã xuất bản một cuốn sách mà trong đó ông dự đoán rằng người Ả Rập và người Do Thái sẽ đánh nhau giành đất Palestine cho đến khi có một kẻ phải ngã xuống, và rằng vận mệnh của cả thế giới sẽ phụ thuộc vào kết quả của cuộc chiến này. Bằng cách nào đó, ông ta đã tiên đoán được điều này trước cả khi thế giới là một ngôi làng toàn cầu với những ranh giới có thể giao hòa, truyền thông xã hội và những WMD(23). Ngày nay, thế giới trở nên dễ bị tổn thương hơn rất nhiều, và sau hàng tá những cuộc chiến tranh, những hiệp định hòa bình, những intifada(24), và nhiều cuộc chiến tranh hơn nữa, xung đột Ả Rập – Israel có thể phát triển theo bất cứ chiều hướng nào ngoại trừ tình trạng ổn định. Trong thế giới hậu 11/9, hoàn toàn quá dễ để hình dung ra tổng hòa của những yếu tố này như thế nào khi phương Tây tiếp tục, mặc dù chỉ là phần nào, phụ thuộc vào dầu mỏ Trung Đông, sự sinh sôi nảy nở của những vũ khí sinh học, hóa học và vũ khí hạt nhân, sự bùng nổ của khủng bố ném bom liều chết và sự vắng mặt của một kế hoạch phòng thủ dễ như trở bàn tay nhằm chống lại nó, Mùa xuân Ả Rập với mối nguy cơ cách mạng ngược của những người Hồi giáo và các cuộc chiến tranh giữa dòng Hồi giáo Shia và Sunni, một Iran sắp sửa có bom nguyên tử, và một Israel chắc chắn là có bom nguyên tử bất cứ lúc nào cũng có thể khai hỏa rất nhiều viễn cảnh khủng hoảng toàn cầu. Mỹ sẽ thò tay vào bất cứ khủng hoảng nào, nhưng Israel bé bỏng cũng vậy – cũng tham gia vào một cuộc chiến vũ trang dằn mặt, phản ứng mạnh mẽ đối với một cuộc tấn công, hoặc mưu toan những chính sách đổ dầu vào lòng oán giận rực lửa của những người Ả Rập đối với Mỹ và phương Tây. Những người Palestine, cùng với thế giới Ả Rập và đạo Hồi được trao cho chiếc chìa khóa quyết định sự ổn định toàn cầu, và những thành phần cơ bản bên trong họ, bao gồm cả những tổ chức như Hamas, từ chối công nhận quyền tồn tại của Israel như một nhà nước Phục quốc Do Thái là mối đe dọa to lớn. Nhưng ứng xử của Israel còn lâu mới được coi là hoàn hảo, và thất bại trong việc thấu hiểu, lường trước và sức ảnh hưởng của những cuộc chiến mà nó gây ra có thể trầm trọng thêm, nếu không nói là tạo ra, một cuộc khủng hoảng trên phạm vi lớn chưa từng có. Đây không phải là một bản tin khẩn, giải thích tại sao bất kể họ đã quả quyết thề thốt tránh xa khỏi tình trạng sa lầy chính trị như thế nào, thì tất cả các Tổng thống Mỹ và không biết bao nhiêu nhà ngoại giao phương Tây cuối cùng cũng sa chân vào tiến trình hòa bình dai dẳng mòn mỏi ở Trung Đông. Bởi vậy, khi cá tính đối lập của tâm thức Israel quyết định hoặc định hình hành động, phản ứng hoặc những chính sách của người Israel, thì vì an ninh của Israel cũng như của thế giới, thấu hiểu và học cách giải quyết vấn đề này sẽ là vô cùng cấp thiết. Nếu bạn còn nghi ngờ về việc tư duy nói “không” của người Israel có vai trò quan trọng trong những vấn đề quốc tế, hãy nhớ đến lời xác nhận của cựu Ngoại trưởng Mỹ James Baker. Khi ám chỉ thủ tướng Israel Yitzhar Shamir là Tiến sĩ nói Không, trong thâm tâm Baker đã thừa nhận rằng lời tuyên bố nổi tiếng năm 1990 của ông với Quốc hội – rằng người Israel nên gọi cho Nhà Trắng vào số 1-202-456-1414 khi họ nghiêm túc về vấn đề hòa bình – cơ bản bật ra do ông quá giận dữ với Shamir và đồng sự của ông này. Nhưng trong tâm thức Israel còn chất chứa nhiều vấn đề hơn chứ không chỉ là mỗi nói không, và phần lớn chúng vô thức ẩn dưới bề mặt gai góc. Và chúng ta hãy cụ thể hơn về mối đe dọa này. Ít nhất có hai vấn đề có thể không hề phóng đại khi nói rằng trong một vài năm nữa, tính cách dân tộc Israel, với những thành tố ý thức được hoặc còn trong vô thức, có thể thực sự xác định loại hình thế giới mà tất cả chúng ta cư ngụ trong thế kỷ XXI. Vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, không ai biết liệu những thỏa thuận của phương Tây với Iran sẽ làm dịu đi hay ngăn chặn được cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân công khai hay không. Iran đã nói rõ quan điểm từ chối những thỏa thuận này và thề rằng sẽ để ngỏ các khả năng về quân sự. Bởi vậy, trong một hai năm tới, bất kể thỏa thuận có đạt được hay không, toàn thế giới sẽ phải quan sát phản ứng của Israel. Nó sẽ đánh phủ đầu? Hoa Kỳ có khả năng ảnh hưởng đến thời điểm bùng nổ một cuộc tấn công như thế hay có thể kiểm soát nhất cử nhất động của Israel? Nếu không, Israel sẽ trả miếng ra sao nếu Iran thực sự thực hiện chương trình biến đổi urani và triển khai những vũ khí này? Thứ hai, trùng hợp với tình hình đang ngày càng nóng lên này, tiến trình hòa bình Israel – Palestine đã quay trở lại trung tâm của sự chú ý. Mùa thu năm 2013, với một John Kerry, ngoại trưởng Mỹ không chịu lùi bước, vẫn còn tại chức, Mỹ tỏ ra đã sẵn sàng đưa ra khung chương trình của riêng mình cho một hiệp ước hòa bình cuối cùng. Đây là lần đầu tiên, và qua tất cả các nguồn tin, cả hai phe tả và hữu đều cảm nhận được sức nóng, cụ thể là những người đứng đầu nhà nước Israel công khai công kích John Kerry. Thêm một lần đầu tiên khác nữa vào mớ hỗn độn của năm này đó là quyết định của Liên minh châu Âu cấm tất cả các chương trình hợp tác kinh tế với những khu định cư bên Bờ Tây và dứt khoát loại họ ra khỏi tất cả các thỏa thuận về hợp tác trong tương lai với Israel. Mặc cho những căng thẳng chung trên phương diện ngoại giao, hoặc có lẽ cũng chính bởi thế mà vào mùa xuân năm 2014, tiến trình này bị sụp đổ. Trong khi cả hai bên đều đang giẫm đạp lên những hiệp định hiện tồn, chính quyền Palestine tái bắt tay với Hamas, và Israel ì ra trong việc đàm phán thương lượng. Nếu điều này dẫn đến kết quả một chính phủ hợp nhất PLO – Hamas hoặc những bước tiến đơn phương ở phía kia, hoặc thậm chí dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của tiến trình hòa bình, thì nó có thể bùng nổ một dạng khủng hoảng bạo động nối gót sự thất bại củaBill Clinton trong nỗ lực thúc đẩy hòa bình vào năm 2000, và/ hoặc đóng sầm cánh cửa trước giải pháp hai-nhà-nước, một lần và mãi mãi. Chúng ta đã chứng kiến một phiên bản khác của viễn cảnh này, đó là cuộc chiến xương máu 50 ngày giữa Israel và Hamas mùa hè năm 2014 và tiếp theo sau đó, Palestine quyết định tham gia Tòa án Công lý quốc tế ở La Haye để kiện Israel về những tội ác chiến tranh với Palestine. Nhưng thậm chí ngay cả khi John Kerry hoặc những người kế nhiệm của ông ta có khả năng thần thánh là cứu vãn các cuộc đàm phán và đạt được thỏa thuận cuối cùng đi chăng nữa, thì nguồn cơn xung đột bạo lực ở cả hai phía trong bọc lâu ngày cũng sẽ lòi ra, như trường hợp của Hiệp định hòa bình Oslo. Hành động và những kháng cự của họ có thể đẩy khu vực này vào sâu hơn những bất ổn, đe dọa, buộc người Mỹ phải trở nên quan ngại, và đổ bộ ồ ạt lên các bản tin thời sự. Bởi vậy, trong một viễn cảnh khác, diễn biến hành động của Israel sẽ có những hậu quả định mệnh về mặt địa chính trị. Trong khi bằng nhiều cách, nhà nước Do Thái này tiếp tục mở rộng bành trướng, cũng là một thực tế là kể từ năm 1967, những cuộc chạm trán về quân sự trên diện rộng với thế giới Hồi giáo đã phát triển theo chiều hướng phức tạp hơn và thường ít có khả năng thắng trận hơn. Nếu bạn còn nghi ngờ về việc yếu tố tâm lý đóng vai trò quyết định trong chính sách của Israel, hãy xem xét những phát hiện của sử gia Tom Segev cách đây vài năm khi ông hồi tưởng lại cuộc chiến năm 1967. Nghiên cứu kỹ lưỡng tài liệu của chính phủ mới được công bố, cuốn sách của Segev xuất bản năm 2007, 1967: Israel, the War, and the Year that Transformed the Middle East (Tạm dịch: 1967: Israel, Chiến tranh và Trung Đông rung chuyển) đã chỉ ra rằng khi quyết định tiến hành chiến tranh năm 1967, chính phủ Israel đã phá vỡ một loạt những dự định chiến lược đã được bảo vệ bằng lý lẽ thuyết phục với bên đối lập. Segev kết luận rằng khi bắn phát đạn đầu tiên, chính phủ Israel đã hành động theo cảm tính và cơn bốc đồng. Và sau khi cuốn sách được phát hành, Segev nói ngắn gọn với tôi rằng nguồn cơn của cuộc chiến sáu ngày “toàn là chuyện tâm lý cả.”(25) Chẳng cần phải nói, tâm thức người Israel không phải lúc nào cũng chỉ là về chiến tranh và hòa bình. Thực sự thì trong những năm gần đây, người Israel dường như trở nên chán chường, hay chính xác hơn là kiệt sức và hằn học với những vấn đề ám mãi cho đến ngày nay. Tôi nghi ngờ rằng vẻ thờ ơ lãnh đạm mà rất nhiều người trong số họ tỏ ra chỉ là một lớp son trang điểm, một sự phòng thủ trá hình lộ liễu trước nỗi lo lắng về hành trình địa chính trị của nhà nước Do Thái. Nhưng nói gì thì nói, cuốn sách này cũng sẽ giải thích cho ảnh hưởng ở mức độ khác nhau mà người Israel đã tác động lên tình hình thế giới trên rất nhiều phương diện như nghệ thuật, kinh doanh, y dược, văn học, công nghệ cao, âm nhạc và khoa học. Trong tất cả những lĩnh vực này, hợp chủng những từ ngữ độc đáo về tính cách dân tộc của người Israel rõ ràng là đã vào cuộc. Trong cốt lõi tính cách dân tộc Israel là một nghịch lý, được nhà tâm lý học người Israel, Emanuel Berman, nắm bắt cực chuẩn khi ông miêu tả Israel là một đứa trẻ già nua(26). Một mặt, Israel là hiện thân của sự kế tục lịch sử Do Thái, là đỉnh cao của 2000 năm mưu cầu được phục hồi chủ quyền trên vùng đất tổ như trong Kinh Thánh đã viết. Tính cách người Israel rõ ràng là sản phẩm của lịch sử này. Mặt khác, phong trào Phục quốc Do Thái nổi lên chống lại chính lịch sử ấy và từ chối một tâm lý lưu vong vốn được sản sinh ra từ đó. Mang trong mình một nỗ lực và nguồn năng lượng phi thường để hoàn thành nhiệm vụ này, phong trào đã tâm niệm nhắm tới việc tạo ra một “Do Thái mới”, một đối cực trên nhiều phương diện với tổ tiên Do Thái. Theo đánh giá chung, trải nghiệm của những người Zion trong 120 năm qua, tính cả 6 thập kỷ mới đây của chính quyền nhà nước Israel, đã hoàn thành xong chính việc đó. Nó cũng tạo ra một thể loại môi trường Do Thái mới tiếp tục củng cố thực thể mới mẻ này. Bởi vậy Israel là một xã hội non trẻ, đang tuổi ăn tuổi ngủ, độc đáo ở chỗ, nó lại mang trong mình cân nặng của hàng thế kỷ những ký ức lưu cữu. Ảnh hưởng của sự trái khoáy này lên tính cách dân tộc Israel, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn sách Tâm thức Israel này, sẽ được trình bày trong từng chương của cuốn sách. Cuối cùng, có một vấn đề về người Ả Rập quốc tịch Israel, những người đứng ngoài nghịch lý này cả trên phương diện lịch sử cũng như tâm lý. Bị mắc kẹt trong mạng nhện chằng chịt những nghịch cảnh mâu thuẫn mang tính lịch sử của riêng mình, và không cần bàn cãi gì về việc họ xứng đáng được tìm hiểu tâm lý đặc trưng, họ cũng có ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi tâm thức Israel. Cuốn sách này có bàn đến đóng góp của họ, nhưng nhìn chung họ sẽ không được bao gồm trong câu chuyện. Việc không may bị gạt ra này không có nghĩa là họ ít mang tính Israel hơn những đồng bào Do Thái của mình. Mà đúng hơn, nó chỉ đơn thuần nói lên rằng tác giả đã bỏ qua họ và rằng ông ta kém tài trong việc nghiên cứu và phân tích dữ liệu. Người ta nói rằng, từ một lập trường chính trị thì gần như chẳng có gì là bất công khi buộc tội tác giả vì có thành kiến cho rằng hiển nhiên Israel trước hết là một nhà nước Do Thái. Có thể những quan điểm dân chủ không cho phép điều này, nhưng thực tế hiện nay đúng là Israel đang nằm trong tay những người Do Thái, tình trạng này đã, và sẽ luôn luôn, là cốt lõi của tinh thần Phục quốc Do Thái, và hành vi ứng xử của Israel với tư cách là một quốc gia cũng như ảnh hưởng thái quá của nó ra ngoài biên giới chủ yếu là bởi thành tố tâm lý trong con người Israel Do Thái. Cũng có thể nhận ra kiểu tâm lý này ở những người Israel Ả Rập. Như khi người ta nói rằng những người Ả Rập Ai Cập và Jordan hay phàn nàn rằng người Ả Rập Israel giống người Do Thái Israel, thô lỗ, ồn ào, không biết điều và khinh khỉnh(27). Cho đến khi những ảnh hưởng như thế này vẫn còn dai dẳng – chắc chắn những phương diện tích cực cũng sẽ bị đánh đồng trong đây – Israel sẽ phù hợp với một tầm nhìn chính trị quân bình hơn, ví dụ như về một kiểu nhà nước được nhà kinh tế chính trị Bernard Avishai đưa ra trong cuốn The Hebrew Republic (Tạm dịch: Cộng hòa Hebrew). Avishai muốn chứng kiến một Israel trường tồn, với một sự phân tách dứt khoát giáo đoàn và nhà nước, và một sự công bằng tuyệt đối về quyền lợi cho những những dân tộc và tôn giáo thiểu số, và thêm nữa là một nhà nước tuân theo truyền thống đậm chất Do Thái châu Âu. Tính đi cũng phải tính lại, một Israel như vậy trở nên dễ hấp thu và bị tổn thương hơn so với những ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai từ những người hàng xóm Ả Rập của họ, mà về lâu dài có thể làm suy yếu yếu tố nổi trội, tôi đang muốn nói đến truyền thống Do Thái phương Tây trong tâm thức người Israel. Chuyện này chắc chắn nói lên một điều rằng khi đã động đến tâm thức Israel, thế nào bạn cũng sẽ sa lầy vào việc đưa yếu tố chính trị vào bàn về tâm lý của nó. Hoặc như tiểu thuyết gia David Grossman đã nói về tác phẩm viết về Israel của ông To the end of the Land (Tạm dịch: Nơi tận cùng của đất) với tờ The New York Times: “Ở đây, chính trị giống như axit. Chẳng cần biết bạn khoác lên người bao nhiêu áo bảo hộ, nó vẫn cứ xuyên qua chúng để ăn mòn bạn.”(28) MỘT NGƯỜI ISRAEL LÀ AI? Năm tôi 19 tuổi, Lực lượng Phòng vệ Israel điều tôi đi thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Đó là năm 1976, tôi chỉ mới kết thúc khóa huấn luyện cơ bản và một chuyến đi ngắn đến dải Gaza. Cùng với một người lính khác, một người mới nhập cư từ Iran, tôi nhận nhiệm vụ quản lý một “thư viện” tình thương đặt tại một tòa nhà cũ kỹ phong cách Ả Rập ở khu Yafo của thành Tel Aviv. Thư viện này là công trình tri thức của một quân nhân 70 tuổi đã nghỉ hưu, như lời ông kể, ông “quyết định tiếp tục phục vụ” chừng nào có thể. Với vai trò là một tình nguyện viên, ông giao sách báo tạp chí miễn phí mỗi tháng một lần cho tất cả các đơn vị IDF có hứng thú. Ông già này – sếp của chúng tôi – nói với mọi người rằng ông đang mua các ấn phẩm, đã thực sự dàn xếp được với một bộ phận phân phối nhà nước để đến lấy những ấn phẩm dư thừa viết bằng tiếng nước ngoài bị thải ra mà không tốn một đồng cắc nào. Vậy nên, hàng tháng chúng tôi đóng gói và gửi đi hàng tá những gói sách báo gồm một hỗn hợp lạ lùng, từ những tác phẩm cổ điển châu Âu khó nhằn đến những tờ tạp chí Mỹ phù phiếm: Ada của Nabokov và Finnegans Wake của James Joyce, ăn chung ở lộn với Woman’s Day, Family Circle và Good Housekeeping. Nhưng chúng chẳng mấy khi còn giữ được bìa – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – những ấn phẩm nặng ký trong những gói sách cực kỳ được ưa chuộng của chúng tôi là: Playboy, Penthouse, Hustler và một vài ấn phẩm trần trụi bằng tiếng Đức, dành cho những sĩ quan cấp cao và những vị khách được ưu ái. Khi những sĩ quan cấp úy tạt qua thăm, ông già, cũng là một cựu chiến binh trong cuộc chiến vệ quốc chống Pháp trong Thế chiến II, sẽ mở một chai pinot noir(29)trước khi đưa cho họ những gói sách đậm chất riêng tư. Cũng có những tạp chí Playgirl, nhưng sếp của chúng tôi thấy chúng quá kinh tởm nên không tuồn ra, bởi vậy chúng chỉ nằm đó, thu hút đám bụi trong một hậu cung kín đáo. Chúng tôi thường lấy đó làm trò cười vì mỗi tháng một lần, khi đến lấy tạp chí từ kho của người cung cấp, chúng tôi dừng lại và tán gẫu với một trong những nhân viên ở đây, một gã Ả Rập trẻ măng chỉ có việc ngồi lật giở từng trang của các tờ tạp chí Playgirl rồi bôi đen tất cả những phần lộ liễu của đàn ông bằng một chiếc bút dạ đen. Nhưng một ngày nọ, chúng tôi đến khu nhà kho thì thấy ông bạn của chúng tôi đã mất việc, vì người ta không cần anh ta nữa. Bộ phận phát hành này đã thua kiện khi bị một cơ quan truyền thông của tương đương NOW với khởi kiện, cơ quan này lên tiếng rằng phụ nữ Israel đã trả tiền nguyên giá bìa cho tờ tạp chí này thì họ được quyền có nguyên tờ tạp chí đó. Câu chuyện khó tin nhưng có thực này đã chộp được một khoảnh khắc thay đổi vĩ đại trong đời sống xã hội Israel. Sự suy tàn của chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa anh hùng trong quân đội ở những thế hệ trẻ hơn, ảnh hưởng ngày càng tăng của những giá trị và cách sống phương Tây, và cuộc cách mạng nữ quyền phiên bản Israel. Các nhà xã hội học Israel đã bàn luận đến tất cả những vấn đề có vai trò như là lực lượng thay đổi cơ bản xã hội nước này trong thập niên 1970. Và những nhân vật chính trong câu chuyện này – một quý ông châu Âu sống duy tâm nhưng hư hỏng; một sabra Ashkenazi(30)trẻ trung, có ăn học; một người nhập cư đang vật lộn để thích nghi với cuộc sống mới; một gã Ả Rập tự ẩn thân; cùng một dàn diễn viên phụ đóng vai lính tráng và công chức sống nhờ vào testosterone, một vài nhà tu hành, nhiều người đến từ Bắc Phi hoặc vô số người đến từ các dân tộc khác – đã kể câu chuyện về sự phân mảnh độc đáo đó đã tính cách hóa xã hội Israel lúc đó. Nếu có sự khác biệt về khía cạnh văn hóa, tôn giáo, dân tộc, tầng lớp và chính trị, thì chẳng ai trong những người này có mối tương tác với nhau cả. Nhưng có một điều thực sự lạ lùng về câu chuyện này là nó chẳng hề lạ lùng gì cả. Thực ra thì những chủ đề về sự thay đổi và chia rẽ đã luôn song hành với nhau, không ngừng xuyên suốt lịch sử của phong trào Phục quốc Do Thái. Dù có nhắm mắt chọn đại lấy bất kỳ một thập kỷ nào thì bạn đều thấy cả hai hiện diện ở đó. Ví dụ như gần một triệu người nhập cư từ Liên Xô cũ vào thập niên 1990 có dính dáng đến cả hai vấn đề này. Sự di dân này tương đương với việc trong nhiều năm, Hoa Kỳ đã tiếp nhận khoảng 35 triệu người nhập cư không nói tiếng Anh với những đặc tính độc đáo về lối sống, văn hóa và dân tộc. Thực sự là trong một vài năm ngắn ngủi, những người Nga nhập cư đã thay đổi rõ rệt khuôn mặt của Israel và vẽ một nét mới lên sự chia rẽ đó. Nhà báo người Mỹ Richard Ben Cramer đã miêu tả ít nhất sáu nhóm nhỏ không lẫn vào đâu được trong bản đồ dân số Israel: sabra Ashkenazi, sinh ở Israel trong những gia đình người Âu; Sephardim có gốc gác từ các nước Ả Rập; người Nga; người Ashkenazi chính thống cực đoan, người Sephardim chính thống cực đoan, và những cư dân bên Bờ Tây. Những người này phân biệt nhau bởi những ranh giới về kinh tế xã hội, văn hóa và tất nhiên có cả chính trị nữa. Như Cramer đã chỉ ra, một vài “bộ tộc” nhìn chung không nói chuyện với nhau, và vài “bộ tộc” còn có hẳn ngôn ngữ và phương tiện truyền thông của riêng họ.(31) Nhà xã hội học Oz Almog đã nói vậy thì “Người Israel là ai? là một câu hỏi rất Israel.” Nhưng, ngược lại, đối với nhà nghiên cứu chính trị hoặc xã hội học thì câu hỏi này đã nhằm đến chuyện Israel đã chuyển mình như thế nào, hoặc về cá tính của rất nhiều nhóm nhỏ, câu hỏi thuộc về lĩnh vực tâm lý học này là về tác động của sự thay đổi và phân tách lên sự phát triển tính cách của cá nhân – và của cả dân tộc. CHIẾN TRANH, HÒA BÌNH VÀ NHỮNG CHU KỲ BIẾN ĐỘNG KHÁC Có lẽ ẩn dụ chuẩn nhất cho sự biến động và cho việc người Israel bị ảnh hưởng như thế nào đã được xuất hiện trong phong trào intifada lần thứ hai của người Palestine (2000 - 2005), trong suốt những giai đoạn nhất định khi các cuộc ném bom liều chết hầu như ngày nào cũng diễn ra trong lòng các khu trung tâm tập trung đông dân cư của Israel. Có thể hình dung ra một vụ ném bom điển hình như sau, một kẻ ném bom liều chết người Palestine tự nổ chính mình tại một quán cà phê, khu mua sắm hay một khu chợ đông đúc dành cho người Israel; máu và da thịt tung tóe trên bàn, bám vào những mẩu quần áo rách, hay treo trên các cành cây; cảnh sát cơ động và đội ngũ cứu thương sẽ đến để di tản những người chết và bị thương; những chiếc xe của các hãng truyền thông cùng camera truyền hình và các nhà báo sẽ xuất hiện; đội SWAT(32) đặc biệt nhánh tôn giáo sẽ thu thập những phần da thịt và lục phủ ngũ tạng còn lại; những quân đoàn dọn dẹp vệ sinh sẽ rửa sàn nhà, tường và đồ đạc; và chỉ trong một thời gian ngắn, đôi khi chỉ trong một hoặc hai ngày, mọi hoạt động kinh doanh sẽ trở lại bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Mặc dù lối sống đường phố từ náo nhiệt đến khủng bố, phá hủy đến thương vong, rồi lại đi lặp lại, nhưng chu kỳ biến động rõ rệt đã được khuếch tán ra từ nguyên bản này là câu chuyện chiến tranh và hòa bình trong lịch sử Israel và Phong trào Phục quốc Do Thái. Tel Aviv của ngày hôm nay – rung chuyển, rối ren, trụy lạc, văn hóa, và đảm bảo là dễ dãi với chính mình, thực sự là một trong những thành phố du lịch biển hàng đầu thế giới – lại khác biệt một trời một vực so với những ngày khủng khiếp của lần intifada mới đây nhất, với các khách sạn hoang tàn, thang máy đóng im ỉm và những bức tường đầy gỉ sắt. Chẳng thấy đâu nữa trong sự sầm uất của ngày hôm nay những nỗi khiếp sợ và tuyệt vọng ở bất cứ đâu vào cái buổi ngày xưa. Tất nhiên, đây chỉ là một mắt xích của chu kỳ chiến tranh và hòa bình đã đóng đinh lên Đất Thánh kể từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Bắt đầu từ những năm 1920, sau mấy năm yên ả hầu như có thể dự đoán được là không quá một thập kỷ, một cuộc xung đột bạo lực nghiêm trọng bùng lên. Một số cuộc chiến đã thay đổi đến không ngờ kích thước và hình dáng đất nước này. Một số khác đã khiến những người Israel bình thường tiếp xúc với những nền văn hóa và những bộ phận dân cư mới mẻ. Một vài cuộc chiến lại mở ra một thời đại tự tin và phấn chấn; số khác tuyên bố cho một thời đại tự ti và bồn chồn làm thui chột giá trị đích thực. Một vài cuộc chiến định hình những chiến binh Israel trẻ trung như những anh hùng thực thụ, vì nước quên thân; một số khác lại sắm cho họ vai những kẻ gây bạo lực với phụ nữ và trẻ em. Một số cuộc chiến dẫn đến sự thống nhất; số khác lại phân li. Một số chỉ được nhìn thấy trên truyền hình; số khác bùng nổ tận sâu trong mọi ngõ ngách của cuộc sống dân sự. Một số cuộc chiến khơi nòng cho thay đổi về chính trị; số khác cố thủ những quyền lực bên trên. Cũng như vậy, mỗi thời kỳ ổn định hay hòa bình lại mang đến thay đổi của riêng nó. Một vài thời kỳ phải chứng kiến đất đai bị mất, số khác mở rộng khu định cư. Một vài thời kỳ khơi mào cho sự phục hồi đức tin, số khác lại cho phép chủ nghĩa tự do thế tục nổi lên. Một vài thời kỳ dẫn đến sự mở rộng về mặt kinh tế không thể ngờ, số khác lại gia tăng sự cô lập quốc tế, kinh tế trì trệ và những bất ổn trong xã hội. Một số giai đoạn như thế này đi kèm với những cuộc đàm phán, số khác lại là với mưu toan về một chủ nghĩa đơn phương. Một vài thời kỳ nhen lại những tia hi vọng và đề cao khả năng về một sự tái hòa giải thực sự; số khác lại chỉ chứng minh nó là một sự mơ mộng hão huyền, chỉ càng làm tăng lên mối hoài nghi về những người Ả Rập hay cả thế giới nói chung. Một chu kỳ thay đổi tương tự đã làm nên đặc tính của công cuộc Phục quốc Do Thái từ buổi ban đầu trên phương diện dân số. Những người thời tiền Zion nhập cư vào Palestine hầu hết là môn đệ của các rabbi châu Âu và là những người Do Thái khổ hạnh chủ yếu lấy lòng nhiệt tâm tôn giáo và những ý tưởng về vị cứu tinh làm động lực. Những làn sóng nhập cư thời của phong trào Zion bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 bao gồm hầu như là những người Do Thái thế tục, nhiều người đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng chủ nghĩa xã hội, tìm công việc bán mặt cho đất bán lưng cho trời và tổ chức những nông xã. Trong khi mỗi một làn sóng này đều có một đặc điểm độc đáo riêng – lần thì toàn những chuyên gia người Đức, những lần khác thì toàn những người Nga khỏe mạnh đủ tiêu chuẩn nghĩa vụ quân sự, những người này đã thành lập nên rất nhiều đơn vị bán quân sự - nhưng cuối cùng hầu như vẫn chỉ có người Do Thái châu Âu. Nhưng trong một vài năm đầu tiên sau khi nhà nước khai sinh, dân số Israel tăng quá gấp đôi, đa số những người mới nhập cư là Do Thái Sephardic từ những nước Ả Rập và Bắc Phi. Hầu hết bọn họ đều nghèo kém, nhiều người còn thất học và một bộ phận lớn bị áp bức bất công và buộc phải tha hương. Khi họ đã đến được Israel, hầu hết đều phải sống trong những ấp toàn lều trại nhiều năm trời, dần dần mới mon men hòa nhập với xã hội Israel. Những làn sóng nhập cư đến sau là từ Bắc Mỹ, Ethiopia, Nam Phi và Pháp. Quy mô của chúng nhỏ hơn rất nhiều nhưng lại có ý nghĩa trong việc biến đổi diện mạo dân số của nhiều vùng đất Israel. Gần đây nhất, như đã nói từ trước, là làn sóng di cư ồ ạt của người Nga vào những năm 1990. Những chu kỳ tiếp nhận nhiều nhóm người nhập cư đa dạng như thế đã liên tục đặt cả những người nhập cư cũ và mới trước những nền văn hóa, ngôn ngữ, lối sống và những giá trị ngoại tại. Biên giới dịch chuyển và tỉ lệ sinh dao động cũng dẫn đến nhiều cuộc di dân với số lượng lớn không kém trong nhiều năm. Tỷ lệ người Israel Ả Rậpvà người Do Thái chính thống tăng đáng kể. Ví dụ như thành phố lớn nhất Israel, Jerusalem, từng có một bộ phận áp đảo là người Do Thái thế tục. Hiện nay, chỉ khoảng 40% dân số tự xem mình là Do Thái thế tục, 35% là người Ả Rập, và hơn 20% là người theo đạo, hầu hết là Do Thái chính thống cực đoan. Tại Jerusalem và những nơi khác, không chỉ có diện mạo dân số là thay đổi quá rõ rệt như vậy. Như Amnon Niv, một kỹ sư đô thị tại thành phố Jerusalem vào những năm 1970 chứng nhận rằng, từ đầu thập niên 1970, trong một thế hệ, Jerusalem đã trải qua một sự chuyển biến về mặt kiến trúc và cơ sở hạ tầng mà với hầu hết những thành phố khác tốn nhiều thập kỷ hoặc thậm chí hàng thế kỷ để hoàn thành. Và tốc độ xây dựng và phát triển ở nhiều nơi trên đất nước này vẫn tiếp tục không hề giảm sút. Những thay đổi quan trọng khác diễn ra trong một vài thập kỷ ngắn ngủi bao gồm sự phục hồi tiếng Hebrew trong Kinh Thánh và sự chuyển biến từ một xã hội gần như là chủ nghĩa xã hội, tập thể thành một xã hội nền kinh tế thị trường tự do, kiểu Mỹ, có tính chất chủ nghĩa cá nhân. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, một đất nước nhỏ bé, đói nghèo và luôn bị đe dọa sự tồn tại đã nhanh chóng trở thành một thế lực về kinh tế và quân sự trong khu vực với khả năng tiêu diệt kẻ thù khi cần. Vậy thì chuyện gì xảy ra khi bạn lớn lên với, sống cùng, hoặc nhập cư vào một thế giới không ngừng thay đổi chóng mặt? Theo hướng tích cực, bạn cực giỏi thích nghi, sáng tạo và thay đổi. Bạn biết cách học những kỹ năng mới, tuân theo những quy tắc mới, sống với những người rất khác biệt với bạn, biết cách bắt đầu một lối sống mới, nếu không muốn nói là một cuộc đời mới. Bạn hiểu rằng tục lệ, thiết chế và phong cảnh địa hình chỉ là chuyện trần ai. Bạn trở nên ý thức về tri nhận và những phản ứng xúc cảm của mình với những điều kiện khắc nghiệt như là mối đe dọa và tình trạng dễ tổn thương, cũng như vinh quang và quyền lực. Ở mặt này, việc trở thành một người Israel giống như trải qua một khóa đào tạo cơ bản kéo dài vô tận trong thời đại thông tin toàn cầu, vốn đang nhắm đến việc làm cho bạn thích ứng với tình trạng thường xuyên thay đổi. Đây là một trong những lý do mà mọi bạn trẻ Israel mà tôi gặp ở New York đều là những người khởi nghiệp đầy nhiệt huyết, thành công hoặc thất bại. Đó là một trong những lý do khiến một đất nước có số dân xếp hàng 101 thế giới lại có thể sản sinh ra được 125 công ty, hầu hết là về công nghệ cao, có giao dịch trên thị trường chứng quán New York. Nó còn vượt xa hơn bất kỳ một nước nào trên thế giới ngoại trừ Hoa Kỳ và Canada. Nhưng tất cả những thay đổi chóng mặt như thế này cũng có mặt không hay. Người Israel không coi trọng những quy tắc hướng dẫn chung. Cơ bản là họ coi thường các kế hoạch, phép tắc và những quy trình, có nghĩa là họ không coi trật tự đang có là mặc định. Số thủ tướng ngồi ghế hết một nhiệm kỳ trong lịch sử Israel có thể đếm dư trên đầu ngón tay. Mỗi làn sóng nhập cư mới lại đem đến cho đất nước này một nhóm đông đảo những cá nhân phải lưu tán, bị ám ảnh vì bom rơi đạn nổ, trong một thời gian dài cố gắng giải mã những quy tắc thất thường trên miền đất mới thường tiếp đãi họ với thái độ nghi ngại, ngờ vực. Những người địa phương, vốn trước đây cũng là những người nhập cư, thường không biết nên ngưỡng mộ hay cảm thương cho những người mới đến, và làm thế nào để kết nối với những truyền thống và văn hóa của họ. Tương tự, mỗi làn sóng xây dựng mới ở Bờ Tây bắt gặp trong lòng Israel vốn hợp với nỗi nghi ngờ và mâu thuẫn trong tư tưởng: đây là những kẻ kế tục sự nghiệp của những vị anh hùng Phục quốc Do Thái của chúng ta trong năm trước hay là một phường điên rồ, cuồng tín? Và, tất nhiên, những vấn đề về danh tính cơ bản mang tính nội vi chứ chẳng phải ngoại vi. Chúng ta có phải là một David hay một Goliath không? Một dân tộc nhỏ bé, yếu ớt chiến đấu để vượt lên những thế lực thù địch vây quanh hay là một quốc gia với những chiến binh hung hãn đang nô dịch những người hàng xóm bất lực? Đây có phải là quê hương bất diệt và duy nhất của chúng ta, một nơi mà những người Do Thái có thể cảm thấy an toàn, không phải chịu sự đàn áp, hay chỉ đơn thuần là một chương ngắn ngủi và bấp bênh cho chủ quyền của người Do Thái? Nói cách khác, mặt trái của khả năng thích nghi là sự bất ổn trong xúc cảm và tri nhận. GIÁO SƯ VÀ TÀI XẾ TAXI Một giáo sư của trường Đại học Hebrew đã hồi tưởng lại rằng trong buổi lễ tưởng niệm một người họ hàng gần đây, một thành viên trong gia đình đã nói lên tình yêu của người đã khuất dành cho Kinh Thánh như thế nào. Anh ta dẫn ra câu chuyện về Ishmael, theo kinh Qur’an, được coi là ông tổ của những người Hồi giáo, và Abraham đã bỏ ông đi như thế nào. Nó là một ám chỉ rõ ràng và theo khuynh hướng cánh tả tự do về việc người Israel ngược đãi người Palestine hiện nay như thế nào. Ngay sau đó, một thành viên gia đình khác đứng dậy phát biểu phản đối về tình yêu của người đã khuất đối với những địa điểm trong Kinh Thánh trên mảnh đất Israel. Lần nào chui vào một chiếc taxi hoặc bắt một chiếc xe buýt ở bất cứ đâu tại Israel, tôi cũng hay nghe thấy y chang câu chuyện kiểu này, có lẽ là dưới dạng ít tế nhị hơn. Radio sẽ phát ra bản tin nóng hổi nhất hoặc có thể là âm nhạc, nhưng dù thế nào, thì bác tài hay một người bạn đồng hành trên chuyến xe buýt cũng sẽ xổ ra một thứ gì đó đại loại là “những bọn yefey nefésh khốn kiếp này” (hiểu là “những người theo chủ nghĩa tự do có trái tim nhỏ máu(33)”) hoặc “những kẻ mới đến ma lanh”. Thêm vào sự phân biệt “bộ tộc” đã được nói đến ở trên, xã hội Israel bị chia cắt theo nhiều chiều hướng khác chỉ trùng lặp trong một chừng mực nào đó với những nhóm nhỏ. Quán triệt ý thức thường nhật của người Israel chính là chính trị, là họ theo phe hữu hay phe tả. Trong khi ở những nước dân chủ, kiểu phân chia phe phái này là chuyện bình thường, thì ở Israel, chính trị là một chuyện cực kỳ mang tính cá nhân. Tất nhiên rồi. Trong khi hầu hết các quốc gia, kết quả của cuộc chạy đua chính trị xác định nhà nước mà bạn sống thuộc loại nào thì ở Israel, nó xác định là bạn có được sống hay không. Cuối cùng, Israel là một nơi nhỏ bé với một văn hóa giao tiếp có những ranh giới có thể dễ dàng hòa trộn – việc của bạn cũng là việc của mọi người – bởi vậy đơn giản là bạn không thể trốn tránh khỏi chính trị. Trong một mẩu chuyện trò tán gẫu, một người bạn Israel vừa chỉ trích một người quen chung của chúng tôi mà lần cuối cùng anh ta nhìn thấy nhiều năm trước là “đúng là loại người khó ưa nhất mà tôi từng biết”. Nhưng sau đó anh ta nói thêm: “Cũng may là quan điểm chính trị của anh ta cũng được.” Một khía cạnh đáng chú ý khác trong việc chia phe phái chính trị của người Israel, một khía cạnh mà có lẽ chẳng quốc gia nào xứng làm đối thủ, đó là nó đã có nhiều nghìn năm tuổi. Nó được găm vào cơ cấu xã hội của lịch sử Do Thái, Zion và Israel, đứa bé Israel nào khi sinh ra cũng thở trong bầu không khí ấy. Như một triết gia xuất chúng đã khuất của Israel, Hugo Bergman, đã nhận thấy, Do Thái giáo luôn có hai dòng cạnh tranh nhau: một bên thì tha thứ và tràn đầy tình yêu thương, còn một bên thì chia bè kết phái, hiếu chiến; một bên tìm cách làm hài lòng những người ngoại đạo, còn một bên lại chống đối họ. Thời xưa đã có xung đột xảy ra giữa những người muốn chung sống với những thế lực hàng xóm hống hách và những kẻ chủ trương độc lập hoàn toàn. Ví dụ trong Kinh Thánh, những nhà tiên tri Isaiah và Jeremiah kịch liệt phản đối bất cứ chính sách với bên ngoài nào thất bại trong việc hòa hợp với những siêu cường trong khu vực, họ tiên tri rằng điều đó sẽ khiến cho dân tộc bị hủy diệt. Cuốn sách của các vị Vua, mặt khác, lại lên án vua Manasseh, cai trị vương quốc Judea gần một nửa thế kỷ, vì chính sách xoa dịu đầy tội lỗi của ông ta đối với đế quốc Assyria. Sự chia rẽ này tiếp tục cho đến tận sau khi núi Đền bị phá hủy và tiếp diễn mãi sau này trong lịch sử Do TháiDiaspora. Sau cuộc nổi dậy của Bar Kokhba chống La Mã vào khoảng năm 132 - 135 sau Công Nguyên, kết quả gây ra cuộc triệt tiêu và trục xuất cuối cùng những người Do Thái ở Judea, nhiều rabbi thế hệ tiếp nối đã buộc tội Bar Kokhba vì không xứng là một vị cứu tinh. Những rabbi khác, cũng như nhiều môn đệ của mình, xem Bar Kokhba là vị anh hùng mang tầm vóc thánh thần. Cuộc tranh luận tiếp theo được hâm nóng bằng ý tưởng về cuộc trở lại của vị cứu tinh đối với chủ quyền dân tộc tại Jerusalem đã đưa ra một lời nguyền trong kinh Talmud Sanhedrin nổi tiếng sau này “Nguyền rủa mồ mả kẻ nào tính ngày Chúa cứu thế xuất hiện.”(34) Cuộc cạnh tranh phe phái vẫn tiếp tục trong suốt thời Trung cổ và tiếp sau đó, thường tập trung vào vấn đề cách thức đáp trả lại sự nhục mạ và ngược đãi đối với người Do Thái ở Diaspora. Trong khi đại bộ phận ủng hộ phó mặc cho Chúa định đoạt và không khiêu khích sự phẫn nộ của Sa hoàng, một vài người khác lại lúc nào cũng kêu gọi hành động đổ máu. Một số rabbi rao giảng về niềm vinh quang của những cuộc nổi dậy có vũ trang, đến mức phê chuẩn cho cả việc sử dụng vũ khí trong ngày lễ thánh Sabbath. Trong gần như suốt hai thiên niên kỷ mới đây, người Do Thái Diaspora đã chung sống với sự chia rẽ về mặt chính trị này từ một vị thế của kẻ yếu thế, không có quyền lực. Điều này đã khiến cuộc cạnh tranh mang tính tranh luận võ mồm hơn. Nhưng như chúng ta hiện đã biết, mặc dù bị kẻ thù áp đảo về số lượng, nhưng người Yishuv, cộng đồng Do Thái ở Palestine trước năm 1948, và chắc chắn là nhà nước Do Thái đã nổi lên từ đó, lại cực kỳ quyền lực. Trên thực tế, Israel ngày nay giống nhiều hơn với những đế chế Assyria, Babylon hay Ai cập cổ đại. Nắm trong tay quyền bá chủ khu vực, với sức mạnh quân sự, kinh tế và ngoại giao của mình, Israel đã thống trị cuộc sống của hàng triệu cư dân hàng xóm láng giềng trong bốn thập kỷ gần đây. Nói cách khác, một khi giấc mộng phục quốc đã hiện hữu hóa, cuộc tranh luận về việc làm thế nào để thi hành quyền lực ít mang tính lời nói hơn và gây hậu quả nhãn tiền hơn. Bởi thế, nó càng trở nên gay gắt hơn. Lịch sử Zion được đánh dấu chấm hết bởi những điểm khai hỏa cực dữ dội vừa làm mốc son chói lọi, vừa là khúc bi tráng đau thương, hố sâu chính trị ngăn cách tả - hữu đã găm vào ý thức dân tộc. Việc hai phe va chạm có thể bao gồm cả những bản cáo trạng chưa được xử lý, những lời kết tội hình sự, những vụ điều tra công khai, chính biến, những bài luận hàn lâm, và những bài bút chiến không bao giờ dứt. Mỗi lần như vậy lại nảy ra vô vàn những mưu mô đục nước béo cò thường diễn ra hàng thập kỷ; một vài lần ngay từ đầu vẫn còn được nói đến trước công luận; những lần khác thì phải đến những thế hệ tiếp sau mới được khui ra. Vào đầu những năm 1930, các lãnh đạo nghiêng về cánh tả của cộng đồng Yishuv đã đàm phán những thỏa thuận “di dời” phức tạp với Đệ tam Quốc xã, cho phép người Do Thái Đức di cư đến Palestine trở lại Đức được quyền tăng hàng xuất khẩu đến khu vực này. Bên đối lập những người theo chủ nghĩa xét lại cánh hữu từ chối bất kỳ mối liện hệ nào với đảng viên Đảng quốc xã, và báo chí của họ đã chỉ trích Jewish Agency(35)là “đồng bọn với Hitler”. Tổ chức cánh tả đã trả miếng, khi Chaim Weizmann, sau này là tổng thống đầu tiên của Israel, đã ví những người xét lại với “chủ nghĩa Hitler phiên bản tệ hại nhất”, và David Ben Gurion, sau này là thủ tướng đầu tiên của Israel, đã ám chỉ người đứng đầu phe xét lại Ze’ev (tên khai sinh là Vladimir) Jabotinsky như là “Vladimir Hitler”. Trong số những người bị những kẻ xét lại chỉ trích có Haim Arlosoroff, trưởng ban chính trị của Jewish Agency, người ta báo cáo rằng ông ta đã đến Berlin để theo đuổi một thỏa thuận di dân với những người Đức. Vào buổi tối ngày 16 tháng 6, năm 1993, Arlosoroff đi dạo cùng vợ trên bãi biển ở Tel Aviv, thì có hai gã đàn ông chặn trước mặt ông ta, chiếu đèn chớp vào mặt ông, chĩa súng, bóp cò bắn ông ta. Đảng Lao động buộc những kẻ xét lại vào tội giết người, và toàn bộ vụ việc trở thành một điểm nóng trong đời sống xã hội Israel suốt nhiều năm. 49 năm sau vụ sát hại này, chính phủ cực hữu của Begin đã tổ chức một ban ủy ban điều tra chính thức để xác định tính xác thực của lời cáo buộc này. Ủy ban chẳng tìm ra được bằng chứng nào, và vụ giết người vẫn còn là một bí mật cho đến tận ngày hôm nay. Vào thập kỷ 1940, Yishuv tranh cãi về việc làm thế nào để phản đối việc người Anh hạn chế người Do Thái nhập cư vào Palestine và làm thế nào để thúc tiến sự nghiệp độc lập tự do thoát khỏi sự cai trị của người Anh. Phe hữu ủng hộ con đường chiến đấu vũ trang, phe tả theo con đường đàm phán. Có lúc, cánh tả mà đại diện của nó là lực lượng phòng vệ Haganah (tiếng Hebrew có nghĩa là “phòng vệ”) đã phối hợp với những tổ chức bí mật cánh hữu hoặc, như một vài người từng gọi, là khủng bố, Etzel và Lechi (lần lượt là Tổ chức Quân sự Quốc gia và Chiến binh tự do Do Thái). Nhưng sau khi Lechi ám sát Huân tước Moyne, Bộ trưởng phụ trách Trung Đông của Anh, vào năm 1944, Haganah thực hiện một cuộc tấn công toàn diện vào cả hai nhóm Lechi và Etzel. Trong suốt giai đoạn kế tiếp này, Sezon – bắt nguồn từ chữ “season” trong tiếng Anh, ám chỉ mùa săn ở nước Anh, Haganah đã chuyển bạn thành thù, những nhóm Do Thái anh em Etzel và Lechi và người Anh thế chỗ cho nhau. Thời kỳ đó đã để lại những vết sẹo ân oán cá nhân không thể nào lành được trong tâm thức cả một thế hệ người Israel. Cho đến tận ngày nay, những chính trị gia cánh hữu vẫn còn dẫn ra nỗi kinh hãi Sezon mỗi khi họ cảm thấy được những kẻ cánh tả rủ rê cùng hội cùng thuyền. Trong thập kỷ này, vào những buổi ban đầu của nhà nước Do Thái và Cuộc chiến Độc lập, còn có một cuộc chạm trán quan trọng khác nữa diễn ra, khi đó một con tàu của Etzel, chở hàng trăm thanh niên Do Thái đến tuổi nhập ngũ và một lượng lớn vũ khí của Pháp cập cảng Tel Aviv. Trong khi Etzel và Ben-Gurion thỏa thuận với nhau về việc tổ chức bí mật này có giữ một phần vũ khí hay không, thì một trận đấu súng đã nổ ra giữa hai lực lượng. Kết quả là, chiến hạm Altalena bốc cháy ngùn ngụt, làm chết rất nhiều tân binh của Etzel và phá hủy một phần vũ khí trên tàu. Diễn biến sau đó, Ben-Gurion thủ tiêu sạch sẽ Etzel và áp đặt sự thống nhất lên tất cả các lực lượng vũ trang Do Thái. Nhưng phần chưa chìm của con tàu bị bốc cháy Altalena vẫn cứ chình ình trên mặt biển Địa Trung Hải chỉ cách bờ biển ngoài Tel Aviv khoảng 30 yard(36)trong nhiều tháng trời, như một đài tưởng niệm quái gở, xấu xí, bất đắc dĩ. Thậm chí sau khi đã biến mất trên biển, Altalena vẫn là một vết thương há miệng và là biểu tượng đầy ám ảnh trong tâm thức của nhiều người Israel. Đối với tất cả mọi người, đó là một câu chuyện cảnh báo về nguy cơ của cuộc nội chiến với cánh tả, nó biểu hiện cho nỗ lực đấu tranh nhằm lật đổ một chính phủ được bầu cử, trong khi đối với cánh hữu, nó chỉ như là thêm một sự kiện nữa mà người Do Thái nhắm vào chính họ. Vào thập niên 1950, Israel ngập chìm trong một loạt các cuộc tranh cãi bão táp về vấn đề có nên chấp nhập để nước Đức đền bù bằng tiền bạc cho những tổn thương mất mát từ Đại thảm sát Holocaust hay không. Chính phủ của đảng Lao động đã muốn thế, nhưng phe đối lập từ cánh hữu phản đối kịch liệt. Trong khi Knesset, hay nghị viện, đang bàn bạc về dự luật này, thì những kẻ ủng hộ phe phản đối đã tấn công tòa nhà nghị viện. Họ đập vỡ cửa sổ, ném đá vào phòng họp, làm bị thương ít nhất một thành viên của nghị viện. Menachem Begin, thủ lĩnh phe đối lập, bị cho là đã kêu gọi những người biểu tình “chống lại Knesset”, vì thế mà Thủ tướng Ben-Gurion đã triệu tập quân đội. Cuối cùng, Ben-Gurion yêu cầu quân đội không được nổ súng thậm chí ngay cả khi những người biểu tình đã tiến được vào tòa nhà. Cuối ngày hôm đó, ông lên án cuộc biểu tình này là một mưu toan tiêu diệt nền dân chủ. Vào thập niên 1960, người Israel liên kết với nhau bởi cả nỗi sợ hãi chiến tranh lẫn niềm hân hoan chiến thắng. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh năm 1967 đã gieo mầm cho sự chia rẽ cực lớn trong tương lai. Vùng-đất-vì-hòa-bình cùng với cuộc chiến vì Israel Vĩ đại hơn, sau này áp đảo nền chính trị Israel trong nhiều thập kỷ, bùng nổ chỉ sau cuộc chiến 1967 vài tháng. Trong thập niên 70, chiến tranh một lần nữa nhanh chóng đoàn kết nhân dân lại. Nhưng cùng với những căng thẳng về kinh tế xã hội và dân tộc đang nổi lên, mà cánh hữu đã thành công khi quy kết nguyên nhân của chúng cho tình trạng tham nhũng thối nát trong giới lãnh đạo đảng Lao động, chiến tranh năm 1973 đã dẫn đễn một cuộc mahapach, hay một cuộc cách mạng, chính trị, đã đôn vị lãnh tụ của cánh hữu vào ngay chiếc ghế thủ tướng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Zion và Israel, đảng Lao động cực tả bị bật ra khỏi quyền lực. Những người ủng hộ và những thành viên cánh tả khác, tất cả chiếm khoảng một nửa dân số nước này, đã bàng hoàng và sợ hãi trong nhiều tháng liền. Những năm 1980, vô vàn thảm kịch của dân tộc đã bồi thêm nhiều mối bất hòa hơn là người ta tưởng. Vào năm 1982, thực hiện một phần hiệp định hòa bình với Ai Cập, chính phủ đã “quét” sạch khu định cư Yamit trên bán đảo Sinai. Một nhóm nhỏ cư dân ở đây nhất định không chịu tản cư. Họ lập rào chắn, cố thủ trên mái nhà và trong nhiều tuần, họ ném những lốp xe đang phừng phừng cháy và những làn mưa gạch vào binh lính, những người trước đây là đạo hữu và người bảo vệ họ. Khi chính phủ của Begin yêu cầu người dân phải rời đi, nhiều người trong phe của ông ta cảm thấy như bị phản bội. Một năm sau, trong suốt cuộc xâm chiếm Lebanon của Israel, bi kịch của riêng cánh tả có phần đỡ hơn. Tiếp sau vụ thảm sát Sabra và Shatila, trong đó những người Lebanon theo Ki tô giáo đã giết hại hàng trăm người Palestine di tản trong một khu vực dưới quyền kiểm soát của người Israel, một ủy ban điều tra chính thức của Israel đã chỉ trích gay gắt năng lực chỉ huy của Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon. Ngày 10 tháng 2 năm 1983, khi chính phủ của thủ tướng Begin nhóm họp để bàn về báo cáo của ủy ban, thì Peace Now(37)khởi xướng một cuộc biểu tình kêu gọi Sharon từ chức. Một đám đông đàn áp những người biểu tình đã tập trung lại và gây hấn với họ. Vụ chạm trán không phải là không điển hình này đã có một chuyển biến bi kịch khi một trong những người đàn áp người biểu tình ném một quả lựu đạn vào nhóm Peace Now, giết chết một thành viên của nhóm và làm bị thương nhiều người khác. Người thanh niên bị giết hại, Emile Grunzweig, là thạc sĩ chuyên ngành khoa học chính trị. Trong luận văn của mình, bảo vệ ba ngày trước đó, Grunzweig đã dẫn ra một câu nói của triết gia Karl Popper: “Truyền thống vĩ đại của chủ nghĩa duy lý Tây phương là ra trận bằng lời nói chứ không phải thanh gươm.” Grunzweig sau đó đã lưu ý, “Câu nói này thể hiện niềm tin rằng nếu giữa các bên đấu đá lẫn nhau không có những tiêu chuẩn chung cho lựa chọn lý trí cùng quy mô cạnh tranh, người phát ngôn sẽ trở thành nguồn sức mạnh duy nhất cho quy mô của riêng mình, và giải pháp cho xung đột này chỉ có thể đạt được khi phát ngôn viên ở hai phía đối địch đang đấu võ mồm hoặc im như thóc ngâm.” Đối với cánh tả Israel, Grunzweig ngay lập tức trở thành pháo đài có sức lay động trái tim và là một biểu tượng cho thấy cánh hữu thích thanh kiếm hơn là ngôn từ. Chiến tranh Lebanon được giới chính thống coi như một vụ công kích có giới hạn chống lại lực lượng Phong trào giải phóng Palestine (PLO) ở biên giới phía bắc, leo thang thành một cuộc giao chiến phức tạp, kéo dài dai dẳng tới tận 18 năm. Những người cánh tả coi đây là cuộc chiến không bắt buộc đầu tiên, nó tiếp tục chia cắt Israel trong nhiều năm. Cuối những năm 1980, phong trào intifada đầu tiên của người Palestine đã đẩy những binh lính trẻ Israel vào tình thế phải chống lại đám đông dân chúng, đôi khi còn xảy ra bạo lực, thường là với những thanh niên biểu tình người Palestine còn trẻ hơn cả họ. Dân chúng bất tuân lệnh các nhà chức trách, ném đá, đâm chém, và còn có một vụ những người Palestine bị phía Israel hành hình kiểu lin-sơ(38)với đấm đá, hơi cay và đạn thật. Xem những bản tin truyền hình hàng ngày và nghe về những vụ xô xát cá nhân như thế này giữa con cháu, anh em của họ với người dân Palestine sinh sống trên Bờ Tây và dải Gaza chỉ càng đẩy người Israel về hai phía của một khe hổng trên nền tảng các vấn đề thuộc về chính trị lịch sử. Tình hình trở nên xấu đi vào đầu những năm 1990 khi một chính phủ mới của đảng Lao động, đứng đầu là Yitzhak Rabin, bại lộ việc họ đang thỏa thuận theo lối cửa sau với PLO – đây là lời nguyền rủa đối với hầu hết người dân Israel lúc đó. Những cuộc đàm phán này dẫn đến việc ký kết hiệp định Oslo, khởi động cho một lộ trình được cho là tiến xa nhất trong việc thành lập một nhà nước Palestine ở Bờ Tây vàdải Gaza. Cánh hữu chỉ trích, phản đối và biểu thị sự phẫn nộ. Khi những người Palestine phản đối hiệp định này thực hiện một loạt vụ ném bom liều chết trên khắp lãnh thổ – vào lúc đó, một dạng chủ nghĩa khủng bố mới lạ đến mức gây sốc cho Israel và thế giới phương Tây – mọi thứ bắt đầu bung bét. Suy đi tính lại, những lời nói hoa mỹ gây kích động bạo động một vòng tương hỗ hiểm độc. Nhưng vết thương và tấn kịch của những cuộc chạm trán này chẳng thấm vào đâu so với những gì xảy ra vào buổi tối ngày 4 tháng 11 năm 1995, khi lực lượng đấu tranh vì hòa bình tập hợp ở Tel Aviv và những diễn biến tiếp sau đó. Cuối buổi tập hợp đó, một thanh niên mảnh khảnh, đầu đội mũ yarmulke(39)- một sinh viên luật xuất sắc và là người cực lực phản đối hiệp định Oslo – tiến đến gần thủ tướng Rabin, sứ giả hòa bình xuất thân từ một người lính(40), lúc ấy được bảo vệ rất sơ sài, và nổ súng bắn ba phát đạn vào lưng ông từ khoảng cách gần. Người ta xác nhận thủ tướng đã chết, ngay sau đó dấy lên một làn sóng tiếc thương chưa từng có cùng với nhiều mức độ thù hằn và phân cực không thể nào sánh được từ trước đến nay trong xã hội Israel. Vụ ám sát đã gây tổn thất lớn cho chính phủ đảng Lao động, và như tổng thống Mỹ Bill Clinton, cùng những người khác chỉ ra, nó dường như đã đặt dấu chấm hết cho tiến trình hòa bình. Cả một thập kỷ sau vụ ám sát trên, tòa án tối cao của Israel – trong một phán quyết mà nhiều người cho rằng nó xuất phát từ cảm tính nhiều hơn – quyết định kẻ giết người, không giống những tù chung thân nguy hiểm khác, sẽ không được phép “gần gũi” với vị hôn phu của anh ta. Cuộc chạm trán đáng chú ý tiếp theo diễn ra trước và trong suốt cuộc rút quân đơn phương của Israel ra khỏi dải Gaza năm 2005. Lần này, những cuộc biểu tình lớn như mọi khi lại bắt đầu từ phía cánh hữu. Cũng có những biến sự chính trị, như họ đã mất đa số ghế trong chính phủ ở Knesset. Nhưng họ không ngăn được thủ tướng Sharon thi hành lệnh rút lui, và trong nhiều ngày dài giữa cái nắng tháng Tám, toàn đất nước chứng kiến hình ảnh binh lính Do Thái buộc phải xua đuổi những người định cư Do Thái và phá hủy nhà cửa của họ. Những thước phim cho thấy quân đội đang kéo lê những người dân đang gào thét ra khỏi nhà của họ và các giáo đường Do Thái, và trên nhiều con đường, nhiều người dân khác đang đứng chắn và nổi lửa. Một người dân trên Bờ Tây đã tự thiêu ở gần một trạm kiểm soát tại dải Gaza, và một vài người khác được báo cáo là đã để con cái ở nhà, trên người mặc quần áo có hình ngôi sao David, để tỏ rõ quan điểm là chính phủ hành động chẳng khác gì bọn Đức quốc xã. Theo dõi tất cả những điều này trên màn hình, nhà nghiên cứu chính trị ngả theo cánh tả Yaron Ezrahi lúc đó đã nói với tôi rằng sự chống cự của những người định cư chống lại lệnh tản cư khỏi đất Gaza đơn thuần chỉ là một show truyền hình thực tế, được diễn như một bài bình luận và một lời cảnh báo về những gì sẽ xảy ra nếu và khi Israel quyết định rời khỏi Bờ Tây. Thực sự là, nếu điều này có xảy ra, xung đột giữa quân đội và 50.000 hoặc nhiều hơn nữa những người cực hữu, có vẻ như quyết tâm chống đối bằng bạo lực, và họ có được ủng hộ ngày càng cao trong hệ thống tướng lãnh quân sự, có thể sẽ đạt được một đỉnh cao chói lọi trong lịch sử huynh đệ tương tàn triền miên từ thuở xa xưa này. Ở mặt tích cực, chẳng có gì ngạc nhiên khi nhiều người Israel ở cả hai phía trên bản đồ chính trị đều thống nhất chỉ trên một quan điểm, đó là họ chẳng có điểm chung nào với nhau cả. Nhưng thực ra, vì cả hai bên đều nổi lên từ cùng một môi trường phân cực, nên họ đúng là có gặp nhau tại một điểm cực quan trọng trên phương diện tâm lý. Lớn lên và thậm chí là sống cả đời trong một xã hội chia bè kéo cánh như vậy cho phép người ta phát triển một sự đồng cảm ngả theo một bên mạnh mẽ, thường là về bên mà bạn được tiếp xúc nhiều nhất từ những hình mẫu có vai trò ảnh hưởng lớn như ông cha hoặc những người đồng trang lứa. Sự đồng cảm, gắn bó này hình thành với trái tim đa cảm chứ không phải với đầu óc lý trí, vì trên phương diện sinh học và xã hội, tất cả chúng ta đều có xu hướng thân thiết, sống gần gũi và để cho phần tình cảm trong mình nương theo số phận với những thứ mà mình ràng buộc cùng. Trong một xã hội như Israel, điều này được củng cố thêm nữa, trái ngược với nền tảng bất ổn mà họ đang sống trong đó người Israel ở cả hai phe chỉ cần coi chừng vị thế chính trị của mình với phe đối lập, thì đây chính là một điều chắc chắn không có gì để nghi ngờ. Kiểu câu hỏi lựa chọn chiến hay hòa, giận dữ hay sợ hãi lại gợi lên trong tâm trí họ mỗi khi có một cuộc chiến tranh hay một cuộc tấn công khủng bố mới. Lúc đó chẳng còn hữu hay tả nữa, thậm chí đúng hay sai người ta cũng chẳng thiết nghĩ đến; tất cả chỉ là đã tốt là tốt cả, mà đã ác là ác hết mức. Trong thuật ngữ tâm lý học, đây là cơ chế phòng vệ tách đôi (tư duy nhị nguyên) hoặc phóng chiếu: bạn tự vệ tránh xa khỏi mâu thuẫn nội bộ bằng cách quy một phần mâu thuẫn cho phe đối lập. Bởi vậy nếu tiến hành một cuộc chiến tranh mà có thể bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ của một trận đánh phủ đầu của kẻ thù, nhưng có thể đe dọa mạng sống của những binh sĩ trẻ trung, bạn sẽ chẳng lo lắng tới những rủi ro sau đó, đổ nỗi lo lắng đó sang cho đối thủ, và tuyên bố anh ta bị hoang tưởng, là một kẻ biến thái nhân cách(41) hiếu chiến; còn bạn, vâng, tất nhiên bạn là người hộ mệnh cho lòng nhân đạo đang tìm kiếm hòa bình hoàn toàn sáng suốt lý trí. Hoặc, bạn, ngả về việc ủng hộ đánh đấm, để tránh nguy cơ bị quân địch đánh phủ đầu, đẩy nguy cơ đe dọa mạng sống của các binh sĩ trẻ cho đối thủ của mình, rồi sau đó xỉa xói anh ta là một kẻ ngu ngơ, hèn nhát, đàn bà, còn bạn, vâng chính bạn, là một người thực tế, cứng cỏi, đầu óc luôn cảnh giác. Từ đây, chỉ còn vài bước chân nữa là đến một kiểu tư duy nhị nguyên nếu-không-ủng-hộ-thì-là-chống-lại chúng ta và kiểu quan điểm cổ tích hơn nữa là đánh đồng mọi sự không-đen-thì-trắng. Trên đỉnh của sơ đồ cảm xúc này, người ta bổ sung cả những yếu tố mang tính tri nhận hay tư duy. Trong trường hợp tâm thức của người Israel, điều đó cho phép xây dựng một lý luận logic, thuyết phục bổ trợ cho khuynh hướng đã từng sôi nổi, nồng nhiệt của bạn, nhập vào nó những bite âm thanh cổ điển, xưa cũ, được chọn lựa một cách thích hợp để khớp với lý lẽ của bạn và để phá hoại lý lẽ của đối thủ. Khi cả hai bên sau đó đối mặt nhau ít nhất là một lần nữa trong cơn lốc bất tận những ý tưởng và thực tế còn được biết đến như là vấn đề thảo luận của quốc gia, thì cường độ mãnh liệt của các cuộc chạm trán không hề thuyên giảm mà chỉ càng mài sắc thêm trái tim và khối óc của họ, biến một người Israel điển hình thành một chuyên gia, một tín đồ thực thụ, một phát ngôn viên và một trưởng ban tin bài về tất cả vấn đề tả cũng như hữu. Có một cách khác để giải thích cho sự phân cực này đó là viện dẫn đến khái niệm của Freud về tạo phản ứng. Trong khi cơ chế phòng vệ tách đôi và phóng chiếu phổ biến hơn trong nghiên cứu tâm lý nhóm, thì tạo phản ứng, một cơ chế phòng vệ diễn biến phức tạp hơn, thuộc vào nhánh tâm lý cá nhân. Với cơ chế phòng vệ này, bạn thiết tha thể hiện những ý muốn ngược lại ý muốn của mình để đạt đến một sự an toàn và yên ổn, bạn sợ sệt chính khát vọng, ham muốn của mình và phải giả bộ khoác lên mình quan điểm đối lập. Bởi vậy bạn trở thành con chim ưng cảnh giác thái quá. Vậy nên cánh tả đã được đánh đồng như một kẻ hung hăng chuyên bắt nạt, sợ hãi chính cái phần nhút nhát thẳm sâu bên trong con người mình. Hoặc, bạn muốn diệt sạch kẻ thù khỏi trái đất này để có thể đạt được sự an toàn và yên ổn, bạn sợ hãi chính sự dã man của mình và trốn chui lủi trong chính quan điểm ngược lại mình, một trạng thái tâm lý phản đối chiến tranh. Kiểu phòng vệ này tương tự thuyết âm/dương trong triết học cổ Trung Hoa, quan niệm rằng mọi thứ trong tính toàn vẹn của nó chia làm hai phần đối lập đấu tranh nhau nhưng có lực cân bằng, và sự ổn định phụ thuộc vào sự cân bằng của cả hai. Thực sự là, giống những ông chồng và các bà vợ chuyên phàn nàn về những khuyết điểm của nhau nhưng lại bù trừ và do đó bổ trợ cho nhau, việc đặt hai quan điểm đối lập cạnh nhau một cách không e dè chỉ càng củng cố chúng, vì mặt này lại tác động lên những thiếu sót của mặt kia. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau, nhưng hãy nhớ rằng, trong công thức này, hai mặt đối lập đều có một phần và soi chiếu với mặt kia như là nỗi khao khát và nỗi e sợ. Phe hữu chẳng mong muốn gì hơn là hòa bình nhưng lại sợ phải tin vào nỗi khát khao đó, còn phe tả cũng chẳng mong gì hơn là quyền lực nhưng lại e sợ ý muốn giành giật của chính nó. Không cần biết bạn đã ý niệm hóa điều này như thế nào, nhưng nên làm rõ rằng như là kết quả của việc phân cực triền miên và xưa cũ, cánh hữu và cánh tả đều có một điểm chung cực lớn. Cả hai phe rõ ràng đều có một niềm tin nhiệt thành và tôn thờ vào sự nghiệp của chính họ cùng với khả năng ủng hộ nó. Hoặc nhìn một cách tiêu cực, họ đều có lập trường cứng rắn, một đầu óc tư duy hẹp hòi, và đều không thoải mái với những sắc thái và sự đa dạng, trái chiều về quan điểm. Cũng như vậy, ở một đất nước mà như lời của phóng viên của tờ New York Time Steven Erlanger, “tất cả mọi người tranh luận về tất cả mọi thứ”, sự phân tách trong sự đồng cảm này không giới hạn trong sự phân cực chính trị. Trong khi mỗi sự phân tách về mặt tôn giáo, dân tộc, văn hóa và địa lý đã được đề cập đến trước đây đều có động lực phát triển độc đáo của riêng chúng, thì tất cả đều chia sẻ, tạo tác, củng cố và làm phong phú mặt biện chứng của những phần đối lập, bạn sẽ thấy điều này thực sự rõ ràng khi động đến bất cứ vấn đề nào liên quan đến Đất Thánh. VƯỢT QUA THAY ĐỔI VÀ TÌNH TRẠNG PHÂN MẢNH Vậy là nếu môi trường biến động liên tục sản sinh ra một kiểu tính cách thất thường và có khả năng thích nghi cao, và sự phân tách hiện thời sẽ nảy sinh một tính cách nhiệt tình nhưng cứng nhắc, thì chuyện gì xảy ra khi bạn được tiếp xúc với cả hai? Rốt cuộc là bạn sẽ trở nên giỏi thích nghi và nhiệt thành, hay cứng nhắc và thất thường? Hoặc pha trộn láo nháo cả hai khía cạnh này? Hãy cùng xem xét một vài ví dụ điển hình, bắt đầu với một người Israel vô cùng Israel, cựu thủ tướng quá cố Ariel Sharon. Sharon là một người thuần Israel, giỏi thích nghi – nhiệt thành. Có thể thấy tràn ngập các trang tiểu sử về Sharon là mối quan tâm với việc xây dựng một hệ thống an ninh quốc gia hùng mạnh và triết lý chính trị của ông. Ông đã thực thi những chiến lược quân sự có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong vai trò một vị tư lệnh và Bộ trưởng Bộ quốc phòng, ông đốc thúc chính phủ gia tăng chóng mặt các khu định cư xây dựng trong những lãnh thổ đã chiếm được, và lên tiếng ủng hộ tầm nhìn của ông về một “Israel vĩ đại hơn”(42)trong nước cũng như ngoài nước. Chắc chắn là những thành tựu trên những phương diện này một phần là sức mạnh niềm tin và lòng nhiệt huyết toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp này của ông. Trong việc tạo ra, rồi sau thích nghi với, những thay đổi, Sharon có những bước tiến vĩ đại. Trong cuộc chiến tranh 1973, ông nổi tiếng là đã vượt trội hơn hẳn quân đội Ai Cập trong một cuộc tấn công hung hãn, nắm lấy chiến thắng ngay dưới mũi thất bại. Trong cuộc đời hậu binh nghiệp của mình, ông đã tạo nên một đảng chính trị mới, sáp nhập nó với một đảng cũ, rồi thành lập một đảng mới nữa vài năm sau đó, và một trong nhiều lần thay đổi chính sách chính, ông quan sát thấy một khi phá hủy những khu định cư ở bán đảo Sinai thì sẽ đạt được hòa bình với Ai Cập. Và sau khi sống lưu vong chính trị nhiều năm, do bị hất cẳng một cách nhục nhã ra khỏi vị trí ở Bộ Quốc phòng sau cuộc thảm sát Sabra và Shatila, ông đã lội ngược dòng, quay về để trở thành một trong những thủ tướng quyền lực và nổi tiếng nhất Israel. Đời sống cá nhân của ông cũng vậy, ông đã vượt qua được nhiều mất mát đau thương, gượng dậy với những lần đính hôn mới. Nhưng một câu chuyện trái ngược với tất cả những điều này minh họa ngay cho việc hình thành nhân cách cứng nhắc – bất ổn. Đầu óc hẹp hòi, quan điểm trắng-đen-rõ-ràng của Sharon về vấn đề xung đột Israel – Palestine đã đóng một vai trò nào đó trong thảm kịch của bao nhiêu dân thường Palestine bị giết hại, trong việc vi phạm luật quốc tế, ở Jordan, Lebanon và dải Gaza. Năm 1982, ông ta dẫn dắt chính phủ Israel vào một cuộc phiêu lưu quân sự ở Lebanon, tình hình chiến sự kết cục đã chứng minh đây là một sai lầm khủng khiếp và Israel đã phải trả giá đắt. Người ta cũng theo đuổi dự án những khu định cư người Israel ở Bờ Tây của ông ta bằng cách vi phạm luật pháp quốc tế, điều đó có thể còn chứng tỏ là đã ngầm phá hoại không cách nào cứu vãn một giải pháp hai-nhà-nước, vốn là những mục tiêu của chính sách chính thống về sự thành lập cả Israel và Palestine hiện nay. Tất cả điều này đã ngầm minh họa cho mặt trái của sự đam mê nhiệt thành – đó chính là sự cuồng tín, cứng rắn và chủ nghĩa cực đoan. Khía cạnh bất ổn trong câu chuyện này được thể hiện rõ nét nhất trong thái độ của Sharon với vấn đề dải Gaza. Trong hơn ba thập kỷ, ông ta ủng hộ quan điểm bằng bất cứ giá nào cũng phải nắm giữ và cho dân định cư ở dải Gaza. Thật vậy, đến tận năm 2004, ông ta vẫn còn tỏ rõ quan điểm về địa danh này khi đả động đến Netzarim, một khu định cư nhỏ bé nhất, xa xôi hẻo lánh nhất ở dải Gaza. Giống như phần còn lại của dải Gaza, Netzarim chẳng có chút ý nghĩa lịch sử hay tôn giáo nào như Bờ Tây. Sharon tuyên bố: “Số phận của Netzarim cũng giống như số phận của Tel Aviv.” Nhưng đúng một năm sau, ông ta lại rút khỏi dải Gaza và phá hủy toàn bộ các khu định cư. Sự rút lui đơn phương vội vã này đẩy quân Hamas vào tiếp quản và khiến dân chúng Palestine trở nên quá khích, làm xói mòn nền tảng an ninh của Israel và những viễn cảnh về hòa bình. Vậy thì đâu mới là con người Sharon thực sự, một người Israel nhiệt thành – mềm dẻo hay cứng nhắc – thất thường? Hãy lấy một nguyên mẫu điển hình tính cách Israel nổi tiếng khác, lần này là từ giới kinh doanh chứ không phải giới chính trị. Ở tuổi 39, Shai Agassi là ứng cử viên được nhắm đến cho chức CEO ở SAP, một công ty kinh doanh phần mềm lớn nhất thế giới. Trước đây, anh ta từng được đề bạt lên vị trí đứng đầu này nhưng lại đi theo đuổi một viễn ảnh mà các nhà phân tích của Ngân hàng Đức (Deutsche Bank) miêu tả là có khả năng phá vỡ hàng loạt ngành ô tô và làm tê liệt hệ thống xăng dầu. Suốt ba năm trong thời kỳ suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ hồi Đại Suy thoái, Agassi đã kiếm được 700 tỉ đô la và bán cho các chính phủ Israel, Đan Mạch, Úc, Hawaii và khu vực vịnh California, cùng các chính phủ khác, một mô hình kinh doanh chưa từng tồn tại trước đó cho những chiếc xe điện. Kết hợp với nhà sản xuất xe hơi Renault-Nissan để phát triển thành một công ty liên doanh, ý tưởng của Agassi dựa trên mô hình dịch vụ máy điện thoại di động. Người tiêu dùng muốn sở hữu chiếc xe hơi của riêng họ, nhưng ký một hợp đồng dịch vụ để bơm đầy năng lượng cho xe, như vậy là cần công ty của Agassi thiết kế và xây dựng không chỉ những chiếc xe hơi chạy điện mà còn phải xây hàng nghìn trạm nạp điện tự động trên khắp thế giới. Nếu dự án khổng lồ này thành công, chắc chắn nó sẽ cho thấy một màn ngoạn mục của tư duy Israel song kiếm hợp bích giữa sự mềm dẻo và lòng nhiệt thành. Bằng cách nhìn xa trông rộng, xác định vấn đề và ứng dụng những thay đổi mang tính cách mạng vào thị trường năng lượng và bản đồ địa chính trị, Agassi đã dựng lên một ý niệm kinh doanh khó tin nhưng có thể chạm tay đến được. Với khả năng thuyết phục mạnh mẽ, sự nhiệt tình hăng hái và ý chí bền bỉ, anh ta đã lôi kéo được một vài công ty cực lớn và vài chính phủ đồng hành. Tuy nhiên vào thời điểm tôi viết những dòng này, có vẻ như dự án đã thất bại, bởi vậy nhiều cuốn biên niên về kinh doanh hẳn đã có dịp nói này nói nọ về sự ra đi của Agassi khỏi SAP, nơi anh ta đã được cất nhắc ứng cử vào vị trí đứng đầu, để lao vào một dự án cá nhân chẳng mấy đảm bảo thành công. Và cuộc phiêu lưu vào thị trường xe điện của anh ta có thể cuối cùng cũng được nhìn nhận như cuộc chiến của một tín đồ mù quáng, cuồng tín, một kiến trúc sư ám ảnh quay cuồng với dự án xây dựng những lâu đài trên bầu trời. Nói cách khác, một Sharon với con người thực sự, giống như Agassi, cả hai đều tràn đầy nhiệt huyết và ý chí kiên định, cả hai đều mềm dẻo và thất thường, và trong sự kết hợp này còn liên quan đến việc họ đã thể hiện như thế nào, cũng như rất nhiều vấn đề khác như cá tính, hoàn cảnh bên ngoài và sự may rủi. Ở mức độ này hay mức độ khác, người Israel nào, cả những người không gắn đời mình vào những dự án hay những nhiệm vụ vĩ đại, cũng mang trong mình sự kết hợp như vậy. Một ví dụ mang tính cá nhân, chắc chắn không phải là một hình mẫu to tát gì, chợt hiện lên trong tâm trí tôi từ những ngày đầu học đại học ở Mỹ, một năm sau khi từ Israel sang, lúc đó tôi 21 tuổi. Tôi vừa mới tìm được một công việc bán thời gian trong một tòa chung cư đẹp đẽ ở San Francisco và ngày đầu tiên đi làm, tôi lái chiếc Ford Impala già nua kẽo kẹt nhưng cũng ngốn của tôi mất 200 đô. Tôi tiến vào gara của tòa nhà nhưng không tìm được chỗ đậu xe ngoại trừ một chỗ dưới máy quay an ninh và có biển KHÔNG ĐỖ XE, VI PHẠM SẼ BỊ KÉO ĐI. Nghĩ rằng mình đang lái xe ở khu vực có sự điều khiển của người kiểm tra an ninh qua camera, tôi đoán rằng chiếc xe của tôi có thể ở đó, tôi đỗ ở đó, rồi điểm danh. Sau vài tiếng đào tạo công việc, sếp tôi, viên quản lý, nhận ra chiếc xe ngay trên màn hình trước mặt chúng tôi. “Xe này của cậu à?” ông ta chỉ vào màn hình. Lo sợ về những hậu quảtiếp theo, tôi chối bay chối biến như một phản xạ, để rồi run bắn lên khi ông ta bảo tôi gọi cho công ty kéo xe và giám sát tôi khi tôi gọi cho họ, yêu cầu một chiếc xe cần được kéo đi. Vậy nên ở đây chúng ta có một ví dụ trong cuộc sống thường nhật về việc người Israel tùy tiện, bất tuân quy tắc, bạ đâu vất đấy tiềm tàng hậu quả tự hại lấy thân như vậy. Khi gọi điện xong và viên quản lý đã bỏ đi, dặn rằng khi nào xe tải kéo chiếc xe kia đến thì báo cho ông ta, thì tôi bắt đầu phát huy khả năng giỏi xoay xở của mình. Một ý nghĩ chợt nảy ra, tôi gọi ngay cho một anh bạn người Mỹ lúc đó đang ăn trưa ở chỗ làm cách chừng mấy tòa nhà: “Hãy đến bàn tiếp tân trong sảnh. Đừng hỏi gì cả, chỉ cần lấy chìa khóa xe tớ, xuống gara dưới tầng hầm, rồi lái nó đi.” Cậu ấy vừa đến nơi, thì tôi nhấn nút, mở cổng an ninh và lo lắng theo dõi trên màn hình camera dáng người vội vã của cậu ấy đang đến gần khung hình, chỉ vài giây trước khi xe tải kéo xe đến. Sau đó, tôi báo cho viên quản lý biết rằng chiếc xe đã biến mất chẳng hiểu tại sao, tôi đã cứu được việc làm thay vì là uy tín của chính mình. Một câu chuyện về xe pháo khác, ba năm sau, khi ấy tôi bắt đầu học thạc sĩ tại New York, tôi kiếm được một công việc bán thời gian tại một trong những công ty Israel thống lĩnh ngành dịch vụ taxi tại sân bay ở Manhattan. Lần đầu tiên làm tài xế một chiếc limo, tôi đón một đôi vợ chồng từ khu Thượng Đông ra sân bay. Tôi đã đến thăm New York hai lần nhưng chưa từng tự mình lái xe đến đó, thế mà tôi lại bắt đầu chuyến đi đó bằng thiết bị định vị tiền GPS không có bản đồ và chỉ có ý niệm mơ hồ nhất về đường đến JFK, một trong những sân bay đông đúc nhất thế giới. Sau khi đón đôi vợ chồng kia tại chỗ ở của họ - đến muộn, vì lúc đầu tôi đến sai địa chỉ, đến số 82 đường Sáu-tư đông thay vì 64 đường Tám-hai đông hay đại khái thế - tôi đã rẽ trái, nghĩ rằng mình phải đi lên phía bắc. “Không phải là cậu đang đi trên Đại lộ York đấy chứ?” người đàn ông nhã nhặn hỏi. Trước khi tôi kịp đắn đo câu trả lời, ông ta nói thêm: “Ồ, tôi biết cậu đang đi đường nào rồi, thôi không sao.” Điều đó giúp ích cho tôi nhiều và rõ ràng là con đường tôi đi ít nhất cũng nhanh như đường của ông ta! Làm thế nào đó tôi cũng tìm ra được đường đến JFK, nhưng lại suýt đến nhầm sân bay, may mà hành khách của tôi đã kịp thời làm một nghĩa cử để giúp tôi tránh không phạm vào thảm họa ấy. Một lần nữa, chẳng phải là Shai Agassi, nhưng tính cách tùy tiện và giỏi ứng phó thì thậm chí một anh tài xế xe limo vô danh tiểu tốt cũng có. Nói về khía cạnh nhiệt thành-cứng rắn, một người bà con, một bà cô đã sống một đời đầy kinh nghiệm với 80 năm có lẻ, sẽ cho ta một ví dụ đầy ấn tượng. Vào buổi tối trước cuộc bầu cử toàn quốc, văn phòng tổng Rabbinate(43) đã gọi cho bà đến để thuyết phục bà bỏ phiếu cho đảng tôn giáo mà giáo trưởng đã chọn, bà ta đã nói với với đầu dây bên kia: “Hãy nói với ngài rabbi là đến mà thơm cái tuchis(44)của ta!” rồi cúp máy. Bỏ qua thái độ thô lỗ, nếu bạn giống như nhiều người Israel, xem văn phòng tổng Rabbinate là một cơ quan phản dân chủ trong việc thực thi và ép buộc những người Do Thái thế tục phải tuân thủ luật lệ tôn giáo, thì lối cư xử này chỉ đơn thuần là một hành vi bột phát ủng hộ quyền tự do, một phản ứng gay gắt chống lại những quyền lực bóng tối ngột ngạt. Tuy nhiên, hiểu theo góc nhìn khác, thì có thể miêu tả ứng xử của bà bằng những từ như thiên kiến, hẹp hòi, thất thường hay cuồng tín. Cần lưu ý một điểm là tính cách người Israel cực kỳ sớm nắng chiều mưa. Họ là kiểu người hôm nay hăng hái và nhất quyết đi theo con đường mới, hôm sau đã trở thành những bóng ma thụ động dật dờ và tâm trạng chông chênh. Chẳng có gì ngạc nhiên nếu bạn biết rằng trong con người họ có sự giằng xé tiếp bước lịch sử Do Thái hay đi theo bản chất cách mạng của chủ nghĩa Zion. Cũng chẳng có gì ngạc nhiên nếu mâu thuẫn có tính biện chứng này vẫn còn tiếp diễn, vì đối với lịch sử phát triển của một quốc gia, Israel đơn thuần chỉ là một đứa trẻ đang tuổi dậy thì. Tính sớm nắng chiều mưa này đã làm nổi lên một vấn đề sâu xa hơn thách thức giả thuyết đặt ra của cuốn sách này: Liệu ngay từ đầu đã có một thứ gì kiểu như tính cách dân tộc? Như nhà nhân chủng học Clyde Kluckhohn và nhà tâm lý xã hội Henry A. Murray đã nói: “Một nhóm người nếu có ‘tính cách chung’ cũng như thể họ có những đôi chân giống hệt nhau vậy.”(45) Mặt khác, như nhà nhân chủng học Raphael Patai đã chỉ ra, cho dù chỉ là chuyện những cơ thể cá nhân thì các nhà khoa học nghiên cứu “cơ thể người” và có thể có những đánh giá thực sự và có ích về nó.(46) Bởi vậy, trong khi đau đầu với vấn đề này, nhiều học giả đồng ý rằng những cá nhân trong một nhóm văn hóa có thể có chung một bộ đặc điểm cụ thể - nếu không nói là tư duy nhóm – mà họ đã lĩnh hội được bằng cách trở thành thành viên của nhóm đó. Nhà nghiên cứu chính trị Israel Yaron Ezrahi đã đưa ra một định nghĩa vi diệu hơn: “Tính cách dân tộc là hiện tượng quang phổ, bao gồm những ký ức và trải nghiệm chung, cũng như một loạt những hành vi tiềm tàng. Hành vi cụ thể được thể hiện trong một thời điểm nhất định là kết quả tương tác giữa quang phổ này và hoàn cảnh bên ngoài.”(47) Định nghĩa này có thể giải thích được nhiều điểm trong đó có những tương đồng giữa các tính cách dân tộc cũng như những gì diễn ra khi chúng tương tác với nhau. Hãy nhớ đến đoạn băng video quay cảnh kèn cựa lố bịchgiữa thủ tướng Israel Ehud Barak và Chủ tịch chính quyền Palestine trong buổi khai mạc cuộc họp thượng đỉnh trại David, mà thất bại của nó đã dọn đường cho tình trạng bạo lực cực kỳ gay go trong cuộc nổi dậy lần thứ hai của người Palestine. Hai người đàn ông nằng nặc “mời ngài”, nhất định không chịu nhúc nhích, và đùn đẩy nhau vào nhà khách trước theo đúng nghĩa đen, và cũng đúng theo nghĩa đen họ sẽ chẳng chịu dời một li nào cho đến tận khi tổng thống Mỹ Bill Clinton cuối cũng phải xô cả hai cùng vào cửa trước. Nếu họ thậm chí còn cự nự về chuyện đi đứng trước sau, thì chẳng có gì ngạc nhiên nếu họ không đạt được một thỏa thuận nào về vấn đề Jerusalem và những người tị nạn. Khi bạn theo dõi phát ngôn viên đặc biệt phía Israel tranh luận với người đồng cấp phía bên kia Palestine trên truyền hình Hoa Kỳ, dù có trông nhang nhác nhau hay không thì họ cũng thường hành động như nhau. Thích tranh luận, hiếu chiến, và tự cho mình là chính nghĩa, họ như thể đang soi mình vào gương và nhận ra kẻ kia chính là hình ảnh trong gương của mình mỗi lần cố gắng phát biểu thật lưu loát nhưng hừng hực giận dữ để lấp liếm và áp đảo tai người nghe. Ở chừng mực này những giao tiếp ứng xử thể hiện một khía cạnh của xung đột Israel – Palestine nói chung, định nghĩa của Ezrahi có tính chất chỉ dẫn trên hai phương diện quan trọng. Thứ nhất, sự tương đồng giữa hai tính cách dân tộc chỉ dựa trên một trong rất nhiều những hành vi ứng xử trong những quang phổ tương ứng của họ. Và thứ hai, hành vi ứng xử tiềm năng này biểu hiện ra chỉ trong một vài trường hợp nhất định, trong trường hợp này, là khi chạm trán với một kẻ thù cùng tiềm ẩn hành vi tương tự trong tính cách dân tộc của riêng cô ta hoặc anh ta. Định nghĩa của Ezrahi cũng tính đến một thực tế là có những đặc điểm đối lập hoặc mâu thuẫn nhau ngay bên trong tính cách dân tộc, vốn rất quan trọng để hiểu được tâm thức người Israel. BÀN VỀ NHỮNG MÂU THUẪN Trong một hoặc hai thập kỷ qua, sự gia tăng dân số nhanh chóng trong bộ phận những người Do Thái Israel chính thống cực đoan đã bất ngờ chia rẽ sâu sắc xã hội Israel thành hai phe thế tục – tôn giáo. “Chúng tôi ghét những người theo đạo,” những đứa trẻ quốc tịch Mỹ, không theo tôn giáo, đã rất sốc khi nghe thấy những vị khách người Israel thế tục giải thích tại sao họ không muốn có một rabbi tổ chức lễ cưới sắp tới của họ. Sự ác cảm theo kiểu gà cùng một mẹ này thường từ cả hai phía, dẫn đến việc một số học giả nghi ngờ liệu Israel, theo định nghĩa và linh cảm tôn giáo có phải là một nhà nước vừa Do Thái, vừa dân chủ, có đang chạm đến mực đáy của cả hai thế giới hay không. Tuy nhiên, về phương diện tính cách dân tộc, sự thù hằn này, giống như những bất hòa bộ tộc đã chia cắt toàn cảnh xã hội Israel, đơn thuần chỉ là sự che đậy cho những điểm tương đồng giữa hai phe. Thực ra, như trong trường hợp cánh hữu cánh tả chính trị có những phần gặp nhau ở một mức độ sâu sắc nào đó, những phe cánh này đã sản sinh ra và cùng có chung những phương diện về sự đồng cảm, bản sắc đã được bàn luận ở trên. Tuy nhiên sự xung khắc tận gốc rễ giữa nền dân chủ và quốc giáo này đã phủ một bóng đen thậm chí còn tối tăm hơn lên tâm trạng của người Israel, và mâu thuẫn này sẽ đi tới tận cốt lõi của câu hỏi người Israel là ai. Thoạt nhìn, dường như cả phe thế tục lẫn phe theo đạo đều được ban cho vô vàn đam mê và tinh thần cứng cỏi nhưng rốt cuộc lại thiếu sót về khả năng thích nghi và ổn định trong thế cân bằng này – ít nhất là trong mối quan hệ lẫn nhau. Cả hai đều cố thủ trong thế giới quan, lối sống và phạm vi của mình và, nếu có thì họ chỉ trở nên phân cực hơn kể từ khi nhà nước Do Thái được thành lập. Có người nói rằng, mối quan hệ của họ mang tính cộng sinh sâu sắc. Những người Israel thế tục trợ cấp và bảo vệ cho những người anh em chính thống cực đoan của họ, những người, nhìn chung, không lao động hay thực hiện nghĩa vụ quân sự gì. Họ không chỉ tạo điều kiện cho những người này theo đuổi việc nghiên cứu giáo lý hay một lối sống chính thống cực đoan, mà còn là sợi dây kết nối họ với thực tế. Mặt khác những người cực đoan chính thống đem đến cho những kẻ thế tục một hình mẫu lịch sử, một sự phản ánh con người truyền thống nguyên nhất của họ, mà không có điều này thì chẳng còn lý nào để tồn tại một nhà nước Do Thái. Ý niệm Israel là một nhà nước Do Thái là bất khả xâm phạm đối với phần đông những người Do Thái Israel thế tục. Trong khi sự cộng sinh này ngày càng khoét sâu thêm lòng bực bội ở hai phía, dần dần, nó cũng tạo ra hiện tượng giao thoa, gợi ra tia hi vọng về một sự sáp nhập, mặc dầu có bất thường, của hai thái cực. Ví dụ, trong những ngày giữa lễ Rosh Hashanah và Yom Kippur, khi việc hành lễ tôn giáo cần có sự ăn năn hối lỗi hàng ngày, cầu nguyện giữa đêm và bình minh, gần như Thành cổ Jerusalem của người Ả Rập là nơi tập kết cho một trong những cuộc gặp gỡ huyền hoặc nhất của người Israel vào đêm ấy. Bắt đầu khoảng bốn giờ sáng, hàng nghìn tín đồ Do Thái sùng đạo, rộn ràng ca hát, nườm nượp thành dòng đổ xuống những con đường hẹp đi đến Bức Tường Than khóc, trong khi hàng trăm người Do Thái thế tục theo dõi họ từ trên cao trong những tour có hướng dẫn viên dạo khắp những bức tường và mái nhà từ thế kỷ 16 của thành phố. Trong khi đó, chỉ khoảng 30 dặm về phía tây, trong một thành phố còn thế tục hơn nữa, Tel Aviv, những gia đình Do Thái ăn mừng lễ Yom Kippur, kiêng lái xe trong suốt ngày lễ, một kiểu kiêng kị phái sinh của riêng họ. Theo năm tháng, họ đã biến Ngày Đền tội thành một lễ hội đạp xe cho trẻ con. Những dấu hiệu cho thấy sự sáp nhập tôn giáo – thế tục chẳng đâu vào đâu, chúng diễn ra ngay ở trung tâm tính cách dân tộc Israel và đồng thời cũng ở bất cứ đâu trên mảnh đất này. Với những nhà nghiên cứu xã hội, những người hoài nghi về ý niệm tính cách dân tộc, khía cạnh xã hội Israel này đưa ra một tình huống nghiên cứu có một không hai, ít nhất là ở nền văn minh Tây phương. Tính cách dân tộc được định hình không chỉ bởi quá trình tiếp thu văn hóa, phong tục từ những hành vi nuôi dạy con cái, những giá trị đạo đức, những chuẩn mực ứng xử và những bài học từ những thiết chế xã hội và hệ thống giáo dục, đối với hầu hết những cá nhân trong một xã hội, họ có xu hướng gặp gỡ ở tất cả những phương diện này, mà còn bởi câu chuyện về một quốc gia đêm đêm thì thầmtrong tiếng đất về chính bản thân mình. Câu chuyện với ký ức tập thể về những sự kiện lịch sử diễn ra trước khi mỗi cá nhân ra đời, hoặc chính xác hơn, là sự diễn giải những ký ức tập thể của cộng đồng về những sự kiện như thế, mà ngay từ đầu chúng đã có tính dẫn giải. Hiện tại, không như nhiều dân tộc khác, dân tộc Israel đã học về lịch sử của mình, lần đầu, lần thứ hai và lần thứ ba, từ trong cuốn sách bàn về những cuốn sách, chính là Kinh Thánh. Cuốn sách này biên niên những sự kiệnđược cho là kể về nguồn gốc của họ, sau khi thế giới được tạo lập. Gần như tất cả người Israel đều bắt đầu học Kinh Thánh trước cả khi học mẫu giáo, thông qua những câu chuyện và những bài hát về phép thuật và những điều kì diệu. Từ đó, nó len lỏi đến khắp mọi ngả tới tận lớp 12 khi họ lĩnh hội những kiến thức tích hợp về địa lý, lịch sử, văn học, và cuối cùng là dân tộc học, tư tưởng và triết học. Cũng như vậy, từ đầu, và ở tất cả các cấp độ của hành trình học hành sách vở này, người Israel học và bàn luận về câu chuyện của họ bằng chính ngôn ngữ cổ xưa mà cuốn sách về các cuốn sách đã kể cho họ nghe. Giấc mộng về một chương trình tích hợp – mục tiêu mà rất nhiều nhà giáo dục Hoa Kỳ cảm thấy khó đạt được – lại được thực hiện ở Israel, bằng quy định bắt buộc phải nghiên cứu Kinh Thánh – trong tất cả các ngôi trường của người Israel, thậm chí là Ả Rập – Israel. Và chỉ trong trường hợp học sinh không chú ý trong lớp học, tất cả bài học sẽ được củng cố trong một chuỗi bất tận những tiyulim, được hiểu lànhững chuyến dã ngoại của nhà trường, đến vô vàn những di tích tôn giáo, một vài thực sự cổ xưa, rất nhiều trong số đó chỉ đơn thuần có cái danh mà thôi. Thậm chí nếu con bạn học ở nhà, bạn không thể hoàn toàn tránh được những ngày quốc lễ chính thức, cơ man những tên đường, tên làng, tên thành phố được rút ra từ từ nguyên trong Kinh Thánh, cứ như thể là một quyển lịch bằng tiếng Hebrew vậy. Người ta nói rằng con cá là kẻ cuối cùng biết thế nào là nước, bên cạnh những gì họ xem như là cuộc đột kích từ bên ngoài vào của quốc giáo, vi phạm quyền tự do, và nhiều người Israel thế tục không ưa môi trường đậm tínhtôn giáo mà họ đã được sinh ra và bơi lội trong đó. Thật thú vị là một cuộc khảo sát ý kiến người dân trên diện rộng năm 2009 đã nhận ra rằng người Israel theo đạo Do Thái mang trong mình điều gì đó kiểu như là một chuỗi những mâu thuẫn, nghịch lý, mặc dù đôi khi có thống nhất, của những quan điểm về vai trò của tôn giáo trong đời sống của họ như sau: 80% tin vào Chúa, 51% nói rằng Do Thái là từ miêu tả đắc địa nhất danh tính của họ, 41% nói rằng Israel là từ miêu tả trúng nhất về danh tính của họ, 61% cảm thấy đời sống công cộng nên gắn bó với truyền thống Do Thái giáo, 68% nói rằng các quán cà phê và nhà hàng nên mở cửa vào ngày Shabbat; và cuối cùng 44% ủng hộ việc bảo tồn dân chủ vượt lên trên lề luật Do Thái giáo nếu có sự mâu thuẫn xảy ra, 20% nghĩ rằng phải luôn luôn tuân thủ luật lệ Do Thái, và 36% nghĩ rằng cái đó còn tùy, lúc cái này, lúc cái kia thắng thế.(48) Mặc dù vậy, sự phân cực cực giữa hai phe chính thống cực đoan và thế tục này cũng thể hiện một mối nguy cơ bản đang hiện hữu đối với nhà nước Do Thái, và không hề có chuyện những vụ không kích, những cuộc hành quân đặc biệt, những con sâu máy tính(49), hoặc giải pháp hai nhà nước có thể sửa chữa được nó. Vì những ranh giới chia cắt hai phe được rạch rất sâu, nên người Israel đặc biệt hào hứng với người nổi tiếng thế tục cụ thể nào đó lại nương theo chính thống giáo, hay một đứa con trai cô độc của một rabbi danh tiếng lại cải sang thế tục. Người Israel thường miêu tả hai hiện tượng này lần lượt là khozer bet-shuva và youtze be-she-ela, một lần nữa cho thấy cái nghịch lý đã ăn sâu vào tính cách dân tộc Israel. Hiện tượng đầu, được hiểu nguyên nghĩa là “trở lại với một câu hỏi”, ám chỉ rằng quay trở lại với Chúa; hiện tượng sau, đối ngược hoàn toàn, “bỏ đi với một câu hỏi” ám chỉ là đã bỏ mặc đức tin. Chẳng phải ngẫu nhiên, cả hai đều tồn tại trong mối quan hệ với Chúa và tôn giáo, và người rời bỏ nó không có câu trả lời, chỉ còn lại một câu hỏi. Trong khi việc đặt ra những câu hỏi hầu như chẳng phải là một lối sống ít giá trị hơn là tìm kiếm những câu trả lời, trong trường hợp người Israel, thì việc hỏi thực chất đã nằm ngay trong mối quan hệ qua lại với quá khứ của người Do Thái, tất cả những người mà những con đường của họ đều dẫn đến Chúa. Người Israel thích chứng kiến hiện tượng này, không chỉ vì nó thường đi kèm với những vụ xì căng đan của những người nổi tiếng hay bi kịch gia đình thương tâm. Đầu tiên, bất kể họ ở bên nào, họ đều cảm thấy có giá hơn khi một kẻ thù rời bỏ bên kia để gia nhập lực lượng bên này. Nhưng ở dưới tầng vô thức hơn, hiện tượng này hô ứng với những gì họ biết nhưng không thực sự muốn nghĩ đến, ví dụ như tận trong sâu thẳm, họ biết rằng mình cũng chứa chấp cái mặt đối lập kia. Điều này kéo chúng ta quay trở lại với khái niệm về sự tạo phản ứng của Freud và thuyết âm dương của phương Đông. Thẳm sâu trong tâm hồn con người cực kỳ thế tục, anh ta muốn tin tưởng, trong khi những người chính thống cực đoan muốn lầm lạc. Nhưng vì sợ hãi trước khát vọng như vậy, mỗi bên lại viện đến giải pháp củng cố con người cực đoan của mình bằng cách tấn công vào phần cực đoan của người kia, mà nhờ vậy đổi lại nó sẽ củng cố hơn phần cực đoan của anh ta. Tuy nhiên, giống như chế độ độc tài, chủ nghĩa cực đoan không ổn định và có thể trở thành đối lập, phản lại chính nó bất cứ lúc nào – hoàn toàn phù hợp với con người bất ổn của người Israel. Nhưng trái với sự chia rẽ mang tính tôn giáo, toàn bộ thuyết âm dương này thực tế lại khá ổn định, và mặt nọ có tiềm ẩn khả năng biến thành mặt kia, trong khi tiềm năng này có thể bắt gặp ở nhiều hiện tượng, sự vật, thì lại chẳng thể bắt gặp trong sự chia rẽ chính trị. Đáp lại lời đề nghị hòa bình năm 1977 của Anwar Sadat, Menachem Begin, một trong những con diều hâu an ninh(50) đi đầu và là người truyền bá cho một Israel Vĩ đại hơn, gần như là chỉ qua một đêm, đã đồng ý phá hủy các khu định cư và trao trả toàn bộ bán đảo Sinai cho Ai Cập – tất cả chỉ để đổi lại một hiệp định hòa bình mà trước đó ông gọi là “một mẩu giấy”. Chúng ta đã bàn luận về tính sớm nắng chiều mưa của Ariel Sharon, nhưng bây giờ có thể gộp cả Ehud Olmert, một đảng viên Likud suốt mấy thập kỷ, từng ở bên cánh hữu của Begin và bỏ phiếu tại Knesset phản đối hiệp định hòa bình trại David năm 1978 với Ai Cập. Năm 2008, nhiều ngày trước khi rời khỏi văn phòng thủ tướng, Olmert đã đưa ra cho chủ tịch chính quyền Palestine một lời đề nghị rằng Israel sẽ rút lui khỏi phần rộng lớn của Bờ Tây và thêm cho Palestine một phần đất trong lãnh thổ hợp pháp của Israel, phá hủy các khu định cư, và quốc tế hóa một phần Đông Jerusalem. Và đừng quên rằng đây là một chính phủ ngả về cánh tả, bán xã hội chủ nghĩa mà sau cuộc chiến năm 1967, đã tạo ra những khu định cư Do Thái ở Bờ Tây và dải Gaza, trái với những chính sách của chính nó. Gần đây hơn, có vẻ như là sau phong trào intifada lần thứ hai, các cuộc oanh tạc bom rocket vô nhân đạo, và sau Mùa xuân Ả Rập, những niềm tin mạnh mẽ của cánh tả Israel đã tiêu hao mất 1/10. Trong mọi trường hợp như thế này, những người dân nhiệt tâm thấu cảm giáo lý tôn giáo truyền thống lâu đời đã cải sang bên đối lập khi họ phải chạm trán với một sự kiện ngoại cảnh đột ngột – một động thái hòa bình chân thành, bạo lực kéo dài, một nguy cơ bị buộc tội, một thắng lợi trong chiến tranh, hay một sự cực đoan hóa trong hàng ngũ của kẻ thù. Hiện nay, có vẻ như cánh tả đã giành được một chiến thắng lịch sử khi Israel chính thức áp dụng chính sách giải pháp hai nhà nước, thì xã hội Israel nhìn chung lại đang dịch chuyển sang cánh hữu - một lần nữa chứng tỏ thêm một nghịch lý có thực. Nhưng không cần biết người ta xem chính phủ Israel theo cánh hữu và mang tính tư tưởng nào, không cần biết nó là chính phủ nào, thì hiện tại hay trong tương lai, thế nào nó cũng chuyển sang mặt đối lập của chính nó. Một người bạn Israel của tôi vừa nhớ đến lần đi mua sắm ở một cửa hàng quần áo nhỏ trong một ngôi làng hẻo lánh rúc sâu trong dãy Alps của Pháp. Khi anh ta đang xem một vài chiếc áo phong cách đồng quê trên các giá, hai thanh niên Israel đi qua anh ta và nói tiếng Hebrew. “Có ai lại mua những cái áo kinh tởm này chứ,” một trong hai người dè bỉu, không quan tâm có ai ở ngay chỗ đó hay không. Ồ, cậu này hẳn biết nhiều thứ, vì người Israel vốn dĩ là chuyên đi đây đi đó, ở bất cứ nơi nào bạn đến cũng nghe thấy tiếng Hebrew chen lên cùng với tiếng Đức, tiếng Nhật, hoặc tiếng Trung. Dù có thể cho rằng đây là do truyền thống tha phương của người Do Thái và những chuyến đi trong Kinh Thánh cổ xưa của Abraham, Jacob và Moses, hay đây là hiện thân của ý niệm về người Do Thái lang thang từ thời Trung cổ, hoặc đơn thuần là một cách để giải quyết nhu cầu tránh xa khỏi bầu không khí ngột ngạt hiện nay của họ, thì luôn có một thực tế là người Israel lúc nào cũng trong trong tư thế “xách ba lô lên và đi”. Trong hai thập kỷ trước, nhiều bạn trẻ Israel đã ra nước ngoài sau khi kết thúc nghĩa vụ quân sự. Một nghiên cứu tâm lý học đã báo cáo rằng những người trẻ này không phải đang tìm kiếm những chuyến phiêu lưu bên ngoài mà đúng hơn là họ đi để khám phá nội tâm bên trong. Đó là lý do tại sao họ thường chọn miền Viễn Đông hay Nam Mỹ xa tắp mù khơi, thường được gọi là những điểm đến tâm linh. Giống như những người trẻ “tìm kiếm bản thân”, người Israel nhìn chung mãi mãi tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi người Israel là ai. Với bản chất xã hội bị đứt gãy và với tuổi đời của Israel – phần trẻ con trong đứa trẻ già nua – câu hỏi này sẽ vẫn còn chưa được trả lời trong một thời gian dài tới đây. Bởi thế chính việc tìm kiếm danh tính mình là đặc tính trung tâm trong tâm thức người Israel. Trong khi bản chất xã hội Israel bị chia cắt và phân mảnh tan tác chính là yếu tố có tầm quan trọng vừa đủ để nảy sinh ra câu hỏi về danh phận của một ai đó như vậy, thì nhiều dòng chảy lịch sử giao thoa nhau đã bồi đắp thêm cho sự rối bời này. Có một điều, trong khoảng 30 năm trở lại đây, Israel đã dần chuyển mình từ một đất nước xã hội chủ nghĩa hẻo lánh tù đọng với văn hóa tập thể ngột ngạt thành một đất nước phát triển thị trường tự do tích cực xông xáo, với xu hướng ngả theo chủ nghĩa cá nhân vốn bị hạn chế. Cũng như vậy, làn gió châu Âu được những người Zion thời kỳ đầu nhập khẩu vào Plalestine đã bị ảnh hưởng đang ngày càng dâng cao của mọi thứ mang tính Mỹ thách thức nếu không nói là thay thế một cách chậm nhưng chắc. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, trong hai thập kỷ trở lại đây, đã tăng lên đáng kể những người Israel xem bản thân là những người phi Zion hoặc hậu Zion vì tôn giáo hoặc lý do chính trị nào đó. Những người Israel sống trong một đất nước nhỏ bé nơi ai ai cũng phải chịu những pha chao đảo dữ dội và bị ảnh hưởng bởi những cú va đập của lịch sử. Trong một xã hội có tính liên kết cao này, bạn chỉ cách những người khác một hoặc hai cấp độ liên hệ(51). Đấy là còn chưa kể, về bản chất người Israel đã cực kỳ tương tác với nhau. Họ nghiện ngập tất cả các thể loại giao tiếp và đứng vào tốp đầu những nước sử dụng điện thoại di động và máy tính trên đầu người cao nhất thế giới. Thực sự, đất nước của họ là cái nôi của nhiều ứng dụng công nghệ nhắn tin nhanh. Hẳn phải kể đến một bài phóng sự có một không hai cách đây vài năm kể về một lái xe người Israel bị bắt vì vừa đi vừa nói chuyện bằng hai chiếc điện thoại di dộng, giữ tay lái bằng hai khuỷu tay. Tất cả là để nói rằng thậm chí những kẻ nghi ngại nhất cũng phải thừa nhận rằng nếu tính cách dân tộc, sinh ra từ lịch sử của một quốc gia và dân nước ấy có cùng chung tính cách ấy ở mức độ nào đó, thực sự tồn tại, thì tâm thức người Israel chính là một trường hợp như vậy. Trong tâm thức Israel có hai dạng ái kỷ vừa bù trừ vừa xung đột nhau: kiểu những người già nua, mộ đạo, được lựa chọn, tạo dấu ấn rõ nét trong suốt lịch sử tâm lý Do Thái, và một kiểu người Zion mới, hoa-thần-kỳ-nở-trên-sa-mạc, ăn sâu vào tâm thức của người Israel trong thời gian gần đây. Cả hai đều góp vai trò trong thế giới quan của người Israel. Nhìn rộng ra, chúng cũng góp phần tạo ra những kỷ lục phi thường, những thành tựu của người Israel, cũng như những thất bại và việc chối bỏ cố chấp tiềm tàng hậu quả đầy bi kịch về những thực tế rõ ràng ở Trung Đông. Cuối cùng, chúng cũng là những thành phần thiết yếu trong sợi dây ràng buộc chắc chắn của người Israel với mảnh đất của họ. Ý niệm về những người được lựa chọn đôi khi bị lợi dụng để miêu tả hay thậm chí để giải thích ảnh hưởng không tương xứng của tư duy Do Thái và của những người Do Thái xuyên suốt lịch sử thế giới. Sự thực là, từ sự lên ngôi của thuyết độc thần ở Mesopotamia được cho là của họ, thông qua những đóng góp về mặt văn hóa trong suốt Thời đại Hoàng kim dưới bàn tay cai trị của đạo Hồi ở Iberia, cho tới danh sách cá nhân những người Do Thái đã tạo ra một luồng gió mới ở mọi khía cạnh trong lịch sử phương Tây hiện đại, những thành tựu vượt khuôn khổ của họ, tất cả sẽ khiến bạn phải băn khoăn. Với những cái tên như Eistein, Freud, Kafka, Disrael, Mendelssohn, Spinoza, Mahler, George Soros, Jacques Derrida, Steven Spielberg, Billy Wilder, Henry Kissinger, Heinz Kohut, Milton Friedman, Karl Marx, Trotsky, Wittgenstein, Martin Buber, Robert Oppenheimer, Jonas Salk, Michael Bloomberg, Bruno Kreisky, Woody Allen, Arthur Miller, Ayn Rand, Rothschild, và tất nhiên là cả Jesus, nếu kể hết ra đây thì quá dài và quá rối rắm, và thậm chí một số người đã kể ra đây còn chẳng có dấu hiệu gì cho người đọc thấy tầm vóc lớn lao thực sự của những ảnh hưởng đang được nói tới này. Người ta nói rằng, yếu tố là “số ít được lựa chọn” chỉ có ý nghĩa dựa trên cội nguồn tôn giáo và lịch sử, khôngđúng trên phương diện xã hội học hay nhân khẩu học. Nó dựa trên một thuyết trong Kinh Thánh nói rằng vì người Do Thái là những người duy nhất nhận được sự khải huyền của Chúa trời, nên người Do Thái và đất đai của họ là trung tâm của lịch sử thế giới. Nhưng như đã được học giả Do Thái David Biale chỉ ra, tính xác thực về những thời điểm trong Kinh Thánh khá lệch nhau. Judea là một vùng tù đọng, hẻo lánh, tỉnh lẻ mà số phận của nó bị những siêu thế lực của những nền văn hóa vĩ đại ở phương bắc, đông và nam, kiểm soát. Nếu người Do Thái trong thời đại Kinh Thánh có thực quyền, họ hẳn đã bị những siêu thế lực này kèn cựa thay vì để yên cho và hẳn là họ sẽ đi theo số phận của những người Assyria và người Babylon rồi. Mặt khác, nếu họ chưa phát triển một tín ngưỡng cùng sự vĩ đại của mình, thì họ đã tan biến như nhiều quốc gia nhỏ bé khác. Bởi vậy như Biable đã nói: “Việc không có một sức mạnh tương xứng kết hợp với một huyền thoại về sức mạnh đó có lẽ là một trong những chìa khóa để mở ra bí mật về khả năng sống sót của người Do Thái cổ xưa.”(52) Cùng một mạch tư duy như vậy, nhà kinh tế học Maristella Botticini và Zvi Eckstein đã lần dấu theo bước chân thành công của người Do Thái trong thời kỳ Diaspora cho tới sự suy vong quyền lực và việc Đền thờ của họ bị phá hủy vào năm 70 sau Công nguyên. Theo như thuyết này, khi những thầy tu tối cao ở Jerusalem không còn có khả năng đọc và nghiên cứu kinh Torah dưới văn bản viết trong Đền thờ được nữa, để duy trì sự tồn tại của tôn giáo này, những đám dân Do Thái lang thang phải biết đọc. Sử dụng chứng cứ lịch sử, Botticini và Eckstein đã chỉ ra rằng, qua nhiều thế kỷ, việc biết đọc trong một thế giới phần đông là mù chữ đã cho phép những người Do Thái không cải đạo(53)chuyển từ việc trồng cấy ở nông thôn sang những công việc chuyên nghiệp và có tri thức tại các thị trấn và thành phố.(54) Như được nhà phân tích này ám chỉ, ý niệm “số ít được lựa chọn” về bản chất có tính bổ khuyết. Điều này đôi khi được thừa nhận trong truyền thống Do Thái giáo, ví dụ như trong sách midrash nổi tiếng – một cuốn sách giảng giải của các rabbi một phần của kinh Torah – nói rằng người Do Thái được lựa chọn sau khi tất cả những quốc gia khác làm cho Chúa thất vọng. Việc những người Do Thái, khi được giải phóng, được miêu tả thái quá với quá nhiều tầng nhiều lớp thành công do vậy có thể được nhìn nhận không phải là một bằng chứng về việc họ được lựa chọn mà đúng hơn là kết quả của động lực bổ khuyết vĩ đại nhằm phủ nhận sự lép vế của mình và để lợi dụng được những gì họ học được từ việc xoay xở, đánh cược và sống sót bên rìa xã hội. Từ góc độ tâm lý học, lý giải như thế này vừa khớp với hiểu biết khái quát của chúng ta về ái kỷ, một tâm lý vừa lành mạnh vừa bệnh hoạn. Trái ngược với những gì người ta vẫn tin, tham vọng thành công và địa vị, suy nghĩ lớn lao hay hoang tưởng, và ý thức cực phát triển về quyền pháp lý vốn là đặc trưng cho một kẻ ái kỷ giỏi giang gương mẫu không phải là những hệ quả của sự tự yêu mình đến quá thể. Có chăng, thì cùng với sự tự tin, cởi mở, hay thậm chí kiêu ngạo đi kèm, họ được một áp lực nội tâm nghiêm khắc thúc đẩy là phải nâng cao lòng tự tôn thấp hèn của mình và phải đạt được sự chấp nhận và công nhận của người khác. Theo ý nghĩa này, thì ái kỷ chính là tự ghét mình hơn là tự yêu mình. Mô thức bổ khuyết chính bản thân mình như thế này không chỉ áp dụng với ý niệm mang tính lịch sử về “số ít được lựa chọn” của người Do Thái mà còn với giả thuyết cơ bản của những người Zion về việc xây dựng cho người Do Thái một ngôi nhà của chính họ trên mảnh đất tổ tiên. Chẳng cần tranh cãi gì nữa, trong khoảng chưa đến 100 năm, phong trào Phục quốc Do Thái đã biến chuyển cả một dân tộc và một vùng đất, xây dựng một nền dân chủ hàng-đầu-thế-giới, sôi nổi và quả quyết ngay chính giữa những người hàng xóm thù địch và tranh chấp kèn cựa. Ngày nay, tương xứng với tầm vóc của mình, Israel tiếp tục kiêu hãnh về rất nhiều thành tựu phi thường trong nhiều lĩnh vực đa dạng như quân sự, âm nhạc, công nghệ cao, kiến trúc, y tế, toán học, văn học, khoa học, giải trí và mỹ thuật. Trên mặt trận chính trị, giới vận động hành lang chủ chốt của ngoại giao Israel ở Washington – thủ đô của một siêu cường vẫn còn duy trì vị trí độc tôn ở phương Tây – là một trong những tổ chức vận động hành lang quyền lực nhất thế giới. Nhưng, như người ta đã dạy mọi đứa trẻ Israel ở nhà trường phổ thông, rằng phong trào Phục quốc Do Thái được sinh ra chỉ sau khi người Do Thái nhận ra họ sẽ chẳng bao giờ được xã hội Âu châu hoàn toàn chấp nhận. Thật vậy, Theo dor Herzl, người sáng lập chủ nghĩa chính trị Phục quốc Do Thái, ban đầu tán thành việc đồng hóa triệt để người Do Thái châu Âu thông qua việc cải sang đạo Ki tô và bất cứ một cuộc kết hôn liên tôn giáo nào. Chỉ sau khi theo dõi vụ Dreyfus và những cuộc bạo động bài Do Thái liên quan ở Pháp với tư cachs một nhà báo thì ông ta mới đổi ý. Đây là con đường khai phá đến với chủ nghĩa Zion, và như học giả người Israel Benjamin Beit-Hallahmi đã chỉ ra, nó có tính tương tác và cố thủ. Xét về ý nghĩa nào đó, nó không phản ánh một lựa chọn, hay ít nhất là một lựa chọn đầu tiên. Nó cũng đúng với hầu hết những người Do Thái rời đến Palestine và Israel trong những thập kỷ tiếp theo – suy cho cùng họ đến đó vì trốn án hành hình hoặc bị hắt hủi hay trục xuất.(55) Ban đầu, tầm nhìn của những người Zion đều vĩ đại và phô trương, và cả vùng đất mà ở đó những người Zion thuở ban đầu bắt đầu công cuộc của họ và chính nhiều người mở đường này không phải lúc nào cũng thấy le lói một tia hi vọng thuần túy nào. Khi nói về ý tưởng một nhà nước Do Thái ở Palestine, Herzl đã nói một câu nổi tiếng thế này: “Nếu đã khao khát, thì đó không còn là một giấc mộng nữa.” Nhưng mặc dù vào thời điểm ấy dường như hầu hết người Do Thái chẳng phản đối gì phong trào phục quốc, họ cũng vẫn còn hờ hững với nó, xem nó như là một điều huyễn hoặc và không thực tế. Bất cứ khi nào họ cảm thấy họ có một lựa chọn, phần đông sẽ chọn ở lại với thân phận Diaspora thay vì chuyển về quê cha đất tổ. Bởi thế nên chẳng ngạc nhiên lắm khi Herzl trình bày những ý tưởng của mình với người đồng chí là nhà báo Do Thái và sau này là một người theo chủ nghĩa Zion Max Nordau, người ta nói rằng Herzl đã yêu cầu Nordau nhận xét sự sáng suốt trong quan điểm của ông ta. Theo một vài nguồn tin, đến cuối cuộc nói chuyện, Nordau đã đáp lại: “Ông có thể điên rồ, nhưng nếu ông có điên, thì tôi cũng điên như ông vậy.”(56) Giờ đây nếu Herzl là một người đàn ông điên rồ – hoặc nói theo nghĩa tích cực, là một kẻ nhìn xa trông rộng – thì những người đàn ông, phụ nữ đã biến ý tưởng của ông ta thành hành động, phải gọi họ như thế nào đây? Họ là ai đây, những người tự dứt mình ra khỏi tổ ấm, gia đình và quê hương bản quán ở châu Âu rồi chuyển đến rẻo đất nóng rẫy như ở chốn sa mạc, đi đâu cũng thấy đầm lầy và lúc nhúc dân Ả Rập, để kiến tạo nên một nhà nước cho người Do Thái ở đó, gần như từ con số không? Trong khi nhiều người chỉ đơn giản là những người Do Thái Đông phương và Trung Âu chạy trốn khỏi sự áp bức hoặc đói nghèo, những cuốn sách lịch sử khắc họa nên vô số những lãnh tụ và những người tiên phong đầy nhiệt huyết, đủ mọi thành phần và vô cùng sáng tạo. Một số nổi loạn chống lại các bậc cha chú và bỏ nhà đến Palestine, còn một số thì tìm cách rũ bỏ danh phận Do Thái Diaspora và ấp ủ về một bản sắc kiểu người Zion mới; một số lại rũ sạch những lý tưởng chủ nghĩa xã hội và tâm huyết theo chủ nghĩa cộng sản; một số đi tìm sự cứu chuộc tâm linh nơi Đất Thánh; và một số đang tìm kiếm những cơ hội làm ăn ở một vùng đất chưa phát triển. A. D. Gordon, một kẻ nông dân-thuyết giáo giống Tolstoy, râu quai nón trắng, người đã lan truyền niềm tin về sức lao động chân tay và hành trình quay về với đất mẹ tự nhiên ở Galilee, và đã trở thành một trong những người sáng lập ra phong trào lao động; Manya Wilbushewitz, một phụ nữ Nga trẻ trung, bị giày vò về tinh thần, người ăn mặc như người Ả Rập chạy qua những ngọn đồi ở Galilee, và là một trong những người sáng lập một trang trại công, phiên bản đầu tiên của kibbutz; và Alter Levine, một nhân viên bảo hiểm từ Mỹ, định cư gần Tel Aviv nhưng đã du hành khắp vùng Trung Đông, lập nên một chuỗi các nhà chứa, chính ở đó người ta đã lấy được tin tức tình báo bằng cách tiếp cận và tống tiền những khách hàng là người trong quân đội Anh. Như nhà sử học Tom Segev đã nhìn ra, những người bị lôi kéo đến Palestine vào cuối thế kỷ 19 “đã đem đến sức mạnh thần kỳ của những dự báo và ảo ảnh, công cuộc khởi nghiệp, tinh thần tiên phong và đầu óc phiêu lưu.” Segev tiếp tục nói rằng: “Ranh giới phân biệt ảo tưởng với thực tế hành động thường mập mờ – có những kẻ bất tài và những kẻ lập dị đến từ đủ mọi quốc gia – nhưng phần lớn giai đoạn này nổi bật lên lòng nhiệt huyết và sự táo bạo, sự cả gan lần đầu tiên làm tất cả mọi việc. Có lúc, những người mới đến đã phải bả bởi một ảo tưởng mang tính tập thể rằng không gì là không thể.”(57) Vậy nên đã có những đợt nhập cư kiểu Hoa tháng năm(58) ở Israel. Những người với phẩm chất hiển hiện trong tính cách và nền văn hóa của mình đã hình thành nên những giá trị của giới tinh hoa Israel trong nhiều thế hệ tiếp theo. Dù tốt và xấu, những người tiên phong này đều có một điểm chung là sẵn sàng theo đuổi mục tiêu vĩ đại của riêng họ, không cần biết thực tế có những chướng ngại vật đang bày ra trước mắt. Về mặt tâm lý học, chất keo cố kết những người Zion thời kỳ đầu này chính là tinh thần ái kỷ cao độ, thể hiện ra trong một cuộc kiếm tìm hết lòng hết sức cái anh hùng, cái ngoại lệ hay cái đặc biệt vừa đủ. Nhiều người mới đến trong thời kỳ đầu có khả năng bất thường và rất ý thức được điều đó. Có lẽ câu chuyện kỳ quái của William Flinders Petrie, một người Anh được một số người xem là cha đẻ của khảo cổ học hiện đại, đã minh họa sinh động nhất điều này. Bị lôi kéo tới Jerusalem sau cuộc khai quật ở Ai cập và Palestine, ông đã định cư ở đó trong những năm tháng tuổi già của mình. Sau khi ông chết, bà quả phụ của ông đã chặt đầu ông ra, rồi đặt nó trong một chiếc bình chứa formaldehyde và chuyển nó về London để giải phẫu nhằm khám phá xem trong đầu ông ta có gì mà thông minh đến vậy. Nhưng giống như bệnh ái kỷ của người Do Thái cổ, nỗ lực của những người Zion thời kỳ đầu để đạt được sự ưu tú mang đậm tính bổ khuyết. Trong công cuộc đấu tranh để tạo nên một nhà nước Do Thái, họ đã cố gắng biến chuyển không chỉ thực tại bên ngoài họ, mà còn cả thế giới bên trong mình. Xét về mặt tâm lý, họ chẳng muốn gì hơn là trốn chạy khỏi hình ảnh họ tự hình dung về mình, hình ảnh người Do Thái Diaspora rụt rè ăn sâu vào tâm thức họ suốt những năm tháng trưởng thành ở quê hương bản quán tại châu Âu già nua. Nỗ lực lột xác của họ quá mãnh liệt đến mức họ phải bỏ qua những chướng ngại vật trong thực tiễn đang chình ình ngáng chân họ. Khi kiểu nỗ lực này đã đơm hoa kết quả, chúng ta có thể gọi nó là tầm nhìn; nhưng khi nó lụn bại, nó bị phủ nhận. Số phận Israel phụ thuộc vào ranh giới thẳng băng phân định hai nhà nước hiện nay, vì cơ chế phòng vệ về mặt tâm lý này có vai trò lớn lao đối với thành công của Israel cho đến lúc này, và cũng là cốt lõi của một trong những phương diện khó giải quyết nhất trong xung đột Ả Rập – Israel. Năm 1843, nhiều năm trước khi những người Zion bắt đầu định cư ở Palestine, một người thuyết giáo quốc tịch Mỹ được biết đến với cái tên David Millard, đến thăm Palestine, đã viết: Nếu người Do Thái một lần nữa sở hữu mảnh đất của ông cha họ, thì hẳn ở những quốc gia và những dân tộc xung quanh phải diễn ra một sự xáo trộn vô cùng quan trọng. Mảnh đất này hiện đã được những người Ả Rập bản địa định cư, họ canh tác đất đai và chủ yếu cư trú tại các thị trấn và làng mạc. Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để lấy được quyền sở hữu đất đai của họ? Một cuộc mua bán sẽ được dự liệu? Ai hay quyền lực nào ủng hộ một vụ mua bán như vậy, và những cư dân hiện nay sẽ đi đâu về đâu? Hay người ta đã dự liệu rằng họ sẽ bị đuổi thẳng cổ bằng thanh kiếm? Tôi tin rằng đây là phương cách duy nhất để có thể quét sạch cư dân hiện tại của vùng đất này. Nhưng trong trường hợp ấy, những người dân bản địa tất nhiên là sẽ bị tống trở lại vùng đất Ả Rập, uốn cong cong như vầng trăng khuyết quanh phía nam và phía đông của Đất Thánh. Những cư dân hiện tại bởi vậy sẽ không bị quét sạch đi mà không có sự chống cự và đổ máu nào, nhưng cùng đó là nỗi oán hận xương tủy nhất của họ. Từ Ả Rập, được trợ lực bởi những tộc người khác, họ sẽ tấn công hết lần này tới lần khác, tàn phá và để lại rác rưởi cho toàn bộ vùng đất.(59) Từ tình trạng hiện nay, lời dự đoán cay đắng này không thể không khiến chúng ta ngạc nhiên. Nhưng, nó cũng hiển nhiên với bất cứ ai hiểu biết lơ mơ về Palestine nhất vào thời đầu quốc gia khởi nghiệp của những ngườiZion. Thực tế là, những người Zion thời đầu đã biết rằng có nhiều người Ả Rập sống ở Palestine, nhưng họ làm ngơ trước vấn đề quan trọng này. Ví dụ, vào năm 1918, Ben-Gurion và Ben-Zvi, lần lượt là cố thủ tướng đầu tiên và cố tổng thống thứ hai của Israel, đã xuất bản một cuốn sách trong đó nói rằng họ thừa nhận có hơn một triệu người Ả Rập đang sống ở Palestine. Tuy nhiên, họ suy luận rằng, những cư dân bản địa này không cảm thấy đây là ngôi nhà của họ và chẳng có một dấu hiệu kết nối nào với vùng đất này.(60) Bằng cách nào đó, họ tiếp tục tin vào khẩu hiệu trước đó của phong trào Zion là mang “những người không có đất tới đất không có người”. Đinh ninh với quan điểm này, chính cái tên mà những người Zion đã đặt cho khu định cư của họ, tiếng Hebrew là yishuv, không chỉ có nghĩa là một khu định cư, mà còn là có nghĩa là đất bị bỏ hoang. Và rồi cứ như thể có tai như điếc có miệng như câm có mắt như mù trước thực tế sờ sờ ra đó, ngay từ những năm 1920, những lãnh tụ Zion đã cố gắng đặt những cái tên Hebrew cho những làng mạc thị tứ đặc Ả Rập. Trong khi một số người xem đây là một thủ đoạn tàn nhẫn kiểu trong truyện của Orwell(61) hoặc một thủ đoạn quan hệ công chúng để che đậy những mưu đồ thuộc địa của chủ nghĩa Zion, thì từ góc nhìn tâm lý, có một vấn đề khác nổi lên ở đây. Trong tâm thức người Israel, sự phủ nhận mang tính lịch sử dân cư và quốc gia của người Palestine đã biểu thị một ý định chung muốn kiềm chế thực tế bên ngoài trước ảo vọng bên trong của họ. Có thể tìm thấy một trong những ví dụ cay đắng nhất cho điều này trong câu chuyện về bài hát lúc nào cũng xếp đầu hạng của Israel, bài “Jerusalem hoàng kim” tuyệt hay, dù có phần sướt mướt. Được nhạc sĩ viết lời huyền thoại Naomi Shemer sáng tác vào đêm trước cuộc chiến tranh Sáu ngày, lời bài hát than tiếc hoài vọng về nỗi mất mát Thành cổ Jerusalem đã bị Jordan chiếm đóng vào năm 1948. Khổ thứ hai than thở cho khu chợ trống vắng hoang hoải của thành Jerusalem và những bể chứa nước khô cong. Nó tha thiết khi chú ý rằng không ai còn đến thăm Núi Đền hay xuôi về biển Chết bằng con đường qua Jericho nữa.(62) Bài hát ấy đã lay động tâm can của mọi người dân Israel trong những ngày căng thẳng của “giai đoạn chờ đợi” bước chân của cuộc chiến tranh đang tiến gần. Hồi ấy, tôi học lớp 4, tôi đã xúc động viết lên bài thơ Jerusalem của riêng mình cho tờ báo trường. Tuy nhiên, lời bài hát “Jerusalem hoàng kim” đã lờ đi một thực tế chẳng thơ chút nào là khu chợ chẳng phải trống vắng hoàn toàn mà đúng hơn là có biết bao nhiêu người Palestine chen chúc mua bán. Và rằng những cư dân này đang uống nước từ những bể chứa, cầu nguyện ở Núi Đền và xuôi về Biển Chết bằng con đường qua Jericho. Sau cuộc chiến ấy, mà kết quả là Núi Đền rơi vào tay người Israel, người sáng tác bài hát đã thêm vào một khúc mới cho lời cũ, hoan hỉ chúc mừng việc giành lại được những nơi này. Trên thực tế, để đúng là quay trở lại khu chợ thực, người Israel phải thế chân những người Palestine, trong một chừng mực nào đó thì họ đã tiến hành việc đó rồi – ví dụ, bằng cách phá hủy rất nhiều ngôi nhà của người Palestine để tạo nên một quảng trường công cộng mênh mông ngay trước Bức tường Than khóc. Như Naomi Shemer tự nhủ nhiều năm sau đó, thay đổi lời bài hát thì dễ hơn thay đổi một thành phố. Hoặc nói theo cách khác, sống trong thế giới tưởng tượng thì dễ hơn trong thực tế. Thực sự là, “Jerusalem Hoàng kim” chẳng có ý châm biếm cay đắng gì đằng sau tựa đề của nó: mẩu vàng duy nhất được tìm thấy trên đường chân trời lởm chởm đá của thành Jerusalem lại nằm trên thánh đường Hồi giáo Mái Vòm Đá. Phải gắng lắm mới hình dung được tất cả chẳng là gì ngoại trừ sự thật được thổi phồng do sức phong đại ngoa ngôn của một bài thơ. Tuy nhiên, phần đông những người Israel sống trong suốt thời điểm bài hát được ra đời đã thực sự hoàn toàn tin tưởng vào sự phủ nhận này, nếu không nói là ảo tưởng, của bài hát. Tôi đã sống 18 năm đầu đời chỉ cách “khu chợ đó” đúng vài dặm và chưa bao giờ tôi nhớ ra rằng có người Ả Rập ở đó. Thậm chí ngay cả khi Thành Cổ được “giải phóng”, hay “những ngôi nhà được phá hủy” gần với Bức tường Than khóc, sự tồn tại của những người đang sống ở đó chưa bao giờ thực sự len lỏi được vào trong ý thức của tôi. Hơn nữa, trong khi gia đình các bạn của tôi ở khu Do Thái Tây Jerusalem sống trong những ngôi nhà Ả Rập đẹp đẽ, cổ kính, không một ai từng nhắc đến chuyện chỉ 20 năm trước thôi những căn hộ đẹp tuyệt tác này đã được người Ả Rập sống và sở hữu, mà hiện giờ họ đang vất vưởng ở những trại tị nạn. Chẳng phải chỉ có mình tôi đãng trí như thế đâu. Thực sự là trong hơn bốn thập kỷ, người Israel đã biết rằng nếu họ vẫn nắm giữ được Bờ Tây và dải Gaza, thì sự chênh lệch lớn về tỉ lệ sinh giữa người Ả Rập và người Do Thái cuối cùng cũng sẽ đẩy người Ả Rập từ thiểu số thành đa số. Nhưng họ lờ đi thực tế này và thực hiện một phong trào định cư ồ ạt, tiến những bước chậm mà chắc đưa hơn một nửa triệu người Do Thái vào khu Ả Rập Đông Jerusalem và Bờ Tây. Có lẽ hình ảnh minh họa đắc địa nhất cho sự phủ nhận đằng sau phong trào định cư này là hai quyết định tối quan trọng của chính phủ Israel ngay sau cuộc chiến 1967. Mặc dù đã được các chuyên gia cảnh báo rằng sáp nhập cả những di chỉ thiêng liêng của Hồi giáo trong khu vực này vào lãnh thổ Israel sẽ gieo mầm cho một cuộc thánh chiến trong tương lai, và rằng thế giới Ki tô giáo sẽ không bao giờ chấp nhận một sự sáp nhập cả những địa điểm thiêng liêng của đạo Ki tô như vậy, nhưng chỉ sau cuộc tranh luận kéo dài hai tiếng đồng hồ, chính phủ đã quyết định cứ dấn tới kế hoạch này. Nhìn lại, có vẻ như quyết định này đã góp phần vô cùng lớn lao vào việc tiêm nhiễm những thái độ thù địch tôn giáo vào một mối xung đột chính trị vốn đã lan rộng từ trước. Trong cuộc họp thượng đỉnh Trại David năm 2000, nó đã chứng tỏ là một trong những vấn đề chính, nếu không phải là chủ chốt, gây trở ngại cho một giải pháp chính trị tiềm năng. Vài ngày sau đó, quyết định thứ hai đã được thông qua, cũng không một chút thận trọng nào. Từ chối lời đề xuất thống nhất Jerusalem bằng cách sáp nhập Đông Jerusalem như đã được kẻ xâm chiếm trước đó, Jordan, vạch ranh giới – một phạm vi chỉ rộng 7 km(2) – chính phủ đã chọn gộp cả 64 km(2), sáp nhập với 28 ngôi làng ở Bờ Tây vào với thành phố này và tăng gấp ba diện tích của nó. Lại một lần nữa bỏ qua những lời cảnh báo, các quan chức chính phủ kết luận rằng bằng cách xây dựng 10.000 ngôi nhà, họ sẽ có thể chặn cơn thủy triều dân số đang lên và chắc chắn là tăng tỉ lệ người Do Thái thành đa số ở Jerusalem. Nhưng tỷ lệ sinh cao của người Ả Rập và số lao động Ả Rập cần thiết cho tất cả việc xây dựng công trình mới này đã quét sạch ảo tưởng của họ. Trong vòng 40 năm, tỉ lệ người Ả Rập ở thành phố này đã tăng từ 18% trước khi sáp nhập lên đến 34%. Và dựa vào tỉ lệ sinh hiện tại, dễ có khi nó sẽ đạt đến 50% dân số trong vòng 15 năm nữa.(63) Nhiều năm trôi qua, bất chấp thực tế từ trước, cũng một tầm nhìn ấy, họ đã phát triển khu định cư ở Bờ Tây. Mặc dù không sáp nhập chính thức vào Israel, những sự kiện thực tiễn(64) được tạo ra ở ngay mảnh đất trung tâm của người Palestine đã khiến cho việc người Palestine có thể lấy lại quyền kiểm soát về phương diện chính trị là hoang đường, mà thực chất nó là một phần trong toàn bộ mưu đồ này. Nhưng cũng như vậy, thực tiễn ở đây không hoàn toàn hướng về ảo tưởng hòa giải. Nhiều năm người Palestine chống cự và chiến đấu, bắt nguồn từ dải Gaza và bờ Tây, cuối cùng cũng khiến cho tâm thức của người Israel hiểu sâu sắc rằng sự chênh lệch về dân số đang gõ nhịp thời gian. Hiện tại, hầu hết những người Israel Do Thái đang bắt đầu nhận ra rằng sớm thôi họ sẽ phải lựa chọn giữa việc để tuột chính phủ vào phần đa số những người Ả Rập và đánh rơi nền dân chủ vốn không hoàn hảo của mình vào một chế độ kiểu Apartheid. Theo như chuyên gia Sergio DellaPergola tại trường Đại học Hebrew, dựa trên những khuynh hướng thay đổi tỉ lệ dân số hiện tại, trước năm 2020 số dân sống giữa biển Địa Trung Hải và sông Jordan sẽ có nhiều người Ả Rập hơn người Do Thái(65). Tuy nhiên, nhiều người Israel vẫn coi đó là điều đương nhiên hoặc đơn giản là tránh nghĩ đến nó, vậy nên dường như không thể thừa nhận sự hạn chế trong sức mạnh tinh thần khắc phục khó khăn. Tất nhiên, luôn có những ngoại lệ: tác giả viết sách bằng tiếng Hebrew này, người đã cảnh báo ngay từ năm 1913 rằng những người Ả Rập đông đảo đã làm chủ mảnh đấy này và người Do Thái với người Ả Rập chỉ có điểm chung là sự thù hận và đó là điều không thể tránh khỏi; thủ tướng chính phủ, người phản đối những quyết định về vấn đề Jerusalem, đã cảnh báo rằng thế giới thế kỷ 20 bài thuộc địa sẽ không bao giờ chấp nhận một sự bành trướng như vậy; một nhà báo, người đã báo cáo về những người Palestine tị nạn ở thế hệ thứ ba chưa bao giờ đặt chân đến Yafo(66) nhưng cũng chỉ dính dáng tới nó, như người Israel với Tel Aviv hoặc Kinneret; và tạp pí lù những người cánh tả, những người theo chủ trương hòa bình, và những người cấp tiến, phản đối sự chiếm đóng phần lớn là dựa trên những phương diện đạo đức. Nhưng những ngoại lệ này chủ yếu càng làm sáng tỏ thêm cho quy tắc. Thậm chí hiện nay, khi nhiều người Israel thừa nhận “vấn đề về dân số”, thì sự phủ nhận vẫn cứ còn dai dẳng, có thể nhận ra điều đó khi những chính trị gia thiếu một động lực sốt sắng với tiến trình hòa bình, và có lẽ thông qua một biểu tượng lột tả chính xác nhất, đó là bức tường phân cách cao mười foot có nhiệm vụ bảo vệ được nhà nước Do Thái khỏi thực tế nhãn tiền về tỷ lệ dân số. Sự phủ nhận này còn gây ấn tượng mạnh hơn nữa khi nuốt chửng đi thực tế là những người Israel Ả Rập đã tồn tại và cho đến năm 2013 họ đã chiếm khoảng 20% tổng dân số Israel. Mặc dù họ là những công dân Israel và được hưởng mức sống cao hơn và có quyền tự do hơn rất nhiều so với đông đảo những người đồng đạo ở các nước Ả Rập hoặc Chính quyền nhà nước Palestine, tuy nhiên họ là đối tượng bị phân biệt đối xử cả trong các cơ quan công quyền lẫn ngoài đời sống dân sự. Chẳng phải vô tình mà họ không cảm thấy nhà nước Do Thái này là nhà, vì rõ ràng là họ đã thấm thía cảm giác bị gạt ra ngoài, không được dự phần vào lời hát quốc ca, vẫn vinh danh về nỗi khao khát của những tâm hồn Do Thái đối với quê cha đất tổ. Một bằng chứng chắc chắn hơn nữa, như đã được nhà báo người Anh Martin Fletcher lưu ý, trong khi Israel ngay từ ngày đầu thành lập đã trở thành một công trường xây dựng mênh mông bát ngát, thì trong toàn bộ những năm qua tuyệt nhiên không có một mống thị trấn Ả Rập nào được xây dựng(67). Không hề nghi ngờ là các chính sách của chính phủ đã hạn chế khắt khe những người Ả Rập Israel được tiếp cận với những cơ hội làm ăn và gạt họ ra ngoài sự hòa hợp thống nhất toàn vẹn dân tộc. Đi kèm với sự chống cự ngày càng dâng cao của những người anh em đạo hữu Palestine trong những lãnh thổ bị chiếm đóng, và làn sóng ủng hộ của thế giới đối với sự dân chủ hóa và lẽ công bằng, dần dần di chứng thù hằn này đã ăn sâu vào bộ phận dân chúng ấy. Quả thực, sau chiến tranh năm 2014 tại dải Gaza, có nhiều cuộc bạo động chống người Israel đáng chú ý trong những thị trấn người Israel Ả Rập cũng như những hoạt động khủng bố được khởi xướng bởi những người Ả Rập-Israel từ Đông Jerusalem. Giả như năm 2011 và 2012, những cuộc nổi loạn và nổi dậy này lan rộng ra Trung Đông, thì bây giờ dễ có khi những người Ả Rập Israel sẽ bằng cách này hay cách khác gia nhập đội quân chống lại Israel, và trong trường hợp này, sự chống phá ở tận sâu trong lòng nhà nước Do Thái. Nhưng, người Israel không đưa ra một dấu hiệu chứng tỏ họ thấu hiểu hay nhận thức về tác động tiềm ẩn của một cuộc nổi dậy như thế. Thậm chí tại một vài thành phố Israel có người Do Thái sống chung với người Ả Rập, nhiều người Do Thái lại dửng dưng với người Ả Rập. Họ thường chỉ biết đến những người Ả Rập làm quản gia, người gác cửa, công nhân xây dựng, tài xế, và có lẽ cả y tá của họ. Vậy nên người ta mới nói khuất mắt trông coi. Như đã ngụ ý từ trước, việc phủ nhận không phải lúc nào cũng là chuyện chẳng hay ho. Phủ nhận cái chết ở rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, nếu không cực đoan thái quá, chính là cách giữ cho chúng ta khỏi bị rơi vào sự vô nghĩa và vô vọng, cho phép chúng ta vượt qua một số giới hạn thể lực và thực hiện những điều phi thường. Tất cả những điều này nói chung đều đúng với những người Israel. Phủ nhận và xông xáo tìm cách vượt qua những khó khăn thực tế có thể đem đến hiệu ứng tâm lý tích cực sâu sắc. Nhà nghiên cứu văn học và điện ảnh Nurit Gertz sống tại Tel Aviv đã rút ra từ lịch sử Israel một ví dụ kinh điển cho quy tắc này. Phân tích một loạt các tác phẩm hư cấu và phi hư cấu viết bằng tiếng Hebrew trong thế kỷ 21, Gertz đã chỉ ra đôi khi người ta phủ nhận những thất bại quân sự để kích động và tăng cường nhuệ khí của người Do Thái trong những ngày đầu lập quốc như thế nào. Một tờ báo đã miêu tả việc để Thành Cổ Jerusalem rơi vào tay Jordan trong chiến tranh năm 1948 là một chiến thắng kiểu “không thành công cũng thành nhân” của những người Do Thái chiến đấu trong trận chiến đó, trong khi việc người Ả Rập chiếm được thành phố này chỉ là một chiến thắng hữu danh vô thực. Một tờ báo khác, đưa tin về trận đánh nổi tiếng giành kibbutz Yad Mordechai ở phía nam, lần đầu tiên miêu tả tiểu đoàn vũ trang Ai Cập đã rút lui một cách xấu hổ nhục nhã, sợ hãi những đứa bé trai Israel đang giận dữ xua đuổi họ mà không hề có một tấc sắt trong tay. Chỉ sau đó nó mới đưa tin trung thực về trận đánh này, như là, những chiến sĩ Israel sau đó đã rút lui và bỏ lại kibbuzt cho kẻ thù. Phần sau này, bài báo chỉ tóm tắt hời hợt.(68) Thậm chí còn quan trọng hơn, việc từ chối chấp nhận những giới hạn của thực tế có thể làm biến chuyển chính thực tế đó, và người Israel đã làm như thế không biết bao nhiêu lần. Năm 2007, Israel bắt đầu phát triển Mái Vòm Sắt, một hệ thống phòng thủ tên lửa, mà vừa mấy năm trước đó nhiều người coi đây là điều phi thực tế, có lẽ na ná kiểu Chiến tranh giữa các vì sao của Ronald Reagan bị đem ra làm trò cười(69). Mái Vòm Sắt được đưa vào hoạt động quá nhanh đến mức trước năm 2014, nó đã thay đổi bản chất cuộc chiến tranh của Israel với Hamas, có thể đã cứu được hàng nghìn sinh mạng ở cả hai phía. Thái độ của Israel đối với thiểu số những người Ả Rập và những người Palestine trên lãnh thổ này bộc lộ một mặt khác của thói ái kỷ của người Israel, chẳng hạn như sự thiếu cảm thông hay thiếu khả năng đồng cảm và thấu hiểu với hoàn cảnh và trải nghiệm của tha nhân. Trong những năm gần đây, vì Israel và Hamas xung đột với nhau trong vòng tròn luẩn quẩn những vụ đụng độ quân sự không cân sức, truyền thông của Israel ngày càng trở nên quen thuộc với việc khi báo cáo điều gì đó đại khái như kiểu “Ngày hôm nay, 17 dân thường Palestine, bao gồm phụ nữ và trẻ em, bị giết ở dải Gaza trong khi có bốn vụ đáng lo ngại ở bên ta.” Người Israel dùng từ “vụ đáng lo ngại” để thể hiện nỗi lo lắng cho một vụ tấn công đáng sợ, có thể có hoặc có thể không gây ra những triệu chứng kéo dài lâu hơn như là rối loạn căng thẳng hậu chấn thương. Hay một đoạn trong một tờ báo có thể đưa tin rằng: “Chín người Palestine đã bị chết trong một vụ tấn công của IDF tại những ngôi nhà của binh lính Hamas” và “một quả bom rocket từ dải Gaza đã phá hoại nghiêm trọng một nhà kính [hoặc một kho] ở Ashdod(70)”. Việc thiên vị mang tính ái kỷ cảm xúc và nhận thức của người này hơn cảm xúc và nhận thức của người khác là đặc điểm của phong cách giao tiếp ứng xử của người Israel không chỉ trong quan hệ với những người Ả Rập mà còn cả với những người anh em Do Thái. Đó là một trong những thứ khiến việc lái xe, mua sắm, ăn tối, hay làm bất cứ việc gì cần có một chút tương tác xã hội bên ngoài ở Israel khá gây bực mình. Bạn của tôi, một viện sĩ hàn lâm người Israel có giọng nói nhẹ nhàng, nhớ lại lần trở về sau một chuyến ra nước ngoài với đứa con trai 3 tuổi củamình. “Chúng tôi đang chờ trước băng chuyền tải hành lý, con tôi vô cùng phấn khích mong chờ hành lý bắt đầu đi vào, thì thình lình một người đàn ông Hasidic(71)khoảng 70, 80 tuổi đẩy chúng tôi ra một bên để lấy hành lý của ông ta, dúi con trai tôi xuống. Trong một giây, tôi cảm thấy mình đang lao lên, trên lối đi của mình tôi đẩy lão già đó xuống đất để cứu con trai.” Mặc dù hầu như là chuyện này sẽ không dẫn đến xô xát, nhưng bon chen kiểu ta là nhất như thế này nhan nhản khắp nơi trong cuộc sống thường nhật của người Israel. Nó thường khiến người ta bực bội, đôi khi là lố bịch. Trong một buổi nói chuyện trên đài phát thanh, người dẫn chương trình báo cho diễn giả biết anh ta có ba hoặc bốn phút để nói lên ý của mình, hai người đã dành nửa thời gian đó để cự nự nhau là ba hay bốn phút có đủ không vì diễn giả trước đã được dành cho một khoảng thời gian hào phóng hơn thế. Trong suốt khóa huấn luyện ở El Al, người ta nói các những tiếp viên hàng không rằng khi người Israel mua một vé máy bay, họ tin rằng họ không chỉ mua một cái vé, mà mua cả máy bay, phi công, và tiếp viên hàng không. Hoặc như Martin Fletcher đã viết trong cuốn sách về việc đi bộ trên bờ biển Địa Trung Hải kéo dài của Israel: “Còn chỗ nào khác nữa trên thế gian này mà bạn ngồi cà phê vào ngày thứ Sáu cùng với mười người, thì cả mười đều nói một lúc, và sau đó chẳng biết đích xác những người kia nói cái gì?”(72) Tuy nhiên, đôi khi, điều này thật phiền phức. Trong một buổi shivah(73) ở Jerusalem, tôi bị váng hết cả đầu bởi rất nhiều cuộc nói chuyện ồn ĩ – hay, thực sự là, độc thoại chen lấn, xô đẩy nhau – về những thành tựu tầm cỡ thế giới của những vị khách và về việc người đã khuất hay gia đình ông ta nhỏ nhoi đến mức nào. Ai cũng cố chộp lấy cơ hội để nói, một người đàn ông đã thao thao về những dự án bất động sản của ông ta ở Los Angeles, người khác nói về những mối quan hệ tay trong tay ngoài của ông ta với chính phủ, người thứ ba thì nói về những đứa cháu nội cháu ngoại của mình đang theo học ở Harvard hay Stanford, và một người thứ tư nói lấy nói để về đứa cháu của ông ta đang làm ở Google. Ầm ĩ om sòm và chẳng ai chịu ai, những vị khách chẳng thể hiện một chút quan tâm nào, hay một mảy may xót thương đến bà quả phụ già đang hoang mang và kiệt sức. Năm 1938, chẳng bao lâu sau vụ Kristallnacht(74), Ben-Gurion, sau này đứng đầu Yishuv(75) nói về việc giải cứu những đứa trẻ Do Thái ở Đức. Ông nói nếu cứu trẻ em Do Thái ở Đức mà được lựa chọn giữa việc đưa tất cả tới Anh, hay chỉ được một nửa đến Palestine, thì ông sẽ chọn phương án sau. Ông giải thích là chẳng gì quan trọng hơn là cứu quốc gia Hebrew trên chính mảnh đất của nó, . Như đã được nhiều người trong đó có Tom Segev miêu tả, trong cuốn One Palestine, Complete, giới lãnh đạo Zion cứ khăng khăng với tư tưởng này, họ coi những người Do Thái ở châu Âu là “sức người” cần thiết để kiến thiết nước nhà, hơn là coi nhà nước này là một cái cọc để những người Do Thái bấu víu vào. Tự bản thân Ben Gurion đã xác nhận rằng ông ta thích những người nhập cư trẻ hơn là già, và những người ở độ tuổi lao động hơn là trẻ con. Trong suốt thập niên 1930, số người được cấp giấy phép nhập cư là phụ nữ chỉ chiếm 20%, trong khi trẻ con rất ít ỏi, không một đứa trẻ thiểu năng nào được vào lãnh thổ(76). Người ta cân nhắc những chính sách nhập cư này trên cơ sở xem xét điều gì là tốt cho tập thể, nhưng việc ngầm ngó lơ hoặc thái độ khinh khi công khai đối với những kẻ “yếu đuối” và phải nương nhờ vào người khác vẫn còn là một đặc trưng trong xã hội Israel cho đến tận hôm nay. Từ những trò chế nhạo suồng sã mấy cậu thanh niên không hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong quân đội đến những mức kết án từ xưa đến nay vẫn nương nhẹ đối với những hành vi xâm hại phụ nữ, trẻ em và người Ả Rập, văn hóa Israel không bao giờ dư dả nỗi cảm thông với những người như vậy. Có thể hiểu được tại sao người Israel đặc biệt vô cảm với những đau thương mất mát của người Palestine. Điều này một phần là do tình trạng chiến tranh giữa hai dân tộc và lịch sử những trò hung bạo của người Palestine, nhưng nhìn rộng ra thì có thể do những biểu hiện ái kỷ. Người Israel thường nhìn người Palestine như là những kẻ thụ động, bạc nhược, hèn nhát, bi lụy và quỷ quyệt, gần như là bức chân dung thời xa xưa của người Do Thái thờiDiaspora trong con mắt của những kẻ ngoại đạo, và do đó là hình ảnh chủ quan hóa, bị áp đặt, hoặc hình cảnh tiêu cực, bị chối bỏ mà con cháu Israel của họ tự nhận thức về bản thân. Liên quan đến những người Ả Rập, người Israel có tiền lệ là chỉ nói chuyện bằng vũ lực. Nhưng một cách mơ hồ, những phản ứng hòa giải của Israel đối với cuộc chiến tranh năm 1973 và hai cuộc intifada của người Palestine lần lượt là trao trả lại Sinai cho Ai Cập, công nhận Phong trào giải phóng Palestine PLO, và rút khỏi dải Gaza – cũng có vẻ giống như một biểu hiện của sự ái kỷ. Tôi đã xem xét một ví dụ khác, đó là gần đây tôi có làm một chuyến dạo quanh Thành Cổ, hướng dẫn viên du lịch người Israel đã giải thích cho nhóm du khách rằng tháp cao ráo của thánh đường Hồi giáo kia là biểu thị cho tham vọng thống trị của đạo Hồi. Thực tế này, cũng như những điều khác có liên quan đến ảnh hưởng Ki tô giáo thời kỳ đầu, phức tạp hơn nhưng khi hỏi nó có khác gì với những ngôi nhà Do Thái quá khổ bành trướng ở nhiều khu trong Thành Cổ, hay những khu định cư trên các đỉnh đồi ở Bờ Tây, trông như những pháo đài, ngạo nghễ vươn mình vượt hẳn những ngôi nhà bé nhỏ của những làng mạc Ả Rập gần đó hay không, anh ta chỉ đơn giản là chối bay chối biến. “Những ngôi nhà của người Do Thái chẳng to lắm,” anh ta nói, ngay khi chúng tôi tình cờ bắt gặp một giáo đường Do Thái to vật vã ở cuối một con hẻm nhỏ của khu Hồi giáo với những ngôi nhà Ả Rập tí hon ở hai bên. Trong bất cứ trường hợp nào, việc gán những mặt xấu của bản thân cho những người Palestine là một trò tiêu khiển “thường ngày ở huyện” của người Israel, nó càng làm rộng ra hố sâu ngăn cách đầy lòng ác cảm giữa hai quốc gia và làm sâu sắc thêm mối hận thù và khinh khi của người Israel đối với người anh em Ả Rập cùng gốc Semite(77) của mình. Để làm cho vấn đề thêm phần phức tạp, một biểu hiện cụ thể hơn đã bị phóng chiếu cho người Do Thái Ả Rập, nhiều người ở Israel gọi họ là người Do Thái phương Đông, có lẽ như nhà tâm lý học người Israel Avner Falk đã cho rằng, là vì từ Arab ở Israel quá u ám húy kị. Như Falk đề xuất, so sánh với những người đồng đạo nhánh Ashkenazi của họ, người Israel với nguồn gốc từ những nước Ả Rập có thêm nhiều lý lo, cả ngoại tại lẫn nội tại, để bộc lộ những mặt tiêu cực của bản thân đối với người Palestine và những người Ả Rập khác. Người ta nói đùa rằng nhà thơ sáng tác bằng tiếng Hebrew theo Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái được ngưỡng mộ, thần tượng, nhập cư tới Palestine vào năm 1924, là Hayim Nahman Bialik, rất ghét người Ả Rập vì họ giống với những người Do Thái phương Đông. Bởi vậy cả lý do vì họ bị những người Israel Do Thái dòng Ashkenazi phân biệt đối xử vì nền văn hóa Ả Rập của mình vừa vì họ cần giữ khoảng cách với phần danh tính đó để đun đẩy lòng tự tôn bản thân, người Do Thái phương Đông đã thấm nhuần cảm giác thù địch đối với người Palestine hơn rất nhiều so với người Israel có nguồn gốc phương Tây. Những cuộc thăm dò ý kiến của nhân dân trước sau đều cho thấy rằng người Do Thái phương Đông ghét người Ả Rập nhiều hơn cả những người Do Thái có nguồn gốc phương Tây.(78) Thiếu lòng cảm thông, lờ đi thực tế và khao khát thành công bất kể thủ đoạn, tất cả sản sinh ra một thói ưa bớt xén, lừa bịp và dối trá ở người Israel. Trong một quán cà phê sang trọng ở trung tâm Jerusalem, tôi đã chứng kiến một màn đùa bỡn bình thường hoặc cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa một chàng sinh viên sau đại học và một cô giáo trẻ trường cấp ba. Cô giáo này đang làm việc với một đồng nghiệp, chuẩn bị giáo án cho tuần sắp tới. Trêu chọc cô gái này, chàng thanh niên trẻ nói: “Làm cùng nhau? Gian lận nhé! Em sẽ làm gì nếu bắt quả tang một sinh viên đang quay bài?” “Thì” cô nàng chống chế, “nếu em bắt quả tang học sinh quay bài, em sẽ không coi đấy là một việc gì xấu. Em sẽ xem đó như là một biểu hiện cho thấy cậu ta muốn thành công. Cậu ta đầy nhiệt huyết.” Mọi người đều cười, và một cuộc trò chuyện về việc cắt xén tiếp nối. Điều này nhắc cho tôi nhớ đến một bệnh nhân người Israel trước đó đã đến gặp một nhà phân tâm học người Mỹ trong nhiều năm. “Có những lúc cô ta chẳng hiểu tôi gì,” anh ta than phiền. “Một lần tôi nói ‘Không thể tập bơi bằng cách đọc sách được.’ “Tại sao anh lại được miễn tập bơi bằng cách đọc sách?’ Đúng là đồ Mỹ!” Một phiên bản khác về đầu óc kiểu này: Một thợ khóa người Israel sống ở New York kể về việc anh ta kiếm sống như thế nào. Khi có một khách hàng lỡ bỏ quên chìa khóa trong nhà gọi anh ta đến vào ban đêm, anh ta sờ mó vớ vẩn vào cái khóa như thể đã gần mở ra được rồi. Sau đó anh ta “sơ ý” phá hỏng nó, để lại vị khách với hai con đường: một là để cửa mở cả đêm, hai là lắp một cái khóa mới nhưng giá gấp đôi. Có lẽ, chuyện này chẳng có gì táng hồn thất đảm hơn những thối nát về đời sống cá nhân và trong chính trường vốn đã là dịch bệnh lan khắp các cơ quan đoàn thể trong bộ máy chính trị Israel trong nhiều thập kỷ. Khi một chính trị gia Hoa Kỳ vượt quá giới hạn, thì nó thường liên quan đến tình dục; còn ở Israel, nó thường xuyên là về tiền. Trong những năm gần đây, xã hội Israel đã liên tục phơi bày những sai trái về tài chính và đạo đức con người ở chóp bu giới lãnh đạo, với những cuộc điều tra hình sự, những bản cáo trạng hoặc những lời buộc tội trong những vụ án của các bộ trưởng, các thủ tướng và của một tổng thống. Một doanh nhân người Israel định cư ở châu Âu mập mờ thừa nhận về việc những cộng sự làm ăn người Âu của anh ta cảm nhận về những người Israel làm cùng và những người bài Do Thái cổ lỗ là: những kẻ nói dối, những kẻ cướp và những thầy dùi không đáng tin. Khi đàm phán với những người anh em Israel của mình, doanh nhân này ngay từ đầu đã cảnh báo họ rằng đừng bắt đầu đàm phán bất cứ việc gì trừ khi họ đang sẵn sàng nhân nhượng vụ này. Giải thích cho biểu hiện ái kỷ này, anh ta giải thích rằng bởi lẽ người Israel luôn dối trá – thậm chí ngay cả trong vô thức – họ không bao giờ tin lời nói không của người khác. Họ nghĩ mọi thứ đều có thể thỏa thuận, và nếu chính miệng họ không nói rằng họ sẽ nói không và thực sự có ý như thế, thì họ sẽ chỉ đang lãng phí thời gian của anh trong những cuộc đàm phán bất tận. Người ta có thể cho rằng, đó là lý do tại sao các chính phủ Israel cứ nhất định thích lao vào công cuộc đàm phán không bao giờ dứt mà không có những điều kiện trước với Palestine: họ tin rằng một ngày nào đó họ sẽ thuyết phục được những người Palestine, nói thế nào nhỉ, từ bỏ Đông Jerusalem. Đó cũng là cách mà người Israel ứng xử với đồng minh trên chính trường quốc tế. Ví dụ như vào tháng 12 năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Moshe Yaalon tìm ra cách bành trướng những khu định cư Bờ Tây thông qua hệ thống ra đa nhằm thách thức phương Tây mà không hề phải chuốc lấy lời phê phán nào. Áp dụng một luật lệ cho phép IDF chiếm cứ đất đai ở Bờ Tây cho mục đích quân sự, ông ta di chuyển những doanh trại gần những khu định cư hiện tồn đến những vị trí khác, cho phép những khu định cư này mở rộng vào vị trí doanh trại hiện trống quân mà không thông qua một quyết định chính thức của chính phủ. Có thể nhận thấy rất rõ những phiên bản của thái độ này từ phía người Israel trong đời sống thường nhật khi cố lấy được bất cứ thứ gì cần phải có sự hợp tác, thỏa thuận, cho phép hoặc giấy tờ mới xong – từ việc lái một chiếc xe đến việc thuê một căn hộ. Như cựu chiến binh – kiến trúc sư ở Tel Aviv đã nói với nhà báo người Anh Martin Fletcher: “Vấn đề ở Tel Aviv, như bất cứ nơi nào trên đất Israel, là chẳng cha nào bị nói không cả. Một lời phản hồi từ chối từ người quy hoạch đô thị không phải lời nói cuối cùng, mà chỉ là một chướng ngại vật khác phải vượt qua mà thôi.”(79) Liên quan đến tất cả những việc nói-không và kinh doanh kiểu con cầy này đã thành hai mô thức ăn sâu vào trí não người Israel. Đầu tiên, có một thói bất tôn đối với chính quyền, có lẽ là bắt nguồn từ việc không tin vào hệ thống hành pháp của những người bị ngược đãi đối với những chính phủ Diaspora mà họ không thể dựa vào để được bảo vệ, cùng với cuộc vật lộn mưu sinh bên lề cuộc sống bán buôn. Tuy nhiên, trong câu chuyện về Zion, nó còn hợp lực với lý tưởng sinh động hơn, bạo liệt hơn về người Do Thái mới. Một số nhà tâm lý học và văn sĩ đã gợi ý rằng câu chuyện Phục quốc Do Thái là một trong những cuộc nổi loạn kiểu ơ đip chống lại và tranh nhau tiếng gáy với người cha xui rủi là tình trạng bị trục xuất. Nếu theo thuyết này, người Do Thái của xứ Diaspora trong lịch sử bị tắc trong lãnh thổ ơ-đip tiêu cực, chính là, sự gắn bó quyến luyến với người mẹ và sự phục tùng với người cha.(80) Rõ ràng là những người Zion thời kỳ đầu từ chối thẳng băng luận điệu này, và có lẽ nó có thể giải thích tại sao giới trí thức của họ lại bị hút hồn vào học thuyết của Freud, mặc dầu những học thuyết của ông ta không thể nào tương hợp với những học thuyết của một trong những người anh hùng khác của họ, Karl Marx. Vấn đề là dù ơ-đip hay không ơ-đip, cả Freud và Marx đều là những nhà cách mạng. Freud vẫn còn nổi tiếng trong những giới phân tâm học ở Israel hơn là ở nhiều nước khác, và sự chất vấn chính quyền một cách rõ ràng và quả quyết cũng như vậy. Vài năm trước, tôi tham gia một pe-ulah, hay một hoạt động ngoại khóa Ngày tưởng niệm Đại thảm sát Holocaust, tại một trường cấp ba của Israel cho những học sinh quốc tịch Mỹ. Pe-ulah bắt chước cuộc họp mặt của Hội Nam hướng đạo Israel truyền thống, và hướng đạo trưởng đưa cho một cặp trẻ con mỗi đứa một chiếc kim khâu rồi hướng dẫn chúng chọc vào nhiều quả bóng ơm căng đầy phòng trang trí cho một bữa tiệc của ngày hôm sau. Chỉ trong vài giây, bọn trẻ khác làm theo, và trong một hoặc hai phút, cả phòng nhảy loi choi lên để làm nổ toàn bộ bóng ở chỗ đó. Sau đó, khi vị hướng đạo trưởng hỏi tại sao chúng lại làm nổ những quả bóng, những đứa trẻ buột trả lời rằng chúng làm vậy vì mọi người cũng làm như vậy. Điều ngạc nhiên duy nhất trong buổi gặp mặt Ngày tưởng niệm Holocaust hôm đó là chẳng có gì liên quan đến mất mát, chủ nghĩa anh hùng hay bài Do Thái cả. Đúng hơn là, bài học rút ra từ hoạt động này là về việc không trở thành những kẻ làm theo. Thông điệp ở đây là hãy thách thức cường quyền và làm việc của riêng bạn. Một ý niệm liên quan đến “đừng là con cá rán”, hay đại khái là kẻ ngờ nghệch, có thể là mệnh lệnh xã hội phổ biến nhất ở Israel, với tiếng bản địa “cá rán” chỉ những người đi theo những quy tắc, luật lệ một cách khờ dại và thụ động, chỉ những yếu kém của riêng anh ta. Bị gọi là một kẻ khờ là một trong những cách làm nhục nặng nề nhất đối với người Israel. Nhưng khía cạnh trọng tâm của tính ái kỷ khi phòng vệ với chính quyền kiểu này bắt nguồn từ thái độ kiêu căng, đề phòng, tự cho mình là trung tâm và đứng trên tầm thiên hạ của bản thân người Israel. Có thể kể ra đây một câu chuyện điển hình, đó là về một luật sư người Israel đi nước ngoài như đi chợ. Khi ngồi ghế hạng thương gia trên một chuyến bay của hãng El Al(81)với cơn đau lưng trầm trọng, ông ta vịn vào lưng ghế trước mặt để đứng lên, đi về phía nhà vệ sinh. Hành khách ngồi chiếc ghế ấy, một đồng bào Israel, mặt rõ ràng là tự mãn, cười nói: “Thú nhận đi, anh không bay nhiều phải không?” “Sao ông lại hỏi thế?” vị luật sư nói. “Vì những người bay nhiều thì biết rằng đừng có mà đẩy hay níu vào ghế ngồi đằng trước.” Người đàn ông kia trả lời y như dự đoán. “Một người văn minh sẽ nói gì đó kiểu như ‘Xin lỗi, nếu không phiền thì xin đừng làm thế mỗi lần ông đứng dậy?’” vị luật sư giải thích. “Nhưng với một người đặc Israel, đây là cơ hội để hạ thấp người khác, chỉ để nâng mình lên.” Nói theo thuật ngữ đã được môn đệ gây nhiều tranh cãi hơn của Freud, Wilhelm Reich, đặt ra, khía cạnh này trong tâm thức của người Israel không phải là không giống với khía cạnh trong tính cách khoái lạc – ái kỷ. Được trang bị mặt nạ phòng vệ là vẻ trơ trẽn, tự tin, huênh hoang - tất cả được thiết kế để phủ nhận bất cứ dấu hiệu yếm thế nào manh nha bộc lộ - tính cách này thích hợp để dẫn dắt và thống lĩnh hơn là để đi theo hay bị phụ thuộc. Donald Trump(82)với những tòa cao ốc của ông ta có lẽ là bức tranh biếm họa tinh túy nhất cho dạng nhân cách này. Mô thức thứ hai liên quan đến việc người Israel có xu hướng đi quá giới hạn cho phép mà không từ một thủ đoạn nào, là thái độ tự tiện phá bỏ các ranh giới vốn đặc trưng của văn hóa Israel. Có thể xem xét một ví dụ cực đoan cho trường hợp này. Đó là một người phụ nữ Israel vào những năm 1970 đã kết hợp với một tổ chức chính trị cánh tả cấp tiến vốn bị bộ máy an ninh của chính phủ theo dõi. Khi còn là một sinh viên đại học, bà yêu một người đàn ông, người này nói với bà rằng ông ta đang làm việc cho Shabak, một Cơ quan An ninh Israel, và có nhiệm vụ phải theo dõi bà. Chuyện này không ngăn được cả hai người tiếp tục chuyện tình cảm của mình. Trong khi ở những xã hội với nền văn hóa khác, người ta chưa từng nghe thấy một chuyện tương tự, thì sự táo bạo này, kiểu gần như là thờ ơ, không quan tâm đến những giới hạn về nghề nghiệp và quan hệ cá nhân, đã phản ánh một vài điều gì đó đặc biệt về Israel. Ở một mức độ mang tính văn hóa và bình dị hơn, so với người Mỹ, có thể nói, người Israel thoáng hơn rất nhiều trong các vấn đề tình dục, tiền bạc và chuyện gia đình. Họ sẽ là người đầu tiên bảo bạn nên làm gì với những vấn đề riêng tư, họ bảo bạn nên nghĩ tới những gì, hay chỉ cho bạn biết bạn đã vô tình phạm phải điều gì. Cái hay của chuyện này là một sự thân mật hơn, nồng ấm hơn và tính suồng sã; mặt trái của nó là đời tư bị xâm phạm và thiếu không gian cá nhân. Nhiều bạn trẻ Israel ra nước ngoài để đi du lịch, học tập hoặc làm việc đãcổ xúy cho nhu cầu được thoát khỏi môi trường tù đọng, khép kín này. Khi những ranh giới cá nhân quá dễ bị xâm phạm, quyền riêng tư, những nhu cầu, những lời nói của bạn sẽ chẳng được tôn trọng. Nếu tất cả chúng ta là một, thì những gì của bạn là của tôi, và tôi cũng có thể hiểu thấu bạn trước khi bạn hiểu thấu tôi. Nhìn từ bên ngoài, sự xâm phạm những ranh giới cá nhân kiểu này đã làm nên một bộ phim dài tập vĩ đại, một sự minh họa tuyệt vời trình chiếu vào năm 2005 và cực kỳ thành công – 8 serie phim truyền hình của Israel BeTipul, sau này được HBO ở Mỹ phỏng theo dịch nguyên văn là In Treatment (Tạm dịch: Điều trị bệnh). Dõi theo lịch hẹn hàng tuần của một bác sĩ tâm lý với rất nhiều bệnh nhân của ông ta và bác sĩ trị liệu cho riêng ông ta, bộ phim tâm lý lôi cuốn khán giả với những ranh giới tự nhiên của mỗi buổi được đánh dấu bằng một sự xâm phạm gần như đã thành thói quen trong tham vấn tâm lý. Không có buổi tham vấn nào lại bắt đầu hoặc kết thúc đúng giờ; cuộc sống cá nhân của bác sĩ trị liệu dính đến một vài bệnh nhân, các thành viên trong gia đình của bệnh nhân này lại liên quan đến những bệnh nhân khác; những món quà khêu gợi choán ngợp những buổi điều trị khác; và cuối cùng là một mối quan hệ tình dục giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân. Trong phim của Israel, tất cả điều này có cảm giác chân thực; trong phiên bản Mỹ, nó dường như giống với một trò sắp đặt gượng gạo nhằm dấy lên cuộc tranh luận cho một màn biểu diễn phức tạp đan cài quá nhiều những thuyết giảng dài dòng. Trên thực tế, hầu hết các nhà tâm lý học người Israel không hay vi phạm những giới hạn; tuy nhiên, một bệnh nhân người Israel của tôi đã báo cáo về đợt điều trị của anh ta tại Israel khi anh ta 19 tuổi. Bác sĩ tâm lý của anh ta từng bảo anh ta rằng, khi anh ta đấu tranh với mối đe dọa về tình dục, nếu anh ta không quan hệ với một đứa con gái mà anh ta quen thân trước buổi trị liệu tiếp theo, thì đừng mong quay trở lại nữa. Anh chàng bệnh nhân này đã bàn chuyện đó với cô gái được yêu cầu, và cùng với sự hợp tác của cô ta, anh đã nghe theo chuyên gia này, có lẽ vì bản thân bác sĩ trị liệu này có vẻ như là một kẻ nổi loạn! Trên hết, mọi người đều biết một bác sĩ trị liệu không nên ra bài tập về nhà, đặc biệt là đối với một thanh niên dễ bị ảnh hưởng và tổn thương. Chẳng có mấy ngoại lệ, người Israel rời Israel đều tâm niệm thế khi tới bất cứ nơi nào. Họ không chỉ liên kết với những người Israel khác và lưu giữ nhiều nghi lễ và những nét văn hóa của họ - trong lĩnh vực ẩm thực, ngôn ngữ, âm nhạc, nghệ thuật và chính trị - mà còn luôn lên kế hoạch hoặc mơ ước về ngày trở về. Anh trai tôi, hiện đã trở về Israel sau hơn 30 năm sống ở New York, nói rằng vấn đề không phải là tại sao anh ấy trở về Israel mà là tại sao anh ấy không bao giờ có thể rời bỏ nó. Trong trường hợp của riêng tôi, chẳng có những kế hoạch hay một giấc mộng hồi hương nào. Vì một điều, vợ tôi, và sau này là các con tôi, trăm phần trăm là người Mỹ. Chẳng mong ước một chốn hai nơi, tôi chủ tâm không nói tiếng Hebrew với con cái mình khi chúng đang ở tuổi dưỡng dục. Tuy nhiên, khi chúng còn nhỏ và mỗi lúc tôi hát ru chúng, thế nào đó tôi lại lạc sang bài “Kinneret Sheli”(83)tuyệt đẹp. Bài hát được phổ nhạc từ bài thơ của nhà thơ Rachel, một chiến sĩ Zion thời kỳ đầu, đã lý tưởng hóa đối tượng thân thuộc của bà, biển hồ Galilee, và bài hát đặt ra một câu hỏi liệu biển ấy có phải chỉ tồn tại trong giấc mơ. Là hồ nước ngọt độc nhất ở đất nước, biển hồ Galilee là một trong những địa điểm nghỉ dưỡng của gia đình tôi, và bởi vậy, trong tâm trí thơ trẻ của tôi, nó vừa thực lại vừa mơ. Nhưng bài thơ, cùng với nhạc điệu thiết tha nhẹ nhàng, đã đẩy nó vào một miền hư ảo. Trên thực tế, hồ này ở một vị trí khá đẹp, nhưng ngoài một ngôi giáo đường đẹp như một miền cổ tích ở bờ nam của hồ thì chẳng có gì để mà trông đợi. Điều đó cũng đúng với toàn bộ phong cảnh hình thế của Israel. Giống như hầu hết các nước, Israel có rất nhiều điểm thực sự đẹp, nhưng hầu hết còn lại là khô cằn, đơn điệu, có thể chỗ nọ chỗ kia có núi non trập trùng một chút, còn lại hầu như chỉ toàn là một màu vàng úa, điểm xuyết vài nét xanh đây đó. Ngoại trừ biển Galilee, diện tích mặt nước của Israel gồm khoảng ba con lạch rộng – tất cả đều được xếp vào hàng sông trong tiếng Hebrew – và một Biển Chết. Có một vài khu rừng thưa, khô bụi, và ba hay bốn dãy núi tính theo lãnh thổ trước năm 1967. Có rất nhiều trung tâm thị trấn cổ xưa sầm uất và những di chỉ tôn giáo, một vài đoạn ven biển Địa Trung Hải như những viên ngọc quý, và một số tòa nhà và villa hiện đại thời thượng bắt mắt. Israel có nhiều di tích khảo cổ cực thu hút. Nhưng nó chẳng có chỗ cho Alps, những ngôi làng trung cổ trên đỉnh đồi, những lâu đài thời Phục hưng, Rừng Đen(84), Salzburgs(85), cũng chẳng có nông thôn nước Anh, Hẽm Lớn (Grand Canyon), hay San Francisco. Nhìn chung, các thị trấn và thành phố của nó được thiết kế đơn điệu, lộn xộn, ô nhiễm và rối beng về mặt kiến trúc. Nhưng mặc cho tất cả những điều này, tôi cho rằng, chính vì như vậy, người Israel gắn bó với hình sông thế núi của mảnh đất mình sâu sắc hết mức có thể. Con người chẳng là gì ngoài bản sắc nơi mình sinh ra; tuy nhiên có người cho rằng, đây khó có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên bởi dòng chữ nổi tiếng này được viết bởi một nhà thơ Zion chuyên viết bằng tiếng Hebrew. Nhà vật lý học và là nhà thơ Shaul Tchernichovsky sinh ra là người Nga, chết ở Jerusalem vào năm 1943, đã đặt bút viết câu đó trong một bài thơ nói về việc một trí tuệ non nớt đã xác định cuộc đời ông ta như thế nào – một khái niệm phân tâm học cơ bản. Cho dù nhìn chung có đúng hay sai khi viết lại ý của William Faulkner, bằng giá trị của một dĩ vãng mà, không bao giờ thực sự là quá khứ, và bằng việc gia công lại một cách tàn nhẫn những lắng đọng của tâm hồn thông qua nền văn hóa đại chúng của tiyulim – một bản chất đầy cảm xúc của người Israel trước các cuộc lữ hành vào chốn tự nhiên, vốn dĩ thẩm thấu trong những cuộc dã ngoại ở trường tiểu học, trung học, trường cấp ba, những lần nghỉ hè với gia đình và những cuộc hành quân - thì mối liên kết giữa Đứa trẻ Già và mảnh đất của anh ta đã thấm vào mọi tâm thức người Israel từ khi còn thơ ấu. Thêm nữa, như đã được những học giả người Israel Eyal Ben-Ari và Yoram Bilu thảo luận, những người Zion thời kỳ đầu, cũng như nhiều người định cư ở Bờ Tây ngày nay, đã tự chuyển biến mình bằng cách chuyển biến phong cảnh xung quanh, kết nối sâu xa hơn sự phát triển tâm lý của họ với sự phát triển của mảnh đất này.(86) Bởi vậy, chẳng có gì ngạc nhiên rằng từ nhạc pop đến nhạc rock, từ văn xuôi đến thơ ca, những truyện kể đầy tính sáng tạo của người Israel đều ăm ắp những khao khát mãnh liệt về vẻ đẹp của mảnh đất Israel, trong tâm thức người Israel, những khao khát ấy được khái quát hóa thành chủ đề về phong cảnh, bất cứ nơi nào có thể. Những người Israel chu du nước ngoài với tư cách còn hơn cả là những người đi du lịch, họ bị ám ảnh về việc tìm cho ra “khung cảnh” được ưa thích tốt nhất, cũng như những con đường, những điểm đến du lịch ít người qua lại nhất. Trong khi niềm ngưỡng mộ của họ đối với phong cảnh nước ngoài được đầu tư với một năng lượng cảm xúc đi kèm với sự lý tưởng hóa về mảnh đất của họ, thì họ cũng ghen tị với kho báu của những nước khác và miệt thị những gì mà cuối cùng họ biết rằng đó là bộ mặt thật của địa hình phong cảnh nước mình. Mối liên kết của người Israel với Eretz Israel(87)không phải là một phát minh của người Israel. Đúng hơn, rõ ràng như bất cứ nẻo nào trong thế giới nội tâm của tâm hồn dân tộc Israel, đó là một sự tái tạo ngược đời, một sự rũ bỏ những mối dây ràng buộc 2000 năm với Đất Thánh. Thực sự là mặc dù người Do Thái đã bị thiếu quê hương, phải tha phương từ lần phá hủy Đền thờ thứ hai vào năm 70 sau Công nguyên, một trong những đặc điểm riêng biệt nhất của Do Thái giáo là tuyên bố về lãnh thổ của nó đối với một dải đất cụ thể có một không hai được hứa hẹn bởi thánh thần. Sử gia kiêm nhà văn người Israel, Sidra DeKoven Ezrahi, tranh luận rằng tuyên bố của Do Thái về Jerusalem là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự biểu đạt giàu tính lịch sử về thành phố này trong trí tưởng tượng nên thơ của người Do Thái. Bà chỉ ra, ngay từ đầu, ảo ảnh trong Kinh Thánh về thành phố này đã có một sự bốc đồng, sau này được phản ánh bằng thuật ngữ Zion, một trong những cái tên Thánh của Jerusalem, được mở rộng chỉ mảnh đất Israel nói chung. Từ cuộc phá hủy Đền thờ lần thứ hai, thành phố ngoài đời thực chẳng có một thực tế chính trị Do Thái gì – không đền thờ, không dân chủ hay bất cứ một dạng chủ quyền lãnh thổ nào khác. Như DeKoven Ezrahi đã thấy, bước vào trong sự thiếu vắng đó và cách rất xa khỏi tự bản thân ngôi đền bị phá hủy, có một sự thành công của những nhà thơ và nhà văn Do Thái từ thuở cổ xưa ấy, qua cả thời Trung cổ, và hết cả con đường dẫn đến chủ nghĩa Phục quốc Zion, đã bảo tồn Jerusalem như một biểu tượng. Như DeKoven Ezrahi, A. B. Yehoshua và những người khác đã chỉ ra, họ làm việc này một phần thông qua việc nhân cách hóa Jerusalem và Eretz Israel như một người phụ nữ - một người mẹ, một người vợ hay một tình nhân. Gắn chặt với giả thuyết về cuộc nổi loạn ơ-đip đã đề cập ở trên, văn học và truyện thơ về Zion tràn ngập những tuyên bố của người tình nhân nam về chủ quyền với mảnh đất này. Dòng mạch ái kỷ được phân tích này gợi ra nằm trong việc đánh giá những biểu tượng và ý tưởng trên nền thực tế.(88) Như đã được nhà tâm lý học người Israel Avner Falk bàn luận chi tiết, từ góc nhìn phân tâm học hậu Freud, câu chuyện lịch sử mang tính văn học này đã phản ánh tư tưởng rằng việc đánh giá quá cao mang tính ái kỷ về Jerusalem được nhấn mạnh bởi sự yếu kém trong việc khóc thương về nỗi mất mát nó. Theo thuyết này, nỗi nhục nhã vì mất đi chủ quyền ở Đất Hứa đối với những người được lựa chọn là quá sức chịu đựng(89). Đi cùng với sự phỉ báng, hắt hủi và đày đọa mà sau này họ phải chịu đựng trong thời kỳ Diaspora, nó đã tạo nên một sự ấm ức quyết liệt: Tại sao tất cả những chuyện này lại xảy đến với chúng ta? Câu trả lời đến từ những cuốn sách kinh cầu và những văn bản mang tính tôn giáo với những lý giải kiểu như đó là sự trừng phạt mà Chúa trời ban cho ta hoặc đó chỉ là một thử thách, Chúa không bỏ rơi những đứa con mà ngài yêu mến, và rằng một ngày nào đó, Chúa của chúng ta, vị Chúa duy nhất, sẽ mang chúng ta về nhà, rồi cuối cùng, chuyện này không thực sự xảy ra, vì Jerusalem là một vùng đất tâm linh, không phải là vùng đất thực, nó sẽ mãi mãi ở trong trái tim chúng ta. Thay vì chấp nhận và than khóc cho sự mất mát này, từ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, người Do Thái lải nhải mãi những lời kinh cầu như vậy, cố gắng chạy trốn khỏi những cảm giác nhục nhã và vô dụng bằng cách bám víu vào những khái niệm mộng tưởng, có lớp lang về một quá khứ huy hoàng và một ngày trở về trong tương lai. Rồi, khi những điều kiện lịch sử khiến giấc mộng phục quốc trở thành hiện thực hội tụ, cái túi quyền năng ái kỷ vô hạn này, một phiên bản của những gì nhà phân tâm học Heinz Kohut gọi là cái tôi vĩ đại, bùng nổ trên mặt đất của vùng Palestine. Bị tác động đột ngột bởi những tàn dư vô thức của sự xấc xược thời thơ dại mà chúng ta đã đem vào tuổi trưởng thành, những người Zion thời đầu tìm cách xóa bỏ lịch sử mất mát và nhục nhã của người Do Thái và tìm cách thay thế bằng một sự nhìn nhận chính mình như là nòi giống của những anh hùng Do Thái cổ đại. Bây giờ, chúng ta hãy cùng kết luận rằng thời kỳ đầu, hoặc cũng như hiện nay, ảo ảnh của những người Zion mang tính bệnh lý di truyền, nên lưu ý rằng Kohut, một trong những nhà phân tích có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20, tin rằng chủ nghĩa ái kỷ về cơ bản là một khía cạnh phát triển lành mạnh, chỉ biến thành bệnh hoạn khi trở nên cực đoan. Và sự thực là, cơ chế phòng vệ này từng là một câu chuyện thành công rực rỡ, đặc biệt khi Yishuv và sau này là nhà nước Israel non trẻ là một cộng đồng nhỏ xíu vũ trang thiếu thốn chiến đấu gan dạ và xuất sắc để giành quyền sinh tồn. Nhưng từ đầu, công cuộc phục quốc thực sự chỉ là cái vỏ bề ngoài. Chưa đến 2% người Do Thái Đông Âu di cư vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 lựa chọn Palestine như là điểm đến của họ, và trong số này, nhiều người đã không ở lại. Phần đa số, khoảng 2,5 triệu người, chọn một điểm đến rõ ràng hơn là Hoa Kỳ.(90) Trong một vài thế kỷ vừa qua, nhiều người Israel đã thử rũ bỏ tất cả những điều này, hoặc từ những gì DeKoven Ezrahi gọi là thi pháp về sự trở về Jerusalem. Trong lời bình luận của bà liên quan đến một trong những nhà thơ được yêu thích và nổi tiếng nhất của Israel: “Trong thơ của Yehuda Amichai, trải suốt nửa sau của thế kỷ 20, chúng ta tìm thấy một vài câu trả lời cho những câu hỏi đã sống sót qua mùa khao khát của chúng ta: không phải làm thế nào để mong chờ héo hon mà là làm thế nào để sống trong thành phố này; làm thế nào để từ bỏ một vài phần tình yêu cho thành phố để dành cho tình yêu trong thành phố.”(91) Nhưng như họ đã cố gắng nhất có thể, đối với hầu hết những người Israel, ý niệm về Jerusalem và về mảnh đất Israel nói chung vẫn đánh lừa thực tế; và việc yêu thương ấy vẫn tràn ngập, nếu không nói là hất cẳng hoàn toàn, sự sống. Có một sự phát triển trực tiếp từ niềm khát khao nên thơ thời trung cổ của Yehuda Halevy(92) đối với một mảnh đất mà những hạt cát của nó gây khoái cảm dễ chịu trong miệng còn hơn cả mật ong, đến sự tôn vinh của Bialik(93)về một mảnh đất mà mùa xuân trang hoàng vĩnh hằng, và những quyết định của chính phủ Israel được mối dây thân tình dẫn dắt với Eretz Israel hơn là bởi chính sách hoặc thậm chí là bởi những lưu ý về mặt chính trị. Ví dụ rõ ràng nhất là quyết định hấp tấp chinh phục Thành Cổ Jerusalem vào năm 1967, đã được thông qua, như TomSegev đã đưa ra tư liệu, mà không có một quy trình và sự tranh luận thích đáng nào. Niềm hứng khởi say sưa gần như là thất thường kết hợp với quyết định ấy đã được trình bày rõ ràng trong những bài luận sau này của Mordechai Gur, vị tướng quân chỉ huy cuộc đột kích đó. Miêu tả cảm giác của ông lần đầu tiên bước vào Núi Đền, nơi thánh đường Hồi giáo Mái Vòm Đá đã chiếm cứ cả vị trí được cho là nơi ngôi đền cổ xưa tọa lạc, Gur viết: “Ở đây, tôi cảm giác như ở nhà. Khao khát của chúng tôi. Núi Đền! Núi Moriah. Abraham và Isaac. Ngôi đền. Zealots, Maccabees, Bar Kokhba, người La Mã và người Hi Lạp. Tất cả bọn họ đều quần tụ về trong trí tôi.”(94) Trong khi ở đâu đó khác có phần bớt căng thẳng hơn, trạng thái phấn chấn như thế này không chỉ bó hẹp đối với Jerusalem hay những khu vực có các di tích tôn giáo ý nghĩa. Trong suốt cuộc chiến này, có tin Thủ tướng Eshkol đã nói rằng: “Tôi có một khao khát tột bậc với dải đất Gaza, có lẽ vì Samson và Delilah.”(95) Một đam mê với một rẻo đất cằn cỗi, đông đúc, chen chúc dân Palestine tị nạn và những ống cống mở hoang hoác; một niềm khát khao rõ ràng là dựa trên sức hấp dẫn của một siêu anh hùng trong Kinh Thánh và người tình đã hủy diệt quyền năng của anh ta bằng cách cắt đi mái tóc của anh ta! Một trong những địa điểm ở Israel mà tôi yêu thích nhất cũng kết nối với, nói theo kiểu Kinh Thánh, một ngày tóc tai rối bời. Nép mình ở một làng Ả Rập ngay bên ngoài thành Jerusalem được quây tường kín là Yad Avshlom, một lăng mộ lớn bị hiểu nhầm một cách tai hại là nơi chôn cất người con trai yêu dấu của Vua David, Avshalom. Một hoàng tử đẹp trai với bộ tóc dài, Avshalom đã chỉ huy thất bại một cuộc binh biến chống lại vua cha, và khi ông anh đang chạy trốn trên lưng một con lừa, tóc của anh ta bị vướng vào một đám những cành cây cổ thụ. Thế là anh ta bị treo lên để rồi bị một tướng lĩnh của vua cha giết hại, vi phạm mệnh lệnh của vị vua là “tha cho thằng bé”. Thế tục như những mối gắn bó thế này có thể, về cảm xúc mà nói, chúng chẳng phải là tất cả những thứ khác biệt so với những mối gắn kết của những kẻ định cư sùng đạo tuân theo lề thói khắt khe, những người đã thề thốt là sẽ không bao giờ rời bỏ những thị trấn và làng mạc của họ, đặt ở trái tim đất Judea và Samaria trong Kinh Thánh, ngoài ra còn được biết như Bờ Tây. Phân tích của Falk liên quan đến việc người Do Thái không thể than khóc cũng có ý nghĩa, nhưng nó không phải là toàn bộ câu chuyện. Một trong những cuộc cãi vã đầu tiên với vợ tôi – người đã lớn lên trong một gia đình Do Thái Mỹ truyền thống, luôn kỷ niệm những ngày lễ, và thậm chí còn đến thăm lại Israel khi cô ấy 18 tuổi – bùng nổ khi cô ấy nói rằng là một người Do Thái, cô ấy không có liên kết cảm xúc nào với Israel. Cô ấy còn nói nhiều nữa rằng với một người Do Thái Mỹ, điều này chẳng có gì đặc biệt. Tôi đơn giản là không thể nuốt nổi chuyện này, thậm chí là cho dù lúc ấy tôi đã sống ở Mỹ đến gần một thập kỷ. Có thể chăng, từ một lập trường mang tính cảm xúc, Eretz Israel của những lời kinh cầu, những tích truyện về các ngày lễ, và lịch sử của người Do Thái chẳng liên quan tới nơi chốn thực sự này? Nhìn lại, tôi nhận ra rằng cô ấy không phải là người khó hiểu, dị thường, và có lẽ giống như phản ứng của tôi, phân tích của Falk là hơi đặt Israel làm trọng tâm. Nhìn rộng ra, danh tính quốc gia dân tộc Do Thái được định dạng bên ngoài mảnh đất địa lý vốn được khao khát của ông cha. Trong câu chuyện Kinh Thánh, người Do Thái nhận được kinh Torah và trở thành một dân tộc ở Sinai, trên đường họ trở về đất hứa. Người Do Thái đầu tiên, Abraham, tuân theo lời Chúa, rời quê hương bản quán không chỉ một mà là hai lần, bao gồm cả lần ông ta được Chúa hứa hẹn. Và cháu trai của ông ta, Jacob, cùng con cháu mình rời đến Ai Cập, không bao giờ quay trở lại. Như trong lịch sử, chỉ 40 năm sau cuộc phá hủy Đền thờ thứ nhất, khi hoàng đế Ba Tư gọi những người Do Thái trở về Judea và tái kiến thiết ngôi đền, nhiều người đã không để tâm đến ông, thích ở lại những cộng đồng mà họ mới thích nghi được hơn. Hơn nữa, trái với điều người ta vẫn tin, sau khi Đền thờ thứ hai bị phá hủy, người La Mã chưa bao giờ trục xuất người Do Thái. Đúng hơn là, ước tính khoảng 2 triệu người Do Thái sống ở Eretz Israel vào lúc đó đã dần dần tự nguyện rời đi, hầu hết là sau cuộc nổi dậy Bar Kokhba thất bại. Cũng chẳng phải người Do Thái bị ngăn cản không được hồi hương trong khoảng 1500 năm tiếp theo sau sự sụp đổ của đế chế La Mã. Trong phiên bản người Do Thái lang thang của chính người Israel, ngược lại với chính mối găn bó được lý tưởng hóa của họ với mảnh đất của mình, hiện nay đã có đến 750.000 người Israel Do Thái, ít nhất 10% dân số Do Thái hiện thời ở Israel, định cư ở nước ngoài.(96) Tâm thức của người Israel luôn canh cánh về việc điều chỉnh lòng tự tôn của họ. Người ngoài nhìn vào thật khó mà tưởng tượng rằng ẩn đằng sau hoặc song hành với một Israel quyết đoán và hào sảng là một con người luôn tự hoài nghi và châm biếm mình với mức độ tương đương thế. Thế giới bên ngoài thường thấy người Israel hay nhận mình là kẻ cao cấp hơn. Người Israel “dìm hàng” tất cả những kẻ khác: người Mỹ thì ngô nghê, người Âu thì giả nhân giả nghĩa, người Trung Quốc thì làm việc như trâu ngựa, người Ả Rập chỉ đáng là súc vật. Họ nghĩ rằng họ có những bệnh viện tốt nhất, những công ty công nghệ cao tiên tiến nhất và quân đội tinh nhuệ, nhân văn nhất thế giới. Họ cũng tin rằng việc họ xâm chiếm lãnh thổ Palestine là điểm chói sáng nhất trong lịch sử thế giới. Một cuộc trưng cầu ý dân toàn diện năm 2009 cho thấy 70% người dân Israel tin rằng người Do Thái là những người được lựa chọn(97). Nhưng chỉ cần tìm hiểu sâu thêm một chút hoặc lắng nghe những cuộc hội thoại khác giữa những người Israel với nhau thì bạn sẽ thấy rằng họ chê bai chính họ hoặc gièm pha đồng bào mình là kẻ thô lỗ, khó chịu, dối trá, lừa lọc và bất tài. Một người Irsrael điển hình sẽ than thầm rằng “Ôi, không” khi anh ta chui vào một chiếc taxi ở New York hay Berlin và nhận ra gã tài xế là người Israel. Một người bạn mang hai dòng máu Israel – Mỹ, vừa là nhà nghiên cứu chính trị vừa là chuyên gia về luật quốc tế đã nói rõ hơn về mặt tích cực của việc tự phê phán này. Anh ta giải thích Israel là một xã hội cực kỳ nghiêm khắc, nhất là xét từ góc nhìn luật pháp. Ví dụ như, nó có cơ quan thanh tra nhà nước có quyền lực đặc cách điều tra và chỉ trích thậm tệ cơ quan hành pháp. Bên cạnh đó, có thể thấy được tầm quan trọng của cơ quan này trong xã hội và nó được tôn trọng như thế nào khi báo cáo hàng năm của họ luôn nhận được sự chú ý đặc biệt của giới truyền thông và luôn được lưu giữ trong nhiều năm. “Cứ nghĩ đến chuyện này,” bạn tôi nói, “tôi lại thấy cơ quan Thanh tra Nhà nước Israel nhắc tôi nhớ về mẹ mình.” Có lẽ anh ta đúng, có lẽ hình mẫu người mẹ Do Thái của người Israel luôn đi kèm với một giọng chì chiết chói tai. Có thể gọi là sự tự tin hay ngạo mạn, tự phê bình hay tự ghét mình, sự dao động dai dẳng giữa hai đối cực đó sẽ được minh chứng khi một ngày nào đó cuộc cách tân vĩ đại của người Israel thành công trên thị trường thế giới, và khi giống như sảnh đường tiệc cưới có nền móng yếu ớt, nó sụp đổ và nuốt chửng bữa tiệc cưới và hàng chục vị khách theo cùng. Cũng có thể nhận ra rõ ràng trạng thái dao động không ngừng giữa thành công xuất chúng và thất bại ngớ ngẩn, thực tế vào ảo tưởng, của quân đội Israel và những tổ chức gián điệp ở Trung Đông và những nơi khác. Trạng thái dao động này giống với trạng thái dao động của một bệnh nhân bị chứng rối loạn lưỡng cực hay còn gọi là bệnh hưng trầm cảm(98), ngoại trừ một điểm là trong ca bệnh Israel, đó không phải là sự mất cân bằng các chất hóa học. Ở trạng thái hứng, có thể nhận thấy ở sự kiện chiến tranh 1967 thể hiện một lòng tự hào cao độ, còn ở trạng thái trầm chính là cuộc suy thoái toàn quốc, tiếp sau đó là phong trào intifada lần thứ 2, đánh dấu chấm hết cho một ảo tưởng. Xét đến một chút châm biếm hai mặt của sự phóng chiếu ái kỷ, trở lại năm 1943, David Ben-Gurion bình luận rằng người Đức Do Thái nhập cư vào Israel trong những năm này đều mang trong mình một phức hợp về đẳng cấp cao quý và địa vị thấp hèn, nảy sinh từ nền giáo dục Đức của họ - Kant, Beethoven và những người kiểu thế - mặt khác, còn từ việc họ nhận ra rằng chính những người Zion ở Đông Âu đi trước họ mới thực sự xây dựng nên một thứ gì đó ý nghĩa ở Palestine. Đúng kiểu kẻ cướp mới nắm đuôi được kẻ cướp, hoặc như người ta thường nói chuột chù mới hay rằng khỉ hôi.(99) Tính hai mặt này là đặc trưng của tính ái kỷ, biểu hiện cuộc đấu tranh của anh ta trong việc chấp nhận và yêu mến chính bản thân mình mặc cho những hạn chế của bản thân. Hệ quả tất yếu, chắc chắn trong trường hợp Israel, là người ái kỷ mãi mãi mưu cầu sự chấp nhận, sự công nhận và lòng yêu mến từ những người khác. Đó là một trong những lý do mà công chúng và chính phủ Israel phản ứng quá nồng hậu với chuyến thăm năm 1977 của Anwar Sadat(100)tới Israel, chính xác là đáp ứng mọi nhu cầu của ông ta, chấp nhận một ngoại lệ là quyền tự quyết đầy ý nghĩa cho người Palestine. Trên đường tới Jerusalem, một thành phố không được phần lớn đông đảo cộng đồng quốc tế công nhận là thủ đô của Israel, và đích thân nhắm tới chủ quyền sau cuối của những người Zion, cơ quan hành pháp Israel, và bằng cách thể hiện một phong cách ngoại giao khéo léo, đáng yêu, nồng nhiệt khi tiếp xúc với những người đứng đầu Israel, Sadat đã đến thẳng được với trái tim ái kỷ đầy tổn thương ngụ trong tính cách dân tộc của người Israel: niềm thao thiết rằng người Israel sẽ không bao giờ được chấp nhận hiện diện với tư cách là một quốc gia có đầy đủ tính hợp pháp trên chính quê cha đất tổ lịch sử của con dân Do Thái. Cuộc viếng thăm của tổng thống Ai Cập Sadat là một bước đột phá tâm lý trọng yếu, nhưng những giờ khắc tương tự thế đã diễn ra nhiều lần sau đó, mặc dầu ít chan chứa xúc động hơn. Vào năm 1997, ba năm sau khi Jordan và Israel ký hiệp ước hòa bình của riêng họ, một lính Jordan đã giết hại bảy học sinh nữ người Israel lúc đó đang ở gần biên giới trong một cuộc dã ngoại của nhà trường. Diễn biến tiếp theo, Vua Hussein đã đi một bước như thường lệ là đến thăm gia đình của những nạn nhân xấu số để bày tỏ sự chia buồn. Ông ta đã thể hiện một động thái buồn thương vô cùng cảm động và chan chứa xót xa, điều đó đã ngăn chặn được cơn thịnh nộ mang tính ái kỷ đang hình thành trên cả nước, suýt đổ thêm dầu vào ngọn lửa mất mát và giận dữ của riêng gia đình nạn nhân. Chính bản thân gia đình nạn nhân cũng cảm thấy xúc động tận đáy lòng, đến mức mà sau khi Hussein chết, họ đã đưa ra một tuyên bố đại khái rằng ông ta là một vị vua, nhưng cũng là một con người. Một trong những gia đình này còn làm quá đến mức đặt tên cho đứa trẻ mới sinh là Yarden (tiếng Hebrew là “Jordan”) để tưởng nhớ vị vua này. Nói một cách dễ hiểu, cách chữa trị cho căn bệnh ái kỷ mà Heinz Kohut(101)chính là một đơn thuốc có tác dụng lâu dài và có thể chữa lành cho số đông ấy chính là sự thông cảm, một đơn thuốc mà xui xẻo thay lại quá thiếu thốn ở thế giới Trung Đông. Thật vậy, do không được công nhận và thông cảm như thế nên người Israel buộc phải từ chối nhiều lời đề nghị hòa bình và phải phản ứng lại bằng cơn thịnh nộ khi nhận thức được rằng chính tính hợp pháp của họ đang bị đặt lên bàn cân. Một biến chứng cuối cùng đó là trong cơn tuyệt vọng của mình, người ái kỷ thường ứng xử theo những cách như thế, thì gần như đảm bảo là anh ta sẽ nhận được những điều ngược với mong muốn của mình. Một giai thoại gợi thói tò mò, có tính minh họa cho tình huống hóc búa này liên quan đến một vị tướng huyền thoại và là chính khách của Israel, Moshe Dayan. Trong cuộc hội thoại với một nhà thơ người Palestine sau chiến tranh 1967, người ta nói rằng ông ta đã so sánh mối quan hệ của Israel với Palestine với mối quan hệ của một người đàn ông Ả Rập du cư bắt cóc một cô gái để về làm vợ ông ta. Đối với con cái họ, ông ta nói, việc bắt cóc ban đầu chả có ý nghĩa gì, và chúng sẽ chấp nhận cả người đàn ông và người đàn bà kia là bậc cha mẹ của mình. Bởi vậy không giống với một chính trị gia ba hoa, tự ru vỗ chính mình và gửi những bức ảnh ngực trần của ông chính ông ta tới những cô gái trẻ trên Twitter, người Israel khao khát chinh phục và chiếm lĩnh bị thúc đẩy một phần bởi hành trình kiếm tìm sự chấp nhận, một nhu cầu được nhìn nhận và yêu thương vì sự vĩ đại tưởng tượng và có thực của ai đó. Đặc điểm tâm lý muốn chinh phục đã chứng tỏ sự đứt gãy giữa người Diaspora và người Zion, những tâm lý ẩn giấu bên dưới chính là lòng kiên định với ảo mộng mang tính lịch sử, ảo mộng mang tính bù đắp của những người được lựa chọn. BA CẢ THẾ GIỚI QUAY LƯNG VÀ CÂM NÍN TRƯỚC NỖI ĐAU CỦA TA Không khó có thể nhận thấy những người được lựa chọn phải trải qua một lịch sử thù địch triền miên dai dẳng - sự tàn ác, lòng hận thù vô cớ và thâm căn cố đế của thế giới Thiên Chúa giáo phương Tây, và một sự tổng hợp nhiều thành phần của những thành kiến, thái độ khinh bỉ, rẻ rúng trên những vùng đất Hồi giáo đã đổ dồn về những người Do Thái. Lại thêm sự phủ nhận mang tính lịch sử của thế giới Ả Rập đối với tính hợp pháp của nhà nước Israel, tất cả nỗi chịu đựng này sản sinh trong tâm thức của người Israel một cấu trúc tinh thần đi từ chủ nghĩa hoài nghi tích cực về ý đồ của người khác đến sự đa nghi và hoang mang đáng xấu hổ. Trong tâm thức của người Israel, những cảm thức xa xưa về những vụ bạo động bất ổn đang va chạm với thực tế gần đây hơn của đất nước, với vị thế là quốc gia tiên tiến và hùng cường nhất khu vực. Đúng là có một số lượng lớn những người ở hải ngoại là những học giả, nhà tâm lý học và thậm chí cả những chính trị gia người Israel, chính xác vì họ là những thành viên của số đông những người Do Thái xuất chúng trong chính đất nước của họ, nên họ đủ hiểu biết để nhận ra rằng những câu chuyện về việc bị trừng phạt của cả người Do Thái lẫn người Israel đều phức tạp hơn là những gì nó biểu hiện ra. Bernard Susser và Charles Liebman, hai nhà nghiên cứu chính trị ở Đại học Bar Ilan – một trường đại học danh giá kết hợp giữa tính tôn giáo Do Thái với những ngành học thuật hiện đại – đã miêu tả yếu tố tâm lý Do Thái này như một “tư tưởng về tai họa”. Tái diễn giải và đặt trong bối cảnh của chúng ta, phân tích của họ đã vạch một đường thẳng phân cách giữa Những Người Được Lựa Chọn và Những Người Bị Hành Hạ hay giữa chứng ái kỷ và hoang tưởng cục bộ. Như họ đã nhận ra, mà không cần một hệ tư tưởng đạo đức – tôn giáo nào giải thích cho việc những người Do Thái bị tra tấn, lịch sử Do Thái chẳng là gì ngoại trừ một câu chuyện vô nghĩa về vai trò quan trọng và nỗi nhục nhã của nó. Theo đó những rabbi chính thống giáo, những người lãnh đạo cộng đồng Do Thái tồn tại trong gần hai thiên niên kỷ Diaspora, đã biện minh cho những đau khổ của người Do Thái bằng luận điệu về Những Người Được Lựa Chọn, mà kẻ thù của họ chỉ đơn thuần là tay chân của vị Thiên Chúa của người Israel chỉ vì ngài muốn trừng phạt tội lỗi của con dân ngài. Cuối cùng, vị Chúa cứu thế sẽ đưa con dân Do Thái trở về vùng đất Israel, vào đúng thời điểm mà những người ngoại đạo sẽ công nhận nhiệm vụ độc tôn của người dân Israel và chấp nhận Thiên Chúa của người Israel là Thiên Chúa của họ. Bởi lẽ đó tính độc đáo của người dân Do Thái nằm ở chính nỗi thống khổ bị đày đọa cũng như sự tự tôn của họ, luẩn quẩn trong mối quan hệ quả trứng và con gà: vì họ bị đày đọa, nên họ là Những Người Được Lựa Chọn, và vì họ xử sự như là những người được lựa chọn nên họ bị đày đọa(102)! Bi đát hơn, tiểu thuyết gia David Grossman trong cuốn To the end of the Land đã vẽ lên một câu chuyện cảm tính hơn nói về sự dâng nộp, mà ở đó, nhân vật chính Ora đã kể lại một câu chuyện về người con trai trẻ trung nhạy cảm của bà ta trong một buổi Lễ Vượt Qua của gia đình như sau: Bất ngờ, [nó] gào lên là không muốn làm dân Do Thái nữa, vì họ muốn luôn giết chúng ta và căm thù chúng ta, và nó biết rõ điều đó vì tất cả các ngày lễ đều nhắc đến chuyện ấy. Rồi những người lớn nhìn nhau, một người anh rể lầm bầm rằng nói về chuyện này chẳng vui vẻ gì, và vợ hắn nói “Đừng có hoảng!” rồi hắn đọc một câu trích dẫn “thời nào cũng vậy, chúng nổi lên chống chúng ta để hủy diệt chúng ta” cô ta đáp lại rằng điều đó không phải là một thực tế có bằng chứng khoa học, chúng ta nên xem xét lại vai trò của mình trong toàn bộ việc “nổi lên chống chúng ta”, rồi cuộc tranh luận cố hữu lại diễn ra, và Ora, như thường lệ, lui về nhà bếp để giúp bày bát đĩa(103). Con trai của Ora, được nuôi dưỡng để trở thành một thanh niên gan góc, biết kiềm chế và là một chiến binh IDF(104)trận mạc, biểu hiện cho sự chuyển dịch mang tính cách mạng từ Diaspora tới Do Thái của người Israel. Sau rốt, quan điểm của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái không chỉ là kết thúc nỗi nhục nhã Do Thái mà còn là chính tư tưởng Do Thái. Ở một mức độ khá cao, ở phía khỏe mạnh hơn của liên thể ái kỷ(105), phiên bản hoài nghi của người Israel dành cho những kẻ ngoại đạo đã thu được thành công khá lớn. Nhà báo Thomas Friedman cho rằng thái độ truyền thống của người Do Thái đối với những kẻ ngoại đạo và việc giữa người Ả Rập không có một kiểu tình cảm như thế là một trong những lý do khiến người Do Thái có được một nhà nước còn người Palestine thì không. Trong khi ở thế giới Ả Rập, kẻ thù của ngày hôm nay có thể là đồng minh vào ngày mai, thì như Friedman quan sát, những người Do Thái Đông Âu đã xây dựng một nhà nước Israel được biết đến như một “nền văn hóa của những sắc cạnh và những góc vuông vắn”, mà ở đó kẻ thù của ngày hôm nay vẫn sẽ là kẻ thù của ngày mai(106). Cụ thể hơn, theo báo cáo của nhà sử học Tom Segev, khi chính phủ và quân đội Anh đang chuẩn bị rút khỏi Palestine, Jewish Agency lại cho rằng họ sẽ bỏ đi trong một cơn hoảng loạn đột ngột và để lại một đống hỗn độn, bừa bãi. Một trong những nguồn tin mật của cơ quan này dự đoán người Anh sẽ bỏ đi với chiến lược vườn không nhà trống. Tuy nhiên người Anh lại không hề có ý định như thế. Tinh thần chủ đạo của họ là đảm bảo duy trì chức năng của cơ sở hạ tầng chính phủ mà họ đã vất vả xây dựng trong suốt 25 năm. Nhưng không giống như những nước Ả Rập, và đây là hệ quả của việc đánh giá tình hình đầy tính nghi ngại, người Do Thái đã đảm bảo có một chính phủ dự bị, bởi vậy trước khi bỏ đi, người Anh chẳng có ai khác để chuyển giao bộ máy hành chính(107). Có nhiều ví dụ khác, đặc biệt là trong quân đội, có thể được kể ra để minh họa cho lời tái diễn giải vẫn còn nguyên giá trị của một cách ngôn trong Kinh Thánh cổ: hãy nhớ đến những gì người Amalek làm với ngươi(108). Nổi tiếng nhất, vào năm 1967, Israel thực hiện kế hoạch mà họ cho rằng sẽ trở thành cú đánh chí tử với Ai Cập, phá hủy không lực trong vài giờ và đánh bại quân đội của bốn nước Ả Rập. Sáu ngày sau trước khi chiến sự kết thúc, Israel đã mở rộng lãnh thổ lên gấp ba lần. Chiến dịch quân sự này chẳng thể tính toán được hết tầm mức của nó, mặc dầu một nước đối đầu với nhiều nước có quân đội không tinh nhuệ, nhưng đông đảo. Ngược lại, chiến tranh năm 1973 lại là một ngoại lệ minh chứng cho quy tắc này, khi Israel bị đánh úp bất ngờ, hoảng loạn một cách vô ích, thì đó chính là hậu quả của chính sự phi thường của nó, chính là một chiến thắng trước đó. Nhưng sau đó, một lần nữa, như nhiều học giả người Israel đã lưu ý, sự dịch chuyển tư tưởng về sự đày đọa ở Palestine và sau này ở Israel của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chưa bao giờ là một thành công thuần túy. Vì một thứ, mối liên kết ái kỷ-hoảng loạn có vẻ như đã tồn tại trong cuộc cách mạng. Như Segev đã chỉ ra khi thảo luận về thị trường lao động người Do Thái và Ả Rập ở Palestine, bắt đầu từ thập niên 1920, những người Zion thường gọi việc người Do Thái thuê nhân viên Ả Rập là avodazara. Từ này dịch nôm na là “lao động nước ngoài”, thực sự lại là một thuật ngữ tôn giáo lịch sử chỉ sự sùng bái thần tượng. Việc sử dụng thuật ngữ này vừa thể hiện thái độ khinh bỉ lẫn nỗi sợ hãi đối với thế giới ngoại đạo. Nó cũng có nghĩa là chắc chắn đồng lương sẽ chênh lệch rõ rệt – cứ như thể những người Ả Rập là những kẻ nhập cư bất hợp pháp chứ không phải là những người bản địa. Trong khi cố gắng để nắm bắt được không khí của Jerusalem ở thập kỷ 1920, trong rất nhiều nguồn mà Segev đã đưa ra dẫn chứng, có những lá thư của một sinh viên đại học gửi cho cha mẹ ở nước ngoài. Những bức thư này có nhắc đến một vụ động đất hiếm gặp rõ ràng là đã gây nguy hiểm cho một trong những ngôi đền ở Núi Đền, mà không phải là bức tường Than khóc kế bên, người thanh niên ấy đã lưu ý rằng đó là do “bàn tay của Chúa”(109). Mấy năm sau, ở rất xa Jerusalem, nổi lên một cơn bão tranh luận về sắc tộc ở Safed khi trẻ con Ả Rập bắt đầu đến chơi ở một sân trường mới dành cho trẻ con Do Thái. Các bậc phụ huynh Do Thái phản đối, và lãnh đạo cộng đồng Do Thái ở Safed và thị trưởng Safed ủng hộ họ. Cùng với nhiều vấn đề khác, ông ta khẳng định rằng con em Do Thái cần phải được giáo dục trong tinh thần của kinh Torah, và rằng tinh túy Do Thái cần phải được giữ gìn không bị nhiễm lẫn với những “kẻ đê tiện”. Ông ta viết, trẻ con Ả Rập đã nhiễm tính xấu ngay từ buổi ban đầu của thời thơ ấu: “Thậm chí ngay từ lúc mới sinh ra đến lúc 10 tuổi, mồm miệng bọn chúng chỉ thốt ra những lời bẩn thỉu tục tĩu, không chỉ vậy, chúng còn làm những trò hư hỏng, đồi bại.”(110) Những thái độ đó không chỉ độc nhằm vào người Ả Rập hay đạo Hồi. Ví dụ như sau khi người ta phát hiện ra Hans Herzl, con trai của người sáng lập, chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, đã cải sang đạo Thiên Chúa, biên tập viên của tờ nhật báo Yishuv đã bình luận rằng ít nhất thì hắn không phải là một kẻ khốn kiếp như Jesus. Tuy nhiên, cuộc xung đột thực sự ở Palestine lại chẳng phải vì tôn giáo mà liên quan đến vấn đề dân số và nhà nước vì những người Zion buộc phải đối mặt với một thực tế là một bộ phận lớn những người Ả Rập thù địch ngày càng gia tăng và càng lấn lướt. Học giả người Israel Nurith Gertz khảo sát những đoạn văn phi hư cấu trong các ấn phẩm in ấn trong suốt thập kỷ 1930 đã lưu ý rằng rất nhiều những bài thảo luận về bản chất có vẻ như không thể giải nghĩa được về những cuộc tấn công của người Ả Rập đối với những cư dân Do Thái đã quy về cho những cuộc tấn công bài Do Thái. Nurith Gertz đã dẫn ra một bài báo tiêu biểu viết rằng: Chẳng có gì thay đổi từ cái ngày những ngôi đền đầu tiên và ngôi đền thứ hai bị đánh đổ, vẫn là thái độ thù địch đối với những người Do Thái chăm chỉ(111). TomSegev đưa ra một ví dụ rõ ràng về khoảng cách giữa thực tế và lời lý giải về vụ thảm sát đáng hổ thẹn năm 1929 ở Hebron. David Ben-Gurion đã so sánh vụ thảm sát này với một pogrom(112), và sau này ám chỉ về một Hebron không có người Do Thái bằng cách sử dụng từ của Đảng viên quốc xã Judenrein. Các lãnh tụ và các nhà văn khác cũng gọi nó là một pogrom, Rehavam Ze’evi viết rằng một bộ phận đông đảo người dân Ả Rập đã nhúng tay vào những vụ giết chóc ấy và “những trận pogrom, những lần tàn sát, thảm sát đã trở thành một phần lịch sử của đất nước chúng tôi trên đất Diaspora của bọn họ và bây giờ cảnh tượng kinh hoàng ấy lại tái diễn ở Xứ sở Israel.”(113) Tuy nhiên, thực tế lại không giống như những cuộc pogrom ở Đông Âu, các nhà chức trách không khởi xướng cũng chẳng tha thứ cho những vụ bạo động ấy. Thêm vào đó, hơn 2/3 người Do Thái ở Hebron đã được các gia đình Ả Rập cứu thoát bằng cách đưa họ về nhà mình. Cũng như thế, mặc dù có 67 người Do Thái bị giết và hàng tá người bị thương, nhưng trong con mắt sử học, nó vẫn không thể so sánh được với những trận pogrom ở Đông Âu có tới hàng trăm đến hàng nghìn người bị giết hại. Cuối cùng, Segev đã chỉ ra, có nhiều cớ sự dẫn đến thảm sát Hebron, từ nỗi sợ hãi về bạo lực tôn giáo và về việc bị phong trào Zion khai trừ cho đến lòng căm thù người ngoại quốc và cuộc chiến giai cấp. Trong khi đó, rất nhiều vụ pogrom điển hình của châu Âu và Nga hoàng lại được khai hỏa bởi một vụ xô xát mang tính địa phương mà người Do Thái bị đổ thừa một cách bất công vô lý. Nhà xã hội học Oz Almog nhận ra rằng ngôn ngữ được sử dụng trong báo chí Do Thái khi miêu tả những thù địch của người Ả Rập bắt đầu từ thập niên 1920, 1930 cũng đã tạo ra một hình ảnh về những người Ả Rập như một phiên bản Amalek, kẻ thù của người Hebrew trong Kinh Thánh luôn tìm cách hủy diệt họ, và một hoán dụ cho bất cứ kẻ bài Do Thái hoặc kẻ thù nào của người Do Thái hay Israel. Almog đã khiến chúng ta lưu ý tới một truyền thuyết về lấy ít địch nhiều... Chủ đề về việc ít ỏi về số lượng nhưng dồi dào về lòng quả cảm, niềm tin, tài khéo léo hoặc những giá trị đạo đức có ở mọi nơi trong lịch sử, những chuyện thánh kinh, và kinh cầu nguyện của người Do Thái. Dìm chết quân đội của pharaoh ở trên biển, chiến thắng trước Amalek ở Refidim, chinh phục Joshua, cuộc nổi dậy của Maccabee chống lại người Hi Lạp, và cuộc nổi dậy của Bar Kokhba chống lại La Mã chỉ là một vài ví dụ. Những câu chuyện kể về sự tích ra đời của những ngày lễ Do Thái, ví dụ như Hanukkak và Lag b’Omer, luôn minh họa rất rõ ràng cho chủ đề ấy. Trong chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hiện đại mang trong mình tính thế tục, thì tính ưu việt của số ít được cho là đã được thể hiện ở khía cạnh chất lượng đánh bại số lượng, lấy trí tuệ, tinh thần tiên phong, chủ nghĩa anh hùng và đạo đức bù lại kiểu quý hồ tinh bất quý hồ đa.(114) Trong khi rõ ràng có phần nào sự thực như thế khi so sánh những quốc gia Ả Rập – nhìn chung những người Zion đã từng, và hiện vẫn thế, hơn hẳn về học vấn, năng suất lao động và hoàn thiện hơn – thì sự ưu việt tự nhận thức được này này chẳng khiến cho họ có được bất kỳ niềm thông cảm nào từ những hàng xóm láng giềng. Như Gertz đã trình bày, trong suốt cuộc chiến tranh năm 1948, cả báo chí lẫn những nhà văn viết tiểu thuyết hư cấu người Do Thái đều khắc họa những người Zion là xông xáo, nhiệt huyết, anh hùng, kiên cường và bình dị. Trong khi người Ả Rập Palestine bị miêu tả là những kẻ yếu ớt, khiếp đảm, thụ động và thu mình. Khái quát hóa theo những biểu hiện ái kỷ như thế này, nhà tâm lý học người Israel Ofer Grosbard ví Israel với một bệnh nhân đang chữa trị theo liệu pháp tâm lý, mà trong buổi chữa trị đầu tiên cứ nằng nặc rằng anh ta chẳng bị sao hết. Vấn đề là, anh ta nói với bác sĩ trị liệu, anh ta quá tài năng, quá khác biệt và quá thành công đến nỗi những người khác đơn giản chỉ là ghen ghét và hận thù với anh ta mà thôi.(115) Kiên định với sự phòng vệ như thế, ngày nay, nhiều người chỉ trích những chính sách của chính phủ Israel liên quan đến vấn đề người Palestine bị buộc tội rằng chính họ (người chỉ trích – ND) mới có vấn đề, chứ không phải là những chính sách của chính phủ. Đôi khi, đây là một phản ứng bồng bột kiểu giận cá chém thớt(116), đổ lỗi cho những người chỉ trích, nhưng thường là nó bắt nguồn từ một sự kết tội sâu xa hơn, và vẫn chỉ là bổn cũ soạn lại. Ví dụ như, trong suốt giai đoạn người Anh nắm quyền ủy trị ở Palestine, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Anh đã phản đối việc cho phép những nạn nhân sống sót trong vụ Đại thảm sát được định cư ở Palestine. Người Yishuv đã lớn tiếng kết tội ông ta là một người bài Do Thái, thậm chí ngay cả khi lý do cơ bản mà ông ta phản đối chính là vì trách nhiệm đạo đức của châu Âu trong việc đưa những người Do Thái hồi hương và ông đã cực lực phản đối chủ nghĩa phân biệt chủng tộc dưới bất kỳ hình thức nào. Ông ta có thể từng là người bài Zion, nhưng không phải là bài Do Thái. Có thể liệt kê ra đây quá nhiều ví dụ cho thấy một số người Mỹ Do Thái, thậm chí ngay cả những người Israel cũng còn quá đáng hơn, đã đánh đồng việc chỉ trích Israel với bài Do Thái. Khi người chỉ trích là người Do Thái, anh ta thường bị coi là một người Do Thái tự ghét chính mình. Việc mỗi lớp lang xung đột Israel – Palestine lại đánh thức một kiểu bài Do gì đó trong thế giới cũ không có nghĩa là không có sự khác biệt giữa một lời chỉ trích mạnh mẽ những chính sách của người Israel với chủ nghĩa bài Do Thái. Có thể thấy rất rõ điều này trong suốt cuộc chiến tranh Israel – dải Gaza vào năm 2014, khi chính các chính phủ chỉ trích tư cách đạo đức của Israel trong cuộc chiến này đã buộc tội gay gắt việc gia tăng đáng sợ những vụ bài Do Thái trong xã hội của họ. Tuy nhiên, càng khiến cho mọi chuyện trở nên phức tạp hơn, trong suốt cuộc xung đột này, vì rất nhiều lý do, bao gồm cả việc cực đoan hóa các cộng đồng Hồi giáo ở châu Âu và bản chất của cuộc chiến tranh, một sự nhập nhằng đánh lận con đen giữa những sắc thái bài Israel và bài Do Thái đã xuất hiện và hoành hành trên khắp thế giới. Bản chất nguy hiểm của mối liên kết giữa động lực đền bù mang tính ái kỷ trong vấn đề Người Được Lựa Chọn với yếu tố gây hoang tưởng về Những Người Bị Áp Bức đã được nhà triết học Moshe Halbertal nhấn mạnh theo những thuật ngữ hơi khác một chút. Thảo luận về Sách Esther(117), cuốn Kinh Thánh mà người Do Thái truyền thống thường đọc trong ngày lễ Purim. Halbertal đã chỉ ra rằng nó đã kết thúc bằng việc người Do Thái cũng trả thù tất cả những kẻ thù của mình. Theo Halbertal và Ezrahi, những câu chuyện hoang đường về việc thần linh có mắt như thế là bình thường trong tư duy của người Do Thái, được dựng lên để trấn áp nỗi sợ hãi và nhục nhã, là đặc trưng trong cuộc sống Diaspora. Như Halbertal đã nhận ra, hiện nay việc Israel có một lực lượng quân sự hùng hậu, khiến những mộng tưởng hoang đường như vậy có thể dẫn đến một trận đánh kiểu như trận chiến dưới bàn tay chỉ huy của Baruch Goldstein trong lễ Purim năm 1994, làm chết 29 người và làm bị thương hơn 125 những người Hồi giáo đang cầu nguyện tại Hang Hebron ở Patriarchs(118). Trong một khuynh hướng phát triển gần đây, khi gặp gỡ tổng thống Obama vào mùa xuân năm 2011 để thảo luận về nguy cơ Israel tấn công phá hoại trang thiết bị của nhà máy hạt nhân của Iran, thủ tướng Israel Bibi Netanyahu đã tặng Obama cuốn sách của Esther. Không chỉ câu chuyện về Esther kết thúc với một sự trả thù kinh khủng, mà nó còn bắt đầu với âm mưu người Ba Tư hủy diệt người Do Thái. NẾU TA QUÊN NGƯƠI THÌ TA SẼ SỐNG LƯU VONG Có lẽ điểm nguy hiểm nhất nằm ở dải quang phổ hoài nghi – hoang tưởng ngụ trong tinh thần người Israel đã đi vào tiêu điểm, và ở ca bệnh Israel rõ ràng là c nói như vậy, đó là những người hoang tưởng cũng có kẻ thù thực sự. Sự thật là những người hoang tưởng chắc chắn có kẻ thù vì chính họ tạo ra chúng. Người mắc chứng hoang tưởng không thể tha thứ và không thể ý thức được sự thù địch của chính mình và bởi vậy mới gắp lửa bỏ tay người, đổ thừa rằng người kia đang ra tay với anh ta. Tự nhiên, lời buộc tội này bị những người khác xem là hành vi công kích, do vậy họ phản ứng bằng cách tấn công lại, thành ra kẻ hoang tưởng kia có bằng chứng rằng họ đúng là đã ra tay với anh ta. Bởi vậy khi Israel có hàng tấn lý do từ bên ngoài, nhiều lý do đã tồn tại lâu đời, một vài lý do mới nảy sinh, để cảm thấy bị đe dọa, một vài lý do là từ sự bất an mang tính sống còn là kết quả của một chu trình “phóng chiếu – hấp thu thụ động”. Như Nurith Gertz đã đưa ra tài liệu, sự phóng chiếu hoang tưởng này, cùng với người bà con mang tên ái kỷ, là một đặc điểm thường thấy trong tâm thức của người Do Thái về người Ả Rập bản địa trong suốt thời kỳ định cư của những người Zion trên đất Palestine. Những người Zion tự coi bản thân là hình mẫu của phương Tây văn minh, nhân văn, bị những kẻ sống du mục trên sa mạc bản chất ưa bạo lực tấn công và giết hại không rõ lý do. Họ đã không thể nhận ra bất cứ dấu hiệu nào cho thấy chính họ mới là kẻ thù địch hoặc đigây hấn, cho thấy mảnh đất họ đến ngụ cư đã có người định cư. Nhà tâm lý học người Israel Benjamin Beit-Hallahmi đã giải thích việc người Israel ngày hôm nay không thừa nhận những gì mà ông ta gọi là tội tổ tông – bên cạnh việc giúp nhiều người Do Thái, chủ nghĩa phục quốc Zion cũng là một phong trào thực dân – vì một viễn cảnh kinh hoàng rằng nếu họ thừa nhận bất cứ tội lỗi nào, họ sẽ bị trừng phạt còn dã man hơn rất nhiều so với tội ác mà họ đã gây ra.(119) Một ý kiến khác cho rằng người Israel phải đổ tội gây hấn cho những người Palestine bởi họ không thể chịu đựng nổi cảm giác tội lỗi về chuyện ấy. Mặc dù Israel đang dần ý thức về mối nguy của chủ nghĩa bài Do Thái đã tồn tại từ lâu đời và sự thù địch vô lối của những quốc gia Ả Rập trong ba đến bốn thập kỷ đầu độc lập, nhưng nó vẫn thừa nhận một thực tế rằng hiện nay nó đã có sức mạnh hùng cường, một vài quốc gia Ả Rập quan trọng đã chấp nhận nó, và những người Palestine thực ra tương đối yếu ớt, vô hại. Cứ viện cớ là tự vệ, người Israel đã hành động thái quá đối với những mối nguy tự họ nghĩ ra và đã sử dụng lực lượng áp đảo, chỉ để tái tạo những kẻ thù trong quá khứ - làm như thể kẻ thù hiện tại thôi là vẫn chưa đủ vậy – và củng cố nỗi lo sợ rằng sẽ bị hủy diệt, nỗi lo sợ tận trong sâu thẳm của người Israel. Đây không phải đơn thuần chỉ là kết quả của chủ nghĩa bài Do Thái mà kể từ khi Israel xâm chiếm Bờ Tây và dải Gaza vào năm 1967, đa phần thế giới đã trở nên khắt khe hơn và chỉ trích sự gây hấn của Israel. Cho đến tận lúc đó, vì nó là một nước rất nhỏ, sinh ra từ những hạt bụi tha phương là những người Do Thái châu Âu và bị bao vây bởi những nước Ả Rập thù địch, cho nên ở phương Tây, Israel được coi là một nạn nhân thay vì kẻ đi gây nạn. Nhưng dù thế nào thì trong tâm thức của người Israel, việc họ là một kẻ gây nạn hay là một nạn nhân cũng chẳng quan trọng, nỗi băn khoăn ấy thường bị dìm xuống và mất tích dưới những làn sóng lo lắng bị bỏ rơi và bị hủy diệt cứ tuôn trào từng đợt như những cơn sóng thần. Nỗi bất an đe dọa sự sống còn của Israel có lẽ hiện hữu nhất trong đêm trước cuộc chiến tranh năm 1967. Trong nhiều tuần trước khi tiếng súng đầu tiên của cuộc chiến nổ ra, ước chừng 10.000 người thương vong – tương đương với nhiều triệu người ở Mỹ - các quan chức Ủy ban Tôn giáo Tel Aviv khảo sát các khu vực, công viên và sân bóng rổ để trống và thánh hóa nó như thể là những khu nghĩa địa. Một vài ngày trước cuộc chiến tranh, thủ tướng Eshkol lắp ba lắp bắp trong một bài diễn văn trên đài phát thanh phát sóng trực tiếp, dấy lên nỗi lo lắng xao xác trong lòng công chúng, mà sau đó buộc ông ta phải gia cố lại chính phủ của mình và thành lập chính phủ quốc gia thống nhất đầu tiên của Israel. Những cảm xúc trong giai đoạn đó đã được Ari Shavit thâu tóm một cách khá cảm động trong những dòng mở đầu của cuốn sách xuất bản năm 2013 của ông, My Promised Land: The Triumph and Tragedy of Israel (Tạm dịch: Miền đất hứa của tôi: Israel - Vinh quang và Cay đắng). Người Ả Rập sẽ thắng? Khi còn là đứa trẻ chín tuổi, ông đã hỏi cha như vậy. Quê hương yêu dấu của ông sẽ tràn ngập những đám ô hợp dân Ả Rập hay có thể là những lực lượng Hồi giáo, trở thành một Atlantic khác chìm xuống tận đáy sâu của đại dương? Trên thực tế, quân đội Israel còn tân tiến, tinh nhuệ vượt bậc so với lực lượng của nhiều nước Ả Rập kết hợp lại và đã đánh bại họ chỉ trong một vài ngày. Nỗi thấp thỏm nguôi ngoai đã trở thành nỗi phấn chấn sau cuộc chiến. Nhưng nó không bao giờ biến mất hoàn toàn và đã trở lại với sự phục thù mãnh liệt sau cuộc tấn công chớp nhoáng và những thất bại ban đầu của cuộc chiến tranh năm 1973. Trong những chiến dịch quân sự tiếp theo, thậm chí là khi Israel đã huy động những lực lượng quân sự áp đảo và tinh nhuệ, nỗi lo sợ hoang tưởng vẫn còn dai dẳng. Ví dụ, trong suốt cuộc xâm lược của Israel vào Lebanon năm 1982, khi Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon sau đó tuyên bố rằng Israel có thể hành động như lực lượng hùng mạnh nhất khu vực Trung Đông mà thủ tướng của ông ta lúc bấy giờ là Menachem Begin đã so sánh mức độ nguy hiểm của lực lượng PLO đe dọa trên đất Lebanon ngang với quân Nazi trong Thế chiến 2. Chẳng phải vô cớ mà Sharon tập trung vào sức mạnh quân sự của Israel, còn Begin, tập trung vào khả năng dễ tổn thương của người Israel. Sharon, một sabra, xuất thân từ phong trào Phục quốc Do Thái lao động vốn khao khát phá vỡ tâm lý Diaspora yếm thế; Begin sinh ra ở Ba Lan và mất cả gia đình trong Đại thảm sát Holocaust. Begin không bao giờ có khả năng nhét vào đầu mình hệ triết học mới mẻ nào. Đối với ông ta, nhà nước Do Thái còn hơn cả một sự kế tục truyền thống Do Thái, chống trả lại sự thù địch của thế giới phi Do Thái. Ở mặt ấy, lần đắc cử của Begin – một nhân vật đối lập bên phía thiểu số cực chênh lệch trong khoảng 29 năm trước đó – vào chức thủ tướng năm 1977 có thể được xem như, theo ngôn ngữ phân tâm học, “sự trở lại của cái bị dồn nén”. Những gì đã bị phủ nhận hoặc bị dồn nén trước đây, giờ lại nổi lên trên bề mặt. Đó là cách giải thích cho việc người Israel hành động thái quá – và bởi vậy là thảm họa với mối quan hệ công chúng – đối với đội tàu nhỏ của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2010 và những nỗ lực tiếp theo của các nhà hoạt động hòa bình trong việc phá vỡ lệnh phong tỏa đường biển của Israel đối với dải Gaza. Trong tâm thức của người Israel, những điều này không chỉ đơn thuần là những cuộc biểu tình vớ vẩn hoặc bất hợp pháp chống lại chính sách của Israel đối vớidải Gaza bị bần cùng hóa, nếu không nói là cực đoan hóa, mà đúng hơn là “một hạm đội thù hằn và bạo lực”, cũng như những đợt tấn công vào chủ quyền và quyền hợp pháp của Israel.(120) Ở phía ít hoang tưởng hơn của quang phổ, phần lớn nỗi lo âu của người Israel là về sự sinh tồn, hiện tại tập trung vào Iran – như đã chỉ ra, thậm chí những người hoang tưởng cũng có những kẻ thù thực sự. Hamas và lực lượng phân tán của nó trên dải Gaza cũng là những kẻ thù thực sự, bị dán nhãn thương hiệu bài Do Thái. Tuy nhiên, như năm 2014, họ bị suy yếu về quân sự và chính trị nên chẳng đe dọa chút nào sự tồn tại của Israel. Vào những năm 1980, một bài hát upbeat lạ lùng “The whole world is against us” (Tạm dịch: Cả thế giới quay lưng lại với ta), đã tấn công nhiều kênh phát thanh và đưa nó lên top đầu của các bảng xếp hạng. Bình luận về quan điểm của người Israel lúc đó, có nguồn tin cho rằng nghệ sĩ người Israel Yair Garbuz ghép bài hát với lời buộc tội phổ biến của người Israel là “thế giới đã câm lặng” trong suốt Đại thảm sát Holocaust: “Thế giới quay lưng lại với chúng ta và câm lặng (trước nỗi đau của ta - ND)”(121). Nhận xét của Garbuz vẫn thật là một lời mỉa mai cho tới tận ngày hôm nay, đặt sự cô lập quốc tế hiện tại của Israel trong bối cảnh lịch sử của sự đàn áp người Do Thái. Sự nghịch lý trong lời của Garbuz cũng chứa đựng ý nghĩa tâm lý sâu sắc, vì nó đã khắc họa được hình tượng người Israel ngạc nhiên hay cảm thấy phẫn uất rằng “thế giới” không đang bảo vệ họ khỏi chính nó. Trong khi những người Zion thời kỳ đầu tập trung vào “chúng ta có thể làm gì để xây dựng một đất nước,” những thế hệ tiếp theo ngày càng tập trung vào “những gì mà kẻ khác có thể hủy diệt chúng ta”. Ở mặt này, hoang tưởng không phải là về việc tin mà đúng hơn là quá tin vào người khác, hoặc đúng hơn là, không đủ tự tin vào chính mình. Đó là về việc gán quá nhiều sức mạnh, quyền lực vào người khác và không đủ vào chính mình, và do đó phải đánh phủ đầu. Chẳng có gì là ngẫu nhiên khi trong tiếng Hebrew từ có nghĩa là an toàn, bitahon, có cùng gốc với từ livto ah, tin tưởng, vì phải thông qua sự tin tưởng, vào chính mình và vào người khác, chúng ta mới có thể đạt được một cảm giác an toàn thực sự. Nếu không để ý đến ngôn ngữ của họ, mà chỉ quan tâm đến lịch sử bị đàn áp của dân tộc Do Thái, qua khoảng hai hoặc ba thập kỷ gần đây, người Israel đã chào đón rất nhiều những sáng kiến hòa bình chủ yếu đi kèm với một nỗi hoài nghi, thậm chí là với cả những sáng kiến được bắt nguồn từ nhân vật ủng hộ sừng sỏ của họ là Hoa Kỳ. Họ thường ám chỉ cuộc đàm phán với những từ ngữ như “một sự hòa giải Munich” và gọi những đường biên đi kèm với một thỏa thuận hòa bình tiềm năng là “hàng rào Auschwitz”. Lối tu từ này có thể trở thành một lời tiên tri đầy tự mãn, mà theo đó tự trách tội mình vì đã để lặp lại sự kiện ghetto, như một kẻ hạ đẳng giữa các quốc gia và xác nhận câu chuyện đã tồn tại trước đó về “thân phận Do Thái”, mà đứa trẻ mẫu giáo người Israel nào cũng đều biết là ha-goral ha-yehudi trong tiếng Hebrew. Một nguyên nhân của “thân phận” này đó là vì người Do Thái không hoặc không thể tin tưởng vào những kẻ ngoại đạo sống xung quanh mình nên họ có xu hướng xây dựng những mối quan hệ trực tiếp với các vị vua, hoàng tử, giáo hoàng, và giám mục – những quyền lực trung ương cao nhất trong thời kỳ Diaspora. Bởi vậy, họ phát triển những mối quan hệ phụ thuộc, hi vọng vào sự vô vọng và những bằng chứng lịch sử chẳng nhiều nhặn gì cho thấy những nhân vật quyền lực này sẽ trở thành thần hộ mệnh cho họ. Vậy nhưng, trong thực tế, điều này chỉ đổ thêm dầu vào lửa, dân bản địa và những nhà chức trách của các quốc gia thường phản bội những người Do Thái. Như nhà văn người Mỹ Leon Wieseltier thừa nhận rằng trong suốt Mùa xuân Ả Rập năm 2011, Israel dường như cũng phải viện đến thể loại “liên minh trục tung” này, dựa trên những kẻ độc tài và những kẻ vương quyền như Mubarak và Abdullah để đảm bảo sự ổn định của khu vực, hơn là bắt tay vào phát triển một “liên minh trục hoành” với cư dân các nước Ả Rập. Như một hệ quả của Mùa xuân Ả Rập, nếu những nước Ả Rập trở nên dân chủ hơn hoặc thay vì thế bị điều hành bởi những chế độ chuyên quyền hay dân túy hơn như có vẻ đang diễn ra trong thời điểm khi tôi đang viết những dòng này, thì chiến lược này, cũng – một lần nữa, một chiến lược dựa trên những giả thuyết đầy hoài nghi và thiếu tin tưởng đã được điều chỉnh và tự gây thương tổn – có thể chứng tỏ là đã thất bại thê thảm. Việc Ai Cập và những nước Ả Rập nhượng bộ khác chuyển hướng thành đồng minh thân cận nhất với Israel trong cuộc chiến năm 2014 Israel chống lại Hamas chẳng góp được gì trong hành trình trường kỳ nuôi dưỡng một “liên minh trục hoành” giữa người Israel và người Ả Rập. Cùng một logic về sự hoang tưởng và phụ thuộc ấy thể hiện rấtrõ ràng trong quan hệ của Israel với Hoa Kỳ, vừa trong việc phát triển một quân đội tối trọng và nền kinh tế phụ thuộc vào một siêu cường, vừa trong việc bám víu lấy một tổng thống Mỹ này và vượt mặt một tổng thống khác, nói thẳng ra là George W. Bush và Barack Obama. Một chiến lược khả dĩ hơn chính là không nên bỏ trứng vào cùng một giỏ, cố gắng tranh thủ càng nhiều mối quan hệ hữu hảo với nhiều quốc gia và tái thiết lập sự ủng hộ rộng rãi hơn giữa những người Mỹ nói chung, bao gồm cả những người Do Thái thế tục, hiện đại và những thành phần dân cư nói chung không theo Tin lành càng tốt. Trong cuốn hồi ký của mình, A tale of love and darkness (Tạm dịch: Chuyện tình và bóng tối), Amos Oz đã kể về một trải nghiệm ấu thơ quen thuộc với nhiều người Israel thuộc thế hệ ông. Trước khi điện thoại trở nên phổ biến trong gia đình người Israel, bạn phải đến tiệm thuốc trong khu dân sinh và thực hiện cuộc gọi hẹn trước với người khác đang chờ đợi vào thời điểm đã hẹn tại tiệm thuốc ở chỗ của họ. Oz nhớ lại một cuộc gọi kiểu như vậy mà cha mẹ ông đã gọi từ Jerusalem cho dì và chú của ông ở Tel Aviv như sau: - Xin chào, Tzvi đấy hả? - Em đang nghe đây. - Arieh ở Jerusalem đây. - Anh Arieh à, em Tzvi đây, anh thế nào? - Mọi thứ ở đây đều ổn cả. Chúng tôi đang gọi điện ở hiệu thuốc. - Chúng em cũng thế. Có tin gì mới không? - Chúng tôi chẳng có gì mới cả. Chỗ chú thế nào, Tzvi? Nói xem mọi chuyện thế nào rồi. - Mọi thứ đều OK. Chẳng có gì đặc biệt cả. Bọn em đều khỏe cả. - Không có tin gì là tốt rồi. Ở đây cũng chẳng có chuyện gì. Anh chị đều ổn cả. Các em thế nào? - Bọn em cũng thế. Và rồi mẹ của Oz, sau đó chính Amos cũng đến áp ống nghe vào tai và lặp lại toàn bộ chuỗi hội thoại này, rồi họ lên lịch cho cuộc gọi tiếp theo. Ngẫm lại kỷ niệm này, Oz viết: Nhưng đây không phải là chuyện kể ra để mà cười cợt: cuộc sống của chúng tôi bị treo trên một mối nguy hiểm. Bây giờ tôi nhận ra rằng cha mẹ chú dì tôi không hề chắc chắn rằng họ sẽ thực sự được nói chuyện với nhau lần nữa, đây có thể là lần cuối cùng, ai mà biết được sẽ có chuyện gì xảy ra, có thể là những cuộc bạo loạn, một cuộc tàn sát kiểu pogrom(122), một bể máu, người Ả Rập có thể nổi dậy và tàn sát nhiều người chúng tôi, có thể là một cuộc chiến tranh, một thảm họa kinh hoàng, sau tất cả những gì đã xảy ra: xe tăng của Hitler gần như đã sừng sững ngay trước cửa ra vào của chúng tôi từ tất cả mọi phía, Bắc Phi và Caucasus, ai mà biết được còn gì nữa đang chờ chúng tôi? Cuộc nói chuyện chả đâu vào đâu này không thực sự vô nghĩa, nó chỉ hơi kỳ quặc mà thôi.(123) Sau đó, Oz còn nói thêm, những cuộc hội thoại này cũng cho thấy những người thuộc thế hệ cha mẹ ông không thể thể hiện những cảm xúc cá nhân như thế nào. Họ chẳng có vấn đề gì khi thể hiện những tình cảm cộng đồng, nói một cách hùng hổ hàng tiếng đồng hồ không dứt về Nietzsche, Stalin, Freud, Jabotinsky, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa thực dân, bài Do Thái, công bằng, v.v và v.v, nhưng những cảm xúc cá nhân thì lại là một vấn đề khác. Người Israel ngày nay vẫn thích nói về những vấn đề quốc gia dân tộc, một cách sắc sảo và đầy nhiệt huyết, nhưng họ cũng chẳng ngại ngần gì khi toang toác những ý nghĩ thẳm sâu nhất của họ với bất cứ ai nghe chúng. Không chỉ những cuộc chuyện trò về việc quốc gia đại sự ẩn khuất đâu đó cùng một cảm giác bất an, mà chính trong giao tiếp cá nhân hàng ngày cũng thấy lấp ló một sự hoài nghi. Cố bám lấy lòng tự tôn yếm thế, những ranh giới dễ dàng xâm nhập, và những biểu hiện phóng chiếu mang tính ái kỷ có tầm ảnh hưởng đến những quan điểm tiêu cực của những người đồng bào Israel, tâm thức người Israel mang cốt lõi của lòng nghi ngại hoang tưởng về xã hội. Amos Oz đã khéo léo lần ngược trở lại thời kỳ Diaspora, khi người Do Thái phải sống với nỗi kinh hoàng rằng, cầu trời cho nó không xảy ra, họ đã gây ra một ấn tượng xấu với những người ngoại đạo, những người này sẽ tức giận và “đối xử với chúng ta bằng những hành động mà chỉ nghĩ đến thôi đã quá ghê sợ rồi.” Như dì của Oz, Sonia, một người Do Thái sinh ra ở Đông Âu, đã nhận ra, vì điều này găm sâu vào đầu của mỗi đứa trẻ con Do Thái 1000 lần, nó đã bóp méo phẩm giá và tính liêm chính của người Do Thái, khiến người Do Thái trở nên “gian trá và đầy mưu mẹo như một con mèo”. “Tôi không thích những con mèo chút nào,” Sonia nói. “Tôi cũng chẳng thích chó lắm, nhưng nếu phải chọn, tôi thà chọn chó hơn. Một con chó giống như một người ngoại đạo, bạn có thể ngay lập tức biết được nó đang nghĩ gì và cảm thấy như thế nào. Người Do Thái Diaspora biến thành những con mèo, theo nghĩa xấu, anh biết ý tôi là gì rồi chứ.” Nhà xã hội học Oz Almog đã lần ngược về lịch sử lâu đời hơn, ngay trong những thời đại Kinh Thánh. “Ngươi sẽ tự chuốc lấy chiến tranh vì những dối trá lọc lừa,” cuốn Cách ngôn đã khuyên răn như vậy. Không giống những người Do Thái Diaspora, người Israel hiếm khi quan tâm đến việc tạo ấn tượng tốt với những người ngoại đạo. Về mặt này, cuộc cách mạng của những người Zion thành công còn vượt cả những giấc mơ hoang đường nhất của họ. Nhưng trong nội tâm của người Do Thái, nỗi sợ hãi và lòng hoài nghi vẫn còn tồn tại, tiếp tục gặm nhấm lòng chính trực và phẩm giá trung thực của người Israel. Tuy nhiên, bề ngoài, người Do Thái Israel giống một con chó hơn một con mèo, một loại chó sủa và cắn càn vì sợ hãi cũng như để gây hấn. Amos Oz cũng phân tích rõ hơn về điều này. Lần này, Oz phân tích dựa trên tiếng nói của một trong những người cha sáng lập nên kibbutz(124), chạy trốn khỏi sự ngột ngạt của Jerusalem và của gia đình lúc ông 15 tuổi. Nói về lãnh tụ đối lập sau này Menachem Begin, ông ta chia sẻ với Oz: Cơ bản ông ta là một người đàn ông tốt, Begin ấy... Một kiểu yeshiva bocher(125)lầm đường lạc lối, tin rằng nếu chúng ta, những người Do Thái, bắt đầu kêu lên ở âm vực cao nhất mà đó vốn không phải là cách những người Do Thái chúng ta thường làm, chúng ta sẽ không phải là những con cừu cho đồ tể, chúng ta không phải là những kẻ yếu đuối nhợt nhạt nhưng trái lại, hiện giờ chúng ta là kẻ nguy hiểm, hiện tại chúng ta là những con sói hung hãn, rồi tất cả những con thú săn mồi thực sự sẽ sợ hãi chúng ta và đưa cho chúng ta mọi thứ chúng ta muốn, họ sẽ để cho chúng ta có được toàn bộ mảnh đất này... Họ, Begin và bộ sậu của ông ta, nói từ sáng đến tối về quyền lực, nhưng họ không có ý niệm đầu tiên cần biết quyền lực là gì, nó được cấu thành từ đâu, điểm yếu của quyền lực là gì(126). Nhiều nhà tâm lý học người Israel đã lưu ý đến những hậu quả cả tích cực cũng như tiêu cực của mối liên hệ giữa nỗi lo lắng và sự hung hăng của người Israel. Một nghiên cứu vào năm 1994 của Erel Shalit đã kết luận rằng nỗi sợ hãi bị nhục mạ sau Holocaust đã được chuyển ngược thành năng lượng công kích khi người Israel chiến đấu trong cuộc chiến tranh giành độc lập trước sự xâm lược của những đội quân Ả Rập(127). Ofer Grosbard miêu tả người Israel đã chiến đấu với cảm giác bị đè nén và phủ nhận rằng sự tồn tại của họ chỉ là “một lời dối trá”, rằng họ sống trên thời gian vay mượn như thế nào. Ông ta giải thích, không thể chịu đựng được những lo lắng và bất an như thế này, họ đã trút sang người khác dưới hình thức là sự hung hăng, công kích. Có lẽ ý kiến của Avner Falk thuyết phục hơn và thâu tóm tất cả vấn đề, nó được viết trong suốt cuộc cintifada thứ hai của người Palestine: Những kẻ khủng bố Ả Rập người Palestine đã thêm vào nỗi lo lắng bên trong của chúng ta bằng nỗi sợ hãi những thế lực bên ngoài. Mối hiểm họa thường trực về một vụ đánh bom liều chết khiến cho chúng ta sống trong một trạng thái lúc nào cũng thấp thỏm và lo sợ bị mất mạng. Chúng ta thể hiện nỗi lo lắng ấy bằng những hành vi hung hăng, thậm chí là bạo lực trên những con đường, trong cửa hàng, trong ngân hàng, văn phòng, trên ngõ phố, khắp mọi nơi. Thật vậy, Israel là nước có tỷ lệ tai nạn giao thông trên đầu người khá cao.” Nỗi sợ đó, được hiển hiện thành nguy cơ từ bên ngoài và nảy sinh từ bên trong, không chỉ tiêu diệt lòng chính trực và dẫn đến sự hung hăng mà nó còn tác động đến những quyết định cá nhân liên quan đến đường đời và con cái họ. Những cặp vợ chồng người Israel ở nước ngoài thường xuyên bàn luận về việc sinh con ở nước ngoài, để nó có quốc tịch thứ hai, “phòng khi”. Một người họ hàng của tôi khoảng 30 tuổi với một người bà sinh ở Ba Lan đang lập kế hoạch để những đứa con của cô được nhập quốc tịch Ba Lan. “Ba Lan?” Tôi hơi ngạc nhiên hỏi lại. “Đó là một nước thuộc Liên minh châu Âu,” cô ấy cười nói. Nhưng như Oz đã viết, đây không phải là một chuyện cười. Một nghiên cứu của trường Đại học Bar Ilan năm 2011 đã chỉ ra rằng khoảng 100 nghìn người Israel đã có hộ chiếu Đức, hàng năm thêm 7000 người nữa cùng nhập với hội này, một hiện tượng có một không hai giữa những quốc gia ở thế giới thứ nhất.(128) Với những tính toán để sinh tồn như vậy, nhiều người, nếu không nói là cả nước Israel, sẽ sống sót, không cần biết tương lai nguy biến ra sao. Hơn nữa, trong nỗi sợ hãi dựa trên thực tế, hoặc thậm chí là nỗi sợ hãi hoang tưởng, phần giá trị sinh tồn này bù đắp cho lòng tự mãn của người khác là một nguyên tắc có thực và đã được kiểm nghiệm. Trong những mối quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và quan hệ quốc tế, sự cảnh giác cao độ buộc chúng ta phải thể hiện sức mạnh, và với mức độ chính xác hợp lý, nó có thể ngăn chặn cho chúng ta khỏi bị bắt nạt. Ví dụ như trong trường hợp của Iran, có thể là chiến lược cớm tốt/cớm xấu vẫn còn hiệu quả. Bất kể là được hợp tác chi tiết từng li từng tí hay trên bình diện tổng quát, hay đơn giản là chỉ nảy sinh như tác dụng phụ của những khác biệt văn hóa – tâm lý giữa Hoa Kỳ và Israel, tác động kết hợp của những củ cà rốt hứa hẹn của Mỹ và những cây gậy đe dọa của Israel trên lý thuyết có thể thuyết phục được Iran đạt đến một thỏa thuận về năng lượng hạt nhân với nhóm cường quốc P5 + 1 – năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cùng với Đức – đang đàm phán với nó. Khi tôi đang viết những dòng này, chiến lược ấy dường như đã có hiệu quả, ít nhất là tạm thời, khi Iran đồng ý ngừng chương trình hạt nhân trong suốt thời gian diễn ra những cuộc đàm phán mở rộng. Cũng có thể nói đôi điều về vai trò hữu ích của chứng hoang tưởng trong một không gian sáng tạo, đầy tính chủ quan mà chúng ta gọi là nghệ thuật này. Để dẫn ra một ví dụ rõ ràng, có thể xem xét trường hợp nhà văn nổi tiếng thế giới cỡ Franz Kafka, thật khó có thể phủ nhận rằng nhiều kiệt tác của ông – từ tiểu thuyết Lâu đài và Vụ án cho đến những tác phẩm ngắn hơn như Hóa thân và Lời phán quyết – đều mang màu sắc cảm thức hoang tưởng Do Thái. Tác giả người Israel đương thời, Etgar Keret, người đã dẫn Kafka như một nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với tác phẩm của ông, có lẽ là một phiên bản Israel cho kiểu Do Thái này. Giống như thế giới của Kafka, thế giới mà ông ta tạo ta vừa mang tính cá thể vừa mang tính nhân loại phổ quát, cùng chung những cảm thức ảo tưởng, kì quái, và đôi khihoang tưởng. Mặc dầu vậy, tác phẩm của ông không tăm tối như của Kafka, và nếu có, nó nhấn mạnh mặt sáng của chứng hoang tưởng như một đặc điểm của trí tưởng tượng con người. Tuy nhiên, yếu tố hoang tưởng trong tâm lý người Israel thực sự đem đến một mối nguy hiện hữu cho Israel. Trong cuốn hồi ký của mình về chiến tranh năm 1948, tác giả người Israel Yoram Kaniuk nhớ lại thế hệ những thiếu niên Do Thái tuổi ông ở Palestine đã được nuôi nấng, giáo dục để nổi dậy chống lại “thân phận Do Thái” Diaspora như thế nào. Tâm niệm với điều ấy, trong suốt lễ Hanukkah trước chiến tranh, ông cùng các bạn học trong trường đã leo lên Masada(129). Khi họ leo lên đến đỉnh, chỉ vừa kịp trước lúc bình minh, họ “nói gì đó” về việc người Đức đã hủy diệt người Do Thái như thế nào, và họ đã khắc lên trên một hòn đá: “Nếu ta quên ngươi, thì, ta sẽ sống lưu vong.”(130) Trong một câu nói ngược đầy ẩn ý và châm biếm so với một lời về khao khát Zion trong thánh ca kinh điển, họ đã trang bị cho chính mình những động lực bổ sung để chiến đấu cho một cuộc chiến sắp tới. Nhưng với sự châm biếm gấp đôi và ẩn chứa nỗi bi thảm, họ, giống như bản thân tâm thức Israel, đã tái cam đoan nhớ lại thời kỳ Diaspora, mâu thuẫn với bản chất nhiệm vụ của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, tất cả những gì nó muốn là thật nhanh chóng vùi lấp thời kỳ này vào trong quên lãng. Chẳng phải ngẫu nhiên khi đến lúc này khi chuẩn bị kết thúc chương, chủ đề Holocaust đang dần dần xuất hiện trong cuốn sách này. Đây cũng không phải là một sơ suất khi chương này không bàn đến sự kiện với mức độ bạo hành khủng khiếp nhất đó. Tác động của Holocaust – đỉnh điểm và ác mộng cuối cùng của chủ nghĩa bài Do Thái, bởi vậy là nguyên nhân chính dẫn đến những nỗi lo lắng bị lăng nhục và bỏ rơi của người Do Thái và người Israel – trong tâm thức người Israel có một tầm vóc quan trọng và sự phức tạp đến mức cần phải có hẳn một chương cho riêng nó. “Dì” Clara của tôi là một người họ hàng xa, một người rất thu hút và có khí chất rạng ngời. Khi tôi đang sống ở Jerusalem, dì là người duy nhất có liên quan gì đó với Holocaust mà tôi biết. Tôi cũng chẳng biết nó là gì – chưa bao giờ dì đả động đến chuyện đó. Dù chỉ sống cách có hai khu nhà và thường đến nhà tôi ăn bánh và cà phê vào mỗi chiều thứ Tư, đúng giờ như một chiếc đồng hồ Đức. Và tôi chưa bao giờ nghĩ đến Holocaust trong khi hầu như ngày nào cũng giáp mặt với đôi vợ chồng người Đức già cả, neo đơn, không con cái, sống trong tòa nhà năm tầng của chúng tôi, chỉ cách căn hộ nhà tôi một đại sảnh ngắn. Thậm chí ngay cả khi tôi còn tuổi thiếu niên, có lần ông Gottlieb gõ cửa nhà chúng tôi, chẳng phải để phàn nàn về tiếng nhạc ồn ĩ tôi đang chơi, mà đúng hơn là để khen ngợi gu âm nhạc của tôi và cho tôi một bản ghi Der Rosenkavalier của Richard Strauss(131) để bổ sung vào bộ sưu tập nhạc thính phòng. Bạn sẽ thấy điều này thật khó tin nếu để ý rằng đất nước mà tôi sống lúc ấy cho dù đã qua nhiều lần nhập cư ồ ạt của người Do Thái từ các nước Ả Rập và Bắc Phi vào thập niên 1950, thì gần như cứ ba người lại có một người là nạn nhân sống sót sau Đại thảm sát Holocaust. Một đất nước mà ngập ngụa những tài liệu ghê gớm, kinh khủng để khiến người dân của nó tưởng nhớ mãi đến cuộc Đại thảm sát, đất nước đã gửi tất cả học sinh cũng như những nhà ngoại giao và quan chức ngoại quốc đến thăm Bảo tàng Holocaust Yad Vashem trước khi cho phép họ tham gia vào những việc quan trọng khác, và một đất nước mà những đứa trẻ trong khi chơi bóng đá trên đường phố lại tranh cãi nhau về việc người giàu nhất khu là một kẻ Israel gian(132) hay không chỉ vì ông ta lái một chiếc xe Mercedes. Tôi luôn luôn đổ lỗi cho việc xa lạ này là tại gia đình tôi chưa bao giờ trực tiếp bị cuộc thảm sát ấy động vào. Trong khi chắc chắn là có một sự thật đâu đó, nhiều năm sau tôi cũng nhận thấy mối quan hệ hai mặt kỳ quặc của riêng mình với Holocaust – sự phủ nhận cảm xúc của tôi về nó, thậm chí khi nó đã đập thẳng vào mắt tôi – đơn thuần chỉ là một kiểu phản ứng lưỡng phân liên quan đến Holocaust có thể thấy ở bất cứ người Israel nào vào lúc đó. Kiểu hai mặt này, một đằng thì nhan nhản hiện diện ngoài ý muốn, một đằng thì cố gắng tách ra, mở ra một cánh cửa sổ để những nạn nhân sống sót có thể tự mình nhìn qua đó thấy phần lớn những di chứng tâm lý về Holocaust và, vô hình trung, lại là cánh cửa sổ cho tất cả người Israeltrong những thập kỷ đầu của nhà nước Do Thái. Có lẽ ví dụ sinh động nhất cho mối quan hệ hai mặt với Holocaust này nằm ở câu chuyện đời thực của một trong những người sống sót sau Đại thảm sát nổi tiếng nhất, tác giả nổi tiếng toàn thế giới với bút danh Ka-Tzetnik. Sinh ở Ba Lan vào năm 1909, Yehiel Feiner là một nhà văn trẻ và một nhạc sĩ trẻ ham viết thì bị gửi đến Auschwitz, nơi anh mất toàn bộ gia đình ở đó. Sau chiến tranh, khi đang phục hồi trong một trại lính của Anh ở Ý, anh dành hai tuần rưỡi để viết lại toàn bộ những gì đã chứng kiến và trải qua trong trại tập trung đó. Khi hoàn thành, anh đưa bản thảo cho một lính Anh và nhờ anh ta gửi đến Palestine. Người lính nhìn vào bản thảo. Anh ta thấy tiêu đề Salamandra nhưng không thấy đề tên tác giả. Anh ta cúi xuống chàng trai trẻ yếu ớt, gầy mòn và thì thầm: “Anh quên đề tên tác giả.” “Tên của tác giả ư?” Feiner kêu lên. “Họ, những người đi đến nhà thiêu, đã viết quyển sách này! Tên của họ là: Ka-Tzetnik.” Cái tên ấy là bắt nguồn từ tên viết tắt KZ trong tiếng Đức chỉ trại tập trung, nó phát âm là ka tzet và những người bị giam thường bị gọi là Ka-Tzetnik, cùng với số kí hiệu của họ. Yehiel Feiner là Ka-Tzetnik 135633.(133) Khi theo bản thảo của mình tới Israel, Feiner đã đổi tên của mình thành De-Nur, có nghĩa là “từ lửa”. Cuốn Salamandra của ông là một trong những cuốn sách đầu tiên về Holocaust được xuất bản ở Israel. Giống như tất cả những cuốn sách tiếp theo của ông, cuốn sách nổi tiếng nhất House of the dolls (Tạm dịch: Ngôi nhà búp bê), là một cuốn tự truyện, kể lại chi tiết những sinh hoạt hàng ngày kinh hoàng và ghê tởm ở Auschwitz. Như nhiều năm sau đó ông tiết lộ, viết ra những điều này chẳng làm khuây khỏa được những nỗi đau mà ông vẫn hàng ngày phải chịu đựng. Trong nhiều năm trời, ông tiếp tục trải nghiệm những ký ức Holocaust trong giấc ngủ, tỉnh dậy nửa đêm vì nỗi đau khổ vật vã của những cơn ác mộng, mồ hôi nhỏ giọt và toàn thân run rẩy. Khi trong những cuốn sách và những cơn mơ của mình – cả hai đều là một dạng hư cấu – ông đã kể câu chuyện Holocaust, thì trong cuộc sống hàng ngày ông đã bền bỉ tháng ngày tách mình ra khỏi nó. Giống như nhiều nạn nhân còn sống sót khác, ông sống cực kỳ khép mình. Ông không bao giờ nói cho vợ biết tên của mình hồi trước chiến tranh. Mặc dầu ông trở thành một cái tên được nhiều người biết đến trong các gia đình ở Israel và những cuốn sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, ông cấm nhà xuất bản in hình của ông. Ông từ chối tất cả những yêu cầu phỏng vấn và không bao giờ nói chuyện trước công chúng. Trong 35 năm, ông không có một chiếc áo cộc tay nào để tránh lộ ra con số màu xanh gồm 6 chữ số bị đóng sắt nung lên cánh tay của ông và người Israel nào cũng biết đó là một tấm thẻ căn cước từ “nơi đó”. Sau này, ông còn viết rằng thậm chí ông không thuộc được số trại tập trung mà mình bị giam, và thêm vào đó, như là một kết quả của sự chấn thương tâm lý về danh phận, trí não của ông không thể nào nhớ được các con số. Chỉ duy nhất một lần trong suốt những năm mai danh ẩn tích này của Ka-Tzernik, danh phận của ông mới bị rò rỉ. Vào năm 1961, Israel bắt và xử án một tên phát xít sừng sỏ, cánh tay phải của Hitler và là Bộ trưởng các vấn đề về người Do Thái ở Gestapo, Adolf Eichmann. Ka-Tzetnik là một trong số những nhân chứng cho bên nguyên. Khi ông đứng dậy, ông nói với một vẻ ảo dị ma ám, ông miêu tả Auschwitz như một hành tinh xa xôi mà cư dân sống và chết theo những luật lệ tự nhiên khác. Họ không tên tuổi, không cha mẹ, và không con cái. Họ được ăn mặc khác nhau và sống theo một chu trình thời gian khác. Ông nói mà cứ như thể đang đọc từ một trong những cuốn sách của mình, cây bút Haim Guri, người đã tường thuật lại phiên xét xử cho một tờ báo, đã lưu ý như vậy. Khi bên nguyên và quan tòa cố gắng đưa Ka-Tzetnik trở lại với nhiệm vụ làm chứng lúc đó, bất thình lình ông lả đi và đổ sụp xuống sàn. Đó là khoảnh khắc bi kịch nhất trong suốt phiên tòa xử Eichmann, và có lẽ là một trong những khoảnh khắc mang nhiều ý nghĩa biểu tượng nhất trong lịch sử Israel. Nhiều năm sau Ka-Tzetnik kể với nhà sử học Tom Segev rằng ông đã bị ngất, vì với việc làm chứng dưới tư cách là ông De-Nur, lần đầu tiên trong cuộc đời ông bị yêu cầu phải thừa nhận mình là Ka-Tzetnik. Sau vụ xét xử, Ka-Tzetnik làm mọi việc có thể để xóa hết mọi mối liên hệ giữa hai cái tên De-Nur và Ka-Tzetnik. Có một lần ông đồng ý xuất hiện trước công chúng – để tham gia lễ trao thưởng mang tên ông, hay đúng hơn mang tên bút danh của ông, cho những tác phẩm văn học về Holocaust – trên đường đến buổi lễ diễn ra ngay tại tòa nhà tổng thống, ông đã đổi ý và không bao giờ xuất hiện nữa. Vậy là Ka-Tzetnik bị buộc phải tái trải nghiệm cơn ác mộng Holocaust thông qua một sự trình bày sáng tạo, cùng lúc đó trong cuộc sống hàng ngày của mình, ông cố gắng tách biệt hoặc chạy trốn khỏi nó. Về nguyên tắc, đây là ca bệnh của những người sống sót nói chung: họ có thể không bao giờ quên hay lờ đi được Holocaust, nhưng họ có thể không bao giờ chấp nhận hoặc tiêu hóa nổi nó. Nói như một câu thành ngữ trong tiếng Hebrew, đó là một thứ gì đó mà bạn nuốt chẳng được, nhổ chẳng xong. Để đối phó với nỗi thống khổ này, đôi khi những người sống sót phải “tách” nó làm hai phần riêng biệt, như vậy dễ xử lý hơn. Những chuyên gia về sức khỏe tinh thần làm việc với con cái của những người sống sót đang ở tuổi trưởng thành thường phát hiện rằng những bệnh nhân sẽ thuộc về một trong hai kiểu gia đình đối lập nhau. Một kiểu, cha hoặc mẹ là những nạn nhân sống sót không bao giờ ngừng nói về Holocaust. Những nỗi đau và mất mát khiến họ không thể chịu đựng nổi, và gia đình chính là nơi để họ tuôn ra tràng giang đại hải những câu chuyện vô cùng chi tiết về trải nghiệm đó hoặc thay vào đó là những bài giảng mô phạm về những bài học rút ra từ Holocaust cho thế hệ trẻ và những người Do Thái. Dù thế nào thì đứa trẻ trong một gia đình như vậy được tiếp xúc người thực việc thực với nỗi kinh hoàng và thống khổ, cũng là quá sức chịu đựng. Để tự vệ, đứa trẻ dần dần học được cách lảng ra và rút lui khi những câu chuyện hoặc những bài giảng bắt đầu tuôn ra. Khi đã lớn, đứa trẻ đó có thể chẳng muốn biết hoặc nghĩ nhiều về quá khứ của cha mẹ hay chính bản thân Holocaust. Ở kiểu kia, cha hoặc mẹ là nạn nhân sống sót không bao giờ nói về những gì đã xảy ra với mình. Những nỗi đau và mất mát không hiện diện trong cuộc sống mới, những gì họ đã trải qua trong thời Holocaust bị giữ kín hoặc bị dồn nén (giữ kín là có ý thức; dồn nén là vô thức.) Một đứa trẻ được nuôi lớn trong kiểu gia đình này phải chịu đựng những thứ không được nói ra. Nó không thể nào không cảm giác được cuộc tranh đấu đang diễn ra của cha mẹ để rũ bỏ một quá khứ hãi hùng, có thể không mời mà đến. Bởi vậy trong lòng đứa trẻ nhen lên nỗi lo âu, bất an, và tò mò trong sợ hãi. Khi đến tuổi trưởng thành, nhiều người như vậy bị thúc đẩy phải khám phá ra câu chuyện bị chối bỏ này của cha mẹ và để tìm hiểu nhiều nhất có thể về Holocaust. Đôi khi những người khác xung quanh họ, những người không thể nguôi ngoai nỗi lo lắng không tên hoặc thiếu vắng cảm xúc cũng ủng hộ việc làm này. Tính hai mặt của chấn thương này – cuộc xung đột giữa nhu cầu được tái trải nghiệm nó và mong ước được chạy thoát khỏi nó – rõ ràng hiện diện trong cả hai loại gia đình. Kiểu gia đình đầu, bằng cách sống mãi với quá khứ, cha mẹ đã vô tình tổ chức cho đứa trẻ một cuộc trốn chạy khỏi nó, hoặc để làm những gì mà cha mẹ tự ước ao nhưng không thể thực hiện được. Ở kiểu sau, bằng cách lảng tránh hoàn toàn quá khứ, cha mẹ vô tình tạo cho đứa trẻ nhu cầu muốn biết nhiều hơn về nó, hoặc trải nghiệm điều đó ở một hình thức rõ ràng là dễ chịu hơn nhiều. Hai kiểu phản ứng của những nạn nhân sống sót đi liền với hai phiên bản chính của chứng rối loạn stress sau sang chấn tâm lý như đã xảy ra với những cựu chiến binh thời hậu chiến hoặc nhiều cá nhân khác, những người từng trải qua các bi kịch tương tự. Trong phiên bản thứ nhất, nạn nhân tiếp tục tái trải nghiệm sự kiện kinh hoàng trong những cơn ác mộng, hồi tưởng, lo âu, hoảng hốt, v.v và v.v, trong khi ở phiên bản thứ hai, anh ta tự làm mình băng giá trước bất kỳ cảm xúc nào và trốn tránh mọi người để tránh bị khơi dậy và mất kiểm soát về mặt cảm xúc. Trong trị liệu, mục tiêu là kết hợp hai hội chứng này, giúp người này chịu đựng được nỗi lo lắng tránh xa khỏi thương tổn, và giúp người kia đối mặt với thương tổn, cho phép lo lắng hiện diện ở một mức độ nào đó. Nhiều cá nhân với chứng rối loạn stress sau sang chấn tâm lý nằm đâu đó giữa hai thái cực, chao đảo từ bên này sang bên kia trong nỗ lực tìm một chốn bình yên trong tâm hồn. Có vẻ Ka-Tzetnik đã đấu tranh khá dữ dội để sáp nhập hai phiên bản này. Chúng ta biết rằng sau nhiều năm ông ta chịu đựng những cơn ác mộng của mình trong im lặng, vợ ông cuối cùng cũng phải nài xin ông hãy tìm kiếm sự giúp đỡ. Ông từ chối trong một thời gian dài, giải thích rằng chẳng ai cả, thậm chí cả những người đã ở Auschwitz, có thể hiểu ông ta. Khi vợ ông ta nghe nói về một cách thức chữa trị mới, được bác sĩ người Hà Lan Jan Bastiaans phát triển, tại Trung tâm Phục hồi chấn thương sau chiến tranh (The Center for War Injuries) ở Leiden, Hà Lan, bà lại một lần nữa thuyết phục ông thử đến đó. Cuối cùng ông cũng xuôi. Khi đến Hà Lan để thực hiện cuộc điều trị mà ông biết là vẫn có nhiều ý kiến tranh luận, ông đã 60 tuổi. Phương pháp điều trị của Bastiaans dựa trên giả thuyết khá hợp lý, đó là khi trở nên khép kín, nhiều nạn nhân sống sót đã tạo ra một trại tập trung bên trong chính mình, bao bọc chính họ bằng những bức tường ngăn chặn mọi sự tiếp xúc hàn gắn của những người khác. Một yếu tố có vấn đề hơn trong hướng tiếp cận của ông ấy chính là ông sử dụng LSD(134) để phá vỡ hệ thống cố thủ này. Không giống với các loại thuốc với những tác dụng kiểu xoa dịu hay làm cho mụ mẫm, LSD có xu hướng mài sắc thêm trải nghiệm và cảm giác. Nó thường dồn những hình ảnh hồi tưởng dữ dội từ những sự kiện ý nghĩa trong quá khứ về tâm trí bệnh nhân. Bastiaans đã tiêm cho họ nhiều liều LSD, ghi âm hoặc quay camera những phản ứng của họ, rồi sau đó phân tích chúng. Ý tưởng của ông là buộc bệnh nhân phải tái trải nghiệm và đối mặt trực tiếp với chấn thương tâm lý của anh ta, dưới sự giám sát và hỗ trợ về mặt y tế. Bastiaans đã được cấp phép để thực hiện việc điều trị này vào những năm 1960 chỉ sau khi rất nhiều nạn nhân người Hà Lan còn sống sót sau Holocaust gửi kiến nghị lên nữ hoàng. Trong suốt những cơn hôn mê do tiêm thuốc LSD, Ka-Tzetnik đã trải qua những cơn ảo giác kinh hoàng nhất. Ông nhìn thấy mẹ ông phải đứng trần truồng cạnh những người đàn bà khác, dong thành hàng đi tới lò thiêu và rồi những cuộn khói phụt ra. Ông nhìn thấy chị ông trong số những gái điếm trong trại. Ông nhìn thấy một người bạn từ doanh trại bị đánh đập vào mông trần truồng cho đến chết. Ông nhìn thấy những người tù đói khát tấn công một người trong chính bọn họ sau khi mặt người này bị bọn lính gác bôi cho đầy mứt. Chỉ trong một vài giây, một nghìn người tù liếm láp và cắn xé lẫn nhau, và khi tất cả đã kết thúc, Ka Tzetnik nhìn thấy thi hài của một người bạn đầy máu me, bị gặm hết thịt, những tên lính Đức đứng xung quanh cười hô hố. Và ông nhìn thấy lính SS giết một cậu bé sau khi hiếp dâm cậu. Tên lính này sau đó đã nướng thịt cậu bằng một cây kiếm, rồi ăn từng miếng, từng miếng một. Trong suốt đợt nghỉ giữa những cơn hôn mê, Ka-Tzetnik có thể lần đầu tiên trong đời để lộ ra những con số trên cánh tay mình – với một nhóm những du khách người Đức khi ông đang đi dạo trên bãi biển. Sau đó, ông viết lại rằng khi một trong những du khách đó, có những hình xăm quái lạ, cực kỳ tinh xảo, tiếp cận Ka-Tzetnik trên bãi biển để xem hình xăm đơn giản và vì lẽ đó mà độc đáo hơn, Ka-Tzetnik thình lình hoảng hốt. “Một con quỷ điên rồ đang thức tỉnh trong tôi, sắn sàng cắm ngập răng nanh của nó vào cổ của sinh vật đứng trước tôi. Tôi nhảy dựng lên, chửi thề, rồi bỏ chạy.”(135) Trong một cơn hôn mê sau đó, Ka-Tzetnik nhìn thấy chính mình trong một bộ quân phục SS, đội một cái mũ với huy hiệu hình đầu lâu xương chéo. Rồi ông cũng khám phá ra được một điều mà ông coi là phát hiện chủ chốt trong đợt điều trị này: Auschwits là sản phẩm của con người, và trong những trường hợp khác, chính ông cũng có thể là những tên giết người Nazi, và người Đức, chính là nạn nhân của ông. Sự khám phá sâu sắc này đã khơi dậy một cảm giác tội lỗi kinh khủng và một lời cầu xin tuyệt vọng đến Chúa trời: “Ôi Thượng đế chí tôn lòng lành, có phải con chính là kẻ đã tạo ra Auschwitz?”(136) Nhận thức mới mẻ này rõ ràng đã cứu thoát được Ka-Tzetnik khỏi những cơn mê ác – lạ lùng thay, mặc dầu hợp logic, bằng cách tạo ra một rắc rối mới cho ông. Khi ông đã thoát được những cơn ác mộng vào ban đêm, thì giờ đây ông càng sợ hãi hơn vào ban ngày, nỗi sợ về tương lai. Nếu Holocaust thực sự do con người sinh ra, thì bây giờ con người có thể làm được những gì nữa khi trong tay có bom nguyên tử tùy ý sử dụng? Bởi vậy ông ta bắt đầu cảm thấy giày vò khi nghĩ đến một Holocaust hạt nhân. “Bất cứ nơi nào có loài người, ở đó có Auschwitz”, sau này ông đã giải thích như vậy. Ông viết rằng, mình đã đến Hà Lan yêu cầu một sự giải thích cho Auschwitz về ban đêm, nhưng có thể đi đâu để kiếm tìm một lời giải thích cho Auschwitz vào ban ngày? Dù với kiểu điều trị loại này, mà trong thuật ngữ mang ý nghĩa rộng hơn, nó tương đồng ở mức độ nào đó với phương pháp điều trị phân tâm học đương thời, người ta có làm gì đi chăng nữa cũng không thể xóa sạch được những triệu chứng, đúng hơn là chỉ có thể thay thế chúng bằng những nỗi đau đớn, giày vò đích thực hơn, và có vẻ như Ka-Tzetnik chính là một minh họa rõ ràng cho điều đó. Thật vậy, như một phần phát hiện kết quả của quá trình tìm hiểu khủng khiếp này, trong những tình huống nhất định, ông ta cũng có thể trở thành một Nazi. Ka-Tzenik đã đi đến chỗ nhận ra rằng cuối cùng thì Auschwitz chẳng phải là một hành tinh nào khác. Nó chính xác là sản phẩm của con người và bởi vậy không nên bị xây tường bao quanh hoặc bị đưa vào những giấc mơ hoặc những kiểu hư cấu khác. Nó phải là – nó đã từng là – một phần của thực tế hàng ngày. Bởi vậy, Ka-Tzetnik và De-Nur là một và cùng là một người, không phải của hai thế giới khác nhau, và với sự phân tích này Ka-Tzetnick đã chấm dứt việc điều trị của mình. Bi thảm thay, những ảo giác do tiêm thuốc LSD của Ka-Tzetnik đã cho phép ông để lại “hành tinh khác” phía sau, ở Hà Lan, hay chính xác hơn, là mang nó trở lại vào cuộc sống thực tế của ông ở Israel. Ông vẫn tiếp tục vật vã để dung hòa hai loại hội chứng, và mười năm sau ông mới có thể viết ra câu chuyện về cuộc điều trị của mình, củng cố thêm cho tiến trình dung hòa này. Khi cuốn sách ấy ra mắt độc giả, Ka Tzetnik đã làm một việc mà trước đó ông không có khả năng nghĩ đến nó: ông đã đồng ý cho đài truyền hình Israel thực hiện một cuộc phỏng vấn kéo dài. Với một sự ngoại lệ quan trọng, mà chúng ta sẽ sớm tìm hiểu ở một mức độ sâu sắc nào đó, hành trình cá nhân của Ka-Tzetnik song song với những hành trình của xã hội Israel nói chung trong 60 đến 70 năm qua. Trong một thời gian dài, bắt đầu với những ngày đầu lập nước, Holocaust có mặt ở khắp mọi nơi trong những dạng thức mang tính biểu tượng, sáng tạo trên khắp đất nước này, nhưng nhìn chung không có mặt trong cuộc sống người thực việc thực của hầu hết những người Israel. Những bài thơ được đọc, phim được chiếu, và lịch sử được kể, tất cả trong những đài tưởng niệm, bảo tàng và trường học. Những cuộc tranh luận về chính trị và đạo đức diễn ra kịch liệt, đầy những lời buộc tội màu mè điệu bộ, và nhiều khi, còn có cả bạo lực. Một vài lãnh tụ của đảng Lao động đã thỏa thuận với những quan chức hàng đầu của Hitler để cứu người thân, họ hàng của họ và chỉ một số ít người được ưu tiên khác? Israel có nên chấp nhận sự đền bù bằng tài chính, và có quan hệ ngoại giao với Đức? Công chúng ra rả thề thốt sẽ không bao giờ quên, thường xuyên thể hiện cảm xúc ở chữ không bao giờ nữa. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi khi những cảm xúc riêng tư rồi cũng đến lúc được đẩy đến cận cảnh, quy tắc chung là “Bất cứ ai ước ao tạo nên lịch sử đều bị buộc phải quên đi lịch sử.” Câu nói này, từ nhà lý thuyết chính trị người Pháp Ernest Renan, đúng là đã được một nhà ngoại giao người Israel sử dụng để ủng hộ cho những cuộc đàm phán với người Đức vì những lý lẽ rằng “chính sách không phải là vấn đề của cảm xúc.” Chắc chắn cho đến tận phiên tòa xét xử Eichmann, khoảng 15 năm sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, và ở mức độ lớn hơn là một cơ số năm sau đó, vết thương và những đớn đau cá nhân thực sự của những nạn nhân còn sống sót vẫn còn trong vòng câm nín. Trong những năm tháng này, tôi chưa từng hỏi cha mẹ về câu chuyện của dì Clara. Khi tôi hỏi, đâu như vào những năm 1980, tôi mới biết rằng dì đã sống sót bằng cách nhảy xuống khỏi một con tàu đi đến Auschwitz. Trong một cuộc nói chuyện gần đây, mẹ tôi đã thêm rằng trong từng ấy năm mẹ đã hỏi dì Clara về chuyện này có hai lần. Nhưng tất cả những gì dì ấy nói là mẹ của dì, cũng ở trên chuyến tàu ấy, chính là người giục dì nhảy xuống, và sau đó, dì được một người nông dân che giấu. Sau đó, dì giơ tay ra dấu là “không nói về chuyện này nữa”. Dì ấy chẳng nói gì về số phận của mẹ, hay chuyện gì đã xảy ra khi ở nhà của người nông dân ấy, khiến cho mẹ tôi đoán rằng chắc ở đó dì đã bị cưỡng hiếp. Sự im lặng của dì Clara chẳng có gì đặc biệt, nếu không nói là rất bình thường. Như đã được sử gia Hanna Yablonka lưu ý, cho đến tận phiên tòa xét xử Eichmann, những nạn nhân còn sống sót người Israel đã sống sau một bức tường mỏng manh, mặc dầu vô cùng thực, được xây lên để bảo vệ họ sống sót trong cuộc sống thường nhật của mình.(137) Vật vã chịu đựng những đớn đau và lo sợ sẽ trở thành gánh nặng của người khác với vết thương của mình, họ tránh né những biểu hiện cảm xúc trong giao tiếp với người khác, ít nhất là hạn chế trong chừng mực nó có thể dấy lên những cảm xúc liên quan đến “hành tinh khác”. Sự cố thủ này không bình thường trong một đất nước quá suồng sã, thân mật, nơi việc của người này đều là việc của những người khác, và nơi mà những người không phải là nạn nhân sống sót khó lòng chịu đựng được những cảm xúc của riêng họ về Holocaust. Vào ngày 23 tháng 5 năm 1960, Thủ tướng Ben-Gurion tuyên bố trong Knesset rằng lực lượng an ninh của Israel đã bắt được Adolf Eichmann. Đất nước tuôn trào cảm xúc. Trong nhiều ngày, báo chí tập trung vào những phản ứng đầy cảm xúc của công chúng cũng như của chính bản thân những nhà báo. Theo Yablonka, nhân dân bày tỏ phản ứng với một sự pha trộn giữa sốc, tự hào, hả hê, cảm giác được phục thù, và sự háo hức được đẩy lên cao độ. Tuy nhiên, những nạn nhân còn sống sót sau Đại thảm sát, chiếm 25% dân số cả nước lúc bấy giờ, chẳng thể hiện gì hơn là sự hài lòng đầy dè dặt. Họ biết chuyện gì sẽ xảy ra: sân khấu chính, lộ mình và mở những vết thương mới khâu sơ sài. Chính ở đây lại một lần nữa, họ nhìn thấy bản chất hai mặt của chấn thương, trong trường hợp này, phân tách không chỉ những nạn nhân sống sót với con cháu họ, mà còn phân tách hai nhóm dân. Với những người không phải là nạn nhân, họ có thể hét toáng lên những cảm xúc của mình mà không việc gì, nhưng cũng một cảnh tượng như vậy sẽ để lại cho các nạn nhân sống sót cảm giác khó chịu và sự im lặng. Nhưng sự ngập ngừng, lưỡng lự của những nạn nhân sống sót trong việc phơi bày những vết thương chưa lên da non của họ không chỉ đơn thuần là một phiên bản khắc nghiệt của phản ứng hậu sang chấn điển hình. Nguyên do cũng là vì cách họ bị đối xử trong những ngày đầu nhà nước Israel ra đời. Thậm chí trước cả thảm họa Holocaust, khi những người Do Thái Đức bắt đầu di cư đến Palestine sau khi Hitler lên nắm quyền, chính xác là người Yishuv không thường xuyên vui vẻ chào đón những người Yekke, như họ được gọi như vậy. Trong khi muốn tạo ra một số đông người Do Thái ở Palestine, Cơ quan về người Do Thái cũng chủ trương nhập cư phải có chọn lọc. Những người Zion theo đường lối lao động chiếm đa số trong cơ quan này đã hình dung ra một xã hội mới dựa vào nông nghiệp, bởi vậy họ thích những người nhập cư trẻ trung, độc thân và có sức vóc hơn. Họ cũng không vui khi nhiều người Đức nhập cư là những doanh nhân với gia đình, con cái và, tệ hơn, cả những đối tượng sống dựa vào phúc lợi xã hội. Họ than phiền rằng “tài nguyên con người” đến từ nước Đức thật sự nghèo nàn. Henrietta Szold, đứng đầu ban công tác xã hội của Cơ quan Do Thái, từng đợt lại yêu cầu những người nhập cư ốm yếu hoặc cần nương tựa phải bị đưa trở lại nước Đức Quốc xã để họ không trở thành gánh nặng cho Yishuv nữa.(138) Người Yishuv cũng chê trách những người Yekke vì những khó khăn, trở ngại của họ trong ngôn ngữ, hoặc vì họ không chịu học tiếng Hebrew. Ở Tel Aviv, thanh niên Israel đã phá hoại quán cà phê Rivoli vì những người chủ Đức của quán không nói tiếng Hebrew. Sau đó một khoảng thời gian, chính quyền thành phố Tel Aviv gửi thư tới những cư dân nói tiếng Đức, khuyên họ rằng việc tổ chức những bữa tiệc cá nhân nói tiếng Đức ở nhà họ đã đi ngược lại phong hóa của thành phố và điều đó là không thể tha thứ. Thêm vào đó, những người nhập cư còn bị chế giễu vì người ta cho rằng họ có thói nghe lời chính quyền quá đáng, vì mối quan tâm rởm của họ đến những quy tắc và luật lệ, và vì sự hoài khát văn hóa Đức của họ. Trong một buổi gặp gỡ với những người nhập cư Đức, Ben-Gurion, lúc đó là người đứng đầu Yishuv, đã đay đi đay lại nhiều những định kiến này. Ông nói đùa rằng ở Đức nếu bạn muốn có một cuộc cách mạng, bạn phải xin được giấy phép. Ông ta giải thích rằng đặc tính tuân lệnh của người Đức đã làm cho Hitler đạt được quyền lực như hiện nay. Trong khi đó ở Jerusalem, báo chí viết rằng một cậu bé nhập cư 14 tuổi bị một bạn học nói rằng “cút về với Hitler”. Những nhà văn sinh ra ở Đức đã than phiền rằng ngôn ngữ châm chọc được dùng để chống lại những người Yekke gợi nhớ lại thứ ngôn ngữ bài Do Thái ở châu Âu, thậm chí có lẽ còn gợi lại ngôn ngữ của bọn Nazi. Rõ ràng là phần lớn sự thù địch đối với những người Yekke bị những người Zion thời đầu biện bạch rằng đó là vì họ từ chối những gì họ xem là bản tính Do Thái yếu đuối, thụ động, và lệ thuộc. Nhìn vào những người Yekke, những người Zion đã nhận ra và hắt hủi chính “tâm lý lưu vong” của mình mới mấy năm trước đó, vốn đi ngược lại những gì mà họ đang đánh đổi toàn bộ sinh mạng của mình để đạt được. Bi thảm thay, Holocaust, hay chắc chắn là sự hiểu của người Zion về Holocaust, chỉ củng cố thêm cho thái độ này, mà đến lượt mình, nó lại pha trộn rồi làm trầm trọng thêm cơn bệnh tinh thần câm nín của những nạn nhân sống sót chạy đến Israel. Khi suy ngẫm về thái độ hờ hững, thậm chí là lạnh nhạt đối với vấn đề Holocaust khi còn là một đứa trẻ vào những năm 1960 và 1970, tôi phải thừa nhận rằng có tồn tại một sắc thái thù địch nào đó. Một phần, chẳng nghi ngờ đó là vì sự bồng bột cá nhân và thiếu niềm thông cảm của tôi vào tuổi đó. Tuy nhiên, trong tâm nhãn mình, tôi có thể điểm mặt hàng đàn hàng đống những thiếu niên chán chường và cáu bẳn khác, tất cả đều đang cố ngồi cho hết buổi tập trung toàn trường cho ngày tưởng niệm Holocaust và chủ nghĩa anh hùng năm nào cũng diễn ra, chúng buông ra những câu bình luận mỉa mai về chương trình và nhại lại những bộ phim về các hố chôn tập thể với hàng chồng những bộ xương người, giầy dép, răng vàng và quần áo. Đó không đơn thuần là hành vi bất mãn của bọn trẻ ranh mới lớn, mà đúng hơn đó là triệu chứng của một khuynh hướng chung trong lòng xã hội Israel vào lúc đó. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, vẫn luôn luôn quan tâm về nhiệm vụ mở rộng dân số Do Thái ở Palestine như nó vốn thế, Yishuv đã nóng lòng thu nhận nhiều nạn nhân sống sót nhất có thể. Ấy vậy mà, nhiều báo cáo ban đầu từ các phái viên Yishuv đến những trại tị nạn của những người bỏ xứ Âu đã miêu tả những nạn nhân sống sót bằng các từ ngữ khó chịu, đầy xét đoán như “người chẳng ra người ngợm chẳng ra ngợm” và “một toán ăn xin”. Một viên đại diện, sau này là tướng trong IDF và một đại sứ, đã viết một báo cáo cho rằng những người còn sống sót này là những kẻ “chỉ biết có mình”, cho mình là trên hết. Những người khác chỉ trích người tị nạn hay trộm cắp vặt, vừa thoát khỏi cơn tuyệt vọng xong đã tính chuyện vợ chồng, lại còn làm tình ngay trước mặt con cái. Thời gian đó, một chiến sĩ du kích vệ quốc có sức hấp dẫn kỳ lạ, sau này trở nên nổi tiếng vì đã lãnh đạo một nhóm nạn nhân sống sót Holocaust thực hiện kế hoạch bỏ thuốc độc vào nước uống của 6 triệu người Đức, đã viết rằng người Do Thái “không nên đi giống như những con cừu đi đến lò sát sinh.”(139) Đoạn này sau đó được các tổ chức và công chúng nói chung của Israel và, có lẽ còn nhiều thành phần khác nữa, lạm dụng để thể hiện thái độ miệt thị đối với những nạn nhân và những người sống sót. Một cách ý thức, người Israel có thể không thấu hiểu hoặc không tha thứ cho việc những người Do Thái bị gửi đến những trại giết người không hề có một hành động tự vệ cần thiết nào. Như Segev đã lưu ý, đây là nguyên nhân mà từ chủ nghĩa anh hùng trở thành phụ tố như một người anh chị em song sinh với từ Holocaust trong ngôn ngữ tưởng niệm chính thức. Trong một dạng đánh giá đạo đức được đặc biệt cổ súy, tiếng lóng chỉ những người Đức là nạn nhân sống sót sau vụ Đại thảm sát và con cháu họ là sabonim, hay xà phòng – một lối nói bóng gió đến câu chuyện đã lan truyền rộng khắp, dù là vô căn cứ, kể rằng những tên lính Nazi lấy xác người Do Thái làm xà phòng bánh. Từ sabon số ít này sau đó trở thành một từ địa phương mang tính nhục mạ nói chung, cơ chế chuyển nghĩa của nó giống như từ tiếng Anh square hay goody two-shoes. Ở mức độ ít ý thức hơn, những nạn nhân sống sót là một mối nguy thuộc về phương diện tâm lý bên trong, gây hại cho hình ảnh cái tôi quốc gia lý tưởng của những người sabra. Như Segev đã nhận xét, trong suốt giai đoạn này, chính bản thân các sabra vẫn còn phải vật lộn để rũ bỏ “tâm lý lưu vong”. Sau rốt, cũng vì thế mà hầu hết những người Israel từng là người Do Thái trước đó. Thái độ khinh thường với những nạn nhân sống sót kia, bởi vậy, đã phản ánh nhu cầu của các sabra là tách họ ra khỏi cuộc tấn công kính vỡ(140)của lịch sử ngay trong chính giữa buổi hậu chiến. Những nạn nhân sống sót càng đi ngược lại với con người lý tưởng mới của quốc gia dân tộc hoặc không thể gọt chân cho vừa giày được, thì họ càng nhắc các sabra nhớ về khoảng cách giữa thực tế và lý tưởng, và về thất bại của họ trong việc kéo gần khoảng cách đó. Tiểu thuyết gia người Israel Aharon Appelfeld đã bình luận về điều này trong câu chuyện về một cậu bé đến từ Ba Lan và cố gắng có được một làn da rám nắng như các bạn sabra đồng trang lứa để được chúng cho phép nhập hội. Khi không thể làm da mình rám nắng, cậu bị những đứa sabra đánh đập khiến chúng phải nhớ lại thời Diaspora và Holocaust. Kiểu phóng chiếu và tình huống giơ đầu chịu báng đâu đâu cũng có trên hành tinh này, như câu chọc cười của diễn viên hài Yakov Smirnoff quả quyết cho điều đó. Ấy là khi bị người ta chửi vì là người Mỹ, ông nhìn quanh đám đông những người nhập cư cũng bị chửi như ông và nói với chính mình: “Chết tiệt, rặt một lũ nhập cư.” Nhưng phiên bản Israel độc đáo lại đi theo vấn đề về nhập cư và sự tiếp biến văn hóa, trách nhiệm đối với cốt lõi tính cách dân tộc Israel, với một sự tìm kiếm ngược đời nhằm tái tạo quá khứ, chứ không chỉ đơn thuần để nó lại đằng sau. Bởi lẽ đó, trong hai hoặc ba thập kỷ đầu tiên sau Đại thảm sát, những nạn nhân sống sót sợ hãi không chỉ vết thương của riêng mình, mà còn sợ người ta kết tội vì những sự yếu đuối mà họ bị gán cho. Mặt khác, hàng xóm láng giềng và bè bạn của họ lại sợ nỗi đau và sự yếu đuối liên đới. Vụ xét xử Adolf Eichmann được cho là động thái đầu tiên trong cuộc điều trị cho toàn thể quốc gia Israel. Nhưng một cuộc điều trị thật sự như thế này rất dai dẳng và phức tạp. Thường không thể đoán trước được diễn tiến và đôi khi còn trông thấy được cả những nguy hại. Như với trường hợp của Ka-Tzetnik, việc khuấy đảo những ký ức và rọi đèn pha vào hành trình tự vấn bản thân có thể vô cùng đau đớn. Hiếm khi nó có một kết thúc có hậu kiểu phim Hollywood. Đôi khi còn tồi tệ hơn cả tình trạng hiện tại, ít nhất là trong một thời gian, khi bệnh nhân bóc tách chính bản thân con người mình và có vẻ như không thể đưa chúng quay trở lại với nhau. Những cơ quan nghiên cứu xã hội của Israel đã phân tích, tìm hiểu ở mức độ sâu sắc nào đó cả những tác động ngắn hạn và dài hạn của vụ xét xử Eichmann lên xã hội Israel. Vào năm 1961, Israel không có truyền hình, nhưng radio phát thanh trực tiếp vụ xét xử và nhật báo đưa tin trong suốt chín tháng. Người dân nghe phát thanh trực tiếp ở nhà, trong quán cà phê, trong nhà hàng, và các cửa hiệu. Hơn 60% người Israel trên 14 tuổi nghe ít nhất một phần của vụ xét xử, và đối với nhiều người, nó đã trở thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời. Những nạn nhân sống sót của cuộc Đại thảm sát đến từ nhiều đất nước, độ tuổi, xu hướng tôn giáo khác nhau, các dạng thức bị tra tấn và những mất mát họ phải chịu đựng cũng vô cùng đa dạng, khi họ lần lượt đứng dậy từ một danh sách dài bất tận, rồi lần đầu tiên kể trước công chúng những gì họ đã phải trải qua ở các trại tập trung, thì toàn đất nước bị chấn động trong một cơn đồng nhất hóa kiểu thanh lọc(141)và cảm thông. Những nhân chứng đã kể lại những chi tiết tra tấn, hành hạ tàn bạo đến kinh hoàng mà họ từng chứng kiến và trải qua, bao gồm cả bắn tập thể, cưỡng hiếp, thiến hoạn, những thi hài trần truồng của cha mẹ hoặc con cái, đói đến chết, và cảnh ăn gan người. Chốc chốc ở phòng xét xử lại có người trong đám cử tọa ngất xỉu và được tổ cấp cứu đưa ra ngoài. Gideon Hausner, công tố viên của vụ án, sau này đã viết lại rằng: “Nghe thôi cũng là một cực hình. Tôi cảm thấy như thể đang thở trong khí ga và mùi khét của thịt cháy.”(142) Haim Guri, với nhiệm vụ đưa tin từ phòng xét xử, đã viết một câu nổi tiếng: “Không ai trong số chúng tôi rời khỏi đây còn là chúng tôi như trước nữa.”(143) Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đều đồng ý rằng những tác động của vụ xử án rất sâu sắc, dai dẳng, và mở rộng ra cả bên ngoài phòng xét xử và những người tham gia vụ xét án. Sử gia Hanna Yablonka kết luận rằng việc làm chứng của những nạn nhân sống sót đã in sâu trong tâm trí thế hệ trẻ Israel, đem lại sự thấu hiểu và chấp nhận rộng rãi hơn, sâu sắc hơn rất nhiều dành cho những đau đớn, giày vò của nạn nhân sống sót. Sau vụ xét xử - dẫn đến vụ hành hình của nhà nước duy nhất trong lịch sử Israel – những nạn nhân sống sót bắt đầu cảm thấy thoải mái hơn khi kể những câu chuyện của họ. Yablonka gọi đây là sự “cá nhân hóa vụ Holocaust”. Nó không còn là về “6 triệu người” chung chung nữa, mà đúng hơn là về từng cá nhân nói lên nỗi đau đớn, thống khổ của họ. Sự thay đổi này từ từ nhưng rất rõ ràng, và theo thời gian nó tỏ ra là một chuyển biến sâu rộng(144). Trong thập kỷ ngay sau vụ xét xử, các tác giả sinh ra và lớn lên ở Israel bắt đầu viết về Holocaust, giải quyết vấn đề như là một nhân vật xưng tôi thân thuộc trong tiểu thuyết và những câu chuyện của họ. Trước đây, các nhà văn, nhà thơ viết những bài thơ trang nghiêm, mang âm hưởng anh hùng ca, và trên tất cả làđậm đà tính dân tộc, mang hơi thở của lòng tưởng niệm thì giờ đây, họ đang thêu dệt nên nỗi kinh hoàng về Holocaust trong dòng chảy tâm lý của các nhân vật. Một ví dụ kinh điển là tiểu thuyết của Yoram Kaniuk xuất bản năm 1969, Adam Ben Kelev, trong đó một người đàn ông bị đem đến một bệnh viện tâm thần sau khi cố bóp cổ một người phụ nữ. Người đàn ông này từng là anh hề trong một rạp xiếc Đức và tận dụng tài năng của mình để sống sót trong một trại tập trung bằng cách trở thành thú đồ chơi của một sĩ quan Đức. Để làm cho tên Đức này hài lòng, anh ta học cách sủa, đi bằng bốn chân, và ăn bằng bát chó. Cuối cùng, anh ta đi bên cạnh tên sĩ quan kia như con chó của hắn. Bi kịch là, chiến lược sinh tồn hạ đẳng này vẫn còn lưu lại trong một phần nhân cách của anh ta, thậm chí khi chiến tranh đã kết thúc, và anh ta không thể nào rũ bỏ nó đi được. Cuối cùng, không giống nhiều nạn nhân sống sót bị đau đớn giày vò trong bệnh viện, người đàn ông này đã khỏi bệnh – chủ yếu thông qua một cuộc hội thoại thanh lọc tâm hồn với một cậu bé tâm thần phân liệt cũng tin anh ta là một con chó. Nhưng khi họ đã thoát ra từ phòng xử án, nỗi đau của những nạn nhân sống sót không nằm trên giá sách. Trùng với thời điểm khi những ảnh hưởng từ phương Tây đang tăng dần, và đặc biệt là từ Mỹ, chủ nghĩa cá nhân, những câu chuyện về các cá nhân sống sót sau vụ Đại thảm sát xuất hiện khắp mọi nơi. Yom Hashoa Vehagvura, cho đến tận sau này là ngày tưởng niệm quốc gia chính thức cho Sáu Triệu nạn nhân đã chết và cho lòng quả cảm của những chiến sĩ du kích, dần dần chuyển thành một buổi chỉ-và-kể(145) mang tính cá nhân. Những chương trình quốc gia chuyển dịch từ việc làm cho công chúng quen với thực tế lịch sử về Holocaust đến việc đem trải nghiệm đó gần hơn tới các gia đình. Trường cấp ba, từng sẵn sàng tổ chức một ngày dã ngoại bắt buộc để đưa học sinh đến bảo tàng Holocaust ở Jerusalem, Yad Vashem, bây giờ bắt đầu tổ chức một chuyến bay cho chuyến đi kéo dài hàng tuần đến Auschwitz và những trại tập trung khác ở Ba Lan. Những chuyến đi “dã ngoại” này, một hoạt động phổ biến vào những năm 1990, cuối cùng cũng trở thành nghi lễ chuyển đổi(146) đầy xúc động và có một chút đau thương nào đó đối với nhiều người Israel trẻ tuổi. Thông thường, những chuyến đi này được chuẩn bị trước hàng tháng trời về mặt kiến thức và tâm lý, kết hợp với chương trình của nhà trường. Tom Segev đã tham gia vào một trong số đó. Sau này, ông ấy đã báo cáo lại rằng trước chuyến đi, một vài học sinh tỏ ra lo lắng vì có thể chúng chẳng cảm thấy gì trong những trại tập trung ấy. Nhưng hóa ra đó lại là một mối lo không có cơ sở: chẳng sớm thì muộn trong chuyến đi này, mỗi một và mọi học sinh đều suy sụp, và hầu hết là không chỉ một lần. Bình luận về những chuyến hành hương của học sinh để “khám phá ra “nguồn gốc” của họ”, tác giả David Grossman viết: “Đối với những người Do Thái trẻ không theo đạo, Holocaust thường trở thành một yếu tố trung tâm trong bản sắc dân tộc của họ.”(147) Nhận thức về tác động mạnh mẽ của những chuyến đi tham quan về nguồn này đối với tâm thức những người Israel trẻ, vào năm 2011, Bộ Giáo dục Đào tạo của Israel tuyên bố một kế hoạch hỗ trợ cho chuyến đi đối với những học sinh cấp ba không có khả năng chi trả chi phí. Vào đầu những năm 2000, Yad Vashem đã trải qua một cuộc biến hình. Sau một cuộc trùng tu tiêu tốn 56 triệu đô la kéo dài 10 năm, bảo tàng này đã rộng lớn hơn gấp ba lần lúc trước. Những tòa sảnh triển lãm mang phong cách mô phạm, tập trung vào các tư liệu, kể câu chuyện về tập thể sáu triệu người. Ở đó có một cấu trúc ngầm rộng lớn, được thiết kế để tăng cường cho du khách cảm giác đi xuống cầu thang như rơi vào một vực thẳm vô nhân tính, nơi từng câu chuyện cá nhân của hơn một trăm nạn nhân được kể thông qua di vật, tranh ảnh, nhật ký, và những tờ giấy chứng thực. Trong bài đánh giá về bảo tàng đã được nâng cấp, Steven Erlanger của New York Times đã bắt đầu với một câu nói sâu sắc, mặc dù đơn giản: “Holocaust là nền tảng lịch sử đối với nhà nước Israel, và Yad Vashem là thần hộ mệnh của nó.”(148) Yad Vashem cũng là biểu tượng cuối cùng về bi kịch Holocaust xâm chiếm khắp tâm thức của người Israel từ đầu tới cuối. Vì rào cản ngôn ngữ, cảm xúc mãnh liệt nói chung và khả năng sinh tồn ở Israel, những vị khách thăm viếng và tham quan người nước ngoài thường không cảm thấy cảm kích với tính chất trọng đại của hiện tượng này. Nhưng ngay cả người Israel cũng có thể mờ mịt về nó, một phần vì những hình ảnh và cảm giác quá in sâu trong cuộc sống hàng ngày đến nỗi họ khó mà thấy có ấn tượng gì với những thứ được trưng bày ở đây. Thậm chí là bây giờ, khoảng 70 năm sau Đại thảm sát, cảm giác của họ cũng thế, vì dù những nạn nhân sống sót đang dần nối gót nhau, nói lời vĩnh biệt với hành tinh này, thì tâm lý của họ, ít nhất là ở Israel, vẫn không rời đicùng họ. Hãy xem xét một câu chuyện được đăng lên trang báo hàng đầu ở Israel vài năm trước của một nhà báo cựu chiến binh người, Israel Yaron London. London đang du lịch đến miền nam Israel, tới thị trấn Dimona với một người bạn trẻ tuổi hơn, một sabra thế hệ thứ hai không có mối quan hệ cá nhân nào với Holocaust. Họ lái xe qua một tác phẩm điêu khắc ngoài trời có phong cách hiện đại, với những cột trụ cao ốp gốm màu sắc. Một bức tượng vui vẻ trông như những chiếc ngà voi đang giương lên, London nghĩ. “Auschwitz,” anh bạn trẻ buột miệng. “Cậu nói gì cơ?” London hỏi. “Ồ, chúng ta đang trên đường đến Dimona, chúng ta đặt vũ khí hạt nhân ở đó, đấy cũng là câu trả lời cho Holocaust, và những ống khói này làm tôi nghĩ đến Auschwitz.”(149) Trong cuốn hồi ký về cuộc chiến Độc lập năm 1948, khi ám chỉ đến Holocaust, tác giả Yoram Kaniuk đã viết: “Thực tế, Israel là nhà nước của cái chết. Nó được dựng lên từ cái chết. Nó nhắc nhở chúng ta luôn nhớ rằng có thể họ đã không phải chết, nếu như chúng ta thành lập nó sớm hơn 50 năm. Làm thế nào một nhà nước Do Thái có thể tồn tại, gắn bó không thể tách rời với một Chúa trời, kẻ máu lạnh giết chết không thương tiếc một phần ba con dân của hắn?” Kaniuk sinh ở Tel Aviv đã lưu ý rằng hầu hết cha mẹ của bạn bè ông đều đã lạc mất cả gia đình mà họ bỏ lại ở châu Âu. Ông giải thích: “Họ thiết tha gửi chúng tôi đi tạo lập một nhà nước vì những gia đình đã mất của họ, để thành lập nên một nhà nước cho những người đã khuất của họ, mà không biết rằng nhà nước này là kiểu một nhà thương điên rồ dại giữa hoang mạc, gieo trồng toàn bằng bụi tro xương cốt của những người Do Thái, những người không thể nào sống sót.”(150) Nhiều nhà sử học, nổi tiếng nhất là Hannah Arendt, đã chỉ ra rằng, vụ xét xử Eichmann không được thực hiện bằng những quy tắc chung khi thi hành luật pháp ở Israel.(151) Theo cách nhìn này, hầu hết việc làm chứng của các nạn nhân sống sót được thực hiện không phải để xây dựng một chứng cớ kết tội bị cáo, mà đúng hơn là để tăng thêm cho câu chuyện Zion rằng Holocaust là một chương khác trong lịch sử đàn áp người Do Thái, mà lối nào cũng quay trở lại địa vị nô lệ thời Ai Cập cổ đại. Trong suốt vụ xử án, các quan tòa cố gắng kiềm chế bên khởi tố và những nhân chứng, nhưng hầu hết những nhà sử học đều đồng ý rằng nhà nước đã sử dụng phiên tòa xét xử vì những mục đích ngoại tụng. Trong khi một số người cho rằng việc làm chứng như vậy có nhiệm vụ giáo dục chính đáng, thì có những người coi đây là một thủ đoạn chính trị, chà đạp nên nỗi đau của người khác. Dù theo cách nào thì cũng không thể chối cãi được rằng vụ xét xử này đã tái đưa vào nhận thức của những người Israel ý nghĩ rằng “cả thế giới quay lưng lại với chúng ta và im lặng trước nỗi đau của ta.” Ngầm ẩn dưới lớp bề mặt ấy, rõ ràng Holocaust đã có “đóng góp” ý nghĩ mang tính lịch sử này,thậm chí trước cả khi diễn ra vụ xét xử. Thật vậy, như nhiều nhà sử học đã đề xuất, nhận thức của người Israel về sự hủy diệt gần như toàn bộ người Do Thái ở châu Âu này đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp động lực thúc đẩy đất nước này theo đuổi công nghệ hạt nhân vào những năm 1950. Trong lúc chuẩn bị nghỉ hưu lúc đương giữ chức Chủ tịch Ủy ban năng lượng Nguyên tử Israel năm 1966, Ernst David Bergmann đã biện minh cho dự án hạt nhân của Israel bằng cách cảnh báo rằng một ngày nào đó nhiều nước khác cũng có khả năng về vũ khí hạt nhân. Bergmann viết: “Tôi không thể quên, rằng thảm họa Holocaustgiáng xuống người Do Thái rất bất ngờ. Họ không thể cho phép chính mình chấp nhận một viễn cảnh như thế đến lần thứ hai được.”(152) Nhưng vì những lý do chiến lược rõ ràng, và có lẽ cũng những lý do tâm lý như nhau mà trong quá nhiều năm tháng, ký ức cá nhân của các nạn nhân sống sót vẫn bị chôn vùi, dự án hạt nhân của Israel và lý do căn bản của dự án là bí mật hàng đầu quốc gia cho đến khi được tiết lộ trong một mẩu tin của tạp chí Time năm 1960. Vậy nhưng, trước vụ xét xử Eichmann, những nỗi lo âu liên quan đến Holocaust nói chung hiếm khi phá vỡ tảng băng nhận thức của công chúng. Một ngoại lệ nổi tiếng đã xảy ra vào đêm trước chiến tranh năm 1956 – trong cuộc chiến đó, Israel cùng với Pháp và Anh, xâm lược bán đảo Sinai của Ai Cập – khi những lãnh tụ của Israel đã miêu tả tổng thống Ai Cập Nasser như một tên độc tài phát xít, vây xung quanh là những tên phái viên Nazi. Một tờ báo Israel đã chạy một câu chuyện dài kín trang báo về một cựu sĩ quan SS được khắc họa là nhân vật đứng sau Nasser. Hóa ra người đàn ông này có khả năng cũng là một điệp viên ngầm của Israel nhất. Sau chiến tranh, tuyên bố rằng hành động của Israel chỉ là tự vệ, Ben Gurion đã viết cho một tướng Mỹ: “Cũng như tôi, ngài đã biết 15 năm trước họ đã làm gì với chúng tôi.”(153) Nhưng chỉ khi vụ xét xử tuôn ra những câu chuyện cá nhân của những nạn nhân sống sót, nỗi lo lắng về sự tiêu diệt tập thể trước đó đã ăn sâu vào những bộ óc luôn nghĩ cho ngày mai của thế hệ lập nước đã được gột sạch. Khi được hỏi trong suốt phiên tòa xét xử tại sao họ không kháng cự lại những tên Nazi, những nhân chứng nói đi nói lại rằng cho đến giây phút cuối cùng, họ vẫn không tin là mình sẽ bị đem đi giết. Theo dõi việc này, người Israel thề sẽ không bao giờ lặp lại nguyên lỗi lầm ấy. Xui xẻo thay, chính lời thề này, kết hợp với gánh nặng lịch sử của việc đàn áp người Do Thái, đã dẫn họ đến việc phạm vào một lỗi lầm theo hướng ngược lại. Kể từ vụ xét xử Eichmann, nỗi lo âu sinh tồn liên quan đến Holocaust đã đóng một vai trò quan trọng trong mọi chính sách đối ngoại và những quyết định quốc phòng được giới lãnh đạo đất nước lập ra. Mặc dù cũng cần tính đến vụ xét xử bắt đầu vào thập niên 1960 này, nhưng chính xác là vì nỗi lo âu kia, Israel đã manh nha tự củng cố mình là một siêu cường trong khu vực. Đầu những năm 1960, giới chính trị của Israel bị ảnh hưởng bởi một vụ bê bối sau khi những điệp viên Mossad đưa ra thông tin rằng các nhà khoa học Đức đang giúp Ai Cập phát triển vũ khí hóa học và sinh học. Sự kết hợp Đức / khí ga đã làm nỗi hoảng loạn của công chúng trào dâng, không chịu dịu đi cho đến tận khi những thông tin này bị chứng minh là bịa đặt và người đứng đầu Mossad phải từ chức. Một cách gián tiếp, vụ bê bối này cũng dẫn đến việc từ nhiệm của Ben-Gurion vì nó khiến cho chính sách về tăng cường hợp tác với Tây Đức của ông càng khó bào chữa. Sau đó là đến “giai đoạn chờ đợi”, ba tuần trước cuộc chiến tranh năm 1967, trong suốt thời kỳ đó đâu đâu người ta cũng bàn tán về việc bị người Ả Rập không phải là xâm chiếm mà đúng hơn là “hủy diệt”. Nasser liên tục được so sánh với Hitler và truyện tiếu lâm về những giá treo cổ nhan nhản khắp nơi. Sau chiến tranh, một người lính Israel trẻ đã được dẫn lời trong cuốn sách The seventh day (Tạm dịch: Ngày thứ bảy): “Người ta tin rằng chúng tôi sẽ bị hủy diệt nếu chúng tôi thất bại trong cuộc chiến này. Chúng tôi hiểu – hay đã kế thừa - được ý đó từ những trại tập trung. Bất cứ ai lớn lên ở Israel cũng đều bám chặt với ý nghĩ này, thậm chí cá nhân anh ta không phải trải qua sự bạo hành của Hitler. Tội ác diệt chủng – đó là một khả năng hiện hữu. Có những phương tiện để làm việc đó. Đó là bài học của những phòng khí ga.”(154) Khi chiến tranh cuối cùng cũng nổ ra với một cuộc tấn công phủ đầu của Israel, IDF chỉ mất có sáu ngày để đánh bại quân đội của nhiều nước Ả Rập kết hợp với nhau và thu về được nhiều lãnh thổ của Ai Cập, Jordan, và Sirya rộng gấp ba lần so với lãnh thổ của Israel. Nhiều năm sau, tầm vĩ đại của chiến thắng này đã dẫn một số sử gia đi tới kết luận rằng trong khi nỗi sợ bị hủy diệt là có thật, thì nguy cơ về nó lại không hề hiện hữu. Như Tom Segev đã nói: “Nỗi sợ hãi đã thúc đẩy cuộc chiến mạnh mẽ hơn bất kỳ một yếu tố nào khác.”(155) Nỗi sợ, mà Segev và những người khác nhận xét, chính là bắt nguồn từ Holocaust. Sau chiến tranh, một số lãnh đạo Israel, bao gồm cả người chủ trương hòa bình ham đọc sách Abba Eban, bắt đầu chỉ đường biên giới của Israel trước năm 1967 như là “hàng rào Auschwitz”. Trong khi trạng thái hưng phấn về chiến tranh trong một hoặc hai năm tiếp theo đã đeo mặt nạ cho phần lớn nỗi lo âu về Holocaust của Israel, thì cuộc chiến năm 1973 đã đem nó trở lại với một sự báo thù. Trong cuộc chiến này, mặc dù, hay có lẽ là vì, những biên giới được đảm bảo hơn, mà Israel đã mất cảnh giác và rơi vào nguy hiểm thực sự. Cùng nhiều chuyện khác, mối nguy này đã khiến cho tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào Hoa Kỳ, mà sự hỗ trợ về chính trị và quân sự đã cho thấy là rất quan trọng trong việc chuyển biến cục diện chiến tranh, thành vấn đề trọng tâm của người Israel. Như Cựu phó trưởng ban huấn luyện của IDF, Đại tá Ehud Praver, chiến tranh Yom Kippur đã khiến người Israel thấm thía được cảm giác lặp đi lặp lại nhiều lần trước đó của người Do Thái Diaspora, những người mà họ đã quá khinh thường – đó là cảm giác bị cô lập, bỏ rơi, và bất lực không thể chống trả lại bằng chính sức mình. Praver tin rằng cuộc chiến tranh năm 1973 đã tách riêng hai từ Holocaust và anh hùng trong tâm thức người Israel. Trong khi trước cuộc chiến này, người Israel định danh tính mình với một nhóm quân du kích, những chiến sĩ đấu tranh anh dũng chống lại Nazi, thì hiện giờ họ đã nếm mùi hạn chế của chủ nghĩa anh hùng. Vào lúc đó, các sử gia và chuyên gia về truyền thông đãví cuộc chiến ấy là một “cơn động đất”. Tuy nhiên, từ nhãn quan tâm lý học, nó chỉ hơn một cột cây số trên chặng đường dài, mà ở đó việc Israel liên minh thái quá với cơ chế phòng vệ của sabra đối với chủ nghĩa anh hùng đã nhường lối cho những lo lắng lan tràn, nếu không nói là luôn luôn thức tỉnh, liên quan đến Holocaust và những lo lắng liên quan đến Diaspora khác. Trong năm 1977, Israel bầu lãnh tụ lâu dài của đảng đối lập, Menachem Begin, trở thành thủ tướng đầu tiên là nạn nhân của Holocaust. Đây không phải là một sự ngẫu nhiên. Như đã được trình bày trong một nghiên cứu của trường Đại học Ben-Gurion vào năm 1990, bắt đầu trong những năm cuối thập niên 70, Holocaust đã trở thành một sự kiện bình thường với tất cả những người Israel không kể đến nguồn gốc và nền tảng văn hóa của họ. (156) Một nghiên cứu tương tự vào năm 1992 về bản sắc Israel trong số những sinh viên đại học chuẩn bị trở thành giáo viên đã nhận ra rằng gần 80% số đó xác định bản sắc Israel với một câu nói: “Chúng ta chẳng qua chỉ là những nạn nhân sống sót của Holocaust.”(157) Thật vậy, trong những năm tiếp theo, nỗi lo lắng về sự đàn áp và hủy diệt bắt nguồn từ Holocaust đã lan rộng khắp hơn, và dễ dàng biến thành yếu tố tâm lý nổi bật nhất, ảnh hưởng đến những chính sách của chính phủ. Begin, người đã bi kịch hóa và thổi phồng trước công chúng câu chuyện sống sót của cá nhân mình, liên tục đả động, ám chỉ đến Holocaust khi bàn luận đến những vấn đề an ninh quốc phòng và ngoại giao. Năm 1981, ông ta đã biện minh cho việc ném bom nhà máy hạt nhân của Iran rằng: “Chúng ta phải bảo vệ quốc gia chúng ta, một triệu rưỡi người có con đã bị Đức Quốc xã giết hại trong những phòng hơi ngạt.”(158) Trong đêm trước cuộc xâm lược năm 1982 của Israel lên đất Lebanon, ông ta nói với nội các: “Không có cách nào bằng cách chiến đấu quên thân. Tin tôi đi, con đường thứ hai là Treblinka(159), và chúng ta đã quyết định rằng sẽ không có thêm Treblinka nào nữa.”(160) Quyết tâm này – được bệ đỡ bởi cùng một nỗi sợ cơ bản – cũng dẫn đường chỉ lối cho phản ứng của Israel đối với phong trào intifada đầu tiên của người Palestine. Những cuộc biểu tình của đám đông trong lãnh thổ của Palestine, thậm chí ngay cả khi nó là bạo lực, cũng chẳng đe dọa gì đến nhà nước Israel. Toàn những thanh thiếu niên còn trẻ, phụ nữ và những thường dân không vũ khí ném đá vào binh lính Israel, cuộc nổi dậy này có thể được coi là một cuộc rối loạn trật tự dân sinh. Thay vì thế nó bị coi là một mối nguy sinh tồn và phải lãnh dùi cui và kẹo đạn. Năm 1991, trong suốt Chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất, khi Mỹ gây áp lực, ngăn cản Israel phản ứng trước những vụ phóng tên lửa của Saddam Hussein, và quân đội Hoa Kỳ đang tìm kiếm ở phía tây những quả tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud nhắm vào Israel, thì người Israel bị bỏ lại với nỗi sợ hãi và lòng quyết tâm bị giảm sút. Được tình thế bị động bất đắc dĩ này củng cố, nỗi lo sợ Holocaust của họ càng hiển hiện rõ ràng. Saddam được ví như “tiểu Hitler”. Mặt nạ hơi ga được phân phát để chuẩn bị đối phó với một cuộc tấn công hóa học có khả năng xảy ra, gây rung động cho mọi người với một trường nghĩa không sai vào đâu được. Một thiếu niên người Israel đang chờ bạn học của mình tại sân bay để bay đến Ba Lan đã nghe thấy câu nói đùa rằng họ không cần phải lo lắng vì khi những tên lửa hóa học của Saddam đâm vào Tel Aviv, họ sẽ ở Auschwitz. Và như trong những năm đầu thập kỷ 60 với Ai Cập, những báo cáo sai đã đưa ra thông tin về sự nhúng tay của người Đức trong việc phát triển vũ khí hóa học của người Iraq. Chỉ là lần này, chẳng có một đòn phủ đầu hay thậm chí là hành động trả đũa nào. Chỉ có duy nhất nỗi sợ hãi. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của Israel, hàng nghìn người Israel đã rời bỏ nhà cửa và di tản về phía nam, ra khỏi mục tiêu nhắm bắn của tên lửa. Một phiên bản của động lực này đã quán xuyến tâm thức người Israel trong suốt phong trào intifada thứ hai của người Palestine. Như chúng ta sẽ sớm thảo luận, cuộc nổi dậy 2000 – 2005 đã buộc người ta phải phân hạng những điều kiện liên quan đến nỗi lo âu trong một đám đông khổng lồ những người Israel. Nhưng thêm vào đó, sự thiếu vắng rõ ràng một giải pháp quân sự nhằm ngăn chặn những làn sóng tấn công khủng bố tàn nhẫn phá hủy sự bình yên ở trái tim của đất nước đã khơi dậy tâm lý vừa sợ hãi, vừa thụ động. Và còn tệ hơn trong Chiến tranh vùng Vịnh, lần này, họ chẳng có nơi nào để trốn chạy, và có lúc mong đợi nó kết thúc trong vô vọng khắc khoải. Trong những trường hợp này, những cảm giác bất lực, vô dụng lan tràn khắp nơi chuyển hóa thành cơn suy sụp hỗn loạn của cả một dân tộc, một cảm giác mờ mịt mênh mông đi kèm với một nhận thức mơ hồ rằng “ngày tận thế đang đến gần”. Trong khi những cảm giác này đang lắng xuống thì phong trào intifada này đã nhạt dần, cùng với những chuyện khác, động lực tiếp theo khiến người Israel muốn tách khỏi người Palestine – mà mũi nhọn là đợt rút quân đơn phương khỏi dải Gaza và hàng rào Bờ Tây được dựng lên – là một nỗ lực quay trở lại với sự phòng vệ về mặt tâm lý của những người Zion, đó là nhảy ngay vào một hành động gây sốc khi phải đối mặt với một tình thế khó có thể suy chuyển. Lại một lần nữa không phải vô tình khi động lực này lại được dẫn dắt bởi Ariel Sharon, một nhân vật Zion điển hình, người dù tốt và xấu gì cũng đã tạo ra một sự nghiệp từ việc phủ nhận nỗi sợ hãi, tính thụ động và sự vô dụng bằng cách dám thực hiện một hành động vĩ đại, với những hậu quả mang tính cá nhân, dân tộc và quốc tế quan trọng. Trong trường hợp này, bởi lẽ một phân tách đơn phương, theo những điều khoản thật không thể chấp nhận, thậm chí đối với những người Palestine ôn hòa nhất, chẳng dễ gì mà đi đến một tiến trình dẫn tới hòa bình, thật khó có thể tưởng tượng ra rằng những biên giới được vẽ lại ngày càng hẹp hơn, được đánh dấu bằng một hàng rào cao, có thể thay thế được nỗi lo sợ Holocaust thâm căn cố đế, đã ăn sâu vào trí não của người Israel. Những cuộc chiến tranh tiếp theo với quân Hamas đóng trên dải Gaza – một tổ chức được trang bị rocket và tên lửa có thể tiến sâu vào Israel và được một hệ tư tưởng Hồi giáo và bài Do Thái lãnh đạo – tự nhiên làm cho các vấn đề càng tồi tệ hơn. Và chẳng có ích gì trong suốt những năm này, tổng thống của một đất nước đang sắp với tới được vũ khí hạt nhân xoen xoét nói rằng Holocaust là một truyền thuyết phương Tây dựng lên để biện minh cho chủ nghĩa thực dân, và rằng Israel phải bị quét sạch khỏi bản đồ thế giới. Như David Grossman từng nhận xét, ở châu Âu, khi người ta đề cập đến Holocaust, họ nói về “chuyện gì xảy ra sau đó”, ý là chuyện đó đã là quá khứ rồi. Trong tiếng Hebrew, hoặc tiếng Yiddish, người ta không nói sau đó, mà đúng hơn, ở chỗ đó, ở những nơi khác, những điều kiện con người khác, như thể nó không hoàn toàn lùi vào quá khứ, ít nhất là đối với người Do Thái.(161) Thật vậy, ở Israel hiện nay, như trong hai đến ba thập kỷ gần đây, thật hiếm có ngày nào trôi đi mà truyền thông không đưa ra một vài bình luận về, hoặc một lời bóng gió tới, Holocaust. Khi một người lính Israel đối mặt với một tên trẻ trâu Palestine ném đá vào, có phần hơi vô thức, anh ta nghĩ mình đang đối mặt với một tên Nazi nguy hiểm, nắm giữ tất cả quyền hành. Cũng như vậy, khi một nhà ngoại giao đến thăm Washington đề cập đến mối lo ngại về an ninh của người Israel, ý thức hay không ý thức thì ông ta đang nghĩ đến Auschwitz. Rõ ràng là, con lắc đã chao. Rất giống với nhà văn Ka-Tzetnik, Israel nói chung đã trải qua một cuộc thanh lọc hàn gắn vết thương, đẩy những thống khổ bị dồn nén của ngày hôm qua lên bề mặt ý thức của ngày hôm nay. Bây giờ thì chúng ta biết tại sao không ai muốn nghe những câu chuyện mà các nạn nhân sống sót không muốn kể. Nếu phiên tòa xét xử Eichmann đánh dấu việc khởi động đợt trị liệu toàn quốc cho Israel, hiện tại đất nước này đã sa chân vào giai đoạn trị liệu nguy hiểm, dường như là chới với giữa chốn không cùng, đấu tranh chống lại một dòng đều đều những lo âu hao tâm tổn trí, với dòng lũ những hình ảnh về sự sinh tồn không ngừng nghỉ. Nhà tâm lý học người Israel Ofer Grosbard, cùng những người khác, đã thừa nhận rằng để đạt đến sự vững chắc và ổn định, một quốc gia, giống y như một cá nhân, phải có khả năng tha thứ và hành động, chứ không cần phải lồng lên với những cảm xúc xớn xác thế này. (162) Chính đó là mối nguy hiểm đối với Israel và cộng đồng quốc tế. Nếu tâm thức Israel