🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Thành Và Lộc Đời
Ebooks
Nhóm Zalo
Tâm Thành Và Lộc Đời
Thành Lộc & Nguyễn Thị Minh Ngọc Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
LỜI NÓI ĐẦU
Đã có rải rác vài lời đề nghị tôi viết hồi ký hoặc ngồi kể cho người ta ghi lại từ nhiều năm trước nhưng tôi đã từ chối bai bải... vì thấy mình chưa đủ độ dầy và độ... sạch sẽ để cho người ta đọc về mình, phần cũng lười lắm nên thôi...
Bây giờ nghe nói chị Nguyễn Thị Minh Ngọc, bà bạn thân của mình chấp bút thì đúng như là cái điều kiện ắt có và đủ để cho cái phản ứng hóa học nó hình thành đúng thời điểm, gọi là thiên thời địa lợi nhân hòa đã có đủ, hai chị em lần nữa lại dính duyên như cứ phải làm kịch của chị ấy... suốt đời vậy!
Chị Ngọc viết vài lần cho đọc nhưng không ưng, vì nó không phải giọng điệu của mình. Tới lần nầy thì thấy lạ lắm! Người nghe kể chuyện có khi sẽ bị lẫn lộn về thời gian, không gian, nhưng đó đúng là cách viết lại của một người nhớ đến đâu thì kể đến đó, như những thước phim đời ghép lại từ những ký ức lúc nhớ lúc quên, không tuân thủ theo những quy luật tự nhiên của một cuốn hồi ký cổ điển, quen thuộc. Bà chị Ngọc đã chọn đúng cái lối dụng văn của thằng em, thằng bạn nầy khi kể, nó rất ngẫu hứng và... ngang bướng, lúc lương thiện, lúc lại ranh ma và có chút vị ươn ươn của mùi máu điên chạy rần rần trong thằng nghệ sĩ. Chắc tại chơi thân quá nên chị hiểu chứ không là chị, tôi không biết nhờ ai! Cảm ơn chị!
Sẽ có người phán: Vậy là nó biết nó già rồi nên mới chịu làm cuốn sách. Dạ nói sao cũng được, cũng đúng hết vì trong thời điểm nầy đây thấy làm điều đó đã là cần thiết, đời sống có hiện đại bao nhiêu, có tân tiến bao nhiêu thì đều cũng phải cần có những câu chuyện kể ngày xửa ngày xưa, nó là truyền thống kế thừa và nối tiếp những bước đi làm dài thêm quang lộ của đời, để đời luôn tồn tại, phát triển và vĩnh hằng. Sẽ có câu chuyện hay, cũng có những câu chuyện chưa thật hay, thậm chí các bạn ở thế hệ 8x và 9x sẽ
không cảm hoặc cả không tin vào những mảng đời, câu chuyện mà chỉ có sinh ra và trải nghiệm sống trong thời điểm đó của lịch sử mới hiểu rằng đó là sự thật, dù sự thật khó tin hay không nhưng chắc chắn nó cũng sẽ góp phần làm phong phú vốn đời cho một thế hệ đang chuyển động và làm chủ cuộc sống hiện tại. Nhưng không phải là hồi ký thì cái gì cũng được kể lại, có những chuyện mà người trong cuộc cũng chỉ muốn giữ lại cho riêng mình, huống chi đây không hoàn toàn là một cuốn hồi ký, chỉ là những câu chuyện được kể lại, kể cho nhau nghe để còn nhìn nhau mà cười, gửi đến nhau những nụ cười viên mãn. Đời vậy là đủ đẹp, cau mày với nhau làm gì!
Ai cũng một lần được nghe kể những câu chuyện xưa với lời mở đầu là: Ngày xửa ngày xưa, có một...
Dạ, cũng thấy được an ủi lắm khi mai sau với khán giả yêu kịch nghệ cũng sẽ có một câu chuyện tương tự ngày xửa ngày xưa nơi đây đã từng có một...
THÀNH LỘC
1
Tái sanh và được chọn
Trong một vở kịch Nga tôi từng thủ diễn, lời chúc phúc của dàn đồng ca cho đứa trẻ sơ sinh “Chúc cho đường đời của con sẽ chẳng dễ dàng và trơn tru”. Khi đó tôi không hiểu, lời chúc sao mà độc địa! Về sau tôi mới hiểu, những trầm luân dành cho những đứa trẻ không lớn ấy là những cơn sóng đẩy người ta đến bến Giác.
Thành Lộc - An nhiên phía sau ánh sáng
- Trác Thúy Miêu
Tôi sinh năm 1961, tuổi Tân Sửu, cầm tinh con trâu. Lá số tử vi của tôi cho thấy cung Tài có Thái Âm tọa chủ chiếu vô bản mệnh, làm việc gì về ban đêm sẽ thành công, sinh lúc 5 giờ sáng (giờ Dần) trúng vào giờ Cô Thần (tuyệt) nên không có vợ, con. Mệnh có Đào Hoa, Hồng Loan, lại đi với Đà La, làm gì cũng dễ nổi tiếng, mà là tiếng thơm, có năng khiếu về văn hóa nghệ thuật với các vai bi (Hóa Kỵ), hài (Thiên Hỉ), hạp với việc giảng dạy (Đồng Lương), có Thân vững nên đời ít bị nhiễu về mặt nhục dục! Có Kim Dự, Dịch Mã, Văn Xương cùng nhiều quý nhân nên xếp vào người hiền, có tên tuổi và được lên xe xuống ngựa. Cung Thiên Di chỉ rõ cuộc đời sẽ bị trôi vào thế giới bon chen, phù phiếm với nhiều nỗi thăng trầm. Cung Quan Lộc có nhiều sao tốt nhưng sao xấu lại dồn về cung Nô Bộc. Khi được cho biết là từ năm 40 tuổi trở đi tôi sẽ được giảm bớt việc bị phản và bị thù, tôi thấy mình chưa biết thù ai, khinh thì có. Nhưng khoan nói xa xôi đến chuyện sau nầy.
Để vẽ lại ấu thời của tôi, hai cái bóng in đậm là Ba và Má, rồi cả gia đình, cùng những sắc màu rực rỡ, âm thanh quyến rũ của sân khấu.
Ngay Má và Ba tôi cũng đồng nghĩa với Sân Khấu rồi. Thử hình dung đi, một cái đình lớn mang tên đình Cầu Quan - sau nầy còn gọi là đình Thái Hưng. Trong lòng cái đình ấy có chứa một cái sân khấu để biểu diễn. Bao quanh và trên dưới sân khấu ấy, ngoài chỗ cho khán giả ngồi xem còn là nơi sinh sống, ngủ, nghỉ và làm việc của vài gia đình thuộc dòng họ bầu Thắng nổi tiếng của ông ngoại như nhà của các cậu Minh Tơ, Khánh Hồng cùng các cậu, dì, anh chị họ khác của tôi. Mỗi gia đình có khoảng vài mét vuông.
Nếu tính đứng từ sân khấu đó nhìn xuống khán giả, thì nguyên một mảng mấy mét vuông thuộc cánh gà bên hông phải của sân khấu, chính là NHÀ của tôi. Chưa đến giờ diễn, nơi đó đủ chỗ để chứa một bộ bàn ghế để cả nhà dùng cơm cùng chiếc đi-văng là giang sơn của má ( công chúa, con gái ông bầu mà ). Tới giờ diễn, chiếc bàn xếp lại để chỗ cho dàn nhạc cải lương ngồi - dàn nhạc Hồ Quảng thì nằm ở ngoài hố nhạc, trước mặt khán giả. Má ngồi trên đi-văng để hóa trang - lúc đó kêu là sắm tuồng.
Khu vực nầy có một chiếc gác xép, từ đó có một cầu thang đi xuống cánh gà bên phải sân khấu. Ngay dưới chân cầu thang gác xép đó sẽ là nơi banh cái ghế bố ra thành chỗ ngủ của ba sau khi tan xuất hát. Khoảng 9 giờ là tất cả bị lùa lên gác ngủ. Giờ đó bị phát giác còn thức chạy lăng quăng là bị đòn. Tôi thường ngồi thòng hai chân, ấn mặt vào giữa hai chấn song của lan can trên gác xép ngó xuống sân khấu coi hát như được ngồi ở một loại “chuồng gà” đặc biệt, thiết kế dành cho dân hạng sang trong các nhà hát của Tây xây. Tới chừng vãn hát, phần gác xép là nơi ngủ của ba chị: Bạch Liên, Bạch Lựu và Bạch Lý. Anh Long thì từ nhỏ vì khó nuôi đã được gởi ở nhà một bà cô cách đình vài bước chân thôi. Hai người còn lại là chị Bạch Lê và tôi, bạn có đoán được nơi ngủ không? Chính là sàn diễn mình mới được xem hồi nãy, trải chiếu ra thành nơi ngủ của người chị thứ nhì và bé Út trong nhà.
Chắc bạn đã từng đọc qua bài báo, tôi kể chuyện ba má hay cho tôi mặc
đồ bà ba bằng sa-tanh màu lợt. Sau khi tắm, thơm tho trong bộ đồ mới, tôi khoái dông tới ngã tư Trần Hưng Đạo và Yersin, đứng hằng giờ liền để cây cột đèn xanh đèn đỏ hắt chuyển ánh sáng huyền ảo đủ màu lên nền áo bóng loáng của mình. Tôi thích được thôi miên trong thứ ánh sáng ấy. 15 giây là màu đỏ, 15 giây là màu xanh, 5 giây là màu vàng – có lẽ tôi thích màu vàng nhất vì nó chỉ có 5 giây. Cái gì hiếm thì nó quý, tôi thích màu vàng luôn từ đó. Và còn nữa, tôi thích mình là con biến sắc. Vào giờ đó, muốn kiếm Út Tâm cả nhà cứ đến gốc cột đó là thấy ngay chàng Út. Sa-tanh lúc bấy giờ đang là mốt. Cưng lắm mới được bận đồ sa-tanh. Áo bà ba phải có hai cái túi nghen. Tôi được xếp vào hàng “hot boy” thời bấy giờ, được nhiều người lớn bu lại nựng vì bụ bẫm dễ thương (Hình như bây giờ, gần nửa thế kỷ sau, vẫn có nhiều người nói thấy cái mặt của tôi vẫn còn muốn nựng). Trong túi áo bà ba của “hot boy” bấy giờ thường đầy ắp ốc ruốc đủ màu. Lỡ như không trang bị kịp ốc ruốc thì ít gì cũng phải có cây kim băng (còn gọi là kim tây) ghim vào chéo áo, để cho những đứa có ốc nhưng thiếu kim lể thì “hot boy” có thể chìa “vũ khí” ra cho mượn tạm để... cùng ăn.
Sa-tanh còn dùng để bọc áo gối. Cái chất vải bóng mát lạnh thoảng hương Eau De Cologne tạo cảm giác nhà mình nghèo nhưng sang. Cái mùi hương ấy cùng với những màu sắc chấp chóa của kim sa mắt gà đính vào phục trang biểu diễn, những tờ giấy bóng kiếng đủ màu bọc đèn, tiếng trống, phách lùng tùng xèng mà thiếu nó thì tôi không thể nào ngủ được. Mỗi ngày, từ lúc mở mắt ra đến lúc tạm nhắm hờ để trôi vào mộng, tất cả thế giới đầy màu sắc và âm thanh của sân khấu như vậy đã ngập tràn, thấm đẫm vào từng tế bào da thịt cùng tâm hồn tôi.
Tôi cũng không thể lơi lỏng ý tưởng mình là con trai của kép chánh Thành Tôn, thuộc một dòng dõi theo nghề hát bội ba đời tại đất Vĩnh Long. Ông nội của tôi là bầu Nở nức tiếng Vĩnh Long. Là kép nổi nhứt vùng vì hát hay lại khá đẹp trai, nhưng Ba tôi sớm ý thức được là để thỏa chí làm nghề cần phải xuất hiện ở Sài Gòn nên ông đã rời gánh của cha mình mà lên đó đầu quân. Rồi sau đó sanh tình và kết hôn với Huỳnh Mai, con gái thứ của
bầu Thắng. Sau nầy tôi biết thêm, năm 1924 ông ngoại tôi là nghệ sĩ hát bội Hai Thắng, đã gom góp tiền bạc trong gia đình, mua lại gánh hát bội của bà Ba Ngoạn (là bà nội của cô Kim Cương), lập đoàn Vĩnh Xuân. Khoảng năm 1950, mấy người anh chị em của má như Minh Tơ - cùng vợ là nghệ sĩ Bảy Sự, các cậu Đức Phú, Khánh Hồng... đều có học hát cải lương của đoàn Phụng Hảo. Khoảng cuối thập niên 50 thế kỷ trước thì danh xưng Cải Lương Tuồng Tàu ra đời. Sau đó vài năm khán giả gọi đó là Cải Lương Hồ Quảng để rồi sau 1975, khi chuyển sang hát lịch sử Việt Nam, bộ môn nầy chuyển thành loại hình Cải Lương Tuồng Cổ.
Hai bên nội ngoại đều là những người nổi tiếng, yêu nghề và là những người đi tiên phong phối hợp loại hình sân khấu cổ với hoàn cảnh đương đại. Ngó các chị của tôi đều vừa đi học vừa đi hát trước mình, trong lòng tôi luôn nôn nao nghĩ đến ngày rồi sẽ đến phiên cậu Út bước ra sàn diễn. Ở cái tuổi chưa được ba cho phép làm khán giả - vì ông quan niệm phải học chữ trước - đã đôi lần tôi lén trốn ba đi xuống dưới đứng coi. Loại khán giả chui nhỏ xíu như tôi bằng cách nào coi được, các bạn biết không? Đình có bốn cây cột bự chảng nằm chình ình ngay giữa khán phòng. Muốn xem tuồng mà không được bắc ghế, tôi chỉ còn một cách duy nhứt là đu ôm lấy cây cột to, một chân co lên cái bục dưới gốc cột, một chân chống chịu trong hơn hai tiếng đồng hồ. Ở vị thế đu ôm cột đó, tôi thường hay bị người soát vé, đưa chỗ (lúc đó kêu là plát-sưa từ chữ placeur, tiếng Pháp) đuổi đi để không che khuất khán giả. Thấy họ chuyển sang hướng khác thì tôi chạy lại đu cột coi tiếp.
Bạn có tin không khi tôi sắp kể cho bạn nghe một dấu ấn lớn trong khúc đời thơ ấu đầy mộng tưởng nầy, một câu chuyện mà tôi chưa từng kể với ai trong gia đình, bạn bè và càng chưa kể cho các phóng viên nghe, một câu chuyện mà bây giờ khi nói ra, tôi vẫn không thể khẳng định nó là mộng hay thực.
Hãy hình dung vào giờ nửa khuya, cái thế giới nhỏ bé bên trong đình
Cầu Quan của đại gia đình gồm nhiều tiểu gia đình của chúng tôi, bàn thờ Tổ nằm ngay sau lưng phông hậu của sân khấu, bàn thờ Thần Đình nằm sau lưng hàng ghế cuối cùng của khán phòng, đối diện với sân khấu. Đặc biệt nơi đó còn có hai tượng Thần Mã, bên Bạch Mã sơn trắng, bên Xích Thố mang sắc đỏ và đen. Ban ngày bọn trẻ con chúng tôi thích chạy qua, chạy lại dưới bụng hai tượng ngựa đó với mong cầu được khỏe mạnh. Nằm sát phông hậu của sân khấu còn là một chiếc bục cao hình hộp chữ nhật dài mà trong chuyên môn vẫn gọi đó là Sân Khấu Giả.
Bấy giờ tất cả mọi người đều an giấc, chị Bạch Lê nằm bên cạnh tôi ngủ rất say. Tôi thì đang bị sốt nên giấc ngủ không tròn, cứ chập chờn... Và rồi tôi đã nghe tiếng lục lạc khua vang cùng tiếng ngựa hí vang lừng, tiếng gươm đao khua lẻng xẻng cùng tiếng hô vang: “Quân sĩ đâu, hãy rượt theo vây bắt cho ta”. Tôi ngồi dậy, vén mùng chui ra ngồi nhìn ra mà lòng không hề thắc mắc hay sợ hãi.
Một nhóm “Người Bí Ẩn” lừng lững trào ra từ dưới đền thờ Thần Đình, tràn lên sân khấu đâu khoảng mấy chục mạng. Tại sao tôi gọi là “mạng” mà không gọi là người, vì thân thể của họ hoàn toàn không giống người, mà giống y như những vòng nhang khoanh khổng lồ mình vẫn thấy ở các chùa trong Chợ Lớn, đờn ông hình ống trụ, đờn bà hình nón lá. Từ các tấm thân ấy mọc ra đầy đủ đầu và tứ chi với lông trĩ, lông công cắm khắp lưng, đầu theo vai chánh, phụ. Nhóm “Người Bí Ẩn” ấy ca hát, thoại, múa võ y như trong các vở tuồng Tàu mà tôi vẫn được coi, có từ Tiết Đinh San, Tiết Ứng Luông đến Phàn Lê Huê, Thần Nữ và mọi nhân vật phụ khác. Bạn có tin không, ngay lúc tôi đang kể đây mà trong mắt tôi vẫn rõ mồn một hình ảnh của họ, trong tai tôi vẫn nghe rõ ràng âm thanh của những thứ binh khí họ chạm vào nhau nghe loảng xoảng và cả tiếng vó ngựa lộp cộp chạy đầy trên sân khấu chung quanh tôi. Tôi ngồi coi say mê cho đến khi các các hình bóng âm binh thần tướng ấy rút lui biến hết vào lòng sân khấu giả, tôi ngồi dậy chạy theo luôn vào gầm sân khấu giả đó và rồi họ biến mất để tôi ngồi một mình trong bóng tối. Tôi biết mình có giác quan thứ sáu rất nhạy và chính xác, nếu là ma chắc chắn lưng tôi sẽ lạnh. Nhưng không, tôi thấy ấm cả người, tôi biết chắc đó không phải là ma, mà là Thần.
Từ đó, mọi thứ đã không còn bình thường trong lòng tôi được nữa. Những đêm sau đó tôi cứ cố canh xem có còn được gặp lại họ nữa không, nhưng có lẽ cái gì thiêng quá thì chỉ xảy đến có một lần. Tôi không nghĩ đây là chuyện tình cờ mà họ đã cố tình cho tôi thấy, họ đã cố tình để tôi đi theo con đường của họ, con đường mà ba má và các anh chị tôi đang đi. Với tất cả
lòng biết ơn cùng ý thức mình là Người Được Chọn.
Và cho đến hôm nay, khi ngồi kể lại chuyện nầy, giựt mình khi thấy mình sống đã hơn nửa thế kỷ, mà riêng tuổi vào nghề đến đây có tới gần bốn mươi năm miệt mài không ngưng nghỉ, so ra, đã dài hơn tuổi nghề của ba má và các chị rồi. Tại sao thế? Có lẽ tại vì chỉ có mình mới có được sự dẫn đường trong cơn mộng du nên phải “chịu nghiệp” dài hơn!!? Các Chư vị đã dẫn tôi đi rồi để tôi lại trong bóng tối, như một dự báo: trên con đường mình đi, tôi là người cô độc.
Cái đình Cầu Quan nằm ngay trung tâm thành phố Sài Gòn hoa lệ, cách chợ Bến Thành đâu có bao xa, nay là đất vàng đất bạc, nhưng ngày ấy tôi cũng ý thức được cái xóm mình lớn lên là một xóm nghèo. Nghịch lý thay, cái nghèo ấy đã khiến cho tâm hồn tôi, nghiệp diễn tôi lại giàu có hơn lên. Biết bao kỷ niệm thú vị tôi đã trải qua nơi đó. Những mùa Trung thu chỉ với những lồng đèn xếp bằng giấy dó mà đám rước đèn của đám trẻ nghèo bao giờ cũng có sức hút rất lớn với đám trẻ giàu lồng đèn giấy kiếng. Khi lên đèn ánh sáng lồng đèn giấy kiếng thì khuếch tán trong khi lồng đèn giấy dó thì hội tụ nên đèn nhà nghèo bao giờ cũng sáng và đẹp hơn đèn nhà giàu. Lồng đèn giấy kiếng cứ xin nhập bọn với lồng đèn giấy dó, chưa bao giờ đám con nít xóm nghệ sĩ chúng tôi lại tự hào mình là con nhà nghèo như lúc nầy.
Nếu có thể nói thêm gì về những ước mơ thuở nhỏ của mình, không thể không nhắc đến sự ưa thích vô cùng của tôi về thủy tinh, màu sắc, ánh sáng và những ảo giác tạo ra từ những thứ đó. Tôi không mơ xa đến những vì sao tận trời cao tít tắp, chỉ cần ống kính vạn hoa, những trái châu bé nhỏ lung linh (thời đó những trái châu treo trên cây thông Giáng sinh chỉ làm bằng thủy tinh chứ không làm bằng nhựa cứng như bây giờ), miếng miểng chai xanh từ những chai bia, những con đom đóm phát sáng kỳ diệu trong đêm đen, những hòn bi ve... cũng đủ khiến tôi ngây ngất ngắm nhìn và tơ tưởng vẽ ra một thế giới đầy mộng ảo. Tưởng tượng, để được trôi trong những mộng mơ đẹp, đó là gia sản giàu có, lành mạnh của những đứa bé con nhà
nghèo.
Những lúc Sài Gòn cúp điện, tôi có thể ngồi hàng giờ trước đèn măng xông hay chỉ cần một cây đèn dầu và dán mắt vào một miếng miểng chai rồi xoay nó thế là trò chơi ảo giác bắt đầu. Mọi thứ đằng sau miếng mảnh chai đó là cả một thế giới lung linh huyền ảo cứ thế mà thôi miên tôi. Cũng nhờ vậy mà tôi không cảm thấy sợ hãi khi ở trong bóng tối.
Ở tuổi học Mẫu Giáo, tôi được đến trường Tư Thục Hồ Văn Ngà ở con đường cùng tên. Ấn tượng của thời gian đó là những cây kẹo đèn cầy trong suốt đủ màu thường để ngó hơn là để ăn vì ba má luôn nhắc ăn kẹo là hư răng hết đó. Thân thiết hơn là hộp viết chì đủ màu hiệu Coleen, hộp bút lông 12 cây, những tờ giấy gói kẹo đầy màu sắc. Và có lẽ cũng nhiều người cùng thích với tôi những chiếc lá bồ đề ngâm nước tro cho mục rã thịt lá để chỉ còn những cọng gân lá nhuộm đủ màu trong suốt ép trong tập vở, đẹp mê hồn! Lũ bạn hay chọc: chỉ có con gái mới thích lá bồ đề nhuộm màu, tôi thây kệ, thích là thích thôi, đẹp mà! Mà xem ra những sở thích của tôi cũng giống con gái thật, toàn thích những gì có màu sắc và trong suốt. Cái gì cũng có lý của nó, hồi nhỏ ba má tôi đã từng cho tôi giả gái sau một trận đau ban tưởng chết.
Sau khi sanh hai chị Liên và Lê, mất một con trai, má tôi sanh tiếp hai chị Lựu và Lý. Sanh và nuôi con gái không sao mà hễ sanh con trai là má tôi bệnh, không thì mấy đứa con trai cũng bệnh, vì xem ra gia đình không có số nuôi con trai nên tôi suýt cũng theo số phận bị gởi cho người khác nuôi như anh Long. Nhưng rồi mấy chị thèm có em trai quá nên xin ba má để tôi lại nuôi. Má kể khi tôi được vài tháng tuổi, có lần tôi bị đau ban lên sởi rất nặng và đã ngưng thở. Ba má đã mang tôi lên chùa Tân Nghĩa ở Gò Vấp, nơi ba má tôi quy y. Sư trụ trì mang tôi đặt trong lòng chiếc Đại Hồng Chung, ông gióng lên ba hồi chuông và rồi cái xác tôi giật mình thức dậy sau một giấc ngủ dài rồi cười ngất như thể bị ai đó chọt cù léc. Sư trụ trì phán: “Cái xác phàm nầy coi như đã qua một kiếp, giờ thằng nhỏ đã được tái sinh trong kiếp
mới”. Tôi được thầy đặt pháp danh là Thiện Tâm từ đó. Để dễ nuôi hơn trong kiếp mới nầy, ba má cho tôi giả làm con gái, để tóc dài và cho bận áo đầm. Cả nhà phải né tên thật mà gọi trại đi là Thành Tâm, với lòng tin nếu có “mấy người coi số tử” tới tìm, sẽ lầm tưởng là đứa trẻ khác mà không bắt đi.
Chuyện nầy tôi có kể cho vài tờ báo đăng rồi. Không hiểu sao, gia đình tôi khó nuôi con trai lắm. Anh đầu mất, anh Bạch Long phải gởi người khác nuôi và kêu ba má tôi là anh Hai, chị Hai. Chúng tôi còn một người em trai nữa, ba má đặt tên Thành Long, nhưng phải gởi chính bà mụ đỡ đẻ nuôi. Về sau, bà sang Pháp sống. Có tin về là em chúng tôi đã lập gia đình rồi và đang rất hạnh phúc. Lần đó, có một vị đạo diễn nước ngoài về Việt Nam làm việc, tôi tình cờ biết được anh chính là con trai ruột của bà mụ năm nào. Khi bà mất, anh có nhận nuôi người em nầy của chúng tôi. Khi anh ấy li dị vợ thì Thành Long cũng rời nhà và tự lập gia đình riêng. Chúng tôi rất muốn tìm gặp lại em, nhưng vị đạo diễn nầy cho biết chính anh ấy cũng muốn tìm nhưng không biết tìm nơi đâu. Chúng tôi chỉ còn biết cầu nguyện một ngày nào đó sẽ được gặp lại người em trai thất lạc. Không chừng em Thành Long cũng không biết là mình còn anh chị sống tại Việt Nam và mấy chị nữa sống ở Mỹ, Pháp, Úc. Anh Bạch Long tên thiệt là Thành Tùng, nhưng anh lấy nghệ danh là Bạch Long để nhớ về người em nầy.
Phần tôi, mãi tới khi bảy tuổi, lên lớp một, thấy đã sống được, tôi mới được cắt tóc và bận đồ con trai như các bạn bình thường. Nhưng thời mẫu giáo, còn mái tóc dài, bạn có thể hình dung tôi đã bị nhòm ngó, bị chọc ghẹo ra sao không:
1/ Nhòm ngó: dù mặc áo đầm nhưng mỗi khi đi đái, tôi vẫn không ngồi, người đi đường cứ chọc ghẹo tôi “Trời ơi, con gái mà sao đái đứng!”
2/ Chọc ghẹo: Ở nhà thì các chị như có được một bé Út xinh xắn để chơi đùa. Mấy chị thích cho tôi ngậm một đồng tiền cắc trong miệng, hay nhét đồng tiền vào lỗ tai, khi các chị giựt cái bính tóc của bé Út thì bé Út có nhiệm vụ phải nhả tiền ra giống y như cái gặt băng tâm (bây giờ gọi là máy
kéo tiền trong casino). Cái ngày ba má khám phá ra bé Út bị dùng như búp bê sống để chơi đùa, coi như các nàng bị đòn và phải dẹp ngay.
Tám tuổi, bắt đầu được chính thức tham gia biểu diễn, tôi mang luôn nghệ danh bé Thành Tâm, chưa được lấy tên thật vì gia đình vẫn còn lo sợ có chuyện không may cho tôi.
Trong những món được sở hữu, tôi đặc biệt thích những quả châu óng ánh lung linh bằng thủy tinh mùa Giáng sinh. Có lần tới nhà cậu út tôi chơi, được mợ cho một trái châu, tôi cưng nó lắm, ngày nào tôi cũng áp sát nó vào mắt và cứ tò mò không biết trong lòng trái châu có gì. Rồi khi nó bị rớt bể, nỗi thất vọng gần ngang với việc cả một thế giới sụp đổ với mình. Nhưng cũng kịp nhận ra bên trong vật quý kia không có gì cả, cái lung linh huyền ảo của trái châu đó chỉ là cái bên ngoài. Tôi có một cái tật không biết là xấu hay tốt, cái gì mà khi được cảnh báo là coi chừng bể thì tôi lại muốn nó bể, tự khám phá bên trong hình ảnh đứa bé ngoan, còn có một tinh thần khát khao nổi loạn ngầm luôn tồn tại trong mình. Cái gì càng cấm tôi lại càng muốn làm.
Trong mớ ấm trà của ba sưu tập, có một bộ trà của Nhật, mỏng như giấy quyến, cứ gợi trong tôi nỗi khát khao muốn cắn thử coi nó ra sao, vậy là tôi làm thiệt. Tôi “ghé răng cắn vào”, mặc dù “không có miếng môi ngọt đắng” mà nó vẫn bể trong miệng tôi như cái vỏ trứng gà mong manh tan nát. Cưng mấy thì Út cũng phải bị một trận đòn như ai, nhưng từ đó tôi có một niềm vui lớn khi hiểu ra cái gì mình nghĩ được là cũng có khả năng sẽ làm được. Ngó hòn bi ve đủ màu xoắn tít trong hình cầu bé nhỏ, tôi cứ khoái cầm cái búa đập bể ra lấy trái khế bên trong, hóa ra trong đó cũng chẳng có gì.
Phải là nghệ sĩ sống trong nghề nhiều năm, ở giai đoạn trước đây (mà cả sau nầy nữa) mới mang cảm giác sợ con cái mình theo nghề diễn của mình sẽ thấy trước đời sẽ cực khổ nhiều hơn niềm vui. Như má Bảy Phùng Há, người vẫn được trong giới vinh danh là “Tổ sống”, biết bao nhiêu lần trên đỉnh vinh quang, nhưng vẫn bị ám ảnh chuyện con đào kép đi lang thang
theo cha mẹ sẽ bị thất học. Một thời gian dài và ngay cả trước khi mất, bà cứ nhắc đi nhắc lại chuyện hát hội lấy tiền, xây Ký Nhi Viện và xây trường học đặc biệt cho con em nghệ sĩ kẻo tương lai chúng long đong. Ba má tôi cũng vậy, không muốn “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, cứ sợ các con theo nghiệp mình sẽ khóc nhiều hơn cười nên luôn buộc các con phải học xong Trung học rồi muốn làm gì thì làm. Ấy vậy mà thích diễn quá, tôi đã mấy lần bước ra sàn diễn nhà tham gia làm quân sĩ cùng với anh Bạch Long, trước mắt ba tôi. Anh lúc đó coi như người của “nhà khác” rồi, nên là người duy nhứt trong gia đình bấy giờ được đi hát. Khi bị tôi xin được làm đứa quân sĩ thứ hai đứng chung, anh Long cũng sợ anh Hai ( tức là ba của hai đứa ), nhưng vì cưng đứa em Út, thấy tôi mê quá, anh làm liều. Chính anh là người “sắm tuồng” ( vẽ mặt ) cho tôi. Khi ba tôi ra hát, vừa dòm thấy tôi, ông hết sức ngạc nhiên, còn tôi thì run lên từng chập vì sợ ăn đòn. Vừa xong lớp đó là Ba chụp lấy cây roi mây, định khi vào cánh gà sẽ quất cho mấy roi, nhưng ông vừa vào cánh gà bên nầy, tôi đã tọt sang cánh gà bên kia. Chạy vòng vòng như vậy, lại tới lớp ông phải ra. Tôi cứ thoắt hiện, thoắt biến như vậy cho tới khi vãn tuồng thì tôi... thoát nạn.
Thêm một chuyện nữa để bạn hình dung ra chất nổi loạn ngầm trong tôi từ bé. Thử coi, bao nhiêu gia đình chen chúc ở trong lòng đình, dùng một nhà vệ sinh chung, đêm đến đâu ai dám ra ngoài. Bấy giờ, bên kia đường Phạm Ngũ Lão là nhà ga Sài Gòn (bây giờ là Công viên 23 tháng 9). Đó là nơi khi đêm đến các xe tải chở trái cây từ Đà Lạt về đậu ở đó, cũng là nơi trẻ bụi đời thường núp vào đó để phóng uế. Tôi nhìn hình ảnh đó với đôi mắt thèm thuồng vì đó là biểu tượng của... “Tự Do”. Ba má tôi cấm tiệt chuyện tôi băng qua đường vì sợ tôi bị xe đụng và cũng cấm tôi chơi với bụi đời vì sợ tôi hư. Quyết tâm sang được tới bến bờ tự do kia, tôi mon men làm quen với trẻ bụi đời, nhờ dắt mình sang bên kia đường để được làm chuyện ấy - y chang tụi nó. Đó là một kỳ công vì tự do đã đoạt được trong vòng bí mật. Hạnh phúc nhân lên mấy lần vì mình đã giao du được với những đứa mà người lớn cấm, và theo cảm nhận cá nhân thì chơi với tụi nó thiệt là thú vị,
có gì ghê gớm như ba má cấm đâu. Được dắt qua đường, được vừa trò chuyện vừa hưởng một trong tứ khoái, được phạm tội mà không ai hay, nói chung là cảm giác lúc đó nó... đã gì đâu!
Có thể nói gì về tôi những ngày đó? Sống, thở với sân khấu. Được thần thánh chọn. Chết đi sống lại. Thích làm thử những chuyện cấm. Tự nhìn ra bên trong đứa bé ngoan là tôi ngày ấy luôn ẩn chứa một tâm hồn nổi loạn.
Sự nổi loạn ấy bám riết, tăng trưởng cùng tôi mãi đến ngày nay.
2
Trái tim nhảy múa
Khi tôi còn nhỏ, có lần một người đàn ông lạ bất ngờ xuất hiện trước cổng đình Cầu Quan. Ông ta mặc bộ đồ bà ba màu nâu sậm, râu tóc dài chấm đất, mười đầu ngón tay dài như đã không cắt từ nhiều năm. Ông ta lặng thinh xin tiền khán giả vào xem hát. Hình ảnh đó khiến tôi khiếp vía.
Má tôi nói ông là kép hát cải lương nổi tiếng một thời nhưng vô lễ với tổ nghiệp, khinh thường khán giả và bị rời khỏi đoàn hát. Hình ảnh ông ấy ám ảnh trong tôi ranh giới mong manh giữa vinh quang và thảm bại. Hình ảnh ấy luôn là bài học nhắc nhở tôi về cách sống để không phải nói “Giá mà...”.
( NSƯT Thành Lộc: Lối rẽ đến “thánh đường”
- Hà Thanh báo Tuổi Trẻ)
Như vậy là tôi được đến trường, trễ hết một năm mẫu giáo trong lốt con gái. Nhớ lại thời sáu tuổi đó, món độc nhiều đứa mê là cà rem nhét vô bánh mì ngọt, chế sữa đặc vô rắc ít đậu phộng rang đâm nhuyễn ăn vô câm luôn vì quá ngon. Còn món ưa thích nữa là đá bào xịt xi rô. Chắc các bạn cũng biết lý do rồi, tôi thích cái khối lạnh trong suốt kia, được chế sữa màu trắng đục hay tưới xi rô đủ màu, thích ngắm nó mê man trước khi uống. Bánh phục linh cũng là món được tôi ưa thích chỉ vì những gam màu khác nhau bao bọc nó. Tôi cũng bỏ nhiều giờ với cái kính vạn hoa, những sắc màu lung linh không bao giờ quay trở lại những bông hoa cũ.
Trong thế giới ấu thời của tôi, bà nội cũng là một hình ảnh đẹp. Chỉ biết là rất thương bà nội. Có thể vì bà quá hiền, lại khá hài hước và ưa kể chuyện
đời xưa. Bà ở dưới Vĩnh Long, lâu lâu mới lên Sài Gòn, vác theo bốn cần xé xoài, sầu riêng, măng cụt. Lên Sài Gòn ngộp, bà chỉ bận áo cánh và không bao giờ thèm cài nút, nằm trên võng, bà quạt phành phạch, và tôi mê hơn mấy trái cây kia là mùi trầu, mùi dầu bôi vào đầu tóc mượt của bà. Tôi còn một Má Lớn ở dưới quê, Má Lớn có món tủ là món bánh bò bông. Nội thương hai con dâu như nhau vì cả hai dâu đều hiền như bà. Có về quê mới thấy bà nội tự tay làm hết, lưng thẳng phom phom đi chăm sóc các cây. Bà nội thì khá hiền lành, nhưng khi cần quyết liệt thì bà còn hơn các nữ tướng đầy lông công, lông trĩ trên sân khấu. Chính tay bà cầm rựa ra chặt bỏ cả một vườn măng cụt chỉ vì bị truy thuế cao quá. Bà ngoại là bầu gánh thì quý tộc hơn. Ông ngoại tôi mất sớm nên bà ngoại đứng ra trông coi chuyện nhà, chuyện gánh. Là một bà bầu hiền lành, nên bà còn có một danh xưng nữa là Lão Phật Gia.
Chuyện chị Kim Cương tới nhà tôi xin cho tôi được đi diễn mà tôi trốn thì nhiều người biết vì đã được kể lại nhân chị làm chương trình Tạ Ơn Đời và tôi nhận vai trò MC. Ai xem vở Lá Sầu Riêng của chị cũng biết trong đó có vai đứa bé mà nhà tôi các chị Bạch Lựu, Bạch Lý đều đã đóng qua. Khi vở được quay ti vi, hai chị đã lớn nên chị Kim Cương đề nghị tới phiên tôi. Thấy tôi lắc đầu, chị phán, con nghệ sĩ sao mà nhát hích vậy, lớn làm cái gì mà ăn. Chung quanh còn dọa tôi là nếu không chịu lên, sẽ có người khác thay ngay.
Nói nào ngay, sau đó có thấy tiếc. Nên khi ban kịch thiếu nhi của chú Xuân Phát mời, tôi nhận lời liền. Chú là thầy dạy ca múa cho mọi người luôn. Các năng khiếu của chúng tôi được khai thác tối đa. 15 phút đầu là phần ca múa nhạc, 30 phút sau là kịch. Dustin Nguyễn lúc đó tên Trí cũng được học võ và đóng kịch với tôi, nhưng thường là các vai ăn cướp bị tôi đánh tan tác (Bây giờ chắc là ngược lại). Ban thiếu nhi Xuân Phát có cặp Chí Hùng và Ngọc Hoa là cặp thần đồng hát kiểu Hùng Cường - Mai Lệ Huyền, có Ngọc Châu, em chị Ngọc Bích và Kim Hoàng hát nhạc thiếu nhi rất hay. Cạnh ban thiếu nhi Xuân Phát của đài Truyền hình Việt Nam số 9, còn có
ban thiếu nhi Tuổi Xanh (của cô Kiều Hạnh), ban Viễn Hùng, chương trình thiếu nhi Lê Văn Khoa (của chú Lê Văn Khoa), chương trình thiếu nhi Gió Khơi, chương trình thiếu nhi Sơn Ca của đài Truyền hình Đắc Lộ (giám đốc là linh mục Robert, người Pháp), lò thiếu nhi Nguyễn Đức, nhóm thiếu nhi Hoa Thế Hệ của nghệ sĩ Quang Phục (chị Phượng Mai chuyên hát cải lương Hồ Quảng từ đây mà trưởng thành).
Kịch người lớn thì có ban Sống - Túy Hồng. Nhớ có lần tôi được kêu qua đó đóng chung với cậu Vân Hùng. Cậu dán lông mi dài không thua lông mi chị Kim Cương. Bước vô studio có đắp hai cái mộ giả bằng cát của người mẹ đã mất. Lúc đang chờ quay cậu xoay qua hỏi “Nhà con ở đâu?” (thật ra lúc đó là cậu ấy muốn thoại lại lời kịch bản với tôi). Tôi đáp ngay “Dạ ở đình Cầu Quan”, cậu Hùng cười phá lên: “Trời ơi, cái thằng nhỏ nầy, tôi hỏi nhà nó ở đâu là tôi thoại trong kịch vậy mà nó tưởng tôi hỏi nhà nó.” Cả phim trường cười tôi, tôi muốn chui xuống đất vì mắc cỡ. Kịch người lớn còn nhóm Phù Sa (của anh Huỳnh Thanh Trà), ban kịch Vũ Đức Duy (của chú Vũ Đức Duy), ban Gió Nam, ban Tự Do (của kịch sĩ Lê Tuấn), ban Bạch Tường (của cô Bạch Tường), ban Mỹ Tín (của chú Mỹ Tín). Ban Mỹ Tín thường dựng kịch phóng tác hay ảnh hưởng văn hóa phương Tây, thường xảy ra trong giới thượng hay trung lưu. Còn nhỏ mà tôi đã mê chú Mỹ Tín vì chú diễn hay lắm nhưng tôi chưa bao giờ được diễn chung với chú. Ban Tự Do cũng thường phóng tác kịch ngoại vì người chủ xướng là kịch sĩ Lê Tuấn, khi dịch lấy tên Luân Tế. Khoảng những năm 90, chúng tôi có diễn ở sân khấu 5B vở Những Con Thú Thủy Tinh của Tennesse Williams do anh dịch.
Hai nhóm kịch thiếu nhi của chú Xuân Phát và chú Viễn Hùng thiên về Tâm lý Xã hội. Ban kịch thiếu nhi Tuổi Xanh của cô Kiều Hạnh lấy đề tài là chuyện đồng thoại, chuyện ngụ ngôn có chó mèo, hay chuyển từ chuyện của Andersen. Chương trình thiếu nhi Lê Văn Khoa của chú Lê Văn Khoa thường nghiêng về âm nhạc và rối dây của phương Tây. Ngoài ra, trẻ em còn có một chương trình thiếu nhi khác, thú vị không kém tên là Gió Khơi, có
dàn nhạc Mandoline rất hay toàn con gái đánh.
Không biết ai soạn tiểu sử của tôi ở Bách Khoa Toàn Thư Tiếng Việt. Trong đó có vài chi tiết không chính xác. Ví dụ như:
Năm 1969, khi vừa tròn 8 tuổi, Thành Lộc đã làm quen với sân khấu từ đội múa Nhà Thiếu nhi Thành phố (Sài Gòn cũ), rồi ban kịch thiếu nhi của đài Truyền hình Sài Gòn, thời kỳ nầy anh lấy nghệ danh là Thành Tâm.
Đúng là khi tròn 8 tuổi, năm 1969, tôi chính thức tham gia diễn kịch và ca hát với nghệ danh là Thành Tâm trong các ban kịch thiếu nhi trên làn sóng phát thanh và truyền hình, cụ thể là ban kịch của chú Xuân Phát, thuộc đài Truyền hình Việt Nam số 9 và chương trình thiếu nhi Sơn Ca của đài Truyền hình Đắc Lộ. Mãi đến 1975, tôi vừa 14 tuổi, thấy mình có khả năng nhảy múa, đặc biệt mê múa ballet, lúc đó mới có Nhà Thiếu nhi Thành phố để tôi vừa học, vừa tham gia đội múa .
Đài Truyền hình Đắc Lộ có hai cơ sở lớn và nhỏ, đều được bên Công Giáo bảo trợ mọi mặt về máy móc, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài. Đặc biệt họ đào tạo đạo diễn ti vi cũng như cameraman. Mọi người làm việc trong một tinh thần nhân ái, thương yêu hỗ trợ nhau, không vì cá nhân mình. Cơ sở nầy ở đường Yên Đổ, nay là Lý Chính Thắng. Có một thời kỳ dài, báo Tuổi Trẻ đã được sử dụng Thư Viện của nó làm tòa soạn.
Khi tham gia biểu diễn sớm, có hai thái độ thương - ghét xảy ra với tôi khi vẫn song song học chữ. Kiểu gì thì tôi cũng trở thành “người có tiếng” của trường Tiểu học Nguyễn Thái Học ngày đó. Vừa là em của Bạch Lê, vừa là bé Thành Tâm, nên tự nhủ mình phải ráng học sao cho thiệt giỏi. Chúng bạn tỏ vẻ ưu ái mình, bằng cách sẵn sàng cho copy nếu không biết, đám vai u thịt bắp thì để yên và thậm chí bảo vệ mình. Cũng có lúc Thành Tâm mới nổi tiếng trong vai chó Lu là bị một băng mười mấy đứa bên lớp khác kêu vang: “Chó Lu! Chó Lu!” khi chàng bước qua. Tức tới điên người nhưng “mãnh hổ nan địch quần hồ”, biết sao giờ?! Đầu đảng lại là Quang Kiệt, sau nầy cũng là một trong những bạn thân của tôi. Cũng may là khi lên lớp Sáu,
chúng tôi học chung nên tôi không bị ghẹo nữa mà hai đứa thân nhau luôn. Quang Kiệt không những là bạn thân sau nầy mà còn là đồng nghiệp cùng đi Đoàn kịch Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh (Kiệt tốt nghiệp từ trường Nghệ Thuật Sân Khấu II như tôi, sau tôi hai khóa).
Sau 1975, thích cô giáo dạy Văn của mình, tôi đã ước mơ sẽ làm thầy giáo dạy Văn. Rồi tham gia đội múa của Nhà Thiếu nhi Thành phố, tôi thầm mơ sẽ thành vũ công ballet chuyên nghiệp dù mình giỏi múa dân gian hơn.
Trên facebook của mình tôi vừa liệng ra hình một bát chè đậu đen và kể lại một trong những kỷ niệm thời gian tham gia đội múa.
“ Tôi được chọn là một trong mười đội viên của Sài Gòn ra Hà Nội tập huấn một tháng trời ngoài ấy cùng với ba mươi ba đội viên khác của cả nước để tham dự Đại hội Liên hoan Thiếu nhi Thế giới lần thứ nhất với chủ đề “HÃY ĐỂ MẶT TRỜI LUÔN CHIẾU SÁNG” tại Moscow thủ đô của Liên Xô cũ .
Lúc đó cả nước ăn đói mặc kém lắm, mọi thứ mua sắm và ăn uống còn phải dùng tem phiếu và chúng tôi mỗi đứa phải vác ra 15 ký gạo để tự túc phần ăn của mình, góp vô bếp ăn chung mà khi ăn thì khẩu phần ăn trở thành cơm nấu độn chung với mì sợi hoặc khoai mì ( ngoài ấy gọi là sắn ). Mỗi ngày ngoài bữa ăn sáng qua loa đạm bạc một ly sữa và vài lát bánh mì, có khi là một gói xôi, có khi chỉ là hai cái bánh giò, còn ăn cơm độn mì thì đúng có một cữ trưa mà thôi, vậy bữa chiều ăn gì ?
Đó là một đĩa súp, nói là súp nghe cho nó sang vì không hề có súp mà chính là... chè đậu đen với đầy đá lạnh, gọi là chè đỗ đen đá ( theo cách gọi của người miền Bắc ) ăn kèm với một ổ bánh mì. Lần đầu tiên trong đời tôi ăn bánh mì với chè đậu đen lạnh! Cứ xé bánh mì ra nhúng vào nước chè lạnh rồi cho vào mồm, lấy cái muỗng (ngoài ấy gọi là cái thìa) vớt đậu nhai cùng... Lúc đầu tôi cứ nghĩ mình không ăn được, nhưng nếu không ăn được thì sẽ ăn cái gì? Vì sẽ không có bữa cơm tối đâu! Một tháng ba mươi ngày, chiều nào cũng chỉ ăn mỗi món đó thôi, không ăn cho no thì sức đâu để tập
huấn? Chúng tôi vừa học chính trị, rồi tập văn nghệ với các tiết mục ca múa nhạc như một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thiếu nhi để sang đó mà thi thố... Sáng tập cái nầy, chiều tập cái kia, tối tập cái nọ... liền tù tì một tháng trong hoàn cảnh ngôi nhà chung nghèo, rất nghèo !
Vậy mà ăn riết quen miệng đâm ra thấy ngon, và thấy ghiền cái món bánh mì chấm chè đậu đen nầy làm sao. Sau nầy hoàn cảnh ăn uống dân mình khá lên nhiều, tôi mới kể món khoái khẩu một thời của tôi là ăn bánh mì với chè đậu đen đá, nhiều em út nhìn tôi như "người hành tinh khác ” và chọc tôi ăn gì kỳ, ăn như... cái đồ khùng !
Không biết bây giờ nếu ăn lại món đó tôi có còn thấy ngon không nữa nhưng quả thật ngay lúc nầy đây trong ký ức ẩm thực của tôi vẫn đọng lại cái hương vị của món ăn nhà nghèo thời bao cấp đó mà éo le thay là khi nhớ lại tôi vẫn thấy nó ngon, ngon y như hồi xưa mới lạ chớ !
Trong đại hội liên hoan ấy tôi rinh về cho mình một huy chương vàng cho một tiết mục múa đôi dân gian Khmer Nam bộ, người cùng múa với tôi nay đã là một bác sĩ khoa nhi. Đoàn thiếu nhi VN lúc đó giành nhiều huy chương vàng khác nữa. Những người cùng ăn chè đậu đen bánh mì với tôi lúc đó bây giờ có người đã là giám đốc, hiệu trưởng, giáo sư, nghệ sĩ thành danh... Không biết họ có còn nhớ về món ăn lạ lùng nầy không? Món súp ngọt độc đáo của VN thời bao cấp. Riêng tôi không bao giờ quên được vì nó cũng chính là một phần đời niên thiếu của tôi, của cậu thiếu niên 16 tuổi cùng mùa hè Hà Nội 1977 nóng bức !”
Đưa đoạn nầy lên xong, tôi nhận được nhiều chia sẻ, trong đó có nhiều người trong cuộc.
Tôi xin phép bạn bè bỏ dấu những lời của các bạn, đưa vào đây để cùng ghi nhớ lại một thời.
- Của bạn Nguyễn Thị Thanh Lan: Nhớ những ngày đi trình diễn ngày xưa thật vui, ngồi trên xe có các anh phụ trách như anh Trần Xuân Tiến, anh
Phước, anh Kim, anh Thy, chị Hồng Hà... cùng với anh Trần Vương Thạch, anh Thanh Liêm, anh Lâm... trêu đùa, nghịch ngợm... làm tất cả các em thiếu nhi cười vui như hội... Những kỷ niệm ấy không bao giờ chúng em quên được. Thích nhất là những hôm đánh trận giả, anh Lộc chỉ huy .. .
- Của bạn Ngọc Anh Trương: ... Khi từ Liên Xô trở về, người nào cũng đẹp, cũng oai phong, người nào cũng có mặc một cái áo thun giống nhau rất đẹp, đeo một cái túi xách ca-rô màu cam chéo qua vai, đội cái mũ nồi bằng vải màu trắng, trông thật là bảnh bao! Rất oách! Em nhìn mọi người như những thần tượng .
- Cũng của bạn Ngọc Ánh Trương (ca sĩ Trương Ngọc Ánh): ... Tụi mình ăn mì gói vụn gần chết, ăn riết ghiền luôn! Mà nếu không ăn thì cũng chẳng có gì khác để ăn! Nhớ anh em mình đi diễn ở nhà máy giấy Bình An, được tặng cho mỗi đứa một bịch mì vụn và mấy cuộn giấy toilette nhãn hiệu Bình An mà mừng muốn chết! Từ đó, anh em mình có thêm từ mới: mỗi khi đi toilette thì gọi là đi “Bình An ”!
- Của bạn Đông Phương: Ngoài tiết mục múa Đôi Bạn, anh còn có tiết mục múa khác thật xuất sắc như “Múa Mèo ”, “ Cánh Bướm Mùa Xuân ” hay còn gọi là “ Múa bướm Tày ”... diễn ở Liên Xô, tụi em vẫn còn ngưỡng mộ . Tên của anh gần với đội múa những ngày đầu 1975 của Nhà Thiếu Nhi cho đến bây giờ tụi em vẫn không quên . Những buổi tập chuyên môn với NSND Thái Ly đến tận khuya lơ khuya lắc, rồi những lúc đoàn đi biểu diễn ở tận vùng sâu vùng xa heo hút , vừa ngồi trên xe vừa học bài ngày mai đi thi ... Nhớ những buổi chiều chuẩn bị chờ biểu diễn , chị Hồng Hà bắt vô “ làm mặt ” rồi mỗi người được một tô mì gói hay dĩa cơm , rồi ôm một mớ đạo cụ trang phục lên xe ... Một thời nhớ lại có biết bao kỷ niệm . Thời đó nghèo, có được cái xe đạp đi sinh hoạt đội là sướng lắm . Lúc đó hồn nhiên vô tư không lo nghèo ( vì nhà ai cũng như nhau), có tiền cũng phải xếp hàng mua nhu yếu phẩm như mọi người , còn bị mấy chị xã viên hợp tác xã chửi như con ... Bây giờ mỗi khi có dịp tụ tập lại hoặc ai đó bỗng nhắc đến
kỷ niệm của “ tuổi thơ dữ dội ” nầy thì nó bỗng dưng biến thành những tràng cười giòn tan - cười chảy nước mắt bởi cái ngô nghê của sự phát triển thời đó. Và những đứa trẻ - con của các anh chị thiếu nhi ngày trước - được ba mẹ nó dẫn đi theo dự họp mặt, trố mắt ra không biết mấy ông, mấy bà nầy cười cái gì? Có gì đâu mà cười !
... Đúng rồi, với những người trẻ bây giờ, nhiều chuyện cách đây mấy chục năm, giờ chúng tôi kể lại, có thể các bạn ấy không cảm nhận và hiểu thấu. Biết vậy rồi, nhưng tôi vẫn thấy mình có bổn phận ngồi ghi chép lại những dòng nầy, để các bạn hiểu nước mình, sân khấu mình đã có một thời như thế nầy.
Đất nước thống nhất, một trong những đặc sản phương Bắc là kịch nói xuôi Nam khiến chú thiếu niên đến tuổi trăng tròn là tôi bị hớp mất hồn. Lúc ấy Nhà hát Kịch nói Việt Nam còn mang tên là Đoàn Kịch nói Trung Ương. Cùng với Đoàn Kịch nói Hà Nội, hai đoàn đã mang vào các vở Nila , Khúc Thứ Ba Bi Tráng , Người Đốt Đền, Đôi Mắt, Hà My của Tôi, Âm Mưu và Tình Yêu , tôi xem không sót vở nào và mê mẫn tài diễn xuất nhập hồn của những Nguyệt Ánh, Hà Văn Trọng, Trọng Khôi, Đoàn Dũng, Thế Anh, Tú Mai, Minh Trang, Trần Vân.
Tôi sẽ trở lại về nguồn lực gây hưng phấn cho tôi trong việc chọn nghề theo nghiệp nầy trong một chương khác. Bây giờ ngồi kể lại những chuyện nầy, tôi thấy đời sao nhanh hơn giấc mộng. Nói thì nhanh chớ lúc đó cũng phải cân nhắc nhiều lắm với một đứa con nhà nòi của sân khấu truyền thống, đã tham gia kịch truyền hình khi vừa lên tám, thoắt mê môn Văn, thoắt mê ballet, rồi chuyển sang mê kịch, lại là mê kịch từ Bắc vào. Đó là một dòng sân khấu có chủ đích nên được bảo trợ và tài trợ để đào tạo bài bản từ đạo diễn tới diễn viên. Trong khi đó ở miền Nam là một dòng kịch tự phát, lại thiếu đạo diễn, theo hướng trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, nghĩ sao nói vậy, không cần định hướng, chủ đề. Không kể cải lương không làm mới, kịch miền Nam chỉ phát triển ở ti vi, ngoài Đại Nhạc Hội thì là kịch ngắn
hay kịch vừa diễn chung với các loại hình ca, múa, nhạc, lại chẳng dám xộc vào những vấn đề đương đại, thậm chí mang tính cách nổi loạn như kịch Bắc mang vào.
Nếu cố đeo đuổi để trở thành một anh kép cải lương, tôi khá tự tin rằng mình có thể hát không thua kém ai, vũ đạo đẹp (nhờ yêu múa) và hát Hồ Quảng chuẩn, nhưng tôi thấy trước, thiếu những đồng đội cùng... nổi loạn, thiếu những kịch bản, thiếu những bàn tay đạo diễn có nghề góp vào, cao lắm, mình cũng sẽ chỉ là một anh kép cải lương trung bình.
Sau khi tôi ra Hà Nội tập huấn một tháng cùng 42 người trên toàn quốc, rồi dự Liên hoan Thiếu nhi Thế giới năm 1977 về, giành được Huy Chương Vàng nhờ tiết mục Đôi Bạn do biên đạo múa Ngọc Cường của trường Múa Việt Nam tại Hà Nội dàn dựng. Thầy đã sáng tác dựa tên nền âm nhạc và động tác của múa Khmer Nam Bộ. Sau đó, thầy Ngọc Cường cho biết trường Múa Việt Nam tại Hà Nội có nhã ý muốn đào tạo tôi theo chương trình chính quy mười một năm.
Năm 2013, Nhà hát Kịch nói Việt Nam kỷ niệm 60 năm, nhiều người ở Sài Gòn nhận được thư mời, nhưng chỉ có vài người ra như Xuân Hương và tôi. Cha của chị Xuân Hương là đạo diễn Bích Lâm, thầy dạy Mỹ học của tôi, đã từng làm giám đốc nhà hát nầy.
Nhân dịp đó, báo Tiền Phong mở đầu bài phỏng vấn tôi bằng câu nầy:
Còn Thành Lộc tự mua vé máy bay để gặp gỡ đồng nghiệp trong không khí thân tình, và lý do có mặt của anh là: không có Nhà hát Kịch Việt Nam thì không có Thành Lộc hôm nay - PV hỏi chuyện anh tại sảnh Nhà hát Lớn.
Riêng việc tôi từ chối Múa để theo Kịch cũng được ghi lại như sau:
HỎI: Từ hồi Thành Lộc là một thiếu niên còn tôi khi ấy nhi đồng, đã chứng kiến anh nhảy múa vòng tròn nom thuần thục như một vũ công Nga, thần thái cực kỳ nghệ sĩ ( trong một chương trình biểu diễn báo cáo ở Cung Văn hóa Thiếu nhi Hà Nội trước khi lên đường dự trại hè thiếu nhi quốc
tế) . Anh thuộc dạng nghệ sĩ mà tinh hoa phát tiết rất sớm ?
ĐÁP: Tôi diễn kịch và ca hát từ 8 tuổi trong các ban nhạc kịch thiếu nhi trên làn sóng phát thanh và truyền hình Sài Gòn từ trước 1975. Sau 75 tôi phát hiện mình có khả năng nhảy múa, đặc biệt yêu thích ballet nên sinh hoạt trong đội múa Nhà Văn hóa Thiếu Nhi TP. HCM và từng ước muốn trở thành vũ công ballet chuyên nghiệp. Nhưng thật ra tôi giỏi múa dân gian hơn.
Sau khi dự Liên hoan Thiếu nhi Thế giới lần I tại Moskva (Liên Xô) và giành Huy Chương Vàng trong một cuộc thi múa, trường Múa Việt Nam tại Hà Nội có nhã ý muốn đào tạo cho tôi theo chương trình chính quy. Nhưng quả thật động lực trở thành diễn viên kịch trong tôi vẫn mạnh mẽ hơn, nên tôi đã có sự lựa chọn để bây giờ sân khấu kịch nói có một Thành Lộc. Cũng nhờ thế mà khán giả thấy một diễn viên sân khấu đa năng, không chỉ diễn kịch mà ca hát và nhảy múa cũng rất thành thạo. Điều đó làm tôi trở nên nổi bật và dễ “ghi điểm” trong lòng khán giả .
( http://www.tienphong.vn/van-nghe/thanh-loc-kich-bac-ngu-quen-qua lau-612580.tpo )
Sự kiện nầy có thể kể lại chi tiết như sau, theo như tôi nhớ:
Sau khi có lời đề nghị cho một tương lai chung sống 11 năm tại Hà Nội của trường Múa Việt Nam, hai người tôi tham khảo ý kiến là thầy Thái Ly và chị Hồng Hà – chị phụ trách thiếu nhi của tôi lúc đó. Thầy nói, thầy tin với kỹ năng múa đã có, con có thể là một diễn viên kịch xuất sắc, nhưng với nhiều nhược điểm của cơ thể, có cố lắm, con cũng chỉ là một diễn viên múa trung bình.
Được lời khuyên vàng đó, tôi đành cám ơn và từ chối tấm thâm tình của trường Múa Việt Nam và âm thầm lên một kế hoạch cho riêng mình.
Vào năm học lớp 11 trường Trung học Cô Giang, tôi biết trường Nghệ Thuật Sân Khấu II mở khóa thi tuyển. Ngang trái và đầy kịch tính là ngày thi
chuyên môn bên trường Sân Khấu trùng với ngày thi học kỳ 2 bên trường Cô Giang. Tôi đánh liều tự bỏ thi học kỳ 2 bên phổ thông để đi thi vào trường Sân Khấu mà ba má tôi không hề hay biết. Bữa thi đó, ai cũng biết tôi là con ông Thành Tôn đi thi. Thầy Đoàn Bá biểu tôi kéo cao quần lên để thấy bắp chuối chưn coi tôi có còn khả năng cao thêm được nữa không, tôi thấy vậy là mình tiêu rồi, tôi đã rơi vào trường hợp thả mồi bắt bóng.
Tổ nghiệp lại thử gân tôi một lần nữa. Hồi đó, trường Nghệ Thuật Sân Khấu II bắt thi chuyên môn hai vòng. Ngày thi vòng hai của trường Sân Khấu lại trúng ngay ngày thi vớt học kỳ 2 của lớp 11 bên trường phổ thông lần nữa. Dĩ nhiên, tôi đành phải làm liều bỏ thi vớt phổ thông lần nữa để chọn đi thi vòng 2 sân khấu, liều vậy đó. Đến ngày nhập học lớp 12 Trung học, mới biết là mình đã bị lưu ban vì không có điểm thi học kỳ 2.
Về nhà thấy có thơ của trường Sân Khấu gởi báo tin đậu rồi hú hồn muốn xỉu. Biết chắc là sẽ bị đòn nếu ba biết bị ở lại lớp 11. Cái thơ của trường Sân Khấu là bùa hộ mạng. Mãi đến ngày khai trường bên Nghệ Thuật Sân Khấu II, mới dám báo cho ba má biết là mình không còn học chữ nữa mà đã chọn học nghề.
Ba tôi là nghệ sĩ nhưng không dạy con theo kiểu “nghệ sĩ” mà rất nề nếp, thậm chí gia trưởng. Cả nhà tôi ai đi đâu thì đến giờ cơm tất cả đều phải quây quần. Đó cũng là giờ để các người con báo cho cả nhà biết có chuyện gì mới. Nói chung là các con làm gì, ba má cũng phải biết hết.
Hành động của tôi vào năm đó: Tự quyết định ngừng học bên trường phổ thông để chuyển hẳn học trường nghề mà không thông qua ai, phải nói đối với tôi là một cuộc cách mạng lớn.
3
Chỗ gối đầu
Tôi nghĩ, có những thứ, chịu hay không chịu được, đôi khi chỉ đơn giản là do thói quen. Xưa khi tôi còn là sinh viên, sống trong một căn gác xép lợp mái tôn, đến quạt máy có chạy vèo vèo cũng chẳng ăn thua. Trưa hè chỉ còn
nước “thoát y 100%” mà bây giờ sang một chút người ta gọi là đi spa. Hoặc sang hơn nữa thì mua vé vào rạp trưa, không phải để xem phim mà là để... ngủ. Giờ tôi được ở trong một căn nhà do chính tay tôi xây nên, lại có riêng một căn phòng rộng, lắp điều hòa. Nhưng ba năm nay hỏng, không buồn sửa. Vì tôi nghĩ: Ủa, ngày xưa ông chịu nóng giỏi lắm mà? Xưa nóng hơn nhiều, sao ông chịu được? Cái đó, là tôi thừa hưởng từ ba tôi đó - người không bao giờ đặt mình vào một yêu cầu nào đó quá cao để tự làm khó mình. Trừ khi là nghệ thuật.
Icon: Thành Lộc “Tôi là người không có võ, chỉ có trái tim!” -Thư Quỳnh (Đẹp Online)
“Chồn Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người chẳng có chỗ gối đầu”.
“Foxes have dens and birds of the sky have nests,
but the Son of Man has nowhere to rest his head”.
Đó là một câu trích trong Kinh Thánh, đã được dùng trong truyện và kịch trước 1975. Gia đình tôi theo đạo Phật, nhưng cũng có những điều trong Kinh Thánh khiến tôi ngẫm ngợi. Theo như câu nói trên còn để nhắc những ai chọn một lý tưởng nào đó cần dồn hết trí lực và tâm hồn theo đó, không nên có một thỏa hiệp nào. Con người là động vật cao cấp nên chẳng cần nơi trú như những con vật yếu đuối kia. Nhưng nó phải có nhà hay “gia đình” để
có sự đùm bọc, yêu thương.
Xin cho tôi dành chương nầy để nói về những người thân cùng những cái nhà của tôi. Các bạn đã biết cái “tổ” của gia đình tôi khi tôi vừa lọt lòng đến khi lên sáu, bảy. Nó mong manh như cái tổ bằng đất của những con tò vò gắn hờ vào thành tường của sân khấu trong lòng đình.
Chị đầu tôi là chị Liên sau một thời gian đi hát đã quyết định bỏ, chị học đánh máy rồi vô làm Thư ký Đánh máy của Tòa Đô Chính. Khi đi làm bằng Honda, chị còn chở thêm tôi và chị Lựu đến trường. Với chuyện theo hay rời nghề hát xướng, ba tôi hoàn toàn không ép. Thích thì ông cho theo, hết thích thì ông coi như hết duyên, hết nghiệp. Là người chủ gia đình, ông muốn tạo dựng một gia đình nề nếp, ông cần có những thành viên sống có nhân cách tốt hơn là chứa trong nhà những nghệ sĩ nổi danh. Các chị đi làm có lương đều mang về nộp cho má hết, đến chừng lễ Tết hay cần mua sắm gì thì báo, má sẽ cho lại mà dùng. Sau 1975, nếp sinh hoạt gia đình của tôi phải thay đổi nhiều.
Trở lại năm 1972, từ đình Cầu Quan, nhà tôi chuyển về căn nhà ở đường Sư Vạn Hạnh, quận 10. Đổi nhà nhưng vẫn về quận Nhứt đi học. Sau 75, trường Nguyễn Thái Học bị cắt cấp Ba. Khi học lên lớp 10, tôi chuyển qua trường Cô Giang, nằm ở bên kia đường. Ba má cho phép tôi đi học bằng xe lam. Điều đó gây cho tôi một khoái cảm rất lớn vì không còn bị lệ thuộc bởi bà chị của mình nữa. Thử coi, được đi một mình, còn có nghĩa mình chủ động quyết định cuộc đời của mình, đứng ở lề đường, ngoắt cho chiếc xe lam tấp vô, khi cần xuống thì la lên: “Cho xuống đi bác tài ơi!”. Người ta ngừng cho mình xuống. Cảm nhận tiếng nói của mình có uy lực. Nội cái chuyện cầm tiền đưa cho lơ xe cũng gây cảm giác mình không còn là trẻ con nữa. Xong chặng xe lam, chuyển sang đi xe bus, tôi thường chọn chỗ ngồi cạnh cửa sổ đúng như ý mình muốn. Chưa hết, mình còn có thể đứng lên, nhường ghế cho những người lớn tuổi hay phụ nữ mang thai, tuy đứng vói tay lắc lư theo nhịp xe chạy, mỏi thấy bà cố luôn nhưng thấy mình đã được
bình đẳng với những chàng thanh niên cao to khác.
Còn chuyện được các chị tập cho đi xe đạp nữa. Xóm nhà ở đường Sư Vạn Hạnh chật nứt, đường hẻm hẹp té, luồn qua một khu chợ đổ ra ngã Bảy, nhưng tôi nhận lịnh cấm không được ra lộ (đường) lớn. Nhưng đã tin là mình có thể quyết định vận mệnh đời mình, khi có thể được, tôi vượt lịnh cấm, đi đại ra lộ lớn, mà lại không đi đường láng, cứ thích chọn đường hư, lởm chởm ổ gà, nói thật cái cảm giác xóc ổ gà người cứ lưng tưng trên yên xe tôi lại thấy... sướng và hiểu cảm giác nầy càng thêm thú vị khi ý thức mình đang làm chuyện cấm. Làm những chuyện người lớn không cho làm mà mình có hư đâu, đúng hay sai là do mình thôi. Từ một chuyện nhỏ, cách nghĩ của tôi thay đổi luôn. Tôi chính thức xin ba đi học bằng xe đạp. Ba đồng ý cho tôi đạp xe đi học từ quận 10 xuống quận Nhứt. Mười sáu tuổi, tôi chính thức đạp xe một mình, chỉ có vậy thôi đó mà tôi cho là mình đã trưởng thành, nhứt là cái cảm giác dắt xe vào bãi cùng với các anh chị lớp 11, 12, tôi thấy sướng tê cả người.
Rồi gia nhập đội Thiếu niên Tiền Phong, ở môi trường nầy, tha hồ mà phát biểu chính kiến trước đám đông, dường như thấy cũng khí thế lắm. Vậy mà khi về nhà, ngồi quanh bàn ăn với mọi người, vẫn là một tôi câm miệng hến nghe thôi, út mà, xớ rớ nói bậy bạ là ăn chửi ngay, ngu gì nói.
Những suy nghĩ về thời cuộc mới thì nghệ sĩ tuồng cổ lão thành với cậu đội viên đội Thiếu niên Tiền Phong không có gì khác biệt là mấy. Dòng họ ba ở Vĩnh Long cũng có gốc gác với mấy người đi làm cách mạng, ba cũng từ đó mà ra nên cũng dễ thích nghi. Nhưng về quan điểm nghệ thuật thì cha con cứ đụng nhau hoài. Ba theo thế hệ trước ưa chuộng sự phóng khoáng, thằng con thì ca ngợi tính bài bản (méthode – tiếng Pháp/ method - tiếng Anh) của nhà trường có phương pháp lý luận khoa học. Cứ vậy mà “choảng” nhau, có lúc giống như hai người bạn, có lúc thằng con phải tẩu thoát lên lầu vì đứa nghĩ mình có học cãi không lại người có kinh nghiệm.
Thời ba đi diễn, dù ba cấm nhưng tôi cũng lén quơ phục trang dân
thường tham gia những vai quần chúng chạy giặc trong những cảnh loạn lạc, từ cánh gà bên nầy tôi chạy ào qua cánh gà bên kia, ba ngoài sân khấu có thấy cũng trở tay không kịp. Anh Bạch Long ở riêng, kêu ba má bằng Anh, Chị, coi như được Anh cho phép hát, không vi phạm luật gia đình. Thấy anh Long được làm quân sĩ hầu Vua, tôi nói nhỏ với anh bé Năm (tên gọi quen thuộc của anh Bạch Long) nói với cậu Tư (nghệ sĩ Khánh Hồng) cho em làm với. Ba đứng trong cánh gà, cầm cây roi mây chờ tôi vô để quất, nhưng tôi cứ đứng hoài không vô. Sân khấu tắt đèn chuyển cảnh khác, đèn sáng lên “thằng quân sĩ” vẫn còn đứng nguyên đó mà không để làm gì. Ba thì không thể chạy ra sâu khấu để đét “thằng quân sĩ”. Ba bên nầy, tôi lòn bên kia, tới lớp vai của ba phải ra sân khấu thì lúc đó “thằng quân sĩ” mới chạy vô, nhanh tay cởi đồ trốn dưới gầm sân khấu (chính cái gầm sân khấu mà những Vị kì bí trong cơn mộng du đã từng đưa tôi vào), ẩn mình trong đó tôi được an toàn. Khi vãn hát thì coi như tôi về ngủ mất tiêu rồi. Tới vãn hát ba quên mất tiêu chuyện hồi tối, tôi mừng húm vì tôi đã từng lãnh roi của ba rồi nên rất sợ bị đòn, vì ba đánh đòn là đau lắm.
Thời của ba không có đạo diễn, chỉ có thầy tuồng, thầy tuồng là người viết tuồng và dựng tuồng luôn, thậm chí hướng dẫn cả diễn xuất cho nghệ sĩ, tức là làm công việc của đạo diễn và biên kịch ngày nay. Các nghệ sĩ ngày xưa kính trọng thầy tuồng lắm. Sau 75 mới có từ đạo diễn và với nghệ sĩ Sài Gòn thì nghe lạ tai lắm. Không phải đạo diễn nào cũng giỏi và có hiểu biết sâu rộng về nghề nghiệp nói chung và sân khấu miền Nam nói riêng, ngay cả những đạo diễn được đào tạo ở nước ngoài về. Không phải tự nhiên mà ông bà mình có câu “thùng rỗng kêu to”, các nghệ sĩ miền Nam lúc đó dị ứng với các kiểu đạo diễn như vậy, và ba tôi cũng vậy. Nên tôi với ba mới hay có những xung khắc với nhau về đề tài nầy. Tôi nói ba bảo thủ, ba nói tôi non nớt mà háo thắng. Tôi nghĩ ba gàn, ba mắng tôi bướng... Thời gian thử thách với tôi cũng nhiều đủ để khi nhìn lại tôi thấy lúc đó mình không phải bướng mà là ngu thì đúng hơn. Dù gì thì về kinh nghiệm nghề nghiệp và cả vốn sống từng trải ở đời ba là một kho tàng vô giá với tôi. Tôi không so sánh ba
với những gì mình đã lãnh hội ở nhà trường, ba là một giá trị khác hẳn. Tính công dân của tôi được hình thành từ ba khi còn là một thằng nhỏ được ba chở trên xe Vespa dạo phố, ba dạy tôi luật giao thông. Ba dạy tôi khi gặp đám tang biết ngừng lại bỏ nón cúi chào. Tin không? Ba còn dám chở chị em chúng tôi đi xem sinh viên biểu tình và giải thích cho chúng tôi nghe những biến động chính trị của thời cuộc. Mỗi lần ba chở đi xem sinh viên và thầy chùa biểu tình, má nhét vào túi chị em chúng tôi mỗi đứa một cái bao nylon và miếng chanh. (Để lỡ có gặp lựu đạn cay thì nặn chanh vào mắt, trùm bao nylon vào đầu rồi... chạy). Tôi vẫn còn nhớ gặp các thầy chùa tập võ thiếu lâm ở Viện Hóa Đạo (nhà hát Hòa Bình bây giờ) tôi cứ thắc mắc: “Kì vậy ba, tại sao thầy chùa mà lại học võ đánh người?”. Ba cười ngất và giải thích: “Người hiền cũng cần phải biết tự vệ đó con”.
Những lần cha con tranh luận đối kháng nhau, có lúc tôi sợ mình bị hỗn với ba nên dần dần tôi né, riết thành thói quen không bộc lộ cảm xúc, nghĩ gì làm gì thì cứ âm thầm. Ra trường, trở thành diễn viên của Đoàn Kịch Trẻ, cũng không báo với gia đình. Tới lúc thấy tôi đi đêm đi hôm ba mới nói, ủa, nó ra trường rồi hả? Tôi chỉ dạ. Vậy đó, im lặng đôi khi lại là khả năng tự vệ của mình. Ngồi chung mâm cơm, những gì có thể cùng vui với gia đình thì tôi chia sẻ, những gì không cùng suy nghĩ với mọi người thì tôi giữ cho riêng mình. Tôi rất sợ các thành viên trong gia đình làm tổn thương nhau dù mình vẫn là cục cưng của gia đình và tôi vẫn rất yêu thương gia đình mình, nhưng giống như tên một vở kịch mà nhà văn Ngọc Linh đã từng khoe với tôi ông định dùng để đặt cho vở kịch mới của ông, tôi thấy mình: “Cô đơn trong ngôi nhà của mình”.
Theo dòng chảy của thời cuộc, gia đình tôi cũng không còn đoàn tụ, nhiều thành viên đã định cư xứ người ngay vào thời điểm tôi bắt đầu sự nghiệp. Ba má tuổi già sức yếu, các chị thì ở phương xa, nên trên lộ hành mà tôi đi xem ra có vẻ rộng thênh thang vì tôi chỉ đi có một mình. Cái bóng tối dưới gầm sân khấu giả nó đã ứng vào đời mình. Ba má biết mình có danh có giải là qua báo chí, các chị ở xa sẽ không biết điều đó nếu thằng em không
kể (thời đó làm gì có internet để biết) mà thằng em thì rất lười kể (lười quen rồi) nên chỉ biết từ bạn bè của các chị đưa tin. Các chị có trách thằng em cũng chỉ biết cười, vinh quang còn không cho biết thì việc gì phải chia sẻ tai ương cho nặng lòng nhau. Các chị ở xa còn phải đương đầu với biết bao nghịch biến nơi xứ người, ba má cả đời cực khổ vì con thì tai ương của thằng con út có là bao mà kể. Làm việc rồi đụng chạm với lãnh đạo quản lý xin nghỉ việc, bị chính ngay cái nơi mình lãnh lương đì triệt mình, trôi dạt về ngoại ô đi tấu hài với danh hài Duy Phương... Tôi im như thóc gia đình không biết gì cả.
Má tôi tuổi Canh Ngọ, người ta nói canh là canh cô mồ quả, vậy mà sao tôi lại thấy mình y chang má. Nhưng nếu những đứa con cô đơn một, tôi tin ba tôi là từng ấy nỗi cô đơn cộng lại. Lần đầu tôi thấy ba tôi khóc là vào năm 1970, ông đã òa khóc như con nít, như mất mát một thứ gì quý giá nhất trong đời mình. Đó là ngày người anh của tôi, con của Má Lớn dưới Vĩnh Long, Trưởng nam của ba - một Hạ Sĩ Quan của Việt Nam Cộng Hòa - vừa chết trận. Một người đàn ông như ba khi không còn kìm chế được, để nỗi đau của mình vỡ ra thì nó kinh khủng hơn những tiếng khóc vật vã của phụ nữ nhiều lắm. Có lẽ lúc đó tôi còn quá nhỏ để buồn khóc như ba nhưng nét mặt và tiếng khóc của ba tác động vào tôi rất mạnh, tôi biết chắc rằng nó đã ảnh hưởng rất lớn vào biểu lộ diễn xuất của tôi sau nầy: Đàn ông khóc có khả năng đâm trúng tim khán giả hơn phụ nữ!
Lần thứ hai ba khóc là lúc giữa khuya mọi người trong nhà ngủ yên nên ba không thể khóc lớn, chỉ là tiếng rên khe khẽ, rất khẽ. Tôi ngồi ở một góc tối nhìn ba khóc, tôi muốn đến khóc với ba nhưng không thể vì tôi đã mất thói quen chia sẻ với ba từ lâu rồi. Đó là ngày cùng một lúc bốn thành viên trong gia đình rời khỏi quê hương trong nỗi bức bách, không thể làm nghề. Sau nầy trong diễn xuất của tôi cũng lại ảnh hưởng từ những tiếng rên khe khẽ ấy. Hình tượng nhân vật ông Tư trong kịch Dạ Cổ Hoài Lang chính là ba tôi chứ chẳng ai khác.
Má cũng vậy, cũng khóc một mình vào lúc nửa đêm nhưng má thì cứng rắn hơn ba, không có tiếng rên nào cả. Trộm nghĩ cái câu “Giàu út ăn lỗ út chịu” xem ra lại đúng với tôi trong trường hợp nầy vì chỉ có thằng út mới được “may mắn” thấy ba má khóc.
Nhà tôi xưa nay là vậy ngọt bùi thì chia nhau hưởng, đắng cay thì mạnh ai nấy nuốt. Ngay tôi đây, cả ngọt bùi mà tôi còn không dám khoe trực tiếp vì ba tôi xưa nay ít khi nào khen mấy đứa con. Chị Lê tôi lúc đó rất nổi tiếng (từng được xem là Hồ Quảng Chi Bảo) mà còn chưa thấy ba khen hay chỉ toàn lôi cái dở ra mà chê, thì cỡ như tôi thỉnh thoảng được vài bài báo khen, có nhắc đến ba, đâu dám khoe, chỉ lén để lên bàn của ba. Thấy tôi nháng về, ba ghẹo, “làm gì mà dạo nầy tai tiếng dữ vậy ta”. Tuổi lớn, sức yếu, ba tôi không có sức xem tôi ngoài sân khấu, chỉ xem tôi diễn trên ti vi, trong lòng ông cũng vui khi thấy con thành công, nhưng ít khi nào khen, sợ con bị lừng. Tôi không phải là trường hợp đầu tiên. Ba dạy chị em chúng tôi đúng như ông bà xưa thôi: thắng không kiêu bại không nản, và thêm câu của ông: hoạn nạn không than . Nó thành cái nếp nhà của chúng tôi luôn từ đó.
Không phải là ba không biết đùa, chính ra anh chị em tôi có máu hài hước là từ ba: có lần đi diễn về khuya, đi ngang ghế bố của ba, nghe trong bóng tối vẳng lên tiếng phán: “Con nhà ai mà bày đặt đi theo phường Xướng Ca Vô Loại, không biết giờ giấc là gì!”. Thằng Con bèn chỉ ngay vào Ông Cha: “Thì là con của Xướng Ca Vô Loại Nhân Dân chứ ai.” Nói xong tôi chạy ngay lên lầu vì sợ bị chửi, ai dè nghe sau lưng là tiếng cười sằng sặc của ông: “Mẹ mày!”. Từ khi các chị định cư ở xa, cha con tôi gần nhau hơn, hiểu nhau nhiều hơn. Tất cả mấy thằng con trai trong nhà đều kị tuổi với ba nên chẳng đứa nào dám gần, thực tế ba cũng thương mấy chị gái hơn. Từ khi mấy chị ra đi, ba dồn tình cảm vào hai thằng con trai còn lại, tôi có nên cảm ơn các chị không nhỉ?
Ba tôi rất ghét nghệ sĩ thường hay nói câu “nghề nầy bạc bẽo”. Ba nói không có nghề nào bạc hết chỉ có con người sống với nhau mà thôi. Làm
nghề hát mà cứ lên án nghề thì nghề có phụ cũng đáng. Tôi chịu ảnh hưởng quan điểm nầy của ba nhiều chỉ có điều với chuyện đời xem ra cụ còn hồn nhiên, ngây thơ hơn tôi. Ngày đám tang bác Ba Vân (Nghệ sĩ Nhân dân – một nghệ sĩ đã từng được đặt danh hiệu là quái kiệt), linh cữu của ông được quàn tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật 81 Trần Quốc Thảo, người ta muốn quàn ông ở đó cho “xứng tầm”. Nói nôm na là nhà nước lo hết, song vẫn chấp điếu để dùng tiền điếu đó trang trải lễ tang, tôi để ý thấy người ta tính từng đĩa cơm, tách trà đãi khách. Đã chấp điếu để trang trải mọi thứ thì đâu thể gọi là nhà nước lo!
Khi ba yếu, tôi có nói với ba là không thích đưa ba lên Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật đâu ba, ngại giống như bác ba Vân, ba đồng ý vì ba cũng ưng đưa ba về Trụ sở Hội Nghệ sĩ Sân khấu ở Cô Bắc hơn (vốn là trụ sở của Hội Nghệ sĩ Sài Gòn cũ). Tuy vậy mà ba vẫn cứ “lạc quan”: “Con yên tâm đi, ba là Nghệ sĩ Nhân dân, thế nào cũng được nhà nước cho được hòm, nhớ không chấp điếu nha con.” Ba tôi không muốn mắc nợ ai nữa, nợ nhân gian thế cũng đã đủ rồi. Ba còn dặn đám tang ba không được ồn ào trống kèn, người đến đưa tang không được khóc, xe tang không đi chậm làm nghẽn giao thông, lúc còn sống ông vốn không thích những thứ ấy nên không muốn đám tang của mình lại rơi vào trường hợp như vậy. Ba mất, chúng tôi làm đúng y như lời ông dặn, trang trải mọi thứ, riêng cái hòm thì... ba tôi sai.
Cái hòm không đáng là bao, tự tôi lo được cho ba nhưng vẫn thấy ngán ngẩm trước những điều không trung thực. Tôi quyết định không cho đọc điếu văn như những đám tang mà tôi đã từng chứng kiến với những từ ngữ sáo rỗng, hình thức vô nghĩa. Một lãnh đạo sân khấu đã yêu cầu tôi: Riêng chuyện đọc điếu văn tôi nên nhượng bộ, đó là trách nhiệm và công việc của họ, tôi cần phải hiểu rằng họ làm điều đó không phải cho người nằm trong quan tài mà là cho chính họ.
Chưa hết, khi chị Lựu của tôi xuất ngoại theo diện đoàn tụ gia đình, vì
chị là chủ hộ nên theo “luật lệ” lúc bấy giờ, chị buộc phải kí giấy hiến lại căn nhà đang ở cho Sở Nhà Đất thì mới được đưa vé máy bay (vào thời đó, mọi vé máy bay xuất cảnh đều do Sở Nhà Đất quản lý). Vậy là coi như gia đình tôi mất nhà!
Khi ba được phong Nghệ sĩ Nhân dân, theo tiêu chuẩn lúc có thể xin nhà nước cấp nhà, ba tôi đã không làm vậy, ông chỉ xin được nhận lại chủ quyền căn nhà mà chị Lựu đã giao, căn nhà mà đại gia đình chúng tôi đã ở bao nhiêu năm nay. Chính tôi là người viết đơn đó cho ba. Chúng tôi đã được hứa là gia đình có thể ở ngôi nhà đó đến hết đời, chỉ không được bán thôi. Ngờ đâu ba vừa mất, chúng tôi bị truy thu tiền mướn nhà suốt bảy năm qua. Tôi ức quá xin làm thủ tục mua hóa giá luôn, còn nhớ tôi phải vay tiền của Huỳnh Anh Tuấn (Giám đốc công ty Thái Dương kịch Idecaf hiện giờ) rồi diễn hằng đêm trả lại. Tôi thật sự ngán ngẩm, “có tiếng mà không có miếng”, mọi thứ chỉ là hư danh.
Nhắc về ba tôi mới nhớ đến một người bạn lớn, ông đề nghị tôi chỉ gọi ông là anh. Khi ông mất, anh em sân khấu ở Hà Nội vào kể, ông dặn chỉ ghi cạnh tên mình hai chữ “Đạo diễn” là đủ rồi, không cần mọi thứ danh hiệu làm gì, ông sống để làm nghề, và khi chết chỉ cần được ghi lại vậy thôi. Đó là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, một người được coi là cây đại thụ của sân khấu Việt Nam. Mặc dù vậy, khi nhắc đến tên ông tất cả mọi người đều muốn gọi ông là Nghệ sĩ Nhân dân vì ông xứng đáng được như thế.
Ngay cả cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú của tôi cũng trượt lên trượt xuống hai lần, sau lần thứ nhất, tôi được mời vào phòng riêng và người ta mời tôi vào Đảng với lời hứa hẹn tôi sẽ được danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú ngay sau đó. Tôi cảm giác giống như một cuộc thương lượng mang tính thỏa hiệp dù là ưu ái nhưng tôi vẫn cảm thấy mình bị tổn thương. Tôi đã nói không và còn hứa hẹn: “Các anh yên tâm, em không là Đảng viên, không là ưu tú, nhưng em vẫn cứ là một nghệ sĩ lương thiện và xuất sắc ở bất kì nơi đâu trên cái dải đất cong cong hình chữ S nầy, em hứa đấy!” Tôi hãnh diện vì tôi đã làm đúng
điều mình đã hứa, mặc dù năm đó tôi sém bị trượt danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú một lần nữa, nếu không nhờ sự tác động của công luận.
Một Nghệ sĩ Nhân dân hay một Nghệ sĩ Ưu tú cũng không thể tự mình vẽ lên chân dung mình khi không có sự hỗ trợ tích cực từ những đồng nghiệp. Trong cuộc đời con người ta luôn mang ơn nhau dù muốn hay không muốn, đó là mối tương quan giữa cho và nhận một cách hạ ý thức. Nó còn là một nghệ thuật sống khi người nghệ sĩ biết cách khám phá từ những điều giản dị nhất để thăng hoa, đó chính là tư chất tạo nên sự nổi bật.
Hai nữ ca sĩ Ngọc Bích và Cẩm Vân là hai đàn chị mà tôi vô cùng ngưỡng mộ và kính trọng. Mỗi khi hai chị hát, tôi có cảm giác hai chị hát để mà chết ngay sau đó, rút ruột rút gan ra mà hát, hát khàn hết cả giọng mà tôi xót lắm, chỉ sợ sau đó hai chị sẽ hư giọng luôn! Thời điểm hai chị còn là hai Nữ hoàng ca nhạc ở phong độ đỉnh nhất thì đời sống kinh tế của người dân mình vẫn còn khó khăn lắm, mua một cái vé xem ca nhạc phải xếp hàng vậy mà sân khấu ca nhạc nào có hai chị là đông nghịt khán giả, nên tôi thật bất ngờ khi cả hai chị đều chia sẻ với tôi thật giống nhau: người ta bỏ tiền mua vé không phải đến sân khấu để xem mình làm những điều hời hợt, có hát rồi chết cũng được miễn khán giả hài lòng là mãn nguyện. Lòng tự trọng nghề nghiệp của chị Vân và chị Bích thật sự đã ảnh hưởng rất lớn đến con đường sự nghiệp của tôi cho đến tận bây giờ.
Đúng, khán giả là người nghèo còn nhiều, kiếm ra đồng tiền mua vé cực lắm, không thể khinh suất được. Tôi đã chứng kiến một cặp tình nhân chỉ đủ tiền mua một vé, và chàng đành phải nhường cho nàng, chỉ chờ tan vở đến đón về thôi. Có một cái Tết phải diễn vở Dạ Cổ Hoài Lang ba xuất một ngày tại sân khấu 5B Võ Văn Tần, tôi tắt tiếng, phải nhờ Nguyễn Sơn (một đồng nghiệp) đưa tôi đến bác sĩ, lúc đó là mùng năm Tết chưa ai khai trương nhưng vẫn liều mình đập cửa rồi năn nỉ nhờ cô “cứu độ”, để rồi chạy về diễn tiếp 30 xuất còn lại. Đạo diễn Công Ninh nói với tôi: Diễn dưỡng sức thôi Lộc ơi, mày diễn quá tao sợ mày chết. Biết là vậy nhưng lúc đó tôi cứ nhớ
đến chị Vân và chị Bích nên lại không thể, tôi bị hai chị “lây” mất rồi, làm sao mà diễn “dưỡng sức” cho được vì như vậy tôi không phải là tôi. Tôi cũng biết yêu tôi lắm chứ nhưng tôi yêu tôi theo cái kiểu tự giết mình như vậy đó mới đã cái nư của mình. Nhiều nghệ sĩ khác bảo rằng diễn mà không biết dưỡng sức là một cách diễn không thông minh, thôi thì nói luôn là diễn ngu đi và tôi nhận là tôi có ngu nhưng một cái ngu thật là sung sướng, chịu thôi!
Nói vậy chớ cũng biết mệt lắm chứ! Và như để tiếp sức, lấy niềm tin, tôi còn nghĩ mình đang diễn cho tổ nghề xem, như ngày nào mình đã được thánh thần ban lộc cho mình coi họ diễn. Tôi biết có chuyện nầy: Có lần thấy một diễn viên mệt mỏi lười biếng, má Bảy Nam, một Nghệ sĩ Nhân dân bạn của Nghệ sĩ Nhân dân Ba, đã trách khéo, một ngày diễn cho tổ coi có hai tiếng mà sao thấy con mệt mỏi quá vậy.
Cái nghề nầy, cứ nghĩ tới, đã có lúc khiến bao nhiêu con tim cười khóc theo mình, chính tôi cũng thấy rùng mình. Những việc mình làm, không còn đơn thuần là giải trí nữa, khi có đêm, mình bắt gặp ánh nhìn của một khán giả nào đó như thể bắt được tần số với mình. Chỉ cần như thế là đủ cho tôi cháy hết mình trong đêm diễn đó. Mà có đêm nào tìm không thấy, thì cứ cố mà tưởng tượng ra, vẫn có một tri âm, tri kỷ hay người mình yêu đang ngồi dưới khán phòng, ta sẽ diễn hết sức như một món quà hiếm dành tặng cho người yêu dấu. Bạn tin không? Trong sự tưởng tượng của tôi, cái vị khán giả ảo nào đó chưa bao giờ là người trong gia đình mình. Nghĩ cũng lạ!
Nhà tôi ngộ, hầu như các thành viên không bao giờ khoe và khen ngợi nhau trên báo chí, nó như thành cái nếp nên có thể nói mỗi thành viên trong gia đình dù có thành công riêng thì bên cạnh đó sẽ là một nỗi cô đơn riêng. Dù vậy, được diễn chung với nhau trong một tác phẩm chắc chắn nó phải là một hạnh phúc lớn, đó là sự đoàn tụ. Chương trình Gìn Vàng Giữ Ngọc do đạo diễn Vũ Minh thực hiện với hai vở cải lương tuồng cổ Câu Thơ Yên Ngựa và Đào Tam Xuân Báo Phu Cừu chính là chiếc cầu nối cho sự đoàn tụ
đó. Tôi ngây ngất hạnh phúc được diễn cùng với chị Bạch Lê (cũng là thần tượng của mình), với anh Bạch Long và hai ông anh rể Thanh Bạch và Điền Thanh cùng với các anh chị em trong dòng họ, và đây cũng là dịp tôi phô diễn hát cải lương tuồng cổ của mình. Vai Lý Đạo Thành là một vai diễn lớn mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ chạm vào, vậy mà nó lại thành sự thật, đó là một món quà lớn và phải nói là hạnh duyên của tôi.
Thế kỷ trước, hãng phim Phương Nam có làm phim tài liệu về ba tôi, kịch bản từ 30 phút, dựng sắc lại còn 17 phút. Trong đó đạo diễn chỉ đủ thời lượng để ghi hình của ba trong số sáu người con của ba má tôi. Đó là tôi, chị Bạch Lê và anh Bạch Long. Còn nhớ khi khởi quay, má tôi cương quyết không chịu cho hình của má vô phim, nhưng đoàn làm phim cũng canh má tôi đi chợ để quay lén. Khi dựng vào phim, sau cảnh ba tôi đứng cạnh má Bảy Nam, hai người giúp nhau cài vào ngực mình huy hiệu Nghệ sĩ Nhân dân là cảnh má tôi ghé hàng rau, hàng cá, lời bình là: “Sẽ không có người Nghệ sĩ Nhân dân kia nếu không có người phụ nữ nầy, cô đào hát bội Huỳnh Mai ngày nào đã lui vào bóng tối làm một người vợ, người mẹ bình thường, cam phận chỉ chăm sóc chồng con”.
Có một tờ báo rủ tôi và anh Bạch Long chụp hình và phối hợp trả lời phỏng vấn. Có lẽ đây là bài báo đầu tiên anh em tôi xuất hiện cùng một lúc và hình như nhờ vậy người ta mới biết chúng tôi là anh em. Anh Long là người khiêm tốn, anh có một câu trả lời trong một bài khác rất duyên, đó là: Kiếp Nầy Tôi Chỉ Có Vậy. Về cái khoản khiêm tốn thì tôi còn dở hơn anh, ngay cái chuyện nói huyên thuyên trong cái cuốn sách nầy đã nói lên điều đó rồi!
Tôi chỉ nhớ, lúc bắt đầu nổi tiếng cũng có đi sưu tầm lục lọi những bài báo về mình, cắt cắt, dán dán thành một cuốn sách to đùng đi bọc da đàng hoàng. Biết để chi không: để khoe. Sau ngày ba tôi mất, tôi đốt hết và rồi từ đó chẳng cắt dán thêm một bài nào nữa.
Ba năm nay, máy lạnh trong phòng tôi hư, tôi không sửa, cứ vậy mà
thưởng thức cái nóng Sài Gòn như để tưởng nhớ thời bao cấp, ở tầng áp mái, mình gần như rất “nghèo” vải trên người, nơi mà không dám tiếp ai vì vậy. Ba năm nay, hai người còn lại đang sống trong nhà là má và chị Bạch Lý cũng không hề biết điều nầy.
Tổ Ấm quá HOT của tôi nay vắng ba, Liên, Lê, Lựu. Nhưng cái hiện tại có mấy đại dương xa vẫn không tạo tôi có cảm giác chúng tôi ngăn cách như ngày xưa còn ở chung nhà với những nỗi đau không thể chia sẻ. Và sau mỗi xuất diễn, trở về với Nơi Gối Đầu của mình, dường như đêm từng đêm, tôi lại thấy mình gần với ba hơn. Chỉ tiếc là vĩnh viễn không có một Thành Tâm Con để có những khoảnh khắc hiếm hoi đồng cảm với một Thành Lộc Cha, đã đang đứng trên đỉnh của con dốc cuộc đời, đã thấy mọi lợi danh đã như bụi bay trong gió, nhưng ngó bộ vẫn còn sân si, chưa tìm ra lối xuống.
4
Nghiệp
Mỗi vai diễn như một ly rượu mà Thành Lộc dâng tặng đời, tặng mình - trong sự thăng hoa và hạnh phúc vì được sáng tạo, được sống với nghề, như lời thơ của Nguyễn Duy:
“Cứ là rượu của chúng sinh
Cho ai nhấm nháp cho mình say sưa
Cứ như hoa cỏ bốn mùa
Giọt sương, giọt nắng, giọt mưa vơi đầy”.
Cứ là rượu của chúng sinh...
- Vinh Nguyễn (báo Thanh Niên)
Tính đến năm 2014 nầy, tôi đã có 53 tuổi đời, 45 tuổi nghề. Đã gọi là “giang hồ gió tanh mưa máu”, vị ngọt được tặng nhiều, đắng cay của sự phản bội, lật trở đương nhiên phải có. Nhưng nói ra bạn có tin không, rằng với những gì đã qua, đặc biệt với những người đã từng gieo oán cho tôi, gần như trong tôi không còn chút nào dằn vặt đau khổ hay hận thù.
Để viết về cái nghề như cái nghiệp nầy, và những người cùng nghiệp với mình, tại sao không nhắc đến những ấn tượng đẹp trước.
Như đã kể, khi dòng kịch Bắc xuôi Nam, nói theo giọng Hà Nội là tôi đã “phải lòng” cái dòng kịch ấy. Thằng nhóc mê kịch là tôi bấy giờ đạo đức khán giả cũng khá cao, đoàn diễn mấy đêm kiếm đủ tiền mấy đêm, đi coi đến độ thuộc hết lời thoại. Không chỉ đi xem diễn, còn lởn vởn nơi các thần tượng của mình ở, ngóng khi chiếc xe Hải Âu ra vào mang theo các anh chị
cô chú đó từ khách sạn đến và về nơi diễn. Chưa tốt nghiệp phổ thông, đã ngồi soạn một lá thư dài gởi cho anh Hà Văn Trọng là thành viên Hội Đồng Nghệ Thuật đoàn kịch nói Trung Ương, trong đó cho biết mình sẽ theo con đường các anh các chị, sẽ thi vào trường Sân Khấu và còn hứa sẽ trở thành nghệ sĩ kịch nói nổi tiếng nữa.
Từ nhỏ tôi đã luyện tánh “nghĩ được là làm được” mà. Nói nào ngay, khi tôi 16, xem nghệ sĩ Thế Anh đẹp trai đóng “Đôi Mắt” lúc đó đã 41 tuổi mà như người ta hay nói 41 là độ tuổi đỉnh cao của nghề nghiệp nên khi mình bước vào tuổi tứ thập, tôi cũng hơi run, tự ngó coi đã giữ lời hứa được chưa, vì giờ sắp hết rồi. Cũng may là ở điểm chuyển giao thế kỷ đó, kiểm lại những gì đã làm thấy mình không đến nỗi là người thất hứa.
Một thời ngó Minh Trang như nữ thần, chỉ dám thấy cái lưng, nhìn lén được nàng ngồi ăn sáng cũng đủ thấy vui cả ngày rồi, đâu nghĩ ra có lúc được đóng chung khi Trang về 5B. Năm 1994, được đóng phim Thời Thơ Ấu với nghệ sĩ Đoàn Dũng, không tưởng nổi gần hai mươi năm trước mình quá ngưỡng mộ anh trong những vai Người Cha Thô Bạo, Kẻ Đốt Đền (Herostratus), giờ may mắn được đóng chung, mà anh còn đóng vai phụ cho mình.
Không tả được niềm vui khi nhận lời mời của đạo diễn Lê Hữu Lương tham gia đóng phim Có Một Tình Yêu Như Thế , lý do là phim đó có Trần Vân và Lê Khanh. Anh Trần Vân sau đó mất sớm, còn Lê Khanh trở thành người bạn nghề tri kỷ ở Hà Nội mãi đến giờ.
Nghề nầy vừa là nghiệp, mà cũng vừa là đạo. Mà để luyện được đắc đạo, phải qua nhiều nỗi đoạn trường. Số tử vi của tôi, thầy phán một câu khá rùng rợn: Tôi sẽ Thành Công trong sự nghiệp, nhưng chắc chắn phải có Kẻ Thù.
Vào nghề nầy, phải làm quen với một thứ cảm xúc đặc biệt mang một cái tên khá gợi là Đố Kỵ. Khi bước vào trường đi học, thứ mà tôi ghét nhứt, bị dị ứng từ nhỏ, nhưng không thể nào tránh được, đó là những kỳ thi học kỳ. Nó kéo một chùm theo nhau nào sự sát phạt, cạnh tranh, bì tỵ. Đã học bao giờ
cũng cố hết sức mình, nhưng khi bạn được hạng nhứt hay lãnh phần thưởng danh dự thì bao giờ cũng có kẻ ghét. Tôi đã chịu đựng khá nhiều cái kiểu ganh nhau từng nửa điểm trong suốt thời gian học phổ thông rồi. Nó làm mất đi cái tinh thần học cực mà vẫn phải vui chơi thoải mái như trong giáo dục rất cần. Đậu được vào một ngôi trường nghệ thuật, tôi tưởng đâu sẽ thoát được tệ nạn nầy, dè đâu khi sớm ý thức về hai chữ Lợi và Danh, sự Đố Kỵ nơi đây còn ghê gớm hơn nhiều.
Tôi lọt vào một khóa có quá nhiều thầy, giống như cái lớp của tôi được dùng để thí nghiệm nhiều phương pháp dạy kịch vậy. Học môn khai thác tâm lý, tôi phát hiện đối tượng đầu tiên mà mình phân tích lại chính là các thầy bà của mình, sự ngưỡng mộ cũng là đây, nỗi thất vọng cũng là đây. Không đâu dễ khiến mình thấy rõ tham vọng và sự đố kỵ giữa người và người với nhau bằng môi trường nghệ thuật mà môi trường sư phạm nghệ thuật lại càng rõ hơn. Vậy mới té ngửa!
Ở đây, tôi gặp nhiều người chỉ biết tìm những khuyết điểm của người khác mà chê. Lại nhận ra ba tôi là người thầy vĩ đại nhất khi ông luôn nhắc các con mình đừng cạnh tranh nhau trong hậu trường mà phải bằng tài năng thể hiện ngoài sân khấu cho khán giả làm trọng tài phân xử. Trong môi trường giáo dục, nếp nghĩ “trò phản thầy” đã như một mặc định, thế nhưng trong môi trường nghệ thuật đôi khi có những trường hợp ngược lại, chính khoảng thời gian ngồi dưới ghế nhà trường nghệ thuật đủ để tôi chiêm nghiệm ra điều nầy. Chiêm nghiệm để trưởng thành khi ra đời, để biết bao dung và để giống như một thái độ sống trong một vở kịch Nga mà tôi đã từng diễn qua: Không Ngạc Nhiên, Không Sợ Hãi.
Rồi khi ra trường, hành cái nghề được dạy vinh quang cũng nhiều mà trăm đắng ngàn cay cũng không ít.
Khi cái tên của mình trở thành lực hấp dẫn cho doanh thu của đơn vị thì cũng có nghĩa là thành cái gai trong mắt nhiều người. Dĩ nhiên rồi, khi cái tên nó đã lớn thì lời nói của cái tên cũng có trọng lượng thậm chí có uy lực
và người ta đã cho là tôi như con ngựa chứng cần khớp mỏ thắng yên cương, là con chim điên cần tỉa đi bớt cánh. Thường là họ muốn kiểm soát tôi, gây khó rồi làm như cứu tôi để gia ân.
Thử coi, một cán bộ Đoàn tiên tiến ba năm liền của Đoàn Kịch Trẻ, là tâm điểm chú ý của Thành Đoàn, hưởng ứng lời hiệu triệu phát động phong trào đấu tranh chống tiêu cực. Khi phát hiện ra những dấu hiệu sai phạm, phi dân chủ của thủ trưởng đơn vị mình, chúng tôi lên tiếng đấu tranh thì lại bị lãnh đạo cấp cao hơn bảo vệ cho những điều sai trái đó. Đang ở thế của những người đấu tranh thoắt một cái bỗng nhiên trở thành những kẻ gây rối.
Chuyện từ những năm 80 của thế kỉ trước, Thành Đoàn mời 22 đoàn viên của Đoàn Kịch Trẻ đến họp để tư vấn phương thức đấu tranh và hun đúc tinh thần của chúng tôi. Sau nầy tôi mới biết chỉ 20 người ra về, còn 2 người ở lại để nói khác. Với những buổi họp có Bí Thư Đảng Ủy và Đảng Ủy Sở cũng gặp trường hợp y như vậy. Cộng thêm người tiếp chúng tôi lại là bà con họ hàng với người chúng tôi muốn đấu tranh. Tình tiết phức tạp và hấp dẫn y như phim bộ Đài Loan. Cuộc đấu tranh thất bại. Phải nói là thua trắng!
Sự thất bại của cuộc đấu tranh dẫn theo sự tan rã cả một chi đoàn thanh niên. Có 20 người tính đường xuống biển, nhưng không phải theo Mẹ Âu Cơ mà là muốn đi luôn qua bờ bên kia, trong đó suýt có cả anh cán bộ Đoàn ba năm liền tiên tiến. Có người tới nơi, có người phải quay lại, có người bỏ mạng giữa đường. Biết cái gì kìm giữ chân tôi ở lại không? Chính vì cái tiếng rên khe khẽ trong khuya vắng của ba tôi, nhà mới có bốn người đi, tôi mà đi nữa, có chuyện gì bảo đảm rằng kẻ giết cha gián tiếp lại không là thằng Út Tâm nầy.
Nghĩ cũng buồn cười, tôi bấy giờ cũng đang được đưa vào lớp học bồi dưỡng để thành đảng viên đó chứ. Còn nhớ thời điểm đó (thập niên 80) người ta lén lút nghe nhạc vàng dữ lắm, đã nói rồi mà cái gì càng cấm người ta càng làm. Có một đồng nghiệp khá thân cho tôi nghe một cuốn băng của ca sĩ Khánh Hà, chỉ là những bản nhạc tình khúc thời tiền chiến thôi nhưng
tôi đã chết mê chết mệt tiếng hát Khánh Hà từ đấy. Thế rồi, trong buổi họp góp ý của quần chúng để chuẩn bị kết nạp Đảng cho tôi thì chính người đồng nghiệp ấy đã đem chuyện tôi nghe nhạc Khánh Hà ra phê bình, tôi còn nhớ hoài câu người đó nói như thế nầy: “Là một đảng viên dự bị, sao lại đi nghe nhạc của địch!”. Vậy là tôi văng! Mãi sau nầy, khi tôi làm phát thanh viên cho một kênh truyền hình, lần đầu tiên ca sĩ Khánh Hà về nước làm live show ở Việt Nam, chính tôi là người phỏng vấn chị, sau đó tôi đã ôm chị và cho chị biết chị chẳng những là thần tượng mà còn là “ân nhân” của tôi.
Vậy là cùng với những người khác rời khỏi Đoàn Kịch mà mình góp phần lớn vào đó: công sức tài năng và trên hết còn là niềm tin, là lý tưởng để xây dựng nền móng, tôi coi như bị thất nghiệp. Tuy vậy, Phòng tổ chức Sở vẫn còn giữ biên chế tôi lại để tôi có thể về công tác ở bất kì đoàn nghệ thuật nhà nước nào tôi muốn. Tôi từ chối. Làm sao tôi có thể đứng dưới trướng một người mà tôi không hề nể phục. Rời khỏi biên chế nhà nước vào thời điểm đó, trong mắt của nhiều người tôi là một kẻ ngông cuồng, dại dột. Biết sao được tôi chỉ làm theo trái tim và lý trí của mình.
Nhưng cũng phải mưu sinh, phải có thu nhập để mà tồn tại. Tôi nhận lời gia nhập nhóm đi tấu hài với anh Duy Phương. Một tháng trời đi diễn với anh, thấy cũng lạ là anh chỉ sắp tôi diễn ở ngoại thành và các tỉnh, tôi có hỏi anh tại sao anh không cho tôi diễn trong các tụ điểm ở thành phố, anh mới nói có lệnh của Phòng tổ chức biểu diễn là không cho phép tôi diễn ở nội thành, đó là một cái lệnh “miệng”, không thành văn bản, mà tội danh gán vào tôi nghe cũng hầm hố lắm. Tôi được cho là kẻ “cầm đầu quân phiến loạn chống lại lãnh đạo”. Tôi thật buồn và thấy bế tắc cũng xin chia tay anh Duy Phương luôn.
Tưởng đã chia tay với nghiệp diễn luôn rồi. Nhưng không, “Dư Luận Quần Chúng” đã kéo tôi trở lại. Dư Luận Quần Chúng là tên một vở kịch của Rumani thuộc nhóm Câu lạc bộ Đạo diễn Trẻ diễn ở 5B đã nhóm lại lòng yêu nghề trong tôi. Nhân gặp Việt Anh, vốn cũng quý tôi, kéo tôi về
(thật ra là tôi xin về) thay vai của Hải Đệ trong vở đó. Rồi cô Bích Châu (nghệ sĩ nhà hát Kịch Trung ương) mất, Minh Trang thay vai cô, còn tôi thay vai thằng bé của Trang đóng trong vở Điều Thiêng Liêng Nhất . Sân Khấu 5B tuy ở ngay trung tâm, nhưng lúc đó nó còn là Sân Khấu Thể Nghiệm (thuộc Hội Sân Khấu), quan hệ hàng ngang với Sở nên Sở đành phải “ý kiến” với Hội rằng, tôi chỉ được diễn trong chu vi của 5B thôi chớ không được diễn tự do bên ngoài. Riêng vở Chuyện Bây Giờ Mới Kể, là vở đi dự Liên hoan Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc nên chính giám đốc Sở Văn hóa can thiệp. Sau khi tranh luận, chính vị nầy ký giấy phép cho vở ra nhưng phải cắt vai của Thành Lộc ra. Phải nói ông Tổng Thư kí Hội Sân khấu thành phố đã bảo vệ quyền lợi của tôi tối đa vì tôi cũng là Hội viên của Hội, nhờ vậy mà tôi không bị cắt vai.
Đợt liên hoan đó rồi tôi cũng được Huy Chương Vàng với nhiều người. Không hiểu sao cái chuyện tôi chơi ngông cầm cái Huy Chương Vàng chọi đáo cũng có người méc lên trên, nên lúc nào tôi cũng được “cưng”. Giai đoạn sau đó còn khá nhiều nỗi vui buồn. Nhưng vẫn thấy nhớ ơn những người tạo điều kiện cho tôi được về hành nghề ở 5B. Ngoài việc làm mất hiệu lực cái lệnh miệng kia, tôi còn có cơ hội diễn chung với Minh Trang, người mà mấy năm trước tôi chỉ dám đứng bên kia đường ngó vào khách sạn Bến Nghé, rồi dùng xe đạp rượt theo xe Hải Âu chỉ để ngó từ xa cảnh nàng ăn sáng. Còn bây giờ dưới mái nhà 5B tôi được làm con của nàng (Lôi Vũ) rồi cả người yêu của nàng nữa (Một Cuộc Đời Bị Đánh Cắp) .
Nơi nào cũng vậy, ơn thì nhớ nhưng ở với nhau hết duyên thì phải đi. Sau khi ra trường, coi như tôi đứng được ba sân khấu. Đoàn Kịch Trẻ, Sân Khấu Thể Nghiệm 5B và sân khấu Idecaf. Cái cuối và cũng là cái đang làm, coi như tôi làm phó tướng ở đây, nhưng không phải là tránh được cái nạn kiếp mang tên Đố Kỵ mà tôi đã nói từ đầu. Cũng có lúc thất vọng ghê lắm, nghĩ hoài không ra, sao đã gọi là bạn bè anh em mà nỡ nào hại nhau. Nhưng được cái tôi chưa bao giờ tuyệt vọng. Và sau những trò đố kỵ kia, tôi cũng khôn thêm được ít nhiều. Hiểu rằng chưa bứng gai được chỉ vì còn xài được.
Nhiều người tạo điều kiện để tôi được thành công với mục đích cần tôi thọ ơn và phải đưa linh hồn cho họ kiểm soát. Chính mầm đố kỵ được nuôi dưỡng trong vài cá nhân tạo nên những mảng tối trong nghề. Mà loại nầy nghề nào, thời nào cũng có. Nhớ không, vai Tạ Thanh của tôi trong Bí Mật Vườn Lệ Chi , ông ta thừa nhận tài năng của Nguyễn Trãi nhưng vẫn phải giết để bảo toàn quyền lực của mình.
Khi tôi về sân khấu 5B, nhiều đồng nghiệp giỏi nghề khác như Kim Xuân, Thành Hội, Khánh Hoàng... cũng về thêm. Tất cả cộng hưởng và tương tác lẫn nhau, tạo những vở có chất lượng nghệ thuật và bề dày tư tưởng, nhất là trong các kỳ Liên hoan Sân Khấu. Đội ngũ nghệ sĩ sân khấu và đạo diễn chuyên nghiệp kéo về càng lúc càng đông. Sân khấu 5B thật sự trở thành một thánh đường và đồng thời cũng là một chiếc áo không còn vừa vặn trong một cơ thể đang phát triển, đã có sự không đồng nhất trong cách nghĩ giữa những người điều hành và các cộng sự.
Một nhân duyên mới lại đến, Huỳnh Anh Tuấn – một người yêu trẻ - vốn trước đây là diễn viên múa rối của đoàn múa rối thành phố, rủ tôi cùng làm sân khấu cho thiếu nhi tại Trung tâm Trao đổi Văn hóa Pháp (Idecaf) – một sân khấu với khán phòng 400 chỗ cực đẹp. Lời rủ rê nầy đánh thức đứa nhỏ trong tôi, đánh thức một thời bé Thành Tâm hạnh phúc biết bao khi được tham gia tạo món ăn tinh thần cho những người cùng lứa tuổi. Hà Nội có một nhà hát Tuổi Trẻ với mảng sân khấu dành riêng cho thiếu nhi, trong khi Sài Gòn đã từng có hẳn một liên hoan sân khấu dành cho thiếu nhi mà một đoàn nghệ thuật cho thiếu nhi thì lại không, chỉ có một đoàn múa rối thì không đủ và không phong phú. Vậy là vở Hoàng Tử Chăn Lợn ra đời. Thắng! Rồi có thêm vài vở thiếu nhi ra đời nữa, thừa thắng xông lên làm thêm vở cho khán giả lớn, với vở đầu tiên là Khoảnh Khắc Tình Yêu, rồi sau đó là Tình Yêu Dành Cho Hai Người.
Nói tới đây lại nhớ về cái thời sân khấu 5B nổi tiếng như cồn, trong các kỳ liên hoan sân khấu nhỏ, tất cả các tờ brochure những vở kịch đều do anh
em tự làm cùng hai “cố vấn” mỹ thuật là vợ chồng họa sĩ Nhã Bình – Kim Lan (Kim B) với kĩ thuật kéo lụa thô sơ. Tôi là đứa ăn nằm dầm dề ở nhà anh chị để kéo lụa từng tờ một, đứa nầy ngủ thì đứa kia thức làm. Thỉnh thoảng Đoàn Khoa có ghé, thấy cả đám ngủ gà ngủ gật. Sân khấu 5B bấy giờ không chủ trương in poster mà chỉ vẽ. Tôi là người chủ trương đổi phong cách làm poster giống như phim nhưng lúc đó tiền không có, tôi vác máy ảnh của mình đi chụp vở diễn, chụp từng diễn viên rồi làm thủ công xé ảnh dán ráp lên một tấm ván ép đi thuê cắt decal chữ, tạo thành một tấm poster hoàn toàn làm bằng tay, tôi đã làm như vậy cho ba vở Con Vịt Mồi, Tình 281, Lôi Vũ (vở do tôi dàn dựng cho lớp tốt nghiệp diễn viên của nhà hát 5B) cùng với hai vở bên sân khấu Idecaf. Tất cả đều từ tiền túi của tôi, thích là làm thôi.
Rồi sân khấu Idecaf bắt đầu có ý tưởng làm poster cho các vở kịch của mình bằng in ấn chuyên nghiệp. Như đứa con mới ra riêng, thấy bên nhà mới có cái gì hay, đẹp xinh và có lợi thì tôi giới thiệu cho bên nhà cũ làm theo, tôi đưa mấy tờ poster và brochure in của sân khấu Idecaf về cho Ban Giám đốc 5B với ý muốn cũng nên làm như người ta. Một vị trong Ban Giám đốc cười khẩy, cho là sân khấu mình “hữu xạ tự nhiên hương”, khán giả biết mình, cạnh tranh chi cho mất sức. Quan điểm đó làm tôi thật sự chạnh lòng. Dường như người ta đã ngủ quên trên chiến thắng; mà một khi đứng lại nghĩa là sẽ đi lùi.
Idecaf đã có Chuyện Văn Chương và Cậu Đồng , khán giả và báo chí ào kéo tới rần rần. Lần nầy không chỉ riêng tôi mà cả đám chúng tôi trở thành một cọng gai to tổ chảng trong mắt ai kia. Thế là một loạt tin xấu tung ra, nào là nghệ thuật tư nhân đi theo khuynh hướng tư bản (vì lúc đó chúng tôi toàn diễn kịch của Pháp hoặc chuyển thể từ văn học Pháp) dùng vật chất để tha hóa nghệ sĩ nhà nước. Thậm chí trong một đại hội sân khấu thành phố, tôi còn nghe một tham luận nhấn mạnh rằng: chúng ta cương quyết không để huynh hướng kinh doanh nghệ thuật tư nhân của tư bản chủ nghĩa tràn về, tôi biết họ ám chỉ tôi và sân khấu Idecaf mà tôi tham gia. Có người đến tận nhà
một quan chức thành phố cầu cứu vị quan chức nầy dùng quyền lực để đóng cửa sân khấu Idecaf vì cho rằng Huỳnh Anh Tuấn đã dùng tiền để mua chuộc tôi bỏ sân khấu nhà nước. Số là tôi vừa mới sắm xe hơi (trả góp) bằng tiền của Huỳnh Anh Tuấn cho tôi mượn, sẽ trừ vào tiền diễn của tôi cho sân khấu của anh ấy, chỉ có vậy thôi mà ra chuyện. May thay, câu trả lời của vị quan chức đó là: tụi bay là sân khấu xã hội hóa, người ta cũng là sân khấu xã hội hóa tụi bay làm giỏi người ta cũng làm giỏi sao lại đòi triệt người ta! Nhờ sự hiểu biết của vị quan chức ấy mà chúng tôi thoát nạn. Tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa thật sự an toàn, may cho chúng tôi là ngay vào thời điểm đó luật doanh nghiệp đã bắt đầu mở rộng sang lãnh vực nghệ thuật cho phép thành lập công ty tư nhân. Vậy là trong vòng 11 ngày tôi và Huỳnh Anh Tuấn trút hết tiền túi trong người mình có hợp với vốn điều lệ để xin phép ra đời một công ty riêng. Công ty Thái Dương cùng sân khấu Idecaf đã ra đời như vậy đó.
Chuyện được phong tặng danh hiệu cũng khá (vừa) buồn (vừa) cười. Anh Lê Chức ở văn phòng Hội Sân khấu Việt Nam kêu chờ mãi sao không thấy tên tôi trong danh sách gởi ra, anh nói có gửi ra thì sẽ được duyệt ngay. Nhưng đã không có chuyện gửi ra!
Chúng tôi đã mời về làm việc chung với mình nhiều tài năng của sân khấu Việt Nam, về diễn viên có chị Kim Cương, anh Diệp Lang, chị Thanh Vy, Lê Khanh, về đạo diễn có Doãn Hoàng Giang, Phạm Thị Thành, Trần Minh Ngọc, Đoàn Bá, Hoa Hạ... về tác giả có Lưu Quang Vũ, Huỳnh Hữu Đản, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Quang Sáng, Lê Duy Hạnh...
Ít có sân khấu nào yêu Sử Việt và chịu tốn cho Sử Việt để rồi bị đối xử tệ hại như chúng tôi đã bị. Vở Bí Mật Vườn Lệ Chi bị cấm năm năm ròng rã, còn 10 phút nữa là phát sóng trực tiếp trên truyền hình thì bị ngưng ngang. Còn vở Ngàn Năm Tình Sử thì được “xử đẹp”, không fairplay, theo một kiểu khác. Trong một hội diễn, đó là vở duy nhứt khán giả ngồi tràn ra cả đất và
khi dứt rồi toàn khán phòng đứng dậy vỗ tay mãi không thôi. Được biết có chỉ thị không đưa tin về nó, hoặc có đưa thì cũng không khen. Kết quả Hội diễn chỉ là một giải ngoại lệ “Thể hiện đề tài lịch sử hay nhất”. Nhiều bạn nhà báo vỗ vai tôi bảo: “Thôi đừng buồn, nghe kết quả là biết nội tình thế nào rồi Lộc ơi! Mọi người đều hiểu mà!”.
Khi kể ra những đạo diễn tài năng đã cộng tác với cái sân khấu mà tôi được quyền mời, tôi tiếc là đã không kịp mời một người bạn vong niên của tôi: đạo diễn Nguyễn Đình Nghi. Không gì hạnh phúc cho bằng khi được biết thầy Nghi tuyên bố trong nghề quý nhất vẫn là Lê Khanh và Thành Lộc. Nhớ lần hai vợ chồng thầy Nghi cùng cô Mỹ Dung đến 5B xem vở Lôi Vũ , cái thời sân khấu đó chưa có máy lạnh, phải phát quạt cho khán giả tự xử. Diễn xong, chùi mặt, không ngờ thầy cô đứng đợi để nói những câu mà tôi không thể tưởng tượng nổi. Thầy Nghi nói nầy, gọi là anh thôi nhá, chúng tôi chờ mỗi cậu để chỉ nói câu nầy, tôi đã xem biết bao lần vở Lôi Vũ nầy, cả trong ngoài nước, cả Việt, cả Trung, có tự hào không khi ông anh nầy khẳng định cậu là người diễn hay nhất. Thầy còn “sát hạch” tôi thêm câu nầy, theo cậu, Chu Xung là ai? Có lẽ vì cũng quá yêu cái vai đó nên tôi đáp ngay, thưa anh, Chu Xung chính là Tào Ngu. Thầy Nghi thích quá, kêu đúng rồi, ít ai nhìn ra Chu Xung là vai chính trong vở kịch nầy, còn các vai khác chỉ là nhân vật tạo tình huống thôi. Như tác giả, anh ta trong sạch quá, và vì quá trong sạch với ước mơ một thế giới trong đó con người sống cho ra con người, nên anh khó thể tồn tại trong một thế giới không hoàn hảo.
Một cây đại thụ thứ hai của sân khấu miền Bắc, và cũng là của sân khấu Việt Nam, gần với nghề diễn của tôi hơn, chuyên trị những vai phụ và khó, chính là nghệ sĩ Đào Mộng Long. Không biết bao giờ mới lại có những vở như Khúc Thứ Ba Bi Tráng . Đó là một kịch bản hay cho những diễn viên xinh đẹp, tài năng, dáng vẻ oai phong như Nguyệt Ánh, Trọng Khôi, Thế Anh, Đoàn Dũng trổ tài. Nhưng thử tưởng coi, khi cái người diễn viên thấp bé ấy bước ra sân khấu trong một vai thứ gần như thoại rất ít thì mấy người kia mất tiêu như không hề tồn tại. Ông thường khiến tôi nhớ đến cha tôi. Kép
Thành Tôn thì không cao, tôi, đứa con trai út của ông cũng vậy. Cha tôi thường lấy vóc dạng mình để làm một bài học về nghề cho tôi. Ông nói đây là một nghệ thuật cần sự cạnh tranh lành mạnh. Có giỏi thì nghiên cứu để phô diễn cạnh tranh bằng nghề ngay trên ánh đèn sân khấu, đừng đánh nhau trong bóng tối hậu trường. Một nghệ sĩ tài năng không cần giành vai chánh, không cần lúc nào cũng chường cả dụng cụ hành nghề là thân thể mình ra choán mãi điểm trung tâm trên sàn diễn, chỉ cần chọn một góc, nhưng là cái góc để thể hiện những tìm tòi khổ luyện của riêng mình, khán giả ắt sẽ dồn mắt vào để thưởng thức.
1994, vở Dạ Cổ Hoài Lang được mang ra Hà Nội diễn, tôi có dám mời ông đâu vì cứ nghĩ cỡ ông chắc không thèm đi coi. Chẳng ngờ không những ông đi coi, mà khi gặp lại, ông còn bảo, xin nghiêng mình cảm tạ các bạn, vì các bạn đã khiến tôi lạc lối, chả là xem xong sướng đến độ tê hết cả người đạp xe lòng vòng nhầm đường nọ, xọ lối kia. Câu kế ông hỏi tôi, ba khỏe không con? Lần nầy, người sướng tê cả người là tôi vì đã làm được một việc không hổ tên ba. Hóa ra những con người nầy tưởng thờ ơ, chỉ biết có nghề vậy chớ vô cùng thâm trầm sâu sắc.
Một lần khác, tôi cũng cảm động vô cùng khi sau một xuất diễn của tôi ở khu Giảng Võ, khi còn là đội viên Thiếu niên Tiền Phong, chú Võ Văn Kiệt vô hậu trường hỏi ngay, thằng Tâm đâu rồi? Gặp được tôi, ông vò đầu hỏi luôn, con Lê khỏe hôn con? Những nhân vật quan trọng nầy, thật ra họ có quyền không biết mình là ai. Tôi chợt nhớ ra cái gốc Vĩnh Long của ba tôi và ông. Hóa ra mình cũng là niềm tự hào của họ.
Đó là chuyện hồi thế kỷ trước. Sang thế kỷ nầy, tôi còn bất ngờ một lần nữa khi nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh, sau khi được xem một vở diễn của tôi, đã rất trân trọng. Anh cho là, có những người tưởng là nhân vật quan trọng, nhưng lời họ nói ra chưa chắc được số đông quan tâm. Nếu cũng những ý tưởng cao siêu đó, được trình bày bởi bọn “xướng ca” như tôi, như chúng tôi, thì sức lan tỏa bảo đảm vô cùng to lớn.
Kể nhiều chuyện cho các bạn nghe, để các bạn thấy tấm huy chương nào cũng có hai mặt. Nhiều lúc không biết tôi chọn nghề nghiệp nầy hay nghiệp đã chọn tôi nhưng phần mình, tôi tin mình đã chọn đúng. Và bạn có thấy không, ít ra trong tư cách một CON NGƯỜI, tôi cũng đã chứng minh cho những người thân cùng các tiền bối của mình, thấy được rằng tôi đã giữ được chữ tín với lời hứa năm nào trong lá thư gởi cho anh Hà Văn Trọng (nhà hát Kịch Việt Nam).
Chúc các bạn cũng sẽ như vậy. Khi đã dám hứa điều gì, cho dù điều hứa đó cao xa hơn cả sao trời, cho dù có những lúc tưởng chừng phải đầu hàng. Khi ta đã quyết tâm, người ta có thể cấm, nhưng không một ai, và không có gì, ngăn ta được.
5
Là bóng hay hình
Vai nữ lại dễ thoát ra nhất, vì nó nặng về hình thức hơn, và thường là hài kịch nên tôi không bị ám ảnh gì cả. Có những vai diễn mà sau 15-20 xuất đầu, tôi bị ám ảnh nặng nề, không thoát ra khỏi nhân vật. Diễn xong những vở Sông Dài, Trái Tim Trong Trắng, tim tôi vẫn đập mạnh hơn bình thường. Sau 10 xuất đầu vở Dạ Cổ Hoài Lang , tôi không về nhà được, tìm một quán nước lề đường nào đó và ngồi xả hết nỗi buồn trong mình. Sông Dài làm tôi buồn rất lâu. Tôi thích cảm giác buồn ấy bởi như thế là mình còn rung động, còn biết xúc động. Vở Trái Tim Trong Trắng nói về nỗi khổ của những người bị án oan, tôi thể hiện vai diễn của mình bằng chính sự cảm thông, sự bất bình của con người Thành Lộc trước cảnh đời. Khi vở diễn kết thúc, mình không thể vui ngay, hay coi như không phải chuyện của mình. Người xem họ còn rung động thì nghệ sĩ không thể thờ ơ, nếu thế, đó chỉ là những người thợ chứ không phải nghệ sĩ.
Thành Lộc : “Tôi thích cảm giác cô đơn”
( Theo Thị Trường Tiêu Dùng)
Chuyện xưa kể có một nàng công chúa thấy những bọt nước đẹp quá, đòi vua cha phải kiếm người kết những hạt long lanh trong suốt ấy thành chuỗi hạt cho nàng đeo. Vua truyền khắp thế gian, ai xung phong làm được chuyện đó, vua gả con gái cho, còn thất bại thì sẽ bị án tử.
Sau bao nhiêu chàng trai chết đi, mãi rồi công chúa cũng lấy được chồng. Cái người trước khi là phò mã ấy đã yêu cầu công chúa, nàng hãy chọn những hạt nào nàng thích nhất, lấy đưa đây, ta mới kết được. Thế là công chúa thua.
Tôi muốn dành chương nầy cho những vai diễn của tôi. Đó là những cái Bóng Ảo, ảo còn hơn những hạt bọt nước của cô công chúa kia. Tác giả tả ra và viết lời của nhân vật trong kịch bản, chúng tôi phải thổi cho nó sự sống, rót xương máu và linh hồn của mình vào những cái vỏ vô hình ấy. Những vai diễn của tôi vừa rất thật và cũng rất không thật. Tôi phải biến mớ chữ trên giấy kia sao cho chúng và tôi hòa nhập làm một. Làm không xong coi như vĩnh biệt nghề. Chào nhé, tử thần!
Có những người một đời chỉ đóng một vai, hay một loại vai. Xưa, có những người đóng vai Quan Công, trước đó phải nằm đất ăn chay, thậm chí không được gần vợ để hoàn toàn tin mình là Quan Thánh Đế.
Vậy chuyện gì đã xảy ra với cái người đã gần 600 lần xắn xương máu và linh hồn của mình chia cho gần 600 cái Bóng kia. Và tôi vẫn còn sống. Thôi thì trong lúc chờ có thêm những vai mới, hay mà mình sẽ thích, tôi tạm lọc ra vài cái Bóng Ảo đã lưu đậm dấu trong mình để kể cho bạn nghe.
Khi các bạn phóng viên yêu cầu kể vài vai diễn mình thích, tôi thường nêu tên Ignacio, nhân vật nổi loạn của vở Trong Hào Quang Bóng Tối (tác giả: Antonio Buero Vallejo, đạo diễn: Kim Loan). Chuyện kể về một ngôi trường nuôi dạy người khiếm thị bẩm sinh. Bị nhà trường ru ngủ rằng hãy yên tâm đi với hiện trạng tối tăm, cộng đồng người khiếm thị này không ý thức được rằng, bên cạnh thế giới của họ còn có một thế giới rộng lớn: Thế giới của những người sáng mắt. Mắt Ignacio không thấy nhưng huệ nhãn trong anh đã cảm nhận được, có một thế giới sáng hơn, rộng hơn. Và anh đã gieo nhận thức này vào mọi người. Những người sáng mắt còn lợi dụng các học viên không thấy được để thoải mái làm nhiều điều tệ hại. Ví dụ như vợ của ngài hiệu trưởng, đã ngoại tình với sinh viên trong trường, và bị Ignacio phát hiện. Anh kêu gọi mọi người chống sự lừa dối của đám lợi dụng kia, hãy nhìn thẳng vào thực tế. Có vậy mới hy vọng giúp những người chung quanh khiến cho cuộc sống đúng như nó là, và có thể sống tốt hơn. Luồng tư tưởng của anh đã xâm phạm vào chân lý bất biến của ngôi trường này và kết
quả là anh ta bị thủ tiêu. Tôi thấy mình giống Ignacio ở tư tưởng nổi loạn. Chất nổi loạn trong tôi như được tiếp sức. Lúc đó tuy tôi chưa có huệ nhãn như anh, nhưng vài bức xúc trước những bất công quanh mình cũng đủ cho tôi trút vào nhân vật, khát vọng muốn cho môi trường sáng tạo quanh mình tốt hơn.
Nhân vật Chu Xung trong Lôi Vũ (tác giả: Tào Ngu, đạo diễn Hoa Hạ) thì tôi đã kể cho bạn nghe ở chương trước rồi.
Trong danh sách nầy, làm sao thiếu ông Tư trong Dạ Cổ Hoài Lang (tác giả: Thanh Hoàng, đạo diễn: Công Ninh). Ông Tư sau nầy có vài người thay như Lê Vũ Cầu, Hoài Linh, Thanh Hoàng. Thời tôi đóng, vở diễn nầy đã tạo kỳ tích lớn khi vừa đạt doanh thu cao, khiến đồng nghiệp tâm phục khẩu phục và nhóm lãnh đạo cũng thấy vở đúng như chủ trương hướng về người Việt xa xứ. Điều thú vị là tác giả chưa đi Mỹ bao giờ. Đạo diễn thì đi học ở Nga về, nhưng nhờ đám chúng tôi có đông thân nhân ở nước ngoài, nên đã lắng nghe, và cố truyền đạt đến khán giả, tâm tình người già hoài hương, thèm về nguồn cội.
Bạn sẽ thấy danh sách vai ưa thích của tôi có cái ngộ là không có vai hài và như thế không phải vai nào cũng rần rần khán giả. Một vai có tuổi thọ vở diễn không dài là ông thầy đờn vùng Nam Bộ tên Hai Giỏi trong vở Khúc Nguyệt Cầm (tác giả và đạo diễn: Đoàn Bá). Thầy Bá viết một trang thoại dài cho nhân vật nầy. Ông được một cô gái trẻ yêu, và cô gái nầy lại là con gái của người yêu của ông ngày xưa. Chi tiết hạt nút áo rơi khi ông già cô đơn ấy gặp lại người xưa, thầy Bá cho biết thầy cộng hưởng từ chuyện thật của nhà văn Nga Tourgeniev, muốn giấu sự cô đơn nhưng hột nút áo ngẫu nhiên rơi là bằng chứng cho cuộc sống thiếu bàn tay phụ nữ.
Cuộc đời diễn viên của tôi dính nhiều các ông Tư. Một ông Tư Chơn gần đây nữa trong vở Tía Ơi, Má Dìa (tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc - Minh Phương, đạo diễn Vũ Minh). Kỳ nầy tác giả soạn cho tôi 15 phút vừa đóng chồng, vừa đóng vợ để thỏa nỗi nhớ nhung giai đoạn sống hạnh phúc nhứt
giữa hai người là lúc cả hai yêu nhau qua những câu hò đối đáp.
Đợt Liên hoan Sân Khấu Nhỏ lần hai, đó là nhân vật Thành Tâm trong vở Giấc Mộng Kê Vàng (tác giả & đạo diễn: Nguyễn Thị Minh Ngọc). “ Giấc Nam Kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không ”, dựa theo tích giấc Nam Kha của vùng Đông Nam Á và dựa một ý tưởng mà Mishima, một nhà văn Nhật, ba lần được đề cử giải Nobel đã hiện đại hóa một vở kịch Nô. Tác giả đưa ra cái phù du, vô thường của một kiếp người, có thể làm nhiều người nản lòng buông xuôi, trôi thiếp đi trong trạng thái hư vô. Tuy nhiên, với người nghệ sĩ, mọi thứ thăng trầm trong đời sống chỉ là chuyện nhỏ. Thử coi, anh đã chết bao nhiêu lần trên sân khấu, anh đã cưới bao nhiêu cô, đã bị thất tình, phản bội. Đêm anh làm vua, đêm khác làm giặc; bữa anh làm lão, bữa khác anh là đứa trẻ tung tăng. Đạo diễn bắt tôi đi học hát múa ca trù, chầu văn với anh Đào Việt Anh và cô Tuyết Nga để diễn lớp Xúy Vân giả dại.
Ông Thiện ở tuổi tôi bây giờ với tình yêu dành cho Hạ, cô gái hai mươi mấy tuổi nổi loạn trong vở Ngôi Nhà Không Có Đàn Ông (tác giả: Ngọc Linh, đạo diễn: Hoa Hạ). Đó là một vai tuy ngắn ngủi nhưng được coi như một khuôn mẫu cho các học viên học diễn về sức sống của một vai xuất hiện rất ít so với chiều dài vở diễn.
Khi làm đạo diễn vở Bí Mật Vườn Lệ Chi của tác giả Huỳnh Hữu Đản, nhiều người tưởng tôi sẽ chọn vai Nguyễn Trãi cho mình. Đó là những người ngoài nghề, không biết công việc nặng nhọc của một đạo diễn. Lãnh dựng vở đó mà tham, ôm luôn vai chánh là tiêu. Lẽ ra tôi đã không đóng vai nào, nhưng khi đọc vai Tạ Thanh, tôi rùng mình khi thấy vai phụ nầy có điểm nào đó chung với những người từng thân thiết, từng yêu tôi và từng đã hại tôi. Nhân vật đó không tin ai, nhất là với những người sống và làm những điều trái ý hắn ta. Vở nầy, thật ra thoạt đầu chưa có ai ác, toàn những nhân vật đầy tính người hiền lành như bao người. Nhưng một ngày, khi thấy quyền lợi bị đụng chạm, họ biến thành một con người khác. Tôi đã đẩy mạnh cho nhân
vật Nguyễn Thị Anh khóc hu hu, thương cho Nguyễn Trãi vì ông bị hại dưới âm mưu của mình. Giết đi những người tài đức, muôn người có một như thế, quả là đáng tiếc, nhưng phải giết thôi, vì để họ sống thì cái Sáng của họ sẽ hủy hoại cái Tối của ta. Khi để Dàn Đồng Ca lùng nhùng trong đống vải như hồn của đất, hồn của nhân loại cố làm như không biết, không thấy, không nghe... chẳng phải là tôi không biết đau, khi đó cũng là hiện thực chúng ta đang sống. Một khán giả là một nhà sư bên Pháp về, nói với tôi đã nhìn ra Dàn Đồng Ca đó tuy là chứng nhân lịch sử, nhưng không thể nói ra những sự thật kinh hoàng mà mình vừa chứng kiến. Trong khi một vị trong hội đồng nghệ thuật lại bình phẩm với một người khác rằng: “Tao không hiểu thằng Lộc nó làm vậy là ý nghĩa gì!”
Vở nầy gặp nhiều truân chuyên. Khi vở bị ngưng, với người sản xuất là một nỗi buồn khác, nhưng với người làm nghề cần khán giả tri âm tiếp hơi, chỉ cần vài khán giả nhìn thấu được như vậy tôi thấy cũng gọi là đủ. Cho tới bây giờ việc tạm ngưng vở vẫn là lịnh miệng. Chúng tôi nghe là trên thành phố cấm vì có người kiện, yêu cầu không được khẳng định Ban Cơ là đứa con ngoại tình. Có một sự thật phi lý là khi duyệt lại để có thể xóa cái lịnh miệng kia, ngoài việc chỉnh chút đỉnh cho vở hay hơn, gần như về ý tưởng chúng tôi không sửa chút nào, chúng tôi được nghe phán: Phải hồi xưa làm như vầy thì đâu có bị cấm. (Anh Doãn Hoàng Giang kể đây là chuyện thường gặp ở ngoài Bắc, sau khi bị cấm, duyệt lần hai, không đổi gì, vẫn được khen ngoan và ký giấy phép). Trong những người trong nhóm duyệt nầy, có một đàn anh biết nhau thời tôi còn trong đội Múa nhà Thiếu nhi. Anh là nhạc sĩ, và những lời phát biểu của anh cho thấy khi ngồi trong Hội Đồng Duyệt, anh đã ngồi sai chỗ. Có lần duyệt vở Ngàn năm tình sử, anh còn phát biểu rằng: “Việc gì phải trình bày cho khán giả biết Lý Thường Kiệt là thái giám? Nội nghe hai chữ “thái giám” là đã thấy ghét rồi!”. Nghe anh nói mà thấy buồn.
Khi nói về những cái Bóng của mình, có dịp ngó lại những vở mình dựng, như những đứa con hiếm hoi của tôi, bỗng tự hỏi phải chăng mình đã
bị làm việc trong một môi trường không lý tưởng để sáng tạo. Mà sống kiểu đó thì rõ ràng là một kiểu chết. Tôi đã chọn nghề nầy, đã được đào tạo chuyên nghiệp. Giờ nghề thì yên, sống thì được, lẽ ra phải thấy mình hạnh phúc, nhưng cớ sao không vui nổi. Phải chăng mình đang đãi cát tìm vàng, mà cái môi trường tôi đang tìm nầy sao bùn nhiều quá, chẳng biết khi xong trận sống nầy, tôi lọc được bao nhiêu bụi vàng. Để thực hiện công việc kỳ khu kia, ( Đường thế đồ, gót rỗ kỳ khu - Cung Oán Ngâm Khúc), lùng nhùng trong cái mớ hỗn độn đáng ghét nọ, tôi luôn cố tìm cái gì đó mà yêu, để có thể sống và làm việc tiếp. Nhiều khi thấy các cố gắng của mình chỉ vừa đủ để gió cuốn đi. Lỡ sinh ra trong cõi thế nầy, được Thượng Đế chọn cho làm người nghệ sĩ, coi như đã được trao lãnh một sứ mệnh bất thường. Bị - chớ không phải là được nha - là người giỏi trong những người giỏi, có bổn phận phải góp phần vào việc khai sáng chung quanh, càng phải có trách nhiệm với bản thân, cố giữ cho mình được lành mạnh, không được quyền mệt mỏi. Phải, tôi vẫn nghĩ về một người có tài trong lĩnh vực nghệ thuật, có cái gì gần với Thiên sứ, lãnh trên vai trách nhiệm của Trời trao. Tưởng tượng coi cuộc sống sẽ thế nào nếu không có văn học nghệ thuật và những người nghệ sĩ. (Cũng phải mở ngoặc để nói thêm, hơn đâu hết, đây là lĩnh vực mà những kẻ bất tài, hoặc cũng có chút đỉnh tài năng mà tâm bất thiện rất dễ trà trộn vô). Khi đã được phân công, bên cạnh những người làm ra của cải vật chất, mình làm ra tài sản tinh thần, đâu chỉ hùng hục cắm cúi làm mà còn phải nghiên cứu xây dựng sao cho những kỹ năng tài nghệ của mình không gây ra sự nhàm chán.
Theo tôi, đời sống rất công bằng, ai có nhiệm vụ nấy và nghiệp, đạo của riêng mình. Cần phải thấu hiểu điều nầy để trân trọng việc làm của nhau, không nên giẫm chân hay khinh khi người khác. Trên cõi thế có biết bao chủng loại khác biệt như thế nầy, có người chuộng loại rực rỡ mau tàn, có người chuộng hoa dại đơn sơ, chọn kiểu nào là quyền của mỗi người. Tôi luôn ủng hộ việc trăm hoa đua nở. Mỗi người có một vị trí mới cân bằng sinh thái. Nhưng đóng vai nào phải ra vai đó. Con người thật của tôi, theo tôi
biết, có trái tim hiền hòa. Chọn cuộc sống một mình, không lập gia đình, tôi chỉ mong ngày nào mình không còn làm việc biểu diễn nầy nữa, mình vẫn có thể sống bằng những nghề đơn giản, lương thiện, như đi bưng cà phê cũng được. Còn khi ngưng thở, mong cái xác của mình cũng làm được một chuyện có ích nào đó, như làm phân bón để giúp thêm chút màu mỡ cho đất mà thôi.
Khi sáng tạo một vai diễn, dựng một vở, tôi nghĩ đó là một việc chẳng có gì phức tạp, mà vô cùng đơn giản, chỉ như làm một cái gì đó cho người mình yêu thôi. Người yêu đó, có thể là một người rất quen, mà cũng có thể rất lạ, như khán giả tôi vừa kể trên, thậm chí, do mình tưởng tượng ra. Mà nghĩ cho cùng, nếu mình có một Tình Yêu, mà mối tình ấy đổ vỡ thì mình cũng sẽ được thăng hoa trong Nghệ Thuật như một phần thưởng khác. Có lần tôi vướng bệnh, Tây y gần như đầu hàng, phải níu tới Đông y. Người trị bịnh bấm huyệt cho tôi cho biết một nguyên lý, khi bị bấm vào chỗ đau, bịnh nhân không nên gồng lên, vì càng chống trả, căn bịnh sẽ còn hoài, chi bằng cứ buông lỏng, tận hưởng nỗi đau xuyên thấm vào từng tế bào của mình, sau đó nó mới chịu trôi qua luôn. “Hãy tận hưởng nỗi đau như một ân huệ trời cho để cảm nhận và thấu hiểu nó!” Hiểu được và cộng tác với người gây đau cho mình xong, tôi chợt rùng mình như được chuyển sang một kiếp khác lần nữa. Nếu cứ trằn trọc với nỗi đau, một trong những hậu quả dễ lãnh là mình dễ bị đau bao tử. Nên từ đó, tôi đối xử với nỗi đau và niềm vui cũng ngang nhau: tôi tận hưởng chúng. Thậm chí tôi còn làm luật sư biện hộ giùm những ai hại mình, luôn tự hỏi sao họ nỡ đối xử với mình như vậy? Nhiều khi tôi nghĩ, thắc mắc làm chi, lâu nay họ vẫn vậy mà, tại mình mù quáng thôi. Tôi cũng tìm cách binh vực họ, chắc tại họ cũng vướng phải một hoàn cảnh nghiệt ngã nào đó, vậy mình cũng nên tha thứ đi, cho nhẹ lòng. Nhờ vậy, sống tới giờ nầy, dường như tôi chẳng thấy ghét ai, và càng không thể ghét những nhân vật của mình.
Vậy coi như tôi đã trả lời luôn cho những ai thắc mắc là có nhân vật nào khi nhận đóng, tôi thấy ghét nó không? Đã có lúc tôi ghét đóng vai Công An,
vì nghĩ là dân thường không ưa công an, nhứt là công an khu vực, cứ bị coi như hung thần. Đó chỉ là trong một vở ti vi. Anh Công An nầy đi bắt Tú Bà để dẹp tệ nạn xã hội. Tôi đã xây dựng thành một anh chàng Công An như mình vẫn ước mơ sẽ có mặt trên đất nước. Có lúc anh nầy hài hước đùa cợt như cùng tần số với mụ tú bà, ruột để ngoài da, bởi theo tôi, có vậy mới bắt được loại tội phạm nầy. Chính cái kiểu kể chuyện tiếu lâm bỡn cợt đó mới khiến người dân thấy thương anh công an nầy được. Sau đó, có tờ báo phê bình sao Thành Lộc lại diễn ra một anh công an không nghiêm túc như vậy. Nhưng khi đi dự trại hè chung với tôi, Bí Thư Đoàn Công an Thành phố nói tui thích cách diễn của anh, rất hòa nhã mà bình dân, không ai ghét nổi, ước chi đội ngũ công an bắt chước sống được như vậy. Đừng nói chỉ có Nghệ Thuật mới phản ánh hiện thực, biết đâu cũng có lúc hiện thực nên dựa vào Nghệ Thuật để đời... thú vị hơn. Mặc bao ngộ nhận, chỉ cần một khán giả thấy được như vậy là hạnh phúc lắm rồi. Khi Picasso đổi khuynh hướng vẽ, ông cũng đã từng bị đập tơi tả, dễ gì một thiên tài được đồng thuận khi còn sống. Cô đơn chăng là mấy lúc nầy. Có khi phải chờ đến mấy thế hệ sau mới được thừa nhận. Chính mình nhiều khi chưa chắc khắc họa đúng. Một ngày nào đó, bỗng sáng, té ra là mình đã làm sai, và nhờ suy nghĩ khác đi, mới tìm ra tình yêu với nhân vật đó.
Tôi tiếc là vở Hải Thụy Bãi Quan không được phổ biến nhiều. Hải Thụy là một vị quan nổi tiếng thanh liêm vào thế kỷ thứ 16, được xếp vào một trong 100 nhân vật ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, phẩm hạnh của ông được dân sánh với Bao Chửng đời Tống. Ông dám đương đầu với quan lại tham ô, dám trừng trị những kẻ nhận hối lộ, dám vì dân tình mà trách mắng hoàng đế. Ông chủ trương để dân chúng được phép tố cáo quan lại tham ô, lộng hành, nên bị không ít kẻ đương quyền căm ghét, muốn hãm hại. Ông dâng “ Trị an sớ ” vạch tội Vua bỏ bê triều chính, không theo pháp độ các tiên vương, để quan lại lũng đoạn làm sai phép nước, đưa dân tình đến chỗ điêu linh, đói khổ, oán hờn... Gia Tĩnh tức giận bắt giam ông vào ngục, nhưng ông vẫn không khuất phục, giữ nguyên lời chỉ trích của mình. Tôi
đóng vai khâm sai Trương Chí Bá là kẻ bị Hải Thụy vạch tội. Đây là một trong những vai diễn phản diện mà tôi yêu thích và thể hiện thành công. Bản thân người viết là Ngô Hàm bị nguy cơ chết người khi viết lại tích đó. Xem xong, Giang Thanh cho rằng “ có vấn đề chính trị ” và nói với người chung quanh “ ma quỷ đã tràn lên sân khấu ” ám chỉ Ngô Hàm và vở kịch kia. Là một nghệ sĩ có tính công dân cao, tôi rất yêu thích vở nầy vì chính mình cũng có những bức xúc muốn vỡ òa khi đã từng hy sinh cho những điều không đúng.
Dòng Sông Thơ Ấu của đạo diễn Lê Văn Duy cũng là một kỷ niệm đẹp khi tôi được thể hiện cuộc đời của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, một con dân chơn chất miền Tây đi tập kết rồi khi trở về bề thế một nhà văn. Từ đó, cũng tạo thêm mối giao tình khiến tôi thường nhận các lời mời của Dũng Khùng, con trai ông. Bên truyền hình và điện ảnh, tôi có một số vai gắn bó với đời tôi. Nhiều người còn rất ấn tượng khi xem vai diễn Lý Thông của tôi trong phim Thạch Sanh vào cuối thập niên 80, thế kỷ trước. Nhiều khán giả gặp lại, cho là tôi chẳng thay đổi là bao. Họ tin nhờ được như vậy là do tôi gắn bó với trẻ em, hóa thân vào những nhân vật thần tiên, cổ tích rồi diễn cho các em xem.
Cách đây, sau 25 năm làm diễn viên kịch nói, tôi cũng suýt chọn vở Diễn Kịch Một Mình để đánh dấu một giai đoạn nghề. Đang hứng thú làm lại vở đó, mà theo tôi biết, đầu tiên anh Lê Duy Hạnh định viết cho tôi, nhưng rồi tôi chợt nhận ra có gì đó không ổn, vở nầy không phải dành cho mình khi mục đích cuối cùng của nó là để ca ngợi người nghệ sĩ. Nếu cần làm việc đó thì nên để người khác hơn là mình. Tôi thèm được diễn một vai nào đó đụng chạm vào một vấn đề chung của con người, càng chạm vào những ngóc ngách, góc khuất của con người càng tốt. Có những nỗi đau câm nín mà chỉ có nghệ thuật mới vạch ra được.
Một ngày nào đó, phải, thế nào cũng phải có một ngày tôi phải “giã từ vũ khí”, chuyển nghề khác như đi bưng cà phê chẳng hạn, liệu có buồn không?
Tôi tin rằng khi đã từng ngợp trong những tràng pháo tay và hoa chúc tụng, tắm trong ánh sáng rực rỡ lòe loẹt, thì tôi cũng sẽ an nhiên lắm nếu có ngày mưu sinh bằng nghề bưng bê cà phê tới cho từng người khách của mình, bởi kiểu gì đi nữa, các nghề tôi làm đều lương thiện, không lừa đảo ăn xin hay phạm pháp. Chưa bao giờ tôi dám coi rẻ mà ngược lại rất quý trọng những sinh viên phải làm thêm các việc lao động giản đơn để trang trải học phí, nhà trọ, vẫn hơn là phải đi cướp giựt ngoài đường hay vướng vào việc vận chuyển ma túy.
Khi điểm lại mấy trăm vai diễn của mình, tôi cũng thèm biết bao ngày nào đó, các bạn trẻ cũng có được những vai hay thuở còn học trong trường, được thoải mái sáng tạo mà không bị trói buộc bởi doanh thu, bởi nhà sản xuất canh cánh rà tìm có cái gì trong cái nhăn mặt, nhíu mày của các vị trong Hội Đồng Nghệ Thuật. Ngày ấy chúng tôi đã được làm việc với một thế hệ đạo diễn chắc tay, được đào tạo bởi những nhà sư phạm giỏi và yêu nghề. Nhớ không, cô Tường Trân đã cho phép mang chiếc quần jeans ngập sân khấu nhà trường trong vở Mẹ Can Đảm và Bầy Con của Berthol Bretch (đạo diễn Đăng Nhân). Chúng tôi được giải phóng tư tưởng lẫn cơ thể để tinh hoa phát tiết. Nhà trường mở sân khấu doanh thu mỗi tối thứ bảy, như đưa ra những sản phẩm tốt tới khán giả tri âm, khát cái mới, mà chưa hề phải làm nô lệ cho đồng tiền. Những bài thi học kỳ được chọn lọc rồi trân trọng mang ra đó. Những tiết mục như Con Cá Chột Nưa của Dũng Mù, Một Chuyện Có Thật của Văn Tuyến, Đánh Ghen của Khánh Xù đã truyền ước mơ và lửa yêu nghề đến nhiều người, trong đó có Việt Anh như tôi đã kể. Với chủ trương năm thứ ba đi phụ cho năm thứ tư, việc được đi làm hậu đài dọn cảnh cho các anh chị lớp trên tốt nghiệp gây cho chúng tôi thấy mình may mắn khi được có cơ hội học thêm thầy khác ngoài thầy của mình. Nơi đó chúng tôi không bị định kiến là có những diễn viên chỉ đóng tuyền vai chính hay chỉ chuyên trị vai phụ như ở ngoài đoàn. Từ đó tôi được tham gia những vai thú vị trong các tiết mục Tinh Thần Thể Dục của Nguyễn Công Hoan (đạo diễn Đăng Nhân), Nhà Tắm của Mayacovsky (đạo diễn Trần Ngọc
Giàu), Tiếng Hát Thiên Nga (đạo diễn Đoàn Khoa).
Còn nữa chớ, vai Pinocchio, vở tốt nghiệp của Hải Đệ (giờ là Trần Tường Nguyên - từ tên cô Tường Trân chiết tự ra), còn Lời Ca Báo Tử của Mai Thanh Dung, còn Mặt Trời, Ông Già và Người Lính của Quang Hiền. Tôi cũng muốn nhắc ở đây nhiều vở được dàn dựng công phu chuyên nghiệp như “37 xu của ông Mông-tơ-Đoan” là một bài học tuyệt vời chuyên nghiệp về thể tài, phong cách. Ở ngôi trường đó, tôi còn được đóng thầy bói Nghêu trong vở Nghêu Sò Ốc, Hến, vai Fecđinăng trong Âm mưu và Tình Yêu, vai tên đầy tớ trong vở Thầy Thuốc Biết Bay.
Nếu kể thêm những vai bên phim thì dĩ nhiên, cũng còn thêm vài vai để kể. Tôi nghĩ cũng gọi là tạm đủ khi tạm ngừng ở đây. Và dù kịch hay phim thì vô hình trung, có một nghịch lý, khi lãnh những vai hay thì tiền lại ít đi. Tôi đã bỏ lỡ nhiều vai có tiền cao bên phim - “trái tim chơn thành” đôi khi phải nói dối, không dám từ chối vì không thích cái gì đó, mà bày đặt hét giá thiệt cao để người mời mình bỏ chạy. Cái đó kêu là thà để người phụ mình hơn là mang tiếng mình phụ người.
Tôi cho là chỉ hoài tiếc nếu mình không đủ thanh xuân làm cho các vai diễn hay hơn. Vai Cô Gái trong vở Hợp Đồng Mãnh Thú, chúng tôi muốn trình bày một khúc quanh trong xã hội, đâu phải chỉ là khai thác vấn đề giới tính. Đó là một vở bi kịch chớ nào phải hài kịch. Phải chi có một diễn viên trẻ hơn và đủ khả năng thay tôi đóng vai đó, tôi sẽ mạnh dạn nhường ngay. Chị Bạch Lê của tôi là một tấm gương đã quay lưng hẳn với nghề không hoài tiếc dù đang độ chín của nghề, đang ở đỉnh cao của sự sáng tạo và lòng mến mộ của khán giả. Điền Thanh, anh rể của tôi, một nghệ sĩ đang nổi tiếng cũng phải ngưng ngang, ra đi, là một trường hợp khác. Tôi cho là chị Lê của tôi đã hy sinh quá lớn. Đôi khi tôi tự hỏi, không biết các nghệ sĩ phải ngưng nghề như chị mình, có bao giờ tưởng nhớ đến giai đoạn vinh quang, những vai diễn đã khiến mình có một chỗ đứng trong lòng khán giả để rồi hoài tiếc?
Tôi thì có thể chơi với bất cứ đối tượng nào, từ người đàng hoàng đến cà
chớn, tục tằn. Có vẻ như là tôi đi kiếm vốn đời để rót vào những cái vỏ ảo cho các vai diễn của mình. Từ ngoài nhìn vào có thể lầm tưởng rằng tôi là một người đa nhân cách nhưng tự phán xử mình, tôi thấy mình không có mưu cầu chiếm đoạt gì của ai.
Một kiểu nào đó, công ty Thái Dương của chúng tôi vẫn không thể tự tạo được một môi trường lý tưởng để làm nghề. Có phải là tội lỗi không, khi tôi thèm vô cùng việc có một Nhà Hát riêng cho mình để tôi được toàn tâm toàn ý sáng tạo các vai diễn, những TÔI ẢO của tôi, như cái thời còn trong trường học, không phải sợ bốn tên mafia trong văn hóa văn nghệ như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gọi tên: Quyền Lực, Đồng Tiền, Tôn Giáo và... Tình Yêu.
6
Yêu
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Trong những câu chuyện tôi kể, tôi đoán đây là chương mà bạn tò mò muốn nghe nhất dù tôi đã công khai ít nhiều trên các phương tiện truyền thông. Tôi biết có một nữ nghệ sĩ nổi tiếng, rất nhiều người muốn cùng chị soạn cuốn hồi ký của chị, vì qua đó, không chỉ là chuyện đời riêng của một người nổi tiếng, nó còn là một khúc lịch sử sân khấu của Việt Nam. Chị là một người chơn thật. Khúc từ nhỏ đến khoảng 20 tuổi, chị kể ro ro, nhưng đến khoảng tuổi lớn với những rung động đầu đời, chị luôn phải ngưng lại và muốn chừa nơi đó một khoảng trống. Kể làm gì những mối tình không thành, khi nay ai cũng đề huề vợ con, chị không muốn làm đau những người tình cờ dính líu đến đời mình. Cuốn hồi ký của chị do đó cứ dở dang.
Tôi cũng là người nhiều lần từ chối những ghi chép đi quá sâu vào đời riêng của mình, dễ khiến... liên lụy đến người khác. Nhưng mà rồi cũng phải tới lúc ghi chép lại, vì đây không phải chỉ là chuyện của riêng tôi. Chỉ mong ai đó nếu thấy chương nầy có ít nhiều làm tổn thương nhau thì hãy hiểu cho đây là những tâm tình chơn chất của một gã mang danh là phù thủy trên sân khấu, nhưng cũng mang tiếng dại các loại gái, trai, và cả chẳng trai, không gái ở đời thường. Trong những lời trêu cợt sau lưng lẫn trước mặt tôi, có lẽ câu thú vị nhất là câu “lắm mối, tối nằm không”. Nhưng gẫm cho cùng, câu đó không chính xác với tôi. Tôi KHÔNG lắm mối, tôi cũng KHÔNG nằm không vì mỗi khuya, trước khi trôi vào giấc ngủ, quanh tôi là lúc nhúc những nhân vật thú vị trong những cuốn sách, bộ phim tôi nhờ chúng ru ngủ mình.
Thôi thì, trước sau gì cũng phải có một chương như thế nầy, cho những người tôi yêu và yêu tôi, không phải cho thỏa lòng tò mò của đại đa số các bạn, mà cho tôi, như một câu hát, “ vì anh, tấm gương soi, đối mặt em đó, vỡ
một lần cho xong ” . Nếu những ghi chép sau đây, có điều nào bạn cho là không thật, đừng ngần ngại liên lạc tôi để đính chánh, còn những gì ai đó cho là xúc phạm, xin cũng lượng thứ cho tôi.
Đầu tiên, bạn phải biết như nhiều nghệ sĩ khác, tôi là một người hết sức tham yêu. Có nhiều lúc cảm giác trái tim của mình sao mà chật chội quá, làm sao chứa hết những tình yêu bát ngát tôi dành cho đời, cho người, cho sân khấu. Cũng có lúc ước phải chi mình được nhân bản ra nhiều Thành Lộc thì mới chìu lòng được hết những người yêu mình.
Là người của công chúng, tôi luôn bị đồn (OAN) là cặp bồ với bất cứ người nào mà họ thấy đi cùng, từ con gái đến con trai. Phần lớn còn là vì bản tính rất hòa đồng và ý thức mình nổi tiếng nên khi chụp hình với ai, nhất là với con trai, tôi thường chủ động quàng vai bá cổ người ta, chỉ để họ không mặc cảm và rụt rè khi tiếp xúc với mình. Chính vì vậy mà thời gian gần đây, đôi khi tôi thấy mình luôn bị báo chí lá cải trên mạng rình rập để quăng tin là Thành Lộc đang có một “em” bồ nhí nào đó. Phải chăng đó là hậu quả của cuộc sống tình cảm quá kín đáo của tôi nên mình cũng dễ trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ tò mò, thèm thuồng khai thác đời tư người của công chúng để làm trò mua vui cho thập phương bá tánh, và cho những ai ghét mình nữa chớ (ai lại không có, huống hồ Thành Lộc?!)
Dĩ nhiên đây cũng là một chương khó khăn để kể ra với tôi. Với số tuổi của tôi bây giờ, với nghề nghiệp của tôi đã và đang theo, với những trải nghiệm tôi đã có, bạn có tin không nếu biết con số những cuộc tình của tôi chưa đếm được hết mười đầu ngón tay. Thiệt tình mà nói, để gọi là trọn vẹn, gần như chưa cuộc tình nào đạt tới hai chữ đó, chỉ là những khoảnh khắc hạnh phúc, có khi cho cả hai, hoặc cả ba.
Tại sao lại cả ba? Có những lúc ba đứa thân thiết với nhau, tôi cùng một cô bé và một chàng trai nữa. Cả ba cùng trẻ, đẹp và tài năng. Cô gái tên Biển. (Ngó lại những tình yêu của mình, hình như tôi đắm chìm trong cũng có tới vài cái Bể). Chàng trai kia cũng là bạn thân của mình. Tôi lúc đó đang
ở trong đội múa. Nàng ở cùng đội với tôi. Còn chàng dính líu đến âm nhạc, là một nghệ thuật mà hốt nhiên bỗng thấy réo rắt hơn mình, vương giả hơn mình. Hình thể chàng cũng cao ráo hơn mình, nên tự thấy nếu cần một người để che chở nàng chắc chàng xứng đáng hơn. Thế là tôi rút lui.
Tưởng sao, giờ thì trong ba đứa, chỉ mình tôi còn sống độc thân. Chàng nay là nhạc trưởng kiêm giám đốc một Nhà hát, Biển nay là bác sĩ, cả hai đều có hai gia đình riêng, và chắc là họ đều hạnh phúc.
Trước khi kể thêm một cặp ba nữa, xin trở lại một rung động đầu đời của tôi. Đó là một cô giáo khi tôi học lớp 6 trường Nguyễn Thái Học. Cô dạy Văn, tên Mỹ, và cô đẹp. Tiếng cô đọc những áng văn thơ nghe êm như nhạc, chữ viết cô rải trên bảng mà độ đậm nhạt như viết bút mực bằng ngòi viết trên giấy. Phải ghi tên cô ở đây, dù chỉ là rung động thời vỡ lòng yêu, ở cái tuổi 12 đến 14, tâm sinh lý phát triển, loáng thoáng hiểu biết ít nhiều về giới tính, thấy đẹp là yêu. Thời đó, tôi giỏi Văn nổi tiếng. Đọc đề xong, tôi viết một mạch, chưa bao giờ viết nháp. Điểm thi Văn trong các kỳ thi học kỳ của tôi luôn cao nhất lớp. Thừa thắng xông lên, tôi còn mộng mơ mai mốt mình sẽ phải trở thành một ông thầy dạy Văn. Có lẽ tôi giỏi Văn nhờ yêu cô và muốn đẹp lòng cô. Nhờ cô siêng năng sắm áo dài mới mà cũng hình thành trong tôi một nỗi vấn vương với chiếc áo dài, loại áo dài đơn giản, rất Việt, và rất thơ. Tiếc là cô giáo đã mất sau 1975, không cho tôi có cơ hội được mời cô xem mình diễn, để cô hiểu có phần cô góp trong những vai diễn của tôi.
Rồi chưa hoàn tất lớp 12, tôi đã đi thi và đậu vào trường Sân Khấu. Ngay lúc ở trong trường, nhiều nữ học viên thích làm việc chung với tôi. Tôi quý những cô gái có cá tính, có tài, vì với tôi, đẹp chưa phải là yếu tố hàng đầu. Cứ tự mình suy ra, nếu ai cần một bạch mã hoàng tử, ngoại hình cao ráo, dáng vẻ phong lưu thì cao lắm, mình chỉ thể hiện điều đó trên sàn quay, sàn diễn thôi. Ở ngoài đời, bao giờ cũng thấy mình thiếu một chút gì đó. Có thể kể ra một loạt những nữ học viên xinh đẹp và cá tính thời đó. Khóa 3 của tôi
có Hoàng Oanh mắt xanh. Khóa 4 là Ngọc Lan, Đoàn Mai Phương, Thanh Hằng, Thu Tuyết... Nếu Hồng Đào là “người yêu” đầu tiên của tôi trên truyền hình qua vở Đêm Họa Mi , thì Ngọc Lan lại là “người vợ” đầu tiên của tôi trên truyền hình qua vở Những Khoảnh Khắc Còn Lại (tôi đóng vai ông Sĩ, còn Lan là bà Thuận Thành). Khóa 5 có Phương Quỳnh, Bích Ngọc, Hồng Ngọc, Thanh Loan, Uyên Chi... Khóa 6 có Ngọc Hà, Hồng Đào, Thúy Diệp, Mai Phương, Mai Lan, Mỹ Út... Vẫn còn thiếu nếu không kể thêm một loạt các bạn nữ học bên khoa đạo diễn, có nhiều cơ hội làm việc chung với tôi (dàn dựng hay đóng cặp) khi còn học, hay khi ra đời như: Hoa Hạ, Xuân Hương, Nguyễn Thị Thẩm, Minh Phượng, Phương Linh, Thanh Thủy, Diệu Đức, Hồng Vân, Minh Nguyệt...
Có một thời gian, trong giới thích gắn tên tôi với một nữ diễn viên. Tạm kêu cô gái nầy là Hát. Đầu tiên, Hát coi tôi như ông anh của khóa trước, vở ti vi đầu tiên của Hát khi cô còn đang học năm thứ hai trong trường, đạo diễn mạnh dạn mời hai đứa tôi làm cặp nam nữ chính trong đó. Hồi đó mặt hai đứa trong vắt. Nhưng tôi được mời đóng nhiều loại vai hơn là Hát chỉ chết một vai đào đẹp, hiền ngoan. Khi tôi về sân khấu 5B, Hát và tôi có làm vợ chồng và tình nhân trong vài vở như Giấc Mộng Kê Vàng, Ngôi Nhà Không Có Đàn Ông. Vở trước chúng tôi được một tờ báo bình chọn là cặp đôi được yêu thích trong năm. Vở sau có một câu thoại nhiều người thích, khi tôi đến từ biệt Hạ để ra đi, tôi trong vai ông Thiện đã nói: “ Cái mà Hạ cần, tôi không có, và tôi lại có những thứ mà Hạ không cần”. Ngoài đời có lẽ cũng vậy. Hát có những điểm khá giống tôi, thông minh, hài hước, ít nhiều có máu nổi loạn. Nhưng đúng là cái Hát cần, như cần một sắc vóc để có thể làm đôi tiên đồng ngọc nữ, thì tôi bị thiếu ít nhiều, cái tôi dư thừa là sự cô đơn thì có nữ nghệ sĩ nào rước vào cái của nợ đó về chi cho nặng đời.
Có một thời gian Hát lụy vì những nam nhơn có vóc dáng đẹp mã. Sau nầy, tôi nghe Hát nói với người thân là tôi... toàn bích quá nên làm Hát sợ, thấy đặt tôi ở ngôi anh thì tốt hơn làm một người tình. Giữa tôi và một nam nhơn nổi tiếng sát gái, bạn dễ nhận ra Hát thà phiêu lưu với người ấy hơn an
toàn với sự lãng mạn nhẹ nhàng như mây như khói của tôi. Còn tôi đã lỡ đóng vai ông anh của Hát, thì cũng đành làm... anh luôn để còn có dịp gần nhau, ra tay chỉ bảo.
Giai đoạn đó tôi không hề thấy buồn hay lo mất Hát dù quanh Hát lúc nào cũng dìu dập kẻ đón người đưa, những Việt kiều, nghệ sĩ. Đại gia lúc đó chưa có nhưng cỡ trung gia theo Hát cũng khá đông. Không phải tôi A.Q. hay tử tế gì. Tinh thần tôi lúc ấy cũng có một điểm tựa vững chắc vào một người mà tôi vẫn chưa biết gọi danh xưng gì mới xứng: huynh đệ, bạn bè, hay một “Hồng Nam Tri Kỷ” với mình. Mà gẫm kỹ, có lẽ tên chính xác của tình cảm nầy là TÌNH BẰNG HỮU, một loại tình bằng hữu cao đẹp hơn cả tình yêu vì nó đã giúp nhau lớn lên về nhiều mặt thuộc về tâm hồn và cách sống.
Có thể tạm gọi đó là một người bạn. Anh cũng tên Biển. Bạn đã bao giờ có được một người bạn mà bạn quý từng giây phút gặp nhau, tiếc rẻ vô cùng khi con đường cùng đi với nhau sao chỉ có từng đó để câu chuyện đang khơi trào, tim bạn như đâu đó có một nguồn suối hạnh phúc phun chảy, thì bạn phải chia tay. Còn ai nhớ lớp tiễn đưa nhau của Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, cứ chàng Lương đưa “chàng” Chúc (do nàng Chúc giả trang) sang bên nầy cầu xong, lại đến phiên “chàng” Chúc thấy có bổn phận phải đưa chàng Lương trở lại, để cây cầu ở Nam Sơn Tiểu Lộ được cho tên là cây cầu dài nhất thế giới. Tôi và Biển có thời gian như vậy. Nhiều đêm đi diễn về chúng tôi tâm sự với nhau về chuyện đời, chuyện nghề, cách thế con người sống với nhau, kiến thức về những tác phẩm chúng tôi xem và từ đó so sánh sự khác biệt giữa những nhân vật trong đó với những khó khăn thật sự trong đời sống, những phần số, những thái độ, cách thế có những suy nghĩ độc lập để thoát cái bóng nghiêm khắc lớn lao của cha mình, của đạo giáo, của những định kiến, thành trì. Mải chuyện, có khi Biển đưa tôi về, bị lố một khúc và ngược lại. Biển là một người sống có lý tưởng, đã từng suýt hiến thân mình cho một tôn giáo. Anh cho tôi nhiều hơn là ngược lại, và đôi lúc tôi nghĩ mình may mắn khi có một người bạn lớn kiêm luôn cả làm người thầy,
hướng dẫn tinh thần cho mình.
Phải nói nhiều về nam nhơn tên Biển nầy của tôi bởi vì đùng một cái, tôi biết được Biển tỏ tình với Hát. Mà Hát thì đã có bao giờ là của tôi đâu, ngoài những giây phút phù du trên sàn diễn, màn hình? Bạn là tôi thì bạn sẽ xử sự như thế nào trong tình huống nầy? Đành lập lại lối cũ thôi, “ ta đi theo lối nhỏ, là lối an toàn ”. Tôi còn có thể làm gì khác chớ? Cả hai đẹp đôi, tài năng, cần nhau. Phải, lúc đó họ là những điểm tựa chắc chắn cho nhau. Hơn nữa, tôi yêu cả hai. Hơn cả tình yêu, tôi quý cả hai. Khi họ hạnh phúc có nghĩa là tôi được tới hai lần hạnh phúc. Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là tôi không chút nào đau đớn, mà phải nói chính xác là nỗi đau cũng tăng đến bốn lần. Bởi vì dễ gì tìm được lần nữa những Hát và những Biển của mình một thời tràn đầy nhựa nóng thanh xuân của yêu và sống.
Kết cục của cặp ba nầy thì không chỉ mình tôi độc thân. Biển sau nhiều cái đám cưới hụt với một số mỹ nhơn, hiện vẫn một mình. Hát thì xuất cảnh theo gia đình, gặp lại và kết hôn với người yêu đầu, thỉnh thoảng có về lại Việt Nam. Cô vẫn thu xếp ghé thăm tôi, đúng hơn là thăm sân khấu chúng tôi với lối trò chuyện hài hước khiến ai gặp cô cũng thấy tràn ngập niềm vui.
Cùng lúc quen với Hát và Biển, tôi còn quen thân với một đạo diễn tên Biển nữa. Chàng Biển nầy với tôi cũng khá thân, nhưng quan hệ của chúng tôi chỉ là những trao đổi về nghề. Giai đoạn đó cả hai đạo diễn Biển nầy, cùng một số nữa, là những đạo diễn trẻ có phong cách riêng. Quan trọng nhất là họ mới ra trường, bước vào đời với nhiệt huyết ngút trời, mơ mình sẽ xoay chuyển nhiều thứ. Chỉ tiếc là thời gian qua, để làm nghề, vài bạn phải “tô hồng” mình mới có thể làm “chuyên môn” cho đến ngày lòng son rồi cũng bị bào mòn nhạt dần theo năm tháng. Nghề cũng lơi mà đời cũng qua.
Nhiều người cho là tôi “lụy” Biển nầy hơn. Nhưng nếu quả thật như vậy, thì với tôi, tình cảm càng “lụy” nhau thì bộc phát, bộc tàn. Chỉ lâu bền hơn nếu bên cạnh tình yêu còn những việc làm chung, cần sự nể trọng nhau, sự chăm sóc nâng niu nhau. Và điều quan trọng nhất, phải là cùng chủng loại
mới cùng ngôn ngữ mà hiểu những lời nói của nhau. Để nhận ra nhau, không thể dùng mắt thường, mà chỉ bằng cảm nhận vô hình.
Trong giai đoạn nầy, cũng có nhiều người kết tên tôi với một đạo diễn khác, tên Ka. Đây cũng là một người sống sâu sắc, có tình người, tâm hồn cực kỳ nhạy cảm, mong manh và có máu nổi loạn giống tôi. Ka đã trao tặng tôi khá nhiều kiến thức, nhất là hướng tôi bung ra thế giới ngoài Việt Nam, giúp tôi nâng cao thẩm mỹ trong nghề cũng như trong đời sống. Tiếc là sau một vài tác phẩm làm chung, duyên của chúng tôi cạn. Trong công việc chúng tôi có vài bất hòa khó hàn gắn. Tôi đã quyết định kết thúc tình bạn nầy khi Ka đã ngộ nhận chính mình đã tạo ra tên tuổi cho tôi. Cậu ấy đã quên rằng dù là bạn nhưng trong hoạt động nghề nghiệp, tôi là thế hệ đàn anh.
Tôi muốn kể ở chương nầy một người bạn lớn nữa, một người chị, đội trưởng đội múa của tôi ở Nhà văn hóa Thiếu nhi Thành Phố. Đó là chị Phan Tiết Hồng Hà. Tôi ghi hẳn tên của chị nơi đây vì ngoài chuyện cho tôi đắm say trong thế giới múa, chị Hà còn là người góp một phần lớn trong việc giáo dục nhân cách tôi, từ văn hóa ứng xử giao tiếp, dạy cho tôi biết cách đối nhân xử thế không phải với tư cách người thầy mà còn kèm thêm những tâm tình đời riêng như một người bạn thân thiết.
Xin cho tôi ghi thêm nơi chương nầy, một nữ nhơn mà những tác phẩm của tôi đã được ảnh hưởng sâu đậm từ các tác phẩm của chị, dù tôi rất muốn đưa chị sang chương tôi nói về và tri ân những người thầy. Chị là Nguyễn Thủy Ea Sola, một biên đạo múa tài năng mang hai dòng máu Việt-Pháp, tên chị được ghi trong mục những phụ nữ tài ba của thế kỷ 20. Ai cũng biết để chỉnh gu - khiếu thẩm mỹ - của ai đó là một công việc cực kỳ gian nan. Sola là người thầy lớn cho tôi về Thẩm Mỹ. Duyên phần đưa đến, tôi được xem vài tác phẩm của chị, ở ngoài và trong nước, ở sàn diễn chính thức lẫn được kiến tập. Với một người làm việc nghiêm chỉnh, khó khăn với chính mình và cộng sự, được chị cho xem tác phẩm khi chưa hoàn chỉnh là một may mắn lớn.
Sau khi tôi được xem Hạn Hán và Cơn Mưa - một tác phẩm của Sola ở Paris, tôi có nói cho một người quen khác về cảm giác của tôi khi các nữ vũ công của Sola, những phụ nữ trung và lão niên, xõa những sợi tóc bạc như cước run rẩy trong ánh sáng lung linh, tôi cảm như một bể tinh trùng rùng rùng chuyển động. Người quen đó đã mang ý tưởng nầy ra hỏi Sola trong một bài phỏng vấn:
Hỏi: Được biết, khi các vũ công của chị quay lưng, xõa tóc, chuyển động đầu, đã có khán giả nhìn ra triệu triệu con tinh trùng đang rùng rùng chuyển động trên sân khấu, chị nghĩ sao?
Đáp: Tôi không quan tâm lắm. Nếu có thì chỉ một tí thôi: ví dụ các nhà khoa học đã cần có những điều kiện khác phức tạp, tốn kém mới có thể quan sát được những vật siêu nhỏ đến vô tận như vậy. Có lẽ các nhà khoa học nên tiếp xúc với khán giả đó và coi lại cách làm việc của mình.
Những tác phẩm của Sola ở nước ngoài được ủng hộ nhiệt liệt. Khi biểu diễn trong nước thì có dư luận trái chiều.
Được biết có lần một người bạn mời Sola xem tôi diễn một vở kịch ở sân khấu Idecaf, bước vào khu thiệp mời thấy toàn báo chí, hình như trong đó vài người đã viết lên án tác phẩm của mình, Sola xin được đổi sang ngồi khu khác ngay, nếu không nể nhau thì đã ra về rồi. Người phụ nữ nầy được trong giới xem như một người có thần kinh bằng thép. Không bằng thép sao chịu nổi khi chỉ mười lăm phút trước khi bay, Sola mới lấy được giấy phép mang cả đoàn rời nước, trong đó đa số là các bà nông dân có hai ngón chân cái khoằm và giao nhau như dấu hiệu của những người Giao Chỉ gốc. Vậy mà tôi đã từng được chứng kiến người phụ nữ thép ấy ngồi khóc lẻ loi một mình. Sola là người cực đoan, thấy ai liệng mình vào một trang web nào đó, thường yêu cầu phải lấy ra, thấy ai đưa máy lên chụp mình, đều lấy tay che mặt vì sợ bị lấy mất một chút nào đó, linh hồn của mình. Mong là những ghi chép dính líu về Sola ở chương nầy sẽ không nằm trong số phận đó.
Tôi đang phân vân nên nói nhiều về nghệ sĩ ưu tú Việt Anh ở chương
nầy hay ở chương đồng nghiệp. Chính anh nói tôi mới biết, khi còn là Thanh niên Xung phong, anh đã nảy ý mai mốt sẽ theo nghề diễn viên vì đã được xem tôi diễn trong một chương trình miễn phí cho sinh viên học sinh ở Nhà văn hóa Thanh niên, có những biến đoạn (chuyển từ loại hình khác như thơ, tranh, nhạc, truyện thành sân khấu) như Con Cá Chột Nưa (từ thơ cùng tên của Tố Hữu), Đánh Ghen (từ tranh dân gian Làng Hồ), Một Truyện Có Thật (từ truyện cổ tích của Andersen). Rời đoàn Trẻ, sau một thời gian diễn chui, tôi được về sân khấu 5B diễn chung với anh trong vở Dư Luận Quần Chúng , rồi gắn bó hơn qua các vở Lôi Vũ, Ngụ Ngôn Năm 2.000, anh Việt Anh cùng với hai đạo diễn Phú Hải, Minh Hải gần như bù đắp cho tôi một tình cảm mà tôi không thể tìm thấy ở gia đình: tình anh trai. Cũng ý thức cần tô hồng mình nhưng hoàn cảnh có cha đi học tập của anh khác với nhiều người giỏi chuyên môn khác. Khi sự kiện lớn của đời tôi và cũng của sân khấu 5B là tôi rời 5B sang một sân khấu mới, anh là người duy nhất không níu kéo. Đêm cuối diễn xong, anh chỉ cùng đạp xe về chung với tôi như bao đêm khác, im lặng không nói tiếng nào. Anh thấu hiểu.
Còn những ân tình nào nữa nên đưa vào chương nầy. Có những quan hệ với tôi tuy không thường xuyên nhưng cũng khá quý giá, từng cho tôi những kiến thức, thông tin, và cũng là một phần hồn của họ để giúp nhau làm nghề. Có thể một vài tên ở đây như tác giả, đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc, nhà thơ Đỗ Trung Quân, nhà thiết kế Kim B. và chồng chị - nhà báo Nhã Bình (đã mất).
Đồng nghiệp quá nhiều, bạn bè thì càng vô thiên lũng! Trong phạm vi những trang viết có giới hạn nầy, chỉ xin đặc biệt nhắc đến những cái tên mà họ thật sự có sức ảnh hưởng đến mình, cả tình cảm lẫn chuyên môn, với những đồng nghiệp tôi muốn nhắc đến là những người mà hoạt động nghệ thuật của họ thật sự đã chinh phục và có tác động tích cực đến chuyên môn của tôi, tôi thừa nhận trong phương thức sáng tạo nghệ thuật của mình, có ít nhiều tôi đã chịu ảnh hưởng từ họ.
Và thật là thiếu sót nếu tôi đã không nhắc đến nàng. Tôi gọi nàng là NÀNG vì trong mắt tôi nàng hội đủ mọi điều để tôi ngưỡng mộ: sắc vóc thanh nhã, vẻ đẹp hồn hậu, phong cách quí phái, sang trọng lại đằm thắm, và tài năng thì thuộc hàng xuất sắc. Lần đầu tiên nhìn thấy nàng hóa thân thành tiểu thư Juliette của William Shakespeare là tôi biết mình sẽ “chết” vì người nữ diễn viên nầy và đúng là từ đó tôi đã lụy với những vai diễn của nàng sau đó luôn! Nàng nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhưng vì từ chỗ cả hai cùng ngưỡng mộ nhau nên trở thành thân nhau từ thời khắc nào tôi cũng không nhớ chính xác, gọi nhau luôn là mầy tao mi tớ từ lúc nàng còn thiếu nữ đến lúc trở thành phu nhân. Phu quân của nàng nhiều tuổi hơn tôi, nhưng vì chúng tôi thân nhau quá nên có lúc tôi cũng mầy tao với hắn luôn. Cụ Đình Nghi có thổ lộ rằng trong dàn diễn viên đương đại - là vào cái thời điểm chúng tôi còn phơi phới tuổi thanh xuân lúc đó - ông chỉ đánh giá cao miền Bắc có nàng và miền Nam có tôi, cụ quý thương hai đứa tôi lắm nhưng cũng lạ là với nàng thì cụ gọi là con, trong khi với tôi thì cụ thích là anh em hơn!
Tôi học được từ cách diễn của nàng là sự bình tĩnh, điềm đạm cùng cách thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt, ôi cái đôi mắt ấy ẩn nấp sau vành nón lá lúc đứng đợi người tình ngoài sân ga (Bến Bờ Xa Lắc) , háo hức hy vọng rồi hoài nghi, rồi lại níu kéo và cuối cùng là thẫn thờ tuyệt vọng... cái đôi mắt ấy nó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, đã có nhiều nữ diễn viên vào vai diễn đó nhưng với tôi nàng là vô địch, có nhiều nữ diễn viên khác khi vào vai đó đã sao chép lại cách diễn của nàng, có vẻ tôi ca ngợi nàng hơi nhiều nhưng quả thật nàng đáng được như thế và tôi không ngượng miệng khi dành nhiều lời có cánh cho nàng. Có lần tôi ra Hà Nội để trình diễn vở kịch Monsieur Joudain Au Tonkin - Một công trình hợp tác kịch nghệ Việt và Pháp - chúng tôi gặp lại nhau mừng lắm, nàng đưa tôi đi chơi khắp nơi ngoại thành Hà Nội từ chùa chiền đến hang động núi non, lúc đó nàng đang mang thai đứa con đầu lòng, tôi thật sự lo lắng và ý thức bảo vệ nàng trong từng bước đi, xuống hang tôi là người xuống trước để đỡ tay nàng, chui lên mặt đất thì là người lên cuối để nâng tay nàng bước lên, có hang động bờ đá ẩm ướt trơn trượt,
tôi luôn mồm cảnh báo để nàng ý thức đi đứng trèo leo cho an toàn, cuối cùng nàng leo lên mặt đất được bình an còn tôi thì trượt té cái ạch và chính nàng lại là người chìa tay ra cho tôi nắm lấy và lôi tôi lên, xin miễn miêu tả về cái nỗi nhục của tôi lúc đó, tôi làm lơ cố để cho nàng đừng cười tôi, mà quả là nàng đã không cười và làm như chuyện đó đã không hề xảy ra, tôi biết nàng cố ý thế để tôi không ngượng, trên sân khấu nàng diễn tinh tế như thế nào thì ngoài đời nàng cũng ứng xử tinh tế không hề kém. Nàng có cộng tác với chúng tôi trong Sài Gòn một vở kịch cổ điển lãng mạn của Đức ( Âm Mưu Và Tình Yêu - đạo diễn Trần Minh Ngọc) và đó là một kỷ niệm rất đẹp trong tình bạn, tình đồng nghiệp chúng tôi đã có được cùng nhau. Quả thật hiếm tìm được một nữ nghệ sĩ đầy đủ tài sắc và đạo đức nghề nghiệp đáng trân trọng như Lê Khanh, người nữ kịch sĩ hiếm hoi của sân khấu Bắc thừa nhận những tinh hoa ưu thế của sân khấu kịch phía Nam, luôn là người khiêm tốn và chân thành, trung thực trong việc nhận định về giá trị nghệ thuật.
Khác với một vài mối tình ngang trái, tình câm nín, tình đơn phương, tình anh trai tôi đã kể trước, một điều tôi biết chắc về những người nầy là cùng với những khán giả ái mộ tôi, họ rất yêu tôi. Nhân đó, coi như mình bước sang phần được yêu. Đứng đầu những người yêu Thành Lộc, không kể gia đình, thân nhân, đồng nghiệp, phải kể đến các khán giả yêu dấu của tôi. Mà phải nói họ là nguyên nhân chính khiến cuốn ghi chép nầy ra đời.
Có những khán giả bước ra từ khối đông vô danh, tiếp cận rồi gần gũi luôn với không những tôi mà còn với sân khấu tôi, gia đình tôi, đời riêng tôi. Thậm chí, có những chuyện còn hơn một vở diễn nữa, ví dụ như tình cờ tôi biết, một nữ khán giả đã ly dị một đời chồng vì nhiều lẽ, trong đó có cả chuyện anh ta ghen... với tôi. (Cái nầy không cần la làng, nhiều người cũng biết chuyện nầy là Oan Ơi Ông Địa ). Thời tôi diễn ở 5B, có mấy khán giả thân với chúng tôi hơn cả gia đình. Đó là Trịnh Diễm Tú, người cung cấp khá nhiều phim và chỗ xem nhiều phim hay hiếm thời cô chưa đi xuất cảnh đến Tân Tây Lan. Đó là Lê Thị Huỳnh Nga, còn có biệt danh là Nga Bánh,