🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Lý Học Tội Phạm 2 - Stanton E. Samenow Ebooks Nhóm Zalo 9 PHẠM TỘI LÀ CHÍNH, MA TÚY LÀ PHỤ B áo cáo Chính thức năm 1963 của Ủy ban Cố vấn về Ma túy và Lạm dụng Ma túy của Tổng thống tuyên bố rằng, ma túy “có thể biến những người đàn ông và phụ nữ trẻ bình thường trở thành tội phạm”.1 Quan niệm này hiện vẫn tiếp tục được áp dụng rộng rãi không chỉ bởi các chuyên gia mà còn bởi các phạm nhân và gia đình của họ. Hết lần này đến lần khác, trong các buổi lấy lời khai, tội phạm luôn nói rằng ma túy đã thay đổi toàn bộ cuộc sống và khiến họ trở thành một người rất khác so với trước đây. Họ cho rằng vấn đề duy nhất của họ liên quan đến rượu hoặc ma túy. Dù hành vi phạm tội nghiêm trọng đến mức nào thì họ đều bác bỏ quan điểm mình là “tội phạm”. Nhiều kẻ phạm tội cho rằng lạm dụng chất kích thích đã khiến họ phạm tội. Trong một vụ giết người, một người đàn ông khẳng định, “Tôi không giết anh ta. Chính ma túy đã thực hiện điều đó”. Các thành viên trong gia đình và những người khác nghĩ rằng họ biết rõ về kẻ phạm tội và cũng quy kết toàn bộ các hoạt động bất hợp pháp của anh ta là do ma túy hoặc rượu mà ra. Một người vợ từng nói: “Tony là một người hoàn toàn khác khi anh ấy uống rượu. Khi đó, anh ấy không phải là người đàn ông mà tôi đã kết hôn”. Trước khi bị kết án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc theo luật của bang Ohio, kẻ giết người đã bị tuyên án-một kẻ từng nghiện Cocaine- Frederick Treesh nói trong phát biểu cuối cùng: “Chính ma túy sẽ dẫn bạn đến con đường hôm nay” ?2 Hành vi phạm tội không nằm trong chai rượu, viên thuốc lắc, bột ma túy hoặc bất kỳ chất kích thích nào. Ma túy chỉ làm lộ rõ và phát triển những gì vốn đã cư ngụ bên trong một con người. Chúng không biến một người có trách nhiệm trở thành tội phạm. Nếu mười người say rượu, cả mười người này sẽ không hiếp dâm, cướp của hay giết người. Họ có thể ngủ thiếp đi, gây om sòm hoặc hành động một cách hiếu chiến; hành vi của họ tùy thuộc vào tính cách của họ trước khi họ uống ngụm rượu đầu tiên. Mọi thứ do con người nghĩ ra đều có thể được sử dụng để đổ lỗi cho hành vi tội ác, và điều tương tự cũng đúng đối với lý do tại sao nhiều người trở thành những kẻ nghiện ma túy. Nhiều nhà xã hội học mô tả việc sử dụng ma túy như một phản ứng bình thường đối với các hoàn cảnh chán chường. Hoặc họ hướng sự chú ý đến một văn hóa coi trọng sự hài lòng tức thì. Các nhà tâm lý học trích dẫn một số tấm gương xấu – như việc bố uống rượu hay mẹ dùng thuốc để xoa dịu thần kinh. Đưa ra vấn đề áp lực từ bạn bè, một người sử dụng ma túy cho rằng bạn bè của anh ta đã kích động anh ta sử dụng thứ đó và cho rằng “mọi người đều làm điều đó”. Các nhà phê bình xã hội chỉ trích những thước phim hào nhoáng của ma túy trong phim ảnh và truyền hình, đồng thời khẳng định các thanh thiếu niên sử dụng ma túy vì chúng thấy những vận động viên và những người nổi tiếng khác cũng say mê thứ đó. Nhà tâm lý học Neil Bernstein nhận xét, “[Thanh thiếu niên] xem những bộ phim… tôn vinh cuộc sống về đêm tại các quán bar và câu lạc bộ”.3 Danh sách các lý do giải thích cho việc mọi người sử dụng ma túy dường như dài vô tận. Những lời giải thích này được người dùng ma túy sử dụng để biện minh cho hành vi của họ mặc dù họ đã có đủ lý do bào chữa cho riêng mình. Một người có tính cách tội phạm cho biết họ sử dụng ma túy là để giải thoát bản thân. Nhiều chuyên gia đồng tình với lời giải thích rằng ma túy giúp thoát khỏi thực tế khắc nghiệt của cuộc sống, sự buồn chán hoặc tuyệt vọng. Nếu bạn hỏi một kẻ sử dụng ma túy xem anh ta đang cố thoát khỏi điều gì, câu trả lời có thể là những lời phàn nàn về điều kiện sống tồi tệ hiện tại của anh ta. Tuy nhiên, những người khác, bao gồm cả gia đình và hàng xóm, cũng sống trong cùng một môi trường ảm đạm như vậy nhưng họ không sử dụng ma túy. Nếu bạn nhắc đến những lý do giải thoát bản thân với tội phạm, anh ta có thể nêu ra những tình huống đau buồn cụ thể, một số tình huống do anh ta tạo ra hoặc bị gây ra từ sự vô trách nhiệm của chính anh ta. Anh ta không có việc làm, nhân viên thu tiền đang liên tục nhắc nhở, anh ta không có đủ tiền để đi sửa xe, vợ anh ta chán nản và dọa bỏ đi. Lý do lớn nhất mà những tội phạm sử dụng ma túy là nhằm trốn tránh các yêu cầu trong một cuộc sống có trách nhiệm mà người khác đặt ra. Thứ quan trọng hơn lối thoát mà ma túy tạo ra chính là cảm giác phấn khích. Michael, một phạm nhân bị kết án, nói rằng anh ta sử dụng ma túy để tìm cho mình lối thoát, sau đó dừng lại để hỏi một cách khoa trương: “Tôi đang chạy trốn cái gì nhỉ?” Anh ta trả lời câu hỏi của chính mình: “Tôi đã có một cuộc sống khá tốt đẹp. Tôi đã chối bỏ cuộc sống đó. Nhiều người đã gặp phải những hoàn cảnh khủng khiếp và họ không hề làm điều này. Đó là cảm giác phấn khích, cảm giác dồn dập của adrenaline. Tôi ghét sự nhàm chán. Liên tục chi trả các hóa đơn, cuộc sống thật nhàm chán. Tôi thích cảm giác phấn khích hơn là một cái đầu bị tê liệt”. Việc phải thanh toán các hóa đơn tượng trưng cho điều mà anh ta coi là cuộc sống vui nhộn của một người bình thường, có trách nhiệm nhưng chắc chắn không dành cho anh ta. Các phương tiện truyền thông tấn công mọi người bằng các báo cáo kịch tính hóa việc sử dụng ma túy trong giới trẻ. Số liệu thống kê thường bị sai lệch. Cảm giác tò mò đã kích thích hàng triệu người sử dụng ma túy, tuy nhiên hầu hết thời gian sử dụng của những người đó thường rất ngắn. Những số liệu thống kê về tình trạng sử dụng ma túy được gộp chung với nhau bao gồm cả những người thử dùng một lần hoặc một vài lần và những người sử dụng thường xuyên trong nhiều năm. Ví dụ, trong một báo cáo năm 2011, Trung tâm Quốc gia về Tình trạng nghiện và Lạm dụng Chất gây nghiện của Đại học Columbia nhận thấy, 75% học sinh trung học “đã sử dụng rượu, thuốc lá và ma túy hợp pháp hoặc bất hợp pháp”.4 Từ “đã sử dụng” có thể dùng để chỉ tần suất vào một dịp nào đó hoặc hằng ngày. Những nhân viên tư vấn về ma túy và người sử dụng ma túy cho rằng ma túy được sử dụng để “tự điều trị” cho bản thân. Tiến sĩ Edward J. Khantzian của Trường Y Harvard, được đánh giá cao với những giải thích về vấn đề tự dùng thuốc, phát biểu rằng đau khổ là “trung tâm của” các rối loạn gây nghiện.5 Tuy nhiên, hầu hết “nỗi đau khổ” này thường không có gì ngoài những áp lực và khó chịu đời thường - sống nhờ vào ngày lương này sang ngày lương khác, đối mặt với tình trạng hôn nhân không bền chặt, bị khiển trách trong công việc hoặc thay lốp xe hơi vào một ngày tháng Bảy nóng nực. Các tài liệu chuyên môn có đề cập đến việc những người chuyển sang sử dụng ma túy để đối phó với hầu hết mọi vấn đề đau khổ tâm lý mà họ có thể nghĩ ra – bị lạm dụng, chấn thương, tức giận, trầm cảm và lòng tự trọng thấp. Dù học thuyết tự điều trị đã được đưa ra, tuy nhiên không có bộ thống kê nào chỉ ra rằng hầu hết mọi người chuyển sang sử dụng ma túy bất hợp pháp hoặc lạm dụng thuốc kê đơn để đối phó với các tình huống khó khăn. Thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Những người có trách nhiệm đối mặt với khủng hoảng một cách có trách nhiệm. Dù đối mặt với bệnh tật, mâu thuẫn gia đình, các vấn đề trong công việc hoặc khó khăn về tài chính, họ không tiêm heroin, hít Cocaine hay sử dụng các loại ma túy bất hợp pháp khác, cũng như không lạm dụng các loại ma túy hợp pháp. Tội phạm thường xuyên lạm dụng các chất kích thần hoặc các loại thuốc kê đơn sẽ vĩnh viễn không thể có được cảm giác hài lòng, luôn bồn chồn, cáu kỉnh và buồn chán. Trước khi ma túy xuất hiện, anh ta là một kẻ kiểm soát, một kẻ nói dối, một người tự đề cao bản thân bất chấp gây tổn hại những giá trị của người khác. Trong tất cả các trường hợp tôi gặp phải, những kẻ phạm tội vốn đã chìm đắm trong tội ác trước khi hắn hút điếu cần sa đầu tiên, sử dụng viên thuốc lắc đầu tiên hay chích heroin lần đầu tiên. Tội phạm sử dụng ma túy ngay cả khi chúng còn khỏe mạnh, được giáo dục tốt, có công việc lương cao và một gia đình tận tụy. Theo quan điểm của chúng, cuộc sống là một chuỗi các sự kiện rời rạc không hồi kết, trong đó chúng phải vật lộn để kiểm soát mọi người và mọi tình huống. Một phạm nhân giải thích: “Tôi đã xem cuộc đời mình như một chuỗi sự kiện không có sự kết nối. Theo một khía cạnh nào đó, tôi luôn tìm kiếm quyền lực và quyền kiểm soát, tạo ra cơ hội để xóa bỏ những câu chuyện chiến tranh trong mọi thời điểm. Mong muốn được sống một cuộc sống đầy thách thức xâm chiếm đời sống đạo đức của tôi. Tôi luôn tự nhận mình là người đứng ngoài rìa trong mọi vấn đề. Hãy vượt qua giới hạn, trải nghiệm niềm vui và cảm nhận thứ thuốc adrenaline”. Tính sẵn có sẽ quyết định sự lựa chọn chất kích thần của tội phạm. Rượu là một sản phẩm hợp pháp và dồi dào. Các điều kiện trên thị trường ma túy luôn thay đổi, trong đó những gì được bán ra ngày hôm nay có thể khan hiếm vào ngày mai. Chất lượng của các chất cũng có thể là một yếu tố cần xem xét vì một số loại ma túy có thể lẫn tạp chất. Các chất kích thần mới liên tục xuất hiện trên thị trường và có thể dễ dàng mua được trên các trang mạng điện tử. “Muối tắm”, một loại ma túy có thể tiêm hoặc hít, là một trường hợp điển hình. Theo Cục Quản lý Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần và Lạm dụng Chất gây nghiện, sản phẩm không phải sử dụng trong nước tắm này “có liên quan đến một nhóm ma túy mới có chứa một hoặc nhiều hóa chất liên quan đến cathinone, một chất kích thích giống amphetamine”.6 Theo Viện Quốc gia về Lạm dụng Ma túy (NIDA), “muối tắm” ở dạng “một loại bột tổng hợp được bán trực tuyến một cách hợp pháp trong các cửa hàng bán thuốc dược phẩm với nhiều tên gọi khác nhau”.7 Glen Hanson, một nhà nghiên cứu do NIDA tài trợ, nhận xét về những người sử dụng “muối tắm” và cách họ cư xử, “Họ làm những việc thực sự vô nghĩa đối với toàn bộ chúng ta nên chúng ta chỉ biết vò đầu bứt tai”.8 Nếu ai đó hiểu được tâm trí tội phạm, hành vi đó sẽ rất có ý nghĩa. Những người sử dụng lâu năm thích một số loại ma túy nhất định cho các mục đích cụ thể và được thông báo đầy đủ về những ưu điểm và nhược điểm của từng loại. Amphetamine mang lại nguồn năng lượng nhanh chóng nhưng gây suy nhược nghiêm trọng sau khi ngừng sử dụng. Thuốc phiện đánh bật nỗi sợ hãi và cải thiện tư duy (với liều lượng tối ưu), nhưng gây ra nguy cơ bị phụ thuộc. Thuốc an thần - thôi miên giúp tội phạm có thái độ “không quan tâm”, nhưng rất khó điều chỉnh liều lượng và gây ra nguy cơ phụ thuộc cao về thể chất. Cần sa là một loại ma túy được dùng nhiều trong các bữa tiệc, tương đối dễ kiếm nhưng không đủ mạnh nếu người dùng đang tìm cách giảm bớt nỗi sợ hãi về hành vi phạm tội. Một số người nói về “sự can đảm” mà rượu mang lại để tiếp cận và dụ dỗ một ai đó. Một số người khác tự nguyện từ bỏ đồ uống có cồn vì nó cản trở quá trình phối hợp và tư duy. Liên quan đến cần sa, con lắc đã xoay chuyển từ nỗi sợ hãi “sự điên rồ của cần sa” trong nửa đầu thế kỷ XX đến việc hợp pháp hóa chất này để sử dụng trong y tế ở mười tám bang và thủ đô Washington, DC. Vào tháng 11 năm 2012, cư dân của bang Colorado và Washington, DC. đã bỏ phiếu cho phép tất cả những người từ 21 tuổi trở lên được mua hợp pháp một ounce (tương đương khoảng 28g) cần sa để sử dụng cho mục đích cá nhân. Hoạt động buôn bán cần sa hợp pháp đầu tiên cho công chúng được thực hiện vào ngày 1 tháng 1 năm 2014 tại Colorado, Bang Washington cấp giấy phép hợp pháp hóa cần sa đầu tiên vào ngày 5 tháng 3 năm 2014. Ấn bản số ra tháng 6 năm 2013 của tờ Washington Launger cho biết các thành viên Quốc hội đã đưa ra các dự luật hợp pháp hóa cần sa ở cấp liên bang.”9 Mọi người có nguy cơ bị đánh lừa rằng cần sa là một thứ vô hại. Ý kiến này không được chia sẻ bởi các bậc cha mẹ, những người đã chứng kiến một đứa trẻ trở thành kẻ thường xuyên sử dụng cần sa hay bởi các nhà tư vấn và nhà trị liệu điều trị cho những người sử dụng cần sa. Có bằng chứng cho thấy sử dụng ma túy trong thời gian dài có thể gây hại cho phổi và cơ quan sinh sản. NIDA báo cáo rằng những người sử dụng nhiều cần sa từ thời niên thiếu cho thấy khả năng nhận thức bị tổn thương [mà] không thể phục hồi dù đã bỏ thuốc khi trưởng thành”.10 NIDA cũng trích dẫn dữ liệu từ một số nghiên cứu cho thấy, “Việc sử dụng cần sa làm tăng gấp đôi nguy cơ bị tai nạn của người lái xe”. (Theo bản tin của Reuters, tại bang Washington, số lượng tài xế bị cảnh sát dừng xe kiểm tra đã có kết quả xét nghiệm dương tính với các thành phần kích thần có trong cần sa, THC, nhiều hơn so với thời điểm trước khi loại thuốc này được hợp pháp hóa để “giải trí”)11. Đáng sợ nhất khi chứng kiến là tổn thương tâm lý – được gọi là hội chứng động lực - khi người dùng thường xuyên trốn tránh gia đình, trường học và các bạn bè sống có trách nhiệm. Cần sa đã tạo nên nền tảng trong cuộc sống của một số người phạm tội. Một người đàn ông bị bắt vì gạ gẫm các bé gái vị thành niên nói với tôi rằng anh ta coi cần sa là “vitamin cho hạnh phúc của tôi”. Anh ta khẳng định: “Nó làm cho tôi lạc quan hơn và quan tâm đến mọi thứ”. Jack, một thiếu niên trẻ tuổi, đã cực kỳ phấn khích khi mô tả tầm quan trọng của ma túy. “Sau khi thử dùng [cần sa] một vài lần, tôi đã thường xuyên sử dụng nó. Cuộc sống của tôi bắt đầu xoay quanh cần sa. Tâm trí tôi luôn tràn ngập những suy nghĩ khi nào tôi nên hút thuốc, làm thế nào tôi có thể có được nó và thực sự là rất “phê”. Vì vậy, về cơ bản, nếu không có được trạng thái phê pha, tôi sẽ nói về nó, suy nghĩ về nó hoặc cố gắng đạt được nó. Tôi muốn hẹn hò với người khác không phải vì tôi thích họ mà vì những gì tôi có khi thoát khỏi nó, một thứ ‘cỏ dại’. Ngay cả khi tôi không thích một người nào đó, nhưng nếu điều đó giúp tôi thoát khỏi tình trạng này, thì tôi cũng sẽ trở thành bạn của họ”. Chàng trai trẻ này bắt đầu sử dụng cần sa vào sáng sớm và hút nó liên tục cả ngày lẫn đêm. Đối với một số người trẻ tuổi, một khi cần sa mất đi sức hấp dẫn, nó sẽ trở thành một loại ma túy “cửa ngõ” để sử dụng các chất khác. Chắc chắn những người dùng cần sa thường xuyên như Jack sẽ ngày càng bị phụ thuộc. Trong tuyên bố của NIDA, hoạt động điều trị vấn đề này hiếm khi thành công, “thậm chí với những biện pháp điều trị hiệu quả nhất dành cho người trưởng thành, cũng chỉ có khoảng 50% người đăng ký điều trị đạt được khoảng thời gian kiêng trong 2 tuần đầu tiên và trong số những người điều trị thành công, khoảng một nửa sẽ tiếp tục sử dụng trong thời gian một năm tiếp theo”.12 Đối với những cá nhân có tính cách tội phạm, việc sử dụng ma túy chủ yếu tạo tiền đề cho những tội ác lớn hơn và nguy hiểm hơn, xâm chiếm tình dục cũng như cảm giác kiểm soát và quyền lực ngày càng lớn. Nếu người sử dụng ma túy mong muốn tìm kiếm một thứ tâm linh nào đó thì anh ta sẽ được trải nghiệm thứ đó. Nếu anh ta bị trầm cảm và nghĩ đến việc kết liễu cuộc đời, ma túy có thể khiến anh ta suy nghĩ và thực hiện hành vi tự sát. Jack tâm sự rằng anh ta thường cảm thấy buồn chán. Thông thường, cần sa giúp anh ta thoát khỏi nỗi buồn. Tuy nhiên, có những thời điểm anh ta ngày càng trở nên u ám và từng nhiều lần tự sát vì sử dụng cần sa. Những kẻ phạm tội hiểu rõ những rủi ro nghề nghiệp khi thực hiện hành vi phạm pháp: bị bắt, bị kết án và ngồi tù. Chúng cũng biết rằng bản thân có thể bị thương hoặc bị giết khi phạm tội. Đối với nhiều người, ma túy cho họ “trái tim” để thực hiện những việc họ cảm thấy lo sợ. Bob thường mơ tưởng sử dụng súng để cướp cửa hàng tiện lợi nhưng lại cảm thấy bản thân “quá gà”. Khi heroin len lỏi trong huyết quản, anh ta trở nên phấn khích, mua một khẩu súng lục và thực hiện điều đó. Heroin không khiến Bob có được khẩu súng đó, việc sử dụng ma túy chỉ đơn giản là giúp anh ta dễ dàng loại bỏ nỗi sợ hãi tạm thời để hành động theo những gì trước đây anh ta vốn chỉ dám cân nhắc. “Ma túy loại bỏ sự thận trọng của tôi”, một người dùng ma túy khác thừa nhận. Người này đã bất chấp mọi rủi ro khi đột nhập vào nhà người dân để ăn trộm giữa ban ngày, điều mà anh ta vốn rất sợ hãi nếu không sử dụng ma túy. Manny, 23 tuổi, đã thử gần như mọi loại ma túy và loại anh ta yêu thích là Cocaine: “Cocaine khiến tôi cảm thấy như mình đã thành công. Tôi yêu nó. Tôi luôn ám ảnh về nó”. Manny không lạ gì việc thực hiện những tội ác trước khi sử dụng ma túy. Anh ta bắt đầu ăn cắp vặt tiền của mẹ mình khi mới 12 tuổi, gọi điện chơi khăm mọi người, ném trứng vào nhà, tháo hơi săm xe người khác, lấy trộm xe đạp, bắn vỡ kính chắn gió bằng súng thể thao, lái xe khi không có bằng lái và trộm cắp tài sản. Anh ta bắt đầu sử dụng rượu, sau đó là cần sa, Cocaine và các loại ma túy khác. Khi anh ta thường xuyên sử dụng Cocaine thì số lượng hành vi phạm tội cũng tăng vọt. Anh ta ngày càng tiêu xài xa hoa hơn, tiêu tiền tại các quán bar và nhà hàng sang trọng, mua quần áo hàng hiệu và mua những món quà xa hoa cho bạn gái. Để có tiền chi tiêu, Manny đã tự ý sử dụng sổ séc của mẹ, giả mạo tên của bà và lấy tiền chi tiêu từ những tấm séc này. Anh ta cũng thực hiện nhiều vụ trộm cắp vặt cũng như các vụ trộm cắp lớn. Anh ta cảm thấy rằng mọi thứ trong cuộc sống đều trở nên tốt hơn khi có cocaine, kể cả chuyện quan hệ tình dục cũng có vẻ mãnh liệt hơn vì anh ta “kéo dài được thời gian hơn”. Tuy nhiên, niềm phấn khích lớn nhất đều xoay quanh việc có được nó, hút nó và bán nó. Vừa đi vừa nghĩ về nơi sẽ mua nó cũng mang lại cho anh ta một cảm giác phấn khích. Khi tôi phỏng vấn Manny, anh ta đã bị bắt giữ và buộc tội giả mạo sổ séc cùng các tội danh khác. Ở trong tù với trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, anh ta thừa nhận đã cáu kỉnh khi không có ma túy đến nỗi cảm thấy “như đang đánh nhau và xé nát đầu ai đó”. Anh ta cho biết, “thứ tuyệt vời tiếp theo để có được cảm giác phấn khích” là nói chuyện với các tù nhân khác về ma túy. Sau đó, anh ta sẽ bình tĩnh hơn, đi vào giấc ngủ nhanh hơn và thường xuyên mơ về ma túy. Manny chia sẻ: “Thật ngạc nhiên khi tôi có thể tự đánh lừa mình với suy nghĩ rằng cuộc sống của tôi thật đáng sống. Tôi nghĩ mình thực sự là một người tốt, thông minh và nhạy cảm”. Anh ta nói thêm, “Tôi sẽ là một người khá tử tế nếu không sử dụng ma túy”. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Anh ta không bao giờ bận tâm đến những nỗi đau anh ta gây ra với các nạn nhân, trong đó mẹ anh ta chính là người chịu nỗi đau lớn nhất. Giống như Manny, những kẻ phạm tội cũng muốn giành vị trí đứng đầu trong hoạt động tình dục và các khía cạnh khác của cuộc sống. Vì ma túy đánh bay nỗi sợ bị từ chối nên tội phạm trở nên táo bạo hơn trong việc tiếp cận bạn tình. Một người đàn ông khẳng định: “Nếu không có ma túy, tôi chỉ có cơ hội 50-50 với một người phụ nữ, nhưng nếu có ma túy, tôi chắc chắn sẽ có được cô ấy”. Anh ta nói rằng trước khi hẹn hò, sử dụng ma túy là việc làm quan trọng - đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề của bản thân”. Với từ “giải quyết”, ý anh ta là loại bỏ nỗi sợ hãi của bản thân. Khi có ma túy trong người, tội phạm thường ít kén chọn hơn khi lựa chọn bạn tình. Một người đàn ông nhận xét: “Tôi không quan tâm cô ta bị điếc, câm hay mù. Tất cả những gì tôi muốn là thân thể của cô ta”. Người sử dụng ma túy không chỉ quan hệ tình dục với những người mà anh ta thậm chí không hề nghĩ đến mà còn khiến bản thân và bạn tình của mình gặp những vấn đề nguy hiểm hơn, như bị cướp, bị tấn công hoặc mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Những lo lắng về khả năng tình dục biến mất khi dùng thuốc, cho dù đó là nỗi lo về kích thước bộ phận sinh dục, bất lực hay xuất tinh sớm. Mức độ thèm muốn theo đuổi tình dục thay đổi tùy theo loại và liều lượng ma túy cụ thể. Nhiều người tự hào về sự can đảm của họ khi sử dụng heroin, tuy nhiên khi việc sử dụng ma túy ngày càng gia tăng, họ mất dần hứng thú. Một số kẻ phạm tội không coi việc sử dụng ma túy để thực hiện hành vi phạm tội hay theo đuổi các cuộc chinh phục tình dục. Họ biết rằng ma túy sẽ gây ra những trở ngại do khả năng cảnh giác bị suy yếu và dễ bị bắt giữ hơn. Họ sử dụng ma túy trong khi giao tiếp xã hội, loại bỏ tính nhút nhát và trở nên hòa đồng hơn trong một bữa tiệc. Một thanh niên nói với tôi rằng anh ta trốn trong lớp vỏ bọc xã hội, nhưng khi sử dụng ma túy “Tôi cảm thấy như mình sống lại”. Anh ta chia sẻ rằng nếu trong một căn phòng có bảy người và không có ma túy, anh ta sẽ im lặng. Tuy nhiên, nếu sử dụng ma túy, “Tôi sẽ nói chuyện với từng người trong số họ”. Vào năm 1945, nhà phân tâm học Otto Fenichel đã trích dẫn “sự phát triển khác thường của lòng tự trọng” mà những người nghiện trải qua khi họ sử dụng ma túy.13 Hãy hỏi một người nghiện ma túy về cảm giác “phê” mà anh ta nhắc đến là gì. Sau khi bày tỏ hoài nghi về sự ngây thơ của bạn, anh ta sẽ đưa ra một câu trả lời mơ hồ về cảm giác tốt đẹp trong người hoặc có thể nói rằng anh ta trở nên “hưng phấn”. Nếu tiếp tục thăm dò, bạn sẽ nghe thấy những câu như, “Khi dùng ma túy, tôi cảm thấy mình cao hơn 3m. Với ma túy, tôi cảm thấy mình có thể làm bất cứ điều gì”. Những kẻ sử dụng ma túy đang mô tả cảm giác “phê pha” khi có thể kiểm soát cũng như vượt qua hoặc loại bỏ hoàn toàn bất kỳ rào cản nào đối với những gì anh ta muốn làm. Những kẻ phạm tội có thể sử dụng các loại thuốc gây ảo giác hoặc “mở mang đầu óc” như peyote hoặc nấm gây ảo giác. Các chất gây ảo giác xuất hiện trong thực vật tự nhiên thường được sử dụng trong các xã hội cổ đại và vẫn tiếp tục tồn tại trong một số nền văn hóa đương đại để thực hiện các hoạt động mang tính tôn giáo. Tội phạm sử dụng những chất này cùng với các chất gây ảo giác tổng hợp hiện đại như LSD (“axit”) hoặc MDMA (được gọi với cái tên phổ biến là “thuốc lắc” hoặc “Molly”). Khi đi vào những trải nghiệm mang tính tôn giáo, những kẻ phạm tội thú nhận rằng chúng có được những cái nhìn độc đáo về bản chất của vũ trụ và ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng thay vì tiếp xúc với Đức Chúa Trời, họ cảm thấy mình giống như một vị thần trong sự toàn năng và toàn trí của bản thân. Nếu tội phạm trở nên chán nản đến mức xuất hiện những ý nghĩ tự tử để giải trí thì ma túy có thể thúc đẩy những ý nghĩ đó. Sự tuyệt vọng của anh ta không liên quan đến những thiếu sót của bản thân. Đúng hơn, những bất công của cuộc đời đè nặng lên anh ta hơn bao giờ hết. Anh ta tuyệt vọng vì không được thế giới nhìn nhận như những gì mình mong muốn. Do đó, anh ta không còn nhìn thấy động lực để tiếp tục cuộc sống này. Nếu bị kìm nén trong thời gian dài, anh ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ ở mức cao nhất do không thể thực hiện hành vi phạm tội cũng như thể hiện bản thân là một một cá nhân đầy quyền lực đã sụp đổ, ít nhất là trong một khoảng thời gian nào đó. Thực hiện một hành động tự sát sẽ tạo ra những tác động rất lớn. Dùng thuốc quá liều, tự cắt cổ hoặc tự gây thương tích nghiêm trọng sẽ buộc mọi người phải chú ý tới anh ta. Mọi người nhiều khả năng sẽ bảo vệ tên tội phạm, chấp thuận những mong muốn và cố gắng giảm bớt nỗi đau khổ của hắn. Vì ma túy gây ảnh hưởng đến khả năng phán đoán của tội phạm nên anh ta có thể tính toán sai và vô tình tự sát khi dùng quá liều hoặc gây ra vết thương chí mạng. Hoặc anh ta có thể quyết tâm kết thúc tất cả, một việc mà anh ta vốn không dám thực hiện khi còn tỉnh táo. Liều thuốc giải độc cho ý nghĩ tự tử đó là khẳng định lại bản thân, giành lại quyền kiểm soát và khẳng định quyền lực của mình–nói ngắn gọn là phạm tội. Những tội phạm thường xuyên sử dụng các chất kích thân thường quy kết phần lớn những hành vi của chúng là do tình trạng nghiện ngập. Từ “nghiện” bị lạm dụng quá mức đến nỗi nó đã bị cướp đi ý nghĩa thực tế. Hầu như bất cứ điều gì một người thích hoặc làm quá mức đều được gọi là nghiện. Đó thực sự là một danh sách cực kỳ dài. Ngoài nghiện ma túy và rượu, một số tài liệu chuyên ngành còn xuất hiện những thông tin về nghiện tình yêu, nghiện quan hệ tình dục, nghiện Internet, nghiện bóng đá, nghiện mua sắm, nghiện trộm cắp, nghiện cờ bạc, nghiện kết giao, nghiện trò chơi điện tử, nghiện nhận được sự đồng ý và nghiện đồ ăn. Ngay cả những người nói rằng anh ta cần một hoặc hai tách cà phê để bắt đầu ngày mới cũng có thể bị coi là nghiện caffein. Một số tội phạm đòi hỏi một lượng chất ngày càng nhiều hơn để có được tác động giống như họ từng có khi sử dụng một lượng ít hơn. Đây được gọi là “hiệu ứng dung nạp thuốc”, và sự phụ thuộc về mặt thể chất có thể ngày càng tăng. Từ lâu đã xuất hiện những tranh cãi về việc liệu nghiện ma túy có phải là một căn bệnh hay không. Trong bản tin Mental Health Matters, Cơ quan sức khỏe tâm thần Centra tại Lynchburg, Virginia đã đưa ra một thông tin dường như nhận được sự đồng thuận của các chuyên gia hiện nay: “Người nghiện rượu hoặc các loại ma túy khác đều được coi là bị bệnh”.14 Có một điều chắc chắn là: Chính các cá nhân tự lựa chọn hình thức tiêm, nuốt hoặc hít một loại chất cụ thể. Anh ta đưa ra một loạt các quyết định để có được nó, sử dụng nó khi nào và ở đâu cũng như với liều lượng thế nào. Một người không thể nói không với ung thư nhưng anh ta có thể nói không với ma túy. Tội phạm nắm bắt quan niệm về căn bệnh này và sử dụng nó để giải thích cho hành vi của hắn: “căn bệnh của hắn chính là nguyên nhân. Khi bị bắt vì phạm tội nào đó, tội phạm sẽ có những cách thức hiệu quả để thuyết phục người khác rằng hắn bị nghiện và mất kiểm soát. Quan điểm đưa ra là anh ta là nạn nhân của ma túy và cần được điều trị, tư vấn và không đáng bị giam giữ. Các cơ quan thực thi pháp luật và thẩm phán có thể không nắm được mức độ xoay quanh ma túy trong cuộc sống của tên tội phạm. Hơn nữa, họ có thể không nhận ra rằng tội phạm muốn duy trì sự kiểm soát và sẽ chỉ áp dụng biện pháp xử lý khi hệ thống tư pháp hình sự buộc anh ta phải làm như vậy. Trong một số trường hợp khác, tội phạm có thể che giấu sự thật anh ta từng lẩn trốn các chương trình cai nghiện trước đây hoặc có thể hoàn thành chương trình nhưng lại tiếp tục sử dụng ma túy sau đó. Tình trạng nghiện ngập của kẻ phạm tội không chỉ xảy ra đối với ma túy, mà đó còn là cả một lối sống. Sự phấn khích luôn tồn tại mỗi khi sử dụng ma túy, ngay cả thời điểm trước khi anh ta sở hữu chất gây nghiện - mơ tưởng về ma túy, nói về ma túy, tìm đường vào các khu vực bán ma túy nguy hiểm và cảm giác hồi hộp khi giao dịch. Một nam thanh niên than vãn rằng anh ta không thể đi làm vì bị phạt quá nhiều lỗi giao thông khiến anh ta bị treo bằng lái xe. Tuy nhiên, anh ta đã tìm cách đi qua mọi quãng đường để mua được heroin. “Tôi đi vào thành phố nhưng không phải cùng mẹ đến cửa hàng mà là đi tham quan”, anh ta nói. “Tham quan” ám chỉ việc đi vào những khu vực nguy hiểm để mua ma túy. Gặp gỡ mối quan hệ của anh ta, tìm một nơi an toàn để thực hiện giao dịch và mặc cả, cố gắng xác định độ mạnh và độ tinh khiết của ma túy đều là một phần mang lại sự phấn khích. Ngoài việc thu được lợi nhuận từ việc bán ma túy, nhu cầu tìm kiếm “khách hàng” cũng thôi thúc những kẻ buôn bán ma túy ở mọi lứa tuổi. Theo một báo cáo của hãng tin Associated Press, vào ngày 8 tháng 10 năm 2013, một người đàn ông 89 tuổi phạm tội vận chuyển ma túy giữa các tiểu bang với hơn 90kg cocaine. Đây không phải là lần vi phạm đầu tiên và các cơ quan có bằng chứng cho thấy ông ta đã tham gia buôn bán ma túy trong suốt hơn một thập kỷ16. Hãy xem xét hoàn cảnh của Thomas, người đã phải ngồi tù một năm vì tội bất bạo động. Một thẩm phán đã đình chỉ phần còn lại của bản án và đưa anh ta vào chương trình cải tạo cộng đồng chuyên sâu. Thomas dường như đã thực hiện rất tốt công việc này. Anh ta có một công việc được trả thù lao là dọn dẹp bọc ghế với lượng khách hàng ngày càng tăng. Anh ta có sức khỏe tốt, không bị giam giữ, kiếm tiền một cách hợp pháp và có một người bạn gái chu đáo. Một ngày nọ, anh ta sốt sắng đi đến một buổi tư vấn và nói với tôi, “Tôi nghĩ nếu từ bỏ ma túy, tôi sẽ không gặp phải vấn đề gì. Hiện tại tôi đang gặp nhiều vấn đề hơn bao giờ hết”. Anh ta phàn nàn, “Xe tải của tôi bị hỏng. Khách hàng của tôi là một nỗi khổ tâm. Các hóa đơn liên tục đổ về. Tôi gặp rắc rối khi đi đến các buổi gặp mặt – các buổi tư vấn về quản chế, tổ chức Narcotics Anonymous, các buổi tư vấn. Bạn gái cũng là một vấn đề, luôn đòi hỏi điều này hay điều khác. Tôi không có thời gian cho riêng mình. Nếu đây là cuộc sống, thì đó là một cuộc sống địa ngục”. Thomas yêu cầu được biết: “Anh có thứ gì khác để so sánh với Cocaine? Trước thử thách khắc nghiệt này, tôi chỉ có thể trả lời, “Không có gì”. Tôi không thể đảm bảo với Thomas rằng làm việc, thanh toán hóa đơn và tham gia các cuộc họp có thể sánh với cảm giác phấn khích mà anh ta trải qua trong thế giới ma túy. Một phạm nhân khác, sau sáu tháng cai nghiện, đã hỏi: “Phần thưởng của tôi đâu?” Anh ta tin rằng, nếu không sử dụng ma túy, cuộc sống sẽ không có vấn đề gì. Đối với cả hai người đàn ông này, “cơn nghiện” của họ không chỉ là ma túy mà còn là lối sống tội phạm. Tình trạng LẠM DỤNG THUỐC KÊ ĐƠN ở Hoa Kỳ đã tăng mạnh kể từ năm 2000. Theo báo cáo của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ năm 2013, thanh thiếu niên ở quốc gia này đang lạm dụng thuốc giảm đau kê đơn ở mức cao hơn 40% so với các thế hệ trước.16 Sau cần sa, thuốc kê đơn là loại phổ biến nhất khi nói đến vấn đề sử dụng ma túy bất hợp pháp. Một nghiên cứu của Đại học Yale cho thấy, thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi lạm dụng thuốc giảm đau opioid kê đơn vốn là những người sử dụng thuốc lá, rượu hoặc cần sa.17 Nhiều người lạm dụng thuốc kê đơn thể hiện hành vi vô trách nhiệm, nếu không phải là một hành vi có thể bị bắt giữ, trước khi trở nên “nghiện”. Là một người nội trợ và mẹ của hai đứa trẻ, Nancy đã bị cơ quan thực thi pháp luật bắt giữ vì tội làm giả đơn thuốc gây nghiện. (Cô ấy chưa bao giờ bị bắt vì hành vi ăn cắp thuốc từ tủ thuốc tại nhà của người thân và hàng xóm dù thường xuyên thực hiện hành vi đó.) Nancy nói rằng cô bị nghiện Percocet khi đang điều trị chứng đau nửa đầu. Bác sĩ chăm sóc chính của cô nói rằng Nancy chưa bao giờ thừa nhận bất kỳ chứng nghiện nào. Vị bác sĩ cho biết, “Chúng tôi thảo luận về khả năng gây nghiện và xây dựng một hợp đồng quản lý để ngăn chặn cô ấy bị nghiện”. Vị bác sĩ này đã nhận được cuộc gọi từ hiệu thuốc để hỏi có phải ông ấy đã kê một đơn thuốc hay không và đây cũng chính là tình huống dẫn đến việc Nancy bị bắt giữ. Khi nói chuyện với tôi, cô ấy đang mắc kẹt trong cuộc chiến giành quyền nuôi con với người chồng mà cô ấy mô tả là cực kỳ kiểm soát và xấu tính, Sam. Sam nói với tôi rằng, những cơn tức giận của anh ta với Nancy không hề xuất phát từ việc cô ấy lạm dụng thuốc. Cô ấy luôn cố gắng kiểm soát, cầu toàn và nói chung là khó hòa hợp. Cặp đôi này đã ly thân trước khi Sam biết người vợ lạm dụng ma túy. Sam nói với tôi, “Cô ấy nghĩ tôi là gốc rễ của mọi vấn đề mà cô ấy gặp phải”. Anh ta đang cố gắng giành quyền chăm sóc thể chất đối với con cái vì anh ta muốn đảm bảo an toàn cho chúng. Nancy không chỉ lạm dụng thuốc giảm đau mà còn uống rượu rất nhiều. Một người bạn biết rõ về cô ấy cho biết Nancy có vẻ bề ngoài nổi bật. Người bạn này nói rằng, mặc dù Nancy có thể gần như không làm việc, tuy nhiên trên điện thoại, cô ấy nói chuyện một cách mạch lạc và bình thường. Chỉ đến khi người phụ nữ này đi du lịch cùng Nancy và những đứa trẻ, cô ấy mới thấy hành vi của Nancy có vấn đề. “Cô ấy thực sự rất khó tập trung. Cô ấy làm từng việc một cách chậm chạp. Khi ở cùng trẻ con, bạn có thể phải làm mười việc cùng một lúc, nhưng cô ấy thì không thể. Điều đó giống như cô ấy không thể suy nghĩ một cách bình thường”. Khi được hỏi về những nhận định của người bạn, Nancy đã bị sốc và khẳng định: “Vai trò làm mẹ của tôi hoàn toàn tuyệt vời. Tôi không nghi ngờ gì về khả năng của mình”. Nancy là một kẻ nói dối hoàn hảo. Ngay cả khi gặp bác sĩ trị liệu tâm lý, cô ấy vẫn che giấu việc lạm dụng đồ uống có cồn và ma túy. Nancy kịch liệt phản đối việc chồng cũ có nhiều thời gian hơn với các con. Trong khi đó, cô ấy đã dành nhiều thời gian và tiền bạc để thực hiện các thủ tục pháp lý hơn là giải quyết các vấn đề tâm lý và lạm dụng chất kích thích của mình. Louise là một người lạm dụng thuốc kê đơn. Cô ấy làm y tá trong văn phòng của một bác sĩ tài giỏi. Cô ấy ăn trộm tập kê đơn thuốc của vị bác sĩ và tự kê đơn thuốc Percocet cho mình. “Tôi không sử dụng nó để điều trị cơn đau nào hết, mà là vì cảm giác hưng phấn. Tôi biết điều đó là sai trái”, cô ấy nói với tôi trong một cuộc đánh giá tâm lý. Khi Louise bị cáo buộc tội giả mạo đơn thuốc nhiều lần, cô đã bị đình chỉ sử dụng giấy phép điều dưỡng. Cô ấy thừa nhận bản thân đã lạm dụng một số loại thuốc khác trong nhiều năm, kể cả khi đang làm việc tại bệnh viện. Khi phải phẫu thuật, cô ấy yêu cầu nhiều thuốc giảm đau hơn mức cần thiết. “Tôi đã yêu cầu những loại thuốc đó khi Tylenol không còn mang lại hiệu quả”. Dù lạm dụng rất nhiều loại thuốc khác nhau, Louise vẫn giữ được danh tiếng chuyên môn ở mức xuất sắc. “Sếp của tôi nói với tôi rằng, “Cô là một trong những y tá tốt nhất mà tôi từng có”, cô ấy tự hào chia sẻ khi đề cập đến công việc tại một phòng khám cộng đồng. Bất cứ khi nào bị hỏi về hành vi của mình, Louise đều đổ lỗi cho người khác hoặc hoàn cảnh. Cô ghét bị lừa dối, nhưng cô lại nói dối chồng và cố làm cho anh ta cảm thấy tội lỗi vì đã không tin tưởng cô. Quyết định sẽ tiếp tục xuất hiện trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, Louise thừa nhận đã sử dụng thuốc để giảm bớt sự buồn chán. Cô ấy cũng cảm thấy “cần phải là trung tâm của sự chú ý. Khi sử dụng Percocet, tôi nghĩ rằng mọi người đều thích tôi. Mọi người dường như muốn đến với tôi”. Khi uống thuốc, Louise tràn đầy sinh lực, nói nhiều hơn và tự tin hơn. Cô ấy nói rằng loại thuốc này “khiến tôi cảm thấy mình được kiểm soát, có vẻ mọi thứ sẽ ổn thôi”. Và, cô thừa nhận bản thân hoang phí khủng khiếp, tiêu xài một cách bừa bãi. Ngoài việc lạm dụng thuốc kê đơn, Louise thừa nhận còn hút cần sa và thử các loại thuốc bất hợp pháp khác. Lo lắng cho con gái và muốn giúp đỡ cô ấy, mẹ của Louise đã thẳng thắn nói chuyện với tôi. Bà ấy nhận xét: “Louise cần và muốn được nhiều người chú ý và không muốn ai khó chịu với mình”. Điều này có thể hiểu là Louise không thích bất cứ ai cố gắng quy trách nhiệm cho cô ấy liên quan đến bất kỳ sai lầm hoặc đánh giá sai lầm nào. Mẹ cô ấy nói rằng, có thời điểm, Louise cho biết bản thân đã bị co giật. “Tôi cảm thấy nó như đang đeo những chiếc mặt nạ”, mẹ cô ấy nói thêm, “Nó là một diễn viên rất xuất sắc”. Tyler, chồng của Louise, trở nên nghi ngờ khi Louise bỏ bê các công việc gia đình thường ngày. Hóa đơn chưa được thanh toán. Đồ ủi chất đống. Louise dường như ít năng lượng hơn và hay ngủ ngày, một việc mà cô ấy hiếm khi làm trong thời gian trước đây. Tyler nhận xét: “Mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra. Louise đã mạo hiểm cuộc hôn nhân của mình, đứa con gái yêu quý và sự nghiệp mà cô ấy yêu thích”. Louise thừa nhận, “Tôi có một tính cách dễ nghiện ngập thực sự”. Giống như những người lạm dụng thuốc kê đơn khác, cô ấy dần phụ thuộc về mặt thể chất. Hãy xem xét những điều kiện của Louise. Sau khi một người con bị chết lưu, cuối cùng cô cũng có một bé gái khỏe mạnh. Chồng cô yêu thương cô và cô có những người cha mẹ tận tụy luôn bên cạnh giúp đỡ. Dù không giàu có nhưng Louise và chồng có đủ khả năng chăm lo gia đình. Và Louise được tất cả những người chủ của cô ấy kính trọng. Vấn đề của cô ấy có thể là có “một tính cách dễ nghiện ngập”. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là tính cách tội phạm của cô ấy. Như mẹ cô ấy đã nói: Cô ấy là một diễn viên xuất sắc. Louise sống một cuộc sống hai mặt, ăn cắp đồ của ông chủ và lừa dối những người yêu quý và phụ thuộc vào cô. Để nuôi dưỡng “thói quen” của những người như Nancy và Louise cần có những bác sĩ tại các phòng khám - đôi khi được gọi là “nhà máy sản xuất thuốc” – sẵn sàng kê đơn thuốc giảm đau cho hầu hết những người bước qua cánh cửa phòng khám. William Eliot Hurwitz, một bác sĩ y khoa, bị kết án năm 2007 với 17 lần buôn bán ma túy. Một bản tóm tắt vụ án của Công tố Viện Liên bang cho thấy người bác sĩ này đã thực hiện “một phương pháp kiềm chế các cơn đau mất kiểm soát… Hurwitz sẽ thường xuyên thực hiện các cuộc kiểm tra chiếu lệ nếu có, tán thành và đôi khi là khuyến khích nhu cầu vô độ của bệnh nhân bằng những liều lượng thuốc quá lớn và đáng sợ (ví dụ: 1.600 viên thuốc mỗi ngày)… Các bệnh nhân sẽ nhận được đơn thuốc từ một dược sĩ do Hurwitz giới thiệu… Bác sĩ Hurwitz đã kể một lượng lớn các dược chất được kiểm soát dù biết rằng bệnh nhân của ông đang lạm dụng và/hoặc buôn bán thuốc”.18 Trong bản tóm tắt tuyên án, người bác sĩ này đã kê đơn cho “một bệnh nhân với biểu hiện rõ ràng là nghiện và mất kiểm soát hơn 1.800 viên OxyContin 80mg mỗi tháng”. Công tố Viện Liên bang đề nghị mức tù chung thân. Nghiên cứu chỉ ra rằng khuynh hướng sử dụng các chất kích thần đang tồn tại trong các gia đình. Tuy nhiên, ngay cả chứng nghiện đó có khuynh hướng di truyền hay sinh học thì mọi người vẫn có thể lựa chọn những gì họ sẽ hoặc không đưa vào cơ thể mình. Nếu một cá nhân nhận thức được xu hướng nghiện ngập trong gia đình thì càng có nhiều lý do để kiêng sử dụng các chất kích thần. Để xem xét kỹ hơn khái niệm “tính cách nghiên ngập, hãy xem trường hợp của Raymond, 42 tuổi. Raymond khẳng định anh ta đã nghiện cocaine và rượu tại một số thời điểm khác nhau trong cuộc đời, đồng thời cho rằng ma túy là nguồn gốc của các vấn đề anh ta gặp phải, đặc biệt là khi chúng phá hủy sự nghiệp đầy hứa hẹn của anh ta tại một công ty công nghệ thành công và đang phát triển, nơi anh kiếm được hơn 100.000 đô la mỗi năm. Thực tế, Raymond đã phạm tội trước khi sử dụng ma túy và từng phạm tội với một số người khác trong thời gian dài cai nghiện. Hồ sơ tội phạm của anh ta liệt kê các tiền án về tội trộm cắp và ăn cắp vặt, nhiều hành vi vi phạm giao thông và bị bắt vì sử dụng bằng lái đã bị treo. Người ta có thể phỏng đoán rằng Raymond ăn cắp để phục vụ “thói quen” sử dụng ma túy của anh ta. Tuy nhiên, giống như hầu hết tất cả những tội phạm sử dụng ma túy khác mà tôi đã phỏng vấn, Raymond đã trộm cắp từ lâu trước khi có thói quen sử dụng ma túy. Chắc chắn một trường hợp có thể xảy ra là, khi một người như Raymond chìm đắm trong ma túy, anh ta phạm tội nhiều hơn để có thể đáp ứng các chi phí sử dụng ngày càng tăng của mình. Như đã đề cập trước đó, khả năng phạm tội của anh ta cũng tăng lên vì ma túy giúp anh ta loại bỏ nỗi sợ bị bắt hoặc bị thương. Nếu động cơ đủ mạnh, tội phạm có thể tự mình “cai” chất gây nghiện một cách đột ngột và kiêng sử dụng các chất kích thần. Động cơ của họ có thể không phải lúc nào cũng là thuần khiết nhất. Hiểu được rằng ma túy cản trở sự phối hợp giữa thể chất và trí tuệ của bản thân, một số người đã duy trì sự tỉnh táo để có thể khôn khéo hơn khi phạm tội. Họ muốn tinh thần nhạy bén hơn, khả năng phối hợp tốt hơn hoặc mong muốn phục hồi ham muốn tình dục. Họ biết rằng việc đắm mình trong thế giới ma túy khiến họ tăng nguy cơ sợ hãi. Một bài báo năm 2011 trên Monitor on Psychology thảo luận về việc chi trả tiền cho mọi người để cai nghiện.19 Tập trung vào “quản lý dự phòng”, bài báo tuyên bố rằng “ngay cả những tội phạm cứng rắn cũng có thể thay đổi” bằng “các quy luật cơ bản của tâm lý học”, có thể ở dạng “danh hiệu khen thưởng và các lời động viên từ thẩm phán”. Nếu những tội phạm có thể ngừng sử dụng ma túy vì được trả tiền thì điều này cho thấy vấn đề cơ bản nằm ở sự lựa chọn của họ chứ không phải là họ đang bị “căn bệnh” lạm dụng chất gây nghiện. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng phát triển một loại vắc-xin nhằm ngăn chặn ma túy xâm nhập vào não. Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình năm 2013, Nora Volkow thuộc Viện Quốc gia về Lạm dụng Ma túy cho biết, “Một phương pháp chữa bệnh sẽ thật tuyệt vời, và điều đó có nghĩa là bạn có được một loại thuốc như kháng sinh”.20 Tuy nhiên, ngay cả khi một loại vắc-xin như vậy được sản xuất thì việc kiêng các chất kích thần cũng không giải quyết được vấn đề chính, đó là tính cách không khoan nhượng, thích kiểm soát của những cá nhân mang bản tính phá hoại. Ngay cả khi tất cả những tội phạm không sử dụng ma túy thì chúng vẫn còn phải thay đổi nhiều hơn nữa để trở thành những con người có trách nhiệm. 10 TỘI PHẠM KHỦNG BỐ T hông thường, chúng ta nghĩ về những kẻ khủng bố là những kẻ kích nổ các thiết bị nổ ở những khu vực công cộng, cho nổ máy bay, đe dọa những người có đức tin trái ngược với đức tin của chúng hoặc tham gia vào cuộc diệt chủng chống lại một nhóm dân tộc. Không giống như nhiều kẻ phạm tội bạo lực khác, những kẻ khủng bố biện minh cho hành vi tàn phá của chúng bằng những tuyên bố rằng chúng đang ủng hộ một mục đích hoặc niềm tin tôn giáo. Trải qua nhiều thập kỷ phỏng vấn và tư vấn cho những người thực hiện nhiều hành vi tội phạm khác nhau, tôi bắt đầu ghi nhận những điểm tương đồng giữa những cá nhân như vậy và những nguyên thủ quốc gia từng thực hiện hành vi tàn bạo đối với công dân của họ. Vốn quen thuộc với lối suy nghĩ và hành vi của những người có tính cách tội phạm, tôi quan sát thấy những đặc điểm dường như là những hình mẫu song song bên trong những kẻ tham gia chủ nghĩa khủng bố chính trị và quốc tế. Không ai biết được thời điểm, vị trí hay cách thức mà những kẻ vẫn luôn xuất hiện trước công chúng này thực hiện một vụ tấn công. Chúng thể hiện tư duy tội phạm mà tôi đã mô tả trong cuốn sách này. Mặc dù không tiếp xúc trực tiếp với những người này, tuy nhiên tôi có lý do để phỏng đoán rằng các đặc điểm tính cách tội phạm có thể áp dụng cho rất nhiều kẻ phạm tội trong số này. Bộ luật Hoa Kỳ xác định khủng bố trong nước và quốc tế đều thực hiện các hành vi “nhằm đe dọa hoặc cưỡng bức dân thường”.1 Tội phạm hoạt động như những kẻ “khủng bố” cho dù chúng nhắm vào một người, một gia đình, một cộng đồng hay cả một quốc gia. Một kẻ hiếp dâm, một kẻ cướp ô tô, một kẻ đột phá và một tay súng bắn tỉa đều thực hiện hành vi khủng bố. Thủ phạm thực hiện các hành vi bạo lực gia đình là những kẻ khủng bố. Cuộc hôn nhân của Colin và Judy minh họa cho các hành vi bạo lực của một người bạn đời khiến người kia luôn phải nghe theo và cảm thấy bất ổn với những nỗi sợ hãi, đe dọa, lạm dụng tâm lý và bạo lực thể chất. Judy và Colin từng bị sở dịch vụ xã hội của quần chú ý vì một trong những đứa con của họ nói với giáo viên rằng nó cảm thấy sợ hãi khi cha mẹ đánh nhau. Mối quan hệ hôn nhân nảy sinh mâu thuẫn đến mức tòa án đã tạm thời đưa con trai của cặp vợ chồng ra khỏi nhà và giao cho ông bà nội nuôi dưỡng. Colin từng có tiền án bao gồm giả mạo séc, trộm cắp tài sản, trộm xe và nhiều lần lái xe bằng giấy phép bị đình chỉ. Anh ta buộc Judy ký séc khi biết tài khoản ngân hàng của họ không còn đủ tiền để chi tiêu. Judy nói với người tư vấn rằng cô đã đánh mất một phần bản thân, rằng cô không còn tự tin và là người thất bại trong hôn nhân. Bất cứ khi nào Judy cố gắng thảo luận bất cứ điều gì với Colin, anh ta đều đáp lại theo cách khiến cô ấy cảm thấy “như thể tôi không biết gì cả”. Cho rằng việc chống lại anh ta là vô ích, cô nhượng bộ bất cứ điều gì anh ta yêu cầu. Tình dục trở thành một vấn đề trọng tâm, trong đó người chồng của cô luôn muốn thực hiện việc đó theo yêu cầu, đánh dấu vào lịch những ngày họ quan hệ tình dục, sau đó ghi lại đánh giá về khả năng tình dục của cô. Colin còn làm nhục vợ khi đề nghị trả tiền cho cô ấy sau mỗi lần quan hệ. Một đêm, Colin bước ra ngoài và hét lên, “Tôi sẽ chỉ phải mua dâm thôi”. Ngày qua ngày, Colin khiến Judy dần suy sụp. Khi họ đi bộ trên phố, anh ta đánh đập cô vì đi quá chậm. Colin chỉ trích những gì Judy mặc, trở nên tức giận khi cô cắt tóc và chỉ trích cay độc nếu cô không xức nước hoa. Ngay cả khi Judy mải mê đọc sách, Colin vẫn phì phèo: “Cô thích cuốn sách hơn cả thích tôi à”, và đòi hỏi cô ấy phải luôn chú ý đến anh ta. Nếu bữa tối chưa sẵn sàng chính xác theo những gì Colin mong muốn, anh ta sẽ thông báo cho cô chính xác số phút cô phải dọn bữa ăn lên bàn. Judy nhớ lại một lần anh ta la hét và ném đồ đạc về phía cô: “Tôi đã khóc trong phòng ngủ. Anh ta nói với tôi, “Nếu cô còn nói một từ nào nữa thì tôi sẽ đập vào mặt cô đấy”. Judy quản lý tài chính của gia đình, nhưng điều đó không ngăn được Colin xâm phạm tài khoản chung của họ để tiêu xài vào bất cứ thứ gì anh ta nghĩ đến. Cô và Colin không có bạn bè thân thiết và cô không được phép giao du với ai ngoài công việc. Công việc của Judy là một khía cạnh trong sự tồn tại của cô mà không nằm trong sự kiểm soát của người chồng. Colin phàn nàn rằng Judy coi trọng công việc hơn tất cả mọi thứ và cư xử quá quan trọng hóa bản thân. Đối với Judy, công việc là một cứu cánh vì cô có người để trò chuyện và được đánh giá cao và năng lực của cô. Những cuộc cãi cọ của cặp đôi này ngày càng liên quan nhiều hơn về mặt thể xác. Trong một cuộc cãi vã, Colin đã ném một chùm chìa khóa và đánh vào cổ cô. Khi Judy thông báo sẽ bỏ đi và đi về phía xe rồi lái đi, Colin đã đuổi theo bằng xe của anh ta và đâm vào đuôi xe của cô. Sau đó, anh ta tháo các sợi dây dưới mui xe và cảnh báo nếu cô ấy cố gắng rời đi lần nữa, anh ta sẽ lấy một khẩu súng và “cho cô nằm dưới 2m đất”. Trong một lần khác, khi cô ấy sợ hãi chạy vào phòng tắm, anh ta đã phá cửa. “Anh ta tóm lấy tôi và dùng móng tay cào cấu tôi, rồi khiến tôi bị thâm đen một bên mắt”. Judy vô cùng sợ hãi khi khai báo những vết thương cô đã phải gánh chịu. Judy bày tỏ với người tư vấn của mình, “Có một điều tôi muốn làm là đứng lên chống lại anh ta và cho anh ta biết cảm giác của tôi”. Nhưng cô ấy vẫn tiếp tục sống cùng Colin vì một số lý do. Dù Judy có thu nhập riêng, tuy nhiên hai người đã phát sinh nợ chung và cô ấy không thể tưởng tượng được làm thế nào để tồn tại độc lập về mặt tài chính. Cô chắc chắn Colin sẽ đeo bám nếu cô rời đi. Tuy nhiên, yếu tố cốt lõi giữ Judy trong cuộc hôn nhân này là sự bất an của chính cô. Cô ấy nói với cố vấn của mình, “Tôi mong đợi quá nhiều từ anh ta”, và chỉ trích bản thân là một quản gia yếu kém và không ham muốn tình dục. Thực hiện lời thề trong hôn nhân một cách cực kỳ nghiêm túc, Judy hy vọng rằng cô và Colin sẽ hàn gắn những khác biệt và giành lại quyền nuôi con. Một điều nữa cũng khiến cô tiếp tục là những khoảng thời gian họ hòa thuận với nhau, khi đó Colin âu yếm, tặng quà và đưa cô ấy đi ăn tối. Judy đã tham gia một nhóm do tòa án bảo trợ dành cho các nạn nhân bạo lực gia đình. Tình cảm suy sụp, cô ấy liên tục mệt mỏi, đau đầu và lo lắng. Cuối cùng, cô quyết định rời đi và xây dựng một kế hoạch. Điều kiện dần trở nên thuận lợi. Cô ấy được tăng lương. Các con được bình an vô sự, cô có xe hơi, được mục sự hỗ trợ và có nơi để đi. Cô đóng gói đồ đạc, lái xe đến nhà của một người bạn và thu xếp sẵn sàng để di chuyển gần một nghìn dặm, nơi cô đã có gia đình và triển vọng công việc tốt hơn. Các dịch vụ xã hội đã khôi phục quyền giám hộ những đứa trẻ cho cô ấy vì chúng sẽ được sống trong một môi trường an toàn hơn. Judy đã kết hôn với một kẻ khủng bố trong gia đình. Những kẻ khủng bố hoạt động trên các đấu trường khác nhau. Dưới vỏ bọc vì một sự nghiệp nào đó, một người có thể che giấu tính cách tội phạm tiềm ẩn của bản thân. Tôi nhớ vào những năm 1960, khi phỏng vấn một sinh viên đại học bỏ học tham gia các cuộc tuần hành vì quyền công dân ở Alabama. Khi anh ta trở về, chúng tôi đã nói về những sự kiện trong chuyến đi của anh ta. Với sự phấn khích tột độ, anh ta mô tả các chiến thuật tàn bạo của cảnh sát, những con chó lao vào người biểu tình, vòi rồng phun vào người biểu tình. Tôi không hề nghe được một lời nào về công bằng xã hội và bình đẳng chủng tộc và chính những nguyên nhân bề ngoài đã thúc đẩy anh ta thực hiện chuyến đi về phía nam. Anh ta không phải là một kẻ khủng bố, nhưng anh ta là một kẻ dối trá, một tên trộm và một kẻ sử dụng ma túy. Các sinh viên trong cộng đồng đại học phải chú ý bảo vệ chiếc xe đạp của mình vì anh ta có thể lấy trộm chúng nếu không được khóa an toàn. Mặc dù anh ta tán thành những lời hùng biện về quyền công dân, nhưng điều quan tâm đối với anh ta là được tham gia vào một khung cảnh phấn khích, sau đó trở lại như một nhân vật quan trọng để gây ấn tượng với người khác bằng những câu chuyện của bản thân. Khả năng cao là hầu hết những kẻ khủng bố đều có tâm trí tội phạm. Có lẽ một số người có động cơ trong sáng và chân thành để theo đuổi sự nghiệpcủa họ. Nó không phải là một bước nhảy vọt lớn đối với một người hiểu được cấu tạo tinh thần của bọn tội phạm để ngoại suy tính cách của những kẻ để tiện và bạo ngược. Khi chúng hành động nhân danh chính nghĩa, những cá nhân tàn nhẫn này sẽ khủng bố và tàn sát kẻ thù. Hầu hết những người đàn ông trở thành kẻ độc tài tàn nhẫn đều là tội phạm từ rất lâu trước khi đạt được vị trí quyền lực tuyệt đối. Trong cuốn sách kinh điển The Psychopathic God (tạm dịch: Thánh tâm thần), Robert G. L. Waite đã dành ra hơn 500 trang phân tích về Adolf Hitler.2 Những quan sát của ông cung cấp bằng chứng cho thấy, từ thời thơ ấu, Adolf Hitler đã thể hiện những kiểu suy nghĩ và hành vi phổ biến đối với tội phạm. Waite lưu ý rằng những cơn giận dữ là “phương tiện được Adolf bé nhỏ sử dụng để khiến người mẹ già cả của mình phải tuân theo các yêu cầu của ông ta”. Đến năm 11 tuổi, Hitler “không còn là cậu học trò ngoan ngoãn của những năm trước nữa”. Thay vào đó, cậu ta là người “thích tranh luận, tự cho mình là chính kiến, cố ý, kiêu ngạo và nóng tính”. Hitler khi trẻ tuổi “yêu cầu các học sinh phải phục tùng, tự cho mình là người lãnh đạo”. Theo tác giả Waite, năm thứ 12 của Hitler “đóng vai trò quan trọng một cách bất thường trong sự phát triển cá nhân của ông ta”. Cậu bé từng là học sinh ngôi sao của các ngôi trường bắt đầu thất bại, đứa trẻ bề ngoài tự mãn, hiếu động với những trò chơi mạnh mẽ trong khu phố đã trở thành một đứa trẻ tuổi vị thành niên đầy ngang ngược, thu mình, nói chuyện với cây cối trên những ngọn đồi hiu quạnh, ca ngợi gió, đánh nhau với cha mẹ, biếm họa giáo viên và căm ghét thế giới”. Thành tích học tập của Hitler sa sút đến mức ông ta phải rời khỏi ngôi trường này và nhập học ở trường khác, sau đó bỏ học trước khi tốt nghiệp. Ở tuổi 16, Hitler mua một tờ vé số, bản thân điều đó không có gì là lạ, tuy nhiên Waite viết, “Điều gây ấn tượng ở Hitler khi trẻ tuổi là niềm tin tuyệt đối rằng mình sẽ trúng số”. Ông ta lên kế hoạch chi tiêu số tiền đó. Khi không trúng số, ông ta rơi vào “cơn thịnh nộ mù quáng”. Hitler vừa đa cảm vừa tàn bạo đối với động vật. Một nghị định năm 1936 cho thấy “sự quan tâm đặc biệt đối với nỗi đau của tôm hùm và cua” và quy định cách thức giúp chúng có cái chết nhân đạo” nhất. Tuy nhiên, Hitler đã “[hành hạ] một cách dã man với con chó của mình”, đánh con chó “như một kẻ điên”. Vào thời điểm quan tâm đến tôm hùm, Hitler được cho là đã nhận xét với một cộng sự, “Liệu tôi có ý định tiêu diệt toàn bộ loài này không nhỉ? Tất nhiên tôi có ý định đó… Tính tàn nhẫn và bạo lực… Mọi người muốn điều đó. Họ cần trải qua cảm giác kinh hoàng để phải rùng mình phục tùng”. Phần còn lại của câu chuyện khét tiếng về Adolf Hitler là về một tên tội phạm đã tích lũy sức mạnh để khủng bố, tra tấn và tàn sát hàng triệu người. Những kẻ khủng bố hiện đại cho thấy mô hình tương tự ở chỗ, giống như Hitler, chúng là tội phạm trước khi nắm được những động cơ mà chúng lợi dụng để nắm giữ quyền lực. Mỹ treo thưởng 25 triệu đô la để đổi lấy mạng sống của Abu Musab al-Zarqawi, chiến binh thánh chiến khét tiếng. Viết trên tờ The Atlantic về “cuộc đời ngắn ngủi, đầy bạo lực” của mình, Mary Anne Weaver mô tả al Zarqawi là tội phạm trước khi hắn thực hiện bất kỳ mục đích nào.3 “Khi còn là thiếu niên, al-Zarqawi đã từng là một kẻ luôn đi bắt nạt và côn đồ, một kẻ buôn lậu và nghiện rượu nặng… Hắn quậy phá, thường xuyên tham gia vào các cuộc ẩu đả… Mười lăm tuổi, hắn đã tham gia vào một vụ cướp tại nhà của một người họ hàng và giết chết người họ hàng đó”. Năm 1994, ở tuổi 28, al-Zarqawi bị kết án 15 năm tù vì sở hữu vũ khí trái phép và tham gia một tổ chức bị cấm ở Jordan. Theo lời kể của bà Weaver, al-Zarqawi “phát triển mạnh mẽ” trong thời gian bị giam giữ. “Hắn nghiêm khắc, cứng rắn và không ngừng làm bất cứ điều gì được coi là vi phạm các quy tắc của bản thân, nhưng hắn thường được bắt gặp đang khóc trong sân nhà tù khi đọc kinh Koran”. Al-Zargawi được cho là đã “đi qua khu nhà tù như một con công” và “cuộc sống trong tù có tổ chức như một thủ lĩnh băng đảng”. Sau khi được trả tự do, hắn thành lập các trại để huấn luyện các chiến binh và bị Hoa Kỳ truy lùng vì chủ mưu các vụ đánh bom, phi vụ liều chết và các vụ hành quyết. Dường như al Zarqawi muốn tạo ra tình trạng lộn xộn và tàn sát hơn là thúc đẩy một tôn giáo hoặc hệ tư tưởng cụ thể. Gọi anh ta là “chiến binh siêu sao”, tạp chí Time chỉ ra,“Theo quan điểm của hắn ta, việc tàn sát những người Ả Rập theo các hình thức khác nhau của Hồi giáo cũng quan trọng như giết người phương Tây”.4 Vào ngày 7 tháng 6 năm 2006, al-Zarqawi cuối cùng đã bị các lực lượng của Hoa Kỳ tiêu diệt. Nhiều nhà quan sát tuyên bố rằng, những thủ phạm khủng bố hành động nhân danh một cuộc thánh chiến được tôn giáo của họ chấp nhận đã làm sai lệch chính những giáo lý của tôn giáo đó. Các nhà bình luận như Stanley Bedlington viết trên tờ Washington Post rằng trùm khủng bố Osama bin Laden đã “làm ô uế tôn giáo của chính mình” và sẵn sàng vi phạm “các điều cấm nghiêm ngặt của kinh Koran”.5 Và, nhiều năm trước, một cây bút của tạp chí Time đã chỉ ra, “Trong mắt hầu hết các học giả tôn giáo, cuộc thánh chiến [của bin Laden] tuyên bố chống lại Hoa Kỳ chưa bao giờ là một cuộc thánh chiến; đó là một sự lừa đảo trắng trợn”.6 Trong đánh giá về Osama bin Laden, giáo sư tâm lý học Aubrey Immelman nhận thấy, thủ lĩnh của al-Qaeda không phù hợp với hồ sơ của một người chính thống tôn giáo có lương tâm, có tư tưởng khép kín, cũng như không phải của một người tử đạo tôn giáo”. Trích dẫn “sự pha trộn giữa các mẫu tính cách tự ái và chống đối xã hội” của bin Laden, bà mô tả hắn là “người thành thạo trong việc khai thác chủ nghĩa chính thống Hội giáo để phục vụ cho tham vọng và ước mơ vinh quang của bản thân”.7 Cuối năm 2013, Cộng hòa Trung Phi đứng trước bờ vực diệt chủng. Các nhóm vũ trang Hồi giáo từ phía Bắc, được gọi là Séléka (“liên minh”) đã giết hại, cưỡng hiếp và cướp bóc tại các cộng đồng người Thiên Chúa giáo sinh sống. Tờ Washington Post đưa tin, “một cuộc xung đột liên quan đến mục đích diệt chủng và quyền lực hơn là tôn giáo” diễn biến theo chiều hướng tồi tệ hơn khi lực lượng dân quân Thiên Chúa giáo bắt đầu tấn công các cộng đồng người Hồi giáo, “cắt cổ phụ nữ và trẻ em và có thời điểm thông báo rằng họ muốn tiêu diệt tất cả người Hồi giáo”.8 Theo Aljazeera, có 400 người đã bị giết trong ba ngày xảy ra các hoạt động bạo lực?9 Những kẻ khủng bố có thể tham gia vào mọi hoạt động, bao gồm bảo vệ môi trường, quyền động vật, bảo tồn lịch sử hoặc bất kỳ phong trào chính trị nào. Sau đó, chúng biện minh cho hành vi phạm tội bằng cách viện dẫn mục đích cao cả của hành vi đó. Hãy xem xét trường hợp của Paul Jennings Hill, người gốc Florida, một nhà hoạt động chống phá thai, đã tốt nghiệp chủng viện và được phong chức mục sư. Vào ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hill tiếp cận The Ladies Center ở Pensacola, Florida, một phòng khám phá thai mà anh ta biết rất rõ. Ở đó, anh ta nhắm đến Tiến sĩ John Britton, một bác sĩ phòng khám; và cận vệ của ông, một trung tá Không quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu. Hill bắn chết cả hai người và nhanh chóng bị bắt. Anh ta bị kết án tội giết người và bị hành quyết bằng cách tiêm thuốc độc tại nhà tù bang Florida vào ngày 3 tháng 9 năm 2003. Có hàng nghìn công dân phản đối việc phá thai và một số người phản đối kịch liệt. Tuy nhiên, phải cần đến một kiểu người nhất định quá khích đến mức anh ta có thể giết người nhân danh chính nghĩa. Theo các báo cáo, ở tuổi vị thành niên, Paul Hill “có xu hướng nổi loạn và thậm chí bạo lực”. Anh ta bị bắt vì hành hung cha mình, người đã cố gắng bắt anh ta điều trị vì lạm dụng cần sa và LSD. Một người hàng xóm cách anh ta hai nhà chia sẻ trên tờ Washington Post, “Tôi luôn cảm thấy anh ta không quan tâm đến hậu quả của những việc mình đã làm”. 10 Người này nhớ lại, khi 13 tuổi, Hill đã cạy miệng con chó của mình và khạc nhổ vào cổ họng nó. Paul Hill là một người theo chính thể chuyên chế “không khoan nhượng với màu xám”. Anh ta được miêu tả là đang chuyển mình từ một đứa trẻ ngỗ nghịch đang nỗ lực trở thành “một tín đồ Thiên Chúa gương mẫu”. Tuy nhiên, trích lời một mục sư trên Pensacola Neos Journal, Paul Hill “đã gặp vấn đề với tất cả giới mục sư bởi vì anh ta dễ có những cảm xúc thái quá và không thể sống với những người bất đồng quan điểm”.11Kẻ giết người này, được báo chí gọi là “kẻ khủng bố trong nước”, đã không hề ăn năn cho đến giây phút cuối cùng. Mọi sự chú ý đều dồn vào trọng tâm vào cách thức khiến mọi người trở nên “cực đoan hóa” hoặc bị thuyết phục tham gia vào một hoạt động cụ thể, đặc biệt sau khi “chủ nghĩa khủng bố nội tại” diễn ra. Những tội phạm đang tìm kiếm cảm giác phấn khích đã sẵn sàng gia nhập. Gần như không cần phải thuyết phục hay đào tạo đối với những đối tượng này. Tờ Washington Jeavish Week gọi Internet là “thư viện ảo dành cho chủ nghĩa khủng bố, ở đó chúng kích động sự bất mãn của kẻ khác.12 Internet là nơi cung cấp hệ tư tưởng và thực hiện công tác tuyên truyền. Nó là một công cụ rẻ tiền được các nhóm khủng bố sử dụng để tuyển mộ thành viên, gây quỹ và đặt mua các trang thiết bị. Nghị sĩ Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, nhận xét, “các trang web thù địch trên mạng” đem đến “sự cuồng dại đến phấn khích” cũng như “những hướng dẫn chi tiết”.13 Tội phạm không cần phải tham gia trại huấn luyện ở Afghanistan để có thể học cách chế tạo bom. Trên thực tế, những kẻ đánh bom cuộc thi Marathon ở Boston đã chế tạo bom dựa trên một bài báo của al Qaeda có tựa đề “Cách chế tạo bom từ trong căn bếp của mẹ bạn”. Giáo sư về thông tin quản lý Marie Wright lưu ý, cả Internet và môi trường mở của các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ đều “cung cấp các diễn đàn để trình bày các thông điệp cấp tiến” thu hút một số người trẻ tuổi nhất định. Theo quan sát của bà, “Các cá nhân có xu hướng tìm kiếm những người có cùng tư tưởng”.14 Quan điểm này càng được củng cố thêm trong một báo cáo của Cơ quan Tình báo Trung ương, “Nhiều nhóm khủng bố dựa vào hoạt động tuyển mộ tù nhân để nâng cấp hàng ngũ của chúng. Các tù nhân chiêu mộ trực tiếp những bạn tù đồng thời phát hiện và đánh giá những người khác để tuyển mộ sau khi họ được thả”.15 Al-Shabaab, nhóm khủng bố nhận trách nhiệm về vụ thảm sát vào tháng 9 năm 2013 tại trung tâm mua sắm ở Kenya, đang cố gắng thu hút những người đàn ông Mỹ gia nhập hàng ngũ của chúng. Sau đó, Al-Shabaab nhấn mạnh ba trong số các chiến binh thánh chiến đến từ Minnesota. Theo nguồn tin của CBS News tại khu vực Washington, DC., thủ lĩnh của một tổ chức đã cố gắng kêu gọi trên một video chiêu mộ: “Giá như các bạn có thể biết được chúng tôi vui vẻ nhiều thế nào khi ở đây, nơi đây là một Disneyland thực sự” 16 Ngôn ngữ như vậy dường như thôi thúc cảm giác phấn khích ở tội phạm hơn là mong muốn phục vụ một mục đích xứng đáng. Tin tặc giúp duy trì thế lực của kẻ khủng bố khi chúng xâm nhập vào các hệ thống cửa hàng có chứa dữ liệu về các giao dịch trị giá hàng tỷ đô la mỗi ngày. Trong mùa mua sắm Giáng sinh 2013, tin tặc đã đánh cắp thông tin cá nhân của gần 70 triệu khách hàng của tập đoàn Target, một trong những chuỗi cửa hàng bán lẻ lớn nhất nước Mỹ. Việc đánh cắp thông tin thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ có khả năng cho phép tội phạm thực hiện các giao dịch gian lận trên khắp thế giới. Theo ước tính, công ty có thể phải bỏ ra 100 triệu đô la để khắc phục thiệt hại và thanh toán các chi phí pháp lý. Trích lời Beth Givens, người sáng lập tổ chức phi lợi nhuận Privacy Rights Clearinghouse, trên tờ Washington Post cho biết, “Đó là một cuộc chạy đua vũ trang. Và những kẻ lừa đảo gần như luôn dẫn đầu cuộc chơi”.17 Tướng Michael Hayden, cựu giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, từng cảnh báo về “các lớp đe dọa” khi ông chia sẻ với tờ Washington Post, “Các tác nhân ở cấp độ tiểu bang-nhà nước đang tiến đến chúng ta. Họ muốn sở hữu trí tuệ của bạn.18 Họ muốn những bí mật thương mại và vị thế đàm phán của bạn. Có một số tội phạm muốn mã PIN, số thẻ tín dụng của bạn,…” Tướng Hayden tiếp tục, những cá nhân này là những kẻ tham lam vô độ và “sẽ bắt đầu đạt được những khả năng mà chúng ta hiện cho là của các băng nhóm tội phạm”. Hành động khủng bố trong nước nguy hiểm nhất cho đến nay xảy ra vào năm 1995 khi Timothy McVeigh đánh bom Tòa nhà Liên bang Alfred P. Murrah ở thành phố Oklahoma, khiến 168 người thiệt mạng, trong đó có 19 trẻ em. Từ những mô tả trên rất nhiều tờ báo, McVeigh dường như sở hữu nhiều đặc điểm của tính cách tội phạm. Từ năm 13 tuổi, anh ta không chỉ là một người đam mê súng mà còn “bị ám ảnh” với súng đến mức vẽ chúng ở trường khi buồn chán và mang theo súng đến trường để gây ấn tượng với các học sinh khác, theo một báo cáo đăng tải trên tờ Washington Post.19 Khi còn là một thiếu niên, McVeigh đã lái xe lên tới 112km/h, la ó những người lái xe đi chậm hơn và chộp lấy khẩu súng săn của mình “giống như anh ta sẽ bắn hết họ vậy”. McVeigh bỏ học chương trình đại học cộng đồng, nhảy hết việc này sang việc khác và tích lũy nên những khoản nợ khổng lồ không thể trả nổi khi đánh bạc. Năm 20 tuổi, anh ta chế tạo và kích nổ bom. Khi đang phục vụ trong quân đội, anh gặp Terry Nichols, người sau này trở thành đồng phạm của anh ta trong vụ tấn công thành phố Oklahoma. Sau khi xin xuất ngũ một phần vì không thể đủ tiêu chuẩn tham gia lực lượng đặc nhiệm Mũ nồi xanh, McVeigh lang thang khắp bốn mươi tiểu bang và tham gia mua bán vũ khí tại tám mươi cuộc triển lãm súng. Về tính khí, anh ta được mô tả là “chuyển từ trạng thái thụ động sang bùng phát cơn giận dữ”. Sau khi bị thuyết phục bằng những tệ nạn của chính quyền, anh ta chỉ trích chính quyền là kẻ thù của Công dân vì đang tìm cách hạn chế quyền của công dân, đặc biệt là quyền sở hữu súng. Trước khi thực hiện vụ đánh bom thành phố Oklahoma, McVeigh đã coi nhiều quan chức chính phủ là “những ứng cử viên” cho vụ ám sát. Vào ngày 15 tháng 4 năm 2013, một hành động khủng bố khác ở trong nước đã xảy ra khi hai quả bom phát nổ gần vạch đích của cuộc thi Marathon tại Boston khiến ba người chết và hơn 260 người bị thương. Hai anh em nhập cư từ Nga năm 2002 cùng với cha mẹ của họ bị cáo buộc là kẻ đánh bom. Tamerlan Tsarnaev đã chết trong một cuộc đọ súng với cảnh sát nhưng người em trai 19 tuổi của anh ta là Dzhokhar vẫn sống sót và bị bắt vào tù. Có rất nhiều thông tin thu thập được về người anh trai, nhưng lại ít thông tin hơn về Dzhokhar, người không nhận các cáo buộc phạm tội trong khi chờ xét xử. Trong một bài báo trên tờ New York Times có tiêu đề “Một giấc mơ tan nát, theo sau là một con đường bạo lực”, Tamerlan Tsarnaev được mô tả là một học sinh bỏ học đại học, một người bị cô lập trong xã hội và là một thanh niên bạo lực.20 Dù say mê quyền Anh và được biết đến là một tay đấm lớn” nhưng Tamerlan không tuân thủ chế độ tập luyện và hoàn toàn ngừng tham gia. Trong một lần, anh ta vi phạm nghi thức quyền anh khi bước vào phòng thay đồ “để chế nhạo không chỉ võ sĩ anh ta sắp đối đầu mà còn cả huấn luyện viên của võ sĩ đó”. Anh ta ngày càng cô lập bản thân và hiếm khi làm việc, để mặc vợ – người đang nhận trợ cấp của chính phủ và phiếu mua thực phẩm – nuôi anh ta và đứa con nhỏ. Trước khi anh ta kết hôn, một người bạn gái đã gọi 911 để báo cáo việc anh ta đang hành hung cô ấy. Một phụ nữ trẻ yêu Tamerlan khi mới 17 tuổi chia sẻ với tờ New York Post về việc Tamerlan đã cố gắng kiểm soát cô ấy bằng cách đe dọa và bạo lực như thế nào (các động thái tương tự như trong mối quan hệ giữa Colin và Judy được đề cập trước đó trong chương này).21 “Tamerlan yêu cầu tối chỉ được phép nói chuyện với những cô gái Hồi giáo”, cô cho biết. Người phụ nữ trẻ này nhớ lại Tamerlan đã xé toạc một chiếc quần jean của cô và dùng nó đánh thẳng vào mặt cô. “Tôi yêu và sợ anh ta sẽ bỏ tôi nếu tôi không làm theo lời anh ta. Khi nhìn lại, tôi đã may mắn thoát chết”, cô chia sẻ. Đầu năm 2012, Tamerlan đến Nga khoảng 6 tháng và bỏ lại vợ con. Các mục từ trong “danh sách mong muốn” trong tài khoản Amazon của Tamerlan được công khai, trong đó có Cách chế tạo Giấy phép lái xe và Thẻ căn cước (ID) khác bằng máy tính gia đình của bạn và Trình giả mạo ID. Các cuộc điều tra tiếp theo cho thấy Tamerlan có liên quan đến buôn bán ma túy và tham gia vào ba vụ giết người trước thời điểm thực hiện vụ tấn công Boston Marathon 16 tháng. Đối với Dzhokhar, người em trai, mọi người tự hỏi làm thế nào một sinh viên thông minh, hòa đồng và giải thể thao tại Đại học Massachusetts, được biết đến là có “trái tim vàng”, lại tham gia vào một tội ác kinh khủng như vậy. Trong một bài báo trên tờ New York Times với tiêu đề “Mặt tối được ngụy trang cẩn thận”, Dzhokhar được cho là đã giữ bí mật về cuộc sống cá nhân của mình.”22 Anh ta tự mô tả bản thân là một người ngủ say và là một kẻ nói dối tuyệt vời”. Anh ta uống rượu và “hút cần sa nhiều hơn hầu hết các học sinh trung học hoặc đại học. Khi khoe khoang về việc trốn học, điểm của Dzhokhar đã giảm xuống. Mặc dù anh trai của anh ta thường xuyên cầu nguyện nhưng anh ta không bao giờ đặc biệt sùng đạo. Theo báo cáo, FBI và các quan chức địa phương tiếp tục cố gắng tìm hiểu làm thế nào những người anh em này trở nên “cực đoan hóa” cho dù có một sự phát triển hay điểm mấu chốt riêng lẻ nào trong “sự chuyển hướng” của họ sang bạo lực hay không. Mức độ ảnh hưởng của hệ tư tưởng hoặc niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của họ hiện vẫn chưa được làm rõ. Theo một người bạn, “Tamerlan sẽ ném ra những từ nước ngoài như ‘jihad’ và ‘inshallah’ mà không thực sự hiểu ý nghĩa của chúng”. Hơn nữa, anh ta cưới một người vợ theo đạo Thiên Chúa. Những gì được ghi lại là Tamerlan là một tên tội phạm trước khi anh ta đánh bom cuộc thi Marathon Boston. Sau thảm kịch đó, lời giải thích cho hành vi của Dzhokhar được đưa ra tương tự như lời giải thích về hành vi của Lee Boyd Malvo, người ít tuổi hơn trong hai tay súng bắn tỉa tại Washington, DC. - khi cho rằng Dzhokhar đã bị tẩy não và trong trường hợp này là bởi anh trai của anh ta. Tuy nhiên, những người biết Dzhokhar cho biết đó vốn là con người của anh ta. Những người được tối mô tả trong chương này là những tên khủng bố. Chắc chắn tất cả chúng đều có những đặc điểm của tính cách tội phạm. Nếu muốn biết liệu có nên quy kết hành vi phạm tội hoàn toàn do niềm tin vào một hoạt động nào đó hay không, hãy xem xét những cá nhân này là ai trước khi chấp nhận một nguyên nhân nào đó. 11 NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ T rong những ngày đầu thực hiện nghiên cứu, vào những năm 1970, một đặc điểm tư duy tội phạm khiến tôi cảm thấy ngạc nhiên nhất là mọi phạm nhân đều coi mình là con người đứng đắn. Những người tham gia nghiên cứu thừa nhận rằng, theo quan điểm của xã hội, họ là “tội phạm” vì họ vi phạm pháp luật. Điều mà tôi nhận thấy kể từ thời điểm đó là mọi phạm nhân, dù là nam hay nữ, vị thành niên hay trưởng thành, đều tin rằng, về thực chất, anh ta là một người tốt. “Nếu tự cho mình là một kẻ xấu xa, tôi không thể sống được”, một phạm nhân nói với tôi. Một người đàn ông với tiền án dài dằng dặc trong đó đỉnh điểm là vụ sát hại một cảnh sát bày tỏ: “Tôi luôn là một người quan tâm đến người khác. Tôi chưa bao giờ thực sự là một kẻ bạo lực. Tôi chưa bao giờ tự coi mình là trung tâm. Tôi cố gắng giúp đỡ mọi người bất cứ khi nào có thể mà không mong đợi được đền đáp”. Trong một cuộc phỏng vấn tại trại cải tạo, người đàn ông này tiếp tục nói, “Tôi hài lòng với bản thân mình”. Một thiếu niên mua súng để cướp biên lai thu tiền trong ngày của nhân viên nhà hàng, đã biện minh cho những gì anh ta đã làm khi nói rằng: “Không ai bị thương” và hoàn toàn không để ý đến hậu quả mà các nạn nhân phải trải qua. Vậy làm thế nào mà những kẻ giết người, hiếp dâm, cướp của, lạm dụng tình dục trẻ em – tóm lại là thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào đó – lại giữ được quan điểm tốt đẹp về bản thân mình? Những kẻ phạm tội biết phân biệt được đúng - sai cũng như hành vi hợp pháp và bất hợp pháp. Chúng thậm chí còn hiểu biết luật pháp hơn nhiều công dân có trách nhiệm khác. Bất chấp những hiểu biết này, chúng quyết định đưa ra những ngoại lệ cho bản thân chỉ vì nó phù hợp tại một thời điểm cụ thể. Như một người đàn ông đã nhận xét, “Tôi có thể biến những điều sai trái trở thành đúng đắn. Tôi có thể biến những điều đúng đắn trở thành sai trái. Việc tôi thực hiện tại một thời điểm chính là việc làm đúng đắn”. Nếu tội phạm coi điều gì đó là sai trái đối với bản thân, anh ta sẽ không làm điều đó. Một hành động là sai trái nếu nó tiềm ẩn quá nhiều rủi ro. Một hành động cũng bị coi là sai nếu kẻ phạm tội cho rằng hành động đó quá nhỏ nhặt và gây hại cho anh ta. Một kẻ thực hiện hành vi phạm pháp lâu năm có thể coi việc trộm đồ là sai chỉ vì số tiền thu được quá ít ỏi hoặc anh ta cho rằng, với tất cả các kỹ thuật giám sát mà các cửa hàng sử dụng, sẽ không đáng để thực hiện hành vi ở đó. Nếu một tội phạm mắc sai lầm khi đưa ra quyết định và bị bắt giữ, anh ta có thể thừa nhận những gì đã làm là sai và thậm chí thể hiện sự hối hận. Tuy nhiên, cảm giác sai trái và hối hận của anh ta liên quan đến việc bị bắt quả tang, chứ không phải là do thực hiện hành vi phạm tội. Về cơ bản, những người có trách nhiệm sẽ nhạy cảm với những việc họ đã gây ra cho người khác. Nếu hành vi đó khiến họ phải bận tâm thì họ sẽ xin lỗi vì xấu hổ hoặc lo lắng và cố gắng sửa đổi. Vì những hành vi đã thực hiện không phù hợp với quan điểm của họ về bản thân nên họ thực sự hối hận về những gì đã làm, rút kinh nghiệm và cố gắng không cư xử theo cách tương tự trong tương lai. Đôi khi, những cá nhân có trách nhiệm gặp khó khăn khi phải chấp nhận sự thật rằng họ đã làm hại ai đó. Họ phủ nhận và khẳng định ý định tốt đẹp của bản thân. Và một cá nhân có trách nhiệm khác có thể trả đũa khi anh ta cảm thấy bị tổn thương. Tuy nhiên, nói chung, những con người có trách nhiệm luôn cố gắng quan tâm đến vấn đề của người khác. Trên thực tế, họ là những người “tử tế” và không tự xây dựng bản thân bằng cách rình rập khía cạnh dễ bị tổn thương của người khác và xấu xé họ. Những kẻ phạm tội gọi những tội ác tày trời mà họ phạm phải là “sai lầm”. Một thanh niên nói với tôi, “Cháu là một thanh niên bình thường. Cháu đã phạm một sai lầm, một sai lầm tồi tệ”, để ám chỉ việc anh ta chộp lấy một khẩu súng lục và bắn bạn gái của mình trong một cuộc tranh cãi. Không có gì “bình thường” về cậu bé này và vụ giết người cũng không phải là một “sai lầm”. Nhưng đây là quan điểm của cậu ta; cậu ta nghĩ mình là một chàng trai tốt chứ không phải một kẻ giết người. Cảm thấy bị xúc phạm bởi cuộc điều tra của tôi về mối quan hệ trước đây của cậu ta với một người đã khuất, cậu ta phẫn nộ, “Ông chỉ nhắm tới những điều xấu xa, không có thứ gì tốt đẹp. Cuộc sống của tôi không có gì xấu xa ngoại trừ việc làm này”. Trong khi đó, một nhân viên của tòa án đã chuẩn bị một bản báo cáo dài 20 trang ghi lại việc cậu ta vi phạm nghiêm trọng các quy tắc của cha mẹ, thường xuyên trốn học, bị điểm kém và việc cậu ta liên kết với những thanh niên phạm tội trộm cắp, trộm ô tô và thực hiện các hành vi trộm y mô lớn. Tội phạm tự tách mình ra ngoài những kẻ mà chúng coi là kẻ xấu thực sự để giữ gìn hình ảnh bản thân là một người tốt. Ví dụ, những kẻ phạm tội đang đi học hoặc đang giữ một vị trí công việc nào đó, bất kể thất thường hay không, sẽ miệt thị những người không có việc làm. Được giáo dục và mang về nhà một đồng lương là những dấu hiệu thể hiện tính trách nhiệm. Việc che giấu bản thân trong lớp vỏ của sự tôn trọng này nâng cao quan điểm của họ về bản thân, đồng thời thúc đẩy họ thoát khỏi những thứ ở bên cạnh bản thân. Nhiều tội phạm thực sự là những tài năng xuất chúng. Các chương trình nghệ thuật trong tù trưng bày tác phẩm của các họa sĩ tài năng không qua trường lớp đào tạo chính quy. Trong suốt 15 năm trao đổi thư từ với những kẻ giết người hàng loạt và tử tù, Anthony Meoli nhận thấy rằng hầu hết mọi kẻ giết người hàng loạt đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà tâm lý học Katherine Ramsland, ông Meoli nhận xét: “Khả năng nắm bắt các sắc thái không gian tinh tế trong hình ảnh của họ là một đặc điểm khác thường”.1 Một số kẻ phạm tội có năng khiếu âm nhạc, biểu diễn các tác phẩm của chính họ trên các nhạc cụ mà họ học chơi hoàn toàn bằng cách nghe và làm theo. Nhiều người không chơi nhạc cụ nhưng lại là những người đam mê âm nhạc. Một số tội phạm là những thợ thủ công xuất sắc, tạo ra những món đồ da sành điệu hoặc những món đồ nội thất đẹp và chắc chắn. Nhiều phạm nhân khác có sở trường sửa chữa nhiều vật dụng khác nhau. Nếu tội phạm nhận được lời khen ngợi cho những thành tích của mình, ý thức của anh ta về giá trị của bản thân sẽ được nâng cao. Những người đã quen với tiền án của anh ta trở nên lạc quan, hy vọng rằng anh ta sẽ hướng tài năng của mình để trở thành một công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, do thiếu kỷ luật tự giác nên tội phạm khó có thể phát triển những tài năng đó. Anh ta ít quan tâm đến các chương trình đào tạo đòi hỏi sự vất vả và kiên trì. Thay vào đó, anh ta mong đợi trở thành một nghệ sĩ được công nhận, tạo ra một sản phẩm bóng bẩy hoặc một kiệt tác chỉ sau một đêm. Vì thành công hiếm khi có thể đạt được một cách nhanh chóng nên anh ta dễ trở nên mất hứng thú. Cũng có một số ngoại lệ. Thấy được sự ngưỡng mộ của công chúng hoặc lợi ích tài chính, một số tội phạm phát triển các kỹ năng của mình, từ đó dễ dàng che giấu những hành vi sai trái khác. Những người không phải là tội phạm cũng không tận dụng được năng khiếu bẩm sinh hoặc không trau dồi tài năng của mình. Họ có thể tự đặt ra những tiêu chuẩn phi thực tế cao đến mức nhanh chóng chán nản và bỏ việc ngay sau khi bắt tay vào một công việc mới. Một số cá nhân tài năng mang trong mình nỗi sợ thất bại đến mức họ bỏ cuộc trước khi tiếp nhận những đánh giá của người khác. Người sống có trách nhiệm khám phá ra ý nghĩa trong quá trình đạt được thành tựu. Anh ta có thể tự hào về quyết tâm kiên trì và vượt qua những trở ngại hơn là thành quả đạt được. Những kẻ phạm tội thì không hề như vậy. Khi không đạt được thành công ngay lập tức, anh ta khẳng định bản thân bằng các hoạt động phạm tội để có được cảm giác đáng hài lòng hơn nhiều. Một cách khác giúp nhiều tội phạm duy trì quan điểm tốt về bản thân là thông qua tôn giáo. Được theo học tôn giáo từ khi còn nhỏ, chúng ghi nhớ những gì mình học được. Cha mẹ chúng cho biết, khi còn học tiểu học, con cái họ cư xử rất lễ phép, giúp đỡ gia đình, trung thực khi đi học ở trường tôn giáo và bảo vệ những đứa trẻ kém cỏi. Khi còn nhỏ, những cá nhân này chỉ trích những người phạm sai lầm dù là nhỏ nhất. Chúng tin rằng để có thể được bạn những ân sủng tốt đẹp của Đức Chúa Trời, chúng phải cố gắng trở nên tốt đẹp hơn cả những điều tốt đẹp, thuần khiết hơn cả những điều thuần khiết. Quyết tâm của chúng không thể kéo dài dù đó thực sự là một ý nghĩ chân thành. Theo những cách thức điển hình của tội phạm, chúng chuyển từ thái cực này sang thái cực khác. Khi thế giới của anh ta mở rộng, tội phạm lúc còn nhỏ gặp phải những cám dỗ ngày càng tăng và tâm trí anh ta tập trung vào thực hiện những việc bị cấm. Sự xói mòn trong những ý định muốn duy trì sự thuần khiết trở nên khó nhận biết. Những người nghĩ rằng họ biết rõ về anh ta đều vô cùng kinh ngạc khi đứa trẻ hình mẫu này đột nhiên bùng nổ thực hiện hoạt động chống đối xã hội. Tuy nhiên, tôn giáo không bị bỏ rơi mãi mãi. Những tội phạm quay lại với tôn giáo vì hoài niệm về tuổi thơ, hoặc muốn tìm kiếm nơi tôn nghiêm khi họ khao khát sự thanh tịnh hoặc một nghi lễ nhẹ nhàng. Tuy nhiên, cũng giống với mục tiêu khai thác mọi thứ khác, tội phạm cũng khai thác tôn giáo. Họ cầu mong sự thành công trong các hoạt động phạm tội. Nếu bị bắt, họ cầu nguyện để thoát ra khỏi ách tắc đó. Tội phạm tìm kiếm sự cứu rỗi sau khi bị giam giữ, sau đó quyết tâm sửa chữa con đường của mình. Rất nhiều kẻ phạm tội đã quay trở lại với tôn giáo khi ở trong tù. Các chương trình đức tin đã gia tăng trong các cơ sở cải huấn. Trong một số trường hợp, tội phạm lợi dụng các giáo sĩ, cố gắng thu phục họ để có được sự ưu ái đặc biệt hoặc tranh thủ sự ủng hộ nhằm được ra từ sớm. Một số tỏ ra chân thành khi họ nghiên cứu tôn giáo và tham dự các buổi lễ. Tuy nhiên, có khả năng nhiều người trong số những người này sẽ nhanh chóng từ bỏ con đường ngoan đạo khi ra tù. Tôn giáo không liên quan nhiều đến cách sống của tội phạm. Khi còn là một đứa trẻ, anh ta có thể đảm nhận vai trò lễ sinh tại một buổi lễ buổi sáng nhưng ngay buổi chiều hôm đó lại bắt tay vào hành vi trộm cắp tại các cửa hàng. Khi trưởng thành, anh ta có thể cầu nguyện trong nhà thờ nhưng sau đó lại đi cướp của bằng cách chĩa súng đe dọa người khác. Các thành viên của một nhóm tội phạm có tổ chức tuyên bố mình sở hữu một đức tin tôn giáo. Họ xây điện thờ trong nhà, đi lễ nhà thờ và quyên góp từ thiện. Tuy nhiên, những hành vị này không ngăn họ giết kẻ thù của mình. Đối với tội phạm, tôn giáo và cái ác tồn tại song song và ngăn cách với nhau. Các giáo sĩ thường than thở rằng những người theo đạo không sống theo những lời dạy trong đức tin của họ. Cảm thấy mang trong mình đức hạnh sau khi tham dự một buổi lễ tại nhà thờ Thiên Chúa, nhà thờ Hồi giáo hoặc thánh đường Do Thái, những người vừa mới cầu nguyện có thể chửi rủa những người lái xe khác khi tranh nhau rời khỏi bãi đậu xe. Tuy nhiên, hầu hết những người này vẫn giữ được ý thức về ranh giới xã hội, tuân thủ luật pháp và thực hiện nghĩa vụ dù vẫn còn một số khiếm khuyết. Ngoài ra, những tội phạm có thể loại bỏ hoàn toàn những suy xét về trách nhiệm hoặc đạo đức đến mức hắn có thể tự do phạm tội giết người, hiếp dâm hoặc các hành vi tàn bạo khác. Hắn ta nhận thấy không có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và tội ác. Cả hai đều phù hợp với hắn ta, tùy thuộc vào những gì mong muốn tại một thời điểm cụ thể. Trớ trêu thay, lòng tôn sùng của những kẻ phạm tội có thể thúc đẩy hành vi phạm tội vì nó củng cố quan điểm của anh ta về bản thân là một công dân xuất sắc. Dường như bằng cách cầu nguyện và thú nhận tội lỗi của mình, tội phạm đã rửa sạch chiếc chén với bất cứ điều gì xấu xa mà nó có thể chứa đựng để hắn có thêm khả năng làm theo ý mình. Mặc dù tội phạm có thể không chấp nhận những gì người khác coi là chuẩn mực đạo đức, tuy nhiên hắn khẳng định có những chuẩn mực đạo đức của riêng mình. Những người khác là kẻ dối trá, vô lại, biến thái và tội phạm; nhưng không phải anh ta. Anh ta coi thường họ như những kẻ đồi bại vì họ làm những điều anh ta không làm. Vì lý do này, không có gì đáng ngạc nhiên khi văn hóa nhà tù có tính phán xét rất cao và một số tù nhân (đặc biệt là những người bóc lột trẻ em hoặc người già) bị coi là là kẻ thấp kém nhất trong số những kẻ thấp kém và cần được bảo vệ khi ở trong tù. Một số kẻ phạm tội coi một số hành vi cụ thể là sai trái và do đó không cho phép hành vi đó xảy ra chỉ vì anh ta cảm thấy đó là những hành vi mang tính xác phạm. Tội phạm khác nhau ở chỗ chúng áp đặt giới hạn nào đối với hành vi của mình. Một người nói rằng kẻ lạm dụng tình dục trẻ em nên bị giết, trong khi một người khác ủng hộ việc thiến kẻ hiếp dâm. Tuy nhiên, tất cả những kẻ vi phạm pháp luật đều coi bất cứ điều gì bản thân làm là điều không hề đáng trách. Một thiếu niên cứng rắn nói rằng bất cứ ai quật ngã một “bà già yếu ớt” trên phố để lấy ví của bà ấy đều đáng bị “treo cổ”. Tuy nhiên, cũng chính thanh niên này đã đột nhập vào căn hộ của một người phụ nữ lớn tuổi khi bà ấy vẫn còn ở đó, khủng bố và cướp đi đồ trang sức của bà. Theo cách nghĩ của anh ta, điều này hoàn toàn có thể chấp nhận được vì anh ta không tấn công bà ấy. Một tên tội phạm cổ cồn trắng có thể bòn rút hàng trăm nghìn đô la trong tài khoản ngân hàng của chính mình, buộc một doanh nghiệp nhỏ phải đóng cửa và khiến hàng chục nhân viên vô tội mất việc làm. Tuy nhiên, kẻ tham ô hàng loạt này lại cảm thấy kinh hoàng nếu nghĩ đến việc tấn công thể xác ai đó. Những người không phạm tội có xu hướng không nhìn nhận bản chất thật sự của tội phạm. Nhiều người khó có thể nghĩ đến việc một người khác làm tổn thương người khác một cách vô cớ và ác ý. Họ bám vào quan điểm rằng mọi người đều tốt bụng, rằng các tình tiết giảm nhẹ giải thích cho cả những tội ác tồi tệ nhất. Trong suốt cuộc đời mình, tội phạm khai thác xu hướng này của mọi người khi cơ bản cho rằng anh ta là một người tốt. Những người không phạm tội nhận ra tài năng của anh ta, chứng kiến anh ta làm việc tốt và nghe anh ta tán thành những lý tưởng cao đẹp. Những người tiếp xúc với anh ta, dù là gia đình, bạn bè hay người lạ, thường không thể hiểu được sự dối trá, mơ hồ và những tuyên bố phục vụ bản thân của anh ta. Họ muốn tin vào anh ta và miễn cưỡng đánh giá anh ta một cách khắt khe trừ khi anh ta phạm tội bạo lực hoặc có nhiều tiền án. Thậm chí khi đó, họ vẫn có thể đưa ra lời biện minh cho hành vi của anh ta. Trường hợp của Irene minh chứng cho bản năng này. Irene tỏ ra là một người vợ, người mẹ đảm đang nhà với hai cô con gái. Với tính cách sôi nổi, cô ấy có rất nhiều bạn bè. Nhưng đằng sau vẻ bề ngoài của một người phụ nữ có học thức cao, có trách nhiệm và ổn định về tình cảm là một con người hoàn toàn khác. Irene đã ăn trộm đồ từ rất nhiều cửa hàng đến nỗi cô ấy đã chất đống quần áo mới trong cốp xe hơi và treo trong tủ. Một số lần bị bắt giữ không ngăn được cô ấy và việc trộm cắp vẫn tiếp tục diễn ra. Ngoài ra, cô ấy còn có nhiều mối quan hệ ngoại tình. Chồng cô cho rằng cô đã ngụy tạo những cáo buộc sai trái về lạm dụng gia đình, dẫn đến việc tòa án ban hành lệnh bảo vệ buộc anh ta phải rời khỏi căn nhà chung của hai người. Sau khi Irene bỏ con cái ở nhà một mình vào ban đêm để gặp một người đàn ông ở khách sạn gần đó, Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em đã can thiệp và cô bị buộc tội bỏ bê con cái. Tòa án đã bác lệnh bảo vệ và cho phép chồng cô được sử dụng độc quyền nơi ở của hai người cũng như quyền nuôi con. Irene không được phép gặp bọn trẻ cho đến khi được trị liệu và hoàn thành khóa học làm cha mẹ. Irene tự giới thiệu bản thân với tôi là bên bị hại, bị chồng và tòa án xử oan. Cô cho rằng chồng đi du lịch liên tục, ít giúp đỡ việc nhà và thường xuyên coi thường và sỉ nhục cô ngay trước mặt các con. Irene khẳng định do cô ấy thuê một luật sư không có năng lực nên thẩm phán đã không hiểu hoàn cảnh của cô. Giờ đây kẻ gây hấn với cô ấy đã trở lại ngôi nhà và thuê một vú em chăm sóc bọn trẻ. Irene đã hợp lý hóa mọi thứ. Cô ấy giải thích, khi ăn trộm, cô ấy vô cùng căng thẳng đến mức không nhận thức được bản thân đang làm gì. Cô cho rằng thuốc làm suy giảm khả năng phán đoán của cô. Irene đã rất tức giận trước những lời lẽ tấn công tính cách của cô vì cô thực sự tin rằng bản thân là một người mẹ tốt và một người lương thiện. Cô khẳng định rằng bất cứ điều gì sai trái xảy ra đều không phải do lỗi của cô và cô cần được khôi phục lại vị trí đúng đắn của mình với tư cách là người nuôi dưỡng các con. Tôi đã nói chuyện với cha mẹ của Irene, những người vẫn lưu luyến hình ảnh của Irene từ khi cô ấy còn là một bé gái. Bất chấp những vụ bắt giữ và lệnh cấm thăm con của tòa án, cha mẹ Irene vẫn tin rằng tất cả những hành vi sai trái kia chỉ là hiểu lầm và không phản ánh tính cách thực sự người con gái thần tượng của họ. Họ không bênh vực Irene nhiều như khi cố gắng nói cho tôi biết về sự rộng lượng, nổi tiếng, tận tâm và nhân cách đạo đức tuyệt vời của cô ấy. Hai người bạn của Irene cũng cư xử như vậy. Họ không biết về vấn đề của cô ấy với Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em và tòa án. Khi nghe thông tin từ các nguồn khác về những vụ việc đã xảy ra, họ vô cùng nghi ngờ. Giống như Irene, tội phạm có thể giành được rất nhiều điểm cộng khi nhắc đến tính cách, tài năng và thành tích. Nếu một sự việc xảy ra trái với quan điểm tích cực mà những người khác vẫn nghĩ về kẻ phạm tội thì họ sẽ từ chối tin vào điều đó. Irene chắc chắn sẽ không tự nguyện đưa ra thông tin về việc cô ấy bị bắt giữ hoặc về những tình huống mà cô ấy để các con mình một mình vào ban đêm. Những người bạn từng đến thăm cô tại nhà, quan sát cô cùng các con và giao con riêng của họ cho cô đều chắc chắn rằng Irene đã bị chồng sắp đặt, và sau đó là bị tòa án xử oan. Một người phụ nữ cảm thấy bị sốc khi một thẩm phán đưa ra quan điểm tiêu cực về Irene nhận xét, “[Irene] là một người tuyệt vời. Đó không phải là cô ấy. Chắc hẳn mọi người đang nói đến một người nào khác”. TÔI ĐÃ THỰC HIỆN đánh giá quyền nuôi con độc lập trong ba mươi năm qua. Đôi khi tôi gặp phải trường hợp, trong đó một trong hai người phụ huynh có tính cách tội phạm. Anh ta không tiếc công sức xây dựng bản thân nhưng lại tàn phá người bạn đời của mình. Anh ta nói dối, sử dụng quyền lực và chiến thuật kiểm soát để tấn công người bạn đời của mình, như thể giành được quyền nuôi con là một chiến tích. Trận chiến không liên quan đến đứa trẻ mà chủ yếu là vì khao khát chiến thắng. Dù đe dọa khiến đối phương phá sản và lấy đi những gì quý giá nhất đối với cô ấy – những đứa con, những người cha mẹ trong cuộc chiến thực sự tin rằng mình là người phụ huynh tốt hơn và là một con người danh giá hơn nhiều. Marcia nói với tôi rằng chồng cô ấy, Lance, đã thực hiện một chiến dịch tàn bạo để giành quyền nuôi ba đứa con của họ. Anh ta đe dọa sẽ cắt giảm tiền cấp dưỡng nuôi con, khiến cô ấy phải chịu cuộc sống nghèo đói đến mức khốn khổ tột cùng và những đứa trẻ sẽ xin được sống với anh ta. Anh ta cảnh báo nếu không giành được quyền nuôi con, anh ta sẽ rút khỏi cuộc sống của bọn trẻ. Anh ta dự đoán rằng sau khi làm như vậy, lũ trẻ sẽ nhanh chóng quay trở về với anh ta. Mặc dù Lance đã từng yêu Marcia tới mức quyết định kết hôn với cô và cùng nhau có ba đứa con, nhưng giờ đây anh ta không còn cái nhìn nào tích cực về cô ấy nữa. Với quan điểm khinh bỉ đến mức buồn nôn, anh ta mô tả vợ mình là người ích kỷ, tâm lý không ổn định và không thể hòa hợp. Hơn nữa, anh ta có cảm giác ác ý với bất kỳ ai mà Marcia quen biết, đặc biệt là các thành viên trong gia đình của cô. Cho dù những hoạt động được thực hiện một cách tích cực thì anh ta cũng vẫn chiếu ánh sáng tiêu cực nhất vào trong đó. Ví dụ, Lance mô tả việc Marcia thành lập một đội bơi lội tại câu lạc bộ thể thao ngoài trời là một biểu hiện của vấn đề tự đề cao bản thân. Trong thời gian hai vợ chồng sống cùng nhau, cô ấy là người chăm sóc chính cho gia đình, còn anh ta thường vắng mặt trong ngôi nhà, dành thời gian thất thường ở văn phòng, tham gia các buổi đi chơi gôn với bạn bè và theo đuổi nhiều sở thích khác. Lance đánh bạc, uống rượu và sử dụng ma túy bất hợp pháp. Ngay cả khi ở nhà, anh ta vẫn thường yêu cầu Marcia phải thuê một người trông trẻ để chăm sóc bọn trẻ nếu cô ấy đi ra ngoài. Trong quá trình đánh giá quyền nuôi con, Marcia không dành nhiều thời gian để chỉ trích chồng cô như những gì anh ta đã làm để trách móc cô. Đôi khi, Lance khiến cô sợ hãi khi anh ta đưa ra những nhận xét như “Cô đã nghe về O. J. chưa [ám chỉ O. J. Simpson, một kẻ được tha bổng với tội giết vợ]”. Hoặc anh ta sẽ thông báo, “Tôi sẽ ra ngoài để tìm người quan hệ tình dục và quan hệ tình dục bằng miệng”. Trớ trêu thay, sau khi ly thân và các vụ kiện tụng về quyền nuôi con liên tục kéo dài, Lance bắt đầu làm những gì vợ anh ta từng cầu xin anh thực hiện, đó là đảm nhận một vai trò tích cực hơn trong cuộc sống của bọn trẻ. Chiến lược của Lance là làm bất cứ điều gì cần thiết để giành chiến thắng. Do đó, cuộc hôn nhân tan vỡ khiến những đứa trẻ nhận được nhiều sự quan tâm từ Lance hơn bao giờ hết và sự gắn bó của chúng với anh ta trở nên ngày càng sâu sắc. Sau khi tôi đưa ra báo cáo của mình, Lance đã cực kỳ tức giận khi bị từ chối quyền nuôi con duy nhất (tôi đã đề nghị quyền nuôi con chung nhưng những đứa trẻ sống chủ yếu với mẹ của chúng). Anh ta thông báo với Marcia rằng anh sẽ không đến thăm bọn trẻ nữa. Anh ta cũng nói với cô rằng anh ta đã phá hủy tất cả các bức tranh và tấm ảnh của bọn trẻ. Lance đã thể hiện đúng màu sắc của bản thân khi quyết định từ bỏ những đứa con. Sau tất cả, anh ta bắt đầu dành thời gian cho con cái, nhưng chỉ trong một vài khoảng thời gian rất ngắn. Lance thực sự tin rằng anh ta là một người chồng tuyệt vời và một người cha tận tụy. Anh ta tuyên bố Marcia kết hôn với anh ta vì cô ấy “bị thu hút bởi sự giàu có” mà sự nghiệp của anh ta mang lại. Anh ta nói với tôi rằng Marcia đã “tuyên chiến” khi yêu cầu anh ta phải rời khỏi căn nhà. Lance nói: “Tôi đã thử thực hiện mọi cách có thể để cuộc hôn nhân này thành công”, bao gồm cả việc về nhà mỗi ngày vào lúc 5 chiều và ngày càng cởi mở và dễ gần hơn. Trong một bài kiểm tra đánh giá tính cách, Lance đưa ra các câu trả lời hết sức tự nhiên. Báo cáo kết quả của bài kiểm tra nêu rõ, “Anh ta che đậy những thiếu sót của mình và hành động như thể mọi người cần phải tuân theo định kiến của anh ta và kỳ vọng của xã hội nhiều hơn bình thường”. Trong quá trình đánh giá quyền nuôi con, Lance thể hiện sự quan tâm đến các con hơn bất cứ điều gì khác và khẳng định, “Tôi là một người cha gương mẫu trong mười tháng qua. Cô ta không phải là một người mẹ gương mẫu”. Dù tự nhận mình là “người cha gương mẫu”, Lance vẫn tiếp tục làm hại các con mình khi lôi kéo chúng vào giữa cuộc xích mích rồi bỏ rơi chúng. Lance không chỉ đơn thuần là cố chấp. Anh ta còn thực sự tin rằng mình là người cha hoàn hảo và tính cách của anh ta vượt trội hơn hẳn về mặt đạo đức so với vợ mình. Những kẻ phạm tội tuyên bố rằng họ coi trọng gia đình và mong muốn được chấp nhận bất kể họ làm gì đi nữa. Tuy nhiên, những lời quan tâm không phù hợp với những hành động thô bạo của họ vì họ có xu hướng coi các thành viên trong gia đình như những vật sở hữu cá nhân. Hết lần này đến lần khác, họ đòi hỏi, đe dọa, phản bội, gây thất vọng và khiến gia đình kiệt quệ. Khi cha mẹ tội phạm không làm những gì theo mong muốn, anh ta sẽ cố gắng khiến họ cảm thấy tội lỗi. Nếu họ không đồng tình với những lựa chọn và quyết định của anh ta, anh ta sẽ buộc tội họ cố gắng kiểm soát cuộc sống của mình. SAU NHIỀU NĂM TRÔI QUA, gia đình Troy đã thành lập công ty bất động sản và làm cho nó phát triển cực thịnh. Cha mẹ anh ta chuẩn bị cho anh ta tiếp quản công ty khi họ nghỉ hưu. Khi được giao trách nhiệm ngày càng lớn, Troy phàn nàn rằng công việc đã trở thành một cơn ác mộng đòi hỏi anh phải có mặt suốt ngày đêm. Anh ta cho biết cha anh ta sẽ không từ bỏ ngai vàng quyền lực, luôn kiểm soát và cáu kỉnh. Troy nghĩ rằng anh ta phải gánh chịu sự tức giận của cha mình khi có bất kỳ vấn đề gì xảy ra. “Ông ấy không bao giờ khen tôi. Rõ ràng là ông ấy không bao giờ hoàn toàn tin tưởng tôi có thể điều hành công ty. Thực tế là cha anh ta có lý do chính đáng để không tin tưởng anh ta. Troy bắt đầu không đến nơi làm việc, sau đó sử dụng thẻ tín dụng của công ty để chi tiêu cá nhân. Cuối cùng, cha mẹ của Troy phát hiện ra những khoản tiền rất lớn đã không được giải trình. Theo thời gian, hàng triệu đô la đã biến mất. Cuối cùng, Troy chính là thủ phạm, mua các thiết bị điện tử đắt tiền, xe hơi sang trọng và thua một khoản tiền khổng lồ khi đánh bạc trên Internet và tại các sòng bạc. Ngoài ra, anh ta còn đầu tư một cách bốc đồng vào những công việc kinh doanh thực tế không hề tồn tại. Thỉnh thoảng, anh ta thay thế một số tiền bị đánh cắp từ số tiền lãi tạm thời trong các khoản đầu tư. Troy có thể che giấu hành vi biển thủ của mình chủ yếu là do gia đình tin tưởng và trao cho anh ta quyền tự chủ quá lớn. Về cơ bản, Troy nghĩ mình là một chàng trai tốt dù đã phạm rất nhiều sai lầm. Anh ta tự hào về sự hào phóng của bản thân. Dù không được phép nhưng anh ta vẫn cho một số người đang trải qua thời kỳ khó khăn vay tiền bằng số tiền trong công ty của gia đình. “Tôi sẽ không bao giờ để bất kỳ ai phải trả tiền”, anh ta nói khi nhắc đến những bữa ăn tối thường xuyên của mình tại các nhà hàng. Và anh ta đã chi trả các chi phí khách sạn và ăn uống cho những nhóm bạn đi cùng trong các chuyến đi mà anh ta gọi là “lớn hơn cả cuộc đời” đến Las Vegas. Troy nói rằng đối với vợ của mình, anh ta luôn “tình cảm, luôn cho đi và luôn hào phóng”. Tất cả những gì anh ta mong muốn đối với bản thân khi đã bước sang tuổi bốn mươi là “có một cuộc sống thoải mái không phải lo lắng; nghỉ hưu và ngồi trên bãi biển”, và không bao giờ phải làm việc nữa. Khi được yêu cầu liệt kê ra những đặc điểm tích cực và tiêu cực trong tính cách của mình, Troy đã thực hiện. Anh ta tự mô tả bản thân là người “đáng tin cậy, trung thành, năng nổ, không cần giám sát và là một chàng trai có trách nhiệm”. Đối với các điểm tiêu cực, anh ta nói rằng anh ta uống rượu quá nhiều, không chia sẻ cảm xúc, “cố gắng làm hài lòng mọi người”, “giả vờ thông minh”, “đôi khi nói dối” và “đánh bạc khủng khiếp”. Luôn luôn coi bản thân là một người con ngoan ngoãn và một người đàn ông hào phóng, anh ta đã phải ngồi tù vì phá hủy cơ ngơi mà gia đình đã mất hàng thập kỷ để xây dựng chỉ trong vài năm. Thậm chí sau tất cả những vụ việc này, cha mẹ của anh ta đã đến thăm anh ta trong tù và anh ta mô tả họ là những người biết cảm thông”. Tôi từng gặp rất nhiều trường hợp tương tự như trên, trong đó tội phạm đã tàn nhẫn lợi dụng lòng tin và sự ủng hộ của gia đình. Trong số đó có Morgan, một thanh niên có xu hướng sống vượt quá khả năng của bản thân, đặt những chuyến bay hạng nhất đến các khu nghỉ dưỡng, ở trong các khách sạn sang trọng và chi số tiền khổng lồ tại các nhà hàng đẳng cấp, thanh toán tất cả bằng thẻ tín dụng mà anh ta lấy trộm từ cha mẹ. Anh ta đã tích lũy khoản nợ hàng chục nghìn đô la tiền phí thẻ tín dụng trước khi bị bắt. Bố mẹ không truy tố anh ta nhưng mong muốn anh ta làm việc và trả dần số tiền đó, đồng thời cần phải rút kinh nghiệm. Khẳng định rằng bản thân cảm thấy rất hối hận và hứa sẽ cải tạo, Morgan dường như đang sống một cuộc sống khiêm tốn, kỷ luật và sẽ không có tiền nếu không chăm chỉ làm việc. Anh ta dường như làm việc có trách nhiệm cho đến khi nghỉ việc và về sống với bố mẹ. Vào thời điểm đó, cha anh ta bị ốm và thất nghiệp. Morgan luôn quan tâm đến thị trường chứng khoán và đã đầu tư 500 đô la tiền tiết kiệm của mình để thu về khoản lợi nhuận khiêm tốn. Cảm giác thèm muốn của anh ta bùng lên, Morgan chắc chắn có thể kiếm được “khoản lợi nhuận khổng lồ” nếu có nhiều tiền hơn để đầu tư. Mạo danh cha mình (anh ta có được những thông tin định danh cần thiết, bao gồm cả số An sinh xã hội), Morgan đã ủy quyền gần một trăm nghìn đô la để chuyển vào tài khoản ngân hàng của chính mình, sau đó bắt tay vào mua cổ phiếu. Anh ta hóa ra không phải là một phù thủy tài chính như anh ta vẫn nghĩ. Tin rằng bản thân đã đạt được “khoản lợi nhuận khổng lồ” như mơ tưởng, nhưng hóa ra Morgan đã tính toán sai và gánh chịu những khoản lỗ khổng lồ. Trong khi đó, cha anh đã gọi điện cho ngân hàng để yêu cầu chuyển tiền từ tài khoản của mình sang tài khoản khác tại một tổ chức khác. Trước sự ngạc nhiên của bản thân, ông ấy được thông báo rằng số tiền trong tài khoản đó ít hơn nhiều so với bảng sao kê ngân hàng cuối cùng của ông ấy. Cha mẹ của Morgan đã suy sụp trước những mất mát về tiền bạc, nhưng đau buồn hơn nhiều khi con trai của họ quay lại với những hành vi cũ, anh ta lại lợi dụng họ một cách có tính toán. Morgan giải thích rằng động cơ trong lần thực hiện này khác rất nhiều so với trước đây, dù anh ta bị thôi thúc bởi lòng tham thuần túy. Mục đích của anh ta không phải là trở nên giàu có mà là kiếm tiền để giúp đỡ gia đình trong giai đoạn khó khăn. “Số tiền này không phải dành cho tôi; ý định của tôi là kiếm tiền cho bố mẹ”, anh ta giải thích. Thay vì từ mặt con trai hay đuổi anh ta ra khỏi nhà, cha mẹ của Morgan thể hiện thái độ rằng những mất mát mà họ phải gánh chịu sẽ đáng giá nếu điều đó có thể cảnh tỉnh đứa con của họ. Cha anh ta nói với tôi, “Tôi thực sự tin rằng nó muốn giúp đỡ gia đình. Đó là chìa khóa để đánh giá động cơ của nó. [Morgan] có thể đã gặp phải sai lầm mà không biết điều đó”. Và ông ấy kết luận, “[Morgan] là một người tốt. Đó là suy nghĩ sai lầm và là một phần trong quá trình tìm kiếm lòng tự trọng của nó”. Thông thường, cha mẹ và những người thân thiết với tội phạm sẽ đưa ra lời biện minh cho hành vi của anh ta. Mặc dù nghi ngờ rằng anh ta thậm chí có thể gây hại nhưng họ vẫn giải thích hành vi của anh ta theo các tình tiết giảm nhẹ hoặc những vấn đề tâm lý ăn sâu trong con người anh ta. Morgan biết chính xác những gì đang thực hiện và hành động có chủ ý. Cha mẹ anh ta không bao giờ có thể tin rằng con trai của họ lại có thể nhẫn tâm như vậy. NHỮNG TỘI PHẠM RẤT GIỎI trong việc tìm ra điểm yếu và điểm dễ bị tổn thương của người khác. Những người cao tuổi có thể là mục tiêu đặc biệt hấp dẫn. Theo báo cáo của Hiệp hội Hưu trí Hoa Kỳ (AARP), “Những người Mỹ từ 50 tuổi trở lên chiếm khoảng một nửa trong số gần 11 triệu đô la thiệt hại do các âm mưu đe dọa được tố cáo tới Trung tâm Khiếu nại Tội phạm Mạng”. 2 Theo AARP, tội phạm đe dọa những người cao tuổi bằng nhiều cách khác nhau. Chúng đe dọa sẽ thực hiện hành vi bạo lực nếu những đối tượng được nhắm tới không thanh toán một hóa đơn được thông báo đã quá hạn. Chúng cử người trực tiếp đến nhà để bắt những nạn nhân đó chi trả số tiền mà chúng thông báo là họ đang mắc nợ. Một thủ đoạn khác là yêu cầu nạn nhân phải trả ngay cho chúng một khoản tiền phạt do tòa án hoặc tổ chức chính phủ khác yêu cầu. Chúng đe dọa giết những người lớn tuổi để khiến họ sợ hãi và phải móc tiền ra trả cho chúng. (Vào năm 2012, có 1.354 người cho biết đã bị tống tiền với tổng số tiền 2 triệu đô la do bị dọa giết nếu không thanh toán.) AARP lưu ý rằng những thống kê như vậy có thể chưa đầy đủ do các nạn nhân bị đe dọa buộc phải im lặng hoặc cảm thấy xấu hổ khi thừa nhận đã bị lừa. Những người cao tuổi cũng là nạn nhân thường xuyên của hành vi trộm cắp danh tính y tế và hoạt động này xảy ra khi tội phạm có được thông tin cá nhân để mua thuốc theo toa hoặc điều trị y tế. Một lĩnh vực mà tội phạm có thể hoạt động với ít rủi ro là khi chúng được giao chăm sóc những người người già yếu, đặc biệt là những người bị mất trí nhớ. Khi thông tin tài chính cá nhân xuất hiện tại ngôi nhà họ làm việc, những nhân viên chăm sóc này sẽ xâm nhập tài khoản ngân hàng, giả mạo séc và cấp quyền truy cập vào thẻ tín dụng. Trong một trường hợp, nhân viên chăm sóc cho một phụ nữ giàu có ở Nam Florida đã có thể sử dụng thẻ tín dụng của người phụ nữ này và trả cho sòng bạc một khoản phí dịch vụ nhỏ để nhận được những khoản tiền mặt ứng trước rất lớn vào túi của chính mình. Khi người phụ nữ này nhận được tấm séc chăm sóc dài hạn, nhân viên chăm sóc sẽ giả mạo chữ ký của người phụ nữ, chỉ gửi một phần số tiền vào tài khoản của bà ấy và sau đó chiếm đoạt phần còn lại bằng khoản tiền mặt. Hơn 300.000 đô la tiền mặt và tài sản biến mất khỏi danh mục tài sản của người phụ nữ kia trước khi các thành viên trong gia đình của bà ấy, những người sống cách đó hơn 1600 cây số, biết được những khoản tiền đang không cánh mà bay. Điều thú vị là những tội phạm săn những con mồi là người già thường bày tỏ tình cảm lớn lao đối với ông bà và những người lớn tuổi trong khu phố của chúng và tỏ ra luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Chúng mang hàng tạp hóa, xúc tuyết, giúp họ qua đường và chạy việc vặt. Những kẻ phạm tội thường xuyên bảo vệ những người già cả nếu nghĩ rằng ai đó đang chuẩn bị lợi dụng những người cao niên mà họ biết. Tình cảm của tội phạm dành cho những người lớn tuổi mà anh ta quen ngay lập tức giúp xây dựng quan điểm rằng anh ta là một người tốt. Những kẻ phạm tội có những khác biệt rất lớn trong cách thể hiện tình cảm. Một số kẻ yêu quý động vật đến nỗi chúng sẽ mang về nhà một con vật bị thương, bị bỏ rơi và đối xử với nó một cách dịu dàng hơn con của mình. Một kẻ sát nhân từ chối giết một con bọ vì anh ta không “muốn giết một sinh vật sống”. Những kẻ yêu động vật này sẽ can thiệp và thậm chí hành hung một người mà chúng thấy rằng đang ngược đãi động vật. Những tội phạm khác ngược đãi động vật hoặc thờ ơ với chúng. Tương tự, một số kẻ rất yêu mến trẻ sơ sinh. Chúng rơi lệ khi nghe thấy tiếng khóc của trẻ sơ sinh và vội vàng dỗ dành một đứa trẻ. Nhưng cũng có những kẻ không hề thích chăm sóc trẻ sơ sinh, ngay cả với đứa con của chính chúng. Một đứa trẻ sơ sinh than khóc, khó bảo có thể gọi lên những ý nghĩ giết người hoặc thậm chí là những hành vi tàn bạo về thể chất. TỘI PHẠM QUAN HỆ TÌNH DỤC với trẻ vị thành niên cũng không nằm ngoài chủ đề của chương này, chúng cũng tin rằng bản thân là những con người tốt đẹp. Mặc dù nạn nhân là trẻ em và chứng nhận thức được hành vi bất hợp pháp đó, tuy nhiên chúng vẫn không coi mình là “tội phạm”. Những kẻ phạm tội này nhanh chóng chỉ ra rằng chúng không hề sử dụng vũ lực, và khẳng định những người mà chúng quan hệ tình dục cũng háo hức muốn thực hiện hành vi đó. Khi Henry phải đối mặt với một bản án vì tội sản xuất nội dung khiêu dâm trẻ em, tôi đã phỏng vấn anh ta – một nhà ngoại giao từng đóng quân tại một đất nước bị chiến tranh tàn phá. Henry xuất thân từ một gia đình nghèo và là người đầu tiên trong gia đình học đại học. Anh tiếp tục học lên cao học, sau đó thăng tiến nhanh chóng trong công ty mà anh ta được tuyển dụng. Lịch sự, cuốn hút và hòa đồng, Henry hòa nhập với người dân địa phương và thể hiện sự trân trọng đối với văn hóa của họ. Anh ta được mời đến nhà, kết bạn với một số cô gái trẻ và cha mẹ của những cô gái đó cũng cảm thấy rất vui vì người Mỹ đẹp trai, khá giả này thể hiện sự quan tâm với con gái của họ. Henry đã quan hệ tình dục với những người này, một số người trong số họ chỉ mới 14 tuổi. Anh ta giải thích rằng, trong xã hội đó, trẻ em gái phát triển thể chất ngay từ khi còn nhỏ và trong một số trường hợp, anh ta nghĩ rằng chúng phát triển hơn thực tế. Hơn nữa, anh ta cho rằng chúng không được coi là trẻ em vì chúng phải gánh vác trách nhiệm của người lớn ngay từ khi còn nhỏ. Henry nhấn mạnh tình dục là thứ rất dễ dàng có được, rằng anh ta không bao giờ phải sử dụng đến bạo lực. Anh ta đã quay phim lại các hành vi của mình - anh ta vẫn khẳng định tất cả những hoạt động đó đều được chấp thuận. Cơ quan công tố đưa ra một bức tranh khác dựa trên các cuộc phỏng vấn với một số người phụ nữ này – rằng Henry đã lôi kéo những phụ nữ này quan hệ tình dục bằng cách khiến một số người nghĩ rằng anh ta sẽ đưa tiền cho họ hoặc gia đình của họ. Anh ta cũng nói với một số người rằng anh ta có thể kết hôn với họ, điều này mang lại hy vọng cho cha mẹ của họ, những người đang vật lộn để tồn tại qua ngày. Trong vụ án này, thẩm phán không đồng ý rằng những việc Henry làm là có thể chấp nhận được vì phong tục của nền văn hóa đó. Thay vào đó, Henry là một kẻ săn mồi đã sử dụng địa vị ngoại giao của mình để tiếp cận các gia đình địa phương, sau đó dụ các bé gái vị thành niên thực hiện hành vi tình dục tại nơi ở của anh ta với những lời hứa hão huyền. Henry đã rất tức giận khi bị buộc tội vì anh ta nghĩ mình là một người Mỹ chăm chỉ, yêu nước, đã và đang làm một công việc xuất sắc đại diện cho Hoa Kỳ. Anh ta tự thấy mình là người có khả năng hòa hợp đặc biệt với người dân địa phương theo cách mà không một nhà ngoại giao nào có thể làm được. Anh ta kịch liệt phủ nhận hành vi bóc lột trẻ vị thành niên để quan hệ tình dục với họ. Anh ta nói rằng, với vị trí của bản thân, anh ta đồng cảm sâu sắc với những người luôn phải lo lắng về bữa ăn tiếp theo. Đưa ra những cuộc tranh đấu của bản thân, anh ta bày tỏ lòng biết ơn đối với chính phủ Hoa Kỳ vì cơ hội nghề nghiệp tuyệt vời đã dành cho anh ta và cảm thấy tự hào vì đã có thể phục vụ cộng đồng hơn là tham gia vào một lĩnh vực sinh lợi hơn trong khu vực tư nhân. Liên quan đến hành vi quay phim các hoạt động tình dục, Henry không hề hối lỗi khi chia sẻ từ lâu anh ta đã quen với việc quay phim mọi khía cạnh trong cuộc sống của bản thân và những người bạn tình của anh tacũng nhìn thấy camera và không phản đối việc bị quay phim. Tuy nhiên, khi thẩm phán nhìn nhận vụ việc theo hướng hoàn toàn khác biệt, Henry đã phải nhận một bản án dài hạn trong tù. NHỮNG CHUYÊN GIA CÓ TÂM, VÍ DỤ như những cố vấn và nhân viên xã hội mong muốn giúp đỡ tội phạm, thường nghĩ rằng vấn đề chủ yếu nằm ở lòng tự trọng thấp. Họ thấy rằng tội phạm đã thất bại trong nhiều khía cạnh khác nhau: gia đình, trường học, nơi làm việc, trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và trong việc phát triển tài năng của bản thân. Do những chuyên gia gặp anh ta trong một tình huống mà anh ta có vẻ chán nản nên họ có thể chẩn đoán vấn đề cốt lõi của anh ta là trầm cảm và có hình ảnh tự ti về bản thân. Và thực sự là tội phạm có thể chán nản vì hắn đang ở trong một tình huống mà hắn rất muốn thoát ra. Khi hiểu được tại sao tội phạm luôn coi bản thân là người tốt sẽ giúp những người có lòng tốt tránh lãng phí thời gian vào những việc làm vô ích để thúc đẩy cái tôi vốn đã rất lớn của tội phạm. Các nhân viên thực thi pháp luật biết rằng tội phạm luôn nghĩ chúng là những người tốt và sử dụng khía cạnh tâm lý này vào quá trình lấy lời khai. Họ nói với tội phạm rằng họ hiểu anh ta có một trái tim tốt đẹp và có lẽ không có ý định làm hại ai đó. Cách lấy lời khai như vậy không chỉ ít thô lỗ hơn mà còn dễ thông cảm hơn so với những người lấy lời khai như thể người bị lấy lời khai hoàn toàn xấu xa. Một cán bộ tiến hành thẩm vấn một người đàn ông 35 tuổi ngay sau khi anh ta bị bắt do là nghi phạm chính trong một vụ giết bạn lúc hai bên tranh cãi dữ dội. Với một giọng điệu an ủi, viên cảnh sát nói với anh ta, “Ở đây đã mấy tiếng đồng hồ đầy khó khăn, nhưng anh có vẻ là một người tốt bụng. Tôi biết anh không phải là người xấu. Anh biết đấy, anh là một người đàn ông tốt và đôi khi những điều tồi tệ vẫn xảy ra với những người tốt. Chúng tôi chỉ muốn biết sự thật về những gì đã xảy ra. Tất cả chúng ta đều ở trong tình huống này. Chúng tôi muốn giúp anh vượt qua điều này nhưng anh phải, anh biết đấy, sẵn sàng hợp tác với chúng tôi, trung thực với chúng tôi”. Ý tưởng đằng sau cách tiếp cận như vậy là một nghi phạm có thể cung cấp ra nhiều thông tin hơn khi anh ta chắc chắn rằng người thẩm vấn coi anh ta là một người tốt. 12 BỆNH TÂM THẦN, HAY NHÂN CÁCH TỘI PHẠM? Chẩn đoán sai một con người nguy hiểm Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ luật sư bào chữa vụ án hình sự yêu cầu tôi đánh giá Clay, 32 tuổi, bị bắt vì tội ăn trộm. Tôi gần như không thể ngờ rằng lần làm việc này sẽ bắt đầu một mối quan hệ bốn năm đầy biến động với một trong những kẻ khó quản lý và nguy hiểm nhất tối từng gặp. Clay là một bệnh nhân quen thuộc của các chương trình điều trị ngoại trú và nội trú tâm thần, các trung tâm cấp cứu, các chương trình điều trị ban ngày và là người thường xuyên bị giam giữ trong nhà tù quận. Mặc dù anh ta không còn sống với cha mẹ già yếu và đãng trí của mình, tuy nhiên họ vẫn luôn ủng hộ việc điều trị cho anh ta. Họ đã phải trải qua rất nhiều khổ cực khi anh ta còn nhỏ và lần đầu tiên họ tìm cách điều trị sức khỏe tâm thần cho con trai của mình khi anh ta lên 9 tuổi. Họ có một cậu con trai khác đã trưởng thành, không gặp phải vấn đề nào đặc biệt và sống một cuộc sống độc lập có trách nhiệm. Với thái độ kiên quyết, Clay bắt đầu phản đối việc đi học từ năm lớp 4, biến hầu hết các yêu cầu của cha mẹ thành chiến trường, bắt đầu sử dụng nhiều loại ma túy khi còn là một thiếu niên và nổi cơn thịnh nộ khi bị bố mẹ chửi mắng do đục lỗ trên tường ở nhà. Vừa tốt nghiệp trung học, Clay rất thông minh và sáng tạo, nhưng vô tổ chức và dễ bị phân tâm, hiếm khi làm bài tập, theo đuổi sở thích hay mối quan tâm nào. Anh ta từng làm nhiều công việc nhưng hoặc bỏ dở vì chán nản hoặc bị sa thải vì cáu kỉnh, hay đe dọa và nói chung là không muốn làm theo lời người khác. Bởi vì Clay không muốn điều trị nên các chuyên gia sức khỏe tâm thần gặp anh ta chủ yếu trong các thời điểm anh ta phát bệnh và được cha mẹ đưa đến gặp bác sĩ hoặc theo yêu cầu của quy trình pháp lý. Cũng có một số thời điểm anh ta đồng ý điều trị vì cuộc sống tưởng như vô vọng. Trong quá trình điều trị sức khỏe tâm thần không thường xuyên của anh ta, các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học chẩn đoán Clay mắc nhiều chứng bệnh khác nhau và các bác sĩ đã kê gần hai chục loại thuốc theo các đánh giá của họ. Hồ sơ của Clay cho thấy, vào từng thời điểm khác nhau, anh ta có những mong muốn giết người, tự sát, tâm thần, lo lắng, hoang tưởng và một kẻ lạm dụng chất kích thích. Nói tóm lại, anh ta dường như là một cuốn sách giáo khoa di động về tâm thần học. Clay đã trải qua hai tháng liên tiếp trong các đơn vị điều trị tâm thần tại nơi cư trú. Điều đó hiếm khi xảy ra trừ khi một người tự bỏ tiền túi ra hoặc có bảo hiểm đặc biệt. Các chẩn đoán của anh ta trải dài từ tâm thần phân liệt, một căn bệnh mãn tính có khả năng làm tê liệt, cho đến chứng rối loạn lo âu đôi khi phải dùng thuốc điều nhẹ và điều trị ngoại trú ngắn hạn. Mặc dù Clay được chẩn đoán mắc một loạt các rối loạn tâm thần, tuy nhiên một số nhân viên bệnh viện quan sát anh ta trong ca làm việc kéo dài 8 tiếng nhận ra rằng hành vi của anh ta xuất phát từ những lựa chọn có chủ ý chứ không phải do bệnh tâm thần. Không có gì ngạc nhiên khi Clay là một kẻ bịp bợm vô cùng khôn khéo khi có thể thường xuyên rời khỏi các cơ sở điều trị nội trú để chống lại các chỉ định y tế. Dưới đây là tóm tắt quá trình nhập viện và điều trị của anh ta. - Hai tuần trong bệnh viện ở tuổi 17 vì lo lắng và mất ngủ. + Chẩn đoán: Phản ứng lo lắng, tính cách thụ động, phụ thuộc + “Phụ thuộc quá mức và miễn cưỡng chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình”. • Clay bị mọi người thúc giục thực hiện các việc làm hướng tới sự độc lập, ví dụ, tìm việc làm; phản ứng của anh ta là tức giận và rời khỏi bệnh viện bất chấp lời khuyên của bác sĩ. - Ba năm sau. Hai tuần trong bệnh viện sau một vụ đánh nhau với mẹ của anh ta (người mà anh ta mô tả là “đáng sợ” nhưng “là một người tốt”), sau đó dùng thuốc ngủ quá liều. Ảo tưởng về tính chất tôn giáo đã được báo cáo. + chẩn đoán: Tâm thần phân liệt, rối loạn lo âu + sống thu mình, hoài nghi, từ chối trả lời câu hỏi; trở nên cáu kỉnh khi bị hỏi nhiều lần; nói rằng mọi người đã theo dõi anh ta và ăn cắp tiền của anh ta. + Nhân viên xã hội báo cáo rằng anh ta “phần nào đó giống như một người tham gia vào cuộc chơi và có thể thao túng mọi người”. + Khuyến nghị nhập viện dài hạn “để bảo vệ bản thân và vì không có khả năng đối phó”. + Được chuyển đến bệnh viện khác theo hình thức nhập viện không tự nguyện và nằm viện ba tháng. + Một năm sau. Hai tháng rưỡi trong bệnh viện. Bị bắt sau khi báo cảnh sát vì xảy ra xung đột với cha anh ta (người mà anh ta gọi là “quá khắt khe nhưng là một người tốt”). Cha anh ta bảo lãnh anh ta ra tù để anh ta có thể nhập viện. + Chẩn đoán: Tâm thần phân liệt thể không biệt định cấp tính, rối loạn nhân cách ranh giới • Có một bản ghi chép cho thấy Clay có dấu hiệu “tự kỷ”, nhưng không có chi tiết nào được cung cấp. - Ba năm sau. Nhập viện: phàn nàn về ảo giác thính giác, lú lẫn và có ý định tự tử. + Chẩn đoán: Tâm thần phân liệt thể không biệt định cấp tính, rối loạn nhân cách ranh giới + Clay rời khỏi bệnh viện bất chấp chỉ định của bác sĩ. - Cuối năm đó. Nhập viện: uống thuốc quá độ, say xỉn, chán nản, tưởng mình sắp chết; phàn nàn về ảo giác và ảo tưởng. + Chẩn đoán: Rối loạn phân liệt cảm xúc • Clay rời khỏi bệnh viện bất chấp chỉ định của bác sĩ. * Một năm sau đó. Nhập viện (tự nguyện) trong ba tuần. + Chẩn đoán: Trầm cảm cấp tính, rối loạn nhân cách không đầy đủ - Một năm sau. Nhập viện vì trầm cảm; sử dụng quá liều thuốc theo đơn và rượu. + chẩn đoán: Trầm cảm nặng tái phát + Clay nói rằng anh ta không còn ý nghĩ tự tử và đăng ký ra viện trái với chỉ định y tế. + Một năm sau. Bị giam giữ không tự nguyện hai ngày tại một cơ sở điều trị tâm thần sau khi có ý nghĩ giết vị hôn thê cũ của mình. + Chẩn đoán: Rối loạn nhân cách, loại trừ thụ động/phụ thuộc + “Anh ta hợp tác và có định hướng trong mọi lĩnh vực. Anh ta phủ nhận vấn đề ảo giác, ảo tưởng và những ý kiến tham khảo. Hiểu biết và phán đoán xã hội của anh ta rất tốt”. + Một lần nữa, anh ta lại chống lại các chỉ định y tế. * Bốn năm sau. Nhập viện thông qua các dịch vụ cấp cứu do báo cáo về chứng trầm cảm và suy nghĩ tự tử mơ hồ. Nằm viện ba tuần. + Chẩn đoán: Rối loạn điều chỉnh với các biểu hiện hỗn hợp + Vấn đề được xác định là “giải quyết không hiệu quả”. + Anh ta cho biết, “Tôi muốn mua một khẩu súng và tự sát”. Bệnh án của bệnh viện cho thấy [Clayl “kiên quyết phủ nhận việc có bất kỳ ý định tự tử nào”. + Phàn nàn về vấn đề xuất tinh sớm. Các chuyên gia sức khỏe tâm thần gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xác định vấn đề đang xảy ra với một người như Clay cũng như trong quá trình thể hiện một bức tranh phức tạp như vậy, đặc biệt khi những người đang cố gắng giúp anh ta hầu như không có cơ hội tiếp xúc với anh ta trong thời gian dài anh ta sinh sống bên ngoài cơ sở điều trị nội trú. Tôi đã có cơ hội đó. Sau khi đánh giá Clay, tôi được yêu cầu điều trị cho anh ta với hình thức là một bệnh nhân ngoại trú. Clay là một người nói năng rõ ràng, minh mẫn và kiềm chế trong biểu hiện cảm xúc của bản thân. Tôi chưa bao giờ thấy anh ta trong tình trạng rối loạn tinh thần. Trong cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi, anh ta thừa nhận,“Tôi luôn là một người khó ở khi sống chung. Có những lúc tôi chọn cách sống ích kỷ”. Clay gần như thể hiện ngay tức thì kiểu hành vi phá hoại và phạm pháp, bao gồm hầu hết các hành vi phạm tội khác nhau: trộm cắp, giả mạo, đốt phá, lạm dụng chất kích thích, buôn bán ma túy, ngược đãi động vật, hành hung, vi phạm giao thông, gây mất trật tự và hủy hoại tài sản. Anh ta cũng thừa nhận hành vi kích dục khi tiếp xúc thân thể với con của người bạn gái. Đôi khi, Clay chán nản đến mức suy nghĩ về cách thức để tự sát và cũng đủ tức giận đến mức suy nghĩ về việc giết người phụ nữ đã phá vỡ hôn ước giữa họ. Đối với vấn đề tự sát, Clay đảm bảo với tôi, “Tự sát là điều tôi không bao giờ làm. Tôi lo sợ về kiếp sau của mình”. Clay tự nguyện chia sẻ, “Ý tưởng mà tôi nghĩ ra trở thành hiện thực”. Anh ta giải thích rằng anh ta hình thành ý tưởng về cách thức các tình huống cụ thể diễn ra, sau đó hành động trên cơ sở ý tưởng đó. Đây không phải là dấu hiệu của một quá trình suy nghĩ loạn thần mà là bằng chứng về những kỳ vọng không thực tế của Clay về việc mọi người sẽ làm bất cứ điều gì anh ta mong muốn. Mẹ anh ta nói với tôi, “Tất cả những gì nó quan tâm chỉ là chính bản thân mình. Thật tội nghiệp. Nó không thể thoát ra khỏi chính mình”. Clay đã thể hiện các hình thái cực đoan của tất cả các hình mẫu được đưa ra trong cuốn sách này. Nếu anh ta không thích một công việc, một con người, một hoạt động hoặc điều gì đó liên quan đến việc nằm viện, anh ta sẽ tức giận và bỏ đi. Anh ta nói về Tổ chức Alcoholics Anonymous, “Tôi chỉ tức giận với A.A. Tôi không thích những gì mình nghe thấy. Tôi rời khỏi đó với cảm giác như đang uống rượu”. Anh ta tố cáo một chương trình điều trị ban ngày là “nhảm nhí” và “lãng phí thời gian một cách phù phiếm” vì những người tham gia tồi tệ hơn anh ta. Một điểm cộng là anh ta thấy nơi đây là “một nơi rất tốt để tán tỉnh”. Clay hòa đồng với mọi người miễn là họ làm theo ý muốn của anh ta. Nếu không, họ nhanh chóng trở thành đối thủ mà anh ta cảm thấy không có nghĩa vụ liên quan. Khi được hỏi suy nghĩ về việc cha mẹ vẫn hỗ trợ tài chính khi anh ta đã trưởng thành, Clay ung dung đáp,“Tôi chẳng hề bận tâm tới việc đó. Tôi đã thực sự cố gắng”. Vị hôn thê cũ của anh ta nói với tôi, trước khi hủy bỏ việc đính hôn, mối quan hệ của họ đã xấu đi vì Clay không đáp ứng nhu cầu tình cảm của cô ấy. Bị đánh đập trong một lần nổi giận của Clay, người phụ nữ trẻ này đã cảm thấy lo sợ khi trốn thoát khỏi mối quan hệ đó. “Tôi không có tình yêu như tôi đã từng có trước đây”, cô ấy nhận xét và nói thêm, “Anh ta nói rằng anh ta không thuộc về tôi. Anh ta chỉ sử dụng cơ thể của tôi. Tôi phải đi con đường của riêng tôi. Tôi sợ rằng anh ta sẽ trả thù vì anh ta muốn tiếp tục mối quan hệ đó”. Clay thừa nhận cơn thịnh nộ là vấn đề lớn nhất của anh ta. Anh ta cho biết đôi khi chúng xảy ra nhiều lần trong ngày khiến anh ta kiệt sức. Sự tức giận của anh ta sẽ tăng lên đến mức khiến anh ta mơ tưởng về việc giết người. Anh ta nói về việc dừng lại ở một cửa hàng tạp hóa nơi anh ta nhìn thấy một nhân viên canh giữ nhà tù mà anh ta nhớ ra khi còn ngồi tù. Lái xe đến văn phòng của tôi, anh ta ngấu nghiến ý tưởng tra tấn và giết chết “tên khốn láu cá đó”. Clay thường xuyên phàn nàn về cảm giác buồn chán. Một ngày nọ, anh ta tuyên bố,“Tôi chán. Tôi muốn làm điều gì đó phạm pháp”. Và vì vậy anh ta đã đi đến một khu vực nổi tiếng là hang ổ của gái mại dâm. Vào một số thời điểm khác, anh ta cảm thấy thất vọng và than thở, “Tôi mắc phải chứng bệnh này mà không có cách nào chữa khỏi. Nếu may mắn, tôi sẽ chết trong trại tâm thần hoặc nhà tù”. Anh ta cảm thấy “bị mắc kẹt trong sự tồn tại trống rỗng, vô nghĩa của chính mình”. Clay thay đổi quan điểm của bản thân về giá trị của các loại dược phẩm. Thông thường, anh ta coi chúng là thứ vô giá trị, “không phải là câu trả lời cho vấn đề”. Thỉnh thoảng anh ta thừa nhận nó đã giúp anh ta ngủ được và làm dịu đi ý nghĩ giết người. Clay hết sức khó chịu với các tác dụng phụ của một số loại thuốc và khẳng định thật vớ vẩn khi kê đơn cho một “người nghiện ma túy”, một thuật ngữ mà anh áp dụng cho chính mình. Cuối cùng, Clay thừa nhận cần phải uống thuốc “vì yên bình của khu vực”. Lời thừa nhận này ám chỉ việc nhân viên quản chế yêu cầu anh ta phải tuân thủ các quyết định của bác sĩ tâm thần trong việc sử dụng các loại thuốc. Bác sĩ tâm thần của Clay đã viết trong một báo cáo ngắn gọn rằng Clay “gây ra một mối nguy hiểm sâu sắc”.Ông ấy trích dẫn những thay đổi cực đoan trong tâm trạng và hành vi của Clay dường như xảy ra mà không hề báo trước. Ông ấy nói rằng Clay đã trải qua “giai đoạn hưng cảm” kèm theo những suy nghĩ hoành tráng và những giai đoạn trầm cảm đen tối dẫn đến ý nghĩ tự tử. Sau khi trải qua hàng chục giờ với Clay, tôi không đồng ý với đánh giá đó. Khi những kỳ vọng không thực tế của Clay không được thực hiện, đôi khi anh ta chán nản đến mức nghĩ rằng tốt nhất là không nên sống thêm chút nào nữa. Trong một số thời điểm khác, anh ta nghĩ rằng anh ta có thể hoàn thành bất kỳ công việc nào và là một thành công lớn. Và tất nhiên quan điểm đó cũng không thực tế. Những người chống đối xã hội như Clay chuyển từ lạc quan không thể kiềm chế và cảm giác bất khả xâm phạm sang bi quan và tuyệt vọng hoàn toàn. Những người khác có thể nhận thấy những thay đổi về cách nhìn và cách cư xử của họ. Những thay đổi thường xuyên không biểu thị sự hiện diện của căn bệnh tâm thần, chẳng hạn như chẩn đoán phổ biến hiện nay là “rối loạn lưỡng cực”. Mức độ cao thấp xuất phát từ cảm giác quan trọng được phóng đại của tội phạm và sự đau khổ tột độ của anh ta khi những kỳ vọng phi thực tế không được thực hiện. Công việc của tôi là giúp Clay nhận thức được những sai sót trong suy nghĩ và ghi nhớ những hậu quả trong quá khứ cũng như hiện tại của suy nghĩ đó. Người ta có thể phỏng đoán rằng một người đàn ông như Clay sẽ thờ ơ với hậu quả đã gây ra. Trải qua nhiều kết quả không hài lòng về hành vi của mình, Clay đã học được cách kiểm soát suy nghĩ và tâm trạng cực đoan đi kèm. Clay rèn luyện về mặt tinh thần khi suy nghĩ về hành vi phạm tội, xem xét kết quả khắc nghiệt có thể xảy ra và sau đó ngăn chặn suy nghĩ đó. Khi thảo luận về suy nghĩ của mình, Clay rất thắng thắn và cụ thể. Ví dụ, anh ta thừa nhận, “Tôi thấy những đứa trẻ nhỏ hầu như không dùng tã và tôi nghĩ về việc quan hệ tình dục với chúng”. Về vị hôn thê cũ của mình, anh ta nói: “Tôi rất vui vì cô ấy phải sống trong nỗi sợ hãi và phải cảnh giác khi ngủ”. Anh ấy cũng đưa ra những suy nghĩ như “Tôi chỉ là một kẻ bỏ đi, một kẻ thất bại. Tôi sẽ như thế này trong suốt phần đời còn lại của mình”. Những tuyên bố như thế này báo hiệu sự nguy hiểm vì chúng phát sinh từ sự tự thương hại và tức giận. Clay thề rằng sẽ cố gắng sống như những người khác. Mặc dù khẳng định, “Tôi không muốn bị chỉ bảo phải làm gì”, tuy nhiên anh ta vẫn nhận công việc xếp sản phẩm lên kệ cho một cửa hàng. Chúng tôi đã thảo luận về cách thức những thất bại trong việc ngăn chặn suy nghĩ và hành vi phạm tội của anh ta sẽ gây ra những kết quả khiến anh ta sợ hãi nhất – sống trong viện điều trị suốt đời, vô gia cư, không bạn bè, ngày càng tức giận và tuyệt vọng. Bác sĩ tâm thần của Clay trở nên tích cực hơn và ghi nhận, “Clay tích cực quan tâm đến việc kiểm soát cảm xúc giết người và tình dục để không làm tổn thương bất kỳ ai”. Clay bắt đầu sống có trách nhiệm. Những thay đổi không hề diễn ra nhanh chóng. Anh ta đã có những xung đột cãi cọ trong công việc và sắp phải bỏ việc nhiều lần. Có những ngày anh ta phải vật lộn đấu tranh để bước ra khỏi giường. Anh ta học cách nói chuyện với bản thân theo hướng xây dựng để xây dựng tính kiên trì. Với cảm giác hài lòng, anh ta nói rằng đã gắn bó với công việc hơn một năm, trái ngược với hàng tá công việc mà anh ta đã đảm nhiệm trong suốt mười năm qua. Clay thốt lên, “Làm việc đã giúp tôi rất nhiều, tôi có thể thực hiện trong một tuần làm việc bốn mươi giờ và nhận được tiền lương”. Clay nhận xét, “Tôi có một cách thức lôi cuốn về bản thân mình. Tôi bị ám ảnh người khác phải thích tôi”. Bề ngoài, anh ta có một tính cách hấp dẫn. Đây là một tính cách tiêu cực khi Clay dễ dàng thu hút những người mà anh ta thao túng và điều khiển, cuối cùng khiến họ xa lánh. Kết quả là anh ta lại cảm thấy trống rỗng và bực bội. Dù vẫn còn một số khuyết điểm, tuy nhiên Clay đã biết suy nghĩ nhiều hơn về kỳ vọng của mình đối với người khác khi anh ta học được cách đồng cảm thay vì thực hiện bất cứ điều gì anh ta mong muốn. Đã có những tiến triển rõ ràng nhưng vẫn còn thất thường. Sau một lần mất ngủ, Clay bắt đầu nghiền ngẫm. Anh ta nói rằng bản thân cảm thấy hoàn toàn tốt đẹp khi mặt trời chiếu sáng và anh ta ở giữa mọi người. Tuy nhiên khi về nhà vào ban đêm, cảm thấy cô đơn và không được yêu thương, Clay tự hỏi bản thân, “Tất cả để làm gì?” Mặc dù tất cả các trụ cột hỗ trợ của anh ta vẫn có thể tiếp cận, tuy nhiên sự tiến bộ của Clay đã dần được sáng tỏ. Anh ta nhận được một biên bản vi phạm quá tốc độ và sau đó tiếp tục lái xe “để chạy trốn khỏi chính tôi”. Khi tôi gặp anh ta, Clay tuyên bố, “Tôi sẽ không bao giờ trở thành bất cứ thứ gì ngoài tôi bây giờ”. Bị “choáng nghợp bởi cái chết”, anh ta bắt đầu đọc cáo phó. Tự gọi mình là ký sinh trùng, Clay khẳng định: “Tôi không nghĩ mình phải làm việc”. Anh ta đặt câu hỏi về tầm quan trọng của bất kỳ công việc nào “nơi bạn phải vui vẻ dù cảm thấy chết tiệt” và cho biết đã sống cuộc sống không mấy có ích “vì bình yên của khu vực”. Clay đề cập đến việc trải qua “một vài cơn giông bão trong tâm trí tôi”, ám chỉ những cơn giận dữ dữ dội. Chúng tôi lại thảo luận về các lựa chọn của anh ta - tội phạm và hậu quả không thể tránh khỏi của nó, tự sát hay thay đổi. Dù cảm thấy chán nản, Clay không muốn kết thúc cuộc đời mình cũng như không muốn sống trong nhà tù. Anh ta nói rằng các cuộc gặp với nhân viên quản chế là một việc làm hữu ích, “Cô ấy đã đặt vấn đề. Tôi nghe rõ từng từ. Cô ấy rất giỏi trong những việc cô ấy làm”. Nhận ra rằng mình đã phải nỗ lực rất nhiều để tiến bộ, Clay ngạc nhiên về mức độ nhanh chóng của những kết quả anh ta đã gặt hái được có thể biến mất. Anh ta chỉ ra rằng bản thân đã lấy lại được cái nhìn của mình khi chia sẻ nhìn chung, anh ta vừa trải qua một trong những năm tháng đẹp nhất. Anh ta cho biết ngay cả người anh trai của anh ta cũng bị ấn tượng bởi một Clay “mới mẻ và tử tế”. Clay nhận xét về một yếu tố cực kỳ quan trọng để tránh suy sụp tâm lý khi cảm thấy chán nản. Anh ta nói, “Tôi đã có những người mà tôi có thể tìm đến vào lúc nửa đêm. Có rất nhiều người thể hiện sự quan tâm thực sự; đó không chỉ là những gì tôi có thể làm cho họ”. Clay nói rằng điều đó không phải vì cha mẹ gắn bó với anh ta, “Tôi đã từng phải vào bệnh viện hoặc nhà tù bang. Anh và tôi có thể sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Có thể sau này tôi sẽ ở trên đường phố”. Với tinh thần lạc quan, Clay nhận xét, “Vẫn có điều gì đó tốt đẹp tồn tại dành cho tôi”. Anh ta đang đấu tranh để loại bỏ “những suy nghĩ xấu xa” ra khỏi tâm trí. “Tôi không để chúng làm khổ bản thân tôi”, anh ta khẳng định. Clay thừa nhận lời đe dọa kết án của tiểu bang nếu phạm tội khác đã giúp anh ta tránh khỏi rắc rối. Điều tiếp tục khiến Clay khó chịu là ý tưởng trở thành một người bình thường. “Xã hội mong đợi tôi thể hiện mình là một người bình thường trong khi tôi không thể như vậy. Tôi vượt lên trên rất nhiều cái mức độ bình thường đó”. Sau đó, anh ta thể hiện nhận thức một cách rõ ràng, “Tôi đã có những cơ hội trong suốt cuộc đời mình nhưng tôi luôn tìm kiếm phần thưởng ngay tức thì. Cả cuộc đời tôi luôn đưa ra những lựa chọn tồi tệ”. Nhưng Clay không duy trì nhất quán quan điểm này. Anh ta tiếp tục tuyệt vọng và cho biết muốn từ bỏ”. Nhờ nỗ lực của nhân viên quản chế, Clay đã được nhận vào một trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm thần ở khu dân cư. Điều đáng ngạc nhiên là anh ta đánh giá tích cực cơ sở này, mô tả nó là “nơi các bệnh nhân nghĩ có tư duy sinh sống - không chỉ là một nhà kho” và so sánh nó với một gia đình có nhân viên chăm sóc. Clay có đủ điều kiện để tiến hành điều trị ban ngày và tiếp tục tiến bộ. Công việc của tôi với Clay chấm dứt vì anh ta vẫn tiếp tục tham gia chương trình điều trị ban ngày đó. Nhiều năm sau, tôi biết được rằng Clay vẫn đang có một nhóm hỗ trợ đắc lực gồm các chuyên gia cũng như bạn bè. Mặc dù cha mẹ vẫn luôn hết mực hỗ trợ, tuy nhiên anh ta đã tự mình xoay xở cuộc sống. Anh ta không bị bắt giữ thêm lần nào nữa và các mối quan hệ của anh ta đã được cải thiện. Việc quan trọng cần phải thực hiện là xác định nguồn gốc của trầm cảm. Thuốc chống trầm cảm sẽ không làm thay đổi những kỳ vọng phi thực tế của tội phạm. Đối với một người như Clay, lo lắng và trầm cảm có thể giảm đi nếu anh ta nhận ra lỗi tư duy của bản thân và áp dụng các biện pháp điều chỉnh. Không có viên thuốc và hình thức điều trị truyền thống nào có thể giải quyết hiệu quả cốt lõi trong tính cách tội phạm. Khi đã xác định được tính cách đó, quá trình điều trị đòi hỏi một đội ngũ tận tâm, có chuyên môn và đồng bộ để làm việc với người đó khi anh ta ở trong cộng đồng, tập trung vào vấn đề nổi bật nhất – “sai lầm trong suy nghĩ”. Một cam kết mạnh mẽ về nguồn lực là yếu tố cần thiết. Và, tất nhiên, không có gì đảm bảo chắc chắn thành công. Tuy nhiên, gần như chắc chắn rằng cái giá phải trả cho việc không nỗ lực sẽ rất bi thảm. Huyền thoại về tội ác “khác với tính cách” Một số người không có tiền án tiền sự đã thực hiện các hành vi phạm tội nghiêm trọng. Đó là trường hợp của Bernard Madoff, người đã biển thủ hàng triệu đô la từ các khách hàng trong quỹ đầu cơ của mình. Bạn có thể thường đọc được thông tin về những người có vẻ là người tốt nhưng lại thực hiện điều gì đó khủng khiếp một cách bất ngờ. Bạn bè, gia đình và đồng nghiệp mô tả về những con người này theo hướng tích cực. Những kẻ phạm tội này được biết đến là những người có thành tích trong sự nghiệp, người hàng xóm tốt, người đóng góp cho cộng đồng, tận tụy với nhà thờ và sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai gặp khó khăn. Có vẻ như đã xảy ra điều gì đó khiến họ “phạm lỗi” và phạm một tội ác “khác biệt với tính cách thông thường”. Không thể thực hiện một hành vi phạm tội khác biệt với tính cách thông thường. Điều đó cũng giống như việc yêu cầu một tòa nhà phải bay lên; việc này không nằm trong bản chất vốn có của tòa nhà khi yêu cầu thực hiện như vậy. Bạn không thể trở thành người nào khác ngoài chính bạn. Một tội ác dường như khác với tính cách thông thường của kẻ phạm tội chỉ có thể giải thích thông qua nhận thức về bản chất thực sự của cá nhân đó. Thực tế, Madoff cũng là một kẻ ngoại tình, một kẻ lươn lẹo và quấy rối tình dục. Hành vi trộm cắp của anh ta đã kéo dài hàng thập kỷ trước khi suy thoái kinh tế vạch trần kế hoạch Ponzi khổng lồ của anh ta. Tôi đã đánh giá nhiều bị cáo sở hữu danh tiếng tốt đẹp trước khi phạm tội nghiêm trọng. Mọi người nghĩ rằng họ biết rõ những kẻ phạm tội này nhưng không thể biết được điều gì đang ấp ủ trong đầu của chúng, đôi khi là trong nhiều năm liền. Trong một số trường hợp, những cá nhân này đã thực hiện một hành vi phạm tội khác nhưng đủ khôn khéo để không bị bắt, trong khi những người khác từ lâu đã mơ tưởng về một số hành vi phạm tội trước khi thực sự hành động. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi những kẻ phạm tội “khác với tính cách thông thường” này cuối cùng cũng bị bắt vàphải chịu trách nhiệm, mục tiêu chính của chúng thường là giảm thiểu tội lỗi (và án tù) bằng cách nhấn mạnh hành vi gương mẫu trong quá khứ của bản thân. Tại thời điểm tôi gặp kẻ phạm tội, hai cuộc đánh giá đang diễn ra. Tôi đang đánh giá anh ta, nhưng anh ta cũng đang đánh giá tôi. Tên tội phạm tìm cách lấy cảm tình của tôi bằng cách đưa ra các yếu tố giảm nhẹ cho những gì hắn đã làm. Bằng những chia sẻ về vấn đề bất ổn trong tinh thần theo loại bệnh này hay loại bệnh khác, anh ta sẽ phủ nhận hoặc giảm thiểu khả năng phạm tội của mình và hy vọng giảm thiểu hình phạt. Nếu anh ta bị rối loạn tâm thần thực sự nhưng chỉ trong một khoảng thời gian tạm thời thì đây có thể trở thành tâm điểm của quá trình điều trị và anh ta có thể tiến bộ hơn. Tuy nhiên, nhân cách tội phạm vẫn không bị ảnh hưởng, và việc gây thương tích nhiều hơn cho người khác là một kết quả chắc chắn xảy ra. Bị cáo đó có khả năng tung ra một loạt các chiến thuật để ngăn cản tôi nắm bắt anh ta. Anh ta có thể kể ra những thứ mà anh ta nghĩ tôi muốn nghe. Anh ta có thể đổ lỗi cho người khác. Anh ta có thể hoàn toàn im lặng và từ chối hợp tác. Anh ta có thể bao phủ tôi trong một lớp sương mù mơ hồ khi trả lời các câu hỏi nhưng vẫn còn che giấu rất nhiều điều. Đôi khi những hành vi vi phạm đơn lẻ này được coi là “tội ác của đam mê”. Người đó dường như mất kiểm soát và thực hiện một hành vi phạm tội đơn độc và không có kế hoạch. Những tội ác như vậy thường xuyên xảy ra trong các gia đình, như trong lúc tranh cãi nảy lửa, một người chồng lấy một món đồ gần đó và dùng nó làm vũ khí để giết Vợ mình. Theo dữ liệu thống kê, thủ phạm chưa từng là kẻ giết người trong quá khứ và không có khả năng giết người lần thứ hai.