🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Lý Học Hành Vi
 Ebooks
Nhóm Zalo
TÂM LÝ HỌC HÀNH VI 
———★——— 
Tác giả 
KHƯƠNG NGUY 
Người dịch 
PHI TƯỜNG 
Đơn vị phát hành 
MINTBOOKS 
Nhà xuất bản 
HÀ NỘI 
ebook©vctvegroup 
18-03-2022 
Sưu tầm bởi Hành Tinh Sách: www.HanhTinhSach.com
Tâm lý học hành vi của Watson có thể coi là một đòn chí mạng, lật đổ những quan điểm tâm lý học truyền thống thời bấy giờ. Mặc dù đời sống cá nhân của ông gây ra nhiều tranh cãi, nhưng không thể phủ nhận sự thật rằng ông đã đạt được những thành tựu mang tính khai phá, góp phần thúc đẩy tâm lý học phát triển lên một tầm cao mới. Nếu trường phái tâm lý học theo chủ nghĩa chức năng lấy ý thức làm đối tượng nghiên cứu, thì tâm lý học hành vi lại hướng mục tiêu nghiên cứu vào hành vi của con người, từ đó bù đắp những điểm chưa thỏa đáng trong lý luận của các trường phái tâm lý học đi trước, điển hình là việc chỉ đơn thuần chú trọng vào ý thức bên trong mà thiếu tính thực tiễn để áp dụng vào đời sống. Tâm lý học hành vi đã đưa tâm lý học từ thế giới chủ quan sang thế giới khách quan, nhấn mạnh sức ảnh hưởng lớn của hoàn cảnh bên ngoài đối với con người, và khẳng định những kết quả chúng ta gặt hái được trong tương lai đều bắt nguồn từ rất nhiều thói quen của ngày hôm nay. Những lý luận về tâm lý học hành vi của Watson góp phần thúc đẩy ngành tâm lý học trở thành một ngành khoa học tự nhiên chính thống, đồng thời có tầm ảnh hưởng lan tỏa suốt hơn nửa thế kỷ. Đó chính xác là những lý luận đi đầu trong ngành tâm lý học đương thời. 
Tâm lý học hành vi có nhiều phát hiện mang tính đột phá, bao gồm cả một số quan điểm mở rộng trên phương diện giáo dục trẻ nhỏ. Tuy vẫn tồn tại một số hạn chế không tránh khỏi và lý luận về mối liên hệ “kích thích - phản ứng” còn mang tính phiến diện, nhưng xét trên một mức độ nào đó, tâm lý học hành vi vẫn khiến trường phái tâm lý học nghiên cứu về ý thức gặp phải trở ngại nhất định. Đương nhiên, cùng với việc xã hội ngày càng văn minh tân tiến, tâm lý học hành vi rồi cũng phải đối mặt với vấn đề về sự chuyển giao giữa cũ và mới. Nhưng kể cả
vậy, chúng ta vẫn không thể phủ nhận những cống hiến của nó cho sự phát triển ngành tâm lý học nói chung, và dù thế nào thì ở nó vẫn luôn có những điều mà chúng ta có thể soi chiếu và học tập. 
Cuốn sách này tổng hợp những lý luận về tâm lý học hành vi của Watson, cố gắng gửi đến độc giả hệ thống tư tưởng một cách hoàn chỉnh nhất, nêu lên những điểm then chốt trong luận thuyết của ông, đồng thời liên hệ với cuộc sống thực tiễn để nghiệm chứng tính hợp lý trong đó. Sau mỗi phần, chúng tôi đều tổng hợp lại những phương thức có tính ứng dụng thực tiễn để bạn đọc hiểu rõ tâm lý thông qua hành vi của con người. 
Để độc giả không cảm thấy khó hiểu và nhàm chán bởi những thuật ngữ mang tính học thuật khô khan, chúng tôi cố gắng sử dụng cách nói gần gũi và dễ hiểu nhất có thể, hy vọng cùng với việc lan tỏa kiến thức mang tính hàn lâm thì ngôn từ mang tính phổ thông sẽ giúp các bạn thưởng thức cuốn sách một cách thoải mái nhất. Nếu qua đây độc giả tìm thấy sự chỉ dẫn và trợ giúp có ích trong đời sống, vậy cuốn sách này cũng coi như hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ của nó rồi. 
Cuốn sách này không tránh khỏi nhiều thiếu sót, kính mong quý độc giả thông cảm và góp ý.
Chương 1 
Tâm lý học hành vi 
Nguồn gốc của phương pháp tìm hiểu tâm lý từ hành vi 
Hướng mục tiêu nghiên cứu tâm lý học vào hành vi của con người, cách làm này của Watson quả thực vô cùng mới mẻ. Tâm lý học trước đó luôn chìm sâu trong phạm trù về “ý thức”, “linh hồn”… do thời gian dài bị bao trùm dưới cái bóng của thần học. Có thể nói chính Watson là người đã tạo nên bước chuyển mình của tâm lý học, để nó trở thành ngành khoa học tự nhiên chân chính, bởi thứ ông quan tâm không phải những khái niệm huyền bí mơ hồ mà là những hành vi được thể hiện ra ngoài, những việc ta có thể mắt thấy tai nghe, từ đó giải mã bí mật về tâm lý con người.
Kích thích và phản ứng 
Sự kiểm soát của cung phản xạ - có chạy mười vạn tám ngàn dặm cũng không thoát 
Hành vi của mỗi người thật ra đều chịu sự khống chế từ một bàn tay vô hình, chính là cơ chế “kích thích - phản ứng” của cơ thể. Giống như bàn tay Phật tổ Như Lai, nó không để cho bất kỳ hành động phát sinh nào thoát khỏi sự kiểm soát của mình. 
• • • 
Trong hồi thứ bảy của Tây Du Ký, Tề Thiên Đại Thánh gặp phải một thử thách: ông lấy khả năng bay mười vạn tám ngàn dặm của Cân Đẩu Vân ra để cá cược với Phật tổ Như Lai, nếu thắng thì Ngọc hoàng Đại đế phải giao Linh Tiêu bảo điện cho mình. Đang lúc dương dương tự đắc đòi Phật tổ thực hiện giao kèo, ông liền phát hiện: mười vạn tám ngàn dặm đó hóa ra vẫn không thể thoát khỏi lòng bàn tay Phật. Sau đó, Phật tổ Như Lai đã biến lòng bàn tay mình thành Ngũ Hành Sơn để trấn áp Tôn Ngộ Không. 
Thật ra trong cơ thể mỗi người đều có một “Tôn Ngộ Không”, làm cách nào cũng không thể thoát khỏi “bàn tay Phật tổ” được định sẵn. Dù có chạy mười vạn tám ngàn dặm, mọi hành động của con người vẫn luôn bị khống chế trong cung phản xạ mang tên “kích thích - phản ứng”. 
Chỉ cần lấy một ví dụ nhỏ là có thể hiểu điều này. Khi bạn lái xe vào ban đêm, ánh đèn pha chiếu thẳng từ phía trước có thể coi như “sát thủ” trên xa lộ. Nguyên nhân là do luồng ánh sáng mạnh từ đèn pha kích thích
đến đồng tử trong mắt, khiến chúng tự động co lại. Nếu như dưới tác động của ánh sáng thông thường, đồng tử có thể mang kích thước của hạt đỗ xanh, thì trước sự kích thích cực mạnh đến từ ánh sáng đèn pha, kích thước đồng tử sẽ co lại chỉ tương đương với một hạt gạo nhỏ, lúc này tầm nhìn gần của mắt người giảm xuống chỉ còn 1/30. Khi hai xe gặp nhau, khoảnh khắc mà đồng tử co lại khiến nó mất đi sự linh hoạt vốn có, mắt người sẽ rơi vào trạng thái “mù đêm”, có thể dẫn tới tai nạn thảm khốc. 
Ngoài ra còn nhiều ví dụ khác, như khi trời lạnh ta tự mặc thêm áo, trời nóng tự đến nơi mát mẻ, đói bụng tự kiếm đồ ăn, khát nước tự tìm đồ uống… Bất luận là kích thích đến từ bên trong cơ thể hay từ môi trường bên ngoài, tất cả đều yêu cầu con người thực hiện những phản ứng khác nhau. Các cơ quan cảm nhận của con người như mắt, mũi, tai, lưỡi cùng toàn bộ hệ thống cơ bắp đều đảm nhiệm đồng thời hai chức năng: chúng không những phải đưa ra phản ứng linh hoạt khi chịu kích thích từ môi trường khách quan, mà còn phụ trách tiếp 
nhận tín hiệu được phát ra từ những kích thích đó. Ngay cả khi ngủ say, ta vẫn nằm trong sự giám sát của chúng. 
Có thể ai đó sẽ phản bác rằng, “Nếu đặt bức họa nổi tiếng của Van Gogh hay nhạc phổ bản giao hưởng của Beethoven trước mặt một đứa trẻ sơ sinh, kết quả quá rõ ràng là nó sẽ chẳng có phản ứng gì rồi. Vậy chẳng phải quy luật ‘kích thích - phản ứng’ trong trường hợp này không áp dụng được hay sao?” Xin hãy khoan kết luận vội, vì dưới đây tôi sẽ giải thích bằng cách đưa ra dẫn chứng dựa trên lý luận của tâm lý học hành vi, bao gồm những kích thích mà trong đa số trường hợp con người ta thường thờ ơ với nó, và cả những kích thích có thể dẫn đến sự phản ứng lại của con người, hay còn được biết đến với cái tên “phản xạ có điều kiện”.
Con người trong mỗi giây mỗi phút đều đang tiếp nhận những kích thích từ môi trường bên trong hoặc bên ngoài. Đồng thời, cơ thể con người cũng cảm nhận được rằng những kích thích đó đang kêu gọi ta phản ứng và vận động. Tuy nhiên, những vận động này có thể rõ ràng đến mức chỉ cần nhìn qua cũng thấy, như khoa chân múa tay hoặc nhăn mặt chau mày, mặt khác chúng cũng có thể mờ nhạt đến mức chỉ còn cách dựa vào công cụ, máy móc mới nhận ra được, ví dụ như sự tăng giảm huyết áp hay thay đổi nhịp thở. Trong các tác phẩm văn học, chắc hẳn bạn vẫn thường xuyên gặp những câu văn miêu tả như: “Sâu trong ánh mắt thấp thoáng nỗi sầu muộn khó nhận ra”, “Đôi mắt trong khoảnh khắc đột nhiên tối sầm lại”… Đây đều là những phản ứng ngầm và tương đối kín đáo của con người. 
Tất nhiên, ta còn có thể bắt gặp một loại phản ứng khác. Ví dụ, một người sống thực vật đã mất đi năng lực tự chủ trong hành vi và ý thức, song những hoạt động của các cơ quan trong cơ thể họ như hô hấp, nhịp tim, huyết áp… vẫn diễn ra bình thường. Họ vẫn có thể hắt hơi, ho khan hay ngáp giống những người khỏe mạnh. Những phản ứng này dường như đã tồn tại từ khi ta sinh ra, là kiểu phản ứng bẩm sinh, không cần học cũng thành. Khác với kiểu phản ứng trên thì những phản ứng như nói chuyện, thao tác, làm việc… không tự nhiên xuất hiện ngay từ khi sinh ra, chúng là những thói quen được hình thành sau thời gian tiếp xúc với môi trường bên ngoài thông qua việc luyện tập lặp đi lặp lại và không ngừng chịu kích thích, như một đứa trẻ phải học thì mới biết nói biết đi. Đây có thể coi là những phản ứng mà sau này mới xuất hiện dựa trên thói quen và sự học hỏi. 
Từ kích thích đến phản ứng, điểm kết thúc của cung phản xạ này rốt cuộc nằm ở đâu? Liệu có phải nó sẽ cứ thế kéo dài như phản ứng hạt nhân hay không? Câu trả lời là không, ở đây phản ứng xảy ra là để kết thúc sự kích thích. Ví dụ, khi ta đói, bụng réo òng ọc, dạ dày sẽ tự động
co lại, tuyến nước bọt tiết ra mạnh hơn, tiếp đó tâm lý của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái mất cân bằng, dẫn đến tình trạng “đói đến mức loạn trí”, và thế là ta bắt đầu tìm đồ ăn ở khắp nơi để lấp đầy cái bụng rỗng, thậm chí đến mức bụng đói ăn quàng. Còn khi ta đã no bụng, dạ dày không còn thúc giục kêu gào nữa, lúc này dù đi trên đường rộng với trăm nghìn loại đồ ăn ngon mắt, ngào ngạt hương thơm, ta cũng sẽ chẳng đoái hoài. 
Hoặc giả nếu bạn để ý sẽ thấy, vào những ngày trời lạnh thấu xương, những người đi bộ trên đường đều vô thức đẩy nhanh bước chân mong tìm được nơi kín gió để tránh rét. 
Cuối cùng, tôi xin lấy thêm ví dụ về việc uống rượu. Khi ta uống nhiều rượu, chất cồn trong rượu sẽ gây ra kích thích đối với cơ thể, lúc này dạ dày tự động bật cơ chế bảo vệ, ép ta phải nôn ra ngoài phần rượu đã nạp vào. Tuy mùi vị của chúng khiến ta mỗi khi nghĩ lại đều không khỏi rùng mình, nhưng suy cho cùng đó cũng là một kiểu phản ứng tự vệ xảy ra khi cơ thể ta đối mặt với kích thích. 
Tựu trung lại, nếu như không có mô hình “kích thích - phản ứng”, e rằng con người khó có thể tồn tại đến ngày hôm nay. 
Cũng có thể nói, từ cổ chí kim, nhất cử nhất động của con người đều không thoát khỏi sự khống chế của cung phản xạ, tất cả hành vi của chúng ta thực chất đều chỉ để giải mã nó mà thôi. 
Quan sát và suy đoán 
Tự soi gương tự cảm khái, đây có phải một kiểu tự luyến hay không? Đôi khi chúng ta sẽ gặp những người như thế này, họ tự soi bóng mình phản chiếu từ cửa sổ toa tàu, từ gương chiếu hậu ô tô, hay thậm chí đứng trước cửa kính một cửa tiệm ven đường để ngắm lại bản thân, xem cách ăn mặc trang điểm của mình liệu đã ổn chưa, sau đó đưa tay vuốt lại
mái tóc rối hoặc chỉnh ngay ngắn quần áo trên người. Đây đều là những hành vi rất bình thường. 
Tuy nhiên, cũng có một vài người khoa trương hơn thế. Họ đứng hàng giờ trước gương như thể muốn chiếm lĩnh nơi đó làm địa bàn cho riêng mình, có những trường hợp là để trang điểm hoặc chỉnh lại kiểu tóc, nhưng cũng có những trường hợp chỉ để ngắm nghía, thưởng thức dung nhan xinh đẹp của bản thân, thậm chí tạo muôn vàn kiểu dáng trước gương. Họ thường khiến những người đứng chờ phía sau cảm thấy cực kỳ phiền phức và khó chịu. 
Quan tâm đến vẻ ngoài của bản thân đương nhiên cũng là hành động thể hiện sự tôn trọng người khác, nhưng khi quá mức chú ý đến hình tượng thì sẽ bắt đầu trở thành tự luyến. Những người tự luyến thường để tâm đến hình tượng của mình một cách quá đà, những lời bình phẩm của người khác thường gây ra phản ứng không bình thường trong lòng họ, đây chính là biểu hiện của cảm giác tự ti mà họ cổ gắng che giấu. Đồng thời, việc đắm mình trong hình bóng bản thân bên kia mặt gương cũng phản ánh việc họ mang tâm lý trốn tránh hiện thực.
Linh hồn hay cơ thể 
Bước ngoặt về đối tượng nghiên cứu trong tâm lý học 
Để tâm lý học có được sự phát triển như ngày nay, nhất định phải kể đến công sức đóng góp của Watson, bởi trước đó lĩnh vực này dường như luôn bị bao trùm trong cái bóng của tâm linh, huyền học. Mãi đến khi con người tìm được lời giải cho tâm lý từ chính cơ thể của mình, ngành tâm lý học mới thật sự bước sang trang mới. 
• • • 
Có lẽ ít ai biết rằng, cụm từ “tâm lý học” mà ngày nay chúng ta nhắc tới ban đầu vốn bị giam cầm trong cái lồng mang tên “thần học”. Thời đó, nếu có ai nói rằng tâm lý học không phải bộ môn nghiên cứu về ý thức con người, khả năng cao người đó sẽ bị cả xã hội cười giễu. Nói cách khác, tâm lý học thời kỳ đầu có nét tương tự với thứ gọi là “thể nghiệm tâm linh”, chịu sự chi phối của triết học tôn giáo về khái niệm linh hồn và những hiện tượng siêu nhiên. 
Vậy trước khi chính thức ra đời, tâm lý học truyền thống đã tồn tại như thế nào? Và nó đã nảy mầm trên nền móng ra sao? 
Đáng tiếc, dù các khái niệm về linh hồn và hiện tượng siêu nhiên là quá xa vời để con người có thể kiểm chứng, song điều này vẫn không ngăn cản nổi những suy đoán, tưởng tượng diễn ra trong trí óc chúng ta. 
Vào thời kỳ đầu, tổ tiên chúng ta là loài vượn người còn sống theo bầy đàn trên mặt đất, vất vả tìm kiếm đồ ăn, cuộc sống chẳng hề dễ dàng hơn loài người hiện đại. Ngày ngày, họ săn bắt hái lượm, chế tạo công cụ phục vụ cuộc sống… Trong số đó có một bộ phận vượn người kém linh
hoạt hơn, không chịu ra ngoài lao động, cũng không chịu tham gia vào các hoạt động khác. Cứ thế, ngày này qua ngày khác, họ thảnh thơi ngồi quan sát nhất cử nhất động của đồng loại mình, lâu dần luyện thành “hỏa nhãn kim tinh”, có thể nhìn rõ bản chất thông qua vẻ bề ngoài. 
Đương nhiên, thái độ của những vượn người khác cũng không qua nổi mắt họ. Chẳng hạn, mỗi khi sấm sét vang trời, bão lũ ập đến, những con cái sẽ mặt mày tái mét, con đực thì toát mồ hôi hột, hoảng sợ đến mức run rẩy hú hét, chạy loạn kiếm chỗ ẩn nấp, thậm chí ngay lập tức bỏ quên công việc mà mình đang làm. 
Kiểu phản xạ có điều kiện này đều bị nhóm vượn người “rảnh rỗi” kia nhìn thấu, từ đó họ nghĩ ra những thủ đoạn dọa dẫm hòng khống chế những con vượn người khác. Vào những đêm không trăng gió rít, họ sẽ nói rằng sắp có ma quỷ 
tìm tới ăn thịt, thậm chí đến tận ngày nay, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy thấp thoáng cách thức dọa dẫm này từ những ông bố bà mẹ khi dỗ dành con cái họ. 
Và như vậy, từ thời nguyên thủy, những người có trí lực cao hơn bắt đầu sử dụng các ký hiệu, hình tượng, nghi thức… để quản chế những người có trí lực thấp hơn mình. Các hình thức bói toán, tiên tri, giải mộng… cũng bắt đầu phát triển từ đây. Chúng đem lại cho nhóm người này thù lao không hề nhỏ, mặt khác họ cũng không cần phải vất vả ra ngoài lao động để kiếm cái ăn. Tình trạng này có vài phần tương tự như một câu nói của người Trung Hoa cổ: “Kẻ lao tâm trị người, kẻ lao lực bị người trị”. 
Quãng đường phát triển độc lập của tâm lý học diễn ra trong thời gian dài với nhịp độ chậm rãi. Sau đó, cùng với sự tiến bộ của công nghiệp và kỹ thuật, tâm lý học cũng mong muốn có được chỗ đứng nhất định trong thế giới của các ngành khoa học. Sau những nỗ lực kêu gọi và thử nghiệm của các chuyên gia trong suốt thời gian dài, đến năm 1879,
nhà triết học, tâm lý học và sinh lý học người Đức, cha đẻ của tâm lý học thực nghiệm - Wilhelm Wundl - đã thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học chính thức đầu tiên trên thế giới, tách tâm lý học ra khỏi các ngành khoa học khác, và đưa tâm lý học trở thành bộ môn khoa học độc lập lấy thực nghiệm làm cơ sở nền tảng. 
Dù vậy, cùng với sự phát triển chóng mặt của khoa học tự nhiên, một số nhà tâm lý học trẻ tuổi bắt đầu hoài nghi về trường phái tâm lý lấy ý thức làm đối tượng nghiên cứu của Wilhelm Wundl. Họ cho rằng bộ môn này cần theo sát với các ngành khoa học tự nhiên khác, chuyển đối tượng nghiên cứu từ ý thức sang những sự vật, sự việc khách quan như hành vi của con người. Theo dòng chảy đó, đến đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học người Mỹ Watson sáng lập ra trường phái tâm lý học hành vi. 
Quan sát và suy đoán 
Tại sao chỗ ngồi phía ngoài luôn được yêu thích hơn? 
Không biết các bạn có để ý không, những khi trên tàu có ít hành khách, hàng ghế dọc phía ngoài luôn được lấp dây trước tiên, trong khi đó hàng ghế ở giữa lại thường chẳng có ai lựa chọn. Nguyên nhân là do đâu? 
Rất nhiều người trong chúng ta đều mang ý thức về “lãnh địa”, bởi thế ta luôn muốn để chừa ra một khoảng không gian nhất định xung quanh mình. Tâm lý này cũng tương tự như khi các loài động vật dùng mùi hương của chúng để đánh dấu địa bàn vậy. Hơn nữa, phạm vi không gian cá nhân của mỗi người lại không giống nhau, đối với một người có tính cách khép kín, khoảng không gian đó của họ thường tương đối lớn. 
Mặc dù việc chọn chỗ ngồi phía ngoài không thể đảm bảo rằng chỗ ngồi bên cạnh sẽ luôn trống, nhưng ít nhất phía còn lại chắc chắn là không có người. Một vị trí như vậy thường khiến người ta cảm thấy an
tâm hơn, lựa chọn này cũng có thể bảo vệ không gian cá nhân tránh khỏi sự “xâm nhập” của người ngoài ở mức cao nhất. 
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần hiểu rõ về phạm vi không gian cá nhân trong các mối quan hệ xã hội khác nhau. Đối với những người yêu nhau thì trong khoảng 0,8 mét có thể coi là không gian của tình yêu; đối với đồng nghiệp hoặc đối tác khách hàng thì 1,2 mét là không gian của công việc; còn đối với người lạ, 3 mét được coi là không gian công cộng mà ta cần giữ khoảng cách.
Chủ quan hay khách quan 
Ai nói “Mở mắt thấy hoa nở, nhắm mắt thấy hoa câm"?* 
Từ xưa đến nay, lời nói của các triết gia lỗi lạc vẫn thường khiến chúng ta mơ hồ, khó nắm bắt. Thế giới chủ quan luôn khoác trên mình một tấm màn mờ ảo, màu sắc thần bí thống trị cả nghìn năm. Song khi con người mở mắt nhìn ra thế giới, tồn tại khách quan lại hiện lên thật rõ nét, và ta có thể chạm vào thật dễ dàng. 
• • • 
Ngày nọ, nhà triết học Vương Dương Minh* nổi hứng cùng bạn đi du ngoạn. Người bạn cố ý làm khó ông, bèn lên tiếng, “Nếu nói thế giới này ngoài lòng người ra không còn thứ gì khác, vậy hãy nhìn xem, hoa trên núi Nam Sơn tự nở tự tàn, liên quan gì đến lòng người đâu chứ?” Trước câu hỏi này, Vương Dương Minh đáp, “Khi ta không ngắm hoa, hoa cũng trầm mặc giống như tâm ta vậy, còn khi ta ngắm hoa, hoa liền lập tức khoe sắc tỏa hương. Lúc này ta mới biết hoa nở không phải ở đâu khác mà ở ngay trong tâm mình.” 
Nếu dùng một câu nói đơn giản để khái quát lại quan điểm trên, vậy đó chính là “Mở mắt thấy hoa nở, nhắm mắt thấy hoa câm”. Tuy nhiên, xét dưới góc nhìn tâm lý học, quan điểm này rốt cuộc sai hay đúng? 
Theo cách nói của triết gia Vương Dương Minh thì tồn tại khách quan vốn không quan trọng, mà thứ chúng ta từng giờ từng khắc chú ý
tới vẫn luôn là thế giới chủ quan. 
Điều này phản ánh chính xác những gì tâm lý học truyền thống quan niệm. 
Tâm lý học truyền thống coi trọng nghiên cứu về ý thức, trong khi đó khoa học tự nhiên lại chỉ quẩn quanh ở thế giới bên ngoài. Các nhà tâm lý học hành vi cần triển khai một cuộc cách mạng mang tính đột phá, đó là quét sạch những quan niệm cũ còn sót lại của tâm lý học truyền thống. Theo đó, họ sẽ phải tiến hành làm rõ và phân biệt từng khái niệm xuất phát từ góc nhìn chủ quan như “tư duy”, “ý tưởng”, “ý niệm”, “nguyện vọng”, “tinh thần”, “tri giác”, “cảm giác”… 
Tiếp theo, họ cần đứng trên lập trường khách quan của khoa học để thiết lập một hệ thống công thức mới cho tâm lý học. Những công thức này được ra đời trong các phòng thí nghiệm, được nuôi trồng trên mành đất phì nhiêu với chất dinh dưỡng chính là các lý luận và thực nghiệm của y học, hóa học và sinh học. Cùng với sự phát triển chóng mặt của khoa học tự nhiên, các chất mới như insulin, hormone tuyến giáp, radi… liên tục được phát hiện, vậy tại sao hành vi của con người lại không thể xem như một yếu tố mới để nghiên cứu riêng biệt trong phòng thí nghiệm đây? 
Điều này đồng nghĩa với việc những gì các nhà tâm lý học hành vi tiến hành nghiên cứu cũng chính là những hành vi khách quan có thể quan sát trong đời sống hằng ngày, và mục đích của họ là phát hiện, giải thích các quy luật trong đó. 
Trong nghiên cứu tâm lý, việc nắm bắt được ý thức con người vốn dĩ là lực bất tòng tâm, vì rốt cuộc thì ý thức là thứ vừa mơ hồ bất định lại không ngừng thay đổi, trong khi đó các nhà nghiên cứu chẳng thể biến thành đôi guốc đi trong bụng đối phương, muốn đào sâu tìm hiểu tâm tư một người đã khó lại càng thêm khó. Chưa kể đến việc kết quả của thực nghiệm cũng không có cách nào kiểm tra, làm sao bạn biết được đúng sai
thế nào? Ngược lại, khi lấy hành vi của con người làm điểm bắt đầu, các nhà tâm lý học đã ý thức được rằng tất cả mọi hành vi của chúng ta đều gói gọn trong một công thức “kích thích - phản ứng”. Ví dụ, chúng ta phê phán những người chỉ biết chơi bời lêu lổng, hoặc nghiêm trị những kẻ làm hại người khác, những việc này được coi là “kích thích”. Còn tất cả hành vi của đối phương như việc đọc sách, viết chữ, lắng nghe, chạy trốn, lánh nạn… đều được coi là “phản ứng” để đưa vào phạm vi nghiên cứu. Tựu trung lại, hành vi cũng chính là phản ứng. 
Thời Chiến Quốc có một nhà tư tưởng Pháp gia* nọ, dù chưa từng nghe nói đến tâm lý học hành vi của Tây phương nhưng ông không những vận dụng được nó mà còn vô cùng thành thạo, nhuần nhuyễn. Ông chính là nhà cải cách trứ danh Thương Ưởng*. Thương Ưởng chủ trương tiến hành cải cách chính trị cho nước Tần nhưng lại sợ bách tính không phục, ông bèn bắt đầu bằng việc xây dựng uy tín trước tiên. Thế là, ở cổng nam của kinh đô, ông cho dựng một cây gỗ cao ba trượng với tờ cáo thị được dán bên trên: Thưởng mười lượng vàng cho ai chuyển được cây gỗ đến cổng bắc. Ban đầu dân chúng còn ngờ vực, ông liền tăng mức thưởng lên thành năm mươi lượng vàng, quả nhiên có một chàng thanh niên đứng ra một mạch vác cây gỗ đến đích. Thương Ưởng lập tức thực hiện lời hứa, không những vậy còn hết lời ngợi khen. Về sau, khi pháp chế mới được ban bố, dân chúng đều nghiêm chỉnh chấp hành. Dưới sự phò tá của Thương Ưởng, nước Tần dần dần trở nên hùng mạnh. Có thể thấy trong câu chuyện trên, thưởng tiền chỉ là kích thích, còn việc bách tính vững tin vào pháp chế được ban hành mới là phản ứng mà ông muốn nhận về. Chúng ta có thể nói rằng, nếu như Thương Ưởng không phải một chính trị gia, thì từ cách ông thuyết phục Tần Hiếu công* và việc ông dựng cây gỗ để tạo lòng tin với dân chúng, giả sử sinh vào thời hiện đại, chưa biết chừng ông đã trở thành một nhà tâm lý học hành vi vĩ đại rồi cũng nên.
bao gồm: Nho gia của Khổng Tử, Đạo gia của Lão Tử, Mặc gia của Mặc Tử và Pháp gia của Hàn Phi Tử. Trong đó, Pháp gia đi theo đường lối pháp trị triệt để. Hàn Phi Tử cho rằng một nhà cai trị phải cai quản thần dân của mình theo 3 quy tắc: Pháp (luật lệ, luật pháp); Thuật (thủ đoạn, nghệ thuật) và Thế (quyền lực, uy tín). 
Quan sát và suy đoán 
Vo tròn hóa đơn là biểu hiện của tâm trạng bực tức? 
Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta sẽ bắt gặp kiểu người như vậy, sau khi nhận hóa đơn mua hàng liền vo tròn lại hoặc trực tiếp xé vụn đi. Tại sao họ lại làm thế? 
Những người này đa phần đang phải chịu áp lực tinh thần tương đối lớn, họ cần gấp một nơi để phát tiết nhằm cân bằng lại trạng thái tinh thần, bởi một khi áp lực bị tích tụ đến giới hạn cực đại sẽ rất dễ “bùng nổ”. Cuối cùng, họ không muốn trực tiếp đối diện với áp lực của mình mà lựa chọn cách thức giải tỏa khác, hiện tượng này trong tâm lý học gọi là “hành vi chuyên dịch”.
Nội quan và ngoại quan 
Đối diện với góc khuất tâm hồn, người ngoài cuộc vẫn là sáng suốt nhất 
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng nghe qua câu chuyện như thế này: Một vị bác sĩ tâm lý có thể chữa trị được cho bệnh nhân của anh ta, song đối với vấn đề của bản thân lại bó tay chịu thua. Phải đến khi người bên cạnh nhận thấy và nhắc nhở, vị bác sĩ bấy giờ mới giật mình hiểu ra, lập tức bừng tỉnh. Từ đó, người ta bắt đầu hoài nghi rằng nội quan liệu có thật sự hiệu quả, bởi thực tế có không ít trường hợp vẫn là “người ngoài cuộc sáng suốt hơn”. 
• • • 
Khái niệm “nội quan” dù nghe có phần xa lạ với chúng ta, nhưng thực chất từ những năm cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc, khái niệm này đã từng được một nhà tư tưởng nhắc tới. Mỗi ngày đều không đếm xuể số lần ông tự suy xét bản thân: Liệu lúc hướng dẫn cho người khác mình đã đủ nhiệt tình hay chưa? Giao thiệp với bạn bè liệu đã đủ chân thành, không toan tính? Những kiến thức mà sư phụ truyền dạy liệu bản thân đã thật sự “ôn cố tri tân”*?… 
Lẽ dĩ nhiên, trong xã hội ngày nay cũng có nhiều trường hợp phải “tự kiểm điểm” như trên, chẳng hạn khi còn nhỏ chưa hiểu chuyện, ta thường phải nghe những câu như: “úp mặt vào tường suy nghĩ lại cho tôi!” Thậm chí chỉ “suy nghĩ” thôi là chưa đủ, mà còn phải giấy trắng mực đen viết một bản kiểm điểm cho thật tỉ mỉ và chi tiết.
Vậy nhưng, cách làm này có mang đến hiệu quả thực sự nào hay không? Thật khó nói rõ câu trả lời. 
Trong khoảnh khắc một người tự xem xét chính mình, những chuyện anh ta làm vốn đã trở thành ký ức bỗng dưng sống lại trong đầu. Thế nhưng ký ức là thứ có thể bị thay đổi hoặc quên đi một cách có chọn lọc. Vậy việc áp dụng phương pháp “nội quan” có thể giúp ta lấy được thông tin chính xác nhất hay không, điều này hiển nhiên là chưa thể kết luận rõ ràng. Một số người sẽ coi đây là lý do để cường điệu hóa sự tồn tại của tri giác và cảm giác mà không chịu tin rằng mọi hành vi của con người vốn đến từ những phản ứng hóa học xét trên phương diện sinh lý. Mục đích của việc này là duy trì tất cả những điều mà bấy lâu nay họ vẫn tin tướng, bao gồm tín ngưỡng và ký ức của họ về xã hội loài người. Bởi nếu một mai những niềm tin của họ hoàn toàn sụp đổ, họ sẽ rơi vào trạng thái vô định, lơ lửng, ngụp lặn trong chốn hư vô. 
Tâm lý học theo phương pháp nội quan được thành lập chính trên những điểm đầy nghi hoặc và gây hoang mang này. Nếu con người ta không chịu vứt bỏ những khái niệm mang đậm sắc thái chủ quan như tín ngưỡng, tình cảm, ký ức, ý tưởng, cảm giác… thì chúng vẫn tiếp tục vẽ nên một vòng luẩn quẩn khổng lồ và ta sẽ chẳng cách nào chạm tới được bản chất thật sự của tâm lý. Kể cả là bình cũ rượu mới, nhưng bình dùng lâu năm rồi cũng thành ra dễ vỡ, chỉ bằng dùng bình mới đựng rượu mới chẳng phải càng yên tâm vững chắc hơn sao? Những quan niệm trong tâm lý học truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức của con người. Vì thế, để tránh việc chúng gây trở ngại cho quá trình tiếp nhận tri thức tân tiến, các nhà tâm lý học hành vi không còn cách nào khác ngoài việc dùng một đòn chí mạng để đập tan cánh cửa cũ, mở ra cánh cửa mới. Với cách làm này, mọi người sẽ dần dần tiếp thu quan điểm của tâm lý học hành vi, đồng thời từng bước áp dụng những quan điểm đó để giải đáp những câu hỏi về tâm lý mà trước nay chưa từng có lời giải.
Phương pháp nội quan nghe qua thì có vẻ đơn giản, thực chất lại không như vậy. Chúng ta thường quá tự tin trong việc nhận thức về chính mình. Bạn cho rằng không ai hiểu rõ bản thân bạn bằng chính bạn, vậy mà trong lúc loay hoay tự tìm cách giải thoát, bạn lại được người bên cạnh nhắc nhở như một đòn cảnh tỉnh, khiến bạn đột nhiên tự soi rõ bản thân. Kiểu tình huống này có phải đã rất nhiều lần bạn từng gặp hay không? Người trong cuộc mơ hồ, người ngoài cuộc sáng suốt, đơn giản chỉ vì khi ta đứng trên một ngọn núi, ta sẽ chẳng cách nào nhìn rõ diện mạo của ngọn núi ấy thực chất ra sao. 
Tương tự, rất nhiều người trong lúc trừ ưu giải sầu cho người khác thì thuyết giảng rõ ràng mạch lạc, nhưng đến lúc chuyện thật sự ập xuống đầu mình lại hoang mang không biết xử lý thế nào. Do bản thân họ đang mắc kẹt trong mê cung, rất khó thoát ra và dùng thái độ tỉnh táo nhất để phân tích, giải quyết vấn đề. Bởi thế, đối với những góc khuất sâu thẳm trong nội tâm, họ cũng chưa chắc nắm trong tay quyền kiểm soát hoàn toàn. Không chỉ vậy, những người không thể chịu đựng việc ở một mình thì trước nay cũng chưa từng làm bạn với bản thân, do đó họ chẳng thể nào đối diện được với nội tâm thật sự của chính mình. 
Theo lý mà nói, bằng chứng trực quan và đáng tin nhất mà chúng ta có được chính là những hành vi được biểu hiện ra ngoài dựa trên phản ứng. Chúng có thể đóng vai trò là những dấu vết để từ đó chúng ta lần theo, là tấm bản đồ để ta tìm đường đến đích. 
Tâm lý học hành vi và sinh lý học có mối quan hệ mật thiết với nhau, bởi cả hai đều thuộc về khoa học tự nhiên. Sinh lý học có nhiệm vụ nắm rõ từng bộ phận trên cơ thể động vật, như chín hệ cơ quan lớn trong cơ thể người* phân công hoạt động ra sao, vận hành có trật tự, mạch lạc thế nào, đồng thời đọc giải tâm lý thông qua những tín hiệu phát ra từ cơ thể người. Đây là bộ mã không thể khuyết thiếu. Trong khi đó, song song với việc bám sát sinh lý học, tâm lý học hành vi càng chú trọng hơn vào
các hành động của động vật và con người, không những cần quan sát phân tích, mà còn phải nắm rõ quy luật trong đó để đưa ra sự kiểm soát phù hợp. 
Tách rời thực nghiệm và kết luận chủ quan hiển nhiên không phải phong cách của các nhà tâm lý học hành vi. Sau khi tổng hợp số liệu, bất luận là phương thức đồ thị hay bảng biểu đều có thể giúp họ tiến thêm một bước trong việc suy đoán phản ứng của động vật và con người trước các kích thích. Ngược lại, dựa vào phản ứng, họ cũng có thể tìm ra được hoàn cảnh nào đã gây nên kích thích, chỉ có điều đây hoàn toàn không phải nhằm mục đích phá án như Sherlock Holmes, mà là để đào sâu nghiên cứu những hành vi thường ngày của con người. 
Quan sát và suy đoán 
Tại sao những người lành tính cũng mắc phải “cơn thịnh nộ trên đường*? 
Những người sở hữu phương tiện tham gia giao thông sẽ thường xuyên gặp phải tình huống này: Đường đang tắc cứng, xe phía sau rú còi giục bạn vượt qua xe trước mặt, hoặc bạn bị ép phải phanh gấp… Trong những tình huống như vậy, rất nhiều người dù thường ngày tính tình có ôn hòa đi nữa cũng không tránh khỏi bực bội đến phát hỏa, không kìm được buông tiếng chửi thề. 
Rốt cuộc điều gì đã khiến một người lành tính mắc phải “cơn thịnh nộ trên đường”? Nguyên nhân nằm ở việc khi lái xe, mọi người thường nảy sinh một loại ảo giác “người xe như một”, không gian cá nhân vốn dĩ chỉ bao quanh cơ thể mình giờ đây đã mở rộng ra thành khoảng không bao quanh chiếc xe, lớn hơn rất nhiều lần. Khi có người xâm phạm vào không gian cá nhân, chịu sự kích thích từ adrenaline, con người sẽ có xu
hướng sẵn sàng công kích. Đương nhiên, hậu quả của việc này sẽ chỉ càng khiến ta mất đi tỉnh táo, tự đặt bản thân vào tình thế nguy hiểm hơn.
Chương 2 
Phản ứng sinh lý 
Đứng trước kích thích, cơ thể bạn không biết nói dối 
Trước sự khiêu khích của các yếu tố kích thích, cơ thể con người sẽ có vô vàn kiểu phản ứng khác nhau, chẳng phải vô căn cứ khi cho rằng “cơ thể hạn không biết nói dối”. Chính vì vậy, rất nhiều hành vi lâu dần thành quen của con người thực ra không phải lẽ đương nhiên như ta tưởng tượng, mà chúng thường là thói quen được hình thành do chịu kích thích. Sau khi hiểu được quá trình này, chúng ta cũng có thể lấy phản ứng làm điểm khởi đầu để áp dụng vào việc tự điều chỉnh bản thân.
Kích thích có hiệu quả mới khơi gợi được phản ứng 
Gãi không đúng chỗ ngứa thì chỉ tốn công vô ích 
Không phải tất cả kích thích đều có thể khơi gợi thành công phản ứng của cơ thể, cũng giống như châm cứu nếu không điểm trúng huyệt vị sẽ rất khó có tác dụng. Trong khi đó, thứ mà chúng ta theo đuổi dù chỉ đơn giản là khiến kích thích có thể gây ra phản ứng một cách thật sự hiệu quả đi nữa, thì ít nhất nó cũng dễ dàng giúp ta nâng cao hiệu suất chứ không đến nỗi bỏ thời gian công sức mà không thu lại được gì. 
• • • 
Đôi khi trong quá trình giao tiếp, chúng ta cảm thấy quan điểm của đối phương không đi thẳng vào vấn đề hoặc không phù hợp với cách nghĩ của mình, trong khi thứ ta cần vào những lúc ấy là một lời nói đánh trúng trọng tâm, có thể khiến ta bừng tỉnh như được gãi đúng chỗ ngứa. Nói cách khác, khi đó ta “mong đợi về một kích thích mang lại hiệu quả”. 
Có một cụm từ mô tả rất chính xác cách biểu đạt vô thưởng vô phạt ấy: “vòng vo tam quốc”. Ví dụ, khi bàn chân xỏ trong đôi giày của bạn đang bí nóng, nhớp nháp mồ hôi hoặc bị muỗi cắn đến râm ran ngứa ngáy, mà bản thân bạn lại chỉ biết gãi bên ngoài lớp giày thì đương nhiên sẽ chẳng thể xoa dịu chỗ ngứa. Lúc này, hành động ấy không khiến bạn
cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn chút nào, vì vậy có thể coi kích thích này là vô hiệu. 
Vì trọng tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý học hành vi là “kích thích - phản ứng” nên họ luôn chú trọng vào câu hỏi: Kích thích xảy ra dưới những phương thức khác nhau sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau như thế nào ở cơ thể sinh vật? Kích thích xảy ra đơn lẻ hay xảy ra đồng thời sẽ mang đến những hiệu quả không giống nhau. Đương nhiên, bên cạnh đó còn phải kể đến cường độ của kích thích và thời gian xảy ra kích thích, tất cả những điều trên đều là đối tượng quan sát của thực nghiệm. 
Nhằm tìm kiếm những kích thích có hiệu quả, Watson đã tiến hành một cuộc thực nghiệm với đề tài “Làm sao để đánh thức người mẹ đang say ngủ”, sau đó mời một người phụ nữ đã làm mẹ tham gia. 
Buổi trưa, trong mảnh sân nhỏ trước nhà, bà mẹ đang nằm trên ghế chợp mắt nghỉ ngơi. 
Mọi người nói chuyện với bà mẹ bằng âm lượng như bình thường, bà không hề phản ứng. 
Chú chó trong sân sủa lên vài tiếng, bà vẫn nằm yên không nhúc nhích. 
Đứa bé sơ sinh đang nằm trong phòng bị tiếng chó sủa dọa cho tỉnh giấc, giật mình kêu khóc, bà mẹ ngay lập tức mở choàng hai mắt, vội vàng lao vào phòng đứa bé. 
Trong cuộc thực nghiệm này, nhóm Watson tiến hành nghiên cứu thời gian và cường độ tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh đã đánh thức bà mẹ. Sau đó, họ tiếp tục làm những cuộc thực nghiệm tương tự với các bà mẹ khác. Dựa trên số liệu lớn được tổng hợp lại cùng quá trình phân tích một cách chặt chẽ, họ đã rút ra được kết quả về thời gian và cường độ tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh có thể đánh thức mẹ chúng.
Ngay từ thời xa xưa, khi còn chưa biết áp dụng phương pháp thực nghiệm khoa học để nghiên cứu về hành vi, các thế hệ đi trước cũng đã đúc kết lại cho người đời sau những câu nói ngắn gọn đúc kết bao kinh nghiệm đáng giá. Một trong số đó là câu ngạn ngữ cổ ta vẫn thường nghe: “Chỉ một âm thanh nhỏ từ đứa bé cũng đủ để đánh thức người mẹ khỏi giấc ngủ say.” 
Có thể bạn sẽ cho rằng tình huống phía trên quá vụn vặt, trong khi thực tế thường phức tạp hơn nhiều, hơn nữa chúng ta vốn dĩ không cách nào kiểm soát được tất cả biến số có thể xảy ra. Vậy nếu muốn thiết thực hơn, ta hãy giả dụ đặt tình huống vào một doanh nghiệp cụ thể. Vì muốn các nhân viên tích cực làm việc, quản lý có thể đặt ra vô vàn chế độ mang tính khích lệ như cung cấp chỗ ở, khen thưởng tập thể - cá nhân, hoặc cải thiện môi trường làm việc, mở rộng không gian nghỉ ngơi… Phản ứng cốt lõi mà kích thích này muốn khơi gợi chỉ là nhân viên dốc sức làm việc thật hăng say, mang lại lợi ích lớn hơn cho doanh nghiệp đó. 
Công việc của các nhà tâm lý học hành vi cũng chỉ có xuất phát điểm đơn giản như vậy. Họ hy vọng rằng một phản ứng tốt đẹp nào đó sẽ trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Vì thế, họ không ngần ngại lặp lại các phản ứng này trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu nhiều lần cho đến khi rút ra kết luận sau cùng, đồng thời tìm xem kích thích nào đã khơi gợi thành công phản ứng. Ngược lại, để loại trừ một phản ứng không mong muốn nào đó, họ cũng có thể làm theo cách tương tự. Bằng không, nếu bỏ qua quá trình thực nghiệm, chúng ta sẽ có xu hướng tiến hành các biện pháp mà bản thân coi là đương nhiên theo góc nhìn chủ quan. Như vậy sẽ rất khó đảm bảo không đi theo vết xe đổ của nước Mỹ năm nào - ban lệnh cấm rượu để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, dẫn đến thực trạng buôn lậu rượu bia trở thành ngành nghề dễ kiếm chác, trong khi đó tình hình trị an trong xã hội thì ngày càng đáng báo động.
Ngày nay, trong các buổi diễn thuyết, chúng ta vẫn thường xuyên nhìn thấy cảnh tượng thế này: Người diễn thuyết thì thao thao bất tuyệt trên sân khấu, kẻ ngồi nghe dưới khán đài thì sớm đã ngủ gục từ lâu. Có người sẽ nói đó là do buổi diễn thuyết quá vô vị, có người lại kiên nhẫn giải thích rằng đó là bởi nồng độ khí CO2 quá cao dẫn đến việc ai ai cũng ngáp ngắn ngáp dài. Song, theo phân tích của các nhà tâm lý học hành vi, kẻ đầu sỏ gây nên tình trạng ngủ gật này không phải nồng độ CO2trong không khí, mà là trong không gian kín, nhiệt độ của bề mặt da chúng ta sẽ không ngừng nóng lên. Nếu như đặt thêm vài cây quạt điện, tin rằng thính giả sẽ không còn chút cảm giác buồn ngủ nào nữa. 
Quan sát và suy đoán 
Đang đi thang cuốn nhưng vẫn muốn tự bước lên từng bậc, đó là tâm lý gì? 
Nếu một người không có việc gì gấp nhưng vẫn muốn tự bước từng bước trên thang cuốn, vậy ta có thể phán đoán đưọc ý thức cạnh tranh của người này rất lớn, đồng thời khả năng cao đó cũng là người theo chủ nghĩa vị kỷ. 
Những người này thường có tính tình nôn nóng, không giỏi trong việc hợp tác với người khác. Nếu lối đi bên trái có người đứng chắn, họ sẽ cảm thấy lo lắng bất an vì nhịp độ bước chân của mình bị gián đoạn. Thông thường, mọi người quen đứng phía bên phải của thang, hơn nữa ai ai cũng biết không nên tùy ý di chuyển trên thang cuốn để tránh gây nguy hiểm, tuy nhiên, những người này vẫn sẽ cảm thấy vô cùng khó chịu nếu lối đi bên trái của mình không được thông thoáng. 
Khi vượt qua những người đứng yên phía bên phải thang cuốn, trong lòng họ tự nhiên sẽ dấy lên cảm giác “Tôi nhanh hơn”, từ đó tự thấy mình ưu việt. Trên thực tế, cảm giác này cũng tương tự như khi ý thức
cạnh tranh “Tôi không thể thua bất kỳ ai” của họ được thỏa mãn. Họ chỉ chăm chăm vào nhịp độ bước đi của mình, chẳng hề suy nghĩ đến những người xung quanh, vì thế có thể coi là những người theo chủ nghĩa vị kỷ.
Sự thay thế kích thích 
Tiếng chuông và con chó của Pavlov 
Con chó của Pavlov vốn có thể sống một cách ung dung và đơn giản, giờ ăn hằng ngày chắc hẳn là thời khắc mà nó thấy vui nhất. Vậy mà, Pavlov lại gợi thêm bao nhiêu khả năng khác, để rồi cuối cùng đến cả tiếng chuông lẫn ánh đèn đều có thể khiến nó nhỏ dãi thèm thuồng. 
• • • 
Vốn dĩ đối với loài chó, việc tiết nước bọt khi nhìn thấy thức ăn là phản ứng tự nhiên, còn tiếng chuông và ánh đèn thì chúng lại chẳng thèm quan tâm. Nhưng con chó này đã bị Pavlov huấn luyện đến mức về sau chỉ cần nghe thấy tiếng chuông, nhìn thấy ánh đèn cũng đủ để chúng thèm ăn đến mức nhỏ dãi. Rốt cuộc Pavlov đã cho con chó uống thứ thuốc mê gì vậy? Hoàn toàn không, kỳ thực chỉ là mỗi lần đưa cơm cho chó ăn, ông đều rung chuông và bật đèn sáng. Lâu dần, con chó khi nghe tiếng chuông và thấy ánh đèn cũng sẽ có phản ứng giống như khi nhìn đĩa thức ăn bày trước mắt. 
Đây thực chất cũng tương tự như sự thay thế kích thích, hay còn gọi là điều kiện hóa kích thích. Lẽ ra, tiếng chuông và ánh đèn đều không đủ để gây nên phản ứng của con chó, nhưng chúng lại có thể là một kích thích thay thế cho thức ăn, khiến con chó sinh ra phản ứng nhỏ dãi. Cũng giống như khi nhìn thấy một chùm sáng, một người bình thường sẽ không có phản ứng gì đặc biệt, song nếu như mỗi lần nhìn thấy chùm sáng đó anh ta lại bị kích điện nhẹ, vậy những lần sau anh ta sẽ sinh ra
phản ứng rụt tay lại. Đương nhiên không tính trường hợp người này từ trước đó đã có phản xạ có điều kiện với ánh sáng. 
Ngược lại với phản xạ có điều kiện là phản xạ không điều kiện. Ví dụ, khi ánh sáng cường độ mạnh chiếu thẳng vào mắt người, chúng ta sẽ bất giác nhắm mắt lại; khi ta giơ một chân lên rồi gõ nhẹ vào gân xương bánh chè, phần chân từ đầu gối trở xuống sẽ bất giác đá lên phía trước; hoặc khi ta ngậm quả mơ chua trong miệng, nước bọt sẽ tiết ra nhiều hơn. Đây đều là những phản ứng mà từ khi sinh ra chúng ta đã có, không cần bất cứ điều kiện đặc biệt nào. 
Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý học hành vi, số lượng phản xạ không điều kiện ít hơn nhiều so với phản xạ có điều kiện. Đơn giản như khi viết một bài văn, quá trình ta chọn lọc câu, lược bớt từ trong một đoạn nào đó đều là kết quả của phản xạ có điều kiện. Vậy mới nói, loài người cần phải cảm ơn phản xạ có điều kiện vì đã góp phần mang đến thế giới này vô vàn kiệt tác vĩ đại. 
Watson và các nhà tâm lý học hành vi khác đều thừa nhận, chính do sự thay thế kích thích này mà phạm vi phản ứng của cơ thể được mở rộng hơn rất nhiều. Ban đầu có thể chỉ là phản xạ 1-1, trực tiếp và đơn giản, trong tình huống này rõ ràng số lượng phản xạ không điều kiện chiếm ưu thế hơn hẳn so với phản xạ có điều kiện. Nhưng nếu sự thay đổi kích thích xảy ra thì song song với việc cơ thể hưởng ứng kích thích đó, ta còn có thể khiến cho một kích thích khác đồng thời phát sinh. Như vậy, số lượng các phản xạ có điều kiện chẳng phải sẽ tăng lên gấp nhiều lần nữa hay sao? Bởi thế, trong khi nghiên cứu và thảo luận về quy luật “kích thích - phản ứng”, đầu tiên các nhà tâm lý học cần phân biệt rõ đó rốt cuộc là các kích thích không điều kiện - thứ gây ra những phản ứng tự nhiên, hay là kích thích có điều kiện phát sinh sau sự thay thế kích thích.
Lấy một ví dụ nhỏ, có không ít ông bố bà mẹ dùng cách thức khen thưởng để cổ vũ con mình làm việc nhà hoặc hoàn thành bài tập. Ở đây, việc khen thưởng chính là kích thích khơi dậy sự hứng khởi của đứa trẻ - điều mà bản thân bài tập hay việc nhà chưa chắc đã làm được. Khi khen thưởng cùng lúc xuất hiện bên cạnh việc nhà và bài tập, ta có thể coi nó như một sự thay thế kích thích. Vậy nhưng, một khi việc khen thưởng bị hủy bỏ, liệu đứa trẻ có cảm thấy mình bị lừa dối không? Điều này chứng minh rằng thực ra tâm lý của đứa trẻ vẫn không hề chấp nhận bài tập và việc nhà. 
Quan sát và suy đoán 
Dùng ô để mô phỏng động tác đánh golf trong lúc chờ xe, hành động này có ý nghĩa gì? 
Tại điểm chờ xe buýt hoặc ga tàu điện ngầm, chúng ta đôi lúc sẽ nhìn thấy cảnh tượng vài ông chú trong lúc đợi xe thì giơ chiếc ô trong tay lên làm điệu bộ như đang đánh golf. Những người không rõ thực hư thường sẽ tưởng họ là các tay golf, song sự thực có thể không phải vậy. 
Xem xét từ góc độ tâm lý học, đằng sau hành động này thường là tâm lý muốn trốn tránh thực tại. Những lúc không muốn tiếp nhận hiện thực, con người sẽ vô thức mượn những hành động không liên quan để dời chuyển sự chú ý của mình, trốn tránh hiện thực hòng kiếm tìm sự cân bằng trong tinh thần. 
Nếu đang trên đường đi làm, vậy rất có thể điều mà các ông chú này đang nghĩ là “Thật chẳng muốn đi làm chút nào hết!” Nếu đang trên đường tan làm về nhà, vậy khả năng cao họ đang nhủ thầm trong bụng “Không muốn về nhà đâu!” Tóm lại, vì cảm thấy bất mãn về công việc hoặc gia đình nên họ mới có những hành động ấy.
Sự thay thế phản ứng giải thích cho vết thương tuổi thơ 
Một ngày bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng 
Một đứa trẻ khi lớn lên có thể bị ám ảnh bởi những vết thương tuổi thơ khó lòng chữa khỏi. Tâm hồn đứa trẻ vốn vô ưu vô lo, vết thương cũng cần có quá trình mới hình thành được. Khi tìm về căn nguyên của vấn đề, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cơ thể con người cũng tồn tại cơ chế thay thế phản ứng. 
• • • 
Như chúng ta đã biết, kích thích có thể thay thế được, vậy còn phản ứng thì sao? 
Câu trả lời là hoàn toàn có thể. Chúng ta hãy xem xét câu chuyện dưới đây: 
Thường ngày mọi người cùng nhau tán gẫu, nhắc đến hổ dữ thì chẳng một ai tỏ ra sợ hãi hay ngạc nhiên, duy chỉ có một người nông dân nọ, mỗi lần nghe thấy người khác nói chuyện về hổ là sợ đến mức mặt mày tái mét. Hóa ra trước đây ông ta từng không may bị hổ vồ, đến nay trong lòng vẫn còn kinh hãi. Đối với ông ta, việc người khác nhắc đến hổ trước mặt mình cũng chính là tái hiện lại cơn ác mộng trong quá khứ. 
Trước khi bị hổ vồ, phản ứng của ông ta cũng không khác biệt so với mọi người, vẫn có thể thản nhiên cùng bạn bè tán gẫu về hổ. Nhưng sau khi xảy ra chuyện không may đó, phản ứng của ông ta đối với những
thông tin liên quan đến hổ đã thay thế thành muôn dạng biểu cảm kinh sợ. Nếu so sánh giữa trước và sau, ta dễ thấy sự khác biệt một trời một vực. Câu chuyện này có thể coi như một ví dụ điển hình cho hiện tượng thay thế phản ứng. 
Luôn có những đứa trẻ mang nỗi sợ hãi không xóa bỏ được dành cho các loài động vật như chó, mèo… Vì vậy, người thân và bạn bè của những đứa trẻ này cũng nên đặt ra câu hỏi, liệu rằng thuở bé chúng có từng bị chó dữ tấn công, hoặc phải chăng chúng từng bị thương do mèo cào… Trước đó, chúng có thể vô cùng bình thản trước chó mèo, thậm chí thân thiết với chó mèo đến mức thường xuyên âu yếm vuốt ve. Kiểu phản ứng bị thay thế này đeo bám những đứa trẻ đến tận khi chúng trưởng thành, còn về việc phản ứng đó tồn tại đến khi nào và liệu có biến mất hay không, câu trả lời sẽ khác nhau phụ thuộc vào từng trường hợp. 
Mặc dù nhiều người còn cảm thấy xa lạ với hiện tượng thay thế phản ứng, song việc nghiên cứu hiện tượng này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội. Bởi trong cuộc sống, một người có thể gặp phải kích thích đến từ khắp mọi nơi, những kích thích này lại thường tồn tại một thời gian khá dài trong đời họ, như hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã hội, môi trường làm việc… Cái giá cho việc cố gắng thay thế những kích thích trên có thể vượt xa tưởng tượng của họ, vượt ra ngoài vòng tròn cuộc sống ổn định của họ, như một vũng nước tù khiến họ héo mòn từng ngày. Việc thay thế kích thích trong trường hợp này rõ ràng là vô dụng, thậm chí có thể tàn phá sức khỏe và tinh thần của họ, khiến niềm vui cùng lòng nhiệt thành dành cho cuộc sống trong họ ngày càng cạn kiệt. Trong khi đó, điểm mấu chốt để thay đổi tình trạng này lại là con đường ngược lại, tức là nếu như đã không thể thay thế được kích thích, vậy tại sao ta không thử tìm cách thay thế phản ứng? Bằng cách này, có thể nào mọi thứ sẽ thông tỏ hơn chăng?
Dù núi không dời thì nước vẫn chảy, cùng một kích thích có thể sinh ra nhiều phản ứng khác nhau. Trong cuộc sống, chúng ta hoàn toàn có thể dùng phản ứng tích cực để thay thế cho phản ứng tiêu cực. Ví dụ, một người giáo viên nọ thường ngày vô cùng nghiêm khắc, bất kể giọng nói hay biểu cảm đều khiến học sinh phải khúm núm run sợ mỗi lần nhìn thấy. Vậy mà trong một lần tình cờ, đám học sinh thấy được nét tính cách ôn nhu, dịu dàng của cô, từ đó không còn mang trong lòng suy nghĩ chống đối cô nữa, ngược lại càng hiểu rõ cô hơn, càng chủ động hoàn thành bài tập cô giao. Như vậy, từ cục diện ban đầu là mối quan hệ giáo viên - học sinh đầy chống đối, thậm chí đám học sinh có thể đã tệ lại càng thêm tệ, thì cuối cùng tình thế cũng lật ngược lại, trở thành mối quan hệ hòa hoãn thân tình, kết quả là học sinh ai nấy đều chăm chỉ ngoan ngoãn, bảng vàng đề tên. 
Đương nhiên, ở đây còn có một điểm ta không thể không nhắc tới: từ sự thay thế phản ứng dẫn đến thái độ coi trọng vết thương tuổi thơ của một người. Có lẽ không ít đứa trẻ rơi vào trường hợp “một ngày bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng”, thực chất không phải chúng sợ bản thân sợi dây thừng đó, mà chúng sợ hãi những vật có vẻ bề ngoài gợi liên tưởng tới con rắn, từ đó nhìn giả thành thật, cơn ác mộng trong quá khứ một lần nữa hiện về. Cần hiểu rằng, một đứa trẻ khi vừa đến với thế giới này cũng giống như “nghé con mới sinh không biết sợ hổ”, bởi vậy nếu trong quá trình lớn lên có điểm khác biệt với những đứa trẻ khác, các bậc cha mẹ cần suy nghĩ lại xem rốt cuộc là thứ gì đã tước đoạt dũng khí và niềm vui ban đầu của con mình. 
Quan sát và suy đoán 
Trong lúc nói chuyện điện thoại tiện tay viết nguệch ngoạc lên giấy, hành động này biểu thị điều gì?
Có những lúc ta sẽ gặp cảnh một ai đó vừa gọi điện thoại, vừa cầm bút viết ngoáy lên tờ giấy hoặc sắp xếp lại đồ đạc trên bàn. Hành động này thường để giải tỏa áp lực tinh thần của chính mình. Chẳng hạn khi người ở đầu dây điện thoại bên kia đang tức giận mắng mỏ, bản thân lại không tiện cúp máy, những lúc này tinh thần căng thẳng sẽ gây ra áp lực, khiến tay ta vô thức làm ra các động tác để kích thích tới não bộ. Hiện tượng này gọi là “hành vi bồi thường*” trong tâm lý học. 
Tương tự, trong một buổi hẹn hò, nếu bạn phát hiện tay đối phương liên tục thực hiện những động tác nào đó trong vô thức, vậy có khả năng đối phương cảm thấy nhàm chán, không có hứng thú với cuộc hẹn. Lúc này cần nghĩ cách để thu hút sự chú ý của đối phương như chuyển đề tài câu chuyện, nếu vẫn không có tác dụng, hãy thay đổi địa điểm hẹn hò.
Thói quen là phản ứng có điều kiện kiểu mới 
Chẳng qua chỉ như liên kết với một tiểu ứng dụng* mà thôi 
Từ nhỏ đến lớn, những thói quen được hình thành trong quá trình phát triển của chúng ta nhiều không kể xiết, bản thân ta cũng coi chúng là điều bình thường. Nhưng có lẽ mọi người không để ý rằng mỗi thói quen đều là một phản ứng có điều kiện, cũng giống như việc ta dần làm quen với các tiểu ứng dụng mới trong quá trình sử dụng WeChat. 
• • • 
Ngày nay, khoa học kỹ thuật không ngừng tiến bộ với tốc độ chóng mặt, đến cả WeChat cũng đã phát triển tính năng tiểu ứng dụng để các tài khoản cộng đồng có thể liên kết. 
Còn “thói quen” mà từ trước tới nay mọi người vẫn thường nhắc đến rốt cuộc là gì? 
Chúng hoàn toàn không phải là những thứ có sẵn từ khi ta sinh ra. Sau khi chào đời, mỗi người đều sở hữu một “lập trình” đơn giản nhất - là những phản ứng bẩm sinh không cần qua luyện tập. Song, dưới sự tác động của các kích thích nhất định mà những phản ứng này được tổ chức lại, từ đó trở thành vô số “lập trình” phức tạp và tinh vi, chúng được gọi là “thói quen”. Ví dụ, các bộ phận trên cơ thể chúng ta như mắt, ngón tay, cánh tay, cẳng chân, ngón chân… thông thường do ảnh hưởng của phản xạ có điều kiện mà sinh ra hàng loạt phản ứng có tính tổ chức. Chỉ
có điều chúng cần được luyện tập trong cuộc sống và dần dần sẽ trở thành thói quen, quá trình này cũng giống như việc WeChat liên kết với tiểu ứng dụng vậy, hơn nữa “tiểu ứng dụng” mang tên “thói quen” này có thể đồng hành cùng chúng ta suốt cả cuộc đời. 
Để tìm hiểu quá trình hình thành thói quen, thoạt tiên Watson làm thử nghiệm trên một con chuột bạch bị bỏ đói trong một ngày. Sau đó, người ta đặt thức ăn vào một chiếc lồng kẽm rồi đưa đến trước mặt con chuột, phía trên cửa lồng được cài chốt, con chuột bạch trước đó chưa từng gặp loại lồng này bao giờ. Tiếp theo, chúng ta hãy quan sát phản ứng của con chuột sau khi bị bỏ đói một ngày. 
(Ở đây tôi sẽ mô phỏng dựa trên diễn biến tâm lý của con chuột.) “Bụng đói cồn cào cả rồi, sao họ có thể đối xử với mình như vậy chứ?” 
“Cuối cùng thức ăn cũng tới, chờ đã, không phải cho mình à?” “Ồ, hóa ra là để trong cái lồng ngay gần đây à, thế này chẳng phải quá tàn nhẫn với dạ dày của mình sao?” 
“Trước nay kiếm ăn đâu có khó khăn như vậy, bây giờ lại chẳng khác nào Đường Tăng thỉnh kinh, mình phải làm sao đây?” 
“Trừ phi mình có thể chui vào trong lồng.” 
“Mình quẫn đến mức chạy lòng vòng quanh lồng luôn rồi.” “Cũng may mình có hàm răng sắc nhọn, chỉ đáng tiếc dù sắc nhọn đến mấy cũng không phải khắc tinh của lồng kẽm.” 
“Mình đang bất lực dán mặt vào lồng đây, chỉ có mũi là có thể thò vào trong lồng mà ngửi.” 
“Mình còn có bộ vuốt sắc nhọn nữa, nhưng động tác này chắc cũng chẳng hơn mèo cào tường là mấy.” 
“Mình bắt đầu ngẩng lên nhìn ngó xung quanh, chỉ còn cách đặt hy vọng vào chiếc mũi này thôi, mong nó có thể ngửi ra được chút manh
mối gì đó quanh cái lồng.” 
Trong hàng loạt hành động của con chuột bạch đã liệt kê phía trên, những hành động cần thiết để giúp nó có được thức ăn chỉ đơn giản là: tiến đến chiếc lồng, ngẩng đầu tìm kiếm, dùng vuốt kéo mở chốt kẽm, cuối cùng bò vào lồng lấy thức ăn. 
Tuy nhiên, những hành động lộn xộn bừa bãi của con chuột thực chất chỉ là phản ứng không điều kiện. Qua quá trình thử đi thử lại hết lần này đến lần khác, dần dần nó sẽ mở được cái lồng bằng cách gộp lại các thao tác cần thiết đồng thời loại bỏ các thao tác dư thừa. Như vậy, một phản ứng mới đã được sinh ra. Khi một lần nữa gặp phải tình huống tương tự, nó sẽ trực tiếp dùng móng vuốt mở cửa lồng mà không cần phải hoang mang bối rối, loay hoay bên ngoài cái lồng nữa. 
Quá trình này hoàn toàn giống như việc con người chúng ta phải chọn ra những phần hữu dụng trong một dãy các số hiệu phức tạp rối rắm, sau đó biên tập lại thành một trình tự hoàn toàn mới. Đối với cơ thể con người - nói theo cách chuyên nghiệp một chút - thì đó gọi là phản ứng kiểu mới, hoặc điều kiện hóa phản ứng. Còn theo cách thông dụng, ta thường gọi đó là “thói quen”. 
Có thể suy luận được, trong cuộc đời ngắn ngủi mà cũng dài đằng đẵng này của chúng ta, những “tiểu ứng dụng” cần được “liên kết” nhiều không đếm xuể. Chỉ có điều, dù bí ẩn về sự ra đời của “tiểu ứng dụng” đã được các học giả đưa vào nghiên cứu bao lâu nay, dù họ đã thu về không ít số liệu phong phú hữu ích, song lời giải cho mệnh đề về sự hình thành thói quen vẫn phải nhờ cậy sự nỗ lực của các thế hệ học giả sau mới có thể dần dần được vén mở. 
Khi mọi người bàn luận về một thói quen, dù có thừa nhận hay không thì kích thích cũng vẫn tồn tại ở đó, còn sự hình thành thói quen chẳng qua cũng chỉ là sự ra đời của một phản ứng có điều kiện kiểu mới. Tương tự như khi chúng ta nhìn thấy đèn đỏ thì dừng xe trên đường,
sáng sớm nghe thấy tiếng chuông báo thức liền rời khỏi chăn ấm đệm êm, ngửi thấy mùi cháy khét liền nhanh chóng mở toang cửa sổ… Tất cả những việc làm này đều là phản ứng được định sẵn khi ta đối mặt với một kích thích nào đó. Lúc ấy, cơ thể chúng ta sẽ hành động tuân theo trình tự xác định một cách có hệ thống và bài bản. 
Đối với con người, thói quen thực chất cũng chỉ giống như việc liên kết với một tiểu ứng dụng mà thôi. Còn về các nội dung cụ thể hơn, ở chương sau chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết đến các bạn độc giả. 
Quan sát và suy đoán 
Người từ đầu đến chân đều dùng hàng hiệu, hóa ra lại là người thiếu hụt lòng tự tin. 
Thời đại ngày nay, không ít bạn trẻ mang tâm lý muốn đắp hàng hiệu lên mình không chừa chỗ trống nào, hơn nữa còn muốn người khác vừa nhìn liền nhận ra đó là hàng hiệu. Chúng ta thường cảm thấy họ là những nhân vật vừa giàu có lại tự tin, tuy nhiên thực chất hoàn toàn không phải. 
Việc mua sắm đồ hiệu có thể coi là “sự tiêu xài mang tính biểu hiện”. Mục đích của họ chỉ đơn giản là muốn phô trương với người khác theo kiểu: “Nhìn xem, những đồ mà tôi có đều là hàng xa xỉ cả đấy!” Thông thường, để trở thành kiểu người mà bản thân coi là lý tưởng, chúng ta phải bỏ ra không ít nỗ lực. Trong khi đó, chỉ cần mang đồ hiệu trên người thôi cũng vừa có thể cho ta cảm giác thỏa mãn đắc ý, lại vừa có thể giúp ta khoe khoang với người ngoài. Thật dễ dàng làm sao! 
Những người thích chơi hàng hiệu trên thực tế thường thiếu tự tin nhưng lại có nhu cầu được người khác công nhận. Kể cả khi bản thân không có năng lực đi nữa, chỉ cần dùng đồ hiệu đắp lên người sẽ thu về ánh mắt ngưỡng mộ từ những người xung quanh. Họ ôm trong lòng tâm lý này, hy vọng dùng nó để bù đắp cho nỗi tự ti của mình, từ đó được
người đời công nhận. Trong tâm lý học, đây gọi là hiện tượng “gián tiếp phô trương bản thân”.
Phản ứng của các tuyến trong cơ thể 
Từ “thèm chảy nước miếng” đến “trông mơ đỡ khát”* 
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng quá quen thuộc với câu chuyện Rừng mơ của Tào Tháo. Có thể nói trong câu chuyện này, Tào Tháo đã lợi dụng phản ứng của các tuyến trong cơ thể người để phục vụ cho mục đích của mình một cách cực kỳ thông minh, dù rằng thời đó khái niệm về tâm lý học hành vi còn chưa được biết đến. 
• • • 
Cơ thể người khi đối diện với kích thích sẽ tự thân sinh ra các phản ứng, các phản ứng này đến từ hai tổ chức: cơ bắp và các tuyến. Cơ bắp thì hẳn ai cũng đã rõ, bao gồm cơ xương và cơ nội tạng. Một trong những ví dụ cho phản ứng của cơ xương là khi tay ta tiếp xúc với lửa hoặc khí nóng sẽ tự động rụt lại, còn phản ứng của cơ nội tạng là khi ta đói sẽ có cảm giác bụng đau do dạ dày co thắt. 
Khác với cơ bắp, mọi người thường ít quan tâm đến các tuyến trong cơ thể hơn, trong đó được nhắc đến nhiều nhất hẳn là tuyến giáp. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn thường bỏ qua một cụm từ quen thuộc có khả năng gợi liên tưởng nhất: thèm chảy nước miếng. Đúng vậy, bởi tuyến nước bọt là cơ quan độc lập trong cơ thể người nên càng dễ dàng để nghiên cứu, mà việc “chảy nước miếng” ở đây hoàn toàn không có một chút khoa trương nào cả.
Muốn kích thích cho tuyến nước bọt hoạt động, việc đầu tiên và thông thường nhất là để thức ăn ở trước mặt một người. Song những gì các nhà tâm lý học hành vi muốn biết là nếu như không dùng đến phương thức này, mà thông qua tranh ảnh, âm thanh, qua tiếp xúc với da thịt… thì liệu tuyến nước bọt có thể tiết ra được không? Nói cách khác, mục đích của các nhà tâm lý học là nghiên cứu về phương thức thay thế kích thích đối với phản ứng của các tuyến trong cơ thể. 
Về vấn đề này, trước tiên chúng ta quay lại với con chó của Pavlov. Con chó trong thí nghiệm này đã phải chịu sự hy sinh không hề nhỏ. Tuyến nước bọt của nó được nối với một ống nhỏ để nước bọt tiết ra sẽ không theo khoang miệng trôi vào thực quản mà trực tiếp theo ống chảy ra ngoài. Đầu còn lại của ống nối với thiết bị quan trắc dùng để đo lượng nước bọt mà miệng con chó tiết ra. Con chó và người theo dõi thí nghiệm phải ở tách biệt với nhau, việc này nhằm tránh xảy ra những kích thích khác làm ảnh hưởng đến sự chính xác của số liệu thu được. Con chó ở trong phòng, còn người theo dõi chỉ đứng bên ngoài điều khiển kích thích. 
Vậy bây giờ, khi một kích thích có điều kiện (như ánh đèn, tiếng chuông, xúc giác…) và một kích thích không điều kiện (là thức ăn) được đặt trước mặt, bất luận hai kích thích xuất hiện cùng lúc hay là lần lượt thì sự thay thế kích thích đều có thể xảy ra, đều khiến con chó tiết nước bọt, đồng thời bắt đầu sinh ra phản xạ có điều kiện. Tuy nhiên, trong trường hợp kích thích không điều kiện xuất hiện trước kích thích có điều kiện, vậy phản xạ có điều kiện sẽ không được sinh ra. Tất nhiên, họ phải lặp đi lặp lại thực nghiệm khoảng hai mươi đến ba mươi lần, dần dần con chó đã quen với kích thích, lúc này phản xạ có điều kiện mới bắt đầu xuất hiện. 
Giả dụ người tiến hành thí nghiệm muốn thông qua xúc giác để làm con chó tiết nước bọt, vậy họ có thể tác động lên chân nó trước rồi mới
mang đồ ăn tới. Không cần tốn quá nhiều thời gian, xúc giác đã trở thành “dây thần kinh nhạy bén” có thể kích hoạt tuyến nước bọt của nó. Từ đây suy ra, bất kể phạm vi gây ra phản ứng mà kích thích tác động lên giác quan của các loài động vật có lớn thế nào đi nữa, thì chúng ta đều có thể tiến hành theo trình tự phía trên. Chẳng hạn như không ngừng rút ngắn bước sóng ánh sáng kích thích cho đến khi con chó không phản ứng lại nữa, từ đó xác định được phạm vi bước sóng ngắn của ánh sáng mà tại đó xuất hiện phản ứng. Đối với bước sóng dài cũng tương tự. 
Cũng chính nhờ vào nghiên cứu này mà các nhà tâm lý học hành vi còn phát hiện ra một điểm: phạm vi phản ứng với kích thích từ thế giới bên ngoài của loài chó vượt trội hơn hẳn so với loài người. Như vậy, thật không phải khoa trương khi nói rằng việc phát hiện ra sự thay thế kích thích có đóng góp rất lớn cho nghiên cứu khoa học nói chung. 
Nói tới đây còn phải đề cập đến một vấn đề khác, đó là sự phân hóa phản ứng của các tuyến trong cơ thể. Khi chịu cùng một kiểu kích thích giác quan, phạm vi kích thích khác nhau sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau từ các tuyến. Giả dụ như cùng là kích thích đến thính giác, có thể khi nghe thấy âm điệu loại A, con chó sẽ mừng rỡ chạy nhảy vòng vòng tại chỗ, còn khi nghe âm điệu loại B nó lại run rẩy cuộn rúm lại trong góc nhà. 
Lẽ tất yếu, Watson và các nhà tâm lý học hành vi phải làm rõ được những điểm dưới đây: 
Thứ nhất, phản xạ có điều kiện không tồn tại vĩnh viễn. Nếu ta hủy bỏ kích thích không điều kiện, vậy rất nhanh sau đó phản xạ có điều kiện sẽ biến mất. Tương tự, sau khi đã mất đi nó cũng có thể được thiết lập lại. 
Thứ hai, nếu kích thích thay thế đủ ổn định, thì những kích thích tương tự nó sẽ không gây ra phản xạ có điều kiện nữa, điều này cũng
giống như việc thú cưng chỉ nhận mùi hương duy nhất của chủ nhân nó mà thôi. 
Thứ ba, chúng ta có thể thông qua việc điều chỉnh mức độ kích thích để thay đổi mức độ phản ứng, về cơ bản thì chúng tỷ lệ thuận với nhau. Thứ tư, kích thích cũng có thể gây hiệu quả gia tăng lên phản ứng. Ví dụ, con chó có phản xạ có điều kiện với cả âm thanh lẫn mùi vị, vậy khi cả hai kích thích này đồng thời xuất hiện sẽ khiến con chó tiết nhiều nước bọt hơn. 
Thứ năm, nếu không tiếp tục kéo dài kích thích có điều kiện, phản xạ có điều kiện có thể biến mất. Tất nhiên, một trường hợp khác là kéo dài kích thích quá mức cũng dẫn đến kết quả tương tự. Có thể lấy ví dụ thực tế như khi xem đi xem lại một nội dung nhiều lần sẽ sinh ra cảm giác mệt mỏi, hoặc đến cả cao lương mỹ vị nếu ăn quá nhiều cũng chẳng còn hứng thú. 
Quan sát và suy đoán 
Thường xuyên xem điện thoại, hãy cảnh giác chứng ỷ lại vào smartphone! 
Ngày nay, điện thoại đã trở thành công cụ không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, đến mức có những người cứ vài phút lại để ý điện thoại xem có tin nhắn hay cuộc gọi đến không. Kể cả trong khi đang bận rộn làm việc, họ cũng có thể chốc chốc lại ngó qua màn hình. 
Nếu ra khỏi nhà quên mang điện thoại hoặc không may làm mất điện thoại, họ sẽ rơi vào trạng thái lo lắng, bất an không thể khống chế được. Có người còn ở mức độ nghiêm trọng đến nỗi chỉ cần điện thoại không ở bên mình liền đứng ngồi không yên, thậm chí cảm giác như bị cả thế giới bỏ rơi… Những trường hợp như thế đã không còn được coi là bình thường nữa rồi.
Những người này thường không giỏi trong việc giao tiếp trực diện với người khác, bởi vậy họ nảy sinh tâm lý ỷ lại vào việc gửi tin nhắn hoặc gọi điện thoại. Ở đây, họ cần phải lưu ý đến tầm quan trọng của việc nắm rõ khoảng cách trong các mối quan hệ xã hội, giống như ở gần một con nhím vào mùa đông, nếu dựa vào nó quá sát sẽ bị gai nhọn đâm, còn cách nó quá xa sẽ khó mà chịu được lạnh lẽo, vì thế tốt nhất là duy trì khoảng cách vừa đủ.
Hoạt động của đôi tay vốn dĩ chỉ là thói quen 
Người thuận tay trái liệu có phải thiên tài? 
Có những người luôn tìm mọi cách để chứng minh người thuận tay trái là thiên tài. Kỳ thực, nếu quay ngược trở lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, ta sẽ phát hiện, hóa ra sự phân công hoạt động của tay trái và tay phải chẳng qua chỉ là thói quen được hình thành trong quá trình con người tồn tại trên trái đất. 
Thói quen này về sau nếu miễn cưỡng sửa đổi sẽ rất dễ phản tác dụng, trở thành phiên bản hiện đại của câu chuyện “Hàm Đan học bộ”.* 
• • • 
Trong cuộc sống, sẽ có lúc bạn gặp những người như thế này: họ quen dùng tay trái ăn cơm, viết chữ, vận động… rõ ràng khác biệt hẳn với số đông thuận tay phải. Dù những người thuận tay trái chỉ chiếm tỷ lệ 10% dân số nhưng trong đó lại có rất nhiều thiên tài như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Albert Einstein, Marie Curie, Friedrich Nietzsche, Bill Gates… Thêm vào đó, tâm lý “coi hiếm là quý” cũng khiến mọi người đánh đồng việc thuận tay trái với việc có tài năng thiên bẩm. 
Các nhà tâm lý học hành vi cũng đã đi sâu vào nghiên cứu thói quen sử dụng đôi tay của con người, họ tin rằng trước khi chịu ảnh hưởng từ
vô vàn kích thích theo thời gian, ban đầu giữa tay trái và tay phải vốn dĩ không có sự phân công nhiệm vụ cố định. 
Khi chúng ta còn là những đứa trẻ ngây thơ, chưa phải đối mặt nhiều với những bài học đến từ xã hội bên ngoài, tay trái và tay phải đều có thể tự do vận động, thậm chí chẳng hề có thứ cảm giác gọi là “không thuận tay”. Song, khi ta dần dần trưởng thành, những người lớn xung quanh có lẽ đã nói với ta rằng “Hãy cầm bút bằng tay phải”, “Hãy dùng tay phải để bắt tay với người khác”… Rất nhiều lần họ cũng bất giác chừa lại cho tay phải không gian sử dụng, chẳng hạn như khi đang bế trẻ con, họ sẽ đưa tay phải ra để tiện vẫy chào tạm biệt người khác. Những kích thích đến từ xã hội như thế này không ngừng ảnh hưởng đến chúng ta, khiến cho tay trái và tay phải của chúng ta dần có xu hưóng phân hóa trong việc sử dụng, cuối cùng hình thành một kiểu phản xạ có điều kiện vô cùng mạnh mẽ. 
Vậy thói quen sử dụng tay phải từ đâu mà có? Để giải đáp vấn đề này, ta cần quay ngược trở lại giai đoạn đầu trong lịch sử phát triển của loài người. 
Thời đó, trên trái đất khắp nơi đều là dã thú, tổ tiên của loài người còn dựa vào săn bắn để sinh tồn. Nếu xét về thể lực, rõ ràng chúng ta có những điểm thua kém các loài động vật khác. Bởi vậy, để không bị các loài dã thú ăn thịt, chúng ta không thể không tìm cách bảo vệ cho tính mạng của chính mình. Nhằm tránh việc bị các loài dã thú tấn công vào vị trí quan trọng nhất là trái tim, con người đã dùng tay trái để giữ tấm thuẫn trước ngực trái, phòng thủ ngay vị trí của tim, trong khi đó tay phải có nhiệm vụ xông pha tấn công kẻ địch, bất kể hành động tấn công ấy là ném hay là đâm cũng đều phức tạp hơn so với tay trái rất nhiều. 
Chính vì nguyên nhân sâu xa từ lịch sử này, bây giờ chúng ta đã có thể hiểu được vì sao loài người luôn dùng tay phải để xử lý những công việc mang tính phức tạp, khó khăn. Khi chữ viết và việc ghi chép ra đời,
loài người vẫn chưa hoàn toàn nói lời tạm biệt với mùi máu tanh và những cuộc săn bắn, các loại vũ khí cùng với tấm thuẫn để che chắn vẫn là người bạn đồng hành thân thiết của họ. Thế là, những công việc như viết chữ, ghi chép, thậm chí cắt xén y phục, chế tạo vũ khí… đều được giao cho tay phải đảm nhiệm. 
Truyền thống này kéo dài cho đến ngày nay, nhưng nó hoàn toàn không ngăn cản được sự thật rằng có rất nhiều người quen sử dụng tay trái vẫn đạt được những thành tựu hiển hách trong đời. 
Sau khi những người thuận tay trái dần dần được xã hội đón nhận, họ tự mang trong mình ánh hào quang để lại từ những danh nhân đời trước, và thế là họ được mọi người thần thánh hóa, cụm từ “thuận tay trái” cũng theo đó trở thành một danh từ thay thế cho hai chữ “thiên tài”. 
Có không ít người vì ngưỡng mộ thành tựu của họ mà thậm chí muốn tự thay đổi thói quen dùng tay phải của mình. Vậy nhưng, đối với một người đã bước vào tuổi trưởng thành mà nói, đây chưa chắc là một thay đổi tốt. Nếu họ sửa đổi khi còn là một đứa trẻ thì có thể còn hy vọng, và bên cạnh họ phải có người lớn biết áp dụng những phương pháp phù hợp để giúp đỡ. 
Nếu đã trưởng thành mà còn miễn cưỡng uốn nắn, việc này sẽ mang đến cho họ vô số phiền phức, thậm chí có thể gây hại cho tâm trí. Thực chất, các phương thức biểu đạt bên ngoài của con người chỉ đơn giản là dùng tay chân để chuyển hóa ngôn ngữ thành hành động và ngược lại, chuyển hóa hành động thành ngôn ngữ. Bất luận là một người quen dùng tay trái bị ép sử dụng tay phải, hay một người quen dùng tay phải bị ép sử dụng tay trái, thì tâm trí của họ đều có khả năng phải chịu tổn thương, khiến họ bối rối khi đối diện với thế giới này. Ban đầu, họ vốn đã có dáng vẻ trọn vẹn của riêng mình, nhưng cuối cùng lại bị bóp méo, trở thành vặn vẹo.
Trên thực tế, quá trình này sẽ không ngừng tác động xấu đến năng lực biểu đạt của họ. Trải qua thời gian sinh sống lâu dài, những thói quen trong ngôn ngữ và hành vi của họ đã sớm thiết lập nên phản xạ có điều kiện, vì thế, khi tay chân không được tự do vận động, việc biểu đạt bằng ngôn ngữ cũng theo đó mà bị ảnh hưởng. Vốn dĩ, việc thiết lập thói quen sử dụng đôi tay cần được hoàn thành từ khi còn là một đứa trẻ, vậy mà bây giờ lại yêu cầu họ phải bắt đầu lại từ điểm xuất phát, đây chắc chắn là kiểu uốn nắn phản khoa học và không hợp lý. 
Thời Chiến Quốc, ở nước Yên có người nghe nói mỗi bước đi của dân Hàm Đan* đều toát lên tư thái ưu mỹ, bèn qua Hàm Đan bắt chước cách người ta đi bộ. Ai ngờ bắt chước không xong, mà đến cả cách đi đứng của bản thân mình, anh ta cũng quên mất. Cuối cùng, anh ta chẳng còn cách nào khác ngoài việc dùng loạn cả tay lẫn chân mà bò về nước. 
Ta có thể rút ra bài học gì từ câu chuyện này đây? Bao lâu nay, người nước Yên kia đã hình thành cho bản thân phản xạ có điều kiện khi bước đi, việc sang nước Triệu học dân bên đó tư thái đi bộ thật chẳng khác nào thiết lập lại từ đầu một loạt phản xạ có điều kiện khác. Thêm vào đó, anh ta cũng không tiếp nhận các kích thích từ môi trường bên nước Triệu khi còn nhỏ, thành ra rất khó bắt chước được như họ, lúc này tâm trí của anh ta chẳng khác nào quay trở lại thời kỳ tập đi của một đứa trẻ (thói quen của đứa trẻ khi di chuyển là bò). Thiết nghĩ, giá mà khi đó anh ta hiểu được một chút về tâm lý học hành vi, có phải chăng sẽ không tự chữa lợn lành thành lợn què như vậy? 
Quan sát và suy đoán 
Vì sao có những người thích “làm Gia Cát Lượng khi việc đã rồi”? Trong cuộc sống, có thể bạn sẽ thường xuyên gặp phải tình huống như dưới đây. Sau khi tranh luận không ngừng nghỉ về một vấn đề nào
đó, cuối cùng cả tập thể quyết định nghe theo ý kiến của một người, đáng tiếc kết quả lại không được như mong đợi. Và thế là, một người trong hội lập tức lên tiếng: “Đấy, tôi đã bảo rồi mà, đáng lẽ không nên…” Trong khi trước đó chính anh ta cũng đồng ý với quyết định của tập thể. Vậy vì sao lại xuất hiện kiểu người “Gia Cát Lượng khi việc đã rồi” như trên? 
Những người này thường tin rằng bản thân luôn đúng, đồng thời có tính hiếu thắng cao, không thể chấp nhận việc mình thất bại. Vì thói ham hư vinh mãnh liệt mà họ đặc biệt khao khát có được sự tán đồng và công nhận của người khác. Tuy nhiên, họ lại thiếu sự kiên định với lập trường của chính mình và cũng thiếu cả dũng khí để thuyết phục đối phương, bởi họ không dám đối mặt với hậu quả rằng nhỡ đâu bản thân thất bại. 
Đợi đến khi kết quả rõ ràng, họ mới dám nói ra. Xét trên một phương diện khác, điều này chứng tỏ họ tuyệt đối không cam tâm im lặng, càng không muốn chịu cảm giác bị người khác bỏ qua, thành ra mới muốn nói vài câu để mọi người chú ý đến. Dù thế nào, hành động này thực chất cũng chỉ là một biểu hiện của nội tâm hèn nhát mà thôi.
Chương 3 
Hành vi mang tính thói quen 
Đọc bản chất thông qua hành động 
Sự hình thành thói quen có thể coi là mắt xích cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của một người. Đáng tiếc, việc thiết lập những thói quen tốt cần kiên trì, trong khi đó thiết lập những thói quen xấu lại dễ như trở bàn tay. Hiển nhiên, chúng ta luôn hy vọng bản thân và những người xung quanh luyện tập được thói quen hành xử tốt đẹp. Nhưng trước đó, chúng ta cũng nên hiểu rõ bản chất của thói quen và cơ chế hình thành nên thói quen. Bất luận là kiểu hành vi theo thói quen nào đi nữa, cuối cùng chúng vẫn đều là kết quả của kích thích mà thôi. Những gì được thể hiện ra từ thói quen cũng chính là bản chất của con người.
Ý nghĩa của thói quen 
Thế nào là “Quân đến tướng chặn, nước đến đất ngăn”?* 
Sự hình thành thói quen bắt nguồn từ việc chúng ta luôn phải thích ứng với môi trường xung quanh, giống như câu nói “Quân đến tướng chặn, nước đến đất ngăn”. Tuy nhiên, câu nói này vẫn không hoàn toàn giống như khái niệm “điều ứng”* mà một số nhà tâm lý học đưa ra, nguyên nhân bởi vế trước là chủ động nghĩ cách ứng phó, còn vế sau lại là bị động tiếp nhận tấn công. 
• • • 
Con người từ khi sinh ra đã biết tiếp nhận các kiểu kích thích về nhiệt độ, độ cứng, màu sắc, âm thanh… Chúng chỉ là những kích thích đến từ môi trường bên ngoài, còn những kích thích đến từ môi trường bên trong vẫn luôn từng giây từng phút âm thầm xảy ra trong cơ thể ta, như lượng bài tiết, sự tăng giảm huyết áp, sự lưu chuyển của thức ăn trong ruột… Các cơ quan nội tạng của chúng ta cũng luôn không ngừng tiếp nhận kích thích. Chỉ có điều, trong lúc tiến hành nghiên cứu, con người thường bỏ qua những kích thích đến từ bên trong, mặc dù tầm quan trọng của chúng cũng không hề kém cạnh so với các kích thích bên ngoài. 
Con người và động vật đều có khả năng tạo ra phản ứng trước mọi kiểu kích thích. Mà khi chịu tác động của hai loại kích thích nói trên, cơ thể sinh vật lại không hề kén chọn loại phản ứng để đáp lại. Ví dụ như khi dạ dày co thắt phát tín hiệu “đang đói”, ta sẽ chủ động tìm kiếm đồ
ăn; khi tiếp đãi khách quý, ta sẽ kiểm tra lại quần áo đầu tóc của mình liệu đã ổn hay chưa; hoặc nếu trong tay không có nhiều tiền, ta có thể sẽ hoãn việc mua sắm những món đồ xa xỉ… 
Nói chung, hành vi của con người chính là một loạt các phản ứng sinh ra khi chịu tác động của kích thích từ môi trường bên trong và bên ngoài. Vì thế, các bộ phận trong cơ thể người thường xuyên ở trạng thái linh hoạt, năng động, đồng thời hệ thống mạch máu và ống dẫn cũng liên tục vận chuyển các chất, không một giây ngừng nghi. Đương nhiên, khi chúng ta còn là trẻ sơ sinh, những hoạt động này đều được tiến hành dựa trên một quy luật nhất định, vừa tuần tự hệ thống lại vừa tự do không gặp trở ngại nào. Cùng với sự tăng lên của tuổi tác, chúng ta không muốn những hoạt động ấy bị các kích thích khác tác động, bấy giờ mức độ tự do sẽ dần giảm đi. Thời gian lâu dài, chúng sẽ trực tiếp sinh ra phản ứng với kích thích và vận hành trên một quỹ đạo vô hình có trật tự nghiêm ngặt. Chúng có thể sinh ra phản ứng khi chúng ta tỉnh táo, thậm chí kể cả khi chúng ta ngủ say cũng vẫn liên tục vận hành, chẳng hạn như vào mùa hè nóng nực, chúng ta có thể nửa đêm tỉnh giấc vì quá nóng hoặc vì muỗi đốt. 
Vậy khi đứng trước kích thích, liệu có phải sinh vật sẽ luôn ở trạng thái điều ứng hay không? Câu trả lời của các nhà tâm lý học hành vi có chút khác biệt với các nhà tâm lý học theo trường phái khác. Có ý kiến cho rằng con người là những sinh vật không ngừng điều ứng, còn theo các nhà tâm lý học hành vi, những người chỉ biết điều ứng thì chẳng khác biệt gì so với một người chết cả, bởi họ không có bất kỳ phản ứng nào trước kích thích. Nhìn từ góc độ thực tế, khi một người tiếp nhận kích thích A và phản ứng lại, rồi ngay sau đó nếu họ tiếp tục phải phản ứng với kích thích B hòng thay đổi hoàn cảnh hiện tại của bản thân, lúc này sẽ có hai xu hướng phát triển: một là phản ứng do kích thích B gây ra sẽ hoàn toàn loại bỏ phản ứng do kích thích A gây ra; hai là trong khi
phản ứng lại kích thích B thì kích thích A sẽ bị bỏ qua. Nói cách khác, một xu hướng là triệt tiêu, còn một xu hướng là ngừng lại. Ví dụ, khi một người đang đói bụng, cảm nhận được kích thích mà cơn đói tác động lên dạ dày (kích thích A), sau đó cấp tốc hành động, đến nhà hàng ăn cơm (xuất hiện kích thích B). Lúc này, sự xuất hiện của kích thích B khiến kích thích A ngừng lại, trường hợp này nhìn qua thì có vẻ giống như tác dụng của “điều ứng”. Tuy nhiên, trên thực tế, sau khi đã ăn no, dù không còn chịu kích thích từ cơn đói nữa, nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là sau đó anh ta sẽ tránh được các kích thích khác, mà các kích thích khác cũng sẽ lập tức gây ảnh hưởng đến cơ thể, khiến cơ thể tạo ra các phản ứng tiếp theo. Bởi vậy, cơ thể không có cách nào và cũng không thể “điều ứng” được. 
Lại lấy một ví dụ khác, khi bạn nằm trên giường chuẩn bị ngủ, ánh đèn từ bên ngoài lọt qua khe hở rèm cửa sổ, rọi lên mặt bạn, khiến bạn không thể ngủ được. Bạn quyết định xoay người lại nhưng vẫn bị ánh đèn kia quấy nhiễu, thế là bạn dứt khoát trùm chăn che kín đầu. Nhưng được một lúc, bạn liền cảm thấy khó thớ. Bạn đành đứng dậy tìm chiếc kẹp để kẹp kín rèm cửa lại, sau đó yên tâm lên giường đi ngủ. Vốn dĩ, ánh đèn là kích thích tác động lên bạn khiến bạn phải tìm cách thoát khỏi nó, trong đó có việc kẹp kín rèm cửa, nhưng lúc này kích thích đó đã không còn tác dụng đối với bạn nữa rồi. Do vậy, cơ thể bạn dù đã thoát ra khỏi kích thích nhưng những kích thích khác vẫn tiếp tục tác động lên bạn, bạn chăng qua chỉ là thoát khỏi một trong số chúng mà thôi. 
Khái niệm “điều ứng xấu” mà các nhà tâm lý học nhắc đến, thực chất để chỉ hai kích thích có khuynh hướng đối lập nhau, hay nói cách khác, cơ thể hành động với mong muốn thoát khỏi kích thích đang tác động lên mình, khiến kích thích mất đi hiệu quả hoặc để thoát khỏi phạm vi của kích thích đó.
Tựu trung lại, mỗi cơ thể đều cần một hệ thống ứng phó với kích thích. Như vậy, cơ thể đó sẽ bắt buộc phải hình thành một kiểu thói quen có thể khiến kích thích A mất đi hiệu lực khi tác động lên mình, hoặc bằng một cách nào đó thoát ra khỏi phạm vi của kích thích này. Một đứa trẻ khi bị ánh sáng làm cho nhức mắt sẽ chỉ có thể kêu khóc để người mẹ tắt đèn, trong khi người trưởng thành sẽ tự mình đứng dậy làm việc đó. Lúc đói, một đứa trẻ cũng chỉ biết khóc đòi ăn, còn một người trưởng thành sẽ biết tự vào bếp hoặc đến nhà hàng. Tất cả những việc này đều là thói quen được hình thành dựa trên mong muốn duy nhất là được sống thoải mái. 
Con người hình thành nên thói quen để có thể thích ứng với hoàn cảnh tốt hơn, tương tự như câu nói “Quân đến tướng chặn, nước đến đất ngăn”. Kiểu phản xạ có điều kiện đã được tóm gọn thành quy luật này có thể giúp chúng ta thoát khỏi ảnh hưởng của kích thích và trở về với hoàn cành ban đầu, đồng thời khiến ta phục hồi nhanh chóng để làm được những việc mình muốn, từ đó hoàn thành mục tiêu đã định sẵn. Ý nghĩa của thói quen đối với đời sống con người cũng chính là đây. 
Quan sát và suy đoán 
Vì sao mọi người thường thích mua những vật phẩm xuất hiện trong phim ảnh? 
Một nhân viên nghiên cứu thị trường người Mỹ đã tiến hành một cuộc thực nghiệm như sau. Trong lúc khán giả đang xem phim, anh ta dùng máy chiếu phóng lên màn hình hình ảnh ăn bỏng ngô và uống Coca-Cola, thời gian chỉ là một giây trên năm mươi phút. Kết quả, lượng tiêu thụ CocaCola và bỏng ngô bất ngờ tăng lần lượt 18% và 58%. Cuộc thực nghiệm này đã gây ra sự náo loạn không nhỏ lúc bấy giờ, vì không ai có thể tin rằng suy nghĩ và hành động của bản thân lại dễ dàng bị thao túng đến thế.
Trong quá trình làm việc, người nhân viên bán hàng phát hiện ra rằng, hành vi tiêu dùng của đại đa số khách hàng đều trải qua một quá trình như sau: tiếp nhận kích thích bên ngoài, dẫn tới động cơ mua sắm, đưa ra quyết định mua sắm, thực hiện hành động mua sắm, cuối cùng đưa ra đánh giá. Các nhà tâm lý học cho rằng, tâm lý của bản thân khách hàng mới là nhân tố chính dẫn đến hành vi mua sắm, còn nhân viên bán hàng chẳng qua chỉ kích thích vào nhân tố đó, đồng thời làm tăng thêm cảm tình và hiểu biết của khách hàng đối với sản phẩm mà thôi.
Sự hình thành thói quen 
Vì sao nói “Quét nhà không xong, lấy gì quét thiên hạ”? 
“Quét nhà không xong, lấy gì quét thiên hạ”, câu nói này cũng có thể dùng để giải thích sự hình thành của thói quen. Không một ai vừa sinh ra đã có bản lĩnh phi phàm, mà mỗi người đều phải nuôi dưỡng thói quen thường nhật từ từng chút việc nhỏ, để rồi từng bước đạt đến mục tiêu cuối cùng mà mình mơ ước. 
• • • 
Thực chất, câu nói “Quét nhà không xong, lấy gì quét thiên hạ” không phải là câu gốc, nguyên văn của nó là “Chuyện trong nhà không quản nổi, sao cống hiến được cho nước, cho dân?”. Vào triều Thanh ở Trung Quốc có một người tên Lưu Dung, thời còn trẻ thường vùi mình trong thư phòng, dùi mài kinh sử, nghiên cứu thi thư, có những khi suy ngẫm mãi không tìm ra lời giải, ông bèn đứng dậy đi dạo quanh phòng. Trong căn phòng có một chỗ trũng trên nền nhà, rộng khoảng một thước, mỗi lần mải mê suy nghĩ mà bước tới đây ông đều bị vấp ngã. 
Ngày nọ, cha ông tới thăm, nhìn thấy con mình chăm chỉ cố gắng, người cha bèn cười nói, “Một căn phòng mà con còn không xử lý nổi thì lấy gì ra trị quốc bình thiên hạ đây?” Sau đó, ông sai người đến san bằng phần trũng trên nền nhà lại. Từ đó, Lưu Dung mỗi lần đi dạo trong phòng, bước đến chỗ này lại luôn cảm giác như phần đất dưới chân bị nhô lên một chút, cúi đầu nhìn kĩ thì thấy nền nhà vẫn bằng phẳng, rất lâu sau đó ông mới dần quen với việc trên sàn không có chỗ trũng nào.
“Quét nhà không xong, lấy gì quét thiên hạ” dù chỉ là một câu nói lái đi, nhưng nó cũng giải thích được sự tăng tiến dần dần của thói quen. Từ việc quét nhà đến việc trị nước, khoảng trống giữa hai dấu mốc ấy là tầng tầng lớp lớp các giai đoạn của thói quen. Quá trình này cũng tựa như giữa việc di chuyển một viên gạch đến việc xây nên một tòa cao ốc chọc trời vậy, không thể có chuyện một sớm một chiều đã xong, mà trong đó, những thói quen cơ bản chính là viên gạch để xây dựng nên tòa cao ốc chọc trời kia. 
Vậy thì, những thói quen cơ bản của con người được hình thành như thế nào? Watson cho rằng, muốn làm sáng tỏ vấn đề này ta cần bắt đầu nghiên cứu từ những đứa trẻ sơ sinh. Nghĩ vậy, ông đã sắp xếp một cuộc thực nghiệm như sau. Ông đặt bình sữa ở rất gần tay của một đứa bé sơ sinh ba tháng tuổi. Đứa bé thấy bình sữa liền cựa quậy, khoa tay múa chân, mắt nhìn chằm chằm vào bình sữa, miệng không ngừng chóp chép, chắc chắn đang muốn nói rằng “Đưa cho con, con muốn uống”. Tuy nhiên, lúc này đứa trẻ vẫn không với tay về phía bình sữa. 
Đến ngày thứ hai, quá trình thực nghiệm vẫn diễn ra như ngày đầu tiên, kết quả là phản ứng của đứa bé mạnh mẽ hơn trước, thể hiện rõ nhất ở cánh tay. So với các bộ phận khác trên cơ thể, xác suất bàn tay và cánh tay chạm được vào bình sữa là lớn hơn cả. 
Bình sữa không phải là sự cám dỗ duy nhất trong thực nghiệm này. Người ta còn đặt thêm một miếng bánh ở vị trí mà đứa trẻ có thể lấy được, khi đó đứa trẻ lại với tay ra lấy bánh cho vào miệng. Cứ như vậy, mỗi ngày lặp lại từ mười đến mười hai lần. Sau một tháng, cuộc thực nghiệm cũng thu được thành quả đầu tiên: đứa trẻ đã biết tiếp cận một vật thể, nắm lấy nó và đưa nó vào miệng. Tất nhiên cuộc thực nghiệm này phải kèm theo một điều kiện: đứa trẻ luôn phải được cho ăn bằng bình sữa duy nhất đó, nếu không, bình sữa sẽ chẳng thể phát huy được sức cám dỗ. Ngoài ra, đối với một đứa trẻ chưa trải qua nhiều lần luyện
tập, cuộc thực nghiệm này cũng rất khó cho ra được kết quả. Giả dụ ta “được voi đòi tiên”, muốn đứa trẻ lấy một đồ vật không liên quan gì đến thức ăn nước uống, vậy đứa trẻ sẽ cần nhiều thời gian luyện tập hơn mới có thể thiết lập được phản xạ có điều kiện đối với kích thích này. 
Tuy nhiên, thu hoạch lớn nhất của cuộc thực nghiệm là: trước kích thích từ bình sữa, đứa trẻ đã phản ứng lại bằng những vận động phong phú và phức tạp, từ cựa quậy thân mình đến các hoạt động mạnh mẽ của các bộ phận trên cơ thể, đặc biệt là bàn tay, ngón tay và cánh tay, tất cả những phản ứng này ta đều có thể dễ dàng nhận thấy. 
Đến khi cả bàn tay, ngón tay và cánh tay đều đã phối hợp hoàn hảo với nhau, thì những hoạt động không liên quan đến tay như hoạt động của bàn chân, cẳng chân hay thân người cũng dần dần ít đi hoặc biến mất. Nguyên nhân là bởi khi đôi tay của đứa trẻ có thể tự do vận động, có thể lấy đồ vật một cách thành thạo, thì những vận động từ các bộ phận không liên quan có thể được lược bỏ. Đưa tay lấy đồ vật là thói quen cơ bản nhất, mà thói quen này về sau còn có thể biến đổi phức tạp hơn: ngoài việc cầm nắm còn có thể ném đi, hoặc có thể với tay lấy những đồ vật ở trước mặt và hai bên trái phải, không những thế, đứa trẻ còn học được cách xoay đồ vật và đẩy đồ vật về phía trước. Dễ thấy, nếu không có thói quen cơ bản nhất là cầm nắm đồ vật thì những hoạt động phức tạp hơn sẽ chẳng thể xuất hiện được. Như vậy, bạn có còn cho rằng thói quen thật sự là bản năng của con người nữa hay không? 
Ngoài việc điều khiên đồ vật, đứa trẻ cũng biết tự điều khiển cơ thể mình. Đương nhiên, mỗi bộ phận trên cơ thể cần phối hợp tốt với nhau mới có thể vận động nhịp nhàng theo trật tự nhất định, điều này không cần bàn cãi. 
Việc thiết lập thói quen cầm nắm và điều khiển đồ vật thậm chí còn đồng nghĩa với việc con người bắt đầu nắm bắt được thế giới bên ngoài. Từ khoảnh khắc đó, cả thế giới như bắt đầu chuyển động trong đôi tay
nhỏ bé của một đứa trẻ. Bất luận là từ thời cổ xưa còn mài đá làm công cụ lao động đến thời hiện đại dùng gang thép để chế tạo cơ khí, hay từ việc dùng thân cây bắc qua sông đến việc xây những cây cầu lớn bằng bê tông cốt thép, nếu như không bắt đầu từ những hành động nhỏ nhặt như “quét nhà” kia, liệu về sau chúng ta có thể “quét thiên hạ” được chăng? Nói cách khác, chính những thói quen đơn giản nhất là thứ dẫn lối cho ta đến với tương lai rực rỡ sắc màu, cũng giống như để xây nên một tòa kiến trúc đồ sộ cần bắt đầu từ những viên gạch nhỏ bé. 
Quan sát và suy đoán 
Vì sao khi thấy người khác xếp hàng, chúng ta cũng muốn vào xếp hàng cùng? 
Khi đi trên đường, chúng ta thường bắt gặp cảnh tượng thế này: trước cửa một nhà hàng mì kéo*, khách xếp hàng dài chờ đến lượt, chốc chốc lại có người mới vào xếp hàng cùng. Nếu chỉ là để ăn một bát mì, tại sao lại phải tốn những một, hai tiếng đồng hồ để xếp hàng cơ chứ? 
Các nhà tâm lý học gọi đây là “hành vi thích ứng”. Khi nhìn thấy nhiều người đang xếp hàng, bản thân cũng không muốn bị bỏ lại. Họ luôn mang theo hy vọng rằng mình có thể bắt kịp với số đông, nếu không sẽ cảm thấy lo lắng. Những người không biết vì sao mình lại xếp hàng cũng mang tâm lý này, mà hàng người càng dài lại càng kích thích mong muốn gia nhập của những người khác, như thể trước mặt họ là một điều gì đó cực kỳ đáng mong chờ vậy. 
Khi nhìn thấy nhiều người xếp hàng dài, não bộ chúng ta bắt đầu tiết ra dopamine*, hormone này có tác dụng khiến ta cảm thấy hưng phấn, từ đó không tự chủ mà xếp hàng cùng họ.
Hình thành và nuôi dưỡng thói quen tốt 
Tầm quan trọng của việc “đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường” 
Thói quen tốt không từ trên trời rơi xuống. Chúng không thể hình thành trong cuộc sống của chúng ta nếu không trải qua quá trình “đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường”. Và nếu không lặp lại giai đoạn “thử và sai”* liên tục, thói quen tốt cũng vĩnh viễn chỉ là một mục tiêu ngoài tầm với. 
• • • 
“Đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường” hẳn là câu nói quá quen thuộc đối với tất cả chúng ta. Tuy nhiên, trong một câu nói đơn giản đến thế lại hàm chứa cả ý nghĩa quan trọng về tâm lý học hành vi. 
Phía trên, chúng ta đã nói về sự hình thành thói quen. Thói quen cũng có thói quen tốt và thói quen xấu, vậy quá trình hình thành và nuôi dưỡng thói quen tốt diễn ra như thế nào? 
Tiếp tục cuộc thực nghiệm đứa bé và bình sữa đã nêu trên, lần này Watson “ra đề” khó hơn: lấy kẹo trong hộp. Khi ông đặt một chiếc hộp trước mặt đứa bé đã thành thạo các thao tác bằng tay, đồng thời cho nó biết rằng trong hộp có rất nhiều kẹo, phản ứng đầu tiên của đứa bé chắc chắn là muốn mở hộp ra. Tuy nhiên, chiếc hộp được lắp một công tắc khóa nhỏ, đứa bé muốn mở hộp ra lấy kẹo thì phải mở công tắc khóa ấy
trước. Lúc này, những thói quen mà trước đó nó học được đã không còn hiệu quả nữa, bất kể là phản ứng qua luyện tập hay không qua luyện tập trong trường hợp này đều không giúp ích được gì. 
Nếu xử lý chiếc hộp bằng các phản ứng giống như khi chơi đồ chơi thường ngày, đứa bé sẽ hành động như sau: ôm lấy chiếc hộp, đập chiếc hộp xuống đất, rê qua rê lại trên sàn, lấy tay gõ mạnh lên hộp… Nó cố gắng dùng mọi cách để mở hộp, nhưng kỳ thực những động tác này đều là các phản ứng đơn giản đã biết từ trước, hay có thể nói đứa bé đã dùng toàn bộ kinh nghiệm từ trước đến nay của bản thân để xử lý vấn đề hoàn toàn mới này. 
Trong lúc vô tình, một động tác của đứa bé chạm được vào công tắc, chiếc hộp liền lập tức mở ra. Người tiến hành thực nghiệm lấy từ trong hộp ra vài chiếc kẹo làm phần thưởng, sau đó đóng hộp lại, đưa cho đứa bé để nó mở lần nữa. Giả dụ lần đầu tiên nó mất hai mươi phút để mở được chiếc hộp, thì lần thứ hai này thời gian nó sử dụng đã giảm đi rõ rệt, đến lần thứ ba, chỉ cần hai phút thôi đứa bé đã thành công rồi. 
Tại sao thời gian mở chiếc hộp lại ngày càng rút ngắn? Nếu ta đặt ký hiệu số cho từng động tác mà đứa bé dùng trong quá trình mở hộp, tính đến động tác cuối cùng là ấn vào công tắc khóa, ta có thể thấy các động tác xảy ra ngẫu nhiên, trong đó các động tác không liên quan đến việc mở hộp càng ngày càng ít xuất hiện, sau đó chúng hoàn toàn biến mất. Kết quả sau cùng mà những người tiến hành thực nghiệm thu được là, động tác ấn công tắc xuất hiện càng lúc càng sớm, các động tác khác cũng không chỉ xuất hiện một lần, nhưng qua từng lần lặp lại quá trình mở hộp, chúng đã ít dần đi. Cuối cùng, vì động tác ấn vào công tắc khóa lần nào cũng xuất hiện, đứa trẻ dựa vào đó mà lấy được kẹo, nên tần suất xuất hiện của nó luôn cao hơn các động tác khác. 
Điều đáng chú ý là, bởi trong mỗi lần lặp lại thực nghiệm, động tác này đều xuất hiện cuối cùng, hơn nữa, xét trong số các động tác xuất
hiện ở mỗi lần thực nghiệm trước thì nó luôn là động tác xảy ra gần nhất với lần thực nghiệm sau. Vì vậy, Watson và các nhà tâm lý học hành vi khác gọi đây là “động tác gần nhất”. Đương nhiên, lý do này cũng khiến nhiều người đưa ra nghi vấn, họ cho rằng trong quá trình thiết kế thói quen, việc đạt đến thành công sẽ để lại cho ta ký ức vui vẻ, còn thất bại chỉ khiến con người nản chí buồn rầu, vì vậy đứa bé mới tự nhiên giữ lại những động tác khiến nó thành công mà loại bỏ những động tác làm nó thất bại. 
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình hình thành thói quen của con người, nhưng các nhà tâm lý học hành vi tin rằng vẫn có những cách thức đơn giản hơn nữa để giải thích vấn đề này. Trong đó, phản xạ có điều kiện vẫn là thứ đáng để chúng ta nỗ lực nghiên cứu nhằm giải đáp chuỗi câu đố về tâm lý và hành vi của con người. 
Thông thường, để hình thành một thói quen nào đó, chúng ta đều phải trải qua không biết bao lần “thử và sai” như vậy, cuối cùng tìm thấy một phản ứng có thể giúp ta đạt được mục tiêu, sau đó lại dần dần biến nó thành phản xạ có điều kiện để rồi ngày càng ổn định theo thời gian. Thật ra, chúng ta hy vọng có được những kinh nghiệm này chẳng qua là để trong tương lai nếu gặp những tình huống tương tự, ta cũng có thể dựa vào thói quen đã được hình thành ấy mà nhanh chóng ứng phó với hoàn cảnh. “Đọc vạn cuốn sách” có thể giúp con người ta có được kinh nghiệm, còn trong quá trình “đi vạn dặm đường” ta có thể sẽ gặp các sự việc muôn hình vạn trạng khác. Chính bởi dò dẫm tìm đường trong mơ hồ, rồi qua những lần “thử và sai” mà loại bỏ các hành động không cần thiết, cuối cùng chúng ta mới tìm được con đường ngắn nhất để giải quyết vấn đề, đồng thời biến con đường đó thành phản xạ có điều kiện ổn định dần theo thời gian. 
Đời người là quá trình không ngừng lặp lại những chuỗi “thử và sai” ấy. Đối với những người lo sợ thất bại, chỉ muốn đi trên con đường được
người khác vạch sẵn, thì khi gặp phải tình huống bất ngờ ở quãng đường tiếp theo, họ chắc chắn sẽ rơi vào trạng thái lóng ngóng, hoang mang. Bởi họ không trải qua những lần “thử và sai”, nên những thói quen mà họ có không đủ để chống đỡ cho bản thân khi đối mặt với nhiều tình huống nan giải hơn. 
Nhiều bậc cha mẹ luôn muốn dọn sẵn đường đi cho con cái, có thể thấy đây không phải là giúp đỡ mà chính là hại con. Nếu không muốn trở thành người cha người mẹ dạy hư con mình, hãy cứ để cho đứa trẻ dùng hết khả năng của nó mà trải nghiệm cuộc sống càng nhiều càng tốt. Qua quá trình ấy, đứa trẻ mới có thể hình thành và nuôi dưỡng những thói quen tốt vì tương lai của bản thân, đồng thời đủ cứng cáp để đối mặt với bất cứ tình huống nào trong cuộc sống. 
Quan sát và suy đoán 
Vì sao chúng ta dễ bị những kẻ lừa đảo lợi dụng? 
Trong xã hội ngày nay, đâu đâu cũng có những kẻ lừa đảo, mà người bị chúng lợi dụng cũng chẳng phải số ít. Thật ra, kẻ lừa đảo chẳng qua chỉ dùng những câu từ dễ nghe để khiến người khác dao động. Ví dụ, chúng khiến họ tin rằng chỉ cần làm theo lời chúng sẽ kiếm được nhiều tiền hoặc thu hoạch được một món hời nào đó. Theo lý mà nói, lẽ ra khi nghe những lời ấy chúng ta cần lập tức đặt ra nghi vấn, “Lấy đâu ra chuyện tốt từ trên trời rơi xuống như thế?” Dù vậy, vẫn có những người dễ dàng đặt lòng tin vào đó để rồi rơi trúng cạm bẫy của những tên lừa đảo. 
Trên thực tế, sự khác biệt giữa người dễ bị lừa và người không dễ bị lừa chỉ nằm ở lòng tự tôn mạnh hay yếu mà thôi. Lòng tự tôn vừa đủ có ích cho chúng ta trong việc đưa ra phán đoán chính xác, trong khi đó những người có lòng tự tôn mềm yếu thường rơi vào thế bị động, dễ
dàng tin tưởng và hoàn toàn tiếp nhận lời nói của người khác mà không chút nghĩ ngợi gì. Họ thường đặt lòng tin vào những người có uy tín, và việc mà những tên lừa đảo cần làm chỉ là nắm được điểm yếu này mà ngụy trang thành một ai đó được người người tín nhiệm, dùng lời lẽ ngon ngọt để dẫn dụ mục tiêu cắn câu. Trong khi đó, con mồi của chúng lại tin tưởng không chút do dự, kết quả đương nhiên là bị lừa đến mức thê thảm.
Thói quen đồng nghĩa với phản xạ có điều kiện? 
Bàn tay thao túng trên bàn cờ mà bạn không nhìn thấy 
Nếu dùng một hình ảnh ẩn dụ để hình dung thói quen, vậy có thể tưởng tượng trước mặt bạn là một bàn cờ, trong đó mỗi nước đi đều do một bàn tay thao túng, quyết định xem quân cờ đó sẽ đặt ở vị trí nào. Chính bàn tay ấy viết nên trình tự cho thói quen, khiến mỗi công đoạn đều được sắp xếp một cách gọn gàng trật tự. 
• • • 
Phía trên, chúng ta đã được biết thói quen là một kiểu phản ứng được điều kiện hóa, nhưng thói quen có hoàn toàn đồng nghĩa với phản xạ có điều kiện hay không? 
Có thể nói, nếu như thói quen là một “tiểu ứng dụng” thì phản xạ có điều kiện chính là các mã số trong nó, mối quan hệ giữa chúng chỉ đơn giản là giữa chỉnh thể và bộ phận mà thôi. Sau khi phân tách thói quen ra thành nhiều phần, ta sẽ thấy những phần nhỏ ấy chính là các phản xạ có điều kiện. 
Watson đã đưa ra giả thiết về phản xạ có điều kiện như sau: điện giật sẽ gây ra hoạt động ở chân, nhưng sau khi được điều kiện hóa, chỉ cần dùng hình tròn để kích thích lên thị giác cũng có thể khiến chân vận động tương tự. Đây chỉ là một “mã số” rất nhỏ, nhưng nếu đặt một số
lượng lớn các mã số tương tự lại cùng nhau, chúng sẽ hợp thành một mê cung lớn. 
Khi hình tròn kích thích lên thị giác, phản ứng của người tham gia thực nghiệm không phải là rụt chân lại, mà là bước sang phải một bước. Sau khi bước sang phải một bước, người đó nhìn thấy hình vuông, anh ta bước lên phía trước năm bước. 
Sau khi bước lên phía trước năm bước, lại xuất hiện kích thích là hình tam giác, lúc này phản ứng của anh ta là bước sang phải hai bước. Tiếp theo là hình lập phương, phản xạ có điều kiện của anh ta trước kích thích này là bước lên phía trước ba bước. 
Trên thực tế, tổ hợp các phản xạ có điều kiện trước kích thích hình học kiểu này không phải hiếm gặp trong cuộc sống, ví dụ điển hình nhất là khi ta nhìn thấy các biển hiệu chỉ đường được treo hoặc đánh dấu trên mặt đất trong một công trình xây dựng nào đó. 
Chúng ta có thể tự ý sắp xếp những tổ hợp phản xạ có điều kiện này để hoàn thành lộ trình mà bản thân mong muốn. Trong kinh doanh cũng tương tự, một cỗ máy có thể được bán ra riêng lẻ, nhưng nó sẽ không thể hoạt động được nếu thiếu các phụ kiện đi kèm như pin hay bộ sạc. Hơn nữa, do đặc thù của cỗ máy cần bảo dưỡng cẩn thận trong quá trình sử dụng, vì vậy ta tiếp tục phải mua thêm những sản phẩm bảo dưỡng khác. Ví dụ, rất nhiều người săn đón vòng đeo tay thông minh Xiaomi, nhưng nếu chỉ mua mỗi vòng đeo tay thông minh Xiaomi thôi sẽ phát hiện có vài chức năng không hoạt động được, muốn chúng hoạt động thì phải mua điện thoại Xiaomi, sau đó còn phải tải ứng dụng về điện thoại… Tất cả những việc này thật ra đều là một chuỗi liên hoàn các phản xạ có điều kiện, bởi vậy mà những phản ứng dây chuyền đã tập hợp lại để trở thành một “mini-program”.
Theo phương pháp này, các hoạt động thường ngày của con trẻ như tập viết, đánh đàn… đều có thể phân tách ra thành vô số phản xạ có điều kiện. Từ đó, để tạo ra các phản xạ có điều kiện, cha mẹ có thể tác động sao cho quá trình hình thành phản xạ ở trẻ phát triển theo định hướng vạch sẵn, nói cách khác, đằng sau quá trình thiết lập thói quen của con trẻ luôn có bàn tay điều khiển của người lớn, không cho phép quá trình này đi lệch khỏi quỹ đạo đã định trước. 
Để dễ hình dung hơn, ta có thể coi thói quen giống như một bàn cờ, trong đó mỗi phản xạ có điều kiện đều là một nước đi của quân cờ, vậy nhưng chúng ta lại thường quên mất rằng, trên bàn cờ ấy luôn tồn tại một bàn tay thao túng - là sự kiểm soát của chính chúng ta. 
Trong xã hội này, những khuôn mẫu phản ứng phức tạp đều do con người thiết lập nên và được đa số mọi người tuân theo một cách kiên định, chẳng hạn như việc sắp xếp từ ngữ trong từ điển theo thứ tự bảng chữ cái, hay việc bóng golf hoặc bóng tennis đều có một trình tự chung: đầu tiên là được gậy hoặc vợt đánh trúng, sau đó bay đi theo một hướng xác định, cứ như thể đó là định mệnh cố định của chúng vậy. 
Còn với những sự việc không được định trước thì sẽ thế nào? Ví dụ, một người nọ đi bộ từ nhà đến bãi biển, lộ trình của người đó diễn ra như sau: 
1. Đầu tiên, đi đến mạn bên phải của một ngọn đồi nhỏ. 2. Dưới chân đồi có một dòng suối, cần lội qua suối để đi tiếp. 3. Sau khi lội qua suối, cần đi qua một khu rừng âm u. 4. Tiếp theo là con sông đã cạn nước, đi dọc theo bờ bên trái của con sông thêm một đoạn. 
5. Đi thẳng qua trang trại nuôi bò. 
6. Khi thấy một vườn liễu tức là sắp đến đích.
Mỗi một điều kể trên đều là một kích thích gợi lên phản ứng từ thị giác, người bộ hành sẽ dựa theo những kích thích đó để lựa chọn phương hướng hoặc quyết định lộ trình tiếp theo. Tóm lại, những phản xạ có điều kiện nối tiếp nhau liên hoàn, tạo thành từng thói quen của con người. Việc thử phân tách chúng ra để giải thích vốn không hề dễ dàng, tuy nhiên chúng ta vẫn hoàn toàn có thể thu gọn quá trình phức tạp đó về một thuật ngữ đơn giản, “biến phức thành giản” luôn là một môn nghệ thuật tinh vi. 
Quan sát và suy đoán 
Qua cử động của mắt, ta có thể đoán biết đối phương đang nghĩ gì. Khi có người hỏi “Tối hôm qua ăn gì?”, nếu bạn để ý sẽ thấy, cùng lúc với việc cố gắng hôi tưởng, mắt của người được hỏi sẽ vô thức nhìn hướng lên trên, điều này biểu thị rằng họ đang suy nghĩ lại sự việc. Theo nghiên cứu của các nhà sinh lý học thần kinh, vô thức nhìn lên trên trong khi đang suy nghĩ là hành động nhằm tránh những sự vật khác lọt vào tầm mắt, gây nhiễu loạn dòng suy tưởng. Nhưng vì sao họ không lựa chọn nhìn sang hai bên hoặc nhìn xuống dưới? Đó là bởi nếu nhìn sang hai bên sẽ khiến đối phương hiểu nhầm là đang từ chối trả lời, nhìn xuống dưới lại giống như biểu hiện của sự nghi hoặc, chưa hiểu, vậy chỉ còn cách nhìn lên phía trên. 
Hơn nữa, chúng ta còn có thể căn cứ vào vị trí mà ánh mắt của đối phương hướng đến để phán đoán xem lời nói của họ có phải thật lòng hay không. Nếu đang nhớ lại việc cũ, mắt sẽ nhìn lên phía trên bên trái, còn nếu là tưởng tượng ra một việc nào đó, mắt sẽ nhìn lên phía trên bên phải. Trường hợp phía sau có thể chứng tỏ là đối phương đang nói dối. Ngoài ra, khi liên tưởng đến một trải nghiệm mà bản thân từng có, như một bản nhạc từng nghe chẳng hạn, mắt sẽ nhìn xuống phía dưới bên
trái; nếu hồi tưởng lại một trải nghiệm không vui, mắt sẽ nhìn xuống phía dưới bên phải. Cũng chính vì những “cử động biết nói” này mà người ta mới có câu “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”.
Chương 4 
Tiềm năng của cơ thể con người 
Đừng lừa mình dối người bằng những lý do như “thiên phú” và “bản năng” 
Từ bao lâu nay, chúng ta vẫn luôn bị che mắt bởi những từ như “thiên phú” hay “bản năng”, chúng ta tin rằng một đứa trẻ tự bản thân nó đã có tiềm năng to lớn nào đó, tin rằng nhân tố di truyền có ảnh hưởng mạnh mẽ, thậm chí mang tính quyết định đối với cuộc sống sau này của một đứa trẻ. Tuy nhiên thực tế không phải vậy, mặc dù bản thân đứa trẻ được thừa hưởng những nhân tố di truyền nhất định, song chúng có thể hoàn toàn phát huy được hay không còn phụ thuộc vào ảnh hưởng từ môi trường phát triển.
Niềm tin mù quáng vào hai chữ “thiên phú” 
Phá vỡ quan niệm “rồng sinh ra rồng, phượng sinh ra phượng” 
Niềm tin mù quáng của mọi người vào hai chữ “thiên phú” chính là thứ gây tổn thương sâu sắc cho những đứa trẻ bất hạnh. Việc phóng đại tầm quan trọng của “thiên phú” đã trở thành cái cớ để người lớn thoái thác nhiệm vụ giáo dục con trẻ. Nếu chúng ta sớm tạo dựng cho trẻ một môi trường phát triển tốt, vậy những nhân tố di truyền sẽ không còn là hòn đá cản đường cho việc giáo dục trẻ nữa. 
• • • 
Chúng ta luôn có niềm tin mạnh mẽ vào “thiên phú”, giống như câu nói mà đến ngày nay ta vẫn thường được nghe “rồng sinh ra rồng, phượng sinh ra phượng”. Bất kể là thiên tài hay là kẻ tội đồ, mọi người đều chụp cùng một chiếc mũ lên con cháu đời sau của họ. Chúng ta có thể hiểu vấn đề này rõ hơn qua câu chuyện sau đây. 
Có một tổ chức từ thiện nọ chuyên trợ giúp con cái của những phạm nhân phạm tội hình sự. Khi mới thành lập, họ từng gặp vô vàn khó khăn, từng phải nghe những câu bỉ bôi không thể lý giải nổi của người khác như “Bao nhiêu trẻ em khó khăn ở vùng sâu vùng xa thì chẳng quan tâm, lại đi quan tâm đến mấy đứa trẻ hư hỏng làm gì không biết.”
Tổ chức từ thiện đó bắt đầu hoạt động từ năm 1996 đến nay. Trong số những đứa trẻ được cứu trợ có không ít người ưu tú, có người đã trở thành nghiên cứu sinh, còn số người có công ăn việc làm, tự nuôi sống bản thân thì càng nhiều hơn nữa. Họ có thể thành gia lập nghiệp, sống một cuộc đời lành mạnh và bình thường như bao người khác. Cái nhìn thành kiến toát ra từ cách gọi “đứa trẻ hư hỏng” năm nào, giờ đây đã bị thực tế “quật” cho thê thảm. 
“Rồng sinh ra rồng, phượng sinh ra phượng”, đây rốt cuộc chỉ là sự phóng đại quá mức ảnh hưởng của nhân tố di truyền mà thôi. Nếu không phải, vậy chúng ta giải thích thế nào về việc biết bao đứa trẻ là con của danh nhân thành đạt, dù hoàn toàn không ưu tú như những gì người ta tương tượng nhưng vẫn đương nhiên thừa kế sự nghiệp của cha ông? Hay trường hợp khác, trên thực tế có biết bao người cha người mẹ thân là giáo viên nhưng vẫn phải ôm đầu phiền não về việc học của con mình. Bởi vậy, nếu chỉ cường điệu ảnh hưởng của di truyền thì rõ ràng là không thỏa đáng. 
Các nhà di truyền học có lẽ sẽ phản bác thế này, “Chẳng lẽ bạn cho rằng gen của cha mẹ không ảnh hưởng gì đến khả năng thiên phú ở trẻ hay sao? Chẳng lẽ những đứa trẻ khi mới sinh ra vốn chẳng có gì khác nhau hay sao?” 
Đương nhiên, chúng tôi không phủ nhận sự khác biệt của nhân tố di truyền như màu da, đôi mắt, mái tóc, bệnh tật… Tất cả chúng đều là di truyền cả. Nhưng đây chỉ là một vài đặc điểm dễ nhận thấy bằng mắt thường, ngoài ra còn có rất nhiều đặc điểm sinh lý khác, nếu không được kích hoạt bởi hoàn cảnh đặc biệt nào đó sẽ vĩnh viễn không thể bộc phát ra ngoài. Tất nhiên chúng ta được thừa hưởng rất nhiều đặc điểm di truyền từ cha mẹ, nhưng thứ quyết định xem những đặc điểm đó có được thể hiện ra hay không lại chính là các kích thích mà chúng ta tiếp nhận từ môi trường. Ví dụ, cánh tay khỏe mạnh của một vận động viên, cơ bắp
và thân hình chuẩn mực của một người mẫu, hay một người nhân viên văn phòng chỉ suốt ngày vùi mình vào công việc… Giữa môi trường sống và sự khác biệt trong kết cấu sinh lý của họ có mối quan hệ mật thiết với nhau. 
Đó là trên phương diện sinh lý, vậy trên phương diện tâm lý thì sao? Chúng ta từng không ít lần được nghe câu nói: Con cái là tấm gương phản chiếu cha mẹ. Tuy nhiên, “tấm gương” này không phải những gì có từ cơ thể người mẹ, mà là đặc điểm được hình thành do quá trình đứa trẻ nhìn thấy và học theo từ môi trường quanh nó. Thật vậy, rất nhiều đứa trẻ có tính tình giống cha mẹ y đúc. Hơn nữa, chúng ta cũng có thể thấy không ít người vượt trội hơn cha mẹ họ, bất kể là thành tựu hay tính cách. Nếu nói di truyền là nhân tố quyết định, vậy sự phát triển của loài người từ sớm đã dừng lại mà chẳng thể tiến bộ được như ngày nay, bởi khi đó chúng ta luôn ở trong trạng thái như dây rốn chưa đứt, rất khó để tự thân tạo dựng cuộc sống mới cho riêng mình. 
Sở dĩ chúng ta có quan niệm này, suy cho cùng cũng là vì môi trường sống của đại đa số mọi người đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gia đình. Họ vẫn chưa thể thoát khỏi vòng ảnh hưởng mang tên “gia đình” để bước ra ngoài, hòa mình trong vòng ảnh hưởng rộng lớn của xã hội. Những gì họ tiếp nhận chỉ là kích thích mang tính cục bộ, cuối cùng dẫn đến tình trạng “ếch ngồi đáy giếng”. Những gia đình quý tộc thời xưa thường hiểu rõ làm sao để dạy dỗ con cái cho tốt, cha mẹ không cần ngày ngày kèm cặp con, mà từ việc nhỏ nhất là đi tiểu tiện cũng để con tiếp xúc với những người khác, như bảo mẫu hoặc các gia nhân, thậm chí là hòa thượng trong chùa. Lớn thêm một chút, đứa trẻ sẽ được tiếp xúc với thầy giáo ở trường tư thục. Tóm lại, đứa trẻ có thể giao tiếp với đủ kiểu người khác nhau, như vậy có thể tránh được tình trạng chỉ chịu ảnh hưởng của các thành viên trong gia đình mà hình thành tính cách cố chấp, nhỏ mọn.
Về điểm này, chúng ta cũng có thể nhận ra nếu xem kĩ tác phẩm Hồng lâu mộng.* Trong số những người thân cận từ nhở của Giả Bảo Ngọc, bà nội là nhân vật quan trọng nhất, hơn nữa cậu còn thân thiết với các người hầu trong phủ. Mối quan hệ với thầy không mấy tốt đẹp, song cậu vẫn đọc sách dưới sự dạy dỗ của ông. Ngoài ra cậu còn có bạn chơi cùng từ nhỏ. Bởi vậy, mặc dù bị coi là ngang bướng, cậu vẫn là một chàng trai có tính cách vô cùng hoạt bát, cởi mở. Trong khi đó, Lâm Đại Ngọc trong truyện có thể coi là một người sâu sắc, tinh tế, từ nhỏ thân thể đã yếu đuối. Cô cũng được thầy kèm học, nhưng nếu kể đến các mối quan hệ thân thiết thì có lẽ chỉ có mẹ thôi. Bởi cô không được tiếp xúc với nhiều kiểu người khác nhau, nên tự nhiên vòng giao tiếp nhỏ hẹp ấy đối với cô chính là cả cuộc sống, ảnh hưởng của nó lên tính cách của cô cũng vô cùng to lớn. Tựu trung lại, phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau, ta mới nhìn thấy xã hội rộng lớn đến mức nào, mới có được tấm lòng bao dung, hào phóng. 
Có những người ở nhà thì tính tình cục cằn, nhưng chỉ cần bước vào một tập thể lành mạnh như các hội đọc sách, các đoàn thể âm nhạc, câu lạc bộ nhiếp ảnh hay các nhóm du lịch… đã hoàn toàn thay đổi. Sau khi kết nối cùng những người có tính cách khác nhau, họ cũng thoát ra khỏi trạng thái khép kín trước đây, không còn cố chấp giữ cái tôi ngày trước. Dưới kích thích từ môi trường bên ngoài, họ dần dần trở thành một người vui vẻ, lạc quan và tích cực. 
Quan sát và suy đoán 
Đối phương nhắm mắt lại, liệu có phải không chú tâm nghe tôi nói hay không? 
Trong một buổi hẹn với đối tác hay khách hàng, khi bạn đang giới thiệu sản phẩm thì họ vừa nghe vừa nhắm mắt lại. Lúc này, có thể bạn sẽ
bắt đầu hoang mang: liệu người đó có đang chú tâm nghe mình nói không nhỉ? 
Thực ra, khi đối diện với một vấn đề quan trọng hoặc khi phải đưa ra một quyết định lớn nào đó, việc nhắm mắt lại là một hành động hết sức bình thường. Vì lúc này, họ phải tập trung suy nghĩ, không muốn bị nhiễu loạn bởi những tác động bên ngoài, nên tự động nhắm mắt để ngăn cách bản thân với thế giới. 
Đương nhiên vẫn còn một khả năng khác, đó là đối phương không muốn chúng ta nhìn thấu tâm lý của họ. Tâm tư con người rất dễ lộ ra qua đôi mắt, từ đó người nói có thể phát hiện và đoán biết xu hướng tâm lý của người nghe. Tóm lại, việc đối tác nhắm mắt lại khi nghe bạn giới thiệu sản phẩm có khả năng là anh ta đang suy nghĩ làm sao để thu lợi về cho công ty của mình.
Ảnh hưởng đến từ hoàn cảnh 
“Mặc Tử buôn thương tơ nhuộm màu, lông cừu trắng muốt sách ngợi ca”* 
“Cỏ mọc trong bụi cây, không cần chăm cũng tự lớn”, Tuân Tử* từ lâu đã nhấn mạnh sức ảnh hưởng không thể coi nhẹ của hoàn cảnh lên đời sống con người. Thật vậy, mặc dù có những người luôn giữ được mình trong sạch, không bao giờ chấp nhận để bản thân sa ngã theo người khác, nhưng trên thực tế không phải ai cũng có thể làm được như thế. 
• • • 
Thiên tự văn cũng từng nhấn mạnh sự quan trọng của hoàn cảnh đối với con người, “Mặc Tử buồn thương tơ nhuộm màu, lông cừu trắng muốt sách ngợi ca”, câu thơ nói lên sự tiếc nuối khi tơ tằm trắng bị nhuộm, không thể trở về màu sắc tinh khôi thuở đầu nữa, trong khi đó bộ lông cừu trắng muốt lại trở thành thứ quý hiếm được ca ngợi khắp thế gian. Thời xưa là vậy, còn người thời nay cũng có cách nói mang hàm ý tương tự, “Thường đi dọc bờ sông, nào có chuyện không ướt giày cho được?” 
Tuy nhiên, cũng từng có một nhà thơ Pakistan nói rằng: “Dù có chìm trong vạc mực nhuộm, vẫn giữ thân mình vĩnh viễn thanh cao.” Chúng ta không thể phủ nhận sự tồn tại của khả năng này, song dưới kích thích từ môi trường và hoàn cảnh, giữ gìn trái tim vẹn nguyên như lúc đầu là việc không hề đơn giản.
Mỗi năm, có không ít trẻ em đáng lẽ phải được sống đúng như lứa tuổi của chúng - một cuộc sống hồn nhiên vô tư, không vướng bận lo nghĩ, thì ngược lại đi vào con đường phạm tội, trở thành những con người sa ngã khi chỉ mới ở độ tuổi thiếu niên, để rồi từ đó cả bầu trời tương lai chỉ toàn mây đen mù mịt. Trên thực tế, việc bộc phát khuynh hướng phạm tội trong nội tâm của một người vốn không có liên quan mật thiết đến di truyền. Con người vốn là một chỉnh thể gồm những mảnh ghép tính cách vô cùng phức tạp, và thông thường, chính môi trường xấu bên ngoài là nhân tố kích hoạt những mảnh ghép tiêu cực trong số đó. 
Trong xã hội này, những vấn đề liên quan đến khuynh hướng phạm tội vẫn luôn đòi hỏi chúng ta phải đi sâu tìm hiểu. Có những đứa trẻ mồ côi hoặc phải ăn nhờ ở đậu nhà người khác, hoàn cảnh sống như vậy khiến đa số chúng thiếu đi tình yêu thương và quan tâm của cha mẹ. Từ đó, bên trong những tâm hồn non nớt ấy bắt đầu hình thành vết sẹo do tổn thương, thậm chí có trường hợp hình thành tâm lý méo mó. Đương nhiên, cũng có một số đứa trẻ cảm thấy xấu hổ vì người trong gia đình là kẻ phạm tội, bởi chúng nhận ra những ánh mắt khinh miệt, lạnh lùng mà người khác dành cho chúng. Những ánh mắt ấy không khác nào những nhát dao vô hình cứa vào tâm hồn, khiến chúng chỉ còn cách khép chặt cánh cửa lòng mình trong cô độc. Từ đó, những hạt giống thúc đẩy con người phạm tội như cảm xúc ức chế, cực đoan, kích động… bắt đầu mọc rễ sâu bên trong những tâm hồn thơ dại. 
Trong cuộc sống của những đứa trẻ này, khi cảm giác thiếu thốn tình yêu biến thành cảm giác thiếu thốn một nơi để thuộc về, chúng sẽ không còn ôm trong lòng bất cứ hy vọng nào nữa, tiếp đó sẽ tự nhiên nảy sinh tâm lý muốn tự hủy hoại bản thân, tự bỏ rơi bản thân. 
Mà sự khắc nghiệt của hiện thực còn nằm ở chỗ, có không ít người đánh giá việc một đứa trẻ được giáo dục ra sao theo cái cách mà họ đánh
giá những sự việc khác, đó là dựa vào tưởng tượng mà đưa ra suy đoán. Ví dụ, người ta thường nhìn nhận một người có phong độ nhẹ nhàng, thanh lịch là người xuất thân cao quý, còn đối với một đứa trẻ bướng bỉnh, quái đản, họ có thể sẽ nói “Chắc bố nó/ông nó cũng như thế”. 
Kiểu suy đoán phiến diện và tàn nhẫn này đã trực tiếp gán việc giáo dục trẻ với các nhân tố di truyền và gia cảnh. Và trên thực tế, đó không chỉ là cách nghĩ hết sức hoang đường, mà còn coi nhẹ những ảnh hưởng to lớn mà môi trường sống và xã hội mang lại cho đứa trẻ ấy. 
Quan sát và suy đoán 
Đột nhiên chỉnh lại cà vạt, hành động này mang ý nghĩa gì? Khi giao tiếp trực diện, nếu đối phương đột nhiên chỉnh lại cà vạt, có thể bạn sẽ bắt đầu căng thẳng và bối rối, “Chẳng lẽ lời mình nói làm họ thấy vô vị sao?” 
Thật ra, đây là biểu hiện cho thấy đối phương đang lo lắng, hoặc một khả năng khác là trước đó họ trầm tư không nói nhưng bây giờ họ bắt đầu muốn phá vỡ sự im lặng ấy rồi. 
Trước đó, sự chú ý của họ đều tập trung vào việc nghe những lời bạn nói, nhưng lúc này họ thấy đã đến lượt bản thân nêu ý kiến. Hành động này theo lý thuyết gọi là “tâm lý tự gây chú ý”, giống như khi mèo tự liếm láp bộ lông của nó, hay như chim tự rỉa bộ cánh của mình. Sau khi đã chỉnh trang xong bộ dạng của bản thân mới bắt đầu mở lời, đó chỉ đơn giản là hành động nhằm thu hút sự chú ý của đối phương lên mình mà thôi.