🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Lý Học Chuyên Sâu: Ý Thức Và Những Tầng Sâu Vô Thức Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Mục lục 1. Lời nói đầu 2. Dẫn nhập 3. Chương 1 4. Chương 2 5. Chương 3 6. Chương 4 7. Chương 5 8. Chương 6 9. Chương 7 10. Chương 8 11. Chương 9 12. Chương 10 13. Chương 11 14. Chương 12 15. Chương 13 16. Chương 14 17. Thuật ngữ tâm lý học chuyên sâu 18. Sách tham khảo chọn lọc và giới hạn https://thuviensach.vn Lời nói đầu Cho lần xuất bản thứ ba (2017) Tập sách Tâm lý học Chuyên sâu in lần thứ ba này là một nghĩa cử của niềm vui và lòng biết ơn của soạn giả đối với quý bạn đọc đã ưu ái đón nhận tập sách này qua hai lần xuất bản trước đây (2005 và 2006). Một bạn đọc từng sinh sống trong một truyền thống văn hóa bảo căn, sau khi tiếp cận được những nội dung của tập sách này, đã thân tình gửi cho tác giả một bức thư diễn tả niềm vui và sự biết ơn, bởi nhờ tập sách này mà đã thấy được con người thật của mình, nhìn ra được nơi mình những năng lực đen tối khuynh đảo, nhưng đồng thời cả những năng lực tích cực đầy tính nhân văn, trung thực và tâm cảm giúp giải phóng bản thân và sáng tạo nhìn về một tương lai chung hòa đồng. Trong lần tái bản này, chúng tôi bổ sung và chỉnh sửa một số từ ngữ, nhưng những phần nội dung lý thuyết và thực hành thì vẫn giữ nguyên như trong dịp xuất bản lần thứ hai. Cũng vì thế, Lời nói đầu trong lần tái bản này có phần “phi chính thống”, bằng cách mở rộng tầm nhìn từ hệ thống tâm lý cá nhân đến hệ thống tâm lý đoàn thể và xã hội, cùng với những niên kỷ song song với niên kỷ 2017 của lần tái bản này. Công việc mở rộng như thế cũng mong ước có được sự cộng tác của quý bạn đọc qua suy nghĩ, kinh nghiệm và góp ý. 2017 quả là một niên kỷ đáng ghi nhớ trong một phần lịch sử xã hội của chúng ta. Chúng tôi xin gợi ý đến chỉ một vài sự kiện ít nhiều có thể phần nào liên quan đến nội dung của tập sách Tâm lý học Chuyên sâu này. • Biến cố “thệ phản” (“protestant”: tên gọi đầu tiên của người Tin Lành): Năm 1517, Martin Luther (1483 – 1546), một tu sĩ Công giáo, với 95 luận điểm về ân xá và sám hối, đã phản kháng Giáo hội Công giáo Roma về những điều ông cho là sai lầm trong đức tin và trong đạo đức thực hành. Điểm tích cực cơ bản của Luther là phải trở về với nguồn Kinh thánh, đón nhận Thượng đế như một vị thẩm phán tối cao, nhưng đồng thời cũng là một vị Chúa muôn vàn nhân hậu. Về đạo đức xã hội, Luther còn có một số nhược điểm, như việc ông lên án phong trào giải phóng nông dân hay lên án dân Do https://thuviensach.vn Thái đã giết chết Đức Jesus. Nhưng tựu trung, trong một thời đại và một xã hội trung cổ, Martin Luther đã can đảm biểu dương sự phản kháng và nêu cao sự tự do của người tin Chúa. Tinh thần “phản kháng” và sự yêu chuộng “tự do” là những năng lực cơ bản đầu tiên của Tư trào khai minh, của sự Tự xác định chính mình, của sự Thành toàn Tự ngã. Năm 2017, các tôn giáo và các xã hội công dân, cách riêng ở châu Âu, trong đó có cả sự hiện diện của Đức Giáo chủ Franziscus của Giáo hội Công giáo toàn cầu, đã cùng nhau mừng kỷ niệm 500 năm biến cố “thệ phản” (1517 – 2017) của con người vươn lên vóc dạng trưởng thành, trong hân hoan và trong khiêm hạ, trong tự lập tự chủ và trong bao dung đồng cảm với mọi người trong mọi nền văn minh, văn hóa và tôn giáo. • Phong trào sinh viên “phản kháng” thập niên 60 với phát súng mào đầu năm 1967: Phong trào “phản kháng” của giới sinh viên dậy sóng nổi lên trên rất nhiều thành phố và thủ đô trên thế giới: Berlin, Frankfurt, München, Paris, New York, Washington, London, Tokyo, Praha… Phát súng mào đầu xảy ra tại Berlin năm 1967 do viên cảnh sát Karl-Heinz Kurras bắn chết sinh viên Benno Ohnesorg trong một cuộc biểu tình của sinh viên nhân cuộc thăm viếng của vua Reza Pahlawi nước Ba Tư (Persia, Iran) tại Berlin ngày 02-06- 1967 và được thành phố đón tiếp vô cùng trọng thị. Reza Pahlawi là một ông vua chuyên chế, độc tài, khét tiếng với chế độ mật vụ Savak và các sắc luật đặc thù tiêu diệt mọi phần tử đối kháng, chủ trương bóp nghẹt trong trứng nước mọi ý kiến và chủ trương khác chiều. Cái chết của sinh viên Ohnesorg và việc viên cảnh sát Kurras bắn chết người không bị hề hấn gì, đó là sự kiện mào đầu cho phong trào phản kháng của sinh viên lập tức tràn khắp cả nước Đức và việc thành lập nhóm đối lập ngoài quốc hội. Các sự kiện, nguyên do và biểu hiện của phong trào sinh viên phản kháng này từ đây được kết hợp, đào sâu, mở rộng: chiến tranh ở Việt Nam gia tăng, cuộc chiến 6 ngày ở Israel khốc liệt, chính sách vũ trang và quân sự hóa với bom nguyên tử ở Đức được đề xướng… Phản kháng lan vào những lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội: chống đối các xu hướng chuyên quyền, bảo căn, duy truyền thống, nặng quy ước, ức chế tình dục… Phản kháng cũng đi tìm những mẫu hình xã hội mới, những nhân vật trí thức gương mẫu mới, nhưng ở đây và trong thời kỳ truyền thông thế giới còn hãn hẹp này, phong trào phản kháng cũng đã gặp phải những giới hạn lịch sử của nó… https://thuviensach.vn Năm mươi năm sau thời kỳ nổi dậy của phong trào sinh viên phản kháng (1967 – 2017), báo chí và công luận đã rất kiệm lời về sự kiện này. Một độc giả tờ nhật báo Frankfurter Rundschau (13-06-2017) tự đặt câu hỏi: “Cảm xúc sinh động của phong trào phản kháng thập niên 60 trước đây còn để lại gì nơi tôi trong thời kỳ điên dại ngày nay này làm cho tôi còn khả năng chống đối? […] Có lẽ những mẫu gương xưa kia có thể giúp ích gì chăng?”. Tâm lý học Chuyên sâu có đề cập đến những năng lực điều động, tạo hình, khuynh đảo, phối kết, sáng tạo… Có thể chăng tổ chức được những buổi hội luận, với sự đóng góp bằng kinh nghiệm và kiến thức của những người hoạt động xã hội và những người chuyên khoa tâm lý học, để trao đổi thêm về những vấn đề này? • Hai vị tổng thống tân cử đầu năm 2017: Tổng thống Donald Trump (USA) và Tổng thống Emmanuel Macron (Pháp). Chúng tôi nghĩ phần lớn, nếu không phải là tất cả quý độc giả, trong thời gian qua đã nhận định được những năng lực điều động và tạo tác con người, tính tình, nhân cách và chương trình hành động của hai vị tân tổng thổng này. Bên cạnh con người doanh nghiệp tỉ phú đầy cá tính của Tổng thống Trump cho một America First, là Tổng thống Macron, con người nhân văn đầy giao cảm, cùng với những dự án xây dựng lớn cho một Liên hiệp châu Âu, Liên hiệp các nước trên thế giới, trong một môi trường Tự nhiên trong sạch và hòa đồng. Nhiều bài thông tin và nghiên cứu cho biết bối cảnh giáo dục và đào tạo về văn học, chính trị và quản trị quốc gia của Tổng thống Macron. Một số nguồn tin cho biết thêm: Tổng thống Macron còn thừa hưởng được cả một ngành triết học đương đại: Nhiều năm học Triết ở Đại học Paris-Vincennes trong thời gian Paul Ricoeur giảng dạy nơi đây, Macron còn là trợ lý biên tập cho tác phẩm lớn Ký ức, Lịch sử, Bỏ quên (La mémoire, l’histoire, l’oubli) của Ricoeur. Một số bài viết trên các thông tấn gần đây còn mang đề từ: Một triết gia tại điện Élysée?, Emmanuel Macron – Tổng thống triết gia?. Một số cảm hứng triết học chính trị Macron nhận được từ Paul Ricoeur, như: kết nối đạo đức và chính trị, đối thoại và hành động, khống chế tàn bạo và bảo trợ người yếu kém, thực tiễn và viễn tượng, utopie [ảo tưởng, huyền tưởng] không phải là một thoát ly, nhưng là là một chân trời… Có một tác phẩm lớn viết về người thầy triết học Paul Ricoeur giúp ta thấy rõ thêm ảnh hưởng triết học của Paul Ricoeur trên tư tưởng và hành động của Tổng thống Macron: Một nền “Nhân học triết học theo Paul Ricoeur – Từ con người có thể lỗi https://thuviensach.vn lầm đến con người năng lực”. Những năng lực điều động, khuynh đảo, phối kết, tác tạo con người như được diễn tả thông qua trường hợp tiêu biểu của hai vị tân Tổng thống Trump và Macron trên đây cũng đã được trình bày trong tập sách Tâm lý học Chuyên sâu này. Tác phẩm Nhân học triết học theo Paul Ricoeur nói trên là do Jean Greisch, một học trò, một người bạn, một đồng nghiệp giáo sư triết học của Ricoeur biên soạn, và chúng tôi hân hạnh là người biên dịch sang tiếng Việt. Công trình biên dịch sẽ được ra mắt bạn đọc trong thời gian tới. Chúng tôi kết thúc Lời nói đầu ở đây và cầu chúc quý bạn đọc thật nhiều niềm vui với tác phẩm tái bản Tâm lý học Chuyên sâu bạn đọc đang cầm trên tay. Lưu Hồng Khanh https://thuviensach.vn Dẫn nhập A. NHỮNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC LỚN Ngày thứ Hai 26-06-2000, một sự kiện được dư luận quốc tế đánh giá như một cuộc cách mạng khoa học lớn hiện đại. Cùng một lúc, từ các thủ đô Washington, Tokyo, Berlin và Paris, các chính khách cao cấp nhất cùng với các nhà sinh học đã công bố kết quả của 50 năm nghiên cứu trong ngành Nhân-sinh-học: Đó là thành tựu về khả năng giải mã đến trên 90% “Hệ gene” (Gene System) hay “Hệ di truyền” (Human Genom System) của con người. Thành tựu khoa học này hàm chứa nhiều hệ quả tích cực rất lớn cho tương lai của con người trong những lĩnh vực quan trọng như nhân chủng, giáo dục, y khoa... bằng cách chữa trị, thay thế và ưu việt hóa toàn thể “Hệ gene” của con người. Bên cạnh những khám phá khoa học lớn của con người trên ngoại giới về vũ trụ (hệ mặt trời, vũ trụ giãn nở, thám hiểm không gian), vật lý (thuyết tương đối, thuyết lượng tử, thế giới hạ nguyên tử – subatomic), sinh học (hệ gene, tế bào gốc, nhân dòng vô tính)... còn có những khám phá khoa học cũng vô cùng lớn lao trên nội giới của con người: Đó là những khám phá về “Hệ tâm lý” hay “Tâm thức chuyên sâu” của con người từ những thập niên giữa thế kỷ 20. Các nhà tư tưởng đã nói về “Ba cuộc khám phá lớn” trong lịch sử nhân loại: Cuộc khám phá lớn thứ nhất thay đổi trung tâm của vũ trụ đi từ trái đất đến mặt trời; cuộc khám phá lớn thứ hai thay đổi trung tâm của chủng loại sinh vật đặt con người vào trong toàn thể tiến trình phát triển và tiến hóa của thế giới sinh vật; và cuộc khám phá lớn thứ ba là sự thay đổi trung tâm tâm thức của con người đi từ chóp mô ý thức nhỏ bé và gián đoạn đến một hệ tâm thức cao sâu và dày rộng gồm ý thức, vô thức và siêu thức. Khám phá khoa học lớn lao về hệ tâm thức này là thành tựu của các công trình tư duy, nghiên cứu và thực hành tâm lý trị liệu của Sigmund Freud (1856 – 1939) và nhất là của Carl Gustav Jung (1875 – 1961) cùng những trường phái “Tâm lý Chuyên sâu” hoặc “Tâm lý Siêu cá nhân” (Transpersonal Psychology) tiếp nối công trình và sự nghiệp của C.G. Jung. https://thuviensach.vn Hệ Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung đã giúp con người nhìn ra được những chiều kích tâm thức kín ẩn sâu xa từ trong vô thức – không những vô thức cá nhân mà nhất là vô thức tập thể, đồng thời cũng giúp con người nhìn thấy được những khả năng và những tiềm lực, sinh năng lượng và sức sáng tạo của chính mình để tìm cách thể hiện bản thân. Hai tư tưởng, đồng thời cũng là đóng góp lớn của C.G. Jung là tư tưởng về vô thức tập thể, nhất là thông qua trung gian các hình ảnh, biểu tượng và mẫu tượng (archetypen, archetypes); tư tưởng và đóng góp lớn thứ hai là tư tưởng và phương pháp về sự phát triển tâm thức, thông qua các tiến trình hội nhập và thể hiện thành toàn căn tính, bản vị, cuộc sống, chính “Tự ngã” (selbst, self) của con người. B. CHỦ ĐÍCH VÀ PHƯƠNG THỨC CỦA CÔNG TRÌNH BIÊN SOẠN Tư duy, nghiên cứu và thực hành tâm lý trị liệu của C.G. Jung là một công trình khoa học. Hai nguyên tắc khoa học căn bản của C.G. Jung là tư tưởng phải được kiểm chứng và sự thực của thực tại phải vượt lên trên mọi biên giới ý thức hệ, dẫu là ý thức hệ chính trị, văn hóa hay tôn giáo. Chính với hai nguyên tắc khoa học này mà C.G. Jung – tuy rất giàu trực kiến và cảm xúc – đã từng bắt đầu cũng như đã từng kết thúc mọi suy tư và thực hành bằng các sự kiện đích thực trong cuộc sống có thể kinh nghiệm và kiểm chứng được; mặt khác – tuy xuất thân từ một nền văn hóa tập trung Âu châu (culture eurocentric) và từ một gia đình tôn giáo mà thân phụ lại là một mục sư – C.G. Jung vẫn không để mình bị chi phối bởi các định kiến ý thức hệ văn hóa hay tôn giáo, và do đó vẫn nhìn nhận sự thật của thực tại, dẫu cho sự thực đó phát xuất từ những nền văn hóa hay những tôn giáo khác. Công trình biên soạn dựa trên “Hệ Tâm thức Chuyên sâu” của C.G. Jung này nhằm chủ đích giới thiệu cho các thế hệ độc giả Việt Nam ngày hôm nay những tư tưởng và đóng góp lớn của C.G. Jung, không những với lý do cung cấp một tri thức tổng quát, mà còn nhất là để giúp độc giả nắm bắt được những nguyên lý và những phương pháp cơ bản về hệ tâm thức như một công cụ khoa học, giúp tìm hiểu và thể hiện thành toàn căn tính và cuộc sống của mình. Một trong những đòi hỏi căn bản trong công việc tìm hiểu lý thuyết và thực hành các phương pháp của hệ Tâm lý Chuyên sâu này là độc giả cũng như https://thuviensach.vn thực tập viên sẽ phải biết nắm giữ hai nguyên tắc khoa học căn bản của C.G. Jung nói trên: kiểm chứng thực tại và tôn trọng sự thật của thực tại vượt trên mọi biên giới ý thức hệ. * Một lưu ý bổ túc nhưng quan trọng Ở đây, soạn giả thấy cần phải diễn tả rõ hơn, để tránh những hiểu lầm và giúp cho một số độc giả có phần dễ dàng tìm cho mình một thái độ làm việc nghiêm túc và khoa học. C.G. Jung là một nhà khoa học trong ngành Tâm lý. Sẽ là một điều dư thừa, khi nói việc làm khoa học của một nhà tâm lý không phải là công việc chính trị của Ban Khoa giáo hay của Ban Chỉ đạo Tư tưởng; cũng sẽ là một điều quá dư thừa, khi nói việc làm khoa học của một nhà tâm lý không phải là công việc truyền giảng, biện giáo hay đấu tranh tôn giáo của một đoàn Truyền giáo hay một giáo phái, hệ phái nào. Là một nhà khoa học tâm lý, với hai tiêu chuẩn làm việc đã được trình bày là “kiểm chứng thực tại” và “tôn trọng sự thật của thực tại bất cứ từ đâu tới”, C.G. Jung đã khách quan trình thuật những sự kiện tâm lý từng xảy ra trong cá nhân cũng như trong các tập thể con người, trong xã hội người Âu cũng như người Á, Phi, Trung Nam Mỹ châu; trong Kitô giáo cũng như trong các tôn giáo khác như Phật, Khổng, Lão giáo, chứ không phiến diện tuyệt đối hóa chỉ một nền văn hóa hay một tôn giáo nào. C.G. Jung cũng khách quan sử dụng những từ thông thường của khoa tâm lý nói về những sự kiện tâm lý: dưỡng sinh là dưỡng sinh, không gọi là mê tín; thiền là thiền, không gọi là tà khí; yoga là yoga, không gọi là tà đạo. Nhà tâm lý cũng sẽ không bàn về Thượng đế như một nhà thần học, cũng sẽ tránh dùng từ Thượng đế mà chỉ nói đến “hình ảnh Thượng đế” như được xảy ra trong hệ tâm thức của con người. Điều lưu ý trên đây kể là dư thừa, nhưng trong một số hoàn cảnh nào đó, cũng là điều cần thiết. Chúng tôi mong rằng, lưu ý này sẽ “một lần đủ cả”, như người ta thường nói, để công trình biên soạn này sẽ không gây ra ngộ nhận hay tạo ra những vấn đề không cần thiết. C. NGUỒN THƯ TỊCH https://thuviensach.vn Nguồn thư tịch căn bản vẫn phải là những tác phẩm của chính C.G. Jung, như sẽ được liệt kê trong bảng thư mục ở cuối sách. Nguồn thư tịch phụ nhưng rất ích lợi và cần thiết hiện có rất nhiều qua các ấn bản với nhiều thứ tiếng trên thế giới. Chúng tôi biên soạn tập sách này dựa vào nhiều gợi ý của một số tác phẩm, từ những cộng sự viên trực tiếp của C.G. Jung như Marie-Louise Franz, Liliane Frey-Rohn, Jolande Jacobi, qua những nhà nghiên cứu, giảng dạy và thực hành tâm lý trị liệu như Murray Stein, J.J. Clarke, Verena Kast... và các tác giả khác được liệt kê trong bảng thư mục. D. VỀ MỘT SỐ TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT Từ ngữ chuyên khoa tiếng Việt trong các ngành khoa học tự nhiên, nhân văn, xã hội và tôn giáo vẫn còn là một vấn đề nan giải, bởi phần lớn đối tượng cũng như tư duy của các ngành khoa học này đều rất mới đối với một số thế hệ độc giả trong những thập niên và cả những thế kỷ vừa qua ở Việt Nam. Mặt khác, có những phiên âm và phiên dịch đã quá bị giới hạn vì những hoàn cảnh lịch sử và những ý thức hệ nhất định, làm sai lệch hoặc diễn tả không được chính xác những tư tưởng, đối tượng và các bản văn nguyên tác. Trong hoàn cảnh khó khăn của bước đầu hiện tại, chúng tôi táo bạo và liều lĩnh diễn đạt một số từ ngữ và khái niệm có thể có phần còn mới lạ, nhưng chúng tôi nghĩ là trung thực. Có một số từ ngữ tôn giáo chuyên biệt nhưng lại được phiên âm và phiên dịch khác nhau, tùy theo quan điểm hoặc truyền thống của từng giáo phái, hệ phái hoặc trường phái văn hóa và chính trị. Như từ Thiên Chúa giáo, Giatô giáo, Kitô giáo và Cơ Đốc giáo là bốn từ khác nhau để chỉ cùng một thực tại là tôn giáo phát xuất từ Đấng Christ mà nguyên ngữ Hy Lạp và La tinh là Christos và Christus. Chúng tôi nghĩ trong trường hợp này, từ ngữ tiếng Việt phiên âm chính xác hơn cả sẽ phải là Kitô giáo. Bởi tập sách được biên soạn này là một công trình khoa học, chúng tôi mong ước và tin chắc độc giả sẽ có đủ thái độ khách quan và tinh thần bao dung để có thể vượt lên trên các hàng rào giáo phái và những ý thức hệ khác nhau, hầu có thể chấp nhận được những thực tại ở phía sau các từ ngữ. Bởi ngôn ngữ cuối cùng cũng chỉ là “ngón tay chỉ lên mặt trăng”. Cổ nhân ta cũng đã từng nói: “Được chim bỏ lưới, được cá bỏ nơm...”, hoặc: “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh...” (Đạo Đức Kinh, I, 1). https://thuviensach.vn Chương 1 KHÚC DẠO ĐẦU – NHÌN XUỐNG CÁC TẦNG SÂU A. ĐIỀU THIẾT YẾU THÌ VÔ HÌNH (L’essentiel est invisible) Câu này trong tiểu thuyết Hoàng tử bé của nhà văn nổi tiếng Antoine de St. Exupéry (1900 – 1944) mà hầu như ai cũng đều biết, đã nói lên được trong trường hợp của chúng ta sự “thiết yếu” nhưng “vô hình” của hệ tâm thức trong các tầng lớp chuyên sâu... Phần nổi của tảng băng Người ta cũng đã từng ví ý thức con người như chỉ là một phần nổi 10% của cả một tảng băng tâm thức to lớn chìm lặn trong dòng sông hay biển cả. Một hình ảnh khác diễn tả tâm thức như một quả cầu lớn mà ý thức chỉ là cái vỏ mặt ngoài, còn các tầng lớp chuyên sâu của vô thức mới chính là cái khối dày đặc của quả cầu. Còn biết bao nhiêu kinh nghiệm khác mà hầu hết mọi người đều đã có dịp kinh qua, đều nói đến các tầng sâu của hệ tâm thức: Những điều ta đã học biết, nhưng rồi lại bị rơi vào quên lãng hoặc bị cố tình đẩy lui, dồn nén, xua trừ từ ý thức xuống vô thức. Kinh nghiệm những giấc mộng với nhiều cấu kết kinh hoàng hoặc kỳ diệu trong giấc ngủ, khi ý thức đã ngừng hoạt động. Hoặc có bao nhiêu là giải đáp – nhiều khi rất chuẩn xác và kỳ thú với tính logic trổi vượt của vô thức – cho những khó khăn rất phức tạp của chúng ta qua một đêm ngủ ngon lành. Với biết bao nhiêu là kinh nghiệm về những trực kiến, những sáng kiến, những nguồn cảm hứng, những tư tưởng sáng tạo đột phát từ những tầng thâm sâu nhất của tâm thức để rồi được diễn tả trong thi ca, văn học, nghệ thuật, khoa học... B. NHỮNG TẦNG SÂU SÁNG TẠO Nhà khoa học vật lý và triết gia Carl Friedrich Weizsäcker (s. 1912) đã kể lại kinh nghiệm của ông về những nguồn cảm hứng sáng tạo đó trong thời gian ông nghiên cứu ở Viện Vật lý Max-Planck tại Göttingen vào thập niên 50 của thế kỷ 20 như sau: “Tôi biết khi tôi nghiên cứu hoặc tìm giải đáp cho một vấn https://thuviensach.vn đề nào đó, những công việc như thế thường đòi hỏi sức lực và sự tập trung suy tư hầu như vượt quá mức độ của một cá nhân. Chỉ những nỗ lực và cố gắng như thế mà thôi thực ra sẽ không bao giờ đưa đến một giải quyết dứt khoát và đích thực, nhưng chỉ là những chuẩn bị cho những giải quyết đó, hoặc chỉ là những bổ túc cho những giải quyết đã được biết trước rồi. Tôi nghiệm thấy rằng, với một sự tập trung suy tư cao độ như thế, sức lực tiếp tục làm việc một lúc nào đó sẽ bị ngừng nghỉ, dập tắt giống như một ngọn đèn hết dầu. Nhưng nếu một sự thư giãn sau đó gặp được cơ may – có thể là sau ít phút, ít ngày hoặc ít tháng – trong một khoảnh khắc bất ngờ như sáng sớm khi ngủ dậy, bỗng vụt hiện ra một ý nghĩ, và ý nghĩ đó hoàn toàn đem lại giải đáp cho câu hỏi đã được đặt ra. Sau đó, lại cần tiếp tục việc tập trung suy tư để tìm hiểu và giải thích ý nghĩ đột khởi đem lại đáp số cho vấn đề”[1]. Tư tưởng vô thức là những “tầng sâu sáng tạo”, tư tưởng đó không phải chỉ có trong những thiên tài hay danh nhân, nhưng theo kinh nghiệm thì quả đã từng xuất hiện trong mỗi một con người. Trường hợp của nhà vật lý và triết gia Weizsäcker thuật lại trên đây có thể dễ dàng là một khích lệ cho mỗi người tìm cách tự thử nghiệm: Cảm hứng, sáng tạo, thành công, những công trình tư duy và nghiên cứu, những công việc tổ chức và xây dựng phức tạp, bao quát và đòi hỏi nhiều thời gian, ta không nên thúc ép quá mức, nhất là khi bắt đầu xuất hiện những triệu chứng mệt mỏi, bẳn gắt, thiếu kiên nhẫn, thiếu chính xác, phạm sai lầm... Cần thiết và xứng đáng tạo cho mình một không gian và thời gian thư giãn. Nhất là khi cần có những sáng kiến và những nỗ lực mới, ta hãy để cho các tầng sâu sáng tạo của tâm thức làm việc. Thư giãn và kể cả những giấc ngủ lâu dài, theo kinh nghiệm của Weizsäcker đã kể lại. Chính những lúc đó là thời gian các tầng sâu của tâm thức bắt đầu “bắt tay vào việc”, tựa hồ như sự xuất hiện của một vị tiên, vị thần, một anh hùng hảo hán, một thiên sứ từ trời, giống như các câu chuyện cổ tích, dị sử, kinh thư hoặc huyền thoại của rất nhiều truyền thống loài người đã từng thuật lại. Một sự khôn ngoan đầy nhân tính và đầy sáng tạo như thế cũng đã được Thánh kinh của Do Thái giáo và Kitô giáo nói đến: “Uổng công các ngươi dậy sớm, hay vò võ canh khuya, những kẻ ăn bánh lầm than đau khổ, https://thuviensach.vn trong khi Người ban cho kẻ Người yêu đang ngủ”[2]. (Thi Thiên 127: 2; Bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn) C. GIẤC MỘNG “NGÔI NHÀ CỔ” CỦA C.G. JUNG[3] C.G. Jung chiêm bao thấy mình ở trong ngôi nhà của mình. Trước hết trong căn phòng gia đình ấm cúng ở tầng trên. Phòng này được trang trí với những tủ bàn đồ đạc cổ và đẹp kiểu Rococo (thế kỷ 17/18 sau thời Phục hưng bên Âu châu). Khi ông từ cầu thang bước xuống, thì ở đây đồ đạc khác đi. Chúng xem ra cổ hơn nhiều. Có thể là thuộc thế kỷ 15 hoặc 16. Càng xuống sâu hơn, như khi xuống tầng hầm và các gian buồng phía dưới, thì các đồ vật trang trí lại càng xưa cổ hơn, xem chừng đến cả thời thượng cổ Roma. Cuối cùng lại có một phiến đá và khi dỡ nó lên, thì một cấp thang cũng bằng đá dẫn sâu xuống như một loại hang động. Nơi đây thật là kỳ lạ. Đây đó nằm ngổn ngang những xương, những bình vại vụn nát và hai nửa sọ của người già đang tan rã, cảnh tượng giống như một hang mộ người chết thời tiền sử. Giải mã giấc mộng như thế nào? Giấc mộng này có liên quan đến người mộng, đó là một điều không nghi ngờ. Nhưng phải hiểu làm sao về những điều tìm thấy dưới hầm sâu? Chúng có liên hệ gì chăng đến những quan tâm lịch sử mà C.G. Jung suốt đời vẫn hằng theo dõi? Hoặc phải dựa theo lý thuyết phân tâm cho rằng những điều chiêm mộng nói lên ước mơ phải được bù đắp đáp ứng, những ước mơ đã không được thực hiện dưới sự kiểm soát của ý thức ban ngày? Mà như thế có nghĩa là người chiêm mộng đã nói lên ước mơ có một cái chết! Ta biết vào thời kỳ này việc hợp tác giữa Freud và C.G. Jung đã bị cắt đứt, và như thế phải chăng C.G. Jung đã ước mơ một cái chết cho kẻ đối lập của mình lúc bấy giờ là Freud? Trong tác phẩm Hồi ký, C.G. Jung cũng đã có những suy nghĩ như thế. Và C.G. Jung cũng đã giải đoán, có thể Freud cũng đã giận dữ đến hiểm độc như vậy đối với một đồng nghiệp trẻ hơn mình 19 tuổi[4]. Nhưng rồi C.G. Jung dần dà thấy rằng, việc giải thích chiêm mộng theo thuyết phân tâm của Freud không thể tiếp tục được nữa. Bởi chiêm mộng không thể chỉ được giải thích với duy nhất một nguyên nhân của chỉ một hình ảnh. Chiêm mộng đúng hơn là như một tấm thảm được thêu dệt với toàn bộ các hình ảnh và hành động, dẫu cho những yếu tố đơn lẻ đôi khi có thể gợi lên cảm tưởng không ăn nhập https://thuviensach.vn gì với toàn cảnh giấc mộng. Điều quan trọng là ta phải loại bỏ quan điểm giải thích cố định có sẵn từ đầu, rồi để cho giấc mộng tác động trên ta và tạm thời chấp nhận một giải thích hợp lý hơn cả. Trong trường hợp này, giấc mộng của C.G. Jung mà chúng ta đang bàn không chỉ là một vấn đề của riêng C.G. Jung. Bởi điều mà giấc mộng ở đây lần lượt nói đến những cảnh vật thông qua những chặng thời gian tiếp nối khác nhau hẳn là để chỉ đến chính hệ tâm thức của con người. Theo giải thích của C.G. Jung sau nhiều thời gian phân tích và suy nghĩ, thì những tầng nhà khác nhau muốn chỉ đến những cấp bậc ý thức của hệ tâm thức. Theo đó thì căn phòng gia đình trên tầng lầu cao là biểu tượng cho ý thức ban ngày, còn các tầng nhà và hầm phía dưới ngụ ý nói về vô thức cá nhân cho đến những tầng vô thức tập thể chạy dài cho đến thời hoang sơ. Và tất cả những điều đó đều thuộc về “một ngôi nhà”. Nghĩa là, trong mỗi người, bên cạnh ý thức sáng tỏ ban ngày trên phòng của tầng lầu cao, vẫn luôn còn có rất nhiều những tầng sâu gốc rễ từ bản năng sinh vật, tập thể con người, và nói chung là của toàn thể nhân loại trong quá khứ. Bình thường những tầng lớp tâm thức đó không bộc lộ ra bên ngoài; nhưng người ta không thể không quan tâm chú ý đến. “Ngôi nhà cổ” nói ở đây là mỗi một con người, không phân biệt xuất xứ hay tuổi tác; ngôi nhà đó phải luôn được nhìn trong toàn bộ của nó. Đó là điều mà mọi trường phái Tâm lý Chuyên sâu đều nhất trí chủ trương. C.G. Jung đã mở rộng chiều kích thông giải chiêm mộng do Freud đề xuất trước đây nhưng dựa trên những kinh nghiệm nghiên cứu và thông giải chiêm mộng của mình cũng như của các bệnh nhân ông chăm sóc (C.G. Jung đã phân tích và ghi chép lại trên 80.000 giấc mộng), ông cũng đã xây dựng vốn tri thức khoa học đặc biệt của mình về tâm thức con người, đồng thời đã nói về ý nghĩa của chiêm mộng như sau: “Chiêm mộng đã cho tôi cái cảm nhận về tính cách tập thể của tâm thức, mà đầu tiên tôi xem như là những dấu vết phát xuất từ các sinh hoạt của con người. Nhưng mãi sau này, với nhiều kinh nghiệm và hiểu biết đáng tin cậy, tôi đã nhìn ra những sinh hoạt kia là những hình thức của bản năng, là những mẫu tượng... Đối với tôi, chiêm mộng là điều tự nhiên, không hàm chứa ý đồ lừa dối, nhưng nói ra những gì chúng muốn nói, giống như cây cỏ mọc lên, như động vật tìm mồi, tự nhiên như chúng sinh sống. Cũng như đôi mắt không muốn lừa dối ai, nếu có gì thì có lẽ chính ta tự lừa dối mình, bởi đôi https://thuviensach.vn mắt cận thị. Hoặc chúng ta nghe sai, bởi đôi tai có phần điếc, nhưng đôi tai tự nó không muốn lừa dối ta. Từ lâu trước khi làm quen với Freud, tôi đã nhìn vô thức và biểu hiện của vô thức là chiêm mộng như là những hiện tượng tự nhiên, không hàm chứa chút gì bất trắc tùy tiện.”[5] D. NHỮNG TẦNG SÂU AN LÀNH Đi xuống các tầng sâu tâm thức cũng là đi xuống những vùng quê hương của con người và của vạn vật, là đi xuống những đáy nền của hiện hữu. Đáy nền hiện hữu sẽ không từ bỏ con người, bởi con người không thể rơi đâu xa hơn nữa và bởi đáy nền hiện hữu luôn chở mang chấp chứa con người. Và cũng chính nơi đây mà con người tìm được an bình, thư thái cùng những sinh lực mới. Đáy nền hiện hữu có thể mang nhiều tên gọi khác nhau: Vô thức tập thể, Tâm thức vô biên, Ý thức tuyệt đối, Thực tại cuối cùng, hoặc Đấng tối cao... Có nhiều kinh nghiệm của rất nhiều người từ rất nhiều hoàn cảnh sinh sống và nhiều truyền thống niềm tin khác nhau – kể cả những người đã từng bị liệt vào hàng phế thải cả tinh thần lẫn thể xác, nhưng một khi đi xuống được các tầng sâu của tâm thức, một khi đi xuống được tận đáy nền của hiện hữu, họ đã từng tìm thấy được an lành, thư thái và rất nhiều sinh lực cho một cuộc sống mới trong hòa hợp, bao dung và sáng tạo. Câu tự vấn “Tôi là ai?” của một nạn nhân chế độ Đức Quốc xã – nhà thần học người Đức Dietrich Bonhoeffer (1906 – 1945) – sau hơn một năm bị giam cầm trong các ngục tù ở Berlin, cùng với câu tự trả lời của ông đã nói đến cái “Đáy nền hiện hữu” luôn chấp chứa chở mang con người và qua đó đã đem lại thư thái an bình. Trước câu tự vấn “Tôi là ai?”, Dietrich Bonhoeffer đã tự trả lời: “Tôi có là ai đi nữa, Ngài thật biết rõ tôi, Tôi đây thuộc về Ngài, lạy Chúa Trời tôi.”[6] [1] C.F.von Weizsäcker, trích đoạn trong Otto Kankeleit: Das Unbewußte als Keimsättedes Schöpferischen. Selbstzeugnisse von Gelehrten, Dichtern und Künstlern. München-Basel 1959, 114. [2] Theo Holy Bible, New International Version(1984): https://thuviensach.vn In vain you rise early and stay up late, Toiling for food to eat, for while they sleep he provides for. [3] C.G. Jung, Der Mensch und seine Symbole, Zürich/Düsseldorf151999, 56-57. [4] C.G. Jung: Erinnerungen, Träume, Gedanken. Zürich 1962, 162t. [5] C.G. Jung, sđd. 165t. [6] D. Bonhoeffer, Widerstand und Ergebung, München101978, 179. https://thuviensach.vn Chương 2 TÂM THỨC: Ý THỨC VÀ VÔ THỨC A. TÂM THỨC (PSYCHE) Tâm thức được C.G. Jung dùng để chỉ toàn hệ tâm lý gồm ý thức và vô thức. C.G. Jung (1875 – 1961) đi xa hơn Freud (1856 – 1939), quan niệm vô thức không chỉ là vô thức cá nhân, mà còn cả vô thức tập thể. Trung tâm và chủ thể của ý thức là cái “Tôi” (Ego, Ich, Je, I), nhưng cái “Tôi” vẫn có liên hệ với vô thức, bằng cách tiếp nhận vô thức và ý thức hóa vô thức. Còn trung tâm của toàn hệ tâm thức gồm ý thức và vô thức là cái “Ngã” hay “Tự ngã” (Selbst, Self). Gọi là “Tự ngã” để trước tiên chỉ một thực tại trong hiện hữu, trước khi là một thực tại trong hành động thông thường được diễn tả bằng từ “Bản ngã” (như khi nói: con người có “bản ngã”). Mặt khác, Tự ngã không có nghĩa một thực tại “tự hữu” hay tuyệt đối. Tự ngã là một thực tại vô thường, nhưng có tính chủ thể, và cần thể hiện tính chủ thể của mình trong độc lập và tự lập – dĩ nhiên trong liên đới – để thành toàn căn tính, bản sắc, chính hiện hữu của mình. C.G. Jung gọi tiến trình phát triển tâm thức này là tiến trình “Thành toàn Tự ngã” (Individuation; không có nghĩa là “Individualisme” – cá nhân chủ nghĩa). Ta còn cần quảng diễn rất nhiều về bản tính, cấu trúc, tiến trình và tác động của các thành phần cũng như của toàn bộ hệ tâm thức. Nhưng trước hết, trong phân đoạn này, ta sẽ bàn về ý thức và vô thức. B. Ý THỨC Ý thức là gì, gồm có những gì, hoạt động ra sao, liên hệ với cái “Tôi” như thế nào, có tương quan gì với “vô thức” và “Tự ngã” không, vai trò và tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của con người như thế nào?... Đó là một số câu hỏi không dễ dàng gì trả lời. Ta hãy bắt đầu bằng hồi tưởng một số kinh nghiệm bản thân về thực tại ý thức. Thí dụ: Tôi ý thức tôi đang cầm quyển sách trong tay và đang đọc, Tôi https://thuviensach.vn ý thức buổi du ngoạn vui vẻ và thoải mái ở Vũng Tàu năm ngoái, Tôi ý thức trên cảm xúc của tôi về một bức tranh đẹp... Qua những thí dụ kinh nghiệm nói trên, ta có thể nói: Ý thức là một trạng thái tỉnh thức với chức năng quan sát, ghi nhận, cảm nhận, nhận định, phẩm định, phân định đối với các sự vật bên ngoài tôi và đối với các suy tư, cảm xúc và hình ảnh bên trong tôi. Ý thức như thế có thể gọi là một quan năng (faculté) nhận định và là một quan năng định hướng với bốn chức năng – mà ta sẽ trình bày rộng rãi hơn ở một phân đoạn sau – bao gồm: chức năng cảm nhận, suy tư, đánh giá và trực kiến. Thể hiện các chức năng nói trên, ý thức phải liên hệ với cái Tôi như chủ thể, như động lực, như đầu não, như trung tâm. Bởi tất cả mọi đối tượng chỉ được ý thức một khi chúng được liên hệ với cái Tôi. Cũng chính vì cái Tôi là chủ thể và là trung tâm của ý thức, mà cái Tôi có khả năng quyết định trên các nội dung của ý thức: nội dung nào có thể được giữ lại trong ý thức, nội dung nào sẽ bị “xua đẩy” xuống vô thức, cũng như nội dung nào sẽ được “tưởng nhớ” gọi từ vô thức lên lại ý thức. Và như thế, chính nhờ cái Tôi mà con người của ta được hình thành, được tiếp nối hiện hữu và được đồng nhất trong căn tính bản sắc của mình. Cũng chính nhờ cái Tôi mà ta có thể đặt liên lạc giữa ý thức và vô thức: Cái Tôi sẽ đón nhận những tín hiệu của vô thức được diễn tả qua cảm hứng, sáng kiến, trực kiến, các hình ảnh trong chiêm mộng – mộng đêm và mộng ngày – cái Tôi sẽ tìm hiểu những tín hiệu của vô thức nói trên, diễn tả chúng thành ngôn ngữ cho ý thức, để rồi với ý thức thể hiện các tín thư của các tín hiệu đó trong cuộc sống. Như thế, cái Tôi là một cơ quan môi giới giữa ý thức và vô thức. Với vị trí và chức năng đó, cái Tôi còn thực hiện vai trò tiếp đón, tìm hiểu, rồi chuyển giao cho ý thức những “bóng âm” (Schatten, shadows, ombres) cũng như các linh ảnh (vision) của vô thức là “linh âm” (anima) và “linh dương” (animus) – những điều này sẽ còn được bàn đến sâu rộng hơn trong những phân đoạn sau – để từ đây ý thức hội nhập được những tín thư đặc biệt này của vô thức, nhằm chủ đích thể hiện thành toàn con người, hiện hữu, Tự ngã của mình, điều mà C.G. Jung gọi là “Thành toàn Tự ngã” (Individuation). Vai trò hàng đầu của ý thức https://thuviensach.vn Mặc dù C.G. Jung nói rất nhiều về vô thức, làm cho độc giả có thể lầm tưởng rằng C.G. Jung đánh giá quá cao về vô thức và coi nhẹ ý thức, song chính C.G. Jung cũng đã nói: “Chỉ ý thức con người mới tạo ra hiện hữu khách quan (nghĩa là hiện hữu nay được đích thực hiện hữu bởi được con người ý thức nhìn nhận – TG) và ý nghĩa; và nhờ thế con người tìm ra được chỗ đứng không thay thế được của mình trong tiến trình lớn của hữu thể”[7]. Ý thức là đầu và là cuối, là alpha và omega của mọi lý thuyết tâm lý, nhất lại là Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung; bởi mục đích hàng đầu của Jung là giúp con người biết “trở nên ý thức” (Selbst-werdung), biết “ý thức hóa” toàn bộ tâm thức của mình. Một giáo sư tâm lý trường phái Jung có nói: “Đại bộ phận các công trình của Jung thực ra chỉ là một màn giáo đầu đưa đến tác động ý thức (Bewusst-heit) và công trình phân tâm chiều sâu chính là trong nỗ lực thực hiện sự ý thức đó”[8]. Và như thế, ý thức không những là khởi điểm, mà còn là cơ quan kiểm nghiệm các nội dung từ vô thức đưa đến, và sau cùng là đích điểm bởi ý thức hóa được các nội dung từ lâu chìm lặn trong vô thức. Trên cơ bản, định hướng và ý nghĩa của ý thức cũng đã được chính S. Freud đưa ra, khi ông đúc kết mục đích của các công trình phân tâm: “Cái ĐÓ là gì, thì nay TÔI phải thể hiện”[9]. Một nét độc đáo của ý thức nữa là tác động ý thức phản hồi trên chính mình. Đây là một đặc tính riêng biệt của con người, khác với mọi loài động vật và sinh vật trong trời đất chỉ có đơn thuần một ý thức đối ngoại, ít nhất là theo tầm hiểu biết hiện thời của khoa học. Với đặc tính “ý thức phục hồi” này, con người có thể “tự quan sát” trên chính mình, biết mình làm gì và biết mình là gì, biết mình sống và biết mình chết, biết mình hôm nay như thế và biết mình ngày mai có thể khác xa trổi vượt hơn ngày hôm nay. Chính nhờ khả năng ý thức phục hồi này, thông qua sự “quan sát” trên chính mình và trên hoạt động của mình, mà con người phân biệt được sự khác biệt giữa cái Tôi chủ thể và những hoạt động của cái Tôi, điều làm cho con người tạo ra được một khoảng cách tâm lý cần thiết và thuận lợi cho một tâm trạng thư thái, khách quan và khoa học, như đã thường được ứng dụng trong các ngành phân tâm và tâm lý trị liệu. Trong nhiều truyền thống tâm lý và tâm linh của lịch sử nhân loại, xưa và https://thuviensach.vn nay, Đông và Tây, vai trò của ý thức đều luôn được nêu cao trong giảng dạy và trong thực nghiệm. Ý thức làm cho con người đích thực là người, như khi ta nói “đó là một con người có ý thức”. “Có ý thức” không những có nghĩa là biết nhiều, biết rộng, biết sâu, không những có nghĩa là biết việc mình làm và nhận trách nhiệm trên việc mình làm, mà đơn giản và sâu xa là ý thức về hiện hữu và đang sống hiện hữu của mình – trong liên đới với vạn vật, thiên nhiên, lịch sử, xã hội. Sống ý thức như thế đơn giản và sâu xa là biết mình đang là gì và đang làm gì. Các truyền thống tâm lý và tâm linh của nhân loại đã từng khai triển những khái niệm và những thực nghiệm của sinh hoạt ý thức như thế trong nhiều lĩnh vực khoa học và ứng dụng như tâm lý giáo dục, tâm lý trị liệu, phát triển tâm linh. Một ít thực tập mỗi ngày – nếu không phải là thường xuyên – về một cuộc sống ý thức sẽ khải thị cho chúng ta những giá trị lớn lao của ý thức trong cuộc sống và trong tiến trình thành người của mình. C. VÔ THỨC Ý thức có phần dễ kiểm nghiệm, nhưng vô thức là gì và ở đâu, nào ai có thấy có biết? C.G. Jung nói, ta không thấy vô thức, nhưng ta kiểm nghiệm được các nguyên nhân và hệ quả của vô thức. Nguyên nhân và hệ quả đó được diễn tả qua những hình ảnh – nhất là trong chiêm mộng – những liên tưởng, những khải tượng. Có những tầng vô thức thầm kín và sâu xa được C.G. Jung gọi là “vô thức tập thể”, và những tầng vô thức nằm gần ngưỡng cửa ý thức được C.G. Jung gọi là “vô thức cá nhân”. “Vô thức cá nhân” – mà Freud gọi là “tiềm thức” và “tiền ý thức” – là những nội dung mà con người đã từng một lần ý thức, nhưng nay “bị quên lãng”, “bị xua trừ loại bỏ”, hoặc những nội dung chỉ mang máng nhớ hay chỉ mơ hồ cảm nhận (GW 6, 527)[10]. “Vô thức tập thể” trái lại, không phải riêng tư gì của một cá nhân hay do cá nhân tạo tác ra, nhưng là kết tinh tập thể của nhiều truyền thống tâm lý, tâm linh và văn hóa của hàng thế hệ loài người trong lịch sử đã để lại. Những nội dung của vô thức tập thể đã được phát xuất từ những hoàn cảnh sinh sống của con người, như những hoàn cảnh lo âu và sợ hãi, vui mừng và phấn chấn, tranh đấu để sống còn, tương giao giữa nam và nữ, giữa con cái và cha mẹ, những hình tượng người cha người mẹ, những thái độ đối với hận thù và yêu thương, đối với sinh tử và ly biệt, những quyền lực của các https://thuviensach.vn nguyên lý tối sáng âm dương, v.v... Những nội dung của vô thức tập thể như thế này thường được diễn tả qua các hình ảnh trong chiêm mộng và tưởng tượng, cách riêng dưới hình thức những hình ảnh nguyên ủy hay cũng gọi là mẫu tượng (archetypes), cũng như còn được ghi lại qua nhiều tiêu đề trong các chuyện cổ tích, dị sử, thần thoại, huyền thoại. Tương quan giữa vô thức và ý thức là một tương quan “bù trừ” hay “bổ túc”, bằng cách vô thức đưa lại cho ý thức những chất liệu và nội dung mà ý thức không thể thiếu sót. Tác dụng “bổ túc” và “bù trừ” của vô thức sẽ càng khẩn cấp và cần thiết, nhất là khi ý thức sinh sống và hoạt động quá thiên lệch hoặc quá một chiều, như nhiều trường hợp mà khoa bệnh tâm thần cho thấy (GW 6, 915. 919t). Tác động của vô thức trên ý thức có thể làm cho cá nhân hoặc tập thể con người trở nên thác loạn, như đã từng xảy ra trong những cơn khủng hoảng xã hội lớn, nhưng chúng cũng có thể đưa lại những hệ quả tích cực, thông qua những tư tưởng mới cũng như những trào lưu sôi động trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, chính trị và tôn giáo. Khi những tư tưởng và những trào lưu mới này được phối hợp với nhau và những nội dung đó được những con người có tài đức hay có linh hứng thuyết giảng trình bày, thì chúng sẽ được dân chúng nhanh chóng và phấn khởi đón nhận, bởi chúng đã được tiềm ẩn tích chứa trong vô thức tập thể của quần chúng rồi (GW 8, 594). D. BẢNG TÓM LƯỢC VỀ Ý THỨC VÀ VÔ THỨC[11] Tâm thức: gồm có ý thức và vô thức: • Ý thức: gồm có – Tôi: chủ thể ý thức. – Trạng thái ý thức, quang phổ ý thức. • Vô thức: gồm có – Vô thức cá nhân: https://thuviensach.vn Những điều quên. Những điều bị xua trừ, dồn nén. Những điều mấp mé nhìn nhận, nhớ tưởng, cảm nhận. –Vô thức tập thể: Cảm xúc/bản năng (emotions, affects), Nội dung linh hứng (inspirations). Nội dung không hề ý thức được. [7] C.G. Jung: sđd. 259t. [8] C.A. Meier, Bewustsein, Olten 1975, 19. [9] Trích dẫn trong: G. Wehr 1995, 36. [10] GW là C.G. Jungs Gesamte Werke (C.G. Jung toàn tập) gồm 20 quyển, như được ghi lại trong bảng sách tham khảo ở cuối tập sách này, số đầu chỉ số quyển, các số tiếp theo chỉ số trang. [11] Xem: C.G. Jung, Analytical Psychology: Its Theory and Practice. TheTavistock Lectures (1935), London 1968, 22–24, 49; J. Jacobi171999, 40-44. https://thuviensach.vn Chương 3 NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA Ý THỨC – NHỮNG THÁI ĐỘ CỦA TÂM THỨC – NHỮNG MẪU NGƯỜI TÂM LÝ A. XÁC ĐỊNH NỘI DUNG Sau khi khái quát bàn về hai thành phần cơ bản của tâm thức là ý thức và vô thức cùng với những nội dung của chúng, trong phân đoạn dưới đây chúng ta đặt câu hỏi: Ý thức tác động như thế nào? Thái độ con người phản ứng ra sao trước các đối tượng trong và ngoài mình? Và cuối cùng những tác động và những thái độ nói trên đưa đến những mẫu người tâm lý nào? Những câu hỏi này không chút nào xa xôi trừu tượng, nhưng quả thật có liên quan trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của con người trong gia đình, đoàn thể, xã hội. Ta hãy thử lược kê một vài kinh nghiệm: Đây, giữa vợ chồng, bạn bè, thân hữu các đoàn thể, ta vẫn đã từng kinh nghiệm những cọ xát, tranh cãi, phê phán đưa đến phân ly, đoạn tuyệt, nếu không phải là tòa án và ngục tù: Một bên thì lý lẽ lại bị coi là “lý sự cùn”, bên kia thì tình cảm lại bị xem là “ướt át thiếu chiều sâu”; bên này thì thực tiễn được xem là “thấp bé nhỏ nhen”, bên kia thì mộng mơ lại bị xem là “lãng mạn mưa gió”; một đàng thì trầm tư ít nói bị xem là “bí hiểm thủ đoạn”, đàng kia thì thao thao bất tuyệt lại bị xem là “ngồi lê mách lẻo”, một bên thì hào hoa lịch sự bị cho là chưng diện khoe khoang, bên kia thì mộc mạc đơn sơ lại bị coi là “nhà quê mách qué”... Ta vẫn còn có thể kéo dài đến vô tận loạt thống kê những cách suy tư xúc cảm và những thái độ tiếp xúc với nội giới ngoại cảnh như trên, cùng với những phê phán không khoan nhượng của bà con, bạn bè, thân hữu. Thực ra thì những đối kháng thường vẫn có thể tìm nhau để bổ túc cho nhau, nhưng thường lại cũng đã từng đưa đến những đố kỵ, tranh chấp và những đổ vỡ khủng khiếp đến đoạn tuyệt. Trong nghiên cứu, giảng dạy và thực nghiệm Tâm lý Chuyên sâu, C.G. Jung đã cống hiến cho nhân loại một đóng góp khoa học rất quan trọng và hữu ích giúp ta hiểu những cách suy tư, cảm xúc và những thái độ sinh sống tiếp cận https://thuviensach.vn của con người, đồng thời cũng đưa lại cho ta những phương cách giải quyết những khó khăn bởi thiên lệch và thiếu sót trong tiến trình một sự phát triển cân đối, điều hòa và toàn diện của tâm thức con người. Đóng góp khoa học đó là lý thuyết nói về những tác động của ý thức, và những thái độ tiếp cận của tâm thức đưa đến sự phân loại những mẫu người tâm lý. Ta hãy cùng nhau tìm hiểu về lý thuyết đó trong phân đoạn sau đây. B. NHỮNG LOẠI TÁC ĐỘNG HAY CHỨC NĂNG CỦA Ý THỨC Bốn loại tác động Có bốn loại tác động của ý thức giúp con người đối diện và định hướng trước thiên nhiên và trong xã hội, thông qua những câu hỏi trước các sự vật và các đối tượng: (1) Với câu hỏi “là gì” thì ý thức có tác động suy tư. (2) Với câu hỏi “như thế nào đối với tôi” thì ý thức có tác động tâm tình. (3) Với câu hỏi “có gì” thì ý thức có tác động cảm nhận. (4) Với câu hỏi “từ đâu đi đâu” thì ý thức có tác động trực giác (GW 6, 913)[12]. Suy tư là tác động tìm hiểu sự vật “là gì”, nghĩa là đưa đến tri thức về sự vật, dựa trên cơ sở nhận định, phân tích, phối hợp, lý luận hợp lý, để rồi thích nghi mình với sự vật. Còn tâm tình có chức năng “đánh giá” sự vật trong tương quan đối với bản thân, thông qua những tâm tư vui thỏa thích thú hay chán ngán thất vọng, đưa đến đón nhận hay từ chối. Cả hai tác động trên đây thuộc loại tác động hợp lý (rational), bởi cả hai đều nhắm việc đánh giá sự vật: suy tư đánh giá trên quan điểm “đúng – sai”, còn tâm tình đánh giá trên quan điểm “vui thỏa – chán ngán”. Hai loại tác động còn lại, cảm nhận và trực giác, C.G. Jung gọi là những tác động thuộc loại phi hợp lý (irrational), bởi hai loại tác động này không dùng lý trí phân tích và đánh giá, nhưng chỉ dùng cảm quan để nhận định “sự vật như thế”, thông qua các giác quan hay trực giác cũng gọi là “giác quan thứ sáu” hay “nội giác”. Tác động cảm nhận ghi nhận sự thể khách quan một cách chi li cụ thể, nhưng không để ý đến ý nghĩa và phối trí toàn diện của sự vật hay biến cố; trong khi trực giác lại ít chú tâm đến chi tiết và vẻ bên ngoài, nhưng lại nhìn ra ngay ý nghĩa bên trong cùng với những tương quan phối hợp trong hiện hữu của biến sự. Thí dụ: một người thuộc loại cảm nhận trước một cảnh trời tươi đẹp mùa xuân thì ghi nhận cây cỏ, hoa lá, màu sắc, tất cả trong chi tiết của chúng; còn người thuộc loại trực giác thì lại nhìn vào cảnh https://thuviensach.vn trời toàn diện cùng với bầu khí tâm tình chung của cảnh trí. Các loại tác động suy tư và tâm tình, cảm nhận và trực giác, thực ra trên lý thuyết thì không nhất thiết “đối kháng” bằng cách loại bỏ lẫn nhau; nhưng trong thực tế thì có phần “đối trọng” với nhau hoặc tương chiếu không cân bằng giữa hai tác động trong từng cặp: suy tư đối trọng với tâm tình, cảm nhận đối trọng với trực giác. Ai nặng về lý thì lại nhẹ về tình, ai thiên về thực tiễn thì lại thiếu về trực kiến. Ngoài ra, tuy mỗi một người với toàn hệ tâm thức của mình đều được trang bị cả bốn mẫu tác động của ý thức nói trên giúp mình định hướng và phát triển trong cuộc sống, nhưng bình thường thì mỗi người trong thực tế lại chỉ phát huy cao độ một loại tác động và để suy yếu hoặc không sử dụng những mẫu tác động khác. Bình thường mỗi người có một loại “tác động chủ yếu”, thêm một loại “tác động phụ tá”. Hai loại tác động này nằm trong khu vực ánh sáng của ý thức, và trong chiêm mộng thì thường được diễn tả qua những hình ảnh dương tính, như hình ảnh ông bố hay con trai. Loại “tác động thứ ba” thường mờ yếu, chiếm vị trí trung gian giữa ý thức và vô thức, và có thể tương đối dễ dàng đưa lên tới khu vực ánh sáng của ý thức. Còn “tác động thứ tư” thường chìm lặn trong vô thức; nhưng chừng nào hoàn cảnh giúp đưa lên tới ánh sáng ý thức, thì khi ấy nó cũng sẽ mang theo các nội dung của vô thức, tạo ra một cuộc gặp gỡ với ý thức; và như thế có khả năng đưa tới một tổng hợp giữa các nội dung ý thức và vô thức. Khi cả bốn loại tác động được đưa vào khu vực ánh sáng của ý thức, đó là lúc con người đạt được sự quân bình và thành toàn của hệ tâm thức. Số bốn là biểu tượng cho sự thành toàn và trọn vẹn. Nhưng đó chỉ là lý thuyết và lý tưởng, còn trong thực tế thì con người thường chỉ tiến dần đến thành toàn nhưng không bao giờ được hoàn toàn viên mãn. Quá trình hội nhập thành toàn cả bốn loại tác động của hệ tâm thức này là quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời, cách riêng kể từ nửa sau của cuộc sống, lúc các bổn phận gia đình, nghề nghiệp và xã hội trên cơ bản đã được thành tựu. Nhìn vào thực tế Ta hãy diễn đạt những nguyên lý trên đây qua những hoàn cảnh sống cụ thể. Tại sao xảy ra những trường hợp cọ xát, tranh cãi, phê phán, phân ly đến đoạn tuyệt như đã được lược kê qua một số kinh nghiệm ở phần đầu phân https://thuviensach.vn đoạn này? Con người sinh sống, suy nghĩ và hoạt động bình thường thể theo bốn loại tác động chính của ý thức đã được trình bày ở trên. Những người lý lẽ thuộc loại suy tư, những người tình cảm thuộc loại tâm tình, những người thực tiễn thuộc loại cảm nhận, những người mộng mơ thuộc loại trực giác. (Còn những người trầm tư ít nói hay phát ngôn bất tận thì được sắp xếp theo một loại phân chia khác: loại phân chia trên bình diện thái độ giữa hướng nội và hướng ngoại – introversion và extraversion – như sẽ được trình bày ở một đoạn sau). Sở dĩ có sự cọ xát, tranh cãi, phê phán và cả đến phân ly như vừa nói ở trên, là vì mỗi mẫu người đã chỉ quá đề cao và tuyệt đối hóa loại tác động tâm thức của riêng mình, trong khi mỗi một con người đều có cả bốn loại tác động tâm thức – suy tư, tâm tình, cảm nhận, trực giác – và cần thiết phải phát huy cả bốn loại tác động đó cho cân bằng và đến thành toàn viên mãn. Hiểu được như thế, sự khác biệt trong các loại tác động tâm thức nơi người khác sẽ không còn là những “chướng tai gai mắt”, mà lại là những “cơ may” cho ta nhận diện được những thế yếu trong bản thân, để rồi cùng với người đối tác trau dồi cho hệ tâm thức mình được nên thành toàn: vừa có lý vừa có tình, vừa thực tiễn chi ly vừa sâu xa trực thị. Đàng khác, sự bất mãn trước những loại tác động của người khác cũng còn có thể là dấu hiệu của “bóng âm” trong hệ tâm thức của bản thân, bởi chính loại tác động đó là điều ta còn thiếu sót nên đã “phóng ngoại” sự bất mãn của chính ta lên trên kẻ khác (Ta sẽ còn bàn đến “bóng âm” trong một phân đoạn sau này). Tìm hiểu môn học và việc làm Sự hiểu biết về những mẫu người tâm lý có thể giúp ta tìm những môn học và những công việc thích ứng với bản thân đem lại vui thỏa, thành công và hạnh phúc. Chẳng hạn như một người suy tư trực giác có thể ưa thích những lĩnh vực như khoa học vật lý, kỹ sư hay computer hoặc những lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, khoa học giáo dục và sư phạm. Mẫu người tâm tình trực giác có thể nghiêng về các ngành nghệ thuật, âm nhạc, văn chương hoặc các ngành chăm sóc sức khỏe, tâm lý trị liệu, công tác giáo dục và phục vụ xã hội. Một người tâm tình cảm nhận lại có thể vui thỏa với những công việc thuộc các lĩnh vực chăm sóc, văn phòng, buôn bán hoặc y tế và tổ chức nhân sự. Mẫu người suy tư cảm nhận thì có lẽ sẽ hạnh phúc nhất với những công việc thuộc https://thuviensach.vn các ngành kỹ thuật, được tiếp xúc trực tiếp với sự vật và thống kê như trong thế giới kinh doanh, pháp luật, ngân hàng, sản xuất, xây dựng, quản trị xí nghiệp. Bảng tóm lược về các loại tác động của ý thức: 1. Suy tư Denken Thinking 2. Tâm tình Fühlen Feeling 3. Cảm nhận Empfinden Sensation 4. Trực giác Intuition Intuition C. NHỮNG THÁI ĐỘ CỦA TÂM THỨC – NHỮNG MẪU NGƯỜI TÂM LÝ Bốn loại tác động của ý thức nói trong đoạn trên diễn tả cách thức con người tiếp cận các đối tượng cùng với nội dung trong lẫn ngoài của mình; và tùy theo loại tác động nào là chủ yếu, con người sẽ được liệt kê vào một trong bốn loại mẫu người tâm lý chính: mẫu người suy tư, tâm tình, cảm nhận, trực giác. Nhưng còn có một bình diện sinh hoạt khác nữa nói về thái độ hay chiều hướng con người tiếp cận các đối tượng. Ta biết rằng, hệ tâm thức là một “hệ thống năng luợng tâm thức”. Năng lượng vào và ra, đến và đi, tiến và lùi. Trong trạng thái tỉnh thức, ngoại giới kêu gọi năng lượng tâm thức hướng ra ngoài để đối phó với thực tại. Trong trạng thái ngủ yên, năng lượng tâm thức lại hướng vào nội tâm và thế giới vô thức. Những trạng thái đó được thực hiện luôn mãi trong suốt cả cuộc sống. C.G. Jung đã giúp ta nhìn ra hai thái độ hay chiều hướng tiếp cận chính của tâm thức, tùy theo thể trạng và tâm trạng của từng cá nhân: thái độ hướng ngoại và thái độ hướng nội[13]. Người hướng ngoại sẽ lưu tâm nhiều hơn dến những luật lệ, định chế, tập quán, thói quen, cách sinh sống của tập thể xã hội, và ít để ý đến tiếng nói và những đòi hỏi của nội tâm. Người hướng nội trái lại chăm chú nhiều hơn vào những kinh nghiệm và biến cố của bản thân, của nội tâm, và hầu như không màng để ý đến ngoại cảnh, đến những người chung quanh. Họ ưa thích thầm lặng, diễn tả một cách kín đáo dè dặt, ít lời, ít nói, ít cử chỉ bộ điệu. https://thuviensach.vn Tự nó, hai loại thái độ hướng ngoại và hướng nội này mang phẩm chất trung tính, chúng không có màu tiêu cực như dư luận thường nghĩ. Có tiêu cực chăng nữa là khi một trong hai thái độ chiếm vị thế độc tôn, bởi cả hai hướng nội ngoại đều quan trọng trong một thế quân bình của tâm thức: vừa đáp ứng vừa phải với ngoại giới mà cũng vừa đáp ứng đầy đủ với nội tâm. Hai loại thái độ hướng nội và hướng ngoại này phối hợp với bốn loại tác động suy tư, tâm tình, cảm nhận và trực giác làm thành tám mẫu người tâm lý chính. Đây là nói trên nguyên tắc và diễn tả thành mô hình, còn trong thực tế thì dĩ nhiên có một sự phối kết hòa hợp các mẫu người tâm lý này đến vô cùng tận, tùy theo rất nhiều hoàn cảnh cá nhân và tập thể, địa dư và lịch sử, tư duy và văn hóa, thời kỳ và tuổi tác... Chẳng hạn như mẫu người suy tư có thể hoặc suy tư hướng nội hoặc suy tư hướng ngoại. Cả hai mẫu người suy tư này đều sử dụng lý trí phân tích và biện luận; nhưng người suy tư hướng nội sẽ thiên về các vấn đề thuộc tư duy triết lý, còn người suy tư hướng ngoại lại sẽ nghiêng về các vấn đề bí hiểm của thế giới bên ngoài và tìm cách giải quyết kiểu các nhân vật tiểu thuyết trinh thám. Người tâm tình hướng nội có thể yêu bạn đến si mê, nhưng đồng thời vẫn tỉnh táo nói được: “Chẳng có gì liên can đến bạn!”. Còn người tâm tình hướng ngoại thì sẽ ào ào viết thư, điện thoại, gửi hoa, biếu quà, mời dự đêm văn nghệ, chở đi nghỉ mát hết miền núi đến vùng biển. Mẫu người hướng ngoại này cảm thấy nhất thiết phải diễn tả và diễn tả phong phú tâm tình thương ghét của mình. Người trực giác hướng nội sẽ thích lui tới các nơi âm u huyền bí, những chùa chiền tu viện, những vùng đất thiêng nơi thánh. Còn người trực giác hướng ngoại thì lại thích tìm đến những trường đua cá ngựa, những thị trường chứng khoán, những bà chiêm tinh thầy bói. Người cảm nhận hướng nội sẽ tìm nghe nhạc vui, sưu tập ảnh đẹp, thưởng thức món ăn ngon, bởi sở thích là giác quan được đáp ứng. Còn người cảm nhận hướng ngoại thì lại đi mua sắm CD đĩa nhạc, trang trí tranh ảnh nghệ thuật, dựng đủ dàn nhạc stereo tối hiện đại; những điều mà người cảm nhận hướng nội sẽ thưởng thức với vô cùng vui thỏa. https://thuviensach.vn Như đã lưu ý ở một đoạn trên, trong thực tế không hề có những mẫu người tâm lý thuần túy như vừa diễn tả trên đây. Mỗi một mẫu người tâm lý cụ thể đều là kết quả của một sự phối hợp từ rất nhiều yếu tố. Cuộc sống sẽ vô cùng tẻ nhạt nếu trên thế giới chỉ có tám mẫu người như ta vừa lược kê. Nói đến mẫu người chỉ là nói đến những cấu trúc của ý thức và tâm thức, với mục đích giúp ta hiểu hơn chút ít về con người và thái độ sinh sống hoạt động của con người. Chúng ta tất cả đều là người chứ không phải là những khuôn mẫu các loại tính tình, dẫu vậy thông thường ta cũng được phép nói người này “rất Tàu”, “rất Nhật”, “rất Mỹ”, “rất Tây”, “rất Ta”, và tất cả chúng ta đều hiểu nói như thế có nghĩa gì. Điều đó cũng đúng cho trường hợp khi nói về các mẫu người tâm lý của chúng ta. Mỗi một người chúng ta đều có chút ít hướng ngoại và ít nhiều là suy tư, trực giác thì cũng tới một mức độ nào đó, còn tâm tình và cảm nhận thì có lẽ còn có nhiều thiếu sót... Nhưng điều quan trọng vẫn là nhìn nhận ra được những nét đặc thù của hệ tâm thức mình, với những thế mạnh cũng như những thế yếu, để phát triển tất cả cho quân bình, cân đối, đến thành toàn viên mãn. Bước đi đầu tiên tìm hiểu bản thân sẽ là tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi thuộc mẫu người tâm lý nào? Thăm hỏi bạn bè và nhất là tự quan sát chính mình sẽ dần dà giúp ta khám phá ra chính mẫu người tâm lý của bản thân, để từ đó phát triển và thành toàn Tự ngã với bản sắc và bản vị của mình. Bản tóm lược về những mẫu người tâm lý Có 8 mẫu người tâm lý, do phối hợp 4 tác động của ý thức và 2 thái độ của tâm thức: • Bốn tác động của ý thức: 1. Suy tư 2. Tâm tình 3. Cảm nhận 4. Trực giác • Hai thái độ của tâm thức: https://thuviensach.vn 1. Hướng nội 2. Hướng ngoại • Tám mẫu người tâm lý: 1. Suy tư hướng nội 2. Suy tư hướng ngoại 3. Tâm tình hướng nội 4. Tâm tình hướng ngoại 5. Cảm nhận hướng nội 6. Cảm nhận hướng ngoại 7. Trực giác hướng nội 8. Trực giác hướng ngoại D. MỘT BUỔI DẠ TIỆC – NHỮNG MẪU NGƯỜI TÂM LÝ[14] Để ôn nhớ những nét đặc thù, những sắc màu và những hình hài phối kết về các mẫu người tâm lý, chúng tôi sẽ trình bày sau đây một câu chuyện hư cấu về một buổi dạ tiệc do một mệnh phụ chiêu đãi bảy người khách thân quý của bà. Chủ nhà và bảy người khách có danh sách như sau: 1. Bà chủ nhà 2. Một luật sư tài năng 3. Một nữ kỹ sư được quý chuộng 4. Một người buôn chứng khoán có tiếng https://thuviensach.vn 5. Một nhạc sĩ trầm lặng huyền bí 6. Một nhà khoa học nổi tiếng 7. Một nhà sưu tầm nghệ thuật, tính ít nói 8. Một thi sĩ lừng danh (ông quên mất giấy mời) Tám nhân vật này là những thí dụ cụ thể giúp ta hiểu dễ dàng hơn các mẫu người tâm lý theo C.G. Jung. 1. Bà chủ nhà của chúng ta rất thành thạo trong công việc giao tế. Bà chưng dọn rất chính xác phòng ốc với hệ thống ánh sáng, bà chọn thứ sâm banh hảo hạng, để mọi người đều có thể vô cùng thoải mái và thích thú thư giãn trò chuyện. Bà có một cảm quan chính xác phải mời ai hay không mời ai, và xếp đặt họ ngồi đứng ở chỗ nào cho thích hợp nhất. Tự bản tính bà là người ưa thích giao tiếp; trong tủ lạnh luôn có sẵn những món ăn lạ; một vài buồng ở cho khách vẫn luôn có sẵn chăn mền và các bình hoa tươi, để bất chợt có khách đến thì vẫn luôn sẵn sàng đón tiếp. Bà mua sắm quần áo dĩ nhiên là sang trọng và hợp thời trang nhất từ các cửa hàng lớn ở Paris và London; mùa nghỉ thì dĩ nhiên đi các miền núi ở Thụy Sĩ hay các vùng biển ở Côte d’Azur miền Nam nước Pháp... Bà chủ nhà của chúng ta như thế hẳn là thuộc mẫu người tâm tình hướng ngoại với rất nhiều hơi hướng chinh phục cả thế giới đàn ông. 2. Nhà luật sư tài năng: Ông là một người chặt chẽ nắm giữ các quy định, luật pháp, điều lệ và những sự kiện tai nghe mắt thấy. Ông đã thành thạo tích chứa vào trí nhớ không biết bao nhiêu là văn bản luật pháp và đúng lúc thì sử dụng một cách rất tài tình khúc chiết, để cả những việc sai lầm hoặc khờ dại của các khách hàng của ông cũng được hiện ra trong hào quang thuận lợi; và đó là một công việc đã từng đem lại cho ông rất nhiều thành tích và sự tán thưởng. Ông biết phải dàn dựng chắp nối các sự việc với nhau như thế nào, tìm tòi cho ra nguyên nhân với hệ quả, và khi cần thì cũng biết dè dặt kín đáo với một số thông tin hay sự kiện nào đó. Giày dép của ông luôn được lau chùi đánh bóng, áo quần luôn được là ủi cứng nếp... Nhà luật sư tài năng của chúng ta chắc hẳn thuộc mẫu người suy tư hướng ngoại có nhiều cảm nhận và phần nào trực giác như là những chức năng phụ tá. https://thuviensach.vn 3. Nữ kỹ sư được quý chuộng: Bà có khả năng suy nghĩ rất thực tế, là người biết giải quyết mọi vấn đề, là người hòa giải, và bà không tránh né một cuộc tranh luận nào. Bạn cứ gọi điện đến bà ta, khi phải xây một cây cầu nối liền hai hòn đảo hay phải đặt một ống nước xuyên qua cả một ngọn đồi lớn. Hoặc khi cây ăn trái xuất khẩu của cả một nông trại phải được thay đổi hệ gene hoặc phải được thích ứng với một miền đất lạ. Làm sao ta có thể có trứng la cốc ba phút (oeuf à la coque) trong mười giây đặt lên bàn ăn, nếu lò vi ba (microwave) không được phát minh? Với khả năng cảm nhận hướng ngoại rất vững chắc, bà kỹ sư của chúng ta đã dễ dàng nhìn ra ngay những thực tại khách quan và nghiên cứu chúng một cách rất chính xác. Bà lại còn được bổ sung nhờ suy tư và tâm tình như hai chức năng phụ tá để càng dễ dàng đối phó với các sự kiện thực tế. Tác động cảm nhận hướng ngoại bình thường không những đã giúp phát minh ra Cocacola, gà rán Kentucky và thịt hầm McDonald’s, mà còn khai mở và đứng tên những chương mục tại các ngân hàng Thụy Sĩ. 4. Một người buôn chứng khoán có tiếng: Bà này đặt văn phòng làm việc ngay tại khu phố tài chánh Wall Street, nơi bà góp phần quay tít bánh xe thị trường chứng khoán. Bà có một trực giác vô cùng đặc biệt, linh cảm được cổ phần nào sẽ lên, cổ phiếu nào sẽ xuống. Bà biết ngay đâu là tuy-ô gặp hên hoặc đâu là đường dây xui xẻo. Tại các Casinô Las Vegas bà cứ hoài hoài gặp vận đỏ, nhưng trên tình trường thì ôi thôi không mấy may mắn. Bà thao thao phát ngôn và có tài thuyết phục hết mọi người về hết mọi chuyện, nhất là các khách hàng giàu sụ của bà; họ biết giác quan thứ sáu của bà không bao giờ nhầm lẫn. Nữ gia thị trường chứng khoán của chúng ta quả thật là mẫu người trực giác hướng ngoại, cộng thêm tài năng suy tư và tâm tình như hai phụ tá bồi lễ. 5. Một nhạc sĩ trầm lặng huyền bí: Nhạc sĩ của chúng ta đối với mọi người là một bí ẩn đầy hấp dẫn. Người ta có cảm tưởng chàng hoàn toàn là một “a pa” (apathetic) “ăng-lê chính cống”, nhưng người ta cũng nghĩ rằng, anh đang đắm mình trong triều sóng nhạc vũ trụ. Nhưng không ai biết rõ đích thực ra sao, cho đến khi bà chủ nhà đề nghị anh thử dạo một vài điệu vĩ cầm, đang khi trong phòng xa-lông Cappucino và bánh ngọt Vienna được bưng ra mời khách. Tiếng đàn huyền diệu quyến rũ đến ai nấy đều quên mất đi hơi thở, trong khi bà chủ nhà nghiêng mình và thỏ thẻ cho biết, nhạc sĩ đã mười năm nay, nếu không phải là lâu hơn nữa, từng âm thầm và đắm say “phải https://thuviensach.vn lòng” bà... Mẫu người tâm tình hướng nội của chàng nhạc sĩ là điều quá rõ, nhưng rồi với hai tài năng phụ tá là cảm nhận và trực giác rất hướng ngoại của chàng nhạc sĩ vĩ cầm có thể giúp ta tìm đến những dòng cảm hứng mãnh liệt và sâu xa nhất trong tận đáy lòng anh. 6. Một nhà khoa học nổi tiếng: Đây, nhà suy tư hướng nội của chúng ta có lẽ đang bàn về nền triết lý thời tiền-Socrat. Ông thông giải nền triết lý này như là động lực đích thực cho những cuộc hành quân lịch sử của Đại đế Alexander hướng về phương Đông[15]. Lý giải này đã gây một ấn tượng rất lớn trên mẫu người đối trọng của bà chủ nhà với tâm tình hướng ngoại, làm cho bà hết lời ca tụng thiên tài của nhà khoa học – vị khách quý của bà. Nhà khoa học lại được các tài năng phụ tá là cảm nhận và trực giác (cũng cùng những tài năng phụ tá như của bà chủ nhà, nhưng nơi bà thì lại hướng ngoại) hỗ trợ và nhờ đó đã diễn tả tư tưởng cao siêu của ông qua nhiều thác lũ văn chương hùng biện và nhiệt tình. 7. Một nhà sưu tầm nghệ thuật tính ít nói: Ông là người đầy kinh nghiem trong nghệ thuật thưởng thức các món ăn “cao luơng mỹ vị”, ông đã từng nếm những loại Beaujolais tinh tế nhất, đã từng biết đến những cảnh trang trí “mã ngoài” (trompe l’oeil) hay giả cẩm thạch, và nay là sự diễn xuất tuyệt vời của nhạc sĩ vĩ cầm về một kiệt tác bị thất lạc của đại danh nhân vĩ cầm thế giới Paganini[16]. Toàn bộ buổi dạ tiệc đối với nhà sưu tầm nghệ thuật – mẫu người cảm nhận hướng nội của chúng ta – quả đã là một phương thuốc trị liệu cho toàn diện cơ bắp và gân cốt. Ông vui thỏa thích thú dường như bị mê hoặc tận xuơng tủy tâm can với đoàn khách quý, với phong vị tinh tế của nữ gia chủ và cả với tài nghệ của người đầu bếp mà bà chủ nhà vừa mới trao cho công việc. 8. Một thi sĩ lừng danh: Sự vắng mặt của nhà thơ nổi tiếng và dễ thương – mẫu người trực giác hướng nội – (khách mời số 7), kẻ được coi là thường xuyên cư ngụ tại các vùng trời ngoài đất liền, sự vắng mặt đó đã được mọi khách mời để ý. Tập thơ của ông vừa mới được xuất bản cách đây không lâu là một thành công vĩ đại. Công trình này cũng là nhờ một nữ đại lý khôn khéo và can đảm, phút cuối đã nhảy vào trợ giúp thi sĩ, và trong buổi cơm tối liên hoan sự khai sinh của nàng Thơ, cô ta đã mừng lên cân ít là hai kí. Còn thi sĩ của chúng ta thì hôm sau ngày dạ tiệc đã điện thoại đến nữ gia chủ để cáo lỗi vì sự vắng mặt của ông ngày hôm trước; bởi cuối cùng thì nhờ vào các tài https://thuviensach.vn năng phụ tá suy tư và tâm tình của mình mà nhà thơ đánh giá tuyệt đối đúng một hoàn cảnh và có thể cứu vãn lại một bước sẩy chân không tha thứ được. Chàng thế nào rồi cũng lại được mời, bởi thật là một điều vô cùng hấp dẫn được có dịp nói chuyện với nhà thơ, dĩ nhiên là nếu nàng Thơ còn nhớ nhắc nhở thi sĩ rằng chàng còn có một cái hẹn đi dự một buổi dạ tiệc. [12] Trong nguyên văn bằng tiếng Đức và tiếng Anh, C.G. Jung dùng những từ sau đây: Funkstionstypen, functions (những loại tác động của ý thức) và: Denken, Fühlen, Empfinden, Intuition; Thinking, Feeling, Sensation, Intuition (Bốn loại tác động đó là: suy tư, tâm tình, cảm nhận, trực giác). [13] Trong nguyên văn bằng tiếng Đức, C.G. Jung dùng những từ sau đây: Einstellungstypen (những loại thái độ) và: Introversion, Extraversion (hướng nội, hướng ngoại). [14] Câu chuyện “Buổi dạ tiệc” này được trích dịch từ quyển “Sich selber kennen: C.G. Jung Psychologie” (“Biết mình – Theo Tâm lý của C.G. Jung”) của tác giả Eugene Pascal, Hamburg 1995, 44-47. [15] Nền triết lý “tiền-Socrat” vào thế kỷ 6 – 5 TCN đã lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đưa ra quan điểm lấy tư duy (logos) thay thế huyền thoại (mythos) để giải thích vũ trụ, con người và lịch sử. Có thể chăng đó là lý do thúc đẩy Đại đế Alexander (356 – 323 TCN) hành quân về miền Đông để làm lại lịch sử. [16] Niccolo Paganini (1782 – 1840) nhạc sĩ và sáng tác nhạc lừng danh khắp châu Âu và được xem là cây vĩ cầm vĩ đại nhất của mọi thời. https://thuviensach.vn Chương 4 NHỮNG VAI TRÒ XÃ HỘI NHÂN VẬT (PERSONA) A. NHỮNG VAI TRÒ TRONG XÃ HỘI Chúng ta vừa bàn đến ý thức cũng như những tác động và thái độ của ý thức khi đối diện với các sự vật và các biến cố bên ngoài cũng như bên trong con người. Trong vùng ánh sáng của ý thức thức tỉnh ban ngày, cái Tôi giữ vị thế chủ thể và trung tâm. Nhờ cái Tôi mà ta nhìn nhận sự vật, phê phán và phẩm định, thảo hoạch chương trình, nhất tâm quyết định. Bản thân ta chính là cái Tôi hành sự. Nhưng đàng khác chúng ta cũng bị ràng buộc vào thực tại xã hội. Đối diện với những người khác, chúng ta có một vai trò nhất định: là một công dân, thầy giáo, khách hàng, bệnh nhân, một con người bị ràng buộc một cách nào đó vào cuộc sống với các định chế, tập tục, thói quen, quan niệm của tập thể xã hội. Điều đó cũng là thực trạng chung cho mọi người đối tác của chúng ta. Vấn đề nay được đặt ra là với thực trạng nói trên, có phải thực thụ cái Tôi của chúng ta hành sự hay chúng ta chỉ là một “nhân vật”, một “kẻ đóng một vai trò” nào đó trong xã hội? Sự kiện này dễ được nhìn ra nơi kẻ khác hơn là nơi chính bản thân. Chẳng hạn như ta sẽ có cảm giác bất ổn và khó chịu, khi một đối tác xuất hiện dưới bộ mặt một nhân viên hành chánh quá câu nệ với chức tước quyền hành hay một chủ hàng quá lời đưa đẩy quảng cáo, thay vì một con người chân tình và trung thực trong bản tính cũng như trong lời nói và thái độ của mình. Và chắc chắn một đôi khi chúng ta cũng đã bất chợt bắt gặp chính mình đang thủ những “vai trò” các “nhân vật” như thế. Theo nguồn gốc và nguyên tự thì từ “persona” mà C.G. Jung dùng ở đây để chỉ “vai trò” và “nhân vật” con người giao tế trong xã hội, là chiếc “mặt nạ” mà các nghệ sĩ tuồng kịch thời cổ đại đã mang vào mặt để nói lên nhân vật của vai tuồng họ diễn xuất: như đây là thần mặt trời, kia là nữ thần mặt trăng, và nọ là một vị anh hùng dân tộc hay một nhà thơ nổi tiếng của thời đại. Cũng giống như trong các tuồng kịch hay trong các điệu múa dân gian Việt https://thuviensach.vn Nam của chúng ta cả cho đến ngày hôm nay như múa lân, múa sư tử, các nghệ sĩ của chúng ta cũng còn thường mang những “mặt nạ”, nếu không còn với ngọc hoàng hay táo quân, thì cũng vẫn còn với bà địa... Ngoài ra, nguyên tự của từ “persona” (La tinh: per-sonare) cũng chỉ đến chiếc “mặt nạ” mà các nghệ sĩ tuồng kịch thời xưa dùng để “khuếch đại” giọng nói của họ ra trong những hội trường lộ thiên ngoài nương đồi rộng lớn. B. “NHÂN VẬT, MỘT THỎA HIỆP GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI” (GW 7, 173) Nhân vật là một mảnh cái Tôi hướng về ngoại giới, là một kết hợp các tác động và thái độ của con người phát xuất từ đòi hỏi thích nghi hay vì lý do tiện lợi, chứ nó không phải là chính cá tính của một con người (GW 6, 505). Nhân vật nhất thiết hướng ra ngoài trong quan hệ với các sự vật và đối tượng. Nói cách khác, nó là một “thỏa hiệp” giữa đòi hỏi của ngoại cảnh và cấu trúc thiết yếu của cá nhân. Nhân vật tự nó không phải là một điều tiêu cực, như hình ảnh và từ ngữ của nó có thể gợi ra hoặc có thể dẫn tới: mặt nạ, vai trò, đóng kịch, con người của quy ước và hình thức... Trái lại, nhân vật trước tiên bao hàm một ý nghĩa tích cực; nó giữ một vai trò bảo vệ và che chở. Nó là điều mà mỗi con người đều cần đến để xuất hiện, để giao tế, để liên lạc và sống chung. Nó cũng cần thiết để kẻ khác có thể nhận diện được mình trong xã hội: đây là luật sư, thầy giáo, bác sĩ, bệnh nhân, nhân viên công chức... Nhưng đồng thời nó cũng sẽ trở nên vô cùng tai hại, nếu con người chỉ còn là công lệ, là quy ước, là công thức, là nhãn hiệu, không còn diễn tả được cá tính nữa, bản sắc, bản vị, con người đích thực và trung thực. Trong trường hợp này, con người sẽ bị chết ngộp trong chức vị, danh hiệu và quy ước. Chiếc “mặt nạ” của tuồng kịch sẽ trở nên chiếc “mặt nạ” đích thực trong cuộc sống. Diễn tả một cách chuẩn xác và ngắn gọn: nhân vật là một sự thỏa hiệp giữa những điều xã hội chờ đợi ở ta và con người với bản sắc cá tính của mình. Ta thử nhìn vào một vài trường hợp cụ thể: một nhà giáo, một luật sư, một bác sĩ, một thứ trưởng bộ trưởng hay một vị chức sắc các tôn giáo không thể đến trụ sở làm việc hay ra ngoài đường phố với một bộ đồ chằm đụp lem luốc. Nói năng và chào hỏi, họ cũng phải diễn tả một cách văn minh lịch thiệp, không thể bừa bãi xưng hô tao mày hoặc hò la quát mắng như ngoài chợ trời. https://thuviensach.vn Nhưng khi từ sở làm trở về nhà, các vị nói trên lại phải biết “thay đổi áo quần”, tức “vai trò” và “nhân vật” ngoài xã hội. Họ không thể với vợ con dùng cùng một ngôn ngữ, bộ điệu và cách thức cư xử như ở sở làm. Ông bố thay vì bồng ẵm con nhỏ lên người, không thể bắt tay như đối với một quan chức ở nhà khách chính phủ. Để sống và cư xử tương ứng với những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống giao tế trong xã hội, con người phải nhìn ra chỗ đứng, vai trò, tư thế nhân vật khác nhau của mình với những quy ước nhất định của xã hội. Nhưng đồng thời, vai trò trong xã hội không thể làm mất đi bản sắc cá tính của con người, bởi một nhân vật luôn bao hàm trong mình hai vế thực tại: con người và vai trò, bản sắc cá tính và quy ước xã hội. Thể hiện được cả hai thành tố đó, tức có thể trở nên một “nhân vật” đích thực và trung thực. C. NHÂN VẬT VÀ TIẾN TRÌNH TRƯỞNG THÀNH Một nhân vật đích thực và trung thực không phải chỉ đáp ứng hai đòi hỏi cơ bản là trung thực với cá tính và đích thực thực thi những quy ước chính đáng của tập thể. Nhân vật cũng như mỗi một con người vẫn còn một đòi hỏi cơ bản thứ ba là mãi mãi “trở nên chính mình”. Đó là đòi hỏi trở nên một con người và một công dân “trưởng thành”, trong hướng thực hiện được tất cả các chiều sâu và rộng của hệ tâm thức. C.G. Jung gọi đó là tiến trình “Thành tựu bản thân” hay “Thành toàn Tự ngã”. Jolande Jacobi – nhà Tâm lý học Chuyên sâu theo trường phái C.G. Jung, là học trò trực tiếp và là cộng sự viên của C.G. Jung – đã nêu lên ba thành tố cơ bản của một “nhân vật hành sự chuẩn xác và đích thực”: (a) con người quy ước, nghĩa là hình ảnh con người mà xã hội đòi hỏi được thực hiện nơi mỗi người; (b) con người cá thể, nghĩa là cá nhân trong điều kiện tâm lý và thể lý hiện hữu nhất định; (c) cái Tôi-Lý tưởng, nghĩa là hình ảnh ước mong mà mỗi người mang trong mình và muốn thể hiện. (Jacobi 1999, 36). Thiếu một hoặc hai trong ba thành tố cơ bản trên đây, một “nhân vật” sẽ không thể thực hiện được chức vụ và địa vị của mình, và như thế sẽ ngăn cản công việc phát triển của chính bản thân. Một “nhân vật” đích thực và trung thực sẽ là điều kiện tiên quyết cho “sức khỏe tâm linh” và đồng thời cũng là một đòi hỏi quan trọng để chu toàn các chức năng của con người trong xã hội. Một lớp da lành mạnh sẽ có khả năng https://thuviensach.vn giúp các tế bào và cơ quan trong cơ thể lưu thông trao đổi không khí và phục hồi sự sống; nhưng nếu lớp da khô cằn và đầy ghét bụi, nó sẽ làm bế tắc cản trở việc trao đổi dưỡng khí và như thế gây hư hoại cho các tế bào và cơ thể. “Nhân vật” cũng vậy, một “nhân vật” hành sự chuẩn xác và đích thực sẽ giúp con người và Tự ngã biết giao hòa trao đổi lành mạnh với ngoại giới xã hội; nhưng nếu con người đồng nhất mình với “vai trò” của nhân vật, con người sẽ đánh mất đi năng lực, bản sắc, cá tính và phẩm chất con người toàn diện của mình. (Jacobi 1999, 39). Friedrich Nietzsche (1844 – 1900) diễn tả chân lý đó qua một châm ngôn cơ bản: “Bạn hãy trở nên kẻ là chính Bạn!”. Châm ngôn này cũng là tiêu đề nói lên mục đích và công trình của C.G. Jung trong tiến trình giúp con người trưởng thành và thành tựu bản thân. https://thuviensach.vn Chương 5 THẾ GIỚI MẶC CẢM A. XÁC ĐỊNH SỰ KIỆN Trong cuộc sống bình thường của nền văn hóa phổ thông hiện tại, chúng ta thường nghe nói và cũng thường sử dụng những cụm từ như “mặc cảm tự ti”, “mặc cảm tự tôn”, “mặc cảm sai lầm”, “mặc cảm tội lỗi”, anh này cô nọ “mặc cảm đầy mình”, ông này bà kia đầu óc cứ như bị cái gì “ám ảnh” (có nơi gọi là “in trí”), hay “bốc đồng”, phản ứng “cực đoan”, dễ bị “khích động”, dễ “mủi lòng”, hay “hoảng sợ”, “thiếu tự tin”, hay “bẳn gắt”, hay “quát mắng”, hay “phê bình”, luôn “tự đề cao”... Những mặc cảm nêu trên đây phần lớn thuộc loại tâm trạng và thái độ sống, dựa trên cơ sở nhận định về giá trị của bản thân. Có một số mặc cảm khác do bản năng sinh tồn khích động như: mặc cảm giới tính, mặc cảm ăn uống, mặc cảm tằn tiện (“keo kiệt cá gỗ”[17]), mặc cảm phô trương, mặc cảm quyền thế, mặc cảm ganh tị... Đứng về bình diện tương quan liên lạc, ta có những mặc cảm bố, mặc cảm mẹ (Freud gọi là “complexe d’Oedipe”[18]), hoặc những mặc cảm biến thể từ hai mặc cảm bố mẹ trên đây, như mặc cảm anh chị em, mặc cảm cô cậu dì dượng, mặc cảm ông bà nội ngoại, và đến cả mặc cảm tổ tiên tiền bối... Nhìn về tiến trình phát triển con người, có những mặc cảm như mặc cảm vai trò trong xã hội (mặc cảm nhân vật: persona), mặc cảm bóng âm (shadow), mặc cảm đàn bà (mặc cảm linh âm: anima), mặc cảm đàn ông (mặc cảm linh dương: animus), mặc cảm cái Tôi, mặc cảm tự thân, mặc cảm bản ngã hay Tự ngã (Self)... Còn một loại mặc cảm nữa bắt nguồn trực tiếp hơn từ những mẫu tượng (archetypes) sơ cổ nhưng cơ bản của hiện hữu con người và được diễn tả dưới hình dạng những “mẫu hình lý tưởng” như: người tiền phong khai phá, chàng trai trẻ hướng đạo, con người tuẫn tiết, chiến sĩ bưng biền, anh hùng hảo hán https://thuviensach.vn (bên Tây có “mặc cảm Napoléon”, “mặc cảm Robin Hood”: người anh hùng đoạt của nhà giàu đem phân phát cho người nghèo), liệt vị cứu tinh, thục nữ anh hùng... và hàng ngàn gương mặt anh hùng khác như đã được nhà nghiên cứu dị sử, thần thoại và tôn giáo loài người, Joseph Campbell, ghi lại[19]. Mặc cảm ám ảnh đến nỗi không những có thể làm con người mất tự chủ, mà còn làm cho con người tự xem mình là chính người này vật kia – tâm lý gọi đây là hiện tượng “trùng đôi nhân cách” (double personality) – chẳng hạn như: là chồn là thỏ, là pháp sư là phù thủy, là quỷ thần là thiên sứ, cả đến là Đức Phật hồi sinh hay là Đấng Christ tái lâm... Mặc cảm: ai cũng đều có, và có nhiều hơn bình thường người ta tưởng. C.G. Jung nói, tâm thức con người là cả một thế giới đầy mặc cảm. Nhưng mặc cảm không phải chỉ là tiêu cực, mà – may thay – cũng có và có nhiều mặc cảm tích cực. Và đây cũng lại là một đóng góp cơ bản của C.G. Jung cho ngành tâm lý hiện đại và sự phát triển con người. C.G. Jung còn nói: không phải chiêm mộng (như Freud nghĩ), nhưng chính mặc cảm là “con đường cái quan” (là “vương lộ”: via regia) dẫn đưa xuống thế giới vô thức[20]. Mặt khác, trong khi ta vẫn thường nghe nói và thường sử dụng những cụm từ mặc cảm, đồng thời vẫn thường không ít bực dọc về những mặc cảm tiêu cực trong chính mình cũng như nơi những người khác, thì có lẽ chính bản thân ta cũng như nhiều người lại đã không hiểu rõ mặc cảm là gì, từ đâu tới, tác động ra sao và nhất là phải giải quyết như thế nào. Trong lĩnh vực này, C.G. Jung đã cống hiến những đóng góp rất quan trọng trong việc tìm hiểu, để rồi tháo mở những mặc cảm tiêu cực và phát triển những mặc cảm tích cực, giúp con người thể hiện một cuộc sống cân bằng, tự chủ, tròn đầy và thư thái hạnh phúc. B. MẶC CẢM LÀ GÌ, TỪ ĐÂU TỚI, CẤU TRÚC RA SAO, CÓ NHỮNG PHÂN LOẠI NÀO, TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO? Với “trắc nghiệm liên tưởng” dựa trên một số “từ khích động”, ví dụ như từ cha, mẹ, tiền bạc, tình yêu, sự nghiệp, quyền thế, danh dự, ly hôn, chết... C.G. Jung đã nhận ra nơi những người làm thử trắc nghiệm một số “phản ứng với nhiều xúc động”. Những “phản ứng đầy xúc động” đó cho thấy một “tình trạng nội tâm xáo trộn”, và tình trạng xáo trộn này là hệ quả của một số “ý nghĩ nặng cảm xúc”. Và theo C.G. Jung, đó là định nghĩa của mặc cảm: “Tụ https://thuviensach.vn kết một số ý nghĩ nặng cảm xúc”. Ta hãy hình dung một hoàn cảnh cụ thể của bản thân, như khi ta bị người yêu từ bỏ, bạn bè lừa gạt, hàng xóm cáo gian, đồng nghiệp chê bai, thượng cấp xét xử bất công, nhà cửa bị đốt cháy, ruộng đất bị cướp sạch, tương lai với hai bàn tay trắng, ngày mai không công ăn việc làm, viễn ảnh một cuộc sống vô vọng, bản thân là cả một thất bại... Hoặc, những hoàn cảnh như khi ta cứu được một em bé chết đuối, cứu được một cô gái bị hãm hiếp, hay giãi bày được cho một nạn nhân bị xử oan... Có lẽ như thế ta dễ nhận thấy hơn những cảm xúc khổ cực, chán nản, bực tức, căm thù, hoặc vui mừng, hiên ngang, danh dự... dâng trào lên trong tim ta, lên đầy cổ họng, diễn ra nơi giọng nói, tiếng khóc, tiếng cười, đôi môi bặm lại, đôi mắt đẫm lệ hoặc rạng ngời chói sáng... Những “phản ứng đầy xúc động” như thế diễn tả một “tâm trạng xáo trộn” – hoặc vì vui mừng hiên ngang, hoặc vì bực tức tủi nhục – và “tâm trạng xáo trộn” này là hệ quả của “một số ý nghĩ mang nặng cảm xúc”, vừa khó hiểu vừa vượt quá sức kiểm soát của ta, chúng xâm nhập và chiếm đoạt ý thức, ý chí và tình cảm (Ta lưu ý: “mặc cảm” theo nguyên tự Hán Việt là “cảm xúc đen tối”, khó hiểu, huyền nhiệm). C.G. Jung định nghĩa thêm: “mặc cảm” là “những phần bản vị con người bị tách lìa ra”, là “những thực tại tâm lý tuột ra khỏi tầm kiểm soát của ý thức” (GW 6, 988), là “những vầng sáng chói lọi của ý thức” (Bewusstseinsluminositten). Frieda Fordham, một học trò trực tiếp của C.G. Jung, nói: Mặc cảm là như “những vùng nam châm tâm lý”[21]tụ kết ý nghĩ, cảm xúc, tâm tình. Đây là “những vùng nam châm tâm lý”, nghĩa là không phải chỉ có hai chiều, mà là đa phương, kể cả những chiều siêu cá nhân (trans-personal) trong nghĩa liên vị, vượt cá thể và siêu tâm linh. Theo các định nghĩa của C.G. Jung, thì mặc cảm trong cấu trúc gồm hai yếu tố: “yếu tố hạt nhân” – như là một “nội kết” (nodalpoint) – tức yếu tố mang ý nghĩa, thường ta không ý thức mà cũng không điều khiển được; và thứ hai là “yếu tố phần ngoài”, tức một số liên tưởng phát xuất một phần từ hoàn cảnh cá nhân, một phần từ môi trường văn hóa xã hội (GW 9/2, 51). Mặc cảm có hai loại phát xuất từ hai nguồn: một là nguồn cá nhân, thường xuất phát từ một kinh nghiệm đau thương hay tủi nhục. Kinh nghiệm đó nửa https://thuviensach.vn bàng bạc trong ý thức nửa ẩn hiện trong tiềm thức; do đó được gọi là mặc cảm của bản thân hay của vô thức cá nhân. Nguồn xuất phát thứ hai từ vô thức tập thể, thông qua những hình ảnh sơ cổ và trường tồn gọi là mẫu tượng (archetypes) được lưu truyền trong các truyền thống văn hóa và tôn giáo của loài người. Sự phân chia trên đây dĩ nhiên chỉ có tính cách sư phạm cho dễ nhận định, còn trong thực tế thì không hề có những mặc cảm đứng độc lập một mình như những hải đảo. Nhiều thứ và nhiều loại mặc cảm được đan kết, phối hợp và tham chiếu với nhau: giữa các nguồn phát xuất là cá nhân và tập thể, cũng như giữa các loại mặc cảm như tâm trạng và thái độ, bản năng sinh tồn, tương quan liên lạc, tiến trình phát triển... Để minh họa sự hình thành, phối hợp và tham chiếu giữa các mặc cảm với nhau, nhất là giữa hai tầng cấu trúc là “yếu tố hạt nhân” và “yếu tố phần ngoài”, ta lấy ví dụ hình ảnh “người cha”: một Thượng đế theo văn hóa Trung Hoa, Brahma theo văn hóa Ấn Độ, Zeus theo văn hóa Hy Lạp, Jehova Đấng Hằng hữu Tự hữu theo mạc khải Do Thái... Hình ảnh “người cha” đó dâng trào lên từ các miền vô thức của loài người và tụ kết như “yếu tố hạt nhân” (dĩ nhiên với tính cách tương tự: analogous); và ta có thể nói đến một “mặc cảm người cha” khi thực tại của hình ảnh người cha nói trên xáp chạm với tâm trạng hiện thời của bản thân một cá nhân con người, đưa đến một “cảm xúc cao độ” hoặc về tính tuyệt đối, hoặc về tình yêu đầy thương xót và lân mẫn của Đức Chúa Trời luôn thành tín và rộng lượng tha thứ. Một khi được “tụ kết” (konstelliert: constellated) lại như thế, mặc cảm mang một sinh lực vượt hẳn khả năng suy nghĩ, cảm xúc và nhận thức bình thường của con người, và mặc cảm tồn tại trong ý thức như một “thực tại sinh động xa lạ” (“belebtes corpus alienum”)[22]. Do đó C.G. Jung nói: “Ngày nay ai nấy đều biết, mọi người đều có mặc cảm, nhưng sự kiện mặc cảm chiếm đoạt con người là điều ít người biết”[23], mặc dầu chính đó là vấn đề cơ bản cần phải nắm vững, để đừng quá tự hào hoặc quá tự tin về ý thức được đề cao là tuyệt đối của con người, và để từ đó có thể rộng mở ý thức của con người ra những thực tại lớn lao hơn nữa. C. GIẢI MỞ VÀ PHÁT HUY MẶC CẢM https://thuviensach.vn Đứng trước mặc cảm, con người có thể có bốn thái độ sau đây: vô ý thức, đồng nhất với mặc cảm, phóng chiếu mặc cảm lên kẻ khác, giáp mặt với mặc cảm. Chỉ có thái độ sau cùng này mới là thái độ có khả năng giải mở và phát huy mặc cảm. Giáp mặt với mặc cảm trước hết là ý thức ta có mặc cảm và biết được mặc cảm đó từ đâu tới và mang những nội dung gì. Bước đi thứ nhất này đôi khi cũng đưa lại phần nào giải quyết; giống như sợi dây thừng, trong bóng đêm người ta mới nhìn lầm thành con rắn; nhưng trong ánh sáng ban ngày, người ta sẽ thấy rõ, sẽ phân biệt và sẽ không còn sợ hãi một sợi dây bất động. Nhưng bình thường chỉ ý thức mà thôi vẫn chưa đủ để có thể làm chủ được mặc cảm, nghĩa là để giải mở và phát huy mặc cảm. Bởi – như đã được định nghĩa – mặc cảm là “kết tụ những ý nghĩ mang nặng cảm xúc”, và nếu đó là những cảm xúc đau thương tủi nhục, thì sự ý thức mà thôi vẫn sẽ còn bất lực để giải mở mặc cảm. Những “năng lượng tâm thức” bị dồn nén và đầy chất nổ của mặc cảm cần phải được giải tỏa, dâng cao, “thăng hoa” (Freud: sublimation), “chuyển hóa” (C.G. Jung: transformation). Bước đi này là một tâm trạng thông cảm, thịnh tình, âu yếm (empathy) đối với những vết thương của tâm thức, những xúc phạm, bất công, nhục mạ mà tâm thức phải gánh chịu. Cần có cảm tình và cần nói chuyện với mặc cảm, với vết thương tâm thức như với một người thân. Vả lại mặc cảm một cách nào đó cũng thật là những nhân vật mang những tính tình riêng biệt của chúng. Cuộc đối thoại này rất cần thiết, không thể không thực hiện. Và không ai khác có thể làm thay thế cho chính mình. Điều này đòi hỏi chút ít óc châm biếm và trí sáng tạo, và rồi ta sẽ rất bất ngờ về kết quả tích cực của nó. Bước đi tiếp theo – bước quan trọng và quyết liệt trong tiến trình trưởng thành con người – đó là bước “thăng hoa” hay “chuyển hóa”[24] các vết thương, các mặc cảm của bản thân. Những vết thương, những mặc cảm đau thương tủi nhục, nếu bao lâu chúng không được giải mở thì bấy lâu chúng vẫn nằm chôn vùi dưới những tầng sâu của vô thức, nhưng chúng vẫn không ngừng hoạt động, giống như những đợt sóng ngầm hay những núi lửa đang âm ỉ trong lòng đất, chờ lúc thuận tiện sẽ trào dâng lên, nổ tung ra, lôi cuốn tất cả theo mình. Có những phương pháp và những kỹ thuật tâm lý giúp nhìn biết các vết https://thuviensach.vn thương của mặc cảm, đưa chúng lên vùng ý thức, tiếp nhận chúng trong thân tình âu yếm, đặt chúng vào những tầng tâm thức cao, dày, sâu, rộng mà ta gọi là “siêu cá nhân” (trans-personal). Khoa Tâm lý Chuyên sâu sử dụng những phương pháp và những kỹ thuật tâm lý như phân tâm, giải mã chiêm mộng, chủ động tưởng tượng (active imagination), thực hiện các nghệ thuật tạo hình. Các truyền thống văn hóa và tôn giáo của nhân loại đều có những phương thức sinh hoạt tâm lý và tâm linh – tuy trực tiếp với chủ đích tập trung vào tư tưởng, nghệ thuật và tinh thần – nhưng đã đem lại những kết quả lớn lao về mặt dưỡng sinh và trị liệu tâm lý. Những phương thức sinh hoạt tâm lý và tâm linh đó đã góp phần vào việc “thăng hoa” và “chuyển hóa” những mặc cảm, đồng thời đón nhận những “năng lượng tâm thức và tâm linh” hàm chứa trong các mặc cảm – nhất là các mặc cảm phát xuất từ vô thức tập thể với những mẫu tượng đầy năng lượng sáng tạo của chủng loại con người – để phát triển đến thành toàn tâm thức và Tự ngã của con người. D. MẶC-CẢM-TÔI VÀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Cụm từ “mặc cảm Tôi” hay “mặc cảm cái Tôi” thường gợi lên trong chúng ta một cảm giác và ấn tượng tiêu cực, trong nghĩa một “tụ kết những ý nghĩ nặng cảm xúc” mang tính vị kỷ, thiên về chính mình. Điều ấy có thể đúng trong thực tế. Nhưng tự bản thân, mặc cảm là trung tính, với định nghĩa là “nội kết những ý nghĩ mang nặng cảm xúc”. Chính C.G. Jung đã quan niệm như thế. Ngay trong phần đầu của phân đoạn nói về mặc cảm, ta đã thấy C.G. Jung quan niệm mặc cảm không chỉ có tiêu cực mà cũng có tích cực. Riêng về mặc cảm Tôi, C.G. Jung đã định nghĩa một cách khách quan: Mặc cảm Tôi là trung tâm của ý thức, là nội dung của ý thức, là điều kiện của ý thức trong nghĩa một yếu tố tâm lý sở dĩ được ý thức và biết đến là nhờ nó liên hệ được với mặc cảm Tôi (GW 6, 810). Diễn tả một cách khác: Theo C.G. Jung, mặc cảm Tôi là một trong nhiều mặc cảm, nhưng là một mặc cảm trung tâm. Các mặc cảm khác có liên hệ hoặc nhiều hoặc ít với mặc cảm Tôi và nhờ đó mà chúng được ý thức, được biết đến (GW 8, 582). Và như thế, Mặc-cảm-Tôi được hiểu một cách toàn diện: là Tôi chủ thể, Tôi ý thức và Tôi cùng với “nội kết những ý nghĩ nặng cảm xúc”. C.G. Jung chỉ nhấn mạnh rằng, Tôi, mặc cảm Tôi, ý thức Tôi không phải là tất cả con người, nhưng chỉ là một phần – và là một phần nhỏ, tuy là một phần cũng rất quan trọng – https://thuviensach.vn bên cạnh Tự ngã gồm tổng thể vô thức cá nhân và vô thức tập thể cao, dày, sâu, rộng đến những chiều kích “siêu cá nhân” (trans-personal) và vô tận. Vừa rồi, ta nói Tôi, mặc cảm Tôi, ý thức Tôi là một phần nhỏ nhưng là một phần cũng rất quan trọng: Rất quan trọng, bởi chính nhờ Tôi, mặc cảm Tôi, ý thức Tôi mà con người nhận thức được hiện hữu của mình, bản sắc, cá tính, liên tục, thực hữu trong bản thân và ngoài bản thân; rất quan trọng, bởi chính nhờ Tôi, mặc cảm Tôi, ý thức Tôi mà cả kho tàng vô thức được “ý thức hóa” để được hội nhập thành toàn vào Tự ngã (như sẽ bàn đến trong một chương sau). Trong phân đoạn này, chúng ta sẽ bàn riêng đến một vài khía cạnh quan trọng và ích lợi liên hệ đến tương quan giữa Tôi, mặc cảm Tôi, ý thức Tôi (sau đây chúng ta sẽ chỉ dùng cụm từ “Mặc cảm Tôi”) và tiến trình phát triển con người. Trong tiến trình phát triển con người, Tự ngã (Self) là “nguyên lý tạo hình” (GW 7, 303) bằng cách trưng cao đích điểm con người phải đi tới, còn mặc cảm Tôi là “nguyên lý tác động” đem lại ý thức và liên kết cho hệ tâm thức (GW 8, 580.582). Con người sẽ được phát triển quân bình, khi mặc cảm Tôi sinh hoạt một cách ổn định, mạch lạc, vững bền, liên kết, trực chỉ đích điểm làm trưởng thành con người đến Tự ngã. Sau đây ta sẽ xem mặc cảm Tôi: (A) tương quan với việc phát triển con người qua các giai đoạn chính của cuộc sống như thế nào; (B) có thể có những xáo trộn gì cũng như những khả năng tự điều chỉnh nào[25]. (A). Mặc cảm Tôi và các giai đoạn phát triển con người (1). Mặc cảm Tôi và tuổi thơ bé: Tâm lý phát triển trong những thập niên vừa qua cho thấy nhân cách của một người trưởng thành tùy thuộc rất nhiều vào cuộc sống ở thời thơ bé và cả đến thời còn trong bụng mẹ. Kinh nghiệm đầu tiên của em bé là kinh nghiệm về chính cơ thể của em, cùng với những cảm xúc được nhìn nhận, được chăm sóc, được trả lời thông qua những người thân yêu liên hệ. Từ đây mới phát triển dần kinh nghiệm về mình và không mình, tôi và không tôi, để cuối cùng đi đến kinh nghiệm mặc cảm Tôi cùng với sự xác định bản năng, cuộc sống, hiện hữu. Kinh nghiệm cuối cùng này rất quan trọng, nó làm cơ sở cho những giai đoạn phát triển sau này. Ý thức về mặc cảm Tôi gồm hai giai đoạn: giai đoạn khai mở và giai đoạn https://thuviensach.vn củng cố. Với giai đoạn khai mở, em bé dần dà kinh nghiệm được sinh hoạt sống, cảm xúc, ý nghĩ, thái độ. Với giai đoạn củng cố, những kinh nghiệm vừa nêu trên được dần dà trở nên quen thuộc và thành thục, được trở thành những tập quán. Mặc cảm Tôi trong tuổi thơ bé như thế đã được dần dà kinh nghiệm, dựa trên những liên hệ tình cảm nhìn nhận, đón nhận, và xác nhận từ những người thân yêu liên hệ đầu tiên là bố mẹ. Nhưng cũng từ đây, mặc cảm Tôi lại được liên kết với mặc cảm cha mẹ nói chung, để rồi sau đó được tách biệt và được liên kết với mặc cảm bố hoặc mặc cảm mẹ. Kinh nghiệm mặc cảm Tôi như thế sẽ tạo được một tâm trạng ổn định, tự tín, mạch lạc, liên kết, quân bình, bảo đảm cho những phát triển trong tương lai. (2). Mặc cảm Tôi và tuổi niên thiếu: Đây đặc biệt là giai đoạn khai phá. Mặc cảm Tôi phát triển bằng cách minh thị tách rời khỏi mặc cảm bố và mặc cảm mẹ, để tự xác định mình là một con người tự lập. Dẫu vậy, tự trong thâm tâm, đây đó vẫn cứ còn gióng lên những tiếng nói của bố và mẹ: bố sẽ nghĩ gì, mẹ sẽ phản ứng ra sao? Đặc biệt nhất cho thời niên thiếu này là mặc cảm Tôi bắt đầu đặt mình liên hệ với những mẫu tượng (archetypes) cơ bản của con người: những lý tưởng người hùng (anh hùng liệt nữ), những mẫu hình nam nhân và thục nữ (linh âm và linh dương, anima và animus), và cuối cùng là bản sắc Tự ngã (Self) của chính mình. Trong khi tìm cách diễn tả tính độc lập và bản sắc riêng của mình, người thiếu niên vẫn không cắt đứt mình khỏi những liên hệ với bạn bè và những người thân thuộc; hơn nữa còn tìm thông qua những liên hệ đó, sự xác nhận cho những biểu dương độc lập, tự chủ, cá tính của mình. Mặc cảm Tôi trong thời niên thiếu này hãy còn trong giai đoạn khai mở, tìm kiếm và chuyển tiếp. Do đó hãy còn mang nhiều hình dạng lo âu, ngại ngùng, bất ổn, thiếu mạch lạc, thiếu liên kết, thiếu tự tin và không ít đau thương. Nhưng cũng như mọi giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc sống, giai đoạn niên thiếu cũng mang nhiều cơ may cho một sự phát triển sâu, rộng, độc đáo và sáng tạo. Triển vọng này cần đến sự hiểu biết và sự quyết tâm của bản thân người niên thiếu, nhưng cũng cần rất nhiều đến sự hiểu biết, cảm thông và nâng đỡ của những người thân yêu liên hệ trong gia đình, học đường và xã hội. (3). Mặc cảm Tôi và tuổi tráng niên (25-40): Đây là giai đoạn củng cố. Nếu mặc cảm Tôi trong giai đoạn niên thiếu đã khẳng định bản sắc và cá tính, thì https://thuviensach.vn nay trong giai đoạn tráng niên được thiết thực thể hiện trong bản thân, gia đình và nghề nghiệp. Mẫu tượng anh hùng được thiết thực diễn tả không chỉ còn trong mộng tưởng, nhưng là trong thực tế hàng ngày của cuộc sống. Mẫu tượng cha mẹ nay được thiết thực diễn tả thông qua sự chăm sóc chính con cái mình. Mẫu tượng linh âm linh dương (anima, animus) không còn chỉ trong ước mơ và phóng ngoại, nhưng dần dà được thiết thực chấp nhận trong người bạn đời với thực tế hiện hữu và giới hạn của họ. Cũng dần dà được kết tụ lại mẫu tượng “hài nhi linh thánh”, một mẫu tượng vừa nói lên sự giới hạn mà cũng vừa nói lên sự vượt biên giới nhỏ bé của con người, một mẫu tượng hài hòa và tổng hợp giữa các tương khắc và tương phản của cuộc sống. (4). Mặc cảm Tôi và tuổi trưởng thành (40-55): Đây là giai đoạn định giá. Mặc cảm Tôi trong giai đoạn trưởng thành này thể hiện đến mức phong phú và cao điểm khả năng, tài đức, bản sắc của con người trong bản thân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội, cùng với những mẫu tượng anh hùng và mẫu tượng cha mẹ. Đây là giai đoạn sung sức và sung mãn của cuộc sống. Nhưng đồng thời cũng bắt đầu hiện rõ lên những giới hạn của khả năng, của hiện hữu: mặc cảm Tôi không thể là tất cả, không thể làm tất cả. Kinh nghiệm về giới hạn này dẫn đưa đến trực cảm về một bước ngoặt trong cuộc đời. Đây là giai đoạn của sự thật: sinh sống, tác động, sáng tạo, xây dựng, tất cả hoặc đã được thực hiện, hoặc đã phần nào thực hiện, hoặc giả không thể thực hiện. Mặc cảm Tôi định lại giá trị của hiện hữu và của bản thân. Những ước mơ lẫn khải tượng thời niên thiếu và tráng niên nay phải là những khải tượng thiết thực và khả thực. Do đó, đây cũng là giai đoạn định hướng mới: định hướng thiết thực trong hòa giải và hòa hợp những tương khắc tương phản của cuộc sống: sáng tạo và giới hạn, giải phóng và ràng buộc, độc lập và tùy thuộc. Mẫu tượng “bé thơ linh thánh” trong ngần và trọn vẹn nay được nhập thể trong sai sót, lầm lẫn, vẩn đục, dở dang. Mẫu tượng linh âm và linh dương không còn tách biệt và đối chọi, nhưng dần dà được hòa hợp chung sống. Yêu thương và dấn thân không còn chỉ để xác định bản sắc cá tính, nhưng là để thực hiện “tính chủ toàn” và “thực tại chủ toàn”. (5). Mặc cảm Tôi và tuổi lão thành (55-75): Đây là giai đoạn phẩm định. Những thành phần tương khắc của bản vị, cùng với những suy tư, cảm xúc, https://thuviensach.vn tâm tình, khải tượng nay được hòa giải và hội nhập trong chừng mực khả năng của chúng. Những nối kết với thực tại chủ toàn và tối hậu nay được thiết lập. Nay cũng xuất hiện trong cuộc sống mẫu tượng “hiền nhân”, “hoàng lão”. Với tất cả những kinh nghiệm đã thu thập được trong cuộc sống, nay từ đó phẩm định về người, hoàn cảnh, sự việc; với thế hệ trẻ đang lên, đưa lại cho họ những ý kiến, kể cả những khích lệ thay đổi và phản kháng, động viên họ lên đường nhưng hành trình là công việc của chính họ. Đồng thời cũng bắt đầu bước rút lui khỏi xã hội và trần thế; cùng với rút lui là nhìn lui. Nhìn lui có thể kẹt lùi. Kẹt lùi là lý tưởng hóa quá khứ, đồng thời phá giá hiện tại và tương lai, thái độ ngăn chận sự sống, gây bất mãn, triệu chứng cuộc sống còn bị xáo trộn, chưa ổn định. Phẩm định lại cuộc sống, là xem lại mặc cảm Tôi đã liên tục làm được những gì, xem lại những gì là cơ bản và tinh hoa của cuộc sống. Cuối cùng là ẩn hiện phía trước bước vĩnh biệt ra đi: mẫu tượng chết. Nhưng đồng thời cũng là viễn tượng “thành toàn” và trở về với “chủ toàn”. (6). Mặc cảm Tôi và tuổi thượng thọ (75-90): Đây là giai đoạn dứt khoát rút lui. Con người phải hiểu được tính vô thường và tùy thuộc của mình. Mặc cảm Tôi mất đi sự mềm mại và uyển chuyển của bản thân: có thể còn có khư khư ích kỷ ngang ngạnh cùng chung với chấp nhận phó thác. Con người vào tuổi thượng thọ lệ thuộc rất nhiều vào cơ thể thân xác, nhưng cũng không hiếm trường hợp tinh thần vẫn sắc sảo linh động. Không những mặc cảm Tôi có thể nay tiến rất gần đến “thành toàn” và “chủ toàn”, mà cũng còn có thể nay là “hiện thân” của trí tuệ, tâm linh, tinh thần. (B). Mặc cảm Tôi với những xáo trộn và những hình thức điều chỉnh Ta vừa xét mặc cảm Tôi qua các giai đoạn chính của cuộc sống con người, phát triển một cách điều hòa hướng đến thành tựu và chủ toàn. Nhưng trong thực tế, sự phát triển của mặc cảm Tôi không luôn luôn quân bình, ổn định, mạch lạc, liên kết, đầy tự tin và an bình. Thử thách lớn và thường xảy ra cho mặc cảm Tôi là những vết thương tâm lý liên hệ đến việc bình phẩm giá trị của bản thân (có thể một phần do chủ quan), gây ra bởi phê bình, chỉ trích, nhục mạ, oan trái từ những kẻ sống chung quanh. https://thuviensach.vn Trước những cảnh sống đầy thử thách như thế, có thể có những mặc cảm Tôi với đủ tự tin để phản ứng một cách khách quan và bình tĩnh: chấp nhận những sai trái của mình nếu có, khoan dung trước những hiểu lầm hay ngang ngược của kẻ khác, tuy không vì thế mà không cảm thấy xót xa đau thương. Một số người, trước những hoàn cảnh như thế, sẽ có những thái độ ít tích cực hơn; nói cách khác, họ có những mặc cảm phẩm giá của bản thân bị tổn thương; ngôn ngữ bình thường gọi là “bị chạm tự ái”, là “mặc cảm tự ti”. Mặc cảm tự ti này thường được diễn tả qua nhiều hình thức “bù trừ” khác nhau; tất cả đều với công dụng điều chỉnh hệ tâm thức của mình lại cho cân bằng. Sau đây là một số những hình thức “bù trừ” đó: (1). Bù trừ bằng những hình tượng đại nhân: Minh họa bằng một giấc mộng được Udo Rauschfleisch thuật lại trong tác phẩm “Toàn lực và bất lực” (Bern 1978, 145). Một bệnh nhân nam 25 tuổi bị thất bại trong một cuộc cạnh tranh, làm cho anh ta mỗi ngày cảm thấy đau thương xấu hổ. Anh kể: “Tôi ngồi rất cao trong một phòng thể dục lớn, gần chạm đến trần nhà, ngồi đu đưa trên một dụng cụ thể thao hình thang. Đồng thời tôi nhìn xuống những người ở tận dưới nền nhà, họ xem ra rất nhỏ bé. Tôi cảm thấy tự do và thoải mái. Nhiều lần có một số người trong họ tìm cách nắm lấy dụng cụ thể thao hình thang trên đó tôi đang ngồi. Nhưng tôi đã ngăn chặn lại, bằng cách cắn vào tay họ mỗi khi họ nắm lấy dụng cụ, và như thế họ phải thả tay ra.” Giấc mộng thuật lại ở trên là một hình thức bù trừ cổ điển, một hình thức tự điều chỉnh bản thân. Cái Tôi chiêm bao hành động như một “đại nhân” trẻ con. Khi còn bé nhỏ, ta có thể thường có cảm giác toàn năng, toàn sức lực, không ai làm gì nổi ta. Cảm giác đó trong thời thơ trẻ cũng là một điều cần cho sự ổn định và phát triển bản thân. Guồng máy bù trừ đó cũng còn có ích cho hệ tâm lý của ta trong những thời gian sau này. Nó có thể xảy ra trong chiêm bao hay trong mơ tưởng. Trong những hoàn cảnh phẩm giá của bản thân bị tổn thương, nhiều người đã tưởng tượng ra những hành động siêu quần vượt chúng, đã xuất hiện như những anh hùng đại nhân. Hệ tâm thức tỏ ra cần những hình thức bù trừ như thế – ở đây không bàn đến vấn đề đạo đức luân lý – để tái lập lại phẩm giá và sự cân bằng của bản thân. https://thuviensach.vn (2). Bù trừ bằng hình ảnh những bố mẹ quyền năng: Một hình thức bù trừ khác cũng rất cổ điển, là hình ảnh những bố mẹ được lý tưởng hóa thành toàn năng toàn sức lực, hoặc trong chiêm bao, trong mơ tưởng hay trong liên lạc cụ thể. Một trường hợp: Một phụ nữ, 30 tuổi, có kinh nghiệm rất đau thương với một người đàn ông, mà cô nghĩ là không phải không có cảm tình với ông ta. Có lần cô không chiều ông ta trong dục vọng giới tính của ông; người đàn ông liền nói là ông ta càng mừng, bởi thân cô quá nhũn nhão, vả lại quá hôi hám. Kinh nghiệm này cô kể lại cho bác sĩ tâm lý trị liệu trong lúc trị bệnh, vừa kể vừa khóc, vừa bực tức, vừa tỏ ra có hành động thác loạn. Bác sĩ đề nghị cô hãy tập trung vào trí tưởng tượng của mình. Cô nói: “Tôi đi dạo với bố và mẹ. Tôi mặc một bộ áo quần rất sít; bố tôi, ngực mang nhiều dây chuyền bằng vàng, là thị trưởng thành phố hay trưởng phân khoa một đại học có tiếng; bố tôi cho biết, ông thấy tôi đẹp và hấp dẫn.” Đó cũng là một mặc cảm bù trừ. Người đàn bà trở lui về quá khứ, trong vị trí một cô bé con, đi giữa bố và mẹ, nghĩa là rất được chở che an toàn: không một người đàn ông nào có thể xâm phạm. Hơn nữa, ông bố lại rõ ràng được lý tưởng hóa: với nhiều dây chuyền bằng vàng, cùng với chức vị thị trưởng thành phố hay trưởng phân khoa đại học. Mặc cảm bố được lý tưởng hóa, và người phụ nữ – con gái của một người cha như thế – hẳn thật là một nhân vật, là một người có giá. Cái lo âu là một người đàn bà thiếu hấp dẫn, như thế đã được chống chế lại. Nữ bệnh nhân trị liệu sau buổi mơ tưởng nói trên, đã cảm thấy dễ chịu hơn nhiều; cô bắt đầu nói cô cảm xúc thế nào về cơ thể của cô, cũng như lo sợ không biết người ta sẽ còn nghĩ thế nào về thân xác cô. Rõ ràng hình thức bù trừ ở đây cũng mang ý nghĩa điều chỉnh lại hệ tâm lý và làm cho cân bằng lại cảm xúc về phẩm giá của bản thân. (3). Bù trừ bằng đồng nhất hai giọt nước: Đồng nhất hai giọt nước có nghĩa chiêm bao hay tưởng tượng mình đồng nhất với một người mình cho là tuyệt vời và mình khá giống trong nhiều phương diện. Một trường hợp: Một người đàn ông 48 tuổi, cãi lộn với người con trai 24 https://thuviensach.vn tuổi, người con chê ông không làm gì nên trong đời. Người cha, tính tình nhu nhược, cảm thấy sau buổi cãi lộn tinh thần ông hoàn toàn suy sụp, không đáng giá gì; ông có cảm giác quả thật ông không làm nên gì, và người con có lý. Ông suy tính trong hoàn cảnh như thế có nên chấm dứt cuộc đời đi không. Ông chiêm bao: “Ông nhân viên hội đồng liên bang Furgler gõ vào cửa sổ nhà tôi, như để đón tôi đi. Bởi cả hai chúng tôi đều cùng từ trong một hội sinh viên với nhau, chúng tôi phải cùng nhau đi dự một trận bóng đá rồi sau đó đi vào quán bia. Cả hai chúng tôi đều mặc áo pull club hỗ trợ đội bóng St. Gallen”. Người đàn ông kể lại, sau lần chiêm bao đó, ông tức khắc cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Nếu ông nhân viên hội đồng liên bang Furgler là bạn của ông, thì không có gì phiền hà có thể xảy ra cho ông. Trong mọi trường hợp, ông ấy chắc hẳn sẽ biết phải xử trí như thế nào. Và ông nói: “Bác sĩ biết không, cùng với ông nhân viên hội đồng liên bang Furgler đi đến trận bóng đá St. Gallen, đó quả là một biến cố, không phải ai nấy đều có thể có được”. Giấc chiêm bao đã lặp lại niềm xác tín, giá trị tự tin. Vấn đề tự tử lúc này không còn được đặt ra nữa. Điều đã xảy ra ở đây là việc bù trừ với hình thức “đồng nhất hai giọt nước”. Người chiêm mộng nói thêm: nhân viên hội đồng liên bang Furgler cũng suýt soát đồng tuổi với ông. Với tổ chức sinh viên thì ông không biết nghĩ thế nào, nhưng cả hai đều là “fan” của đội bóng St. Gallen và như thế có thật nhiều điều giống nhau. (4). Bù trừ bằng những cơn phẫn nộ lôi đình: Khi ta cảm thấy bất lực, có thể ta sẽ phản ứng bằng một cuộc phẫn nộ lôi đình kèm thêm với đập nát phá phách tơi bời. Mộng tưởng về đập nát phá phách làm cho mặc cảm Tôi cảm thấy như đầy sức lực quyền năng. Đó hầu như là khả năng độc nhất còn lại cho những kẻ bất lực cảm thấy mình còn có sức và còn sống. Hình thức bù trừ này chỉ đưa lại cảm xúc về phẩm giá của mình trong một thời gian ngắn, để rồi đương sự sau đó sẽ lại cảm thấy chán chường, xấu hổ và xót xa đau thuơng. Và đó cũng là lý do tại sao phản ứng phẫn nộ thường hay leo thang: bởi người ta cần thêm phẫn nộ để bù trừ lại sự chán chường của cơn phẫn nộ vừa qua. Một trường hợp: Một người đàn ông 35 tuổi, có khó khăn trong nghề nghiệp. Chủ hãng cho biết, anh sẽ không thăng tiến hơn được nữa. Điều đó chạm https://thuviensach.vn lòng tự ái và làm anh đau buồn vô cùng; anh cho là bất công, rồi nghĩ như thế là cuộc đời chấm dứt. Người đàn ông nói trên tìm đến bác sĩ tâm lý trị liệu từ nửa năm nay vì một sự bất mãn lớn lao trong đời. Anh kể lại kinh nghiệm về vết thương tâm lý nói trên, rồi thêm: “Tôi cảm thấy lúc này dâng trào lên trong tôi một mơ tưởng. Tôi đánh đập anh chủ hãng tôi đến tơi bời tan nát”. Bác sĩ đề nghị anh dừng lại chút ít ở mơ tưởng anh vừa đang có. Anh ta ngồi lên ghế, rồi hai tay quờ quạng đánh đập trong không khí. Nhưng rõ ràng điều đó làm anh ta đau đớn. Đương sự lặp đi lặp lại: “Phải! Tốt! Nó phải cuốn gói bỏ đi thôi!”. Cơn phẫn nộ hạ xuống, bệnh nhân không cảm thấy xấu hổ, cũng không cảm thấy tội lỗi gì, điều thường xảy ra sau những cơn phẫn nộ đập phá như thế; trái lại, bệnh nhân cảm thấy rất dễ chịu. Đối với đương sự, đó là một điều đặc biệt quan trọng, bởi thường sau những lần tự ái bị tổn thương, anh ta lại trút tất cả phẫn nộ về lại trên chính mình, anh còn thường tưởng tượng lái xe đâm thẳng vào gốc cây cho mình chết quách đi. Tổn thương tự ái đưa đến tự tử là trường hợp thường xảy ra trong khoa tâm thần. Bệnh nhân nói trên sau cơn mơ tưởng phẫn nộ đập phá kể thêm: “Bây giờ sau khi tôi đã đập phá tan tành hãng xưởng, tôi không còn có thể tiếp tục làm việc ở đó nữa. Tôi nghĩ, tôi sẽ đổi hãng và tìm xem tôi thực sự muốn làm việc gì”. Trường hợp kể trên cho thấy, việc phẩm giá bản thân bị tổn thương có thể tái lập lại bằng hình thức bù trừ, kể cả bù trừ với phẫn nộ và đập phá, để rồi sau đó với một hình thức rất khả thi và khả thực nói chuyện lại với cuộc sống. Con người sau đó có thể suy tính một cách khách quan hơn và tìm xem có giải quyết nào mới giúp xây dựng lại cuộc đời. Mỗi cuộc xung đột trong đời là một thách thức hoặc giới hạn lại hoặc phát triển thêm mặc cảm Tôi của con người. Nếu ta chỉ tiêu cực phủ nhận, từ chối hoặc dồn ép đè nén, mà không đương đầu, nhận diện, tìm hiểu, tích cực đối phó, thì không những ta bỏ mất đi cơ hội phát triển bản thân, mà còn gây thêm nhiều khó khăn và mặc cảm tiêu cực trong cuộc sống. (5). Bù trừ bằng hình thức hạ giá và bôi nhọ: Hạ giá và bôi nhọ khi bị tổn thương tự ái là một hình thức bù trừ rất thường xảy ra và cũng thường rất https://thuviensach.vn nguy hiểm. Hạ giá và bôi nhọ những người, những sự việc, những liên hệ, cả đến gia đình và xã hội mà đích thực hay vì tưởng tượng được xem là nguyên nhân hay có dính líu đến việc chạm lòng tự ái của mình. Một trường hợp: Một phụ nữ 28 tuổi, gặp khó khăn trong tương quan xã hội nên đến phòng mạch tâm lý trị liệu từ ba tháng nay; mẹ cô rất thành công, còn ba cô ít thành công hơn. Một mặt cô mừng có một người mẹ như thế, và cũng có liên hệ tốt; mặt khác cũng thấy có khó khăn, khi bà dễ dàng thành công như vậy. Mẹ cô suýt soát trên 50; mỗi khi cô đưa một người đàn ông về nhà, thì – theo lời kể của đương sự – người khách chưa đầy nửa tiếng đồng hồ đã tỏ ra có thịnh tình với bà mẹ. Điều đó làm cô con vô cùng nổi giận, bực tức đến sỗ sàng. Cô cảm thấy mẹ cô lúc này quá áp đảo, cạnh tranh, tóm lại là không thể chịu nổi nữa. Khi cô nói với bà mẹ về điều đó – và bà mẹ để cho cô tự do nói – thì bà mẹ trả lời: “Tôi làm sao can ngăn, nếu mấy tay đực rựa chị đem về mang đầy mặc cảm bố mẹ đã lại thấy tôi hấp dẫn?”. Sau cuối tuần đó, cô con gái chiêm bao: “Tôi gặp mẹ tôi trong một quán cà phê hạ cấp. Mẹ tôi trông rất ghê tởm. Bà mang răng giả, tóc rụng trụi trơn, thân hình vạm vỡ, trông thật là kinh tởm”. Đương sự kể lại giấc mộng này trong giờ khám bệnh và nói thêm: “Cái điều tệ nhất, là sáng hôm sau tôi cảm thấy vô cùng thích thú về giấc mộng nói trên. Và tôi vẫn chưa thấy xấu hổ về điều đó. Giấc mộng đã đưa lại cho tôi một cảm giác tốt về giá trị con người tôi. Tôi đột nhiên nghĩ rằng, tôi hai mươi năm nữa vẫn sẽ còn duyên dáng, còn mẹ tôi hai mươi năm nữa xem ra sao thì không ai biết. Điều đó an ủi tôi nhiều”. Giấc mộng kể trên là hình thức bù trừ cảm giác không tốt về giá trị của bản thân, bằng cách hạ giá bà mẹ nên xấu xí kinh tởm mà mình vẫn thường lý tưởng hóa. Và sự hạ giá đó đã đưa lại cho đương sự cảm giác tốt về chính mình. Không phải luôn luôn ta cần đến chiêm bao để điều chỉnh lại cảm giác về giá trị của bản thân. Như trường hợp những đồng nghiệp thành công, gây nên cảm xúc tị hiềm, làm cho kẻ ghen tương bất ổn, họ sẽ dễ dàng bị hạ giá hoặc bị bôi xấu với những câu bình phẩm xem ra vô tội vạ: Ừ thì anh đó cô kia cũng cần cù chăm chỉ đấy, nhưng thực ra thì cô cậu cũng chả có đưa lại gì mới lạ. https://thuviensach.vn Với chiến thuật hạ giá và bôi nhọ, là ta muốn che đậy những yếu kém của bản thân và không dám đương đầu đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Vấn đề mà chiến thuật hạ giá này đưa lại, là ta đã tạo ra cho chính mình một thế giới xuống cấp và bôi nhọ: không một người nào, không một sự việc nào đáng giá. Và nếu quan niệm sự đánh giá bản thân cũng tùy thuộc vào sự đánh giá của những người chung quanh, thì việc người ta đánh giá mình cũng sẽ không đáng giá gì, bởi đó là sự đánh giá của “những người không đáng giá”! Khi ta hạ giá và bôi nhọ con người, sự việc và xã hội, cũng chính là ta hạ giá và bôi nhọ chính bản thân mình. Chiến thuật hạ giá này chỉ tạo ra một vòng oan nghiệt luẩn quẩn. Tại sao ta không thể có những tư tưởng tích cực, cảm xúc tích cực, đánh giá tích cực? Các nhà giáo dục và sư phạm cần suy nghĩ thêm về các vấn đề này. Mặc-Cảm-Tôi – theo Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung – là thẩm cấp (instance) tâm thức cao nhất (nhưng chưa phải cuối cùng, vì còn có Tự ngã: Self), gồm không những Tôi-Chủ-Thể, mà còn cả “tổng thể nội kết những ý nghĩ nặng cảm xúc” của cái Tôi (GW 3, 82t). Mặc-Cảm-Tôi không những là mặc cảm trung tâm, mà còn là mặc cảm nối kết với tất cả mọi mặc cảm khác, làm cho mọi mặc cảm cuối cùng “được nên ý thức”. Do đó, mọi mặc cảm cuối cùng đều quy hướng về Mặc-Cảm-Tôi. Trong tiến trình phát triển con người, Mặc-Cảm-Tôi đóng vai trò quan trọng: “ý thức hóa” và “thâu thập thành toàn” (integrate) mọi tầng sâu của vô thức. Công việc này chỉ được thực hiện thành công với một cái Tôi quân bình, mạch lạc (coherent), liên kết. Hệ tâm thức gọi đó là “cái Tôi lành mạnh”, và đó là điều kiện cần thiết trong việc hội nhập vô thức với ý thức của tiến trình thành toàn Tự ngã, chủ đích thiết yếu và cuối cùng theo lý thuyết và chương trình Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung. Nhưng bình thường, Mặc-Cảm-Tôi luôn gặp những khó khăn trong tiến trình phát triển: thiếu cân bằng, thiếu mạch lạc, thiếu liên kết. Từ đó phát sinh ra nhiều mặc cảm tiêu cực đưa đến nhiều loại tâm bệnh, mà hình thức thường gặp nhất là mặc cảm tổn thương phẩm giá con người, bình thường được gọi là “mặc cảm tự ti”. Vừa rồi, ta đã bàn đến mặc cảm trong cuộc sống; những chương mục kế tiếp sau đây sẽ còn bàn đến những khía cạnh căn bản khác trong tiến trình phát triển hệ tâm thức. https://thuviensach.vn [17] Khẩu truyền nói người Nghệ Tĩnh keo kiệt lấy cá gỗ kho đi hâm lại ăn mãi không hết. [18] S. Freud (1856 – 1939) năm 1910 đã dùng cụm từ này để chỉ “mặc cảm tương quan giới tính giữa con trai với mẹ và con gái với bố mình”, dựa theo chuyện thần thoại Hy Lạp về Oedipe là con trai của vua Laios và mẫu hoàng Jocaste, đã giết cha và cưới mẹ mình mà không biết. Thuyết “mặc cảm Oedipe” này không được trường phái Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung hoàn toàn chấp nhận, bởi cho rằng lý thuyết giới tính của Freud quá thiên lệch và quá giản lược; lời phê bình được đúc kết trong ba điểm sau đây: a. Chuyện thần thoại Hy Lạp nói trên chủ ý nói về vấn đề loạn dâm giữa mẹ và con trai, như là về vấn đề chuyển giao quyền bính trong xã hội từ thể chế mẫu hệ qua thể chế phụ hệ; b. Ngay cả trong nền văn hóa Âu Tây, mặc cảm Oedipe cũng chỉ là một trong cả một thế giới mặc cảm của con người, chứ không phải là mặc cảm độc nhất hay trung tâm; c. Hơn thế nữa, mặc cảm Oedipe không phải xuất hiện trong mọi nền văn hóa của nhân loại, nhưng chỉ là một nét riêng biệt trong nền văn hóa Âu Tây mà thôi (Dieckmann 1991, 130-140). [19] J. Campbell, The Hero with a Thousand Faces, New York, 1949. [20] C.G. Jung, Über psychische Energetik und das Wesender Träume, Zürich, 1948, 137. [21] Frieda Fordham, An Introductionto Jung’s Psychology, London, 1953, 53. [22] C.G. Jung: Über psychische Energetik, Zürich, 1948, 128. [23] C.G. Jung: Über psychische Energetik, Zürich, 1948, 127. [24] Theo các từ tâm lý chuyên khoa, “thăng hoa” (sublimation) theo trường phái Freud có nghĩa là thỏa mãn một xu hướng tâm lý bằng một “phẩm vật thay thế” (ersatz), chứ xu hướng tâm lý vẫn giữ khuynh hướng trở về đối tượng ban đầu của nó; như xu hướng dục năng (libido), dẫu có tìm được “phẩm vật thay thế”, vẫn giữ xu hướng trở về “mặc cảm Oedipe” đối với cha hoặc với mẹ từ thuở ban đầu. Còn “chuyển hóa” (transformation) theo trường phái C.G Jung có nghĩa là một xu hướng tâm lý tìm được sự biến đổi và thể https://thuviensach.vn hiện chính mình thông qua một đối tượng tinh thần và tâm linh tương ứng. Đối tượng này không phải là “thế phẩm vật”, nhưng chính là mục đích và thành tựu của nó. (Xem: Stein 2000, 103; J. Laplanche, Das Vokabular der psychoanalyse (Từ điển Phân tâm), Frankfurt151999, 478). [25] Phân đoạn này được viết với nhiều gợi ý của Verena Kast: “Một vài khía cạnh về mặc cảm Tôi”, trong tác phẩm: V. Kast, Die Dynamik der Symbole – Grundlagen der Jungschen Psychotherapie, München 1996, 67-113. https://thuviensach.vn Chương 6 NHỮNG NĂNG LỰC ĐIỀU ĐỘNG: DỤC LỰC, TÂM LỰC A. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ Sinh lực, dục lực, tâm lực (life energy, libido, psychic energy): đó là những tiêu đề hầu như muôn thuở, lại vừa rất hiện đại và cũng rất hậu-hiện-đại. Đối với người Á Đông ta, những quan niệm về sinh khí và sinh lực cũng như những tu luyện thực hành để thêm khí và tăng lực là một điều quá quen thuộc. Những quan điểm và tu luyện đó cũng đã được ghi chép và truyền tụng trong nhiều kinh sách y dược, giáo dục và triết học, kể cả những kinh sách của Lão Tử (430 – 340 TCN) và Khổng Tử (551 – 479 TCN). Bên Tây phương, những tư tưởng về sinh khí và sinh lực cũng đã từng được diễn tả và lưu truyền từ thời cổ đại, như với Heraclit (Herakleites, 550 – 480 TCN), Plato (427 – 347 TCN), Aristoteles (384 – 322 TCN), cho đến thế kỷ vừa qua, như với Schopenhauer (1788 – 1860), Bergson (1859 – 1941), Nietzsche (1844 – 1900). Những tư tưởng về sinh khí và sinh lực trong những thập niên vừa qua lại đã bắt gặp được những khám phá mới trong các ngành khoa học vật lý và sinh học nói về sinh khí và năng lượng trong con người cũng như trong trời đất, vũ trụ, thiên nhiên. Ta hẳn còn nhớ công thức nổi tiếng của Einstein (1877 – 1955) năm 1907 đã đồng nhất và chuyển hoán giữa chất thể và năng lượng: E = mc2. Một gặp gỡ quan trọng nữa – đồng thời có tính cách hậu-hiện-đại – là nhiều thế hệ vừa già vừa trẻ từ những thập niên tiếp nối “cao trào phản kháng” của thanh niên sinh viên “thế hệ ’68”, đã đi tìm những hình thức sống đầy sinh khí và năng lực, trong thiên nhiên, trong các truyền thống và tôn giáo Đông phương cũng như Tây phương, như thiền, yoga, chiêm niệm Kitô giáo; những hình thức sống đầy sinh khí và năng lực, nhưng trong quân bình và toàn diện: giữa khai quang và tâm tình, lý trí và cảm xúc (kết hợp bộ não nửa trái có chức năng lý luận với nửa phải có chức năng trực kiến), con người và thiên nhiên, quyền năng cương cường và nhu yếu bền vững. https://thuviensach.vn Bác sĩ và triết gia người Đức Carl Gustav Carus (1789 – 1869) vào thế kỷ 19 trước đây, đã đưa ra chủ thuyết xem “vô thức như là nguồn năng lượng” của con người. Và gần C.G. Jung hơn nữa, Sigmund Freud (1856 – 1939) – là thầy và là bạn một thời gian của C.G. Jung – đã đề xướng lý thuyết quá giản lược xem Dục Lực (libido) giới tính là năng lượng cơ bản và độc nhất điều động và chi phối toàn thể cuộc sống con người. C.G. Jung từ đây – cùng với rất nhiều kinh nghiệm bản thân trong nghiệp vụ giáo sư và bác sĩ tâm lý trị liệu, kết hợp với rất nhiều nghiên cứu sâu rộng về các nền văn hóa và tôn giáo của nhân loại – đã cuối cùng phát triển lý thuyết “dục lực” của Freud và đưa đến học thuyết về “năng lượng tâm lý” hay “tâm lực” (psychic energy) mà ta sẽ bàn đến tiếp theo đây[26]. B. NĂNG LƯỢNG TÂM LÝ LÀ GÌ? TỪ ĐÂU TỚI, DIỄN XUẤT RA SAO, TÁC ĐỘNG THẾ NÀO? Trong tư tưởng triết học và tâm học, Đông cũng như Tây, người ta quan niệm sự sống là do sinh lực. Sinh lực đưa lại sự sống và phát triển sự sống. Hết sinh lực là hết sống. Sinh lực là một khái niệm tổng quan, dưới đó gồm có những loại sinh lực như dục lực, trí lực, tâm lực. Nhưng sinh lực, dục lực, tâm lực thực chất là gì? Điều đó chưa được định nghĩa. C.G. Jung nói, năng lượng không xuất hiện trông thấy, nhưng chỉ nhìn nhận được thông qua hệ quả và tác động, như biến chuyển và thay đổi. Còn hệ quả và tác động của năng lượng tâm lý, trong hành sự, là bản năng, ước muốn, cảm xúc, ý chí, chú tâm, kết quả việc làm... đó là những năng lượng tâm lý, những tâm lực. Còn năng lượng tâm lý, trong tiềm tàng, là khả năng, dữ kiện, thái độ... đó là những điều kiện chuẩn bị cho năng lực tâm lý (GW 8, 26t). Năng lượng từ đâu tới? Trong khảo luận “Về năng lượng của tâm thức” (ber die Energetik der Seele, GW 8, 1-130), C.G. Jung nói về năng lượng của bản năng phát xuất từ tầng sinh hóa tiếp giáp tâm thức. Ngoài ra, còn có năng lượng phát xuất từ những mặc cảm của con người. Những mặc cảm này tiếp nhận năng lượng từ hai nguồn: do những chấn thương tâm lý (traumas) và do năng lực từ trường của hạt nhân mẫu tượng (Xin tham khảo thêm chương 5 về mặc cảm và chương 7 về mẫu tượng trong tập sách này). Trong khảo luận “Những suy tư lý thuyết về bản chất của tâm thức” (Stein 2000, 93), C.G. Jung còn thêm một nguồn thứ ba phát xuất năng lượng tâm lý nữa. Đó là https://thuviensach.vn những xung lực đến từ văn hóa, từ những trao đổi với đồng loại, từ tinh thần. Hệ tâm thức không phải là một hệ thống đóng kín, nhưng thông qua cơ thể và tinh thần được mở rộng ra thế giới. C. DỤC LỰC (LIBIDO) VÀ TÂM LỰC (PSYCHIC ENERGY) Điều mà Schopenhauer gọi là “ý chí” (Willen, will) và xem đó là nguồn gốc cho mọi hành động và suy tư của con người, thì Freud gọi là “libido”, dục lực. Freud quan niệm dục lực là năng lực giới tính đầy cảm xúc và khoái lạc, hiển hiện hay bàng bạc trong mọi ước muốn, hành động, trong toàn cuộc sống của con người. Libido như thế được hiểu là “năng lượng giới tính”, là “dục lực”. C.G. Jung xem quan điểm của Freud là một quan điểm quá co rút giản lược (“reductionism”); và đó cũng là phê phán của các trường phái tâm lý học ngày nay đối với học thuyết tâm lý nói chung của Freud và lý thuyết libido nói riêng. Quan điểm của C.G. Jung về “năng lượng tâm lý” được mở rộng và có tính thiết thực, dựa trên kinh nghiệm thiết thực của con người và thông qua nhiều nền văn hóa của nhân loại. Quan điểm đó không chỉ có tính cách mô tả, mà còn tìm hiểu từ trong tiến trình khai phát (genetic) và trong chủ đích cứu cánh của tiến trình phát triển (finality). Quan điểm của C.G. Jung do đó đưa lại một cách tiếp cận sự vật một cách khác đi: không chỉ theo cách “nguyên nhân máy móc hệ quả” (causal-mechanistic) như trong các ngành khoa học cơ giới thế kỷ 19, nhưng nhất là theo tiến trình phát triển và với viễn ảnh cứu cánh (final-energetic). C.G. Jung như thế đã khai mở một phương pháp mới về tri thức luận cũng như về thông thích học (hermeneutics) và đưa lại một nhãn giới mới về nhân sinh quan. Quan điểm của C.G. Jung nói đây là sự biến chuyển ý thức, tư duy và văn hóa của con người, để cuối cùng lĩnh vực giới tính và năng lực giới tính (libido, dục lực) cũng được chuyển hóa thay đổi. Như thế nào? Chúng tôi xin trưng dẫn một đoạn trình bày của C.G. Jung về điểm này trong thiên khảo luận “Những chuyển biến thay đổi và những biểu tượng của libido” (GW 5, 194): “Chúng ta nhìn thấy bản năng nghệ thuật đầu tiên của động vật trong việc sinh sản được giới hạn vào từng mùa ấp nở. Tính cách giới tính nguyên thủy của hiện tượng sinh học này như thế đã được thay đổi, bởi phải thích nghi với https://thuviensach.vn thời gian của từng vụ mùa. Nếu như âm nhạc được kèm vào trong khung cảnh của việc truyền giống sinh sản, thì sẽ là một điều bất ổn và dị thường nếu người ta vì thế mà liệt âm nhạc vào phạm trù giới tính. Quan niệm như thế thì cũng chả khác gì xem ngôi đại thánh đường Cologne (Köln) thuộc loại khoáng vật, bởi đền thờ đó được xây cất bằng gạch đá.” Theo C.G. Jung, không phải tất cả mọi diễn tả của tâm thức đều bắt nguồn từ giới tính, nhiễm đầy giới tính hoặc kết thúc trong giới tính, dẫu cho những liên hệ đó có như thế đi nữa trong thời tiền sử của nhân loại. Phát xuất từ một quan điểm tiến trình, C.G. Jung đã suy nghĩ và kiểm nghiệm những sinh hoạt của tâm thức có thể trong quá khứ xa xưa có một ý nghĩa giới tính nào đó, nhưng nay, giống như âm nhạc và nghệ thuật, đã được biến đổi chứ không còn là những sinh hoạt giới tính nữa. Làm sao có thể biến đổi được như thế? Đó là tiêu đề của phân đoạn kế tiếp sau đây. D. CHUYỂN HÓA NĂNG LƯỢNG TÂM LÝ Làm sao chuyển hóa cái kích thích thúc đẩy của một bản năng, như ăn uống hay giao hợp giới tính, thành một diễn tả và hành động có tính văn hóa, như trở thành âm nhạc hay thành nghệ thuật ăn uống (haute cuisine)? Khi nào thì những hành động nói trên hết còn là “bản năng” và trở thành một cái gì khác mang một ý nghĩa hoàn toàn khác? Trong thiên khảo luận “Những chuyển biến thay đổi và những biểu tượng của libido” (GW 5), C.G. Jung trình bày rằng, sự chuyển hóa này có thể thực hiện được nhờ khả năng phú bẩm cho tâm thức con người có thể sáng tạo ra những “tương tự” (analogy). Con người có khả năng và nhu cầu suy tư bằng “ẩn dụ” (metaphor), và chính đó là điều tác động ra tiến trình chuyển hóa. Ta lấy một thí dụ làm minh họa: Săn bắn là giống như đi săn bắt một đối tác giới tính; đó là một diễn tả “tương tự” hay một “ẩn dụ” để tạo ra sự hứng thú đi săn bắt thú mồi. Nhưng với thời gian, việc đi săn bắt thú mồi được tiến hành, phát triển và thực hiện theo thể thức và động lực riêng biệt của nó; không còn cần đến hình thức “tương tự” hay “ẩn dụ” của giới tính (giống như săn bắt một đối tác giới https://thuviensach.vn tính), và cũng từ đó sinh hoạt giới tính không còn cụ thể liên hệ gì nữa với việc săn mồi. Dẫu vậy, có thể vẫn còn có một tí chút tàn dư gì đó của hình thức “tương tự” ngày trước vương vấn để lại. Cái tí chút tàn dư này là điều làm cho trường phái giải thích giản lược (reductionism) ngày nay tiếp tục xem giới tính là năng lực điều động cho tất cả mọi sinh hoạt và toàn thể cuộc sống của con người. Chính nhờ khả năng, khuynh hướng và nhu cầu tạo ra những tương tự và ẩn dụ mà thế giới tâm thức và văn hóa của con người được phát triển và mở rộng với thời gian. C.G. Jung nói: “Người ta thấy, với cách thức tài tình phát minh ra những tương tự mà dần dà libido mất đi tính cách giới tính của nó, bởi càng ngày càng có nhiều cách nhìn phong phú thay thế cho cái nhìn sơ cổ của dục năng giới tính. Và như thế dần dà quả đã thực hiện được một sự mở rộng phi thường về hình ảnh thế giới, bởi càng ngày càng nhiều đối tượng được diễn tả thông qua hình thức biểu tượng phát xuất từ dục năng giới tính.”[27] Ta có thể nói một cách tương phản rằng, với phương thức dùng biểu tượng qua các loại tương tự và ẩn dụ, thế giới sơ cổ của tâm thức và hoạt động con người ngày vừa càng nặng giới tính, mà cũng vừa bớt giới tính hơn: nặng giới tính, trong nghĩa nhiều hình ảnh tương tự liên hệ đến giới tính; nhưng đồng thời lại bớt giới tính, bởi những hình ảnh tương tự đó ngày càng đi xa khỏi gốc gác sơ thủy giới tính để mở rộng ra cả một thế giới tâm thức và văn hóa đa phương lẫn đa tầng. Với phương pháp thông giải (hermeneutics) có tính thiết thực và mở rộng của mình, thông qua hình thức tương tự, ẩn dụ và biểu tượng, C.G. Jung đã vượt xa khỏi phương pháp bình giải co rút và giản lược của Freud, và nhất thiết có một ngày phải đi đến đoạn tuyệt với Freud. Hoàn cảnh đoạn giao này là chương cuối cùng trong thiên khảo luận “Những biến chuyển thay đổi và những biểu tượng của libido”, với tiêu đề “Tế sát” (Das Opfer), trong đó C.G. Jung thông giải về hiện tượng “loạn dâm” (incest). Đây là điểm chốt cuối cùng nói lên sự khác biệt cơ bản giữa hai trường phái tâm lý học với hai phương pháp thông giải: thông giải theo từ (bám chân chữ) của Freud xem dục lực giới tính là động cơ cơ bản và toàn diện của con người, và thông giải thiết thực nhưng mở rộng và bao hàm dựa trên hình thức biểu tượng của C.G. https://thuviensach.vn Jung. Sau đây là đoạn văn then chốt: “Trong thiên khảo luận “Những biến chuyển thay đổi và những biểu tượng của Libido” khi đến phần kết thúc của chương cuối cùng nói về “Tế sát” (Opfer), tôi biết trước là công việc này sẽ đưa đến việc chấm dứt tình bằng hữu giữa Freud và tôi. Phần kết thúc nói trên trình bày quan điểm của tôi về vấn đề “loạn dâm”, một sự thay đổi dứt điểm về khái niệm libido và một số tư tưởng khác, những điều tôi quan niệm khác hẳn với Freud. Đối với tôi, “loạn dâm” với nghĩa đen đích thực của nó chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất hiếm; còn phần rất lớn, nó mang một nội dung cực kỳ có ý nghĩa tôn giáo; cũng vì thế mà trong hầu hết các trình thuật về vũ trụ luận và trong nhiều câu chuyện thần thoại huyền thoại của lịch sử nhân loại, vấn đề “loạn dâm” nói trên đóng một vai trò chủ yếu. Trong khi đó, Freud vẫn bám sát vào chữ và không thể hiểu được ý nghĩa tinh thần của khái niệm “loạn dâm” như là một biểu tượng. Tôi biết rằng, Freud sẽ không bao giờ chấp nhận được quan điểm sau này”[28].Tại sao quan điểm về “loạn dâm” của Jung lại là một sự “thay đổi dứt điểm về khái niệm libido”? Bởi C.G. Jung đã không chấp nhận cách giải thích bám sát chữ về sự kiện “ước muốn loạn dâm”, cụ thể là giữa con trai và mẹ mình. Freud xem “ước muốn loạn dâm” quả là ước muốn từ trong vô thức thể hiện cụ thể việc giao cấu giới tính với mẹ ruột của mình. C.G. Jung trái lại giải thích “ước muốn loạn dâm” một cách biểu tượng, xem đó như là khắc khoải ước muốn trở về với địa đàng thơ trẻ. Khắc khoải ước muốn này lại càng được bộc lộ rõ ràng hơn nữa, khi một người phải đối đầu với những thách thức cay nghiệt của cuộc sống đòi hỏi phải trưởng thành, tự lập, biết thích nghi với cảnh sống mang đầy khó khăn bực dọc. Trong những hoàn cảnh như thế, người ta thường ưa thích lên giường nằm dài rồi phủ chăn kín đầu. “Bà mẹ” mà người ta ước mơ tìm kiếm trong những trường hợp như thế, theo giải thích của C.G. Jung, là ước mơ trở về với tình trạng được che chở, đùm bọc, âu yếm, nâng niu, tình trạng khỏi phải đối đầu với các vấn đề phiền hà phức tạp, tình trạng phó thác, lệ thuộc, hết trách nhiệm như trong thời thơ bé. Những động cơ như thế đã rất thường xảy ra với rất nhiều người nghiện ngập rượu chè hút xách. Còn sự kiện “loạn dâm” trong truyền thống các dân tộc thời cổ đại, chẳng hạn với các Pharaon Ai Cập, thì C.G. Jung thông giải theo quan điểm biểu tượng tôn giáo, xem đó là dấu chỉ diễn tả sự hợp nhất với https://thuviensach.vn nguồn năng lượng thần thánh tối thượng, đồng thời là bảo chứng cho hàm vị ngôi thứ được thừa ủy từ trên cao. Đó là sự giao hợp với “bà mẹ-nguyên thủy-sự sống”, không phải một giao hợp giới tính bình thường. Giới tính không phải là điều cốt yếu trong việc thực hành “loạn dâm”. Loạn dâm như thế mang tính biểu tượng hơn là nhu cầu sinh lý. Và libido sẽ không còn đơn giản được hiểu chỉ như là nhu cầu giới tính, và nhất là với cách hiểu độc đoán và toàn diện xem libido giới tính trong tất cả mọi sinh hoạt và cuộc sống của con người. Libido là Willen/Will/Ý Chí, theo cách hiểu của Schopenhauer. C.G. Jung ngả mũ trước Schopenhauer; nhưng thêm rằng, Ý chí có hai phần: một ý chí để sống, và một ý chí để chết. “Trong nửa cuộc đời thứ nhất, libido mong muốn phát triển; trong nửa cuộc đời thứ hai, libido đầu tiên ra dấu, rồi rõ ràng nói lên mong muốn ra đi”[29]. Tiêu đề “tế sát”, mà C.G. Jung trình bày rất dài dòng và cặn kẽ trong thiên khảo luận “Những chuyển biến thay đổi và những biểu tượng của Libido”, là một tiêu đề trung tâm trong tư tưởng của C.G. Jung về vấn đề phát triển tâm thức và nhu cầu trưởng thành con người. Con người, bao lâu còn bị trói buộc trong dục vọng dâm loạn, bấy lâu không thể phát triển tâm linh ra khỏi giai đoạn con trẻ. Địa đàng con trẻ trở thành quê hương trẻ con. Đồng thời con người chủng loại cũng không thể phát triển đi xa, bởi không thể tương ứng đối đầu với một thế giới đầy thách thức đòi hỏi. Ước muốn dục vọng dâm loạn mãi mãi là trẻ con trong thời sơ cổ phải được tập thể “tế sát” và trong thời hiện đại phải được mỗi người cá nhân “hiến tế”, để thực hiện biến chuyển đi đến một tâm thức rộng lớn hơn nữa. Đối với C.G. Jung, chuyển biến đưa đến trưởng thành tâm linh này là một công việc được thực hiện từ sức lực nội tâm; không vì bức bách đe dọa từ bên ngoài. Ước muốn loạn dâm phải được tự nguyện “tế sát”, không (như học thuyết của Freud) vì lo sợ phải bị “cắt thiến” (castration). Lý thuyết của Freud về việc “giết cha” (parricide) và “đền tội giải oan” – như là cơ sở phát triển lương tâm – là điều xa lạ đối với C.G. Jung. Con người phát triển lương tâm, đạo đức, luân lý và văn hóa là điều tự nhiên và đương nhiên, như một thành phần cơ bản của cuộc sống, không vì bức bách, bó buộc hay đe dọa. Văn hóa do đó đối với con người là một việc tự nhiên và đương nhiên. E. BIỂU TƯỢNG – CHUYỂN HÓA – TÂM THỨC SIÊU CÁ NHÂN (TRANSPERSONAL) https://thuviensach.vn Trong phân đoạn (d) trên đây, chúng ta đã trình bày khá rộng rãi về việc chuyển biến năng lượng tâm lý nhờ biểu tượng, thông qua các hình thức tương tự và ẩn dụ. Biểu tượng tàng chứa rất nhiều năng lượng tâm lý và tác động với nhiều ảnh hưởng đến con đường và mục đích phát triển con người, một con người có văn hóa. Tôn giáo cũng là một hình thức văn hóa và còn cao hơn văn hóa. Tôn giáo vẫn thường tàng chứa rất nhiều năng lượng tâm lý và tâm linh. Năng lực của tôn giáo hầu như chỉ dựa vào biểu tượng. Biểu tượng của tôn giáo được diễn tả qua hình ảnh, trình thuật, nghi lễ, hành động, khải tượng, thông qua rất nhiều hình thức tương tự, ẩn dụ, với màu sắc, âm thanh, vũ điệu và nhiều hình thức nghệ thuật. Lấy mất đi năng lực của biểu tuợng, tôn giáo sẽ sụp đổ như một cung điện bằng giấy bồi. Bao lâu tôn giáo còn năng lực và sống động, bấy lâu những tư tưởng và nghi lễ tôn giáo vẫn tàng chứa những năng lượng thu hút vô cùng lớn lao, hướng dẫn năng lượng con người đến những công trình cao cả, lợi ích và tốt đẹp. Tại sao biểu tượng lại tàng chứa những năng lượng lớn lao hơn là các sự vật bình thường tự nhiên? Làm sao một tư tưởng đối với con người lại có sức lôi cuốn hơn là những sự vật thể chất như bình sữa hay cơ quan sinh dục? C.G. Jung hiểu rất rõ, lý do không phải hệ tại một sự quyết định nào của cái Tôi. Khi “Bill W.” (William G. Wilson), người sáng lập “Hội Người Nghiện ngập Vô danh”, năm 1961 viết thư cho C.G. Jung kể lại số phận của Roland H. mà C.G. Jung vào đầu thập niên 1930 đã chăm sóc trị liệu, C.G. Jung trong thư trả lời đã nói rằng, bác sĩ tâm lý trị liệu cuối cùng cũng cảm thấy bất lực, khi đặt vấn đề làm sao dứt được bệnh nhân ra khỏi ve thuốc chai rượu. Thư của C.G. Jung đại khái nói rằng[30]: Con người cần một biểu tượng, một cái gì tương tự như thế có sức thu hút năng lượng lâu nay tuôn chảy vào nghiện ngập. Cần tìm ra được một hình tượng, có sức lôi cuốn hơn là mỗi chiều túy lúy mê man, có sức đam mê hơn là một chai vodka rượu mạnh. Để có được sự thay đổi triệt để cho một người nghiện ngập, nhất thiết cần đến một biểu tượng đầy sức mạnh. C.G. Jung nói đến sự cần thiết một kinh nghiệm xáo trở cuộc đời. Biểu tượng dâng cao từ những tầng lớp thâm sâu nhất của con người, của vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Nó không thể do https://thuviensach.vn cái tôi giả tạo bày đặt ra, nhưng là được đột khởi xuất hiện từ vô thức, nhất là trong những thời gian chúng ta nhất thiết và bức bách cần đến những biểu tượng như thế. Biểu tượng có sức chuyển biến dục lực lên với tầm mức văn hóa. Biểu tượng có sức nối kết bản năng với tinh thần. Biểu tượng còn có sức nâng đưa tâm thức cá nhân lên những tầng cao tâm lý và tâm linh siêu cá nhân (transpersonal), những tầng cao tâm linh mà trong nhiều truyền thống, văn hóa và tôn giáo của nhân loại đều nói đến và đề cao như mục đích cuối cùng của hành trình sự sống con người: Năng lượng, Sự sống, Tinh thần. [26] Chương này được biên soạn một phần dựa theo Stein 2000, chg.3: Die psychische Energie (Năng lượng tâm lý). [27] C.G. Jung,Wandlungen und Symboleder Libido,31997, 146. [28] C.G. Jung, Erinnerungen, Träume, Gedanken, 1974, 171. [29] C.G. Jung: Wandlungen und Symbole der Libido,31997, 408. [30] C.G. Jung, Briefe (Thư tín), II, 624. https://thuviensach.vn Chương 7 NHỮNG NĂNG LỰC TẠO HÌNH: MẪU TƯỢNG A. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ Chúng ta vẫn từng chứng kiến hiện tượng chim trời, gia súc, cầm thú, cả đến sâu bọ, mỗi loài động vật này đều có những bản năng sinh sống của chúng: làm tổ, nuôi con, truyền giống... Những bản năng này được phú bẩm và được mãi mãi trao truyền. Những bản năng sinh sống đó mang một cấu trúc riêng biệt và tàng chứa những năng lực sinh hoạt riêng biệt thể theo những đòi hỏi của bản năng. Người ta gọi những cấu trúc và năng lực sinh hoạt đó là những “mô hình”, những “nguyên tượng”, những “pattern of behaviour”. Nhưng không phải chỉ loài động vật mới có những “mô hình” với cấu trúc và năng lực sinh hoạt như thế. Mô hình, nguyên tượng, vẫn còn được tìm thấy ở tất cả mọi sự vật trong trời đất, từ thảo mộc cho đến khoáng vật, đến tận cả từng tế bào, nguyên tử, electron, proton. Mỗi sự vật đều có những cấu trúc riêng biệt và những năng lực sinh hoạt riêng biệt theo từng thứ loại của các sự vật. Như một miếng đá nam châm vẫn luôn có khuynh hướng (tức năng lực) thu hút và sắp xếp lại các mảnh sắt vụn nhỏ trên một tờ giấy thành một cấu trúc, một mô hình riêng biệt. Cuối cùng, con người với hệ tâm thức của mình cũng có những “mô hình”, những “nguyên tượng”, những “pattern of behaviour” tương tự như thế. Trong khi bản năng (như ăn uống, giao hợp, nuôi dưỡng...) hoạt động và được giác quan “bên ngoài” cảm nhận như là những năng lực sinh-lý-hóa, thì đồng thời hệ tâm thức “bên trong” cũng phát hiện ra những “hình ảnh”, và thường khi lại là những “hình ảnh có tính biểu tượng” với những “năng lực” tâm thần tương ứng (như hình ảnh ăn uống của một gia đình đoàn tụ, một buổi tiệc 5.000 người ăn sau một buổi giảng thuyết về đời sống tâm linh, một thế giới nhân nghĩa ai nấy đều ăn uống no đủ...). C.G. Jung gọi những “hình ảnh có tính biểu tượng” đó là “Archetypen” (archetypes), chúng tôi dịch là “mẫu tượng”. Từ kép archetypen gồm từ đơn arche có nghĩa là khởi đầu, cơ sở, nguyên lý, và từ đơn typos có nghĩa là dấu ấn, hình ảnh, mô hình, tiêu chuẩn, quy phạm. https://thuviensach.vn Archetypen, mẫu tượng, như thế là những “mô hình” có cấu trúc riêng biệt và năng lực sinh hoạt riêng biệt theo từng thứ loại mẫu tượng. Và mô hình, nguyên tượng, mẫu tượng nơi con người vượt xa hơn nhiều những mô hình, nguyên tượng của chỉ một mình bản năng của loài sinh-động-vật. Bởi cấu trúc và năng lực của mẫu tượng nơi con người có tính đa phương và đa tầng, vượt hẳn lên trên ba chiều không gian và thời gian vật lý để đi đến những chiều siêu cá nhân (trans-personal), siêu tâm linh (trans-mental). Mẫu tượng được phát hiện với bản năng. Theo C.G. Jung, bản năng là hình thức cơ bản của sinh hoạt, còn mẫu tượng là hình thức cơ bản của nhận thức, của thị kiến. Theo nguyên văn: “Mẫu tượng là nhận thức về bản năng”, là “bản sao ảnh của bản năng” (GW 8, 157). Hơn nữa, mẫu tượng được phát hiện không phải chỉ với bản năng, nhưng còn rất thường thông qua chiêm mộng, mơ tưởng, khải tượng; bởi nguồn xuất phát cuối cùng của mẫu tượng là những tầng sâu của vô thức tập thể, nơi được tàng trữ cô đọng lại những kinh nghiệm của cả loài người trải qua nhiều truyền thống nhân loại trong không gian và thời gian. Ta còn cần quảng diễn rộng rãi và cụ thể hơn về mẫu tượng trong những phân đoạn sau đây. B. MẪU TƯỢNG LÀ GÌ, TỪ ĐÂU TỚI, CẤU TRÚC RA SAO, TÁC ĐỘNG THẾ NÀO? Định nghĩa mẫu tượng không phải là một điều đơn giản. Chính C.G. Jung cũng đã phải mất hàng chục năm trời, mà cuối cùng cũng chỉ có thể gợi ý hơn là miêu tả hay định nghĩa. Đầu tiên C.G. Jung gọi những “hình ảnh có tính biểu tượng” phát hiện từ các tầng sâu của hệ tâm thức là “nguyên tượng” (Urbilder, urtmliche Bilder; 1912), sau gọi là “yếu tố chủ yếu của vô thức” (1917), mãi năm 1919 C.G. Jung mới dùng từ “Archetypen” (mẫu tượng), rồi gần 30 năm sau (1946) C.G. Jung mới phân biệt giữa “mẫu tượng trong hình thức” (per se) nghĩa là trong nguyên lý và cấu trúc cơ bản, và “mẫu tượng trong hiện thực” nghĩa là mẫu tượng được thể hiện trong những hình ảnh cụ thể. Sau đây ta sẽ tuần tự tìm hiểu những tiêu đề được nêu ra ở đầu phân đoạn này. https://thuviensach.vn Làm sao, tại sao, từ đâu C.G. Jung có ý tưởng về mẫu tượng? Trong thực hành nghiệp vụ tâm lý trị liệu, C.G. Jung đã được các bệnh nhân kể cho nghe những chiêm mộng của họ, trong đó có những “hình ảnh” mà vốn tri thức và kinh nghiệm bản thân của cá nhân họ không thể nào sản xuất ra được[31]. Như trường hợp một giáo sư nọ có một thị kiến làm ông lo sợ và tự xem là bị bệnh tâm thần trầm trọng. Nhưng C.G. Jung đã đơn giản lấy một quyển sách xuất bản cách đó 400 năm từ kệ sách của mình, và đưa cho vị giáo sư kia xem một bức ảnh in hoàn toàn giống như thị kiến mà vị giáo sư đã có trong chiêm mộng. C.G. Jung nói: “Ông không cần phải lo sợ. Cách đây 400 năm người ta cũng đã có một thị kiến giống như thị kiến của ông”. Thế rồi, vị giáo sư trút bỏ được gánh nặng lo âu, ngồi phịch xuống ghế, cuối cùng tinh thần trở lại bình thường. Thêm một trường hợp: Một bé gái 8 tuổi làm quà Giáng sinh cho bố mình một tập vở mà cháu đã ghi lại một loạt các giấc mộng của cháu. Ông bố và một người bạn gia đình, cũng là một bác sĩ tâm thần, không sao hiểu nổi ý nghĩa của các hình ảnh ghi lại từ các giấc mộng, bởi những hình ảnh đó vượt hẳn vốn tri thức và kinh nghiệm của cháu bé. Ngoài ra, những hình ảnh đó cũng không thể do bịa đặt hay sao chép lại, bởi gia đình cũng như chính C.G. Jung đã từng biết sự ngay thật của cháu. Hình ảnh của các giấc mộng này được C.G. Jung sắp xếp lại trong một loạt 12 tiêu đề và diễn tả những cảnh có tính huyền thoại từ rất nhiều truyền thống văn hóa và tôn giáo của nhiều dân tộc trong lịch sử nhân loại. Sau đây chúng tôi xin nêu một vài thí dụ. • Hình ảnh một: Một con “thú dữ”, hình một con rắn to đùng với 4 sừng, giết chết và nuốt chửng mọi con thú khác. Nhưng Thượng đế đến, dưới hình hài 4 vị thần, từ 4 góc, và làm sống lại các con thú đã bị giết chết. • Hình ảnh hai: Một cuộc thăng thiên, trên đó các vũ môn ngoại đạo đang biểu diễn; và một cuộc hạ ngục, dưới đó các thiên sứ làm những điều lành thiện. Trong nguyên bản, các giấc mộng đều được bắt đầu bằng câu “Ngày xửa https://thuviensach.vn ngày xưa...”, giống như lối hành văn trong các chuyện cổ tích dân gian các dân tộc. Nội dung của các giấc mộng thật vô cùng kỳ lạ. Các tư tưởng dẫn lực đều có bản chất triết lý. Thí dụ: Giấc mộng thứ nhất nói về con “thú dữ” giết chết các con thú khác; nhưng Thượng đế đã tái lập lại sự sống cho những con thú bị giết chết này. Trong thế giới Âu Tây, truyền thống Kitô giáo đã biết đến tư tưởng đó. Sách Công vụ Các Sứ đồ (3: 21) chép: “(Đấng Christ) mà trời phải rước về cho đến kỳ muôn vật được đổi mới...”. Các giáo phụ Hy Lạp (như Origenes, 185-254) đã quan niệm, mọi vật trong thời cuối cùng sẽ được Đấng Giải Cứu đến tái lập lại tình trạng hoàn hảo thời nguyên thủy. Phúc Âm Mathieu (17: 11) đã cho biết quan niệm của truyền thống Do Thái về điều này: “(Ngôn sứ) Êli phải đến mà sửa lại mọi việc”. Thư thứ nhất Côrinhtô (15: 22) cũng có tham chiếu quan điểm này: “Như trong Adam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại”. Người ta có thể nghĩ rằng, cháu bé chắc đã được nghe nói về các điều đó trong gia đình, trường học hay nhà thờ. Nhưng sự kiện này chắc chắn đã không xảy ra, bởi gia đình cũng như môi trường sinh sống và giáo dục của cháu không có quan hệ gì với tôn giáo. Cha mẹ của cháu bé là người Tin Lành, nhưng chỉ có danh mà không có thực: gia đình không thực hành tôn giáo của họ. Chín trên mười hai giấc mộng đều nói về tiêu đề phá hủy và tái lập; và tất cả chín tiêu đề đó đều không có liên hệ gì với ảnh hưởng của Kitô giáo. Trái lại, chúng có tương quan rất gần với các huyền thoại sơ cổ, nhất là với huyền thoại sinh hóa trời đất. Mà ngay tiêu đề về Đấng Christ – Đấng Giải Cứu cũng là một tiêu đề đã từng có một cách tương tự trong các truyền thống tiền-Kitô giáo: Tiêu đề “người anh hùng và vị giải cứu”, một nhân vật bị một con thú lớn (kiểu như con khủng long) nuốt chửng, nhưng sau đó lại xuất hiện một cách lạ lùng, sau khi đánh bại con thú đã nuốt mình vào bụng. Không ai biết được những tiêu đề chiêm mộng như thế đến từ đâu và đến từ lúc nào. Điều biết chắc là mỗi thế hệ con người đều đón nhận được những truyền thống như thế từ những “thời xửa thời xưa...”, có thể là những thời mà con người chỉ sống mà chưa suy https://thuviensach.vn nghĩ trên những điều mình sống. Hình ảnh “người anh hùng, vị giải cứu” là một “mẫu tượng” đã có từ những thời cổ đại nhất của loài người. Từ đâu có mẫu tượng?[32] Nhiều lần khác, có nhiều người vẫn lại đặt câu hỏi với C.G. Jung về xuất xứ của mẫu tượng. C.G. Jung nói: “Tôi nghĩ, sự hình thành của mẫu tượng luôn bắt nguồn từ những kinh nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần của loài người. Một trong những kinh nghiệm quen biết nhất và đồng thời đầy ấn tượng nhất là sự xoay vần thường ngày của mặt trời: chúng ta có thể sẽ không khám phá gì được trong vô thức, nếu chỉ nhìn đến hiện tượng vật lý của việc mặt trời xoay vần. Trái lại, chúng ta tìm thấy “huyền thoại anh hùng mặt trời” trong vô vàn những biến hình biến dạng của nó. Chính cái huyền thoại nói trên, chứ không phải hiện tượng vật lý, đã tạo ra “mẫu tượng mặt trời”. Điều ấy cũng đúng trong trường hợp quá trình xoay chuyển của mặt trăng. Mẫu tượng là như một loại “dữ kiện” luôn sẵn sàng thể hiện lại cũng cùng những ý nghĩ huyền thoại đó hoặc tương tự như thế. Và như vậy, hầu như điều đã được khắc ghi vào vô thức, hoàn toàn chính là ý nghĩ tưởng tượng chủ quan đã được khích động bởi hiện tượng vật lý. Do đó, người ta có thể nghĩ rằng, mẫu tượng là những ấn tượng của những phản ứng chủ quan được nhiều lần lặp đi lặp lại...”. Và theo C.G. Jung, các thú vật cũng rất có thể có những mẫu tượng tương tự của chúng, C.G. Jung nói tiếp: “Không gì ngăn cản chúng ta nghĩ rằng, một số mẫu tượng nào đó cũng có thể có nơi động vật, rằng những mẫu tượng đó được hình thành trên cơ sở hệ thống sinh vật; nhưng làm sao mà trở thành như thế, đó là điều không giải thích được.” Mẫu tượng và năng lực tác động C.G. Jung nói tiếp: “Mẫu tượng không chỉ là những ấn tượng của những kinh nghiệm đặc sắc được nhiều lần lặp lại, nhưng chúng đồng thời cũng xuất hiện cụ thể như những năng lực hoặc khuynh hướng tái lập lại cũng cùng những kinh nghiệm đó. Như khi một mẫu tượng phát hiện trong chiêm mộng, trong mơ tưởng hoặc trong cuộc sống, nó sẽ mang lại một “ảnh hưởng” hay một https://thuviensach.vn “năng lực” có tính huyền dụ (numinous), hấp dẫn lôi cuốn và thúc đẩy hành động”. Mẫu tượng xem ra nhỏ bé, và bởi vô hình lẫn thầm kín nên lại càng bị coi thường. Nhưng năng lực tác động của nó có thể vô cùng quan trọng. C.G. Jung thuật câu chuyện một người quý tộc Tây Ban Nha vào thế kỷ 13 tên Ramón Lull. Ông này sau rất nhiều vất vả đã nhận được một buổi hẹn kín với một thiếu phụ mà ông đã từ lâu đeo đuổi. Thiếu phụ trầm lặng vén áo mình lên, đưa cho ông xem cái ngực trần của mình, cái ngực bị thối rữa vì ung thư. Cú “sốc” đã thay đổi hẳn cuộc đời của Ramón Lull. Ông sau đó đã trở nên một nhà thần học nổi tiếng và là một nhà truyền giáo quan trọng. Điều C.G. Jung viết thêm vào câu chuyện này càng có ý nghĩa thực tiễn cho chúng ta: Trong những trường hợp thay đổi đột ngột như thế, thường lại do mẫu tượng đã tác động từ lâu trong vô thức cũng như đã khôn khéo sắp xếp các hoàn cảnh đưa đến một cú “sốc” và một cơn khủng hoảng như thế[33]. Jung còn so sánh năng lực tác động của mẫu tượng lớn lao như năng lượng nguyên tử: Mẫu tượng có đặc tính giống như thế giới nguyên tử, mà ngày nay ta đều biết. Thí nghiệm của nhà nghiên cứu càng đi sâu vào thế giới cực nhỏ, thì năng lượng trong đó lại càng tỏ ra vô cùng kinh hoàng. Từ điểm cực nhỏ phát xuất ra hệ quả cực lớn, đó là điều không những thuộc thế giới vật lý, mà còn đã từng được tỏ hiện trong thế giới tâm lý. Điều vẫn thường xảy ra trong những khoảnh khắc gay cấn của cuộc đời là “cái tất cả” thường lại lệ thuộc vào “cái xem không ra gì cả”![34] Một lần khác C.G. Jung nói[35]: Cách đây 6 ngàn năm, bầu trời quang đãng, vùng sa mạc trên miền Lưỡng Hà giữa sông Euphrat và sông Tigris đã là “trắc nghiệm Rorschach” đầu tiên. Trắc nghiệm Rorschach (theo tên của bác sĩ khoa tâm thần người Thụy Sĩ Hermann Rorschach, 1884 – 1922), là một loạt những “bức ảnh bằng chấm mực” (ink-stains) để trắc nghiệm hiện tượng liên tưởng và phóng ngoại ý nghĩ và cảm xúc của tâm thức con người. Người làm trắc nghiệm nhìn vào những “bức ảnh có chấm mực” với những hình hài và sắc màu khác nhau, và từ đó nói lên những ý nghĩ và cảm giác được khích động trong mình. Cách đây 6 ngàn năm, có những con người ở vùng Lưỡng Hà đã nhìn lên bầu trời và đã “đọc” từ trong đó những hình ảnh và những ý nghĩa liên hệ; những hình ảnh như sư tử, bò tót, cua còng (chòm sao Giải), https://thuviensach.vn cừu đực (chòm sao Bạch Dương), bọ cạp (chòm sao Thần Nông)... hoặc tên những vị thần như Mars, Venus, Mercury, nữ thần mặt trăng Diana, Thần mặt trời Apollo, Jupiter, Saturn, Uranus, Neptune, Pluto... cả một điện thần (pantheon) với nhiều mẫu tượng cấu trúc cuộc sống của con người chúng ta một cách tích cực từ những tầng sâu vô thức. Ở đây dĩ nhiên không chủ ý nói về những tinh sao của hệ thống mặt trời, nhưng là những phẩm tính của các mẫu tượng và những cách sống của con người mà người ta đã phóng ngoại lên trên bầu trời. Những phẩm tính như nỗ lực hiếu chiến (Mars/Ares), mỹ lệ yêu thương (Venus), phong phú và chắt chiu (Diana), hoàn hảo vĩnh hằng (Jupiter/Sagittarius)... Đây không phải là những vấn đề thuộc các khoa thiên văn hay chiêm tinh, nhưng là các vấn đề thuộc Tâm lý Chuyên sâu. Trên bầu trời với tinh tú trăng sao, con người đã được khích động và liên tưởng phát xuất ra những hình ảnh có tính biểu tượng, những hình ảnh biểu tượng được phóng ngoại từ trong vô thức của mình ra. Mẫu tượng trong hình thức và mẫu tượng trong hiện thực C.G. Jung phân biệt mẫu tượng trong hình thức (per se) và mẫu tượng trong hiện thực. Mẫu tượng trong hình thức là mẫu tượng với một số hình thức cơ bản và một số ý nghĩa cơ bản, tồn tại trong tâm thức, nhưng vô hình giống như màu của tia tử ngoại (ultraviolet) của quang phổ. Cũng theo C.G. Jung, mẫu tượng trong hình thức thuộc loại “gần như tâm lý” (psychoid) chứ không phải cụ thể của loại tâm lý (psychic). Mẫu tượng trong hình thức là cơ sở và kiểu mẫu cho việc thể hiện cụ thể một ảnh hình; ảnh hình cụ thể này chính là mẫu tượng trong hiện thực. Mẫu tượng trong hiện thực là những mẫu tượng được diễn bày và thể hiện trong những hình ảnh cụ thể, như mẫu tượng cha, mẹ, bé thơ, anh hùng, mẫu tượng Đấng Giải Cứu, mẫu tượng Thượng đế... (GW 8, 417). C. MẪU TƯỢNG VÀ NĂNG LỰC TẠO HÌNH Khái niệm “tạo hình” (Gestalt, form, shape) là một khái niệm thông dụng, đặc biệt trong khoa tâm lý trị liệu từ thập niên 40 thế kỷ 20[36]. Khái niệm “tạo hình” nói lên cấu trúc cơ bản và toàn diện (Ganzheit, wholeness, holiness) làm cơ sở và động lực cho sự thể hiện thành toàn của sự vật, của con người, của hệ tâm thức. Khái niệm “tạo hình” trong lĩnh vực mẫu tượng còn nói đến “ý nghĩa” toàn diện (total), chủ toàn (integral) và thành toàn https://thuviensach.vn (integrated). Toàn diện là một cấu trúc đầy đủ và ý nghĩa được lãnh hội trong nguyên lý. Nhưng “toàn diện” cần được thể hiện trong cụ thể, và sự thể hiện đó có thể có nhiều hình thái và mức độ (gọi là “biến số”), nhưng vẫn giữ những nét cơ bản của cấu trúc; những nét cơ bản đó là “hằng số”, là “tạo hình” (Gestalt). Ta đan cử một vài thí dụ: Cũng cùng một điệu nhạc, nhưng có thể hát xướng trong nhiều âm giai khác nhau. Cũng cùng một cấu trúc thánh đường hình thập tự giá, nhưng có thể thể hiện trong nhiều kiểu kiến trúc khác nhau như baroque, gothic, moorish, hiện đại, hậu hiện đại... Mẫu tượng cũng vậy; như cũng dùng một “mẫu tượng tương quan”, nhưng diễn tả có thể là nhịp cầu, ải quan, chính môn, cánh cửa, cầu vồng, vòng cung nguyệt, thỏa hiệp... Hệ tâm thức của con người có nhiều mẫu tượng. Các mẫu tượng đều có những cấu trúc và ý nghĩa riêng biệt; nhưng chúng không đứng biệt lập riêng rẽ. Trái lại, chúng tương quan, liên hệ với nhau; hơn nữa, chúng còn thâm nhập vào nhau trong một mối “tương tức, tương nhập, tương tác” rất mật thiết[37]. Mẫu tượng với cấu trúc cơ bản và ý nghĩa toàn diện, chủ toàn và thành toàn là những “năng lực tạo hình” cho hệ tâm thức của con người. D. MỘT GIẤC MỘNG MINH HỌA[38] Giấc mộng sau đây minh họa vai trò và tác động của mẫu tượng. Người chiêm mộng là một bác sĩ nội khoa, người Pháp, 35 tuổi, cực kỳ duy lý, tự cho mình là một bác sĩ xuất sắc, có thể chữa lành bệnh nhân nếu anh muốn. Việc “lạm phát cái tôi” của người “bác sĩ anh hùng” này đã không còn cho anh thấy những tài năng đầy sáng tạo từ thời thơ trẻ của anh đã bị bóp nghẹt và thế giới tình cảm của anh cũng đã bị tê liệt. Giấc mộng sau đây cảnh báo anh phải thay đổi tâm trạng ý thức một chiều và thiếu thăng bằng của mình, bằng một sự bù trừ phân xuất từ mẫu tượng. Giấc mộng được thuật lại như sau: “Tôi ngồi trên một băng đá trong một hang hầm to bằng một căn phòng. Phía sau tôi, hơi cao hơn một chút, cũng trên một băng ghế đá, là hình dạng một vị thượng tế có dáng dấp cao trọng, vận một bộ đồ dài màu trắng. Ông ngồi ngay sau lưng tôi, bất động, chỉ có đôi mắt cho biết ông còn sống. Tôi https://thuviensach.vn mặc đồ dạ hội, thật không thích hợp chút nào với khung cảnh của hang động. Trần và vách hang bằng đá sáng, giống như ngọc thạch. Và đây, một thiếu nữ được dẫn vào, cô mặc đồ bệnh viện, trông thật nghèo khó và thiểu não. Cô trong tình trạng bệnh tâm thần, được dắt vào và ngồi xuống một ghế đá trước mặt tôi, dáng dấp xa xôi, bất động. Tôi bắt đầu ngỏ lời với cô, nhỏ nhẹ, tử tế; rồi tôi nói lâu hơn, và dần dần tình trạng đờ đẫn của cô gái biến đi. Cô cử động, ngồi thẳng lên, rồi cuối cùng bắt đầu tỉnh táo nhìn tôi. Rõ ràng cô thay đổi từ một bệnh nhân tâm thần thành một thiếu nữ trẻ và khỏe, và cứ thế hồi tỉnh và hồi sinh lại. Cuối cùng cô ta múa nhảy khắp cả gian hầm và rồi biến mất. Trong suốt thời gian trên, vị thượng tế vẫn ngồi bất động trên ghế cao sau lưng tôi, và tôi biết, chỉ với sức thiêng của ông mà tôi đã chữa lành cô bé. Giấc mộng để lại trong tôi một cảm giác đầy an lành và tin cậy đối với nhân vật này, chính từ ông mà sức chữa lành đã phân xuất ra và đã tác động thông qua con người tôi.” Bình luận về giấc mộng này chỉ là dư thừa. Ý nghĩa của giấc mộng cũng đã quá rõ. Không phải con người tự cho mình là kẻ toàn tri và là con người đầy ý chí đã chữa lành bệnh, nhưng là năng lực của Mẫu tượng Tinh thần “đứng sau lưng” và thông qua chàng bác sĩ. Một khi anh khiêm tốn để cho Mẫu tượng Tinh thần đó thẩm thấu thông qua, thì phần cảm xúc-nữ tính bị chai đá tê liệt lâu nay của anh được hồi sinh, khỏe mạnh, đầy sức sống và nhẹ nhàng uốn lượn, giống như những tài năng nghệ sĩ thời thơ trẻ lâu nay bị tê liệt của anh. Mẫu tượng, giống như tiếng nói của con người, là những yếu tố “tạo hình” rất lớn. Nếu bị bỏ quên hay bị tổn thương, chúng sẽ gây xáo trộn và hư hỏng. Từ những tầng thâm sâu của vô thức, mẫu tượng có khả năng sắp xếp và tổ chức cuộc sống tinh thần, và thông qua những nẻo đường phức tạp huyền bí dẫn đến một sự thể hiện thành toàn. Bởi mẫu tượng hầu như biết trước mục đích phải đến, con đường phải đi. Đồng thời, mẫu tượng cũng còn là kẻ hộ phù và là người giải cứu. Do đó, những ai nói chuyện được với mẫu tượng, thì cũng nói được: “Như muôn vàn tiếng nói, họ nhập cuộc, trấn an và nâng cao những gì đơn https://thuviensach.vn chiếc và vô thường lên cung phận của hiện hữu, nâng sinh mệnh cá nhân lên sinh mệnh của chủng loại, và làm dấy lên trong ta tất cả những năng lực cần thiết, làm cho chủng loại con người cứu được mình ra khỏi mọi nguy hiểm và vượt được ra khỏi đêm dài đen tối”[39]. [31] Sau đây, chúng tôi trình thuật tóm lược một số trường hợp theo C.G. Jung: Der Mensch und seine Symbole (Con người và biểu tượng), Zürich/Düsseldorf,151999. 69t. [32] Sau đây, chúng tôi trích dẫn nhiều đoạn văn của C.G. Jung trong GW7, 109. [33] C.G. Jung, Der Mensch und seine Symbole, Zürich151999, 76. [34] C.G. Jung, Symbolik des Geistes; in: Jacobi 1957, 80-81. [35] Trích dẫn trong Pascal 1995, 88t. [36] Xem: Katz, D., Gestaltpsychologie, Basel 1944; Bash, K.W., Gestalt, Symbol und Archetypus, Schweizerische Zeitschrift für Psychologie, 1946, Bd V, Heft 2, 127-138; In: Jacobi 1957, 62t. [37] C.G. Jung: Über die Archetypen des kollektiven Unbewußten, Eranos Jahrbuch, Zürich 1934, 225; in: Jacobi 1957, 76. [38] Chúng tôi lược thuật theo: Jacobi 1957, 81-85. [39] C.G. Jung: Seelenprobleme der Gegenwart, Zürich 31946, 70f; in: Jacobi 1957, 85. https://thuviensach.vn Chương 8 NHỮNG NĂNG LỰC KHUYNH ĐẢO: BÓNG ÂM A. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ Nơi đâu có ánh sáng, nơi đó có bóng râm. Khi ta thấy bóng râm, tức ta cũng nghĩ đến nguồn ánh sáng của nó. Sáng và tối, tối và sáng, đó là hai mặt của một đồng tiền: chúng tạo điều kiện cho nhau, bổ túc lẫn nhau, trực thuộc vào nhau. Sự kiện này không phải chỉ là một thực tại vật lý, nhưng cũng còn là một thực tại trong lĩnh vực tâm thức. Khi ta đưa một số khía cạnh của con người ta ra ánh sáng để ai nấy đều trông thấy, tức một số khía cạnh khác lại bị để chìm vào trong bóng tối. Hoặc giả ta tìm cách đưa một số khía cạnh của con người ta ra trong cảnh mập mờ giữa sáng giữa tối, chập chờn vừa sáng vừa tối. Ẩn dụ ánh sáng và bóng râm, theo C.G. Jung, được dùng để chỉ đến hai thực tại tâm lý tùy thuộc lẫn nhau: nhân vật và bóng âm. Nói về nhân vật thì ta đã biết (chương 4), đó là những vai trò được làm nổi bật của con người trong xã hội với những định chế, tập tục, thói quen, quan niệm, quy ước nhất định; còn bóng âm lại muốn nói đến những nét sống của bản vị con người muốn được giấu kín, không muốn được phơi bày ra ngoài. Nếu có bị tiết lộ thì đương sự sẽ cảm thấy xấu hổ, sẽ tự cho là “mất mặt”. Bóng âm của con người có thể là những đặc tính cùng với những thái độ mà đương sự thường không muốn nhìn nhận là của mình, như tính ghen tương, hiềm thù, keo kiệt. Thế rồi người ta dồn nén nó xuống tận dưới các tầng sâu của vô thức hoặc “phóng ngoại” ra trên kẻ khác. Nhưng bóng âm cũng có thể là những đặc tính tích cực, những khả năng sáng tạo, song vì một lý do nào đó – như vì áp bức của gia đình, giáo dục, xã hội, tôn giáo – lại bị xua trừ, dồn nén với nguy cơ đi đến cùng mòn hư hoại. Trong đoạn dẫn nhập vào chương nói về tác động và thái độ của ý thức (chương 3), chúng tôi đã có lược kê một số thái độ tâm lý có khuynh hướng phê phán kẻ khác, chẳng hạn như: con người lý lẽ thì bị coi là “lý sự cùn”, https://thuviensach.vn con người tình cảm lại bị xem là “ướt át thiếu chiều sâu”, con người thực tiễn thì bị coi là “thấp bé nhỏ nhen”, con người mộng mơ thì lại bị xem là “lãng mạn mưa gió”, v.v... Nhưng chính những điều tích cực mà lại bị phê phán đó thường lại là những điều bản thân mình thiếu, cần, muốn, nhưng đã không dám nói ra, đã bị dồn nén; và nay với chiến thuật hạ giá và bôi nhọ được “phóng ngoại” ra trên kẻ khác như là những điều tiêu cực. Hoặc giả những điều mình phê phán là tiêu cực nơi kẻ khác, lại là những điều tiêu cực nơi chính bản thân mình, nhưng nay được “gán” vào kẻ khác, xem họ như là những con “bò tế sát”. Những hình thức dồn nén và phóng ngoại trên đây là những “bóng râm”, những “bóng âm” trong hệ tâm thức của con người. Ta sẽ tìm hiểu thêm về bản chất, nội dung, tác động của bóng âm, cùng với những hình thức phát huy hoặc chữa trị bóng âm trong những phân đoạn kế tiếp sau đây. B. BÓNG ÂM CÁ NHÂN Bóng âm là gì? Bóng âm – theo trường phái Tâm lý Chuyên sâu của C.G. Jung – được định nghĩa là “những gì con người không muốn hoặc không thể nhìn nhận nơi mình” (GW 8, 409; Kast 1999, 24.17414). Định nghĩa này hàm chứa những bóng âm tiêu cực và cả những bóng âm tích cực. Có những bóng âm có phần dễ được nhận diện, như trong trường hợp những gì mình không ưa không thích; như ích kỷ, keo kiệt, dối trá, tâng bốc, nô lệ, khoe khoang, kiêu hãnh, ăn chơi, trụy lạc... Hoặc những bóng âm tích cực, nhưng lại bị ngăn cản cấm đoán; như tâm tình nghệ sĩ, tài năng khoa học, thái độ phóng khoáng... Ngoài ra lại có những bóng âm có phần ẩn giấu, và do đó khó được nhận diện. Những bóng âm như thế thường dùng con đường chiêm mộng, mơ tưởng, tạo hình và các phương pháp tâm lý trị liệu khác để được đưa ra ánh sáng, và từ đó hoặc được phát huy trong trường hợp những bóng âm tích cực, hoặc được chữa trị trong trường hợp những bóng âm tiêu cực. Bởi nói bóng âm tức là nói đến một cách định giá: định giá một tâm tình, thái độ, đức tính là tốt hay xấu. Và định giá là đối chiếu với một bảng giá trị nào đó được nhìn nhận là tiêu chuẩn cho cuộc sống của bản thân. Bảng giá trị đó có thể được thiết lập từ nội tâm hay từ bên ngoài, trên cơ sở khách quan hay https://thuviensach.vn chủ quan, có tính cách cơ bản theo bản chất của sự vật hay theo quy ước hoặc thông lệ nhất thời phụ thuộc vào hoàn cảnh địa dư và lịch sử. Diễn tả một cách khác: Bóng âm là những gì con người không muốn hoặc không thể nhìn nhận nơi mình, bởi được xem là không phù hợp với cái “Tôi Lý tưởng” hay với cái “Xã hội-Lý tưởng” của mình; dĩ nhiên vấn đề quan trọng tiếp theo là phải định giá thế nào về cái gọi là “Tôi-Lý tưởng” và “Xã hội-Lý tưởng” đó. Bóng âm kẻ khác thì ưa, bóng âm nơi mình sáng trưa buồn phiền Hiện tượng “ngồi lê mách lẻo” nay cũng như xưa vẫn luôn thịnh hành. Ngày nay lại còn có thêm báo chí, truyền thanh, điện thoại, email, internet, hiện tượng “mách lẻo” lại càng thịnh hành, bởi vừa được mở rộng vừa lại có phần kín đáo, hoặc ngược lại: lại càng được công khai khuếch đại. Biết bao nhiêu chuyện “bóng âm bóng dương” của ông này bà nọ, nhà chính trị này, nhà giáo kia, vị lãnh đạo tôn giáo này, người hướng dẫn hội đoàn khác... Có những người hầu như vô cùng thỏa thích với công tác không những tiết lộ, mà còn “sáng tạo phát minh” ra vô vàn bóng âm cho kẻ khác, nơi gần cũng như nơi xa, nơi kín cũng như nơi công khai lộng gió trong các hội đoàn và xã hội. Sự kiện vui khoái thỏa thích nghe ngóng, tiết lộ, công bố, bày đặt ra những bóng âm của kẻ khác tự nó đã nói lên tình trạng bóng âm của chính bản thân mình. Nhưng nói về bóng âm của bản thân thì lại là một điều phiền hà bực dọc. Ta có thể với một vài câu hỏi tìm hiểu tình trạng bóng âm của chính mình: Ta có giản dị thú nhận những khiếm khuyết không đẹp đẽ gì nơi bản thân? Hay ta thường lại tìm cách chống chế, bào chữa, tránh né, tô vẽ, đánh lạc hướng? Những bóng âm ta không dễ dàng thú nhận nơi mình, thì ta lại quá dễ dàng tìm thấy nơi kẻ khác. Hoặc có trường hợp những người không nói cũng không làm gì, mà tự nhiên sự hiện diện của họ đủ gây bực dọc hoặc thù nghịch nơi chính mình: Những người đó có thể là hiện hình cho những bóng âm của chính bản thân ta, mà ta không dám nhìn mặt, để rồi ta lại phóng ngoại ra trên họ. Bóng âm thường không đứng riêng lẻ một mình, nhưng liên kết với nhiều https://thuviensach.vn bóng âm và nhiều mặc cảm khác, làm nên một “tụ kết mặc cảm bóng âm”. Có hiện tượng những “bóng âm đôi” (double-ganger) khi cái Tôi bị tách chẻ làm hai, bởi bóng âm trở nên quá lớn, vượt khỏi khả năng của cái Tôi bình thường. Lại cũng có hiện tượng “chị em bóng âm” hay “anh em bóng âm”, điều vẫn thường được nghe thấy trong các chuyện huyền thoại, dị sử, cổ tích của nhân loại, như những chuyện Tấm Cám hay Trầu Cau trong kho tàng cổ tích Việt Nam, những chuyện Cain và Abên, Êsau và Jacob trong Kinh thánh Do Thái, những chuyện “anh em bóng âm” Gilgamesh và Enkidu, “chị em bóng âm” Inanna và Ereshkigal trong các chuyện thần thoại Sumer vùng Lưỡng Hà (miền Nam Iraq bây giờ)... Trước những “tụ kết mặc cảm bóng âm” đầy phức tạp, công việc của các nhà giáo dục, tư vấn, tâm lý trị liệu, hướng dẫn tâm linh (direction spirituelle, spiritual mentoring) lại càng quan trọng để giúp tháo gỡ có phương pháp cho những trường hợp khó khăn như thế. Vấn đề phóng ngoại: chủ quan và khách quan Vấn đề “phóng ngoại” bóng âm là một sự kiện có thể kiểm chứng. Nhưng không phải tất cả mọi phê bình hay toàn thể điều phê bình trên kẻ khác đều là “phóng ngoại”. Ở đây, C.G. Jung có đưa ra một nhận xét đáng suy nghĩ: “Người nhận điều được phóng ngoại – theo như kinh nghiệm cho biết – không phải là một đối tượng xyz bất cứ nào đó, nhưng luôn là một đối tượng có phần tương đồng với nội dung được phóng ngoại, họ như một chiếc móc để sự vật được quàng vào” (GW 16, 499). Câu trích dẫn của C.G. Jung trên đây là một câu gây kinh hoàng lớn, nhất là trong lĩnh vực phóng ngoại bóng âm. Bởi khi ta đặt bóng âm trên một người nào, thì ta đinh ninh là người đó quả thật có bóng âm đó. Hơn nữa, ta còn nghĩ rằng họ sẽ phải biết ơn mình vì đã giúp họ thấy được điều phải sửa chữa. Nhưng điều đó không chắc chắn hoặc không nhất thiết phải như thế, và như vậy thì dự đoán hay quả quyết của chúng ta sẽ là một điều quá liều lĩnh, quá táo bạo, nếu không phải là quá ngạo mạn. Không hiếm thấy rằng, những người bị “gán” lên mình các bóng âm lại là những người có những đặc tính và những lối sống tốt đẹp, mà những đặc tính và những lối sống đó lại là những thiếu sót, là những bóng âm của chính chúng ta. https://thuviensach.vn