🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Lý Học Căn Bản Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mụclục MỞĐẦU Chương1:Phần1 Chương1:Phần2 Chương1:Phần3 Chương1:Phần4 Chương1:Phần5 Chương1:Phần6 Chương1:Phần7 Chương2:Phần1 Chương2:Phần2 Chương2:Phần3 Chương2:Phần4 Chương2:Phần5 Chương2:Phần6 Chương3:Phần1 Chương3:Phần2 Chương3:Phần3 Chương3:Phần4 Chương3:Phần5 Chương3:Phần6 Chương3:Phần7 Chương4:Phần1 Chương4:Phần2 Chương4:Phần3 Chương4:Phần4 Chương4:Phần5 Chương4:Phần6 Chương5:Phần1 Chương5:Phần2 Chương5:Phần3 Chương5:Phần4 Chương5:Phần5 Chương5:Phần6 Chương5:Phần7 Chương6:Phần1 Chương6:Phần2 Chương6:Phần3 Chương6:Phần4 Chương6:Phần5 Chương7:Phần1 Chương7:Phần2 Chương7:Phần3 Chương7:Phần4 Chương7:Phần5 Chương8:Phần1 Chương8:Phần2 Chương8:Phần3 Chương8:Phần4 Chương9:Phần1 Chương9:Phần2 Chương9:Phần3 Chương9:Phần4 Chương9:Phần5 Chương9:Phần6 Chương9:Phần7 Chương10:Phần1 Chương10:Phần2 Chương10:Phần3 Chương10:Phần4 Chương10:Phần5 Chương10:Phần6 Chương10:Phần7 Chương10:Phần8 Chương11:Phần1 Chương11:Phần2 Chương11:Phần3 Chương11:Phần4 https://thuviensach.vn Chương11:Phần5 Chương11:Phần6 Chương11:Phần7 Chương11:Phần8 Chương12:Phần1 Chương12:Phần2 Chương12:Phần3 Chương12:Phần4 Chương12:Phần5 Chương12:Phần6 Chương12:Phần7 Chương13:Phần1 Chương13:Phần2 Chương13:Phần3 Chương13:Phần4 Chương13:Phần5 Chương14:Phần1 Chương14:Phần2 Chương14:Phần3 Chương14:Phần4 Chương14:Phần5 Chương14:Phần6 Chương14:Phần7 Chương15:Phần1 Chương15:Phần2 Chương15:Phần3 Chương15:Phần4 Chương15:Phần5(Hết) https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com MỞ ĐẦU Không dễ gì giải trình được những điểm phức tạp và mâu thuẫn trong tác phong cư xử của con người. Chúng ta chứng kiến hành vi thiện cũng như ác; chúng ta đương đầu với lối cư xử hợp lý cũng như phi lý; và chúng ta tìm được sự cộng tác thiện chí cũng như gặp phải sự cạnh tranh thô bạo trong cái thế giới muôn màu muôn vẻ này. Bộ sách này được soạn thảo nhằm giới thiệu khái quát về môn tâm lý học. Tuy chú trọng đến các nền móng xây dựng bộ môn, nhưng nó cũng trình bày sáng tỏ khía cạnh ứng dụng của tâm lý học vào cuộc sống hàng ngày của con người. Với ba mục tiêu chính: Thứ nhất, nó được soạn thảo nhằm bao quát các địa hạt chủ yếu thuộc lãnh vực tâm lý qua việc giới thiệu các lý thuyết, các công trình nghiên cứu, cũng như các ứng dụng chính của môn tâm lý học. Thứ hai, nhằm giúp độc giả xây dựng nhận thức sâu sắc về cơ sở khoa học của bộ môn cũng như nhằm khích lệ óc tư duy có phê phán của họ. Sau cùng, bộ sách này thực sự hấp dẫn và gây cảm hứng để khơi dậy tính hiếu kỳ tự nhiên của độc giả đối với thế giới chung quanh. Nói chung, Tâm Lý Học Căn Bản được soạn thảo nhằm giúp độc giả phát huy khả năng vận dụng môn tâm lý học để tìm hiểu xã hội chúng ta đang sống. Dĩ nhiên, ba mục tiêu này tương thuộc lẫn nhau. Thực ra, tôi cho rằng nếu như tác phẩm Tâm Lý Học Căn Bản này thành công trong sứ mệnh truyền đạt chính xác nét tinh túy của môn tâm lý học, thì các mục tiêu tìm hiểu và quan tâm về lãnh vực tâm lý sẽ tự nhiên gặt hái được. Để đạt được mục đích đó, tôi đã chú trọng khá nhiều đến lối hành văn trong cuốn sách. Nó nhằm đóng góp một bài tường thuật cuộc tọa đàm của hai nhân vật về tâm lý học có bố cục giống như một bài luận văn. Khi viết “chúng ta”, tôi có ý muốn đề cập đến hai người chúng ta – tôi, với tư cách là soạn giả và bạn, là độc giả. Ngoài ra, tập sách giáo khoa này có những bài đọc thêm đặc biệt để nêu bật khía cạnh ứng dụng môn tâm lý học vào cuộc sống thường ngày trong thế giới quanh chúng ta (các đoạn ứng dụng thực tiễn), thảo luận về các khám phá khoa học quan trọng vừa mới lạ vừa hấp dẫn trong lãnh vực tâm lý (các đoạn Trích Dẫn Thời Sự), và đưa ra các lời khuyên nhằm cải thiện ý nghĩa cuộc sống của chúng ta (các đoạn Thành quả của Tâm Lý Học). Nó cũng là một cuốn sách được soạn thảo công phu nhằm khích lệ việc học tập. Các tài liệu được trình bày trong nhiều đoạn trọn vẹn ý nghĩa và dễ sử dụng. Mỗi đoạn kết thúc bằng một tóm lược cô đọng (gọi là mục Tóm Tắt) và một loạt câu hỏi ôn tập về nội dung vừa được trình bày (gọi là mục Học ôn). Giải đáp các câu hỏi này – và sau đó kiểm tra thành tích ở trang kế tiếp – độc giả sẽ có thể đánh giá được mức độ tiếp thu, cũng như đặt nền móng để am hiểu và ghi nhớ lâu dài nội dung đã học hỏi được. Tóm lại, tác phẩm Tâm Lý Học Căn Bản được trình bày theo hình thức gần gũi với độc giả. Qua đó, nó không chỉ nhằm giới thiệu cho độc giả nội dung căn bản – và hứa hẹn – của môn học, mà còn tạo niềm hứng khởi sinh động đối với lãnh vực tâm lý. Tôi ước mong nỗ lực bước đầu này sẽ góp phần thắp sáng lòng nhiệt tình và niềm say mê của độc giả đối với lãnh vực tâm lý. https://thuviensach.vn Tâm Lý Học Căn Bản bao quát các chủ đề truyền thống thuộc lãnh vực tâm lý. Thí dụ, nó bao gồm các đề tài như Sinh học làm Nền tảng cho Hành vi ứng xử, Cảm giác và Nhận thức. Tiến trình học tập, Hoạt động trí tuệ. Phát triển nhân cách, Cá tính, Hành vi bất bình thường, và các Nền tảng Tâm lý Xã hội của Hành vi ứng xử. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu sách.] Tâm Lý Học Căn Bản là một bộ sách cô đọng ngắn gọn. Nó chú trọng đến tinh túy của môn Tâm Lý Học nhằm giới thiệu sơ bộ lãnh vực này. Nó cũng trình bày cách thức các lý thuyết và các nghiên cứu trong lãnh vực tâm lý ảnh hưởng ra sao đến cuộc sống thường ngày của độc giả. Đặc biệt với giới sinh viên, nó phản ánh một số sắc thái độc đáo để giúp cho các bạn tiếp thu nhiều nhất những khái niệm, lý thuyết, sự kiện, và các loại thông tin khác trong lãnh vực tâm lý. Muốn lợi dụng được các đặc điểm ấy, các bạn nên thực hiện một số bước khi nghiên cứu tập sách này. Nhờ tuân thủ các bước này, không những sẽ tiếp thu nội dung cuốn sách nhiều nhất, mà các bạn cũng sẽ xây dựng được thói quen học tập giúp gặt hái được thành quả khả quan đối với các môn học khác cũng như phát huy óc sáng tạo hoặc phê phán đối với các tài liệu học tập nói chung. Mặc dù người ta trông đợi chúng ta ra sức học tập để tiếp thu rất nhiều điều trong suốt thời gian chúng ta ở trường lớp, nhưng hiếm khi chúng ta được truyền thụ các kỹ thuật có hệ thống nhằm giúp chúng ta học tập có hiệu quả hơn. Song le, giống như trường hợp chúng ta không mong muốn một bác sĩ học tập môn cơ thể học bằng phương pháp thử thách và sai lầm, chỉ những sinh viên phi thường mới có thể tình cờ tìm được một phương pháp học tập thực sự hữu hiệu. Thế nhưng các nhà tâm lý đã phát minh được những kỹ thuật tuyệt vời (đã kinh qua thử thách) nhằm cải tiến kỹ năng học tập, mà hai trong số đó được miêu tả ở đây. Nhờ sử dụng một trong hai kỹ thuật này – gọi tên theo phối hợp các mẫu tự đầu là SQ3R và MURDER – các bạn có thể tăng cường khả năng học tập và ghi nhớ cũng như tư duy có phê phán, không chỉ trong lãnh vực môn tâm lý mà còn đối với tất cả các môn học khác nữa. Phương pháp SQ3R gồm một loạt 5 bước, gọi theo các mẫu tự S – Q – R – R – R. Bước đầu tiên là điều tra tìm hiểu (survey) tài liệu bằng cách đọc qua dàn bài, các nhan đề phân đoạn, các đoạn chú thích hình vẽ, các đoạn tóm tắt, đoạn triển khai chủ đề, và đoạn những điểm cần ghi nhớ để có một tổng quan về các điểm quan trọng trong bài học. Bước kế tiếp là – chữ Q trong SQ3R – nêu ra các câu hỏi (question). Đặt các câu hỏi – đọc to lên hoặc viết ra giấy – trước khi thực sự đọc vào các đoạn trong bài học. Thí dụ, nếu đã tìm hiểu đoạn này rồi, bạn có thể ghi ngay ra lề sách câu hỏi “SQ3R và MURDER có nghĩ là gì?” Các câu hỏi đã được nêu ra ở các đoạn triển khai chủ đề và các đoạn học ôn kết thúc một đoạn trong bài học cũng là các câu hỏi ngắn gọn rất hay. Nhưng đều quan trọng phải ghi nhớ là không nên hoàn toàn trông cậy vào chúng; tự đặt cho mình các câu hỏi mới là việc làm cần thiết. Tập sách này chừa lề rất rộng để bạn viết ra các câu hỏi ấy. Nêu ra những câu hỏi như thế vừa giúp bạn chú trọng đến các điểm then chốt trong bài học vừa đặt bạn vào tâm trạng ham học hỏi. Giờ đây đến bước kế tiếp, mẫu tự “R” thứ nhất, một bước tối quan trọng là đọc tài liệu (read). Hãy đọc thật cẩn thận, và đều quan trọng là, đọc với tâm trạng chủ động và phê phán. Thí dụ, trong khi đọc bạn hãy cố trả lời các câu hỏi do chính bạn đã đặt ra. Bạn sẽ thấy mình tiến bộ kịp các câu hỏi mới khi bạn đọc đến đoạn kế tiếp. Đó là triệu chứng tốt, bởi vì nó cho thấy bạn đang đọc với tâm trạng hiếu học và chú tâm đến bài học. Đánh giá có phê phán bài học bằng cách tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của những điều đang đọc, cân nhắc các ngoại lệ và các điểm mâu thuẫn có thể có, và thăm dò các giả định hậu thuẫn cho các khẳng định của tác giả. Bước tế tiếp – mẫu tự “R” thứ hai – là bước kỳ lạ nhất. Mẫu tự “R” có nghĩa là thuật lại (to recite), https://thuviensach.vn theo đó hãy cố tiếp thu nội dung bài học rồi miêu tả và giải thích cho chính mình hoặc cho một người bạn, tìm hiểu tài liệu vừa đọc được để giải đáp các câu hỏi mà bạn đã nêu ra trước đây. Hãy nói to lên. Đây là dịp để bạn tự đối thoại với bản thân, không có gì để hổ thẹn cả. Tiến trình thuật lại này giúp bạn xác định mức độ am hiểu nội dung bạn vừa đọc được. Ngoài ra, các nghiên cứu trong lãnh vực tâm lý đã chứng minh rằng việc truyền đạt lại cho người khác hoặc tự thuật lại cho mình sẽ giúp cho bạn học tập bài học theo một cách thức khác hẳn và sâu xa hơn – so với việc học tập không nhằm truyền đạt lại cho người khác. Như vậy, việc thuật lại nội dung bài học là một khâu quyết định trong tiến trình học tập. Mẫu tự “R” cuối cùng liên hệ đến việc ôn tập (review). Như sẽ thảo luận trong các chương 5 và 6, học ôn là điều kiện tiên quyết để học tập và ghi nhớ được toàn bộ những điều đã học được. Xem lại các thông tin; đọc lại các mục tóm tắt và các đoạn tóm lược trong phần Những Điểm Cần Ghi Nhớ: trả lời các câu hỏi trong các mục học ôn; và sử dụng bất cứ tài liệu nào có sẵn. Học ôn phải là một tiến trình chủ động, qua đó bạn xét xem liệu những mảng thông tin khác nhau sẽ ăn khớp với nhau ra sao để dệt thành bức tranh toàn diện về nội dung đã học. Một phương pháp học tập khác chọn dùng – mặc dù không phải là không tương đồng với phương Pháp SQ3R – là phương pháp MURDER của Dansereau (1978). Dù tên gọi có ý nghĩa chết chóc, MURDER là một phương Pháp học tập hữu hiệu. Bước đầu tiên là chuẩn bị tâm trạng (mood) học tập thích hợp bằng cách đặt ra các mục tiêu cho mỗi học kỳ cũng như chọn thời điểm và địa điểm để việc học tập không bị xao lãng. Kế tiếp là đọc để hiểu (understanding), nắm được tài liệu học, qua đó lưu ý cẩn thận đến ý nghĩa bài học. Nhớ lại (recall) là cố gắng gợi trí nhớ ngay sau đó về tài liệu học tập mà không cần lật sách ra xem lại. Kế tiếp là sắp đặt (digesting) nội dung học tập một cách hệ thống. Trong bước này bạn nên đính chính bất kỳ đều sai sót nào trong bước gợi nhớ để nỗ lực sắp xếp và tích lũy nội dung mới học được vào ký ức. Kế đó, bạn nên chắt lọc (expanding) (Phân tích và đánh giá) nội dung mới học được, và cố gắng áp dụng nó vào các tình huống vượt ra ngoài phạm vi các ứng dụng đã đề cập trong bài giảng. Nhờ hội nhập những điều vừa học được vào một mạng lưới thông tin rộng lớn trong ký ức, bạn sẽ dễ dàng nhớ lại chúng sau này. Cuối cùng, bước chót là ôn tập (review). Giống như phương pháp SQ3R, hệ thống về nội dung đã học là điều kiện cần thiết để học tập thành công. Cả hai phương pháp SQ3R và MURDER đều đưa các phương pháp đã kinh qua thử thách nhằm tăng thêm hiệu quả học tập của bạn. Dù vậy, không nhất thiết phải lệ thuộc vào một phương pháp riêng biệt nào, bạn có thể dung hợp các yếu tố khác vào phương pháp học tập của riêng mình. Thí dụ, các gợi ý và phương pháp học tập để phát huy óc phê phán sẽ được trình bày trong suốt cuốn sách Tâm Lý Học Căn Bản này, như trong chương 6 khi thảo luận về cách sử dụng thuật ghi nhớ (mnemonics – các kỹ thuật ghi nhớ nhằm sắp xếp nội dung học tập giúp người ta dễ nhớ lại). Nếu các phương pháp này giúp bạn dễ dàng vận dụng nội dung mới học được, hãy tin cậy chúng. Sau cùng cần lưu ý là thời điểm và địa điểm học tập về mặt nào đó cũng quan trọng ngang với cách học tập. Một trong những điều hiển nhiên về lĩnh vực tâm lý là chúng ta sẽ học tập khả quan hơn, và ghi nhớ được lâu hơn khi chúng ta học những đoạn ngắn qua nhiều học kỳ, so với việc tập trung học tập trong một thời gian kéo dài. Điều này có nghĩa là học suốt đêm trước ngày thi sẽ kém hiệu quả hơn và bị mệt mỏi hơn so với cách học đều đặn. Ngoài việc chọn lọc ấn định thời điểm học tập, bạn nên tìm cho được một địa điểm đặc biệt để học tập. Địa điểm ở đâu không thành vấn đề, miễn là nó giảm đến mức độ tối thiểu tình trạng sao nhãng và là nơi chỉ dành riêng cho việc học tập của bạn, tìm ra được một “không gian” đặc biệt giúp bạn có tâm trạng hứng thú học tập ngay từ đầu, rất thích hợp cho việc học tập của bạn. https://thuviensach.vn Điều quan trọng hơn nữa là, bạn sẽ say mê với tâm trạng lạc quan khi học tập môn tâm lý học. Thật xứng đáng để nỗ lực bởi vì niềm hứng khởi, sự thách thức, và các hứa hẹn mà môn tâm lý học dành cho bạn quả thực là quan trọng. Sách này được soạn thảo nhằm phục vụ cho giới độc giả chủ yếu là các sinh viên. Như bạn sẽ thấy sự thể hiện trọn vẹn ở mọi chương sách, sách này dung hợp một số đặc điểm quan trọng về mặt giảng dạy. Đặt nền tảng trên lý thuyết và công trình nghiên cứu kiểu mẫu về phương pháp giảng dạy căn cứ vào tiến trình học tập và hoạt động tâm trí, các đặc điểm này nhằm giúp cho cuốn sách trở thành một công cụ học tập hữu hiệu, và đồng thời lôi cuốn cũng như khích lệ tinh thần hiếu học. Cách dàn ý cuốn sách cũng khá linh động. Mỗi chương được chia ra từ ba đến năm đoạn trọn vẹn ý nghĩa và dễ sử dụng, giúp cho các vị giáo sư tiện việc chọn lựa và bỏ bớt bất kỳ đoạn nào cho phù hợp với chương trình giảng dạy. Ngoài ra, các tài liệu về ứng dụng tâm lý cũng được phân bố đều khắp các chương sách, kể cả các đề tài có tính lý thuyết truyền thống nhất. Do đó, toàn bộ cuốn sách này phản ánh mối tương quan chặt chẽ giữa lý thuyết, nghiên cứu, và ứng dụng trong lĩnh vực tâm lý. Mỗi chương đều có một dàn bài là một phương tiện giúp chúng ta hiểu rõ mối tương quan giữa các ý chính trong bài học. Nó cũng đóng vai trò chiếc cầu nối liền giữa những điều mà độc giả đã am hiểu với nội dung của chương kế tiếp sau đó. Mỗi chương đều khởi đầu bằng một bài tường thuật về một tình huống trong cuộc sống thực tế liên hệ đến các khía cạnh chính của chủ đề chương sách. Những tình tiết này minh chứng mối tương quan giữa các nguyên tắc và khái niệm căn bản trong tâm lý học với các vấn đề và khó khăn trong cuộc sống thực tế. Thí dụ, Chương nói về Sinh học làm nền tảng cho hành vi ứng xử khởi đầu bằng bài tường thuật về trường hợp một bệnh nhân phải chịu một phẫu thuật khéo léo để khống chế các cơn động kinh; Chương nói về Hoạt động trí tuệ đề cập cách thức các kỹ sư NASA hoạch định công tác cứu nạn trong không gian; và Chương nói về Tâm lý xã hội khởi đầu bằng một bài tường thuật về thời kỳ bi thảm liên hệ đến việc sùng bái nhân vật David Koresh ở thành phố Waco thuộc tiểu bang Texas. : Nối tiếp sau đoạn mở đầu, đoạn này nhằm minh định các đề tài và vấn đề chính, đồng thời liệt kê một loạt câu hỏi được giải đáp trong chương sách. Đoạn này minh họa ứng dụng của các khám phá lý thuyết từ các cuộc nghiên cứu tâm lý để giải quyết các khó khăn trong cuộc sống thực tế. Thí dụ, Chương Sinh học làm Nền tảng cho Hành vi ứng cư xử có đoạn minh họa cách thức các nhà quảng cáo sử dụng các khám phá lý thuyết của nhà tâm lý để xây dựng các chương trình quảng cáo; Chương Các trạng thái ý thức khảo xét cách thức một nhà tâm lý phân tích giọng nói của vị thuyền trưởng chiếc tàu Valdez thuộc công ty Exxon, gây tai nạn đổ dầu nghiêm trọng ngoài khơi bờ biển Alaska ra sao để xác định xem ông này có ngộ độc rượu trong khi thi hành nhiệm vụ hay không?, và Chương 15 bàn về rối loạn tâm lý do stress sau khi bị chấn thương gây ra. Các đoạn này phản ánh một kế hoạch nghiên cứu hiện đại là mối quan tâm hàng đầu của môn học – nêu ra các nghiên cứu mà lãnh vực tâm lý đang hướng đến. Chúng giúp độc giả hiểu được tinh hình phát triển và hoàn thiện của khoa tâm lý học. Thí dụ, Chương Tâm Sinh Lý đề cập đến các công trình nghiên cứu hiện đại về dị biệt giới tính thể hiện trong não bộ của nam và nữ giới; Chương Ký ức bàn về các chứng cứ xác nhận ký ức mặc nhiên trong lúc bị gây mê; Chương Phát triển nhân cách trình bày các khám phá liên hệ đến việc sử dụng dược phẩm để chữa trị chứng e thẹn bẩm sinh; và Chương Sống trong thế giới phồn tạp bàn về tệ nạn quấy rồi tình dục. Mỗi chương đều có nhiều thông tin chọn lọc nhằm giúp cho độc giả vận dụng kiến thức tâm lý học hỏi được bằng cách trang bị khả năng đánh giá thành quả của tâm lý học. Thí dụ, các đoạn này đề cập các kế hoạch rèn luyện óc tư duy có phê phán (chương Hoạt động tâm trí), các phương pháp kiêng ăn thích hợp https://thuviensach.vn (chương Động cơ), và vấn đề chọn thầy thuốc (chương Chữa trị). Các công trình nghiên cứu đều cho thấy tầm quan trọng của việc sắp xếp tỉ mỉ nội dung trong quyển sách giáo khoa sao cho tài liệu học tập được trình bày trong các đoạn tương đối ngắn gọn, và giúp người ta chủ động ôn tập các đều vừa học hỏi được. Do đó, mỗi chương đều được chia ra từ ba đến năm đoạn, một đoạn đều có một mục Tóm tắt và Học ôn. Tiểu mục Tóm tắt đúc kết các điểm then chốt trong đoạn vừa được trình bày, và tiểu mục Học ôn trình bày nhiều loại câu hỏi để sinh viên trả lời – bao gồm các câu hỏi chọn giải đáp, điền vào chỗ trống, trả lời ngắn gọn và đòi hỏi óc phê phán – nhằm trắc nghiệm khả năng ghi nhớ lẫn mức am hiểu nội dung bài học. Để đơn giản hóa việc học ôn các nội dung bài học và để giúp đỡ tổng hợp các thông tin đã trình bày, các đoạn Tóm tắt có đánh số được nêu ra ở cuối mỗi chương sách. Phần Tóm tắt này chú trọng đến các điểm then chốt trong bài học. Tác Giả https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 1 * Mắt xích chung nối kết các nhà tâm lý * Nhà tâm lý trong thực tiễn công tác 1. Nhà tâm sinh lý: sinh học làm nền tảng cho Tâm lý học. 2. Nhà tâm lý thực nghiệm: các tiến trình cảm giác, nhận thức, học hỏi, và tư duy. 3. Nhà tâm lý phát triển và nhà tâm lý về cá tính: tiến trình phát triển con người và các dị biệt về cá tính. 4. Nhà tâm lý y tế, điều dưỡng, và tư vấn: sức khỏe thể chất và tâm thần. 5. Nhà tâm lý xã hội, công nghiệp tổ chức, khách hàng và giao lưu văn hóa: tìm hiểu thế giới chung quanh trên bình diện xã hội. 6. Các chuyên ngành mới xuất hiện. : Tâm lý học trong lãnh vực không gian. 7. Bối cảnh làm việc của các nhà tâm lý. 8. Tóm tắt và học ôn I. 1. Nguồn gốc của TLH. 2. Nữ giới trong lãnh vực tâm lý: các bà mẹ sáng lập. 3. Các mô hình nhận thức đương đại. TLH và vấn đề ngăn ngừa bệnh AIDS. 4. Các mối liên hệ giữa các chuyên ngành và các mô hình nhận thức tâm lý. 5. Tương lai môn TLH. 6. Tóm tắt và học ôn II. 1. Nêu ra câu hỏi thích hợp: Lý thuyết và giả thuyết. 2. Tìm giải đáp: Nghiên cứu trong lãnh vực tâm lý. 3. Tóm tắt và học ôn III. 1. Vấn đề đạo đức trong cuộc nghiên cứu 2. Các trở ngại đối với cuộc thí nghiệm: Kỳ vọng của nhà thí nghiệm và đối tượng cộng tác. : Tư duy có phê phán về công cuộc nghiên cứu. https://thuviensach.vn 3. Tóm tắt và học ôn IV. Những cơn mưa thi nhau ập tới. Đến khi tạnh hẳn thì rất nhiều người đã bị nước cuốn đi mất, hàng trăm ngàn mẫu đất trồng tỉa bị ngập dưới làn nước mênh mông. Mọi dấu tích về sự sống đều bị hủy hoại sạch. Tai họa giáng xuống vùng Trung tây Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1993 được mệnh danh là trận lụt của thế kỷ. Ở nhiều nơi, lũ lụt tràn ngập đất đai rồi rút đi, chỉ nhằm tràn ngập một vùng đất mà thôi. Còn ở các nơi khác, người dân bị lũ lụt đe dọa làm trắng tay, rồi sau đó lại bị đe dọa lần nữa. Toàn bộ các vùng lân cận đều bị tàn phá nặng nề, cùng với mọi của cải tích lũy của hàng vạn người. Mặc dù nguồn gốc của nó chỉ là một hiện tượng thủy văn, trận lụt ở vùng Trung tây đã làm phát sinh nhiều mối ưu tư có bản chất đậm màu sắc tâm lý. Chẳng hạn, hãy xét một vài góc độ từ đó để nhà tâm lý chuyên ngành khác nhau có thể nhận định về trận thiên tai ấy. – Nhà tâm lý chuyên nghiên cứu hành vi ứng xử trên nền tảng sinh học có thể khảo sát các biến chuyển của sinh hoạt nội vi cơ thể nhằm thích nghi với đe dọa xảy ra những trận lụt trong tương lai. – Nhà tâm lý chuyên về vấn đề học hỏi và ký ức có thể tìm hiểu các loại chi tiết nào liên quan đến các trận lụt đáng để học hỏi và nhớ lại sau này. – Nhà tâm lý chuyên về các tiến trình tư duy của con người có thể tìm hiểu cách thức con người đối phó với các rủi ro do nạn lụt gây ra sau khi bị buộc phải di tản gia đình họ ra khỏi nơi bị thiên tai. – Nhà tâm lý phát triển chuyên nghiên cứu về thiếu nhi có thể tìm hiểu xem tình trạng thiếu an toàn do sự tàn phá của lụt lội sẽ ảnh hưởng ra sao đến sự trưởng thành và mức phát triển sau này của thiếu nhi. – Nhà tâm lý phục vụ trong ngành y tế chuyên nghiên cứu một liên hệ giữa các yếu tố thể chất và tâm lý có thể tìm hiểu xem các stress phát sinh do hậu quả của nạn lụt sẽ gây ra những bệnh tật nào trong tương lai. – Nhà tâm lý điều dưỡng và tư vấn chuyên đề ra các liệu pháp có thể tìm hiểu các biện pháp giúp làm giảm bớt mối lo âu của những người đã đối đầu với nạn lụt. – Nhà tâm lý xã hội chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến mối tương tác giữa các cá nhân trong xã hội có thể thăm dò các nguyên nhân đằng sau tình trạng bất lực và lòng hào hiệp của một số người, cũng như thái độ tham lam vô cảm của một số người khác đã lợi dụng cảnh tàn phá do lũ lụt để cướp đi những tài sản còn sót lại của nạn nhân. Mặc dù rất nhiều khảo hướng khác nhau đã được sử dụng để tìm hiểu trận lụt ấy, nhưng chúng có một điểm chung là mỗi khảo hướng đều tượng trưng cho một địa hạt thuộc phạm vi một lãnh vực nghiên cứu tổng quát gọi là tâm lý học. Tâm lý học (Psychoheresy) là một khoa học nghiên cứu về hành vi ứng xử và các tiến trình tâm trí của con người Định nghĩa này tuy sáng tỏ nhưng lại quá đơn giản đến mức dễ gây nhầm lẫn. Để bao quát được tầm rộng lớn của lĩnh vực nghiên cứu, cụm từ “hành vi ứng cư xử và các tiến trình tâm trí” phải được hiểu theo nhiều nghĩa. Nó không chỉ bao gồm những hành vi do con người thực hiện mà còn bao gồm cả những ý tưởng, tình cảm, nhận thức, các tiến trình lý luận, ký ức, và cả đến các hoạt động sinh lý giúp cho cơ thể con người thực hiện thức năng của nó nữa. Khi các nhà tâm lý nói đến “nghiên cứu” hành vi ứng cư xử và các tiến trình tâm trí thì mối quan tâm của họ khá bao quát. Đối với các nhà tâm lý, việc làm này không đơn thuần là miêu tả hành vi ứng xử. Như https://thuviensach.vn mọi ngành khoa học khác, – và hiển nhiên, các nhà tâm lý xem bộ môn nghiên cứu của họ là một ngành khoa học tâm lý học nỗ lực giải thích, dự đoán, cải biến, và sau cùng hoàn thiện cuộc sống con người và thế giới họ đang sống nữa. Nhờ ứng dụng các phương pháp khoa học, các nhà tâm lý tìm ra được lời giải đáp cho các câu hỏi về bản chất hành vi ứng xử của con người có giá trị hơn nhiều so với các nhận định chỉ đơn thuần do trực giác và phỏng đoán. Và các câu hỏi do các nhà tâm lý nêu ra lại cực kỳ bao la. Chẳng hạn như: Làm cách nào chúng ta thấy được các màu sắc? Trí thông minh là gì? Lối cư xử bất bình thường có thể chữa trị được không? Phải chăng cơn mê man do thôi miên giống như giấc ngủ? Tuổi thọ của con người có thể kéo dài được không? Stress ảnh hưởng như thế nào đến chúng ta? Cách học tập hiệu quả nhất là gì? Hành vi tình dục bình thường là gì? Những câu hỏi này – bạn sẽ hiểu rõ câu trả lời khi đọc xong cuốn sách này – chỉ là gợi ý về rất nhiều đề tài khác nhau sẽ được trình bày khi chúng ta thăm dò lãnh vực của môn tâm lý học. Các thảo luận của chúng ta sẽ duyệt qua một phổ gồm những điều đã khám phá được về hành vi ứng xử và các tiến trình tâm trí. Đôi khi chúng ta sẽ rời bỏ lãnh vực con người để thăm dò hành vi phản ứng của loài vật, bởi vì nhiều nhà tâm lý nghiên cứu thế giới loài vật để xác định các quy luật tổng quát chi phối hành vi ứng xử của mọi loài sinh vật. Như vậy, hành vi của loài vật đã cho các manh mối quan trọng giúp giải đáp các câu hỏi về hành vi ứng xử của con người. Nhưng chúng ta sẽ luôn luôn quay về với lợi ích của môn tâm lý học trong việc giúp giải quyết các vấn đề thường nhật mà mọi người chúng ta đều phải đối mặt. Trong chương dẫn nhập này, chúng ta sẽ thảo luận một số đề tài trọng tâm trong việc tìm hiểu môn tâm lý học, miêu tả các chuyên ngành tâm lý khác nhau và nhiều vai trò khác nhau của các nhà tâm lý. Kế đó, chúng ta xem xét các khảo hướng quan trọng và các mô hình dùng làm chỉ nam hướng cho các nhà tâm lý. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét các phương pháp khảo cứu mà các nhà tâm lý đã sử dụng để tìm kiếm giải đáp cho các câu hỏi nêu ra về hành vi ứng xử của con người. Cuốn sách này nhằm giới thiệu một bản mô phỏng hai nhân vật đang trao đổi về tâm lý học, nhưng nội dung lại giống như một tập luận văn. Khi viết “chúng ta”, tôi muốn nói đến – độc giả và tác giả. Căn cứ vào những nguyên tắc do các nhà tâm lý chuyên về vấn đề học tập và ký ức đã xây dựng, cuốn sách trình bày các thông tin dưới dạng các đoạn tương đối ngắn gọn, theo đó mỗi chương sách gồm từ ba đến năm đoạn. Mỗi đoạn kết thúc bằng mục Tóm tắt và Học ôn liệt kê các điểm then chốt đã được thảo luận và yêu cầu bạn trả lời một loạt câu hỏi. Một số câu hỏi trắc nghiệm ngắn để giúp trí nhớ sẽ được giải đáp ở trang kế tiếp sau đó. Còn các câu hỏi khác dành để “Bạn tự vấn” là những câu hỏi mở rộng vấn đề nhằm giúp bạn nỗ lực rút ra được một luận giải quan trọng về các thông tin đã trình bày. Loại bài tập giải đáp ngay này sẽ giúp bạn dễ dàng học tập và sau này nhớ lại những điều đã học. Nhờ vậy, đọc xong chương này bạn sẽ đủ sức giải đáp các câu hỏi sau: – Tâm lý học là gì và tại sao nó là một bộ môn khoa học? – Lãnh vực tâm lý học gồm các chuyên ngành nào? – Các nhà tâm lý được tuyển đụng để đảm nhận các công việc gì – Tâm lý học có nguồn gốc lịch sử ra sao? – Các nhà tâm lý sử dụng các mô hình nhận thức chủ yếu nào? – Phương pháp khoa học là gì và các nhà tâm lý vận dụng lý thuyết theo cách thức nào để tìm ra giải đáp cho các vấn đề quan trọng? https://thuviensach.vn – Các nhà tâm lý sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau nào – Các nhà tâm lý làm cách nào để thiết lập được các mối tương quan nhân quả trong các công trình nghiên cứu? – Các vấn đề quan trọng nào làm nền tảng cho tiến trình thực hiện cuộc nghiên cứu? Cần nhân sự: Giáo sư phụ giảng ở trường đại học văn khoa quy mô nhỏ. Phụ trách các khóa học chương trình Cử nhân tâm lý học, cùng các khóa học chuyên biệt như hoạt động trí tuệ, nhận thức, và tiến trình học hỏi chẳng hạn. Tận tâm giảng dạy đạt hiệu quả và sẵn sàng cố vấn cho sinh viên khi cần. Ứng viên phải nộp chứng nhận về trình độ học vấn và năng lực nghiên cứu. Cần nhân sự: Nhà tâm lý tư vấn công nghiệp/tổ chức. Công ty quốc tế cần tuyển dụng các nhà tâm lý đảm nhiệm chức vụ tư vấn, để tham mưu cho ban giám đốc. Ứng viên phải có khả năng thiết lập được mối quan hệ hữu hiệu với các quản trị viên kinh doanh cao cấp để hỗ trợ họ trong việc phát huy sáng kiến, công tác chuyên môn, và tìm ra được các giải pháp có hiệu quả về mặt tâm lý đối với các vấn đề liên quan đến nhân sự và tổ chức. Cần nhân sự: Chuyên viên tâm lý phục vụ ở bệnh viện có bằng tiến sĩ, kinh nghiệm nội trú bệnh viện. Bệnh viện đa khoa cần tuyển các chuyên gia tâm lý để chữa trị cho thiếu nhi và người trưởng thành; cho cá nhân và từng nhóm người, đánh giá về mặt tâm lý, cắt cơn khủng hoảng tâm thần, và xây dựng phác đồ điều trị về mặt hành vi tâm lý trên cơ sở đội công tác gồm các chuyên viên thuộc nhiều lãnh vực y học khác nhau. Ưu tiên cho ứng viên có kinh nghiệm phong phú về các vấn đề lạm dụng thuốc kích thích. Nhiều người cho rằng hầu hết các chuyên gia tâm lý đều chỉ có nhiệm vụ phân tích và chữa trị các trường hợp hành vi ứng xử bất bình thường. Thế nhưng, như các bảng mô tả công tác trích dẫn trên đây cho thấy lãnh vực ứng dụng của bộ môn tâm lý có phạm vi rộng rãi hơn nhiều so với quan niệm thường tình. Chúng ta sẽ xem xét các chuyên ngành chủ yếu thuộc bộ môn tâm lý bằng cách miêu tả chúng theo thứ tự tổng quát được đề cập ở các chương sau đây. Theo ý nghĩa căn bản nhất, con người là một sinh vật hữu cơ; và một số nhà tâm lý chú trọng tìm hiểu xem các chức năng sinh lý và cơ quan thân thể phối hợp ra sao để tác động đến hành vi ứng xử của chúng ta. Tâm sinh lý học (biopsychology) là một ngành thuộc tâm lý học nghiên cứu các nền tảng sinh học của hành vi ứng xử. Các nhà tâm sinh lý tuy nghiên cứu rất nhiều chủ đề nhưng đều đặt trọng tâm vào hoạt động của não bộ và hệ thần kinh. Thí dụ, họ có thể khảo cứu để tìm hiểu xem các vị trí đặc biệt trong não bộ có liên hệ ra sao đến một dạng rối loạn tâm thần nào đó như bệnh Parkinson chẳng hạn (xem chương 2), hoặc họ có thể nỗ lực xác định xem các cảm giác cơ thể liên hệ ra sao đến tình cảm của con người (xem chương 9). Nếu bạn đã từng tự hỏi thị giác của bạn tinh nhuệ đến mức nào, bạn kinh nghiệm ra sao về cơn đau đớn, hoặc bạn làm cách nào để có thể đạt hiệu quả cao nhất trong việc học tập, thì bạn đã nêu lên các câu hỏi được các nhà tâm lý thực nghiệm giải đáp thích đáng nhất. Tâm lý học thực nghiệm (experimenta/ psychology) là một ngành thuộc bộ môn tâm lý chuyên nghiên cứu về các tiến trình cảm giác, nhận thức, học hỏi, và tư duy về thế giới chúng ta đang sống. Công việc của nhà tâm lý thực nghiệm có phần trùng lắp với công việc của nhà tâm sinh lý cũng như của các nhà tâm lý chuyên ngành khác. Thực ra, thuật ngữ “nhà tâm lý thực nghiệm” (experimental psychologist) dễ khiến người ta hiểu lầm, bởi vì các nhà tâm lý thuộc mọi chuyên ngành đều sử dụng các kỹ thuật thực nghiệm (experimental techniques), và chính nhà tâm lý thực nghiệm cũng không tự hạn chế https://thuviensach.vn mình để chỉ sử dụng các phương pháp thực nghiệm mà thôi. Một số phân ngành đã nảy sinh từ ngành tâm lý thực nghiệm để trở thành các chuyên ngành có lãnh vực nghiên cứu riêng của chúng. Một thí dụ về một trong các chuyên ngành ấy là ngành tâm lý về hoạt động trí tuệ (cognitive psychology) Ngành này chuyên nghiên cứu về các tiến trình tâm trí cao cấp, bao gồm tư duy (thinking), ngôn ngữ (language), ký ức (memory), giải quyết vấn đề (problem solving), tìm hiểu (knowing) lý luận (reasoning), phán đoán (iudging) và đề ra quyết định (decision making). Chẳng hạn, khi phân tích hành vi ứng xử của con người, các nhà tâm lý này đã nhận diện được những cách ghi nhớ hữu hiệu hơn cũng như tìm ra được các chiến lược ưu thắng hơn nhằm giải quyết các vấn đề liên hệ đến logic (như sẽ được thảo luận ở chương 6 và 7). Trẻ thơ cất tiếng cười đầu tiên trong đời... chập chững những bước đi đầu tiên... thốt ra tiếng bập bẹ học nói. Các biến cố này tuy có thể được xem là biểu trưng cho các mốc phổ biến trong tiến trình phát triển, nhưng cũng được xem là lạ thường và độc đáo đối với mỗi con người. Như sẽ được thảo luận đầy đủ ở chương 10, công việc của nhà tâm lý phát triển là theo dõi các chuyển biến về hành vi ứng xử và về các khả năng căn bản của con người trong suốt cuộc đời của họ. Như vậy, ngành tâm lý phát triển (developmental psychology) là một chuyên ngành thuộc bộ môn tâm lý nghiên cứu về cách thức con người trưởng thành và biến đổi qua suốt dòng đời của họ. Một chuyên ngành khác là ngành tâm lý về cá tính (personality psychology) nỗ lực lý giải tính nhất trí lẫn tính biến chuyển trong hành vi ứng xử của con người qua thời gian, cũng như nỗ lực giải thích các đặc điểm cá nhân giúp phân biệt hành vi ứng xứ của người này với người khác khi cả hai cùng lâm vào các tình huống giống như nhau. Những vấn đề chủ yếu liên hệ đến nghiên cứu về cá tính con người sẽ được xét ở chương 11. Nếu bạn gặp khó khăn trong cuộc sống hài hòa với người khác, cảm thấy bất hạnh kéo dài trong cuộc sống, hoặc nảy sinh một nỗi sợ hãi ngăn cản bạn sinh hoạt bình thường, bạn có thể nhờ ý kiến giúp đỡ của các nhà tâm lý chuyên nghiên cứu về sức khỏe thể chất và tâm thần. Đó là các nhà tâm lý y tế, nhà tâm lý điều dưỡng, và nhà tâm lý tư vấn. Ngành tâm lý y tế (Health psychology) thăm dò mối tương quan giữa các yếu tố tâm lý và các cơn bệnh thể xác. Chẳng hạn, nhà tâm lý y tế quan tâm tìm hiểu liệu sự căng thẳng kéo dài (một nhân tố tâm lý) có thể gây ảnh hưởng ra sao đến sức khỏe con người. Họ cũng lưu tâm tìm hiểu các biện pháp khích lệ hành vi có lợi cho sức khỏe (như tăng cường tập thể dục) hoặc các biện pháp giảm bớt hành vi có hại cho sức khỏe như hút thuốc lá chẳng hạn. Còn trọng tâm hoạt động của nhà tâm lý đều dưỡng nhắm vào việc chữa trị và ngăn ngừa các rối loạn tâm lý. Ngành tâm lý điều dưỡng (clinical psychology) nhằm nghiên cứu, chẩn đoán, và chữa trị các trường hợp hành vi ứng xử bất bình thường. Nhà tâm lý đều dưỡng được huấn luyện để chẩn đoán và chữa trị các loại rối loạn tâm lý từ tình trạng khủng hoảng trong đời sống hàng ngày, như cơn đau khổ dằn vặt do cái chết của người yêu thương cho đến các trường hợp nghiêm trọng hơn, như mất cảm giác về thực tại (loss of touch with reality) chẳng hạn. Một số nhà tâm lý đều dưỡng cũng nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề từ cách nhận diện các dấu hiệu ban đầu của các dạng rối loạn tâm lý cho đến một tương quan giữa cung cách cư xử giữa các thành viên trong gia đình với các chứng bệnh rồi loạn tâm lý ấy. Như sẽ thấy khi thảo luận về hành vi ứng xử bất bình thường và cách chữa trị ở các chương 12 và 13, công tác của nhà tâm lý điều dưỡng rất đa dạng. Chính các nhà tâm lý này tổ chức và đánh giá các trắc nghiệm tâm lý, đồng thời họ cũng phục vụ với tư cách thầy thuốc ở các trung tâm sức khỏe tâm thần của cộng đồng. Giống như nhà tâm lý điều dưỡng, các nhà tâm lý tư vấn giải quyết các vấn đề tâm lý của con người, nhưng các vấn đề này lại thuộc loại đặc biệt. Ngành tâm lý tư vấn (counseling psychology) chủ yếu nhắm https://thuviensach.vn vào các vấn đề giáo dục, xã hội, và chọn nghề. Hầu hết các trường đại học đều có một trung tâm tư vấn do các nhà tâm lý tư vấn đảm nhiệm. Ở đó sinh viên có thể nhận được lời khuyên về loại nghề nghiệp nào thích hợp với họ nhất, về các phương pháp học tập hữu hiệu, và về biện pháp giải quyết các khó khăn thường ngày, từ các rắc rối với người bạn cùng phòng ở ký túc xá cho đến các mối lo âu về cách đánh giá học tập của một vị Giáo sư nào đó. Nhiều công ty lớn cũng sử dụng các nhà tâm lý tư vấn giúp đỡ công nhân viên chức giải quyết các vấn đề liên hệ đến bối cảnh lao động. Hai ngành gần gũi với ngành tâm lý tư vấn là ngành tâm lý giáo dục và ngành tâm lý học đường. Ngành tâm lý giáo dục (educational psychology) khảo xét xem tiến trình giáo dục ảnh hưởng ra sao đến sinh viên; chẳng hạn, nó quan tâm đến các phương thức tìm hiểu trí thông minh, xây dựng các kỹ thuật giảng dạy hữu hiệu hơn, và tìm hiểu mối tương tác giữa thầy và trò. Ngược lại, ngành tâm lý học đường (school psychology) chuyên đánh giá các khó khăn về học đường hoặc các khó khăn về đời sống tình cảm mà các học sinh trung tiểu học gặp phải, để tìm ra giải pháp giúp các em vượt qua các khó khăn ấy. Không ai trong chúng ta sống biệt lập với mọi người; thật ra, mọi người đều tham dự vào một hệ thống các mối quan hệ tương tác phức tạp nào đó. Các hệ thống tương tác với tha nhân và xã hội ấy nói chung là trọng tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Như sẽ thấy ở chương 14, ngành tâm lý xã hội (social psychology tìm hiểu xem tư tưởng, tình cảm, và hành động của con người bị ảnh hưởng ra sao bởi những người khác. Các nhà tâm lý xã hội chú trọng đến các chủ đề đa dạng như nghiên cứu tâm trạng hiếu chiến (human aggression) của con người, tìm hiểu xem tại sao con người thiết lập các mối quan hệ với tha nhân, và xác định xem chúng ta bị ảnh hưởng ra sao bởi tha nhân. Ngành tâm lý công nghiệp – tổ chức (industrial – Orsanizational psychology) quan tâm đến tâm lý con người trong bối cảnh lao động. Đặc biệt, nó khảo xét các vấn đề liên quan đến năng suất, sự hài lòng về công việc làm, và cách đề ra quyết định kinh doanh. Một ngành có liên quan là ngành tâm lý khách hàng (consumer psychology). Ngành này khảo xét các tập quán mua sắm của con người và ảnh hưởng của quảng cáo đối với tác phong mua sắm của khách hàng. Nhà tâm lý công nghiệp tổ chức có thể đặt câu hỏi như: “Bạn gây ảnh hưởng đến mức nào đối với công nhân để cải thiện chất lượng các mặt hàng do họ sản xuất ra?”. Còn nhà tâm lý khách hàng sẽ đặt câu hỏi tương ứng như: “Chất lượng mặt hàng sẽ tác động ra sao đến quyết định mua sắm mặt hàng ấy?” Sau cùng, ngành tâm lý giao lưu văn hóa (cross–cultural psychology) khám phá các điểm tương đồng và dị biệt trong vai trò tâm lý ở nhiều nền văn hóa và nhóm chủng tộc khác nhau. Như sẽ bàn trong suốt cuốn sách này, các nhà tâm lý chuyên khảo cứu các vấn đề giao lưu văn hóa tìm cách giải đáp các câu hỏi như: Những cách thức thành công hay thất bại ở học đường của những người thuộc các nền văn hóa khác biệt nhau sẽ dẫn đến khác biệt nào trong thành tích học tập (một nhân tố có thể lý giải cho các khác biệt về thành tích học vấn giữa các sinh viên Mỹ và Nhật) Các tập quán nuôi dạy trẻ, khác biệt rất lớn giữa nền văn hóa dị biệt, ảnh hưởng ra sao đến thang giá trị và thái độ sống sau này khi chúng trưởng thành? Và tại sao các nền văn hóa lại có các tiêu chuẩn thẩm mỹ cơ thể khác biệt nhau? Vì lãnh vực tâm lý đang trên đà phát triển nên số chuyên ngành cứ tiếp tục tăng lên (Schneider, 1990). Thí dụ, ngành tâm lý môi trường (environmental psychology) khảo xét một tương quan giữa con người với môi trường vật lý chung quanh. Ngành tâm lý pháp luật (forensic psychology) chú trọng đến các vấn đề pháp lý, như xác định xem nên đánh giá tình trạng mất trí hay điên loạn về mặt pháp lý của một cá nhân theo tiêu chuẩn nào và liệu bồi thẩm đoàn gồm nhiều hay ít người mới đưa ra các phán quyết công bằng hơn. Con số các nhà tâm lý quan tâm đến việc thẩm định chương trình (program evaluation) ngày càng tăng thêm. Các nhà tâm lý này quan tâm đánh giá các chương trình có quy mô lớn, thường do nhà nước đều hành, để quyết định xem liệu các chương trình ấy có hữu hiệu trong việc đáp ứng các mục tiêu đã đề ra https://thuviensach.vn không (xem đoạn tích dẫn thời sự về một chuyên ngành mới xuất hiện khác: ngành tâm lý không gian). Tính đa dạng của tâm lý học. Bộ môn tâm lý không những đa dạng về mặt phân ngành mà còn phồn tạp về mặt nhân sự nữa. Một vài con số thống kê dân số phản ảnh thực trạng đó. Thí dụ, khoảng 2/3 số nhà tâm lý Mỹ là nam giới và 1/3 còn lại là nữ giới. Nhưng các con số này không phải là không biến động. Trong số các nhà tâm lý vừa mới nhận bằng tốt nghiệp, tỷ lệ nam so với nữ đã gần bằng nhau, và trên thực tế mới đây con số nữ giới ghi danh vào các trường đại học tâm lý đã trội hơn nam giới. Một địa hạt trong đó tính đa dạng tương đối không đáng kể là địa hạt nguồn gốc chủng tộc và sắc dân. Theo các số liệu do Hiệp hội Tâm lý Mỹ (American Psychology Association) thu thập được, trong số các nhà tâm lý tự khai báo về nguồn gốc chủng tộc và sắc dân trong các cuộc đều tra – và một phần ba các nhà tâm lý không chịu trả lời phỏng vấn – gần 95% là người da trắng, 2% là người Mỹ gốc Phi và 2% là dân Hispanic, trong khi người gốc châu Á chiếm tỷ lệ 1%. Mặc dù số nhà tâm lý gốc da màu tốt nghiệp mới đây đã cao lên, gần 11%, nhưng các con số ấy vẫn chưa phản ánh đầy đủ tỷ lệ các cộng đồng thiểu số trong xã hội nói chung. Tình trạng số nhà tâm lý thấp so với dân số thuộc các nhóm chủng tộc và sắc dân trong xã hội như thế đáng được quan tâm vì một số lý do. Trước hết, lãnh vực tâm lý học có thể chịu thiệt thòi vì tình trạng thiếu quan điểm và tài năng đa dạng đóng góp bởi các thành viên thuộc các nhóm dân thiểu số ấy. Ngoài ra, các nhà tâm lý thuộc các nhóm thiểu số đóng vai trò những điển hình quan trọng cho mọi thành viên trong các cộng đồng ấy noi theo, và tình trạng thiếu đại biểu của họ trong phạm vi nghề nghiệp có thể ngăn cản các thành viên khác tìm cách đóng góp vào lãnh vực tâm lý. Cuối cùng, các thành viên thuộc các nhóm dân thiểu số thường thích được chữa trị và cố vấn tâm lý bởi các nhà tâm lý thuộc cùng chủng tộc với họ hơn. Do đó, tình trạng khá khan hiếm các nhà tâm lý thuộc các nhóm sắc tộc thiểu số có thể là mặt hạn chế, khiến cho các nhóm thiểu số ấy mất đi cơ hội được chữa trị thành công. Hậu quả là, người ta đang dành rất nhiều nỗ lực nhằm tăng thêm số nhà tâm lý thuộc các nhóm sắc tộc để đạt được tình trạng cân đối. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 2 Các nhà viết truyện phim “Star trek: The Next Generation” đã đi đúng hướng khi họ đưa một chuyên gia tâm lý vào phi hành đoàn của con tàu vũ trụ Enterprise. Khi các chuyến bay vào vũ trụ trở thành sự kiện bình thường (vào đầu thế kỷ tới khoảng 1.000 người sẽ được đưa lên không gian) và các chuyến bay vũ trụ kéo dài ngày hơn, thì các ưu tư tâm lý của các nhà du hành sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn. Một vài khía cạnh, từ các yếu tố sinh lý đến xã hội, trong nỗ lực thám hiểm vũ trụ bên ngoài đã phát sinh các vấn đế thuộc lãnh vực tâm lý. Dưới đây là các yếu tố quan trọng nhất. – Các chuyến du hành vũ trụ dự định sẽ kéo dài hơn – chẳng hạn, sứ mệnh đáp xuống sao Hỏa trong tương lai dự kiến sẽ kéo dài đến 3 năm. Ngoài ra, phi hành đoàn dự kiến ngày càng đa dạng hơn về mặt tuổi tác, giới tính, và sắc tộc. Vì thời gian du hành và tính phức tạp của phi hành đoàn tăng lên, nên khả năng xảy ra xung đột do sự chung đụng trong một nơi chật hẹp cũng tăng lên. Hậu quả là cần phải nghiêm ngặt theo dõi các phi hành gia về mặt tâm lý để loại trừ những người nào dễ bị tổn thương nhất. – Chứng bệnh sau chuyến bay (space sickness), gần giống chứng bệnh do đi ô tô (motion sickness), là dạng bệnh thường thấy ở các nhà du hành vũ trụ. Các triệu chứng xuất hiện dưới dạng một pha trộn kỳ quặc gồm các tình trạng như bợn dạ, nôn mửa, nửa mê nửa tỉnh, và các cơn nhức đầu; chúng tấn công khoảng phân nửa tổng số các nhà du hành. Mặc dù các triệu chứng này thường tan biến đi sau vài ba ngày. Nhưng lạc quan mà nói, cơn bệnh sau chuyến bay khiến người ta không thích bay vào không gian; và bi quan mà nói, nó gây trở ngại cho việc hoàn thành sứ mệnh của chuyến bay. Tuy nhiên, các nhà tâm lý đã xây dựng được một phương pháp huấn luyện các phi hành gia tương lai khống chế được phản ứng sinh lý của họ. Nhờ sử dụng các kỹ thuật phản hồi sinh học (biofeedback techniques) mà chúng ta sẽ bàn ở chương 2, theo đó người ta học cách khống chế các phản ứng cơ thể, giúp cho 2/3 các nhà du hành vũ trụ có đủ sức tránh khỏi các triệu chứng của cơn bệnh này. – Các nghiên cứu trong ngành tâm lý môi trường đã chứng minh rằng một trong những phương cách nhờ do phi hành đoàn đối phó được với stress là nhìn ra bên ngoài và quan sát mặt đất phía dưới. Hiện nay các thành viên trong phi hành đoàn chỉ mới được nhìn ra bên ngoài con tàu vũ trụ mà thôi. Ngoài ra, nhà tâm lý môi trường Yvonne Clearwater đang phụ trách một đội ngũ chuyên gia tìm cách tạo thêm điều kiện sinh hoạt ở các trạm không gian trong tương lai (Clearwater, 1985). Cho đến nay, nghiên cứu của bà đã khám phá rằng cách bố trí bên trong các phi thuyền hoặc trạm không gian rộng rãi thoáng về chiều cao – và giúp cho con người nhìn ra ngoài dễ dàng – là điều kiện tối cần thiết. Bà khẳng định rằng cách phối hợp màu sắc bên trong con tàu cũng quan trọng không kém, không phải một màu sắc nào đó tốt hơn màu sắc khác, mà điều cần thiết là phối hợp hài hòa màu sắc. – Các nhóm người sống trong hoàn cảnh cô lập có thể không tránh khỏi tình trạng đưa ra các quyết định thiếu sáng suốt, một hiện tượng gọi là “tư duy tập thể, (group think) làm giảm khả năng tư duy sắc bén. Do đó, các quyết định từ các phi hành gia đưa ra trong chuyến bay phải được theo dõi thật sát để bảo đảm tính hữu hiệu của chúng. – Cuối cùng là vấn để tình dục (sex): một phi hành đoàn gồm thành phần giới tính phức tạp rất dễ phát sinh các rắc rối về tình dục cần phải được quan tâm. Trên những chuyến bay dài ngày, các căng thẳng và thậm chí các liên hệ tình dục có thể xảy ra, và như chúng ta sẽ khảo xét ở chương 15, các nhà tâm lý có thể góp phần giải quyết các trường hợp này. https://thuviensach.vn – Các vấn đề nêu trên cho thấy các nhà tâm lý sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong chương trình thám hiểm không gian. Thực ra, người ta có thể mạnh dạn nói rằng các sách giáo khoa tâm lý học trong tương lai sẽ liệt “ngành tâm lý không gian” (space psychology) vào số các chuyên ngành thuộc bộ môn tâm lý học. Nhà tâm lý có thể làm được rất nhiều việc, nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các nhà tâm lý được tuyển dụng ở rất nhiều môi trường làm việc khác nhau. Nhiều nhà tâm lý làm việc ở các viện đại học, các trường cao đẳng, và các trường y khoa, hoặc làm việc với tư cách các bác sĩ tâm lý công tác độc lập, hoặc làm việc tại các bệnh viện, các dưỡng đường chuyên khoa, các trung tâm y tế tâm thần của cộng đồng, và các trung tâm tư vấn. Các môi trường làm việc khác bao gồm các tổ chức nhân đạo, các công ty nghiên cứu và tư vấn, các doanh nghiệp, và các công ty sản xuất thuộc mọi ngành nghề. Tại sao rất nhiều nhà tâm lý phục vụ ở các tổ chức giáo dục? Câu trả lời là ba nghề chủ yếu mà nhà tâm lý đảm nhận trong xã hội – giáo sư, khoa học gia, và bác sĩ – khiến họ dễ dàng cống hiến công sức cho lãnh vực giáo dục. Rất nhiều vị giáo sư tâm lý đóng góp vào các công trình nghiên cứu hay phục vụ khách hàng. Nhưng dù ở chức vụ nào, các nhà tâm lý cũng đều giúp cho cá nhân cũng như xã hội nói chung có đời sống tốt đẹp hơn. Tâm lý học là bộ môn nghiên cứu khoa học về hành vi ứng xử (behavior) và các tiến trình tâm trí (mental processes). – Các nhà tâm lý thuộc các chuyên ngành chủ yếu là: nhà tâm sinh lý (biopsychologigts), nhà tâm lý thực nghiệm; nhà tâm lý về hoạt động trí tuệ; nhà tâm lý phát triển và nhà tâm lý cá nhân; nhà tâm lý y tế, điều dưỡng, và tư vấn; nhà tâm lý giáo dục và học đường, và nhà tâm lý giao lưu văn hóa. – Nhiều nhà tâm lý được tuyển dụng phục vụ ở các ngành, trường giáo dục cao cấp và hầu hết số còn lại phục vụ ở các bệnh viện, các dưỡng đường chuyên khoa, và các trung tâm y tế cộng đồng hoặc ngành nghề độc lập. 1). Nền tảng của tâm lý học hiện đại là: a. Trực giác (intuition) b. Quan sát và thực nghiệm (observation and experimentation) c. Thử thách và sai lầm (trial and error) d. Siêu hình (metaphysics) 2). Việt xem xét hành vi của loài vật khi bạn quan tâm tìm hiểu hành vi ứng xử của con người quả là vô ích. Đúng hay sai? 3). Phần lớn các nhà tâm lý phục vụ ở các ngành, trường giáo dục bởi vì đó là môi trường giúp họ dễ dàng đảm nhiệm các vai trò như… và… 4). Cặp đôi mỗi chuyên ngành tâm lý với các vấn đề hoặc câu hỏi nêu ra dưới đây. a. Tâm sinh lý (biopsychology) b. Tâm lý thực nghiệm (experimental psychology) c. Tâm lý về hoạt động trí tuệ (cognitive psychology) https://thuviensach.vn d. Tâm lý phát triển (developmental psychology) e. Tâm lý cá tính (personality psychology) f. Tâm lý y tế (health psychology) g. Tâm lý điều dưỡng (clinical psychology) h. Tâm lý tư vấn (counselling psychology) i. Tâm lý giáo dục (educational psychology) j. Tâm lý học đường (school psychology) k. Tâm lý xã hội (social psychology) l. Tâm lý công nghiệp (industrial psychology) m. Tâm lý khách hàng (consumer psychology) 1. Joan, một sinh viên năm thứ nhất đại học, đang hoảng lên. Cô muôn biết kỹ năng sắp xếp giờ giấc và thói quen học tập hữu hiệu hơn để thích nghi được các yêu cầu ở bậc đại học. 2. Thông thường ở độ tuổi nào trẻ mới bắt đầu có hành vi cố chiếm trọn vẹn tình cảm của cha chúng? 3. Người ta cho rằng các phim khiêu dâm (pomographich films) phát họa các cảnh bạo lực đối với phụ nữ có thể khơi dậy hành vi gây hấn (aggressive behavior) ở một số nam giới. 4. Loại hóa chất nào sản sinh trong cơ thể con người do hậu quả của một biến cố đầy căng thẳng? Chúng có tác dụng gì đối với hành vi ứng xử? 5. John có cử chỉ khá bất bình thường khi phải đối phó với các tình huống khẩn trương, thậm chí với một tâm trạng bình thản và một quan điểm tích cực. 6. Công chúng rất dễ mua sắm các mặt sản phẩm nào được quảng cáo bởi các diễn viên quyến rũ và thành đạt. 7. Các giáo viên của bé Jack 8 tuổi đểu lo lắng rằng mới đây em đã bắt đầu xa lánh người chung quanh và tỏ ra ít quan tâm đến việc học tập. 8. Công việc của Janet đòi hỏi rất nhiều công sức và căng thẳng. Cô băn khoăn rằng liệu lối sống này có khiến cho cô dễ mắc một số bệnh như ung thư và đau tim không. 9. Nhà tâm lý bị hấp dẫn bởi sự kiện một người có tính nhạy cảm đối với kích thích gây đau đớn nhiều hơn so với những người khác. 10. Tâm trạng quá sợ hãi đám đông khiến người phụ nữ trẻ tuổi đi tìm biện pháp chữa trị rối loạn tâm lý của bà ấy. 11. Cần phải có kế hạch tâm trí nào hữu hiệu nhất để giải quyết các khó khăn do ngôn ngữ phức tạp gây ra? 12. Các phương pháp giảng dạy nào hữu hiệu nhất để khích lệ các em học sinh tiểu học hoàn thành tốt các nhiệm vụ ở học đường? https://thuviensach.vn 13. Jessica được yêu cầu xây dựng một chiến lược quản trị nhằm khích lệ các tập quán lao động an toàn hơn ở một nhà máy sản xuất hàng loạt. Hãy tưởng tượng bạn có một đứa con 7 tuổi đang gặp khó khăn trong việc học đọc. Ngoài ra, giả sử bạn muốn nhờ bao nhiêu nhà tâm lý tư vấn cũng được. Mỗi loại chuyên viên tâm lý sẽ dùng hướng nào để giúp bạn giải quyết vấn đề ấy? Trực giác và kiến thức tổng quát có đủ sức giúp người ta tìm hiểu động cơ tại sao con người hành động theo cách thức họ thường làm hay không? Tại sao phương pháp khoa học lại thích hợp để nghiên cứu các hành vi ứng xứ của con người. (Giải đáp câu hỏi học ôn cuối chương) Khoảng nửa triệu năm trước đây, người cổ sơ cho rằng các rối loạn tâm lý do ma quỉ gây ra. Muốn xua những hồn ma này đi người ta thực hiện một dạng phẫu thuật gọi là khoan lỗ (trephining). Phẫu thuật khoan lỗ gồm thao tác đục lỗ trên xương sọ với các dụng cụ bằng đá rất thô sơ. Bởi vì các nhà khảo cổ đã tìm thấy các xương sọ có dấu hiệu vết thương hàn gắn, nên chúng ta có thể nghĩ rằng đôi khi các bệnh nhân ấy vẫn còn sống sau cuộc chữa trị. Vị thầy thuốc nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại là Hippocrates cho rằng cá tính mỗi người hình thành do phối hợp gồm 4 tâm trạng: yêu đời (sourgulne – vui tính và tích cực), ưu sầu (melancholic), hay cáu gắt (choleric – phẫn nộ và gây hấn), và lãnh cảm (phlegmatic – điềm tĩnh và thụ động). Các tâm trạng này phát sinh bởi sự hiện hữu các “chất dịch (humors) trong cơ thể. Thí dụ, người ta cho một người yêu đời là người có nhiều máu hơn những người khác. Franz Josef Gall, một nhà khoa học sống vào thế kỷ 18, lập luận rằng một nhà quan sát được huấn luyện có thể phân biệt được các nét độc đáo về trí tuệ tâm hồn lương thiện, và những cá tính khác do hình dạng và số lượng các khối u trên xương sọ của mỗi người. Học thuyết của ông làm nảy sinh “khoa” não tướng học (science of phrenology) được nhiều người áp dụng để hành nghề xem tướng trong thế kỷ 19. Theo triết gia Descartes, dây thần kinh là các ống rỗng, qua đó các “ý chí động vật” (animal spirits) điều khiển các xung lực giống như nước truyền qua một đường ống. Khi người ta để ngón chân chạm vào ngọn lửa, sức nóng được truyền đi theo ý chí đó qua ống rỗng thẳng đến não bộ. Mặc dù các kiến giải “khoa học” này có thể không hợp lý đối với chúng ta ngày nay, nhưng đã một thời chúng đại biểu cho tư duy tiến bộ nhất về lãnh vực có thể gọi là tâm lý học của thời đại. Dù không am tường lắm về tâm lý học hiện đại, bạn cũng có thể đoán biết rằng công cuộc tìm hiểu hành vi ứng xử đến nay đã tiến bộ rất nhiều kể từ khi các quan điểm đầu tiên này hình thành. Thế mà hầu hết các bước tiến bộ này chỉ mới đạt được gần đây, bởi vì khi các bộ môn khoa học thịnh hành thì tâm lý học chỉ mới là một trong các bộ môn non trẻ. Mặc dù nguồn gốc của nó có thể truy nguyên ở các dân tộc Hy Lạp và La Mã cổ đại, và mặc dù các triết gia đã tranh luận trong vài trăm năm về cùng những vấn đề mà các nhà tâm lý ngày nay đang vật lộn, nhưng nói chung mọi người đều thừa nhận rằng môn tâm lý học chính thức khai sinh vào năm 1879. Trong năm đó, phòng thí nghiệm đầu tiên dành riêng cho nghiên cứu thực nghiệm về các hiện tượng tâm lý được Wilhelm Wundt thiết lập ở Đức. Gần như cùng lúc ấy, William lames ở Mỹ đã lập một phòng thí nghiệm ở thành phố Cambridge thuộc tiểu bang Massachusetts. Trong suốt khoảng 11 thập niên hiện hữu chính thức, môn tâm lý học đã không ngừng tiến bộ, phát triển thành một bộ môn khoa học thực sự. Trong cuộc tiến hóa này xuất hiện một số mô hình nhận thức (conceptual models), đó là các hệ thống gồm những ý tưởng và khái niệm liên hệ hỗ tương được dùng để lý giải các hiện tượng, định hướng công cuộc nghiên cứu. Một số mô hình ấy đã bị loại bỏ như quan điểm của https://thuviensach.vn Hyppocrates và Descartes chẳng hạn – còn các mô hình khác đã phát triển thành lý thuyết của một bộ bản đồ hướng dẫn cho các nhà tâm lý học. Mỗi mô hình đóng góp một phương hướng nhận thức riêng biệt, chú trọng đến các yếu tố khác biệt nhau. Cũng giống như chúng ta dùng nhiều loại bản đồ để tìm con đường đi đến một vùng đất nào đó – một bản đồ chỉ đường, một bản ghi rõ các gốc ranh giới chính, và một bản vẽ lại các đồi núi và thung lũng – các nhà tâm lý cũng nhận thấy nhiều khảo hướng sẽ hữu ích cho việc tìm hiểu hành vi ứng xử của con người. Vì phạm vi và tính phức tạp như thế của hành vi ứng xử, không một mô hình riêng lẻ nào nhất định sẽ đưa ra được lời giải thích tối ưu – nhưng phối hợp lại các mô hình có thể giúp cho chúng ta một phương tiện để giải thích tính bao quát cực kỳ của hành vi ứng xử. Khi Wilhelm Wundt thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên vào năm 1879, ông quan tâm nghiên cứu các khối cấu trúc của trí tuệ. Chính thức định nghĩa tâm lý học là bộ môn nghiên cứu kinh nghiệm hữu thức (conscious experience), ông xây dựng một mô hình nhận thức được mệnh danh là lý thuyết kết cấu. Lý thuyết kết cấu (structurism) chú trọng đến các yếu tố căn bản làm nền tảng cho tư duy, ý thức, tình cảm, và các trạng thái cùng các hoạt động tâm trí khác. Muốn biết các cảm giác căn bản phối hợp với nhau ra sao để giúp chúng ta nhận thức được thế giới chung quanh, Wundt và các lý thuyết gia khác đã dùng phương pháp nội quan (introspection) để nghiên cứu cấu trúc tâm trí. Theo phương pháp này, con người tiếp nhận một kích thích – như một vật màu xanh lá cây tươi hoặc một câu nói in sẵn trên thiệp chẳng hạn – sau đó anh ta được yêu cầu dùng lời lẽ riêng và theo các chi tiết mà anh ta nhận thức được để miêu tả kinh nghiệm xảy ra khi anh ta tiếp nhận kích thích ấy. Wundt cho rằng các nhà tâm lý có thể hiểu rõ được cấu trúc tâm trí của một người thông qua các báo cáo của người ấy về phản ứng của mình. Nhưng lý thuyết kết cấu của Wundt không đứng vững được trước thử thách của thời gian, bởi vì ngày càng có nhiều nhà tâm lý không chấp nhận giả thuyết phương pháp nội quan vốn có thể khám phá được các yếu tố căn bản của tâm trí. Một mặt, người ta gặp khó khăn trong việc miêu tả một số kinh nghiệm nội tâm, như các phản ứng tình cảm (thí dụ, sau này khi nổi giận bạn hãy cố gắng phân tích và giải thích các yêu tố của loại tình cảm bạn đang cảm nhận được). Mặt khác, chia cắt các đối tượng quan sát thành các đơn vị tâm trí căn bản nhất đôi khi có vẻ là việc làm khá kỳ quặc. Chẳng hạn, một cuốn sách không thể được miêu tả như là một cuốn sách đơn thuần, thay vào đó nó được chia cắt ra nhiều thành tố khác nhau như chất liệu bìa sách, màu sắc, các kiểu chữ in, và vân vân. Cuối cùng, phương pháp nội quan không phải là một kỹ thuật thực sự có tính khoa học; quan sát viên khó lòng chứng minh tính chính xác của các nhận thức nội quan từ đối tượng thí nghiệm. Các nhược điểm đó đã thúc đẩy người ta đi tìm các mô hình nhận thức mới để thay thế cho thuyết kết cấu. Tuy vậy, điều thú vị là các thành quả quan trọng của lý thuyết kết cấu vẫn còn tồn tại. Như chúng ta sẽ thấy ở chương 7, hai mươi năm qua người ta đã chứng kiến sự hồi sinh của quan điểm chú trọng đến cách diễn đạt các kinh nghiệm nội tâm của con người. Tập trung vào các tiến trình tâm trí cao cấp như tư duy, ký ức, và giải quyết bài toán chẳng hạn, các nhà tâm lý chuyên về hoạt động trí tuệ (Cognitive psychologists) đã xây dựng được các kỹ thuật tiên tiến để tìm hiểu kinh nghiệm hữu thức của con người. Các kỹ thuật này đã khắc phục được những nhược điểm vốn có của phương pháp nội quan. Mô hình thay thế gần như hoàn toàn cho lý thuyết kết cấu trong quá trình tiến hóa của bộ môn tâm lý học là lý thuyết chức năng. Thay vì chú trọng đến các thành tố của tâm trí, lý thuyết chức năng (functionalism) tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ do tâm trí thực hiện – các chức năng hoạt động tâm trí. Các lý thuyết gia phái chức năng, mà mô hình của họ bắt đầu nổi tiếng vang dội vào đầu những năm 1900, nêu ra câu hỏi rằng hành vi hoặc tác phong cư xử đóng vai trò gì để giúp con người thích nghi hữu hiệu hơn với hoàn cảnh sống của mình. Dẫn đầu bởi nhà tâm lý Mỹ William James, thay vì nêu ra các câu hỏi https://thuviensach.vn trừu tượng hơn về các tiến trình hành vi tâm trí, các lý thuyết gia phái chức năng đã khảo xét những hành vi ứng xử giúp cho con người đáp ứng nhu cầu của mình. Nhà giáo dục Mỹ nổi tiếng John Dewey đã vận dụng khảo hướng chức năng để xây dựng ngành tâm lý học đường, đề xướng lý thuyết phương thức đáp ứng tối ưu nhu cầu của sinh viên thông qua hệ thống giáo dục. Một phản ứng khác đối với lý thuyết kết cấu là sự phát triển ngành tâm lý Gestalt vào đầu những năm 1990. Tâm lý học Gestalt (Gestalt psychology) là một mô hình nhận thức trong tâm lý học chú trọng am hiểu cách thức hình thành nhận thức (perception). Thay vì khảo xét riêng các thành phần tạo nên hoạt động tư duy (thinking), các nhà tâm lý Gestalt chọn con đường ngược lại, tập trung tìm hiểu cách thức con người xem các yếu tố riêng ấy như là các đơn vị hoặc các toàn thể. Tín điều “Cái toàn thể lớn hơn so với tổng các thành phần của nó” của họ có nghĩa là khi xem xét gộp chung lại thì các thành phần căn bản hình thành nhận thức của chúng ta về các sự vật nảy sinh một sự vật gì đó to lớn hơn và có ý nghĩa hơn so với tổng cộng các thành tố riêng ấy. Như chúng ta sẽ thấy khi thảo luận vấn đề nhận thức ở chương 3, đóng góp của các nhà tâm lý Gestalt vào việc tìm hiểu tiến trình nhận thức quả thực to lớn. Mặc dù các ràng buộc xã hội đã hạn chế nữ giới tham gia vào nhiều loại nghề nghiệp – và lãnh vực tâm lý cũng không có ngoại lệ – một số phụ nữ đã đóng góp lớn lao cho môn tâm lý học trong những năm đầu. Chẳng hạn, hồi đầu thế kỷ này Lete Stetter Holling Worth đặt ra thuật ngữ “được thiên phú” (gifted) để nói về những đứa trẻ thông minh kỳ lạ, và cuốn sách của bà về tuổi thiếu niên đã trở thành một tác phẩm kinh điển. Bà cũng là một trong những nhà tâm lý đầu tiên chú trọng đặc biệt đến các vấn đề của nữ giới. Thí dụ, bà đã tập trung dữ kiện để bác bỏ quan điểm phổ biến vào đầu những năm 1900 cho rằng năng lực của nữ giới thường giảm đi trong suốt phần lớn chu kỳ kinh nguyệt. Một nhân vật có ảnh hưởng lớn khác là June Etta Downey, bà là người phát động công cuộc nghiên cứu về các nét đặc trưng cho cá tính con người vào những năm 1900. Bà cũng đã xây dựng được một trắc nghiệm về cá tính được phổ biến rộng rãi, và trở thành người phụ nữ đầu tiên lãnh đạo phân khoa tâm lý ở một viện đại học tiểu bang. Dù có nhiều đóng góp của phụ nữ, nói chung tâm lý học vẫn là một lãnh vực do nam giới ngự trị trong những năm đầu. Ngoài ra, tuy con số phụ nữ tham gia không nhiều lắm, nhưng tỷ lệ số phụ nữ nổi danh trong lãnh vực tâm lý lớn hơn nhiều so với các lãnh vực khoa học khác. Hơn nữa, lịch sử đã trải qua một bước ngoặt đầy ấn tượng trong thập niên vừa qua, và như chúng ta đã đề cập trên đây, số phụ nữ tham dự vào bộ môn này đã tăng lên nhanh chóng trong mấy năm qua. Do đó, khi các sử gia tương lai viết về lịch sử tâm lý học trong thập niên 1990, rất có thể họ sẽ ghi lại lịch sử ấy là lịch sử của nam giới và nữ giới vậy. Nguồn gốc ban sơ của tâm lý học phức tạp và đa dạng như thế, nên người ta không ngạc nhiên rằng ngày nay lãnh vực này quá ư phong phú và đa dạng. Song le, người ta vẫn có thể bao quát toàn diện bộ môn tâm lý học chỉ với một vài mô hình căn bản làm công cụ nhận định mà thôi. Mỗi mô hình nhận thức khái quát ấy, dù vẫn còn tiến triển, chú trọng đến những khía cạnh khác biệt nhau về hành vi ứng xử và các tiến trình tâm trí, nên sẽ lèo lái tư duy của các nhà tâm lý về các phương hướng hơi khác nhau chút ít. Năm mô hình nhận thức chủ yếu góp phần hình thành lãnh vực tâm lý là mô hình sinh vật, động cơ tâm lý, hoạt động trí tuệ, tác phong và nhân bản. Chúng ta sẽ lần lượt thảo luận qua về từng mô hình. Máu, mồ hôi, và các cơn sợ hãi. Xét về mặt các điểm căn bản nguyên sơ thì hành vi được thực hiện bởi các sinh vật có cấu trúc da thịt và nội tạng. Theo mô hình sinh học (biological model), hành vi ứng xử của con người cũng như của các loài động vật phải được xem xét từ góc độ thực thi chức năng sinh vật của chúng: các tế bào thần kinh nối kết với nhau ra sao, sự thừa hưởng một số đặc điểm di truyền của cha mẹ và tổ tiên ảnh hưởng thế nào đến hành vi ứng xử, tình trạng sinh lý có thể ảnh hưởng ra sao đối với các niềm hy vọng và các nỗi sợ hãi trong cuộc sống, và loại hành vi nào phát sinh do bản năng, và vân vân. Cả https://thuviensach.vn đến những loại hành vi phức tạp hơn – các phản ứng tình cảm như lo âu chẳng hạn – cũng được các nhà tâm lý vận dụng mô hình sinh học xem như là có các nhân tố sinh học quyết định. Bởi vì ở một mức độ nào đó, một hành vi đều có thể bị chia cắt thành các yếu tố sinh học nên mô hình này có sức lôi cuốn mãnh liệt. Các nhà tâm lý tán thành mô hình nhận thức này đã đóng góp lớn vào công cuộc tìm hiểu và cải thiện cuộc sống nhân loại, từ việc xây dựng các biện pháp chữa trị một vài dạng bệnh điếc cho đến việc khám phá được các loại dược phẩm chữa trị các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. tìm hiểu con người nội tâm. Đối với nhiều người chưa từng học qua một khóa học tâm lý nào, thì tâm lý học khởi đầu và kết thúc bằng mô hình cộng cơ tâm lý (psycho–dynamic model). Những người đề xướng mô hình này tin tưởng rằng hành vi hay tác phong cư xử bị thôi thúc bởi các lực lượng nội tâm (inner forces) mà cá nhân khó lòng kiểm soát hay khống chế được. Các giấc mơ và các trường hợp nói nhỡ lời được xem là các dấu hiệu về những điều mà con người thực sự đang cảm nhận bên trong bối cảnh sôi sục của hoạt động tâm lý thuộc tầng tiềm thức (subconscious psychic activity). Quan điểm động cơ tâm lý liên hệ mật thiết đến một nhân vật, Sigmund Freud. Freud là một bác sĩ điều trị ở thành Vienna vào đầu những năm 1900. Những khái niệm về các nhân tố thuộc tầng vô thức (unconscious deteminnants) quyết định hành vi cư xử đã gây ảnh hưởng làm đảo lộn tư tưởng trong thế kỷ 20, không chỉ trong lãnh vực tâm lý học mà cả trong các lãnh vực liên hệ nữa. Tuy nhiều nguyên tắc căn bản thuộc quan điểm động cơ tâm lý đã bị chỉ trích toàn diện, nhưng mô hình nhận thức phát sinh từ công trình nghiên cứu của Freud đã cống hiến một phương tiện phục vụ không chỉ cho công cuộc chữa trị các chứng rối loạn tâm thần mà còn cho việc tìm hiểu các hiện tượng thường ngày như định kiến (prejudice) và tính gây hấn (agsression) chẳng hạn. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 3 Con đường dẫn đến việc tìm hiểu hành vi ứng xứ khiến cho một số nhà tâm lý tiến thẳng đến lãnh vực tâm trí. Như chúng ta đã đề cập trên đây, tiến hóa phần nào từ lý thuyết kết cấu về vấn đề nhận diện các thành tố của tâm trí, mô hình hoạt động trí tuệ (cognitive model) chú trọng đến cách thức con người nhận biết, tìm hiểu, và tư duy về thế giới chung quanh: Mặc dù trọng tâm khảo cứu đã chuyển từ việc tìm hiểu kết cấu của bản thân trí tuệ sang việc tìm hiểu cách thức con người học hỏi để ý thức và biểu thị ngoại giới giữa họ với nhau và cách thức tìm hiểu này ảnh hưởng ra sao đến hành vi cư xử của họ. Các nhà tâm lý tin tưởng vào mô hình này đã nêu lên nhiều vấn đề, từ câu hỏi liệu người ta có thể đồng thời vừa xem TV vừa nghiên cứu một cuốn sách được không (câu trả lời là “có lẽ không được”) cho đến câu hỏi con người làm cách nào để tự mình tìm hiểu được các nguyên nhân gây ra hành vi của tha nhân. Các khảo hướng vận dụng mô hình hoạt động trí tuệ đều có hai đặc điểm chung: thứ nhất, đều chú trọng vào cách thức con người tìm hiểu và tư duy về thế giới chung quanh; và thứ hai, việc diễn tả các mẫu mực và quy tắc chi phối hoạt động của tâm trí. Trong khi các khảo sát tâm sinh lý, động cơ tâm lý, và hoạt động trí tuệ nhìn vào bên trong cơ thể sinh vật để xác định các nguyên nhân gây ra hành vi hoặc hành vi ứng xử, thì mô hình hành vi (behavioral model) chọn một khảo sát hoàn toàn khác hẳn. Mô hình hành vi nẩy sinh từ việc không thừa nhận rằng tâm lý học đặt trọng tâm chủ yếu vào các vận hành bên trong của tâm trí, mô hình này cho rằng hành vi ứng xử quan sát được mới là trọng tâm của môn học. John B. Watson là nhà tâm lý Mỹ nổi tiếng, là người đầu tiên đề xướng khảo sát hành vi. Tiến hành nghiên cứu vào những năm 1920, Watson tin chắc rằng người ta có thể hoàn toàn hiểu rõ một hành vi nhờ tìm hiểu và cải biến hoàn cảnh sinh hoạt của con người. Thực ra, ông tin tưởng hơi lạc quan rằng nhờ khống chế đúng mức hoàn cảnh sinh hoạt của con người, người ta có thể tiếp nhận được bất kỳ loại hành vi ứng xử mong muốn, như chính lời nói ông minh chứng: “Hãy cho tôi một chục đứa trẻ khỏe mạnh, xinh đẹp, và một thế giới đặc biệt cho riêng tôi để nuôi dưỡng chúng, tôi bảo đảm sẽ chọn tình cờ một đứa bé để huấn luyện nó thành bất cứ loại chuyên viên nào theo ý muốn – bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, doanh nhân, và thậm chí đến kẻ đi xin hay tên trộm, bất kể thiên phú, thiên hướng, xu thế, năng lực, và chủng tộc của ông cha đứa bé ấy.” Trong thời gian gần đây, người dẫn đầu mô hình hành vi là B.F. Skinner. Cho đến lúc qua đời năm 1990, Skinner vẫn là nhà tâm lý đương đại nổi tiếng nhất. Nhiều kiến thức của chúng ta về cách thức con người học hỏi, rèn luyện hành vi ứng xử mới mẻ đều căn cứ vào mô hình hành vi. Như chúng ta sẽ thấy, mô hình hành vi nảy sinh ở mọi lãnh vực chưa được thăm dò thuộc bộ môn tâm lý. Cùng với ảnh hưởng do nó gây ra trong lãnh vực các tiến trình học hỏi. Mô hình hành vi cũng đã đóng góp vào nhiều lãnh vực khác nhau như vấn đề chữa trị các chứng rối loạn tâm thần, biện pháp trấn áp tính gây hấn, giải pháp đối với các vấn đề tình dục, và cả đến biện pháp cai nghiện ma túy nữa. Mặc dù đã xuất hiện vài thập niên trước đây, mô hình nhân bản (humanistic model) vẫn được xem là nghiên cứu mới mẻ nhất trong các nghiên cứu tâm lý chủ yếu. Bác bỏ các quan điểm cho rằng hành vi ứng xử được quyết định phần lớn bởi các lực sinh học (biological forces) có tính tự động, bởi các tiến trình vô thức, hoặc chỉ đơn thuần bởi hoàn cảnh tác động, mô hình nhận thức này chủ trương rằng con người kiểm soát được cuộc sống của mình. Các nhà tâm lý theo quan điểm nhân bản cho rằng con người có khuynh hướng tự nhiên phát triển đến mức trưởng thành và thỏa mãn các ước vọng cao cả hơn; và nếu có cơ hội, con người nhất định sẽ vươn đến mức toàn bích. Như vậy, trọng tâm của mô hình nhận thức này là ý chí tự do (free will), là khả năng đề ra lý tưởng cuộc sống của bản thân con người. https://thuviensach.vn Hơn bất cứ một nghiên cứu nào khác, mô hình nhân bản nhấn mạnh đến vai trò của bộ môn tâm lý trong việc phong phú hóa cuộc sống con người và giúp cho con người đạt đến tình trạng tự hoàn thiện bản thân. Dù không bao quát mọi vấn đề như một số mô hình nhận thức tổng quát khác, quan điểm nhân bản đã gây được ảnh hưởng quan trọng đối với các nhà tâm lý, nó nhắc nhở họ luôn luôn nhớ đến lời cam kết phục vụ cá nhân con người cũng như xã hội. Điều quan trọng là không được để cho các tính chất trừu tượng của mô hình nhân bản, cũng như của các mô hình nhận thức mà chúng ta đã thảo luận, khiến cho bạn nghĩ rằng chúng chỉ thuần túy có tác dụng về mặt lý thuyết mà thôi. Các mô hình nhận thức này làm nền tảng cho các công trình nghiên cứu hiện hành thuộc lãnh vực tâm lý vốn có những nội dung rất thực tiễn; và các nội dung ấy sẽ là mối quan tâm của chúng ta trong suốt quyển sách này. Để khởi đầu, hãy xem xét đoạn ứng dụng tâm lý học dưới đây. Khi khảo sát các lĩnh vực và mô hình nhận thức thuộc nhiều chủ đề khác nhau cấu thành bộ môn tâm lý, hẳn bạn thấy rằng dường như đó là một môn học phân ra nhiều ngành thiếu liền lạc nhau. Bạn có thể cho rằng lãnh vực nghiên cứu này bao gồm một loạt nhiều chủ đề rời rạc, không liên hệ mật thiết với nhau giống như sự liên hệ giữa môn vật lý với môn hóa học vậy. Thực ra, kết luận như thế không hợp lý mặc dù môn tâm lý học quả có bao quát quá nhiều lãnh vực, từ các chủ đề có trọng tâm nhỏ hẹp như ảnh hưởng sinh hóa vi thể đối với hành vi ứng xử chẳng hạn cho đến hành vi xã hội theo ý nghĩa rộng nhất của nó. Tuy bề ngoài dường như dị biệt giữa các chủ đề và mô hình nhận thức như thế, nhưng các điểm khác biệt ở một số mức độ chỉ là biểu kiến chứ không phải là thực sự. Lãnh vực tâm lý trên thực tế có tính thống nhất bởi vì năm mô hình nhận thức ấy thực sự góp phần hợp nhất nhiều chuyên ngành khác nhau thuộc bộ môn. Do đó, một nhà tâm lý thuộc bất kỳ chuyên ngành nào cũng đều có thể chọn một hoặc nhiều mô hình nhận thức để làm công cụ nghiên cứu. Chẳng hạn, nhà tâm lý phát triển có thể tán thành mô hình động cơ tâm lý hoặc mô hình hành vi hoặc bất kỳ một mô hình nhận thức nào khác. Tương tự, nhà tâm lý điều dưỡng có thể sử dụng mô hình hành vi hoặc mô hình hoạt động trí tuệ hoặc một trong số các mô hình nhận thức khác. Các nhà tâm lý có thể sử dụng các mô hình nhận thức ấy theo những phương thức khác nhau, nhưng với điều kiện là các giả thuyết của một mô hình nào đó sẽ không bị thay đổi dù cho mô hình ấy được áp dụng vào chuyên ngành nào cũng vậy. Bảng 1–1 trình bày các mô hình nhận thức tâm lý chủ yếu nào được các nhà tâm lý thuộc chuyên ngành nào sử dụng. Nhưng, hãy nhớ rằng trên lý thuyết thì nhà tâm lý thuộc bất kỳ chuyên ngành nào có thể chọn dùng được bất cứ mô hình nào cũng được CÁC MÔ HÌNH NHẬN THỨC CHỦ YẾU ĐƯỢC CHỌN DÙNG BỞI CÁC NHÀ TÂM LÝ THUỘC CÁC CHUYÊN NGÀNH KHÁC NHAU Sinh học Động cơ tâm lý Hoạt động trí tuệ Hành vi Nhân bản Tâm sinh lý X https://thuviensach.vn X Tâm lý thực nghiệm X X X Hoạt động trí tuệ X Tâm lý phát triển X X X X X Tâm lý cá tính X X X X X Tâm lý y tế X X X Tâm lý điều dưỡng X X X X https://thuviensach.vn X Tâm lý tư vấn X X X X Tâm lý giáo dục X X X Tâm lý học đường X X X Tâm lý xã hội X X X Tâm lý công nghiệp/tổ chức X X Tâm lý khách hàng X X Tâm lý giao lưu văn hóa X X X https://thuviensach.vn X Câu chuyện khởi đầu từ trường hợp một phụ nữ hay bị mệt và mẩn ngứa không dứt ở vùng bẹn. Bác sĩ đã khám cho bà thật cẩn và nói rằng không có gì là quá nghiêm trọng. Nguyên nhân do bà đã làm việc quá sức. Còn về chứng ngứa ngáy, thì vớ nylon và khí trời ẩm ướt không ngớt là nguyên nhân gây bệnh thông thường của thời tiết mùa hè. Song le, chứng mẩn ngứa khiến ông bực bội nhất, ông ra lệnh xét nghiệm máu cho bệnh nhân. Ông bảo: “Vậy... hãy cho tôi biết về đời sống tình dục của bà.” Bà mất trinh hồi 20 tuổi, trễ nhất trong số bạn bè của bà, và kết hôn với người đàn ông đầu tiên mà bà có quan hệ tình dục, rồi li dị ông ta hai năm sau đó. Sự thất vọng đã thui chột mọi xúc cảm của bà, và bà đã “trở nên phóng túng” trong thời gian khoảng hai năm. Tuy sống độc thân trong chín tháng trước khi khám bệnh, nhưng trước đó bà đã từng chung sống lần lượt với 15 người đàn ông. Nói chung, họ là bạn bè rồi trở thành tình nhân hoặc là tình nhân rồi trở thành bạn bè. Và họ thấy không cần phải phòng ngừa bằng bao cao su. Đến nay, không có lý do gì để cho rằng bất kỳ ai trong số đó là đồng tính luyến ái, hoặc tiêm chích ma túy, hoặc thường xuyên mua dâm. Vị bác sĩ đề nghị bà xét nghiệm HIV. Ông không có lý do gì để đề nghị như thế ngoài mối băn khoăn về thời cuộc. Việc xét nghiệm được thực hiện hai lần trong vài tuần lễ sau đó, và lần nào kết quả cũng như nhau: người phụ nữ đó đã nhiễm HIV. Câu chuyện này không phải là một trường hợp hiếm thấy. Hiện nay, cứ 500 sinh viên đại học có một người bị AIDS, và năm 2000 chỉ riêng ở Hoa Kỳ đã có đến một triệu trường hợp nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nạn dịch AIDS không hẳn là không được đẩy lùi. Chứng cứ cho thấy tỉ lệ gia tăng các ca nhiễm bệnh đã bắt đầu hạ thấp khi các nhà khao học thuộc nhiều lãnh vực bắt đầu dốc hết năng lực nhằm đối đầu với tai họa này. Đã đến lúc người ta tin rằng tâm lý học đóng một vai trò then chốt trong cuộc chiến chống lại nạn dịch AIDS. Các nhà tâm lý đã nỗ lực chặn đứng tình trạng lây lan và đối phó với hậu quả của loại bệnh nguy hiểm này. Người ta có thể chứng kiến việc làm của họ ở một số mặt trận: – Tư vấn và chữa trị những bệnh nhân HIV. Những người biết mình nhiễm phải virus HIV sẽ đối đầu với các khó khăn tâm lý lớn lao ngoài các khó khăn về mặt y học. Họ phải quyết định nên thổ lộ cho ai biết kết qua xét nghiệm của mình, họ có thể đối diện với sự xua đuổi của người thân và mất đi mọi thứ bảo hiểm, và – căn bản nhất là – phải thích nghi với sự bất trắc của chứng bệnh và cái chết không thể tránh được trong tương lai cận kề. Muốn vượt qua được mọi hoàn cảnh khủng khiếp như thế, người bệnh buộc phải được điều trị quan trọng về mặt tâm lý, và các nhà tâm lý đang phát minh ra những kỹ thuật chữa trị hữu hiệu. – Tìm hiểu cơ sở sinh học của chứng bệnh AIDS. Sử dụng mô hình sinh học, một số nhà tâm lý đang ra sức tìm hiểu sâu rộng hơn về các khía cạnh sinh lý của chứng bệnh này. Thí dụ, các bệnh nhân ở giai đoạn bệnh phát triển trầm trọng đôi khi biểu lộ các dấu hiệu não bộ bị huỷ hoại, đưa đến tình trạng mất năng lực tư duy. Việc lý giải cách thức các tiến trình phát triển bệnh ngày càng liên hệ đến não bộ có thể góp phần cải thiện các kế hoạch chữa trị và làm chậm đà phát triển của virus. – Ngăn ngừa tình trạng lây nhiễm HIV. Mặc dù thuật ngữ “tình dục an toàn” đang trở thành quen thuộc, nhưng người ta không muốn hành động như vậy. Các nhà tâm lý, đặc biệt những người vận dụng các mô hình hoạt động trí tuệ và mô hình hành vi, đã đi tiên phong trong việc xây dựng các biện pháp hướng dẫn mọi người cải sửa tập quán tình dục để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm virus HIV. Ngoài ra, các https://thuviensach.vn nhà tâm lý đang nghiên cứu tìm hiểu các phương tiện lây truyền virus trên thực tế và khả năng chế tạo một loại vaccine miễn dịch đối với bệnh AIDS. – Hỗ trợ quyết định hợp lý trong việc chấp nhận xét nghiệm bệnh AIDS. Những người cảm thấy mình có nguy cơ bị nhiễm bệnh có nên đi xét nghiệm không, hay họ sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với ý nghĩ mình chưa chắc thực sự bị nhiễm bệnh? Có nên cưỡng bách xét nghiệm đối với một số người như các công nhân được hưởng chế độ bảo hiểm y tế không? Các câu hỏi đại loại như thế cần phải được sự trợ giúp của các nhà tâm lý nghiên cứu các vấn đề như quan hệ xã hội, tiến trình chọn quyết định, và vấn đề đạo đức. Các nhà tâm lý này chủ yếu được hướng dẫn bởi mô hình hoạt động trí tuệ. Như bạn thấy, các nhà tâm lý đang đóng vai trò quan trọng và khá đa dạng trong cuộc chiến chống lại nạn dịch AIDS. Và đây không phải là vấn đề xã hội duy nhất mà khả năng chuyên môn của họ được động viên nhằm làm giảm bớt nỗi đau của nhân loại. Như chúng ta sẽ thấy ở các đoạn ứng dụng tâm lý học trong suốt cuốn sách này, các nguyên tắc căn bản thuộc bộ môn tâm lý được vận dụng để giải quyết rất nhiều vấn đề xã hội. Chúng ta đã khảo sát qua các nền tảng xây đựng bộ môn tâm lý học. Nhưng tương lai của bộ môn này sẽ ra sao? Mặc dù ai cũng đều biết rằng khuynh hướng phát triển của bất kỳ bộ môn khoa học nào cũng đều khó lòng đoán biết trước được, nhưng trong một tương lai không xa dường như người ta có thể biết trước được một số xu thế như: – Tâm lý học sẽ ngày càng chuyên biệt hóa hơn. Trong một lãnh vực mà những người phục trách phải là các chuyên viên về các đề tài đa dạng đến mức như các quan điểm phức tạp về sự dẫn truyền các xung lực điện hóa qua các đầu dây thần kinh và về các kiểu mẫu thông đạt giữa các công nhân trong các tổ chức có quy mô lớn, chẳng hạn, thì không ai có thể hy vọng am tường hết mọi khía cạnh trong lãnh vực ấy cả. Do đó, rất có thể hiện tượng chuyên biệt hóa sẽ tăng lên khi các nhà tâm lý mở ra các lĩnh vực mới mẻ. – Các mô hình nhận thức mới sẽ nảy sinh. Là một bộ môn khoa học đang phát triển, các nhà tâm lý sẽ sáng tạo được các mô hình nhận thức mới nhằm thay thế cho các khảo hướng hiện hành. Ngoài ra, các mô hình cũ có thể pha trộn lẫn nhau để hình thành các mô hình nhận thức mới. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng khi các nhà tâm lý tích lũy được nhiều kiến thức hơn, thì càng ngày họ càng trở nên thành thạo hơn trong việc tìm hiểu hành vi ứng xử và các tiến trình tâm trí. – Việc chữa trị các rắc rối tâm lý sẽ trở nên dễ dàng hơn khi số lượng chuyên viện tâm lý tăng lên. Ngoài ra, các nhà tâm lý ngày càng hoạt động năng nổ hơn với tư cách là cố vấn cho các đoàn thể tự nguyện và tự lực nhằm giúp cho đoàn viên tự mình giải quyết các khó khăn riêng tư ngày càng hữu hiệu hơn. Hiện tượng này đang trở nên ngày càng phổ biến trong xã hội. – Ảnh hưởng của môn tâm lý học đối với các vấn đề được công chúng quan tâm sẽ tăng lên. Mọi vấn đề lớn trong thời đại chúng ta – như vấn đề thành kiến chủng tộc và sắc tộc thiểu số, vấn đề nghèo đói, các tai họa do môi trường và tiến bộ kỹ thuật gây ra – đều mang đậm các sắc thái tâm lý. Tuy một mình môn tâm lý sẽ không đủ sức giải quyết các vấn đề ấy, nhưng thành tích to lớn của nó trong quá khứ (sẽ được dẫn chứng ở các chương sau) báo trước rằng các nhà tâm lý sẽ có nhiều đóng góp trong việc giải quyết chúng. – Người ta có thể thấy được dấu ấn của các lý thuyết kết cấu, chức năng, và Gestalt ngày xưa hiện diện trong các mô hình nhận thức chủ yếu được vận dụng bởi các nhà tâm lý hiện đại. – Các mô hình nhận thức tâm lý ưu thắng bao gồm các khảo sát sinh học, động cơ tâm lý, hoạt động trí tuệ, hành vị và nhân bản. https://thuviensach.vn – Các chiều hướng tương lai cho thấy rằng bộ môn tâm lý sẽ ngày càng chuyên biệt hóa hơn, công cuộc chữa trị tâm lý sẽ ngày càng thuận lợi hơn, và ảnh hưởng của tâm lý học đối với các vấn đề được công chúng quan tâm sẽ tăng lên. 1/ Wundt đã miêu tả tâm lý học là bộ môn nghiên cứu và kinh nghiệm hữu thức, và mô hình nhận thức do ông đề xướng được gọi là... 2/ Các nhà tâm lý ban đầu nghiên cứu tâm trí bằng cách yêu cầu người ta diễn tả lại kinh nghiệm trải qua khi tiếp nhận nhiều loại kích thích khác nhau. Kỹ thuật này được gọi là... 3/ Mô hình nhận thức trong tâm lý học thay thế hoàn toàn cho lý thuyết kết cấu (Structuralism) là..., mô hình này chú trọng đến các mục đích của hoạt động tâm trí. 4/ Câu phát biểu: “Muốn tìm hiểu hành vi ứng xử của con người, chúng ta phải xem xét nhận thức trên bình diện toàn thể chứ không xem xét các thành tố của nó.” do cá nhân tán thành mô hình nhận thức tâm lý nào nói? 5/ Bác sĩ điều trị yêu cầu Jeanne thuật lại một giấc mơ bạo lực cô vừa trải qua để ông tìm hiểu sâu hơn về các lực lượng vô thức tác động đến hành vi ứng xứ của cô. Thầy thuốc của Jeanne đang vận dụng mô hình... 6/ “Chính hành vi có thể quan sát được mới đáng được nghiên cứu tìm hiểu, chữ không phải các vận hành nội tâm đáng nghi ngờ”, rất có thể câu phát biểu của một cá nhân tán thành quan điểm của: a. Mô hình hoạt động trí tuệ (cognitive model) b. Mô hình sinh học (biological model) c. Mô hình nhân bản (humanistic model) d. Mô hình hành vi (behavioral model) 7/ Các công trình nghiên cứu mới đây về bệnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia) đã nhận diện cách sắp xếp khác thường các tế bào não của bệnh nhân, có thể do di truyền, đáng ngờ là nguyên nhân gây ra loại bệnh tâm thần ấy. Nghiên cứu đại loại như vậy tiêu biểu cho mô hình... 8/ “Thầy thuốc của tôi thật tuyệt vời! Bà ấy luôn luôn khám phá các đặc điểm tích cực của tôi. Bà luôn luôn nhấn mạnh đến tính độc đáo và sức mạnh của cá nhân tôi. Tôi cảm thấy tin tưởng hơn vào bản thân – dường như tôi đang thực sự phát triển và sẽ vươn tới sự toàn bích của mình”. Vị thầy thuốc này đang vận dụng mô hình... 9/ Mỗi chuyên ngành tâm lý đều có một mô hình nhận thức đặc thù cho nó. Đúng hay sai?... 10/ Tâm lý học hiện nay đang có xu hướng ngày càng chuyên môn hóa hơn và cá biệt hóa hơn. Đúng hay sai?... Các mô hình nhận thức tâm lý ngày nay liên quan như thế nào với các lý thuyết kết cấu, chức năng, và Gestalt ngày xưa? (Giải đáp các câu hỏi học ôn ở cuối chương) https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 4 Hôm ấy là một buổi tối mùa xuân ấm áp ở một thành phố nhỏ bé thuộc vùng New England. Chính ở thời gian và địa điểm ấy, Erica Morris đã bị cưỡng hiếp một cách dã man (Để tôn trọng bí mật của nạn nhân, dĩ nhiên đây không phải là tên thực của cô). Không cần phải nói vụ cưỡng hiếp ấy đã là đề tài giật gân cho các nhật báo phát hành ngày hôm sau đó, mà điều khiến cho công chúng kinh hoàng nhất chính là sự kiện vụ cưỡng hiếp đã xảy ra trước sự chứng kiến của rất nhiều kẻ bàng quan – không ai trong bọn họ động lòng trắc ẩn trước những lời van xin kêu cứu của Morris. Như sau này nạn nhân tường thuật tỉ mỉ biến cố, cơn ác mộng bắt đầu khi cô tìm cách rời khỏi quán rượu. Một tên đàn ông chặn cô lại ngay cửa rồi xé toạc quần áo của cô, chỉ còn lại chiếc áo lót. Cô chống cự để tìm cách thoát thân, gào thét cầu xin ai đó trong cái quán đông đúc ấy ra tay cứu giúp. Nhưng kết quả của các lời kêu cứu của cô chỉ làm cho một vài tên khác gia nhập vào cuộc tấn công mà thôi. Bọn chúng vác cô đến một bàn bị da, rồi thay phiên nhau cưỡng hiếp cô. Theo biên bản của cảnh sát, cô “đã la lên, khẩn cầu, và van xin cứu giúp – vậy mà không một ai chịu giúp cô”. Người duy nhất muốn giúp cô là một người khách quen của quán đã cố gọi cảnh sát. Nhưng ngay cố gắng này cũng tỏ ra vô ích, tại vì ông ta gọi nhầm số rồi ngưng luôn. Nhân viên đứng quầy yêu cầu mọi người không nên hưởng ứng lời van xin của cô bởi vì những kẻ tấn công Morris đã ngăn chặn những người có thể ra tay giúp đỡ bằng một con dao trét bơ. Sau cùng, Morris vùng vẫy thoát khỏi bọn cưỡng dâm rồi chạy ra khỏi quán, gần như trần truồng và hoảng hốt. Nhưng lần này cô gặp may. Một người lái xe ngang qua đó đã cho cô lên xe, chở đến buồng điện thoại để kêu cứu. Nếu đây là một biến cố hiếm khi xảy ra thì chúng ta có thể miễn cưỡng cho rằng thái độ của những kẻ bàng quan ấy là sửng sốt trước tình huống bất ngờ. Nhưng bất hạnh thay, các biến cố giống như thế – đã trở thành chất liệu cho một cuốn phim nhan đề là Bị cáo (The Accused), do Jodle Foster thủ vai chính – lại không phải là không thường xảy ra. Chẳng hạn, trong một trường hợp khác được khá nhiều người biết đến, một phụ nữ tên là Kitty Genovese bị tấn công gần một cao ốc chung cư ở New York vào khoảng giữa thập niên 1960. Khi bị hành hung Genovese đã vùng vẫy thoát chạy được trong 30 phút. Trong thời gian đó cô kêu thét không ngừng “Chúa ơi. Nó đâm tôi. Cứu tôi!” Trong đêm tĩnh mịch, không dưới 38 người sống quanh đó đều nghe được tiếng kêu cứu của cô. Những cánh cửa sổ mở ra và ánh đèn bật lên. Một cặp vợ chồng đã kéo ghế đến bên cửa sổ và tắt đèn đi để xem cho rõ hơn. Có ai đó la lên: “Thả cô ấy ra!” Nhưng tiếng la đó không đủ sức làm tên sát nhân khiếp sợ. Hắn thản nhiên đuổi bắt cô, liên tiếp đâm cô thêm tám nhát dao rồi tiếp tục cưỡng hiếp cô trước khi bỏ cô nằm chết. Bao nhiêu trong số 38 người chứng kiến đã đến tiếp cứu cô? Giống như trường hợp Erica Morris, không có ai ra tay giúp đỡ cô cả. Các trường hợp Erica Morris và Kitty Genovese đều là các thí dụ khiến người ta thất vọng và hoang mang về “thực trạng thiếu lòng vị tha”. Công luận cũng như các nhà tâm lý đều thấy khó lòng lý giải được nguyên nhân nào khiến cho quá nhiều người chứng kiến như thế lại nỡ đứng xuôi tay bàng quan chứ không chịu đến giúp đỡ các nạn nhân đáng thương ấy. Các nhà tâm lý đặc biệt bối rối đối với vấn đề này trong nhiều năm và sau cùng họ đã đi đến một kết luận không ai ngờ đến là: cả hai cô Erica Morris và Kitty Genovese lẽ ra sẽ may mắn hơn nếu chỉ có ít https://thuviensach.vn người chứng kiến hoặc nghe được tiếng kêu cứu của họ. Thực ra, nếu chỉ có một người chứng kiến trong một trường hợp ấy, thì xác suất người chứng kiến can thiệp có lẽ sẽ khá cao. Hóa ra, càng ít người chứng kiến trong một tình huống giống như hai trường hợp nghiên cứu thì nạn nhân càng có nhiều cơ hội nhận được sự giúp đỡ hơn. Nhưng làm thế nào các nhà tâm lý đã đi đến một kết luận kỳ lạ như vậy? Dù sao, logic và cảm nghĩ thông thường hiển nhiên sẽ cho rằng càng có nhiều người chứng kiến thì xác suất một người nào đó ra tay giúp đỡ nạn nhân càng lớn hơn. Nghịch lý biểu kiến này – và cách lý giải của các nhà tâm lý – minh chứng một công việc tối quan trọng trong lãnh vực tâm lý: nỗ lực nêu ra và lý giải các câu hỏi thích hợp. Nỗ lực nêu ra được câu hỏi thích hợp và giải đáp hợp lý câu hỏi ấy thực hiện được nhờ sử dụng phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học (Scientific method) là phương pháp được những người hành nghề tâm lý, cũng như các chuyên viên thuộc các bộ môn khoa học khác, vận dụng để tiến hành tìm hiểu thế giới chung quanh. Như minh họa ở Hình 1–2, phương pháp này gồm có ba bước chủ yếu: (1), xác lập câu hỏi thích hợp, (2) hình thành cách giải thích, và (3) thực hiện cuộc nghiên cứu nhằm minh chứng hoặc bác bỏ cách giải thích ấy. Các bước thực hiện phương pháp khoa bọc. Xác lập câu hỏi thích hợp –> Hình thành cách giải thích: Xây dựng lý thuyết; Xây dựng giả thuyết –> Thực hiện cuộc nghiên cứu: Toán tử hóa giả thuyết; Chọn lựa phương pháp nghiên cứu; Thu thập dữ kiện; Phân tích dữ kiện Khi vận dụng phương pháp khoa học, các nhà tâm lý khởi đầu công việc bằng cách quan sát hành vi ứng xử quen thuộc đối với tất cả chúng ta. Nếu bạn đã từng tự hỏi tại sao một vị giáo sư của bạn lại quá dễ nổi cáu, tại sao một người bạn nào đó cứ luôn luôn trễ hẹn, hoặc làm cách nào để con chó hiểu được các mệnh lệnh của bạn, ấy là bạn đã nêu ra các câu hỏi về hành vi ứng xử. Cũng vậy, các nhà tâm lý nêu ra các câu hỏi về bản chất và nguyên nhân gây ra các hành vi, dù các câu hỏi của họ thường trừu tượng hơn so với các câu hỏi của bạn. Một khi đã nêu ra được câu hỏi thích hợp rồi, bước kế tiếp trong phương pháp khoa học là xây dựng lý thuyết để giải thích hiện tượng đã được quan sát. Lý thuyết (theory) là cách giải thích và dự đoán khái quát về hiện tượng nghiên cứu. Xuất phát từ các mô hình nhận thức tâm lý khác nhau đã đề cập trên đây, các lý thuyết sẽ khác biệt nhau cả về tầm bao quát lẫn mức độ sử dụng chi tiết của chúng. Thí dụ, một lý thuyết có thể tìm cách giải thích và dự đoán một hiện tượng khái quát như một kinh nghiệm xúc cảm nói chung nào đó chẳng hạn. Một lý thuyết có tầm bao quát hẹp hơn có thể nhằm dự đoán cách biểu lộ vô ngôn một cảm giác sợ hãi sau khi người ta bị đe dọa. Một lý thuyết còn cụ thể hơn nữa có thể nỗ lực giải thích các cơ trên khuôn mặt vận động liên tục ra sao để biểu lộ cảm giác sợ hãi khi người ta ở trong tâm trạng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều đã xây dựng cho riêng mình các lý thuyết không chính thức về hành vi ứng xứ, như “con người có tính bổn thiện” hoặc “Hành vi của con người thường có động cơ vị kỷ”. Nhưng các lý thuyết do các nhà tâm lý xây dựng lại có tính hợp thức và có mục tiêu rõ rệt hơn. Chúng được thiết lập trên cơ sở am hiểu tường tận các lý thuyết và các nghiên cứu tâm lý liên hệ đã được thực hiện trước đây, cũng như trên cơ sở kiến thức tổng quát của nhà tâm lý về lãnh vực khoa học của mình. Thí dụ, các nhà tâm lý Bibb Latané và John Darley xúc động trước các thảm trạng điển hình của trường hợp Erica Morris và Kitty Genovese đã xây dựng một lý thuyết căn cứ vào một hiện tượng mà họ mệnh danh là khuếch tán trách nhiệm (diffusion of responsibility). Theo lý thuyết này càng có nhiều người chứng kiến một biến cố cần đến hành vi giúp đỡ thì cảm nghĩ tránh né trách nhiệm cứu giúp của tất cả những người chứng kiến ấy càng mạnh. Như vậy, do cảm nghĩ tránh né trách nhiệm này mà càng nhiều https://thuviensach.vn người có mặt tại hiện trường khẩn cấp thì mỗi người ở đó cảm thấy mình càng ít trách nhiệm cá nhân – và xác suất một cá nhân đơn độc nào đó ra tay cứu giúp càng thấp đi. Mặc dù một lý thuyết dễ hiểu như vậy, nhưng nó chỉ mới biểu thị giai đoạn khởi đầu trong tiến trình nghiên cứu của Latané và Dasley mà thôi. Bước kế tiếp của họ là hoạch định một đường lối để kiểm chứng xem liệu lập luận đưa ra có chính xác không. Muốn vậy, họ cần đưa ra một giả thuyết. Giả thuyết (hypothesis) là một dự đoán được phát biểu sao cho người ta có thể kiểm chứng nó trong thực tế. Giống như khi xây dựng các lý thuyết khái quát riêng cho mình về ngoại giới, chúng ta cũng đưa ra giả thuyết về sự tương quan giữa các biến cố với hành vi (từ những sự việc tầm thường như tại sao vị giáo viên Anh ngữ của chúng ta lại có hành vi lập dị như thế, cho đến những sự việc tế nhị như phương pháp nào giúp người ta học tập hữu hiệu nhất). Mặc dù hiếm khi kiểm chứng các giả thuyết ấy một cách có hệ thống, chúng ta quả cũng đã nỗ lực xác định xem chúng đúng hay sai. Chẳng hạn, để kiểm chứng một phương pháp học tập chúng ta có thể thử hạn định giờ giấc học tập trong một kỳ thi rồi kéo dài thời gian học tập trong một kỳ thi khác. Qua đánh giá các thành quả, chúng ta đã xây dựng được một phương pháp so sánh hai kế hoạch học tập ấy. Giả thuyết của Latané và Darley là một suy luận trực tiếp từ một lý thuyết tổng quát hơn của họ về hiện tượng khuếch tán trách nhiệm: càng có nhiều người chứng kiến có mặt tại hiện trường khẩn cấp thì nạn nhân càng ít cơ hội được cứu giúp hơn. Dĩ nhiên, hai ông có thể chọn một giả thuyết khác (thí dụ, những người có tài năng đặc biệt rơi vào tình huống khẩn cấp như thế sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của những kẻ khác), nhưng suy luận ban đầu của họ đường như nhằm giúp cho lý thuyết được kiểm chứng trực tiếp. Có một số lý do khiến nhà tâm lý tin cậy vào các lý thuyết và giả thuyết được xây dựng đúng theo yêu cầu khoa học. Một mặt, các lý tuyết và giả thuyết như vậy giúp họ nhìn thấy các điều quan sát rời rạc và các mảnh vụn thông tin có một ý nghĩa nào đó bằng cách đặt chúng vào một cơ cấu mạch lạc và cố kết. Ngoài ra chúng còn giúp cho nhà tâm lý có dịp vượt ra ngoài các sự kiện đã được biết về thế giới chung quanh để đưa ra được các kết luận về các hiện tượng đến nay chưa được lý giải. Bằng cách này, các lý thuyết và giả thuyết hợp quy cách đem đến một kim chỉ nam hợp lý để định hướng cuộc điều tra cần phải thực hiện trong tương lai. Tóm lại, lý thuyết và giả thuyết giúp nhà tâm lý nêu ra được các câu hỏi thích hợp. Nhưng làm thế nào để giải đáp các câu hỏi ấy? Như chúng ta sẽ thấy, các giải đáp có được nhờ cuộc nghiên cứu (research), là một điều tra thăm dò có hệ thống nhằm khám phá các kiến thức mới mẻ. Giống như khi xây dựng lý thuyết và giả thuyết để giải thích một hiện tượng đặc biệt nào đó, chúng ta cũng có thể sử dụng rất nhiều biện pháp chọn lựa khác nhau để tiến hành cuộc nghiên cứu. Nhưng dù sao, việc làm trước tiên là phải phát biểu lại giả thuyết theo thủ tục gọi là toán tử hóa để cho giả thuyết ấy có thể kiểm chứng được. Toán tử hóa (operationalization) là tiến trình diễn dịch một giả thuyết thành các công thức cụ thể, kiểm chứng được bằng cách đo đạc và quan sát. Để toán tử hóa một giả thuyết, người ta không bị buộc phải tuân thủ một đường lối nhất định nào. Việc làm này tùy thuộc vào logic, vào thiết bị và phương tiện sẵn có, vào mô hình nhận thức tâm lý được vận dụng, và sau cùng tùy thuộc vào tài trí của nhà nghiên cứu. Chúng ta sẽ khảo sát một số công cụ chủ yếu được nhà tâm lý sử dụng trong nghiên cứu của mình. Giả sử giống như các nhà tâm lý Latané và Darley, bạn quan tâm tìm hiểu nhiều điều hơn nữa về các tình huống khẩn cấp trong đó những người chứng kiến đã không chịu ra tay cứu giúp nạn nhân. Một trong những địa chỉ đầu tiên mà bạn phải hướng đến có lẽ là các tư liệu. Thí dụ, nhờ các bản tin tường thuật của báo chí bạn có thể tìm được chứng cứ biện minh cho quan điểm chủ trương rằng sự giảm thiểu hành vi ra https://thuviensach.vn tay cứu giúp nạn nhân đã đi đôi với sự gia tăng số người chứng kiến có mặt tại hiện trường khẩn cấp. Việc sử dụng các bài báo là một thí dụ về biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ. Trong biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ các hồ sơ và tư liệu có sẵn như các dữ kiện đều tra dân số (census data). Các giấy khai sinh, hoặc các mẫu báo lưu trữ chẳng hạn, được xem xét cẩn thận để xác minh một giả thuyết. Nghiên cứu tư liệu lưu trữ là một biện pháp kiểm chứng giả thuyết tương đối ít tốn kém, bởi vì người khác đã làm công việc thu thập dữ kiện căn bản cho bạn rồi. Dĩ nhiên, việc sử dụng các dữ kiện sẵn có như thế có một vài nhược điểm. Một mặt, các dữ kiện có thể không ở dạng cho phép nhà nghiên cứu kiểm chứng giả thuyết một cách toàn diện. Mặt khác, thông tin ấy có thể chưa hoàn chỉnh, không đầy đủ, hoặc đã được thu thập một cách tình cờ mà thôi. Dù sao, trong hầu hết mọi trường hợp thì biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ đều bị bế tắc do một sự kiện đơn giản là các hồ sơ lưu trữ các thông tin cần thiết thường không có sẵn. Gặp phải các trường hợp này, nhà nghiên cứu thường quay sang một phương pháp nghiên cứu khác là quan sát theo phương pháp áp dụng trong khoa học tự nhiên. Theo phương pháp này, nhà nghiên cứu chỉ việc quan sát một hành vi nào đó khi nó xảy ra một cách ngẫu nhiên và không ra tay can thiệp vào diễn biến của tình huống. Thí dụ, nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu hành vi ra tay cứu giúp có thể tìm đến một khu vực có mức độ phạm pháp cao trong thành phố để quan sát cách thức giúp đỡ mà các nạn nhân trong các vụ phạm pháp nhận được. Điểm quan trọng cần ghi nhớ về phương pháp quan sát này là nhà nghiên cứu phải có thái độ thụ động và chỉ đơn thuần ghi nhận tỉ mỉ những gì đang xảy ra ở hiện trường mà thôi. Mặc dù ưu điểm của phương pháp quan sát này là hiển nhiên – chúng ta lấy một mẫu gồm những hành vi mà con người thực hiện trong “bối cảnh sống tự nhiên” (natural habitat) – nhưng cũng có một nhược điểm quan trọng: đó là không thể khống chế được bất cứ một nhân tố quan trọng nào cả. Thí dụ, chúng ta có thể chỉ khám phá được quá ít trường hợp trong đó hành vi cứu giúp xảy ra một cách tự nhiên, nên sẽ không thể rút ra được bất kỳ một kết luận nào có tính thuyết phục. Bởi vì phương pháp quan sát này ngăn cấm thực hiện các thay đổi cần thiết trong một tình huống đã xảy ra, nên nhà nghiên cứu phải chờ đợi cho đến khi các điều kiện thích hợp xảy ra. Tương tự, nếu người ta biết được mình bị theo dõi, có thể họ sẽ phản ứng khác đi khiến cho hành vi của họ không tiêu biểu thực sự cho mẫu quan sát. Không một phương pháp nào nhằm tìm hiểu xem con người tư duy, cảm nhận và hành động đều gì trực tiếp bằng phương pháp đặt câu hỏi ngay với họ. Vì lý do này, các cuộc đều tra được xem là phương pháp nghiên cứu quan trọng. Trong nghiên cứu điều tra (survey research), một nhóm người được chọn tiêu biểu cho một dân số (population) lớn hơn nhóm ấy được yêu cầu trả lời một loạt câu hỏi về hành vi (behavior), ý nghĩ (thoughts), hoặc thái độ (attitudes) của chính họ. Các phương pháp điều tra đã tiến bộ tinh vi đến mức thậm chí chỉ cần sử dụng một mẫu rất nhỏ cũng đủ để suy luận khá chính xác về cách thức phản ứng của một khối dân số lớn hơn mẫu (sample) rất nhiều. Thí dụ, chỉ cần chọn mẫu gồm vài ngàn cử tri là đủ để dự đoán với sai số khoảng 0,01 hoặc 0,02% ai sẽ là người thắng cuộc trong cuộc tranh cử Tổng thống – với điều kiện mẫu điều tra được chọn thật cẩn thận. Nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu hành vi ra tay cứu giúp có thể mở một cuộc điều tra để phỏng vấn những người chứng kiến về lý do khiến họ không muốn ra tay cứu giúp một cá nhân khác. Tương tự, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu tập quán tình dục đã thực hiện nhiều cuộc điều tra để tìm hiểu tập quán nào phổ biến và tập quán nào không phổ biến, rồi vẽ biểu đồ diễn tả biến chuyển quan điểm luân lý về vấn đề tình dục trong vài thập niên trước đây. Tuy việc phỏng vấn trực tiếp để tìm hiểu hành vi của đối tượng về một số mặt có vẻ là con đường ngắn nhất, nhưng phương pháp nghiên cứu điều tra cũng có một vài nhược điểm. Một mặt, các đối tượng https://thuviensach.vn có thể cung cấp thông tin thiếu chính xác vì trí nhớ nhầm lẫn hoặc vì họ không muốn cho nhà nghiên cứu biết rõ quan điểm hay niềm tin thực sự của họ về một vấn đề đặc biệt nào đó. Ngoài ra, đôi khi các đối tượng đưa ra câu trả lời mà họ cho rằng nhà nghiên cứu muốn nghe – hoặc ngược lại, đưa ra những câu trả lời mà họ cho nhà nghiên cứu không muốn phơi bày ra. Khi bọn cưỡng hiếp Erica Morris bị sa lưới pháp luật, nhiều người cảm thấy thắc mắc rằng do cá tính hoặc hoàn cảnh giáo dục nào khiến cho bọn chúng có hành vi dã man như thế. Để trả lời câu hỏi này, các nhà tâm lý có thể dùng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình. Ngược lại phương pháp nghiên cứu điều tra trong đó người ta phải tìm hiểu nhiều người, nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) là phương pháp tìm hiểu sâu rộng một cá nhân hoặc một nhóm rất ít người. Theo phương pháp này, nhà tâm lý thường phải thực hiện một trắc nghiệm tâm lý, trong đó nhà tâm lý sử dụng một loạt câu hỏi được soạn thảo cẩn thận để tìm hiểu sâu sắc cá tính của đối tượng nghiên cứu. Khi sử dụng các nghiên cứu điển hình, mục tiêu của nhà tâm lý không chỉ tìm hiểu về một vài đối tượng nghiên cứu mà còn nhằm sử dụng các điều hiểu biết sâu sắc đạt được để hiểu rõ hơn về con người nói chung. Tuy nhiên, phép loại suy (extrapolation) như thế phải được thực hiện hết sức dè dặt. Thí dụ, mức độ tiêu biểu cho dân số nói chung của bọn cưỡng hiếp trong vụ Erica Morris chắc chắn là vấn đề dễ gây tranh cãi. Khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu mà chúng ta vừa miêu tả, các nhà nghiên cứu thường muốn xác định được mối tương quan giữa hai hành vi hoặc giữa các phản ứng đối với hai câu hỏi nêu trong bảng lục vấn (a questionaire). Chẳng hạn, chúng ta muốn tìm hiểu xem liệu những đối tượng khai rằng họ thường xuyên đi lễ nhà thờ có hay giúp đỡ người lạ trong các tình huống khẩn cấp không. Nếu quả thực chúng ta tìm được một mối tương quan như thế, chúng ta có thể nói rằng có sự kết hợp – hoặc tương quan (correlation) – giữa hiện tượng đi lễ nhà thờ với hành vi cứu giúp trong các trường hợp khẩn cấp. Trong nghiên cứu tương quan, mối tương quan giữa hai loại yếu tố được khảo sát để xác định xem liệu chúng có kết hợp, hoặc có “tương quan” với nhau không? Cường độ tương quan được biểu thị bởi một hệ số toán học có trị số trong khoảng xác định từ +1,0 đến –1,0. Hệ số có trị số dương hàm ý rằng khi trị số của một yếu tố tăng lên chúng ta có thể dự đoán rằng trị số của yếu tố kia cũng tăng lên. Thí dụ, nếu chúng ta dự đoán rằng thời gian học tập càng nhiều thì điểm thi càng cao và thời gian học tập càng ít thì điểm thì càng thấp, chúng kỳ vọng sẽ tìm được mối tương quan có hệ số dương. (Trị số cao của yếu tố thời lượng học tập kết hợp với trị số cao của yếu tố điểm thi, trị số thấp của thời lượng học tập kết hợp với trị số thấp của điểm thi). Do đó, mối tương quan sẽ được biểu thị bằng một hệ số có trị số dương, và sự kết hợp giữa thời lượng học tập và điểm thi càng chặt chẽ thì hệ số ấy có trị số càng gần bằng + 1,0. Ngược lại, mối tương quan có hệ số âm cho thấy rằng khi trị số của một yếu tố tăng lên thì trị số của yếu tố kia giảm đi. Thí dụ, chúng ta có thể dự đoán rằng khi thời lượng học tập tăng lên thì thời lượng giải trí sẽ giảm đi. Khi đó, chúng ta kỳ vọng một hệ số tương quan âm có trị số từ 0 đến –1: Học nhiều hơn sẽ khiến cho thời lượng giải trí ít đi, và học ít đi sẽ khiến cho thời lượng giải trí tăng thêm. Sự kết hợp giữa học tập và giải trí có cường độ càng mạnh thì hệ số tương quan có trị số càng gần bằng –1.0. Dĩ nhiên, rất có thể giữa hai loại yếu tố không có mối liên hệ nào cả, do đó chúng ta nói chúng không có tương quan. Chẳng hạn, có lẽ chúng ta không kỳ vọng tìm ra được mối tương quan giữa thời lượng học tập và chiều cao của sinh viên. Trường hợp này sẽ được biểu thị bằng hệ số tương quan có trị số gần bằng hoặc bằng zéro; bởi vì chúng ta biết rằng thời lượng học tập không hề phản ảnh điều gì về chiều cao của sinh viên cả. Khi thấy rằng giữa hai biến số (variables) có mối tương quan chặt chẽ với nhau, chúng ta thường hay https://thuviensach.vn cho rằng yếu tố (biến số) này là nguyên nhân gây ra yếu tố (hay biến số) kia. Thí dụ, khi thấy rằng thời lượng học tập càng nhiều có liên hệ với điểm thi càng cao, chúng ta có khuynh hướng phỏng đoán rằng thời lượng học tập nhiều hơn là nguyên nhân khiến cho điểm thi càng cao. Mặc dù không phải là một linh cảm tệ hại (a bad hunch), nhưng nó vẫn chỉ là một phỏng đoán mà thôi – bởi vì phát hiện rằng giữa hai yếu tố có mối tương quan không có nghĩa là có mối liên hệ nhân quả (a causal relationship) giữa hai yếu tố ấy. Tương quan chặt chẽ hàm ý rằng biết được thời lượng học tập có thể giúp chúng ta dự đoán sinh viên sẽ thi cử hiệu quả ra sao, chứ không có ý nói rằng thời lượng học tập là nguyên nhân của thành tích thi cử. Chẳng hạn, người thông minh hơn thường học hỏi được nhiều hơn so với người kém thống minh; cho nên, chính trí thông minh mới là nguyên nhân để đạt được thành tích thi cử, chứ không phải là thời lượng học tập. Đơn giản là vì sự kiện hai yếu tố xảy ra song hành với nhau không có nghĩa là phải kết luận yếu tố này là nguyên nhân gây ra yếu tố kia. Điểm tối quan trọng cần ghi nhớ là phương pháp nghiên cứu tương quan không thông báo cho chúng ta đều gì về nguyên nhân (cause) và hậu quả (effect), thực ra nó chỉ cống hiến một phương tiện đo lường cường độ liên hệ giữa hai loại yếu tố mà thôi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thấy rằng trẻ con xem nhiều chương trình TV có nội dung bạo lực tương đối dễ có hành vi gây hấn (aggressive behavior), còn những trẻ em ít xem các chương trình ấy lại tương đối ít biểu lộ loại hành vi này (xem Hình 1–3). Chúng ta không thể nói rằng hành vi gây hấn có nguyên nhân ở việc xem TV, bởi vì nguyên nhân của loại hành vi này rất có thể xuất phát từ một yếu tố nào khác. Thí dụ, chúng ta có thể biết rằng những đứa trẻ có hoàn cảnh kinh tế xã hội thấp kém mà lại xem nhiều chương trình TV có nội dung bạo lực thì sẽ dễ có hành vi gây hấn hơn. Như vậy, các yếu tố liên quan đến hoàn cảnh kinh tế xã hội của gia đình có thể là nguyên nhân thực sự khiến cho các đứa trẻ có hành vi gây hấn. Thực ra, có thể có một số yếu tố hậu thuẫn cho cả hành vi gây hấn lẫn việc xem TV. Thậm chí, có thể nói rằng những người dễ có hành vi gây hấn thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực bởi vì họ là những người hiếu chiến. Như vậy, rõ ràng rằng bất kỳ chuỗi sự kiện có liên hệ nhân quả nào cũng có thể xảy ra – và không thể bị loại trừ bởi phương pháp nghiên cứu tương quan. Sự bất lực của phương pháp nghiên cứu tương quan trong việc giải đáp các câu hỏi có bản chất liên hệ nhân quả chính là nhược điểm của phương pháp này vậy. Song le, có một kỹ thuật khác thiết lập được mối liên hệ nhân quả, đó là phương pháp nghiên cứu thực nghiệm. 1. Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực Người xem có hành vi gây hấn 2. Hoàn cảnh kinh tế xã hội Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực Người xem dễ có hành vi gây hấn 3. Người hay có hành vi gây hấn Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực Khi khám phá thấy sự kiện thường xuyên xem các chương trình TV có nội dung bạo lực có liên hệ đến mức độ dễ có hành vi gây hấn, chúng ta có thể nêu ra được một số nguyên nhân có vẻ hợp lý, như trình bày ở hình này. Như vậy, các khám phá do phương pháp nghiên cứu tương quan không giúp chúng ta quyết định được mối liên hệ nhân quả. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 5 Biện pháp duy nhất mà nhà tâm lý có thể thiết lập một mối liên hệ nhân quả thông qua cuộc nghiên cứu là tiến hành một thí nghiệm. Trong một thí nghiệm (experiment) hợp quy cách, mối tương quan giữa hai (hoặc nhiều) yếu tố được khảo sát bằng cách cố tình làm cho một yếu tố biến động rồi quan sát hậu quả do biến động ấy gây ra cho yếu tố kia. Biến động do cố tình được gọi là thao tác thí nghiệm (experimental mamipulation). Các thao tác thí nghiệm được vận dụng để phát hiện các mối tương quan giữa các biến số (variables), các hành vi (behaviors), các biến cố (events), hoặc giữa các đặc tính khác có thể thay đổi, hoặc biến động được theo một cách thức nào đó. Có một vài bước để tiến hành một thí nghiệm, nhưng tiến trình nói chung thường khởi đầu bằng việc xây dựng một hay nhiều giả thuyết để kiểm chứng bằng thí nghiệm. Thí dụ, hãy nhớ lại giả thuyết do Latané và Darley đưa ra để kiểm chứng lý thuyết của họ về hành vi ra tay cứu giúp: càng có nhiều người chứng kiến trong tình huống khẩn cấp, thì xác suất bất cứ ai trong bọn họ ra tay giúp đỡ nạn nhân càng thấp đi. Chúng ta có thể tìm hiểu cách thức tổ chức thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết của họ. Bước thứ nhất là toán tử hóa giả thuyết bằng cách khái niệm hóa nó theo cách thức sao cho giả thuyết ấy có thể kiểm chứng được: Việc làm này buộc Latané và Darley phải lưu ý đến nguyên tắc căn bản của phương pháp nghiên cứu thực nghiệm mà chúng ta vừa đề cập đến. Phải vận dụng thao tác đối với ít nhất một biến cố kia. Nhưng người ta không thể quan sát cô lập thao tác này được. Nếu muốn thiết lập một liên hệ nhân quả, người ta phải so sánh hậu quả của trường hợp thực hiện một thao tác với hậu quả của trường hợp không thực hiện thao tác hoặc của trường hợp thực hiện một thao tác khác. Như vậy, phương pháp nghiên cứu thực nghiệm đòi hỏi phải so sánh ít nhất các phản ứng của hai nhóm. Một nhóm sẽ nhận được một tác động đặc biệt nào đó – nhà thí nghiệm thực hiện thao tác để tác động vào nhóm này – còn nhóm kia hoặc không bị tác động hoặc bị tác động khác đi. Nhóm nào bị tác động bởi thao tác được gọi là nhóm thí nghiệm (treatment group) còn nhóm kia được gọi là nhóm kiểm soát (control group) [trong một số thí nghiệm, người ta dùng rất nhiều nhóm thí nghiệm và nhóm kiểm soát, và người ta so sánh từng cặp nhóm]. Nhờ sử dụng cả hai loại nhóm thí nghiệm và kiểm soát trong cuộc thí nghiệm, nhà nghiên cứu có thể loại trừ được khả năng một ảnh hưởng nào khác ngoài thao tác gây hậu quả cho biến số kia trong thí nghiệm. Nếu không dùng nhóm kiểm soát, chúng ta sẽ không biết chắc được một yếu tố nào khác, như nhiệt độ vào lúc tiến hành thí nghiệm hoặc yếu tố thời gian đơn thuần chẳng hạn, lại không là nguyên nhân gây ra các biến động phải quan sát. Như vậy, nhờ sử dụng các nhóm kiểm soát nhà nghiên cứu có thể cô lập được các nguyên nhân đặc biệt cho các khám phá của mình, và do đó, có thể rút ra được các suy luận có tính nhân quả. Bước toán tử hóa giả thuyết của Latané và Darley buộc phải sử dụng nhiều nhóm thí nghiệm. Họ quyết định tạo ra một tình huống giả tạo cần đến sự giúp đỡ của một người chứng kiến. Để vận dụng thao tác thí nghiệm, họ quyết định thay đổi số người chứng kiến có mặt tại hiện trường. Chẳng hạn, họ có thể chỉ dùng một nhóm thí nghiệm gồm hai người có mặt tại hiện trường và một nhóm kiểm soát chỉ cần một người chứng kiến là đủ để so sánh kết quả. Nhưng hai ông lại quyết định chọn thủ tục phức tạp hơn có ba nhóm lần lượt gồm hai, ba, và sáu người để so sánh với nhau. Giờ đây hai ông Latané và Darley đã xác định được biến số độc lập (independent variable) cho thí nghiệm, đó là loại biến số mà nhà thí nghiệm vận dụng thao tác. Trong trường hợp này, biến số độc lập https://thuviensach.vn chính là số người chứng hiện có mặt tại hiện trường. Bước kế tiếp là quyết định xem hai ông sẽ làm cách nào để xác định hậu quả xảy ra cho hành vi của các đối tượng quan sát khi thay đổi số người chứng kiến có mặt tại hiện trường (tức là khi vận dụng thao tác đối với biến số độc lập). Đóng vai trò quyết định cho cuộc thí nghiệm chính là loại biến số tuỳ thuộc (dependent variable) tức là loại biến số được đo lường và kỳ vọng biến động dưới dạng hậu quả do các thay đổi cố tình gây ra bởi thao tác của nhà thí nghiệm. Thế là, thí nghiệm của hai ông đã có đủ hai loại biến số độc lập và tùy thuộc. (Để ghi nhớ sự khác biệt giữa hai loại biến số này, bạn có thể nhớ lại rằng giả thuyết dự đoán biến số tùy thuộc sẽ biến đổi ra sao tùy theo thao tác cố tình gây ra cho biến số độc lập). Như vậy, biến số tùy thuộc phải được toán tử hóa ra sao đối với thí nghiệm của Latané và Darley? Có thể đơn thuần gán đại lượng “có” hoặc “không” cho hành vi ra tay cứu giúp hoặc không cứu giúp của đối tượng (subject) – là người cộng tác trong thí nghiệm với tư cách là người chứng kiến có mặt tại hiện trường. Nhưng hai ông đã quyết định dùng thêm một đại lượng khác để cho việc phân tích được chính xác hơn là thời lượng cần thiết để đối tượng quyết định có hành vi cứu giúp. Đến đây, Latané và Darley đã hội đủ mọi thành tố của cuộc thí nghiệm. Biến số độc lập tác động bởi thao tác thí nghiệm là số người chứng kiến có mặt trong tình huống khẩn cấp. Biến số tùy thuộc là liệu những đối tượng chứng kiến trong một nhóm cộng tác có hành vi ra tay cứu giúp hay không và thời lượng cần thiết để họ quyết định có hành vi ấy. Tất cả mọi thí nghiệm trong lãnh vực tâm lý đều có mô hình không phức tạp giống như vậy. Bước sau cùng: Tuyển chọn ngẫu nhiên các đối tượng thêm dự vào nhóm thí nghiệm. Muốn cho cuộc thí nghiệm là kiểm chứng hữu hiệu đối với giả thuyết, nhà nghiên cứu cần hoạch định thêm một bước sau cùng: tuyển chọn hợp lý các đối tượng tham dự vào nhóm thí nghiệm. Ý nghĩa của bước này sẽ sáng tỏ khi chúng ta xem xét qua nhiều biện pháp tuyển chọn khác nhau. Thí dụ, nhà nghiên cứu có thể lưu ý đến khả năng tuyển chọn đối tượng chỉ là nam giới tham dự vào nhóm gồm hai người chứng kiến, đối tượng chỉ là nữ giới tham dự vào nhóm gồm ba người chứng kiến, và đối lượng là cả nam lẫn nữ tham dự vào nhóm gồm sáu người chứng kiến. Tuy nhiên, nếu làm như thế thì sự thể sẽ trở nên sáng tỏ rằng bất kỳ khác biệt nào mà nhà nghiên cứu nhận thấy ở hành vi ra tay cứu giúp sẽ không đơn thuần chỉ tùy thuộc vào số người trong nhóm, bởi vì các khác biệt ấy cũng có thể còn tuỳ thuộc vào thành phần của nhóm nữa. Biện pháp hợp lý hơn là bảo đảm rằng mỗi nhóm đều có thành phần giới tính tương tự nhau; khi ấy chúng ta có thể so sánh các nhóm với nhau chính xác hơn nhiều. Các đối tượng thuộc mỗi nhóm thí nghiệm phải tương xứng với nhau để dễ dàng thiết lập được các nhóm có thành phần tương tự nhau về mặt giới tính. Dù vậy, vấn đề lại trở nên phức tạp hơn nếu chúng ta xét đến các điểm đặc trưng khác của các đối tượng. Làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm được các đối tượng thuộc một nhóm thí nghiệm đều thông minh, có tâm hồn vị tha, có tinh thần cộng tác, và vân vân, ngang nhau, khi mà bảng kê các điểm đặc trưng như thế – điểm nào cũng quan trọng cả – thường là bất tận? Giải pháp cho vấn đề này là một biện pháp tuy đơn giản nhưng lại vô cùng hữu hiệu gọi là ngẫu nhiên hóa điều kiện chọn đối tượng (random assignment to condition). Theo biện pháp này, các đối tượng được chọn đưa vào các nhóm khác nhau trong cuộc thí nghiệm, hoặc được ấn định “điều kiện chọn”, trên cơ sở tình cờ và chỉ trên cơ sở tình cơ mà thôi. Thí dụ, nhà thí nghiệm có thể gán cho mỗi đối tượng dự tuyển một số hiệu rồi rút thăm chọn lựa đưa vào các nhóm. Ưu điểm của kỹ thuật này là các điểm đặc trưng của đối tượng có cùng cơ hội được phân bố đồng đều giữa các nhóm. Nhờ chọn ngẫu nhiên, nhà thí nghiệm có thể tin tưởng rằng một nhóm sẽ có thành phần gồm các đối tượng gần như tương tự nhau về trí thông minh, tâm hồn vị tha, tinh thần cộng tác, giới tính, và vân vân. https://thuviensach.vn Hình 1–4 cho một thí dụ khác về vấn đề thí nghiệm khoa học. Giống như một cuộc thí nghiệm khác, nó bao gồm một loạt các yếu tố then chốt sau đây, là điều quan trọng phải ghi nhớ nếu bạn muốn xét xem liệu cuộc nghiên cứu có phải là một thí nghiệm đúng nghĩa hay không: – Biến số độc lập là yếu tố chịu tác động bởi thao tác của nhà thí nghiệm. – Biến số tùy thuộc là yếu tố kỳ vọng biến động do hậu quả của thao tác gây ra đối với biến số độc lập. – Kỹ thuật tuyển chọn ngẫu nhiên các đối tượng để đưa vào các nhóm thí nghiệm và kiểm soát khác nhau, hay “các điều kiện” của biến số độc lập. – Một giả thuyết liên kết biến số độc lập và tùy thuộc với nhau. Chỉ khi nào hội đủ các yếu tố này thì cuộc nghiên cứu mới được đánh giá là một thí nghiệm thực để kiểm chứng mối liên hệ nhân quả. Chọn lựa đối tượng phù hợp: Vốn là giáo sư đại học, Latané và Darley nhắm vào những người dễ tìm để mời cộng tác thí nghiệm là giới sinh viên. Thực tế, những người này được sử dụng rất thường xuyên trong các cuộc thí nghiệm đến mức tâm lý học đôi khi được gọi là “Khoa học về hành vi ứng xử của sinh viên năm thứ hai đại học”. Việc sử dụng sinh viên làm đối tượng thí nghiệm có cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Lợi điểm lớn nhất là họ luôn luôn sẵn lòng tham dự bởi vì hầu hết các nghiên cứu đều thực hiện ở một trường đại học. Nói chung, sinh viên cộng tác nhằm mục đích để được thụ huấn thêm về môn học hoặc để kiếm thêm chút ít thù lao, nhờ đó chi phí nghiên cứu sẽ giảm đến mức tối thiểu. Khó khăn trong việc nhờ sinh viên làm đối tượng thí nghiệm là họ không đại biểu chính xác cho dân số nói chung. Sinh viên thường không phản ánh đúng thành phần dân số Hoa Kỳ về chủng tộc, giai cấp xã hội, tuổi tác, và trình độ học vấn, bởi vì tập thể sinh viên thường gồm đa số là dân da trắng, thuộc giai cấp trung lưu, và sinh viên là lớp người trẻ tuổi và có trình độ học vấn trung bình cao hơn so với các tầng lớp khác trong xã hội. Ngoài ra, thái độ của sinh viên thường kém chững chạc hơn và so với những người trưởng thành thì họ dễ bị ảnh hưởng hơn bởi các áp lực xã hội từ các nhân vật và giai cấp quyền thế. Vì các đặc điểm này nên mức độ tổng quát hóa kết quả thí nghiệm vượt quá hoàn cảnh sống của sinh viên là vấn đề dễ gây ra tranh luận. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu tìm cách sử dụng các đối tượng biểu trưng hơn cho dân số nói chung. Trong hình vẽ miêu tã tiến trình tìm hiểu tác dụng của loại thuốc propanolol đối với stress này, chúng ta có thể thấy các yếu tố căn bản trong mọi thí nghiệm thực. Các đối tượng thí nghiệm là những con khỉ được chọn ngẫu nhiên đưa vào một trong hai nhóm. Các chú khỉ được chọn vào nhóm thí nghiệm được tiêm thuốc propranolol nhằm ngăn ngừa bệnh tim theo giả thuyết đã xây dựng, còn các chú khỉ thuộc nhóm kiểm soát không được tiêm thuốc. Như vậy liều thuốc tiêm cho bọn khỉ là biến số độc lập. Tất cả chú khỉ đều được cung cấp khẩu phần ăn nhiều chất béo bằng khẩu phần ăn của con người, gồm hai quả trứng và thịt lợn xông muối vào mỗi buổi sáng, và thỉnh thoảng chúng được đưa vào các làng khác nhau để chịu tác động của stress. Để xác định tác dụng của loại thuốc này, người ta đo nhịp tim và đánh giá các triệu chứng khác của bệnh tim ở các chú khỉ. Các chỉ số này gộp lại thành biến số tùy thuộc. (Kết quả thế nào? Như giả thuyết đã nêu ra, các chú khỉ được tiêm thuốc có nhịp tim thấp hơn và các triệu chứng bệnh tim khác ít hơn so với các chú khỉ không được tiêm thuốc). (Căn cứ vào công trình nghiên cứu của Kaplan & Manuck, 1989). https://thuviensach.vn Vấn đề tính biểu trưng của đối tượng thí nghiệm càng rõ rệt khi chúng ta lưu tâm đến các cuộc nghiên cứu thực hiện trên loài vật thay vì đối với con người. Nếu chúng ta lo ngại rằng giới sinh viên không biểu trưng được cho dân số nói chung thì loài chuột, loài khỉ, loài gặm nhấm (gerbils), hoặc loài bồ câu được sử dụng làm đối tượng nghiên cứu không phải là kém biểu trưng hơn sao? Câu trả lời là 7 hay 8% các cuộc nghiên cứu tâm lý sử dụng loài vật có mục đích khác biệt và nhằm giải đáp các câu hỏi khác hẳn các cuộc nghiên cứu dùng con người làm đối tượng. Thí dụ, tuổi thọ ngắn hơn của loài vật (loài chuột có tuổi thọ trung bình khoảng hai năm) cho phép chúng ta tìm hiểu các hậu quả đối với tuổi thọ trong một khung cảnh thời gian ngắn hơn nhiều so với việc nghiên cứu về tuổi thọ trực tiếp đối với con người. Ngoài ra, tính phức tạp quá mức của con người có thể che khuất các thông tin về các hiện tượng căn bản có thể nhận ra được dễ dàng hơn ở loài vật. Cuối cùng, một số công trình nghiên cứu đòi hỏi rất nhiều đối tượng có cùng hoàn cảnh hoặc đều cùng bị tác động như nhau bởi các môi trường đặc biệt – tức là các điều kiện thực tế không thể tìm thấy được ở con người. Nghiên cứu dùng loài vật làm đối tượng thí nghiệm đến nay đã giúp cho các nhà tâm lý nhiều thông tin rất có lợi cho con người. Chẳng hạn, nghiên cứu loài vật đã cho chúng ta các kiến thức then chốt để tìm ra biện pháp sớm phát hiện các rối loạn thị giác ở trẻ em nhằm kịp thời ngăn chặn thiệt hại lâu dài, biện pháp thông đạt hữu hiệu hơn với các đứa trẻ chậm phát triển nghiêm trọng, và biện pháp làm giảm bớt các chứng đau kinh niên ở con người chỉ là một số thành quả do nghiên cứu loài vật đem lại. Latané và Darldey có hợp lý không? Đến đây bạn hẳn phải thắc mắc không biết hai ông Latané và Darley có hợp lý không như họ đưa ra giả thuyết cho rằng số người chứng kiến có mặt trong tình huống khẩn cấp càng tăng lên sẽ làm giảm đi mức độ hành vi ra tay cứu giúp. Theo kết quả thí nghiệm đã thực hiện, giả thuyết của hai ông đúng về mục tiêu. Khi kiểm chứng giả thuyết ấy, họ đã dùng một bối cảnh thí nghiệm trong đó các đối tượng được thông báo rõ ràng mục đích của thí nghiệm nhằm tổ chức một cuộc thảo luận về các vấn đề cá nhân có liên quan đến môi trường đại học. Cuộc thảo luận đã được tổ chức qua intercom nhằm tránh tình trạng bối rối có thể xảy ra vì cuộc tiếp xúc giáp mặt. Dĩ nhiên, tán gẫu về các vấn đề riêng tư không phải là mục đích chân chính của cuộc thí nghiệm, nhưng các đối tượng được thông báo rằng cuộc thảo luận ấy nhằm khiến cho các kỳ vọng riêng tư của họ về cuộc thí nghiệm không tác động làm sai lệch hành vi của họ. (Hãy cân nhắc xem các đối tượng sẽ bị ảnh hưởng ra sao khi họ được báo trước rằng hành vi cứu giúp của họ trong tình huống khẩn cấp sẽ được ghi nhận lại để kiểm chứng. Các nhà thí nghiệm có thể không bao giờ đánh giá được chính xác các đối tượng sẽ thực sự hành động ra sao trong tình huống khẩn cấp; bởi vì theo định nghĩa, các tình huống khẩn cấp hiếm khi được thông báo trước). Quy mô các nhóm thảo luận gồm 2, 3 và 6 đối tượng phản ảnh thao tác thí nghiệm thực hiện đối với biến số độc lập là quy mô nhóm. Các đối tượng được chọn ngẫu nhiên đưa vào một trong các nhóm này căn cứ vào sự xuất hiện của họ ở bối cảnh thí nghiệm. Trong lúc các đối tượng trong một nhóm đang say sưa thảo luận, đột nhiên họ nghe tiếng của một người trong số đối tượng tham dự (trên thực tế là người điều phối diễn biến thảo luận, hoặc nhân viên của nhà thí nghiệm) giống như bị rơi vào trạng thái co giật do chứng động kinh. Tôi–ơ–ưm–tôi–tôi–cần–ơ–ai–đó–ơ–ơ–ơ–đến giúp tôi một tí–ơ–ơ–bởi vì–ơ–tôi–ơ–đang gặp–rắc–ơ–rối đây–ơ–ơ–ai đó–ơ–ơ–hãy đến giúp–ơ–ơ tôi–ơ–ơ–tôi ngay [giọng nói tắt nghẽn đi]... tôi sắp ch... ch... ết– tôi… sắp chết–ơ–cứu–ơ–ơ–tôi [giọng nói tắt nghẽn đi, rồi im bặt] (Latané & Darley; 1970, P. 379). Đến đây, hành vi của các đối tượng khác trong nhóm được lưu tâm theo dõi. Biến số tùy thuộc là khoảng thời gian trôi qua kể từ lúc bắt đầu nghe tiếng “tôi” sau cùng cho đến khi một đối tượng bắt đầu ra tay giúp đỡ “nạn nhân”. Nếu 6 phút trôi qua mà không có đối tượng nào có hành vi giúp đỡ thì thí nghiệm https://thuviensach.vn kết thúc. Như dự đoán bởi giả thuyết, quy mô nhóm có ảnh hưởng quyết định đối với hậu quả là đối tượng có hành vi giúp đỡ hay không (Latané & Darley, 1970). Ở nhóm gồm 2 người (trong đó đối tượng cho rằng chỉ có một mình y với nạn nhân), khoảng thời gian trung bình để đối tượng có hành vi giúp đỡ là 52 giây; ở nhóm gồm 3 người (đối tượng, nạn nhân, và một người thứ ba), khoảng thời gian trung bình là 93 giây; và ở nhóm gồm 6 người (đối tượng, nạn nhân, và 4 người khác), khoảng thời gian trung bình là 166 giây. Việc dùng đại lượng đơn giản “có” hoặc “không” để đo lường hành vi của đối tượng trong tình huống khẩn cấp khiến cho mô hình đo lường biến số tùy thuộc căn cứ vào khoảng thời gian trôi qua như thế được vững chắc thêm. Đối tượng thuộc nhóm gồm 2 người có hành vi giúp đỡ theo xác suất 85%; nhóm ba người theo xác suất 62%; và nhóm 6 người chỉ là 31% (xem hình 1 –5). Kết quả thí nghiệm của Lạtané và Darley cho thấy khi số người chứng kiến trường hợp khẩn cấp càng tăng thì xác suất có hành vi giúp đỡ sẽ giảm đi (theo Latané & Darley, 1986). Bởi vì các kết quả đã gặt hái được này khá dễ hiểu, nên rõ ràng giả thuyết dường như đã được minh chứng. Song Latané & Darley chưa thể khẳng định các kết quả ấy thực sự có ý nghĩa cho đến khi hai ông tổng hợp và khảo sát các dữ kiện của mình theo các phương pháp thống kê khoa học. Việc sử dụng các phương pháp thống kê – buộc phải thực hiện một số phép tính trong toán học – giúp nhà nghiên cứu xác định xem kết quả thí nghiệm có ý nghĩa đến mức độ nào chứ không phải là ngẫu nhiên gặt hái được. Nghiên cứu của Latané & Darley hội đủ mọi yếu tố của một thí nghiệm khoa học: một biến số độc lập, một biến số tùy thuộc, ngẫu nhiên hóa điều kiện chọn đối tượng thí nghiệm, và nhiều nhóm thí nghiệm. Vì thế chúng ta có thể nói với một mức độ tin tưởng nào đó rằng quy mô nhóm là nguyên nhân gây ra các biến động về mức độ hành vi giúp đỡ. Dĩ nhiên, một thí nghiệm duy nhất không thể giải đáp dứt khoát câu hỏi về hành vi can thiệp của người chứng kiến trong các trường hợp khẩn cấp. Các nhà tâm lý đòi hỏi phải lặp lại thí nghiệm nhiều lần (replication) để kiểm chứng các khám phá của thí nghiệm ban đầu, bằng cách vận dụng các thủ thuật khác trong các bối cảnh khác, với các nhóm đối tượng khác, trước khi hoàn toàn tin tưởng vào giá trị của bất kỳ một thí nghiệm duy nhất nào. [Trong trường hợp này, thí nghiệm của hai ông đã đứng vững trước sự thử thách của thời gian: duyệt xét khoảng 50 công trình nghiên cứu thực hiện trong thời gian 10 năm tiếp sau thí nghiệm ban đầu cho thấy hầu hết các cuộc nghiên cứu đều đi đến kết luận là số người chứng kiến tăng lên thì xác suất có hành vi giúp đỡ giảm xuống (Latané & Darley, 1981)]. Ngoài việc lặp lại thí nghiệm nhiều lần để kiểm chứng kết quả của thí nghiệm ban đầu, các nhà tâm lý cũng cần kiểm chứng các giới hạn của giả thuyết và lý thuyết đã đưa ra nhằm xác định xem chúng ứng dụng được trong các trường hợp cụ thể nào. Chẳng hạn, dường như không nhất thiết rằng khi số người chứng kiến tăng lên thì kết quả luôn luôn là xác suất hành vi giúp đỡ giảm xuống; do đó, điều tối quan trọng là phải hiểu rõ các ngoại lệ đối với quy luật tổng quát này xảy ra trong các điều kiện nào. Thí dụ, chúng ta có thể ức đoán rằng trong tình huống kết quả được báo trước mà các đối tượng chứng kiến lại biết rằng các khó khăn của nạn nhân sau này sẽ ảnh hưởng đến bản thân họ theo một cách nào đó, thì hành vi giúp đỡ sẽ dễ dàng xảy ra hơn. Để kiểm chứng giả thuyết mới này (thực tế, có thể minh chứng được) buộc phải thực hiện thí nghiệm bổ sung. Như vậy, giống như bất kỳ bộ môn khoa học nào, tâm lý học giúp cho kiến thức của chúng ta tăng thêm từng bước ngắn, và mỗi bước ấy lại xây dựng trên thành quả của công trình trước đó. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 6 – Phương pháp khoa học sử dụng bởi các nhà tâm lý gồm 3 bước: Xác lập câu hỏi thích hợp, hình thành cách giải thích, và tiến hành cuộc nghiên cứu nhằm minh chứng hoặc bác bỏ cách giải thích ấy. – Lý thuyết là lời giải thích khái quát và các dự đoán về các hiện tượng nghiên cứu. – Giả thuyết thoát thai từ lý thuyết. Nó phát biểu các giả định rút ra từ lý thuyết dưới dạng sao cho các giả định ấy có thể kiểm chứng được qua cuộc nghiên cứu. – Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: nghiên cứu tài liệu lưu trữ (archival research), quan sát ứng dụng trong khoa học tự nhiên (naturalistic observation), nghiên cứu điều tra (survey research), và nghiên cứu trường hợp điển hình (case study). – Theo phương pháp nghiên cứu tương quan, người ta khảo sát mối tương quan giữa hai loại biến số để xác định xem liệu chúng có liên hệ với nhau không, mặc dù người ta không thể thiết lập được mối liên hệ nhân quả (cause–and–effect relationship) giữa hai biến số ấy. – Trong một thí nghiệm hợp quy cách khoa học – là biện pháp duy nhất để xác định mối liên hệ nhân quả – mối tương quan giữa các yếu tố được khảo sát bằng cách cố tình làm cho một yếu tố biến động và quan sát các hậu quả của biến động ấy xảy ra cho yếu tố kia. 1/ Giải thích về một hiện tượng nghiên cứu được gọi là... 2/ Muốn kiểm chứng giải thích này, người ta phải phát biểu nó dưới dạng một câu hỏi có thể kiểm chứng được. Câu hỏi này được gọi là... 3/ Một nhà thí nghiệm quan tâm tìm hiểu mối tương quan giữa cảm giác đói (hunger) và hành vi gây hấn (aggression). Ông ta xác định hành vi gây hấn bằng số lần đánh vào bị cát của một đối tượng. Tiến trình xác định biến số này được gọi là gì? 4/ Cặp đôi các phương pháp nghiên cứu dưới đây với định nghĩa của chúng. 1. Nghiên cứu tài liệu lưu trữ. 2. Quan sát áp dụng trong khoa học tự nhiên. 3. Nghiên cứu điều tra. 4. Nghiên cứu trường hợp điển hình. a. Trực tiếp đặt câu hỏi về hành vi của những người được chọn làm mẫu thí nghiệm. b. Khảo sát các tài liệu có sẵn để chứng thực một giả thuyết. c. Quan sát một hành vi trong bối cảnh thực tế của nó mà không can thiệp vào kết quả xảy ra. d. Tìm hiểu sâu rộng về một cá nhân hoặc một nhóm rất ít người. 5/ Cặp đôi mỗi phương pháp nghiên cứu với một khó khăn căn bản đối với phương pháp ấy https://thuviensach.vn 1. Nghiên cứu tài liệu lưu trữ. 2. Quan sát áp dụng trong KH tự nhiên. 3. Nghiên cứu điều tra. 4. Nghiên cứu trường hợp điển hình. a. Không thể tổng quát hóa để đưa ra kết luận về dân số. b. Hành vi của con người có thể đổi khác đi nếu họ biết rằng mình bị theo dõi. c. Các dữ kiện thiết yếu để có thể hoặc không sử dụng được. d. Người ta có thể dối trá để phô bày hình ảnh tốt đẹp của mình. 6/ Hệ số tương quan có trị số +2,0 (A correlation of +2.0) cho thấy các biến số liên hệ chặt chẽ với nhau. Đúng hay sai?... 7/ Giáo sư của bạn nói rằng: “Lo âu khi nói chuyện trước công chúng và thành tích của buổi biểu diễn có hệ số tương quan âm. Do đó, lo âu càng nhiều hẳn phải khiến cho thành tích càng kém đi.” Câu phát biểu này đúng hay sai, tại sao? 8/ Một nhà tâm lý muốn tìm hiểu ảnh hưởng của nhan sắc của một người đối với sự kiện nhận được sự tình nguyện giúp đỡ giải một bài toán. Nhan sắc sẽ là biến số..., còn số hành vi giúp đỡ là biến số... 9/ Nhóm đối tượng trong thí nghiệm không tiếp nhận thao tác thí nghiệm được gọi là nhóm... 10/ Tất cả các cuộc thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu lưu trữ, và nghiên cứu trường hợp điển hình đều có thể thiết lập được các mối liên hệ nhân quả giữa các biến số. Đúng hay sai?... Khi tiến hành một thí nghiệm, bạn quyết định chọn 20 đối tượng đầu tiên đưa vào nhóm thí nghiệm (experimental group) và chọn 20 đối tượng kế tiếp đưa vào nhóm kiểm soát (control group). Tại sao việc làm này có thể không phải là một ý kiến hay? (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) Đến đây nhà tâm lý đã có được một số công thức đơn giản để tuân thủ khi thực hiện cuộc nghiên cứu. Ông phải chọn lựa phương pháp tiến hành, các đại lượng đo lường và các phương tiện phân tích kết quả nghiên cứu. Nhưng sau khi đã đáp ứng các yêu cầu căn bản này rồi, nhà tâm lý cũng cần quan tâm đến một số vấn đề tối quan trọng. Trước tiên, chúng ta nhắm đến một trong các vấn đề quan trọng nhất: đó là vấn đề đạo đức. Nếu tự đặt mình vào địa vị một đối tượng trong cuộc thí nghiệm của Latané và Darley, bạn sẽ có cảm giác ra sao khi được biết nhân vật mà bạn tưởng rằng đang bị cơn động kinh thực ra là kẻ đồng mưu với nhà thí nghiệm? Tuy thoạt đầu bạn có thể thấy nhẹ nhõm rằng không có tình huống khẩn cấp thực sự, nhưng rồi có lẽ bạn cũng có đôi chút bực dọc vì bị nhà thí nghiệm đánh lừa. Và có lẽ bạn cũng lo ngại rằng bạn đã bị đặt vào một tình huống không bình thường, trong đó tùy theo cung cách cư xử mà bạn có thể phải gánh chịu tổn thương đến lòng tự trọng của mình. Hầu hết các nhà tâm lý đều cho rằng việc sử dụng thủ đoạn lừa bịp đôi khi cần thiết để tránh làm cho https://thuviensach.vn các đối tượng bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ rằng bản thân họ là mục đích chân chính của cuộc nghiên cứu. (Nếu biết rõ cuộc nghiên cứu của Latané và Darley thực sự liên quan đến hành vi giúp đỡ của bạn, phải chăng bạn sẽ không tự động để bị lôi cuốn xen tay vào tình huống khẩn cấp giả tạo ấy?). Để tránh những hậu quả như vậy, đôi khi các nhà nghiên cứu đành phải sử dụng thủ đoạn lừa bịp. Tuy nhiên, bởi vì các nghiên cứu rất có thể xâm phạm đến nhân quyền của các đối tượng cộng tác, nên người ta kỳ vọng các nhà tâm lý tôn trọng triệt để một số hướng dẫn chặt chẽ về mặt đạo đức nhằm mục đích bảo vệ các đối tượng ấy. (Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, 1990). Các hướng dẫn này nhằm bảo vệ đối tượng công tác tránh bị tổn thương về cơ thể và tinh thần, quyền giữ bí mật các hành vi của đối tượng, bảo đảm rằng việc tham dự thí nghiệm là hoàn toàn do tự nguyện, và đối tượng phải được thông báo cụ thể về bản chất của các thao tác trước khi họ bước vào cuộc thí nghiệm. Mặc dù hướng dẫn này cho phép sử dụng thủ đoạn đánh lừa, nhưng cuộc thí nghiệm phải được kiểm tra bởi một ban hội thảo độc lập trước khi sử dụng thủ đoạn ấy – và mọi cuộc nghiên cứu dùng con người làm đối tượng đều bị buộc phải như vậy. Một trong các nguyên tắc đạo đức then chốt mà các nhà tâm lý phải tuân thủ là phải được đối tượng thông báo ưng thuận tham dự thí nghiệm. Trước khi tham dự thí nghiệm, đối tượng phải ký một văn bản xác nhận rằng họ đã được thông báo cụ thể về nội dung căn bản của cuộc nghiên cứu, biết rõ họ sẽ làm gì trong cuộc nghiên cứu ấy, biết rõ thí nghiệm có thể xảy ra các rủi ro gì, rằng việc tham dự của họ là hoàn toàn tự nguyện và có thể chấm dứt bất cứ lúc nào họ muốn. Trường hợp duy nhất mà sự thông báo ưng thuận của đối tượng được miễn trừ là các cuộc thí nghiệm có mức rủi ro tối thiểu, như trong cuộc nghiên cứu dùng phương pháp quan sát thuần túy ở một góc phố hoặc một địa điểm công cộng nào đó. Không phải chỉ các nhà tâm lý dùng con người làm đối tượng nghiên cứu mới bị ràng buộc khắt khe về mặt đạo đức mà các nhà tâm lý sử dụng loài vật cũng có một loạt các hướng dẫn cụ thể để bảo đảm không gây đau đớn cho chúng. Đặc biệt, họ phải cố gắng giảm thiểu việc gây bất an, bệnh hoạn, và đau đớn cho con vật thí nghiệm. Đồng thời, các thao tác khiến cho con vật phải chịu đau đớn chỉ được sử dụng khi không còn biện pháp nào khác và khi mục tiêu nghiên cứu được minh chứng bởi giá trị kỳ vọng của nó. Ngoài ra, còn có một số luật lệ cấp liên bang quy định cách thức chăm sóc và bảo vệ chúng nữa. Các nhà nghiên cứu không những phải cố gắng tránh gây đau đớn cho thể xác loài vật mà còn bị buộc phải lo cải thiện đời sống tâm lý của một vài loài vật có trình độ phát triển cao khi dùng chúng làm vật thí nghiệm. Mặc dù đem lại nhiều lợi ích cụ thể, các cuộc nghiên cứu dùng loài vật làm đối tượng nghiên cứu vẫn gây ra nhiều tranh cãi đến mức có một số người kêu gọi cấm chỉ hoàn toàn các cuộc thí nghiệm ấy. Nhưng hầu hết các nhà tâm lý đều cho rằng các hướng dẫn hiện hành về mặt đạo đức đã khá nghiêm ngặt, đủ để bảo vệ con vật khi tiến hành các cuộc thí nghiệm có giá trị. Ngay cả những kế hoạch thí nghiệm được chuẩn bị hoàn hảo nhất cũng dễ bị ảnh hưởng các thiên lệch tâm lý phát sinh trong cuộc thí nghiệm (experimental bias) các yếu tố làm sai lạc chủ ý của nhà thí nghiệm về cách tác động của biến số độc lập đối với biến số tùy thuộc. Một thiên lệch thông thường nhất phải loại trừ là kỳ vọng của nhà thí nghiệm (experimenter expectations), theo đó nhà thí nghiệm vô tình truyền đạt ý muốn của mình về kết quả kỳ vọng cho các đối tượng thí nghiệm. Nguy cơ là các kỳ vọng này sẽ khiến cho đối tượng thường có các hành vi “phù hợp” – thứ hành vi đáng lẽ không nên để xảy ra. Thí dụ, nếu Latané và Darley đã có hành động ngầm khiến cho các đối tượng trong nhóm 2 người chứng kiến biết rằng họ mong muốn đối tượng có hành vi giúp đỡ nạn nhân, và tiết lộ rằng họ ít kỳ vọng các đối tượng thuộc nhóm 6 người chứng kiến ra tay giúp đỡ, thì thái độ này của nhà thí nghiệm – dù vô tình đến mức nào – có lẽ sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho kết quả thí nghiệm. Một vấn đề có liên quan khác là kỳ vọng của đối tượng (subject expectation) về hành vi mà họ cho là phù hợp, là nên có trong cuộc thí nghiệm. Nếu đã từng là đối tượng trong một thí nghiệm, khi ấy bạn nhanh chóng biết rằng người ta mong muốn bạn làm điều gì. Và thường thì đối tượng hay có quan điểm riêng tư về điều mà nhà thí nghiệm hy vọng xảy ra trong cuộc thí nghiệm. Nếu các kỳ vọng này ảnh hường https://thuviensach.vn đến hành vi của đối tượng thì đây quả là điều đáng lo ngại, bởi vì khi ấy thao tác thí nghiệm sẽ không còn gây hậu quả vô tư đối với biến số tuỳ thuộc nữa, mà chính kỳ vọng của đối tượng mới là tác nhân chân chính trong cuộc thí nghiệm. Để tránh các trở ngại gây ra do kỳ vọng của đối tượng làm sai lạc kết quả thí nghiệm, nhà thí nghiệm có thể cố gắng che đậy mục tiêu tích thực của cuộc thí nghiệm. Chẳng hạn, không biết rằng hành vi cứu giúp của họ đang được quan sát thì các đối tượng sẽ dễ dàng hành động “tự nhiên” hơn. Do đó, Latané và Darley đã quyết định đánh lừa các đối tượng bằng cách bảo họ rằng mục đích thí nghiệm là tổ chức thảo luận về các vấn đề riêng tư trong đời sống sinh viên. Làm như thế, họ hy vọng các đối tượng sẽ không thắc mắc gì về mục tiêu đích thực của cuộc thí nghiệm. Trong một số thí nghiệm người ta không thể che đậy được mục đích chân chính của cuộc nghiên cứu. Đối với các trường hợp đó lại có các thủ thuật khác. Thí dụ, bạn quan tâm thử nghiệm hiệu lực của một loại dược phẩm mới nhằm làm giảm các triệu chứng trầm uất. Nếu bạn chỉ đơn thuần cho phân nửa số đối tượng dùng thuốc và phân nửa kia không dùng thuốc, thì các đối tượng dùng thuốc có lẽ sẽ báo cáo cảm giác bớt sa sút tinh thần đơn giản chỉ vì họ nghĩ rằng họ đã dùng thuốc. Tương tự các đối tượng không dùng thuốc sẽ báo cáo cảm giác không khả quan gì hơn trước vì họ biết rằng họ thuộc nhóm không được chữa trị và chỉ nhằm mục đích kiểm soát kết quả thí nghiệm mà thôi. Muốn khắc phục khó khăn này, các nhà tâm lý thường dùng một biện pháp theo đó các đối tượng thuộc nhóm kiểm soát cũng được dùng thuốc, đôi khi dưới dạng loại thuốc vờ. Loại thuốc vờ (placebo) là loại thuốc không có tác dụng hóa học gì quan trọng hay không có thành phần trị liệu gì cả. Các đối tượng thuộc cả hai nhóm đều được xếp đứng trong bóng tối khi nhận các viên thuốc thật hay giả, mọi dị biệt về hiệu quả chỉ lệ thuộc vào tính chất thuốc chứ không do tác dụng tâm lý của việc dùng thuốc hay không dùng thuốc. Thế nhưng, vẫn còn một điều mà nhà nghiên cứu phải thận trọng thực hiện trong quá trình thí nghiệm. Điều ấy là, để khắc phục khả năng các kỳ vọng của nhà thí nghiệm có thể ảnh hưởng đến tâm lý của đối tượng, những người dùng thuốc không nên được cho biết rằng họ dùng thuốc thực hay thuốc giả. Nhờ biện pháp tránh cho cả hai bên đối tượng và nhà thí nghiệm ảnh hưởng lẫn nhau bằng cách khiến cho các đối tượng “mù đặc” về bản chất của loại thuốc họ đã dùng, các nhà nghiên cứu có thể đánh giá chính xác hơn về hiệu lực của loại thuốc thử nghiệm. Biện pháp này gọi là kỹ thuật tung hỏa mù (double–blind procedure). Nếu có dự tính mua ôtô, chắc hẳn bạn sẽ không đến đại lý bán xe ở gần nhà bạn nhất và bạn sẽ không lái ngay chiếc ôtô đầu tiên mà nhân viên bán hàng giới thiệu cho bạn. Thay vì thế, có lẽ bạn sẽ suy đi nghĩ lại về quyết định mua xe, đọc kỹ các tài liệu về ôtô, cân nhắc mọi giải pháp, hỏi ý kiến những người có kinh nghiệm sử dụng ôtô, và cuối cùng bạn hẳn phải ưu tư khá nhiều trước khi đi đến quyết định một hành động quan trọng như vậy. Thế mà, nhiều người trong chúng ta lại vô cùng bất cẩn khi có dịp phung phí các tài sản tinh thần. Người ta thường vội vàng đưa ra kết luận căn cứ vào các thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác, và hiếm khi dành thời giờ để thận trọng đánh giá các cuộc nghiên cứu cũng như các dữ kiện quan sát được. Bởi vì lãnh vực tâm lý học đặt nền tảng trên nội dung tích lũy được từ các cuộc nghiên cứu, nên điều tối quan trọng là phải cẩn thận cân nhắc toàn diện từ các phương pháp áp dụng, đến các kết quả gặt hái được, cũng như đến các luận cứ của nhà nghiên cứu. Dù vậy, không phải chỉ riêng các nhà tâm lý mới cần biết cách thận trọng đánh giá các cuộc nghiên cứu, mà tất cả chúng ta cũng phải luôn luôn cố gắng vạch trần các luận điểm của người khác nữa. Biết cách tìm hiểu cuộc nghiên cứu và các dữ kiện quan sát được cũng hữu ích trong các phạm vi vượt ngoài lãnh vực tâm lý. https://thuviensach.vn Có một số câu hỏi căn bản có thể giúp chúng ta gạn lọc được điều gì có giá trị và điều gì không. Sau đây là một vài câu hỏi quan trọng nhất cần phải nêu ra. * Cuộc nghiên cứu đặt trên nền tảng gì? Công trình nghiên cứu phải xuất phát từ một lý thuyết hoàn toàn cụ thể. Ngoài ra, giả thuyết được kiểm chứng cũng phải được quan tâm đến. Nếu không biết giả thuyết nào đang được chứng nghiệm, chúng ta sẽ không thể nào phán đoán được cuộc nghiên cứu sẽ thành công đến mức nào. Chúng ta cần phải có đủ khả năng tìm hiểu xem bằng cách nào giả thuyết đã được rút ra từ một lý thuyết căn bản, và sau đó chúng ta cũng cần phải xem xét kế hoạch đã vạch ra trong cuộc nghiên cứu để kiểm chứng giả thuyết ấy hoàn hảo đến mức nào. * Cuộc nghiên cứu đã được tổ chức hoàn hảo ra sao? Hãy xem xét các đối tượng thí nghiệm để biết họ là ai và gồm có bao nhiêu người; người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu nào, và các khó khăn nào về vấn đề thu thập dữ kiện mà nhà nghiên cứu phải đối đầu. Chẳng hạn, có những khác biệt quan trọng giữa một nghiên cứu trường hợp điển hình nhằm báo cáo về các điểm phụ của một số người với một cuộc đều tra thu thập dữ kiện từ vài ngàn người. * Việc trình bày thành quả nghiên cứu căn cứ vào các giả định nào? Cần phải đánh giá xem các phát biểu thành quả nghiên cứu phản ảnh dữ kiện thực tế cũng như cơ sở logic của các phát biểu ấy hoàn hảo đến mức nào. Chẳng hạn, khi nhà sản xuất mặt hàng thuốc aspirin nhãn hiệu X khoa trương rằng: “Không có loại aspirin nào khác có hiệu lực giảm đau sánh bằng nhãn hiệu X.”, thì câu nói này không có nghĩa là loại aspirin nhãn hiệu nào khác có hiệu lực tốt hơn – hoặc phát biểu theo cách khác rằng nhãn hiệu X không tốt hơn gì so với bất kỳ loại aspirin nào khác. Phát biểu theo lối sau thì khám phá dường như không đáng để khoa trương. Các nguyên tắc căn bản này có thể giúp bạn đánh giá được giá trị của cuộc nghiên cứu mà bạn tình cờ gặp phải – kể cả bên trong hoặc bên ngoài lãnh vực tâm lý. Thực tế, bạn càng am tường cách đánh giá cuộc nghiên cứu nói chung chừng nào thì bạn sẽ càng có khả năng đánh giá thành quả mà lãnh vực tâm lý sẽ cống hiến chừng ấy. Các vấn đề đạo đức quan trọng mà nhà tâm lý phải đối mặt là thủ đoạn đánh lừa và vấn đề sử dụng loài vật làm đối tượng thí nghiệm. Các trở ngại đối với cuộc thí nghiệm bao gồm kỳ vọng của nhà nghiên cứu và kỳ vọng của đối tượng thí nghiệm. Các nhà tâm lý sử dụng các công thức toán học để xác định xem liệu cuộc nghiên cứu có ý nghĩa về một thống kê khoa học không. 1/ Cuộc nghiên cứu hợp đạo đức khởi sự tiến hành khi đối tượng thông báo tình nguyện tham dự thí nghiệm. Trước khi ký tên vào văn kiện tình nguyện tham dự, các đối tượng phải được thông báo: a. Tổng quát về thủ tục nghiên cứu. b. Các rủi ro có thể xảy ra. c. Họ có quyền tùy ý rút lui bất cứ lúc nào. d. Tất cả các điều nêu trên. 2/ Mỗi nhà tâm lý đều phải định đoạt các hướng dẫn đạo đức cho riêng mình trong cuộc thí nghiệm. Đúng hay Sai?... https://thuviensach.vn 3/ Thủ đoạn đánh lừa là một biện pháp mà các nhà thí nghiệm có thể sử dụng để thử thách và loại trừ kỳ vọng của đối tượng. Đúng hay sai?... 4/... xảy ra khi nhà thí nghiệm vô tình tiết lộ cho đối tượng các gợi ý về cách ứng xử trong cuộc thí nghiệm. 5/ Một kỹ thuật theo đó nhà thí nghiệm không biết rõ liệu các đối tượng có nhận được trị liệu thực sự hay không được gọi là kỹ thuật... 6/ Trong kỹ thuật miêu tả ở câu 5, đôi khi người ta sử dụng loại thuốc viên không có tính chất hóa học gì đáng kể cho nhóm kiểm soát. Loại thuốc này thường được gọi là gì?... Một nhà tâm lý bảo bạn rằng bởi vì kết quả nghiên cứu của ông có ý nghĩa về một thống kê, nên ông có thể khẳng định các kết quả ấy tuyệt đối chính xác. Ông ta đúng hay sai, tại sao? (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 1: Phần 7 Mặc dù định nghĩa của TLH – nghiên cứu khoa học về tác phong cư xử và các tiến trình tâm trí – sáng tỏ và dứt khoát, nhưng định nghĩa ấy cũng dễ khiến người ta hiểu nhầm, bởi vì thuật ngữ “hành vi ứng xử” (behavior) không chỉ gồm các hành vi của con người mà còn bao quát cả những ý nghĩ (thoughts), cảm xúc (feelings), nhận thức (perceptions), lý luận (reasoning), ký ức (memory), cũng như các hoạt động sinh lý (biological activities) của con người nữa. Môn TLH có một số chuyên ngành chính. Các nhà tâm sinh lý chú trọng đến nền tảng sinh học của hành vi ứng xử, còn các nhà tâm lý thực nghiệm nghiên cứu các tiến trình cảm giác, nhận thức, học hỏi, và tư duy về thế giới chung quanh. Ngành tâm lý về hoạt động trí tuệ, thoát thai từ ngành tâm lý thực nghiệm, nghiên cứu các tiến trình cao cấp bao gồm tư duy, ngôn ngữ, ký ức, giải quyết vấn đề, tìm hiểu, lý luận, phán đoán, và đề ra quyết định. Các chuyên ngành tâm lý nghiên cứu về các tình trạng chuyển biến và các điểm dị biệt cá nhân là ngành tâm lý phát triển và ngành tâm lý cá tính. Các nhà tâm lý phát triển tìm hiểu cách thức trưởng thành và chuyển biến của con người qua suốt cuộc sống của họ. Còn các nhà tâm lý cá tính khảo xét về tính thống nhất cũng như tình trạng chuyển biến trong hành vi ứng xử của một cá nhân khi cá nhân đó trải qua các tình huống khác nhau; họ cũng khảo sát các dị biệt cá nhân giúp phân biệt hành vi của người này với hành vi của kẻ khác, khi hai người cùng lâm vào một tình huống tương tự. Các nhà tâm lý y tế, điều dưỡng, và tư vấn chủ yếu quan tâm đến việc nâng cao sức khỏe thể xác và tinh thần của con người. Các nhà tâm lý y tế nghiên cứu các yếu tố tâm lý tác động gây ra các chứng bệnh về thể xác, còn các nhà tâm lý điều dưỡng thì tìm hiểu phép chẩn đoán và cách chữa trị hành vi ứng xử bất bình thường (abnormal behavior). Các nhà tâm lý tư vấn chú trọng đến các vấn đề giáo dục, xã hội, và chọn nghề nghiệp. Các nhà tâm lý giáo dục điều tra tìm hiểu xem tiến trình giáo dục ảnh hưởng ra sao đến học sinh và sinh viên nói chung, còn các nhà tâm lý học đường chuyên đánh giá và giúp đỡ các học sinh trung – tiểu – học khi các em gặp khó khăn về học tập hoặc tình cảm. Ngành tâm lý xã hội nghiên cứu các trường hợp trong đó tư tưởng, cảm xúc, và hành động của con người bị ảnh hưởng ra sao bởi người khác. Các nhà tâm lý tổ chức – công nghiệp chú trọng đến cách ứng dụng các khám phá về tâm lý vào bối cảnh lao động, còn các nhà tâm lý khách hàng thì khảo cứu thói quen mua sắm của con người. Ngành tâm lý giao lưu văn hóa khảo xét các điểm tương đồng và dị biệt khi vận dụng các khám phá về tâm lý ở các nền văn hóa khác biệt nhau. Các nhà tâm lý được tuyển dụng vào rất nhiều bối cảnh làm việc khác nhau. Mặc dù bối cảnh làm việc chủ yếu là các viện đại học và các trường cao đẳng, người ta thấy nhiều nhà tâm lý làm việc ở các bệnh viện, dưỡng đường (clinic), các trung tâm y tế tâm thần của cộng đồng, và các trung tâm tư vấn. Cũng có nhiều người hành nghề thầy thuốc độc lập. Nền tảng của TLH được xây dựng bởi Wilhelm Wundt ở Đức vào năm 1879. Các mô hình nhận thức hướng dẫn công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý hồi ban đầu là lý thuyết kết cấu, lý thuyết chức năng, và lý thuyết Gestalt. Lý thuyết kết cấu (structuralism) chú trọng nhận diện các yếu tố căn bản thuộc tâm trí đại khái bằng phương pháp nội quan (introspection). Lý thuyết chức năng (functionalism) chú trọng đến các chức năng của hoạt động tâm tư. Còn tâm lý học Gestalt chú trọng xem nhận thức được tổ chức thành https://thuviensach.vn các đơn vị có ý nghĩa bằng cách nào. Các nhà tâm lý hiện đại căn cứ chủ yếu vào năm mô hình nhận thức: mô hình sinh học, động cơ tâm lý, hoạt động trí tuệ, hành vi, và nhân bản. Mô hình sinh học (biogical model) chú trọng đến các chức năng sinh học ở con người và loài vật, tinh giản hành vi ứng xử xuống đến các thành phần căn bản nhất. Mô hình động cơ tâm lý (psychodynamic model) lại theo khảo hướng khác hẳn; nó chủ trương có các lực lượng nội tâm vô thức (unconscious inner forces) mà con người biết rất ít hoặc hoàn toàn không biết đến, các lực lượng này chủ yếu quyết định hành vi của con người. Mô hình hoạt động tâm trí (cognitive model) khảo xét cách thức con người nhận biết, tìm hiểu, và tư duy về thế giới chung quanh. Thoát thai từ công trình nghiên cứu dựa vào phép nội quan trước đây và các công trình nghiên cứu sau này của các nhà tâm lý theo thuyết kết cấu và thuyết Gestalt, các mô hình hoạt động tâm trí nghiên cứu cách thức con người tìm hiểu và biểu thị thế giới để thông đạt với nhau. Mô hình hành vi (Behavioral model) ít nhấn mạnh đến các tiến trình bên trong con người mà ngược lại chú trọng đến tác phong biểu kiến (quan sát được). Các mô hình nhận thức này chủ trương nếu tìm hiểu và kiểm soát được hoàn cảnh sống của con người thì hoàn toàn giải thích và cải biến được hành vi ứng xử của con người. Mô hình nhân bản (humanistic model) là các mô hình nhận thức quan trọng và mới mẻ nhất. Các mô hình này nhấn mạnh rằng con người có khuynh hướng tự nhiên phát triển tâm lý để thỏa mãn các ước vọng cao cả và con người sẽ nỗ lực vươn đến mức toàn bích. Phương pháp khoa học là khảo hướng được nhà tâm lý sử dụng để tìm hiểu thế giới chung quanh. Nó gồm ba bước: xác lập câu hỏi thích hợp; hình thành cách giải thích, và tiến hành cuộc nghiên cứu nhằm minh chứng cách giải thích ấy. Cuộc nghiên cứu trong lãnh vực tâm lý được hướng dẫn bởi các lý thuyết (các giải thích và dự đoán khái quát về hiện tượng nghiên cứu) và các giả thuyết (các suy luận rút ra từ lý thuyết, chúng là các dự đoán được phát biểu dưới hình thức sao cho có thể kiểm chứng được). Phương pháp nghiên cứu tài liệu lưu trữ (archival research) sử dụng các tài liệu sẵn có như báo cũ và các hồ sơ khác để chứng thực giả thuyết. Theo phương pháp quan sát tự nhiên (naturalistic observation), nhà nghiên cứu hành động chủ yếu với tư cách là nhà quan sát, không thực hiện cải biến gì cả đối với tình huống xảy ra trong tự nhiên. Theo phương pháp nghiên cứu điều tra (survey research), con người được yêu cầu trả lời một loạt câu hỏi về hành vi, tư tưởng, hoặc thái độ của mình. Nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) nhằm phỏng vấn và khảo xét sâu rộng về một cá nhân. Các phương pháp này đều dựa vào kỹ thuật tương quan (correlational technique) để miêu tả các mối liên hệ giữa nhiều yếu tố khác nhau, nhưng không thể xác định được mối liên hệ nhân quả (cause–and–effect relationships). Trong một thí nghiệm khoa học đúng nghĩa, mối tương quan giữa các yếu tố được xem xét bằng cách cố tình gây ra sự biến đổi – gọi là thao tác thí nghiệm – ở một yếu tố rồi quan sát biến động ở yếu tố kia. Các yếu tố biến động được gọi là biến số (variables) – gồm các hành vi, biến cố, hoặc con người có thể thay đổi hay biến động theo cách thức nào đó. Muốn kiểm chứng một giả thuyết, người ta phải toán tử hóa giả thuyết ấy: tức là các khái niệm trừu tượng của giả thuyết được chuyển đổi thành các biểu thức cụ thể được sử dụng trong cuộc nghiên cứu. Trong một thí nghiệm, người ta phải so sánh ít nhất hai nhóm với nhau mới đánh giá được mối liên hệ nhân quả. Nhóm tiếp nhận thao tác (một thủ thuật đặc biệt do nhà thí nghiệm hoạch định) gọi là nhóm thí nghiệm (treatment group), còn nhóm thứ hai (không tiếp nhận thao tác) là nhóm kiểm soát (control group). Cũng có thể có nhiều nhóm thí nghiệm, mỗi nhóm tiếp nhận một thao tác khác nhau, và sau đó có thể được https://thuviensach.vn so sánh với các nhóm khác. Biến số bị thao tác gọi là biến số độc lập (independent variable), còn biến số được quan sát và kỳ vọng biến động như là hậu quả do thao tác ở biến số độc lập gây ra được gọi là biến số tùy thuộc (dependent vadable). Trong một thí nghiệm khoa học đúng nghĩa, các đối tượng phải được tuyển chọn ngẫu nhiên để tiếp nhận các điều kiện thí nghiệm sao cho các đặc điểm của các đối tượng được phân bố đồng đều qua các nhóm thí nghiệm khác nhau. Mặc dù việc sử dụng sinh viên đại học làm đối tượng thí nghiệm có ưu điểm là dễ dàng tuyển dụng, nhưng ngược lại cũng có các nhược điểm. Chẳng hạn, giới sinh viên không nhất thiết biểu trưng được mọi đặc điểm của dân số tổng quát. Việc sử dụng loài vật làm đối tượng thí nghiệm cũng tốn kém công sức tổng quát hóa khám phá gặt hái được, dù lợi ích của việc sử dụng loài vật trong nghiên cứu có giá trị lớn lao. Một trong các nguyên tắc đạo đức chủ yếu mà các nhà tâm lý phải tuân thủ là đối tượng thông báo ưng thuận tham dự thí nghiệm. Trước khi tham dự, các đối tượng phải được thông báo về nội dung căn bản của cuộc thí nghiệm, về các rủi ro cũng như lợi ích có thể có của việc tham dự. Các nhà nghiên cứu dùng loài vật làm đối tượng thí nghiệm cũng phải tuân thủ một loạt hướng dẫn chặt chẽ nhằm bảo vệ chúng. Các thí nghiệm tâm lý có nguy cơ bị sai lạc bởi một số thiên kiến (bias). Thiên kiến của nhà thí nghiệm phát sinh khi nhà thí nghiệm vô tình truyền đạt cho các đối tượng các gợi ý về kỳ vọng của mình đối với cách ứng xử của họ trong tình huống thí nghiệm nhất định. Còn kỳ vọng hay thiên kiến của đối tượng cũng có thể làm sai lạc kết quả thí nghiệm. Muốn loại trừ các thiên kiến này, các nhà nghiên cứu sử dụng loại thuốc vờ (placebo) và kỹ thuật tung hỏa mù (double–blind procedure). 1/ Cấu trúc hóa. 2/ Nội quán. 3/ Thuyết chức năng. 4/ Gestalt 5/ Động cơ tâm lý. 6/ d. 7/ Thuộc về sinh học. 8/ Thuộc về nhân văn. 9/ Sai; mỗi phân ngành tâm lý học đều có thể cho chúng ta cả năm mẫu hình tâm lý. 10/ Đúng. 1/ Lý thuyết kết cấu. 2/ phương pháp nội quan. 3/ Lý thuyết chức năng. 4/ Lý thuyết Gestalt. 5/ Động cơ tâm lý. https://thuviensach.vn 6/ d. 7/ Mô hình sinh học. 8/ Mô hình nhân bản. 9/ Sai; hầu như mọi chuyên ngành tâm lý đều có thể và thường sử dụng cả năm mô hình nhận thức tâm lý chủ yếu. 10/ Đúng. 1/ Lý thuyết. 2/ Giả thuyết. 3/ Toán tử hóa. 4/ 1–b; 2–c; 3–a; 4–d. 5/ 1–c; 2–b;3–d;4–a. 6/ Sai; hệ số tương quan cao nhất là +1. Hệ số tương quan +2 có nghĩa là bạn cần phải làm thêm một phép tính nữa. 7/ Sai – tương quan không hàm ý có liên hệ nhân quả. Đơn giản vì khi 2 biến số tương quan với nhau không có nghĩa là biến số này là nguyên nhân của biến số kia. Có thể thành tích biểu diễn tồi khiến cho người ta càng lo âu hơn nữa, hoặc giả có một yếu tố thứ ba là nguyên nhân của cả hai hậu quả này. 8/ Độc lập; tùy thuộc. 9/ Kiểm soát. 10/ Sai – chỉ các thí nghiệm đúng nghĩa mới làm được điều này. 1/ d. 2/ Sai; có một loạt hướng dẫn nghiêm ngặt áp dụng phổ biến, do Hiệp Hội Tâm lý Hoa Kỳ xây dựng, mà tất cả các nhà tâm lý đều phải tuân thủ. 3/ Đúng. 4/ Thiên lệch do nhà thí nghiệm. 5/ Tung hỏa mù. 6/ Loại thuốc vờ. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 2: Phần 1 1. Cấu trúc của nơron 2. Kích hoạt nơron 3. Tóm tắt và học ôn I Các loại chất dẫn truyền thần kinh 1. Cấu trúc mạng thần kinh 2. Hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên 3. Kích hoạt hệ thần kinh tự động 4. Tóm tắt và học ôn II 1. Nghiên cứu cấu trúc và chức năng của não bộ 2. Tủy Trung tâm: “Não nguyên thủy” của chúng ta 3. Hệ Limbíc: phần mở rộng của Tủy Trung tâm Phải chăng não bộ của nam giới khác với nữ giới? 4. Tóm tắt và học ôn III 5. Vỏ não: leo tiếp lên bậc thang tiến hóa 6. Sự biệt hóa của các bán cầu não: hai não bộ hoặc một não bộ 7. Não bộ bị phẫu thuật tách đôi: thăm dò hai bán cầu não Giá trị thương mại của não bộ 8. Các module não: xét lại cấu trúc não bộ 9. Tóm tắt và học ôn IV Thành quả của các nghiên cứu thuộc tâm lý học: Học cách kiểm soát hoạt động của tim và não nhờ vào hiệu ứng phản hồi sinh học. Hãy thư giãn. Hãy ngồi lặng thinh trong vài khoảnh khắc, thật yên lặng. Hãy tưởng như mình đang thoải mái ngồi trên một chiếc ghế tiện nghi, và đang thả hồn trong giấc mộng thư giãn. Bỗng dưng, hoàn toàn không có gì báo trước, toàn thân bạn run rẩy từng cơn. Người bạn như cứng đơ, chân tay giẫy giụa, lưỡi le dài ra khỏi miệng. Thân thể bạn như được điều khiển bởi một thần trí khác, độc lập với thần trí thường có của bạn. Bạn vật vã, rồi ngã lăn xuống sàn nhà. Bạn không thể thốt nên lời nào hoặc kêu cứu, nhưng cũng không sao, bởi bì bạn có còn tỉnh nữa đâu https://thuviensach.vn mà cần. Kịp đến khi nhận thức được trở lại cảnh vật chung quanh, bạn thấy mình đang nằm dưới đất, người bầm tím, lưỡi chảy máu vì bị răng cắn đứt. Các hiện tượng vừa được mô tả ở phần trên đã có thể là một phần đời sống thường ngày của một số người. Thí dụ như trường hợp của Andrea Fyie. Cô bé chưa đầy 1 tuổi khi lần đầu tiên được đem tới trung tâm y khoa thuộc Viện đại học Los Angeles. Tuy còn nhỏ bé như vậy, cô bé đã có một năm đầu tiên trong đời không mấy dễ dàng bởi vì mỗi ngày toàn thân cô bé chịu đựng 30 đến 40 cơn động kinh. Do không rõ nguyên nhân nào gây ra các cơn co giật ấy, các bác sĩ của Andrea đã phải nghĩ đến việc sử dụng các kỹ thuật chẩn đoán cận lâm sàng tinh vi hơn phương pháp khám lâm sàng. Cuối cùng, họ đã chọn được một kỹ thuật mới: kỹ thuật chụp phim positron cắt lớp (PET). Kỹ thuật quét phân hình (scan) não tiên tiến này cung cấp các hình ảnh về cơ chế hoạt động nội tại nhất của não bộ. Kỹ thuật PET scan được bắt đầu bằng cách tiêm hóa chất phóng xạ vào mạch máu để máu chuyển hóa chất này lên não. Sử dụng những hình ảnh được hiển thị trên màn hình máy vi tính, máy quét PET căn cứ vào các điểm nhấp nháy do phóng xạ phát ra để chụp nhanh các phương cách vận hành ở những phần sâu kín nhất của não đang xảy ra vào thời điểm não được scan. Trong trường hợp của Andrea, PET cung cấp cho các bác sĩ những dữ liệu cần thiết để xác định nguyên nhân gây ra các cơn động kinh. Kỹ thuật PET đã cho thấy các tế bào ở một vùng thật nhỏ trong não của Andrea bị rối loạn chức năng sử dụng glucose, một hóa chất cần thiết cho hoạt động bình thường của não. Các bác sĩ của Andrea đã lập luận rằng phẫu thuật cắt bỏ phần não bị rối loạn ấy sẽ có thể cắt được các cơn động kinh. Ca phẫu thuật này đã phải trải qua một diễn tiến khá hiểm hóc. Cũng giống như một ca phẫu thuật não khác, chỉ cần một đường mổ sai lầm nhỏ bằng sợi tóc cũng có thể gây sang thương vĩnh viễn không thể hồi phục được. Nhưng Andrea đã rất may mắn: các bác sĩ phẫu thuật đã cắt bỏ được phần não bệnh có kích thước cực kỳ nhỏ ấy mà không hề gây tai biến nào cho em. Sau cuộc phẫu thuật, các cơn động kinh của Andrea đã chấm dứt. Và ngày nay, 4 năm sau cuộc giải phẫu, Andrea đang là một cô bé 5 tuổi với tiến trình phát triển hoàn toàn bình thường (Freudenheim, 1991). Thành công của ca phẫu thuật của Andrea Fyie đã được tiếp nối trong các ca phẫu thuật khác, và phẫu thuật cắt bỏ các phần thật nhỏ của não đã trở nên gần như là thường quy. Ngoài ra, còn có những ca phẫu thuật còn thần kỳ hơn nữa, trong đó những bộ phận não bị rối loạn chức năng đã được thay thế bởi các bộ phận khác trong cơ thể. Thí dụ, một số người bị bệnh Parkinson, một bệnh cũng gây ra những cơn động kinh, đã được phẫu thuật thành công để được cấy ghép vào mô não, mô tuyến thượng thận nằm ngay trên thận. Sau phẫu thuật, các mô cấy ghép bắt đầu sản xuất các hóa chất có khả năng cắt đứt các cơn động kinh của bệnh Parkinson. Tuy các kết quả phẫu thuật khá kỳ diệu, nhưng điều kỳ diệu lớn hơn cả chính là đối tượng được giải phẫu, tức não con người. Như chúng ta sẽ thấy trong chương này, não bộ, một cơ quan có kích thước chỉ bằng nửa ổ bánh mì, đã kiểm soát hành vi của chúng ta cả lúc thức cũng như trong giấc ngủ. Não và nhánh của nó xuyên suốt cơ thể đã hình thành hệ thần kinh của con người. Mọi vận động, tư duy, hy vọng, hoài bão, mơ tưởng, nói tóm lại mọi yếu tố giúp chúng ta nhận thức chúng ta là con người đều liên hệ mật thiết với hệ thần kinh. Vì hệ thần kinh đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ huy hành vi và con người cơ bản là một thực thể sinh học, nên các nhà tâm lý học và các nhà nghiên cứu trong các lãnh vực khác như điện toán, động vật học, và y học, tức các chuyên gia được gọi chung là các nhà thần kinh học (neuroscientists), đều đặc biệt quan tâm đến các yếu tố nền tảng sinh học của hành vi. Các nhà tâm lý học chuyên nghiên cứu các phương thức qua đó các cấu trúc sinh học và các chức năng của cơ thể ảnh hưởng lên hành vi được gọi là các nhà tâm lý sinh học (biopsychologists). Các chuyên https://thuviensach.vn gia này đi tìm các lời giải cho các vấn đề như: Các nền tảng cho các hoạt động tự ý và không tự ý của cơ thể là gì? Bằng cách nào các tín hiệu được truyền đạt từ bộ phận này sang bộ phận khác của cơ thể? Cấu trúc của não bộ là gì, và cấu trúc này ảnh hưởng ra sao lên hành vi? Dựa trên các yếu tố sinh học có thể tìm ra các nguyên nhân gây rối loạn tâm lý, và những rồi loạn này cần được điều trị như thế nào? Chương này đề cập đến các vấn đề ấy, tập trung vào việc xem xét các cấu trúc sinh học của cơ thể đã được các nhà tâm lý sinh học quan tâm. Đầu tiên, chúng ta sẽ bàn luận về các tế bào thần kinh, được gọi là nơron (neuron). Các tế bào này cho phép tín hiệu di chuyển từ một bộ phận này của cơ thể sang bộ phận khác. Sau đó chúng ta sẽ biết được sở dĩ các nhà tâm lý học hiểu sâu rộng hơn về hành vi con người và có được thành công trong khi cố gắng điều trị một số thể loại rối loạn hành vi là do nhờ vào kiến thức về nơron và hệ thần kinh đã càng ngày càng được mở rộng. Tiếp theo, các cấu trúc và bộ phận chính của hệ thần kinh sẽ được trình bày kèm với giải thích chúng đã kiểm soát được các hành vi có chủ ý và không chủ ý dựa vào những phương thức nào. Trong tiến trình khảo sát, chúng ta cũng xem xét các phương thức qua đó các phần khác nhau của hệ thần kinh phối hợp hoạt động trong các tình trạng nguy cấp để tạo ra các phản ứng sinh tồn chống lại các tác nhân gây nguy hiểm cho tính mạng. Kế đến, chúng ta sẽ nghiên cứu chính não bộ, xem xét các cấu trúc chủ yếu của não cùng các phương thức qua đó các cấu trúc này tác động lên hành vi. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cơ chế qua đó não điều khiển các vận động, năm giác quan, và các tiến trình tư duy. Và chúng ta sẽ khảo sát khái niệm cuốn hút sự quan tâm của chúng ta khi cho rằng hai bán cầu não có thể có các đặc điểm và năng lực khác hẳn nhau. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét hệ thống thông tin bằng hóa chất trung gian, còn gọi là hệ nội tiết (endocrinologic system). Trong khi bàn luận về những tiến trình sinh học này, điều quan trọng chúng ta cần nhớ là lý do tại sao chúng ta phải bàn luận về chúng: đó là bởi vì hiểu biết của chúng ta về hành vi con người không thể nào hoàn chỉnh được nếu chúng ta không có đầy đủ kiến thức về các nền tảng cơ bản của não bộ cũng như phần còn lại của hệ thần kinh. Hành vi của người – bao gồm tâm trạng, động cơ, mục tiêu, và ham muốn – liên hệ rất chặt chẽ với cấu trúc sinh học của chúng ta. Tóm lại, đọc xong chương này bạn đọc sẽ có đủ khả năng trả lời các câu hỏi sau: – Tại sao các nhà tâm lý học nghiên cứu não bộ và hệ thần kinh? – Các thành tố căn bản của hệ thần kinh là gì? – Hệ thần kinh truyền đạt các tín hiệu điện học và hóa học như thế nào từ cơ quan này đến cơ quan khác trong cơ thể. – Các bộ phận thuộc cấu trúc hệ thần kinh liên kết với nhau qua phương thức nào – Não bộ gồm các bộ phận chính nào, và mỗi bộ phận chịu trách nhiệm đối với các hành vị nào? – Hai bán cầu não hoạt động tương tác với nhau ra sao – Việc tìm hiểu hệ thần kinh có thể giúp được gì cho chúng ta trong việc tìm ra các phương thức điều trị bệnh và giảm đau? Nếu bạn đã từng quan sát độ chính xác trong động tác biểu diễn của một vận động viên hoặc một vũ công chuyên nghiệp, chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên trước tính phức tạp – và các khả năng tuyệt vời – của cơ thể con người. Không chỉ riêng các động tác biểu diễn chuyên nghiệp ấy, mà ngay cả các công việc rất thường ngày, như cầm một cây bút chì lên, viết và nói, cũng đòi hỏi một chuỗi phối hợp các hoạt động cực kỳ tinh tế. Thí dụ, sự khác biệt giữa việc phát âm từ “dime” (hào, cắc) và “time” (thời gian) chủ yếu do dây https://thuviensach.vn thanh âm được thả lỏng hoặc bị căng ra trong một khoảng thời gian kéo dài không quá 1/100 giây. Vậy mà, hầu hết mọi người đều dễ dàng làm được sự phân biệt cực kỳ tinh tế ấy để phát âm đúng một cách rất tự nhiên các âm “/d/” và “/t/” đó. Hệ thần kinh cung cấp các đường dẫn truyền cho phép chúng ta thực hiện các động tác chính xác ấy. Để hiểu được phương thức qua đó hệ thần kinh có thể kiểm soát một cách chính xác như vậy cơ thể của chúng ta, chúng ta phải bắt đầu bằng việc nghiên cứu các nơron, thành tố cơ bản nhất của hệ thần kinh, và khảo sát cơ chế qua đó các xung động thần kinh được dẫn truyền khắp cơ thể con người. Nhìn ở một mức độ nào đó, khả năng chơi đàn piano, lái xe hơi, hay đánh trúng trái banh quần vợt, dường như đơn giản dựa vào sự phối hợp các vận động của cơ. Nhưng khi xem xét phương thức kích hoạt các cơ tham gia vào các vận động ấy, chúng ta sẽ thấy có sự tham gia của các tiến trình căn bản hơn. Cơ thể cần phải chuyển tín hiệu đến cơ, rồi phối hợp tín hiệu để giúp cơ có thể thực hiện các động tác phức tạp, giúp cơ thể vận động thành công. Các tín hiệu này được dẫn truyền qua các tế bào biệt hóa được gọi là nơron (neuron), thành tố cơ bản của hệ thần kinh. Số lượng các nơron nhiều đến mức gây sững sờ: ước tính chỉ riêng não bộ đã có từ 100 đến 200 tỉ nơron. Tuy có nhiều thể loại nơron nhưng mỗi thể loại đều có cấu trúc cơ bản tương tự nhau, như được minh họa bởi Hình: 2–1 (Levitan & Kaczmarek, 1991). Như mọi thể loại tế bào trong cơ thể, nơron có một thân tế bào chứa một nhân. Nhân tế bào mang chất di truyền ấn định chức năng của tế bào. Các thành phần căn bản của loại tế bào thần kinh chuyên biệt gọi là nơron, yếu tố căn bản của hệ thần kinh Tuy nhiên, nơron là thể loại tế bào duy nhất có khả năng trao đổi thông tin với các tế bào khác. Như các bạn thấy ở Hình: 2–1, nơron có một bó sợi gọi là đuôi gai (dendrite) mọc ra nơi các mỏm nhô ở một đầu thân nơron. Chính các sợi này, có dạng giống như các nhánh cây đan bện vào nhau, tiếp nhận các tín hiệu được dẫn truyền từ các nơron khác đến, ở đầu còn lại của thân nơron có một nhánh thon dài hình ống gọi là sợi trục (axon). Sợi trục dẫn truyền tín hiệu đi ra để đến các nơron hoặc tế bào khác. Sợi trục dài hơn rất nhiều so với phần còn lại của nơron; hầu hết các sợi trục đều dài từ 1 đến 2 inch (1 inch # 2,5 cm); một số nơron có thể có sợi trục dài đến 3 feet (1 foot # 30 cm). Trái với sợi trục, phần còn lại của nơron ngắn hơn rất nhiều (Hình: 2–2: Hình vẽ một nơron được phóng đại để minh họa các kích thước tương ứng với các bộ phận khác nhau của nơron). Sợi trục kết thúc bằng cách phân thành nhánh nhỏ, đuôi các nhánh nhỏ này hơi phình ra và được gọi là nút thần kinh (terminal button) qua đó các tín hiệu được dẫn truyền sang các nơron hoặc tế bào khác. Hình vẽ của một nơron đã được phóng đại 250 lần, cho thấy các phần khác nhau được vẽ theo tỷ lệ giữa các sợi trục với phần còn lại của nơron. Sợi trục, dài hơn rất nhiều so với phần còn lại của nơron, đã bị gấp lại cho đủ chỗ vẽ. Các tín hiệu được dẫn truyền qua các nơron có bản chất thuần túy là dòng điện. Nói chung, các tín hiệu được dẫn truyền qua nơron giống như dòng điện một chiều: đường đi bắt đầu nơi đuôi gai, tiếp tục vào đến thân tế bào, và cuối cùng đi xuống sợi trục hình ống. Như vậy đuôi gai nhận tín hiệu, và sợi trục chuyền tín hiệu. Để tránh cho các tín hiệu không bị chập mạch lẫn nhau (short–circuiting), các sợi trục cần được cô lập (giống như các sợi dây điện bằng đồng được bọc kín bởi vỏ bọc). Hầu hết các sợi trục được cô lập bởi một màng bao bảo vệ gọi là bao myelin (myelin sheath), bao này được tạo thành bởi vô số tế bào biệt hóa có thành phần cấu trúc là phospholipid và protein. https://thuviensach.vn Bao myelin cũng góp phần gia tăng tốc độ dẫn truyền xung điện của các nơron. Các nơron dẫn truyền các thông tin quan trọng và khẩn cấp nhất đều có cấu trúc tập trung bao myelin nhiều nhất. Thí dụ, nếu tay ta vô tình sờ trúng một ngọn lửa, thì tín hiệu cho cảm giác đau đớn do sức nóng được dẫn truyền qua các nơron có nhiều bao myelin ở bàn tay và cánh tay làm gia tăng vận tốc truyền tín hiệu cảm giác đau đớn lên não bộ, sau đó não sẽ nhanh chóng hình thành cung phản xạ khiến ta vội rụt tay lại để tránh ngọn lửa. Trong một số bệnh như bệnh đa xơ cứng (multiple sclerosis), bao myelin bọc quanh sợi trục bị thoái hóa để lộ một vài đoạn của sợi trục. Hậu quả là chập mạch sẽ gây nhiễu loạn các tín hiệu được truyền đi giữa não và các cơ, dẫn đến các triệu chứng như mất khả năng đi đứng, rối loạn thị giác, và suy nhược toàn bộ các cơ. Mặc dù xung điện dẫn truyền qua nơron thường theo một chiều: đuôi gai – thân tê bào – sợi trục, nhưng một số chất đi theo chiều ngược lại. Thí dụ như các chất dinh dưỡng thiết yếu cho nhân tế bào di chuyển về thân tế bào theo hướng ngược lại: sợi trục – thân tế bào – đuôi gai. Một vài loại bệnh như bệnh teo cơ do xơ cứng bó bên (amyotrophic lateral sclerosis – ALS) – còn được biết đến với Bệnh Lou Gehrig, lấy theo tên của bệnh nhân nổi tiếng nhất của bệnh này–có thể do nơron mất khả năng vận chuyển các chất dinh dưỡng theo hướng ngược chiều này. Khi tình trạng này xảy ra, thì cuối cùng nơron sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng. Tương tự như vậy độc tố của vi–rút bệnh dại (rabies) được dẫn truyền trong hệ thần kinh theo hướng ngược chiều, tức khởi đầu từ các nút thần kinh, rồi dọc ngược theo các sợi trực, và cuối cùng đến thân tế bào nơron. Việc dẫn truyền các chất qua đuôi gai cũng có thể theo nhiều chiều khác nhau. Thí dụ như, thay vì liên tục dẫn truyền thông tin từ các nơron khác đến thân tế bào, thì một đuôi gai thỉnh thoảng để “rò rỉ” thông tin ấy, tức là thay vì dẫn truyền thông tin ấy vào thân tế bào của chính nó thì nó lại gửi thông tin ấy đến các nơron khác Hiện nay, một số nhà khoa học cho rằng chính những “rò rỉ” thông tin ấy là nguyên chân gây chứng động kinh (epilepsy), một tình trạng bệnh lý khiến người bệnh lên những cơn động kinh (seizure) và co giật (convulsion) định kỳ. Khi các đợt phóng thích xung điện bị “rò rỉ” từ các đuôi gai, việc dẫn truyền không chủ ý các thông tin sẽ không còn kiểm soát được nữa, làm nảy sinh các “cơn bão điện” trong não bộ được biểu hiện ra ngoài qua các cơn động kinh. Giống như một khẩu súng, nơron ở tư thế hoặc hoạt động hoặc nghỉ; và không có trạng thái lưng chừng. Dù có kéo mạnh cò súng hơn nữa thì cũng không làm cho viên đạn bay nhanh hơn hoặc chính xác hơn. Tương tự, nơron tuân thủ quy luật “có tất cả – hoặc – không có gì” (all–or–none law). Có nghĩa là nơron chỉ ở 2 tình trạng: hoạt động hoặc nghỉ. Một khi được kích hoạt vượt quá một ngưỡng nào đó, nơron sẽ khởi động. Khi nơron không hoạt động–trạng thái nghỉ (resting state)– thì nơron có điện tích âm khoảng –70 millivolt (một millivolt bằng 1/phần ngàn volt). Điện tích âm này có được do số lượng các ion mang điện tích âm ở bên trong nơron nhiều hơn các ion mang điện tích âm ở bên ngoài nơron. Bạn có thể hình dung nơron giống như một trong các điện cực của bình ắc quy ôtô thu nhỏ, bên trong nơron là điện cực âm và bên ngoài nơron là điện cực dương. Tuy nhiên, khi một tín hiệu dưới dạng xung điện được dẫn truyền đến nơron thì màng tế bào của nơron sẽ để các ion mang điện tích dương đột ngột tràn vào bên trong nơron. Các ion nơron điện tích dương này khiến cho phần bên trong của nơron tạm chuyển từ điện tích âm sang điện tích dương. Khi sự thay đổi điện tích này đạt đến ngưỡng kích hoạt thì một xung động điện, được gọi là điện thế động (action potential), sẽ được dẫn truyền xuyên suốt nơron (Hình: 2–3). Các thay đổi về điện tích trong nơron trong suốt thời kỳ điện thế động được dẫn truyền. Ở trạng thái nghỉ bình thường, nơron có điện tích âm vào khoảng –70 millivolt. Nhưng khi điện thế động được khởi động thì điện tích của tế bào chuyển thành dương, rồi tăng dần lên đến khoảng +40 millivolt. Tiếp theo sau giai đoạn điện thế động được dẫn truyền xuyên suốt nơron thì điện tích trong nơron trở nên âm hơn cả lúc nơron ở trạng thái nghỉ. Chỉ khi nào điện tích trong nơron trở về mức điện thế nghỉ thì nơron mới có khả https://thuviensach.vn năng đáp ứng với một kích thích mới để khởi động trở lại, tức để có thể tạo điện thế động. Điện thế động di chuyển từ đầu này đến đầu kia bên trong nơron tương tự như ngọn lửa di chuyển trong ngòi nổ về phía chất nổ được gài sẵn. Khi xung điện di chuyển đến đầu còn lại của nơron, thì sự di chuyển của các ion gây ra một loạt biến đổi điện tích từ âm sang dương dọc theo đường xung động điện di chuyển trong nơron (xem hình: 2–4). Sau khi xung điện đi qua, các ion dương bị bơm từ bên trong ra bên ngoài nơron, và điện tích trong nơron âm trở lại. Sự dẫn truyền của điện thế động xuyên suốt một nơron được trình bày trong một loạt gồm 3 hình vẽ này. Ngay trước thời điểm 1, các ion mang diện tích dương qua màng tế bào khiến cho điện thế ở phần này của tế bào tăng từ âm lên dương. Khi ấy điện thế động được khởi động, rồi dẫn truyền qua thân nơron như được minh họa bằng những thay đổi xảy ra từ thời điểm 1 đến thời điểm 3 (hình trên xuống hình dưới). Tiếp theo sau thời kỳ điện thế động được dẫn truyền, các ion dương bị bơm ra ngoài nơron, điện tích trong nơron trở về mức điện thế âm. Sự biến đổi điện thế minh họa ở hình trên cùng (thời điểm 1) được trình bày chi tiết hơn ở Hình 2–3. Ngay sau khi điện thế động đi qua, nơron không thể khởi động lại ngay; lúc này nơron đang ở trong thời kỳ trơ tuyệt đối (absolute refractory period). Trong suốt thời kỳ trơ tuyệt đối này, nơron không còn đủ năng lực khởi động lại dù có bị kích thích mạnh đến mức nào đi nữa. Giống như khẩu súng phải được cẩn thận nạp đạn lại sau mỗi phát súng được bắn đi. Tiếp theo sau thời kỳ trơ tuyệt đối là thời kỳ trơ tương đối (relative rerfactory period). Vào lúc này nơron có thể đáp ứng với kích thích để khởi động nhưng một cách khó khăn hơn bình thường. Dù trong giai đoạn này xung điện có thể di chuyển qua nơron được. nhưng nơron đòi hỏi phải được kích thích mạnh hơn mới khởi động được: Mức độ kích thích này phải có cường độ mạnh hơn so với trường hợp kích thích một nơron đã có đủ thời gian để phục hồi trạng thái nghỉ (resting state) bình thường. Các bước diễn biến phức tạp này xảy ra với vận tốc cực kỳ nhanh. Tuy nhiên các vận tốc rất khác biệt nhau và tùy theo thể loại nơron. Vận tốc điện thế động dẫn truyền qua sợi trục được ấn định bởi kích thước của sợi trục và độ dày của bao myelin. Ở các nơron có đường kính hẹp, xung điện di chuyển theo vận tốc 2 dặm/giờ; còn ở các nơron có đường kính rộng hơn và bao myelin dày hơn thì vận tốc dẫn truyền có thể lên đến mức lớn hơn 225 dặm/ giờ. Ngoài sự khác biệt về vận tóc dẫn truyền xung điện, các nơron còn khác nhau về tần số khởi động. Một số nơron có khả năng khởi động với tần số tối đa lên tới 1000 lần/giây. Trái lại, các nơron khác có tần số khởi động tối đa thấp hơn nhiều. Cường độ của kích thích tác động vào nơron sẽ ấn định tần số khởi động này: một kích thích có cường độ mạnh như một tia sáng lóe mắt hoặc một âm thanh chói tai sẽ tạo một tần số khởi động cao hơn tần số do một kích thích có cường độ yếu hơn tạo ra. Như vậy, trong một nơron tuy cường độ và tốc độ dẫn truyền xung động điện không thay đổi (quy luật có tất cả hoặc không có gì khiến nơron chỉ có hai trạng thái: hoạt động hoặc nghỉ, nhưng tần số khởi động việc dẫn truyền xung điện có thể thay đổi tùy thuộc vào cường độ của kích thích. Chính sự thay đổi về tần số khởi động này đã tạo ra một cơ chế qua đó chúng ta có khả năng phân biệt cảm giác nhột nhạt do một cọng lông chạm vào ta với cảm giác bị đè bởi một sức nặng hơn của một ai đó đang dẫm lên chân ta. Cấu trúc, cơ chế hoạt động, và chức năng của nơron đã minh họa cho chúng ta thấy các khía cạnh sinh học nền tảng, và qua đó ta thấy cơ thể là yếu tố tiềm ẩn trong một số tiến trình tâm lý cơ bản. Vì thế, tầm hiểu biết về phương thức chúng ta cảm nhận, nhận thức, và học hỏi về thế giới chung quanh sẽ rất bị hạn chế nếu chúng ta không có các thông tin về nơron do các nhà tâm lý sinh học đã phát hiện và chuyển giao cho chúng ta https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 2: Phần 2 – Nơron là một thành tố cơ bản của hệ thần kinh; chúng cho phép truyền đạt các tín hiệu nhằm điều phối những hoạt động phức tạp của cơ thể con người. Tất cả các loại nơron đều có cấu trúc căn bản giống nhau: chúng tiếp nhận tín hiệu thông qua các đuôi gai đến thân nơron và truyền tín hiện qua sợi trục đến các nơron khác. – Nơron khởi động theo quy luật tất cả – hoặc – không có gì; tức chúng hoặc khởi động hoặc nghỉ ngơi. 1... là thành tố cơ bản của hệ thần kinh. 2. Tín hiệu được truyền qua nơron theo hướng nào? a. Đuôi gai (dendrite) – sợi trục (a xon). b. Sợi trục – đuôi gai. c. Bao myelin – nhân tế bào (nudeus). d. Nút thần kinh (terminal button) – não bộ (brain). 3. Giống như dây điện có lớp bọc bên ngoài, sợi trục cũng được bao bằng một màng bọc gọi là... 4. Xung điện thần kinh di chuyển qua nơron được gọi là... 5. Quy luật... phát biểu rằng nơron hoặc khởi động hoặc nghỉ ngơi. 6. Thời kỳ trơ... là khoảng thời gian mà nơron nhận một kích thích có cường độ mạnh hơn bình thường mới khởi động được, còn thời kỳ trơ – là khoảng thời gian nơron hoàn toàn mất khả năng khởi động. Có lợi điểm gì trong trường hợp muốn tuân thủ quy luật tất cả – hoặc – không có gì? (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) Bạn đã từng lắp ráp một máy truyền thanh (radio) đồ chơi cho trẻ em chưa? Nếu có, hẳn bạn còn nhớ rằng nhà sản xuất cung cấp cho bạn các mạch điện, và bạn đã phải vất vả lắp ráp chúng với nhau hoặc với các linh kiện khác; mỗi linh kiện phải được lắp ghép ăn khớp với linh kiện khác. Về phương diện lắp ráp mạch điện này, cơ thể con người tinh vi hơn rất nhiều so với máy radio hoặc bất kỳ loại máy nào do con người chế tạo ra. Việc lắp ráp mạch điện ở hệ thần kinh đã tiến hóa đến mức một vài nơi trong hệ thống dẫn truyền thần kinh đã không cần có sự hiện diện của bất kỳ một cấu trúc kết nối thể xác (mô) nào giữa các bộ phận của nơi ấy. Thay vào đó, một cầu nối hàng hóa chất trung gian đã được bắc qua khoảng cách giữa hai nơron, khoảng cách này được gọi là xy–náp (synapse) (Hình: 2–5). Khi một xung điện thần kinh được dẫn truyền đến đầu cuối của sợi trục và đến nút thần kinh, thì nút thần kinh ấy phóng thích một hóa chất được gọi là chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter). Chất dẫn truyền thần kinh chuyển các tín hiệu dưới dạng hóa chất chuyên biệt đi qua xy–náp, và đến đuôi gai (và đôi khi vào tận thân tế bào) muốn tiếp nhận. Tuy tín hiệu được dẫn truyền bên trong nơron dưới dạng xung điện, nhưng tín https://thuviensach.vn hiệu lại được dẫn truyền giữa các nơron do một hệ thống hóa chất dẫn truyền. (a) Khớp thần kinh là một mối nối giữa sợi trục và đuôi gai. Khoảng trống giữa sợi trục và đuôi gai được bắc cầu nhờ các chất hóa học trung gian được gọi là các chất dẫn truyền thần kinh; (b) Giống như các mảnh nhỏ trong trò chơi ghép hình chỉ có thể ráp ăn khớp vào 1 vị trí đặc biệt duy nhất, mỗi loại chất dẫn truyền thần kinh có cấu hình đặc hiệu cho phép nó ráp vào một loại tế bào thụ thể tương ứng với nó. Có nhiều loại chất dẫn truyền thần kinh. Tuy nhiên, các nơron tiếp nhận, còn gọi là tế bào thụ thể (receptor cell), không có khả năng tiếp nhận không chọn lọc tín hiệu dạng hóa học được dẫn truyền bởi các chất dẫn truyền thần kinh. Tượng tự như trường hợp một mảnh hình ghép chỉ có thể lắp ráp khớp vào một vị trí duy nhất nào đó trong trò chơi lắp hình, mỗi loại chất dẫn truyền thần kinh có một thành phần hóa học chuyên biệt và chỉ tương thích với một loại thụ thể tương ứng (xem Hình 2–5b). Sự truyền đạt tín hiệu dạng hóa học này chỉ thực hiện được khi một chất dẫn truyền thần kinh lắp ráp khớp vào thụ thể tương ứng. Nếu một chất dẫn truyền thần kinh thật sự lắp ráp khớp với một nơron tiếp nhận tương ứng, tín hiệu hóa học do chất dẫn truyền thần kinh chuyển đến sẽ có một trong hai thể loại căn bản là: Kích thích hoặc ức chế. Tín hiệu kích thích (excitatory message) thường sẽ khiến nơron tiếp nhận khởi động và theo sau đó một điện thế động sẽ được chuyển xuống sợi trục. Ngược lại, tín hiệu ức chế (inhibitory message) cung cấp thông tin dạng hóa học để ngăn cản hoặc giảm khả năng khởi động của nơron tiếp nhận Bởi vì các đuôi gai của một nơron cùng một lúc tiếp nhận nhiều thông tin, trong đó có một số thông tin là tín hiệu kích thích và một số khác là tín hiệu ức chế, nên nơron phải hợp nhất các thông tin ấy theo một phương thức tiến trình. Đó là tiến tình kết toán (summation process): nếu tổng số tín hiệu kích thích nhiều hơn tổng số tín hiệu ức chế thì sẽ phát sinh một điện thế động. Ngược lại, nếu tổng số tín hiệu ức chế chiếm ưu thế thì nơron tiếp tục ở trạng thái nghỉ (xem Hình 2–6). Bởi vì các đuôi gai của một nơron cùng một lúc tiếp nhận các tín hiệu kích thích (thúc đẩy nó khởi động) và các tín hiệu ức chế (buộc nó ngưng khởi động), nên nơron phải hợp nhất các tín hiệu ấy qua một tiến trình kết toán. Trong trường hợp này số lượng tín hiệu kích thích nhiều hơn số lượng các tín hiệu ức chế, nên nơron này sẽ khởi động Nếu các chất dẫn truyền thần kinh tiếp tục được lưu trữ ở xy–náp (khớp thần kinh), chúng sẽ liên tục kích thích tế bào thụ thể, và việc dẫn truyền có hiệu quả các tín hiệu sẽ không thể thực hiện được nữa. Thay vào đó, các chất dẫn truyền thần kinh hoặc sẽ bị các men làm mất hoạt tính (deactivated), hoặc sẽ bị tái hấp thu (reabsorbed) bởi nút tận cùng thần kinh theo một tiến trình tiết kiệm hóa chất, còn được gọi là hiện tượng tái thu hồi (reuptake), hiện tượng này thường xảy ra hơn. Một số loại ma túy, thí dụ như cocaine, ức chế tiến trình tái thu hồi một số loại chất dẫn truyền thần kinh, nhờ đó các chất ma túy này sẽ kéo dài được tác dụng của chúng dẫn đến cảm giác say thuốc mà dân chơi gọi là “phê” (high). Chất dẫn truyền thần kinh là một cầu nối đặc biệt quan trọng giữa hệ thần kinh (nervous system) và hành vi (behaviour). Chất dẫn truyền thần kinh không những quan trọng cho việc duy trì các chức năng sinh tồn của cơ thể, mà việc thiếu hoặc thừa bất kỳ một chất dẫn truyền thần kinh nào cũng đều có thể gây ra rối loạn chức năng não bộ và hành vi. Cho đến nay, người ta đã tìm ra khoảng 50 loại hóa chất có tác động dẫn truyền thần kinh, và nhiều nhà tâm lý sinh học tin tưởng trong tương lai sẽ nhận diện thêm hàng tá loại khác nữa (Shepherd, 1990). Ngoài ra, khác với các chất dẫn truyền hiện có ở dạng chất lỏng, các chứng cứ sơ bộ gần đây cho thấy có ít nhất một chất dẫn truyền thần kinh có thể được sản xuất dưới dạng chất khí mang tên nước oxide. Các chất dẫn truyền thần kinh khác nhau tạo ra hiệu ứng kích thích hoặc ức chế các nơron tiếp nhận https://thuviensach.vn với vận tốc và nồng độ khác nhau. Ngoài ra, một chất dẫn truyền thần kinh có thể có nhiều tác dụng khác nhau tùy thuộc vào phân vùng hệ thần kinh sản xuất ra chất dẫn truyền thần kinh ấy. Do đó, một chất dẫn truyền thần kinh có thể kích thích nơron khởi động khi nó được tiết ra ở nơi này của não bộ, nhưng nó lại có thể ức chế nơron khởi động khi nó được tiết ra ở một nơi khác của não bộ (xem Bảng 2–1). Acetylcholin (Ach) Não bộ, tủy sống, hệ thần kinh ngoại bên, đặc biệt một số cơ quan thuộc hệ thần kinh đối giao cảm Truyền tín hiệu kích thích ở các khớp thần kinh của cơ (muscle synopsis). Truyền tín hiệu ức chế ở tim Thiếu: gây tê liệt (paralysis) (thí dụ do độc tố curare và botulism); bệnh Alzeimer. Thừa: gây co cứng cơ (rigidity) (thí dụ do độc tố của loại nhện mang tên Góa phụ áo đen) Dopamine (DA) Não bộ Truyền tín hiệu ức chế Thiếu: gây co cứng cơ và run rẩy (tremors) không kiểm soát được (bệnh Parkinson) Enkephalins Endorphins Não bộ, tủy sống Chủ yếu truyền tín hiệu ức chế; ngoại trừ ở cấu tạo dưới đồi (hippocampus) Chưa xác định được Gamma–amino– butyric acid (GABA) Não bộ, tủy sống Chất dẫn truyền tín hiệu ức chế chủ yếu Thiếu: Gây các cơn co giật (convulsions), suy sụp tâm thần (mental deteriosration) Nor–epinephrine (NE) Não bộ, một số cơ quan thuộc thần kinh giao cảm Truyền tín hiệu kích thích và ức chế Thiếu: gây trầm cảm (depression) Serotonin Não bộ Truyền tín hiệu kích thích và ức chế https://thuviensach.vn Thiếu: gây trầm cảm Một trong các chất dẫn truyền thần kinh thường gặp nhất là acetylcholine (ký hiệu hóa học là ACh), và có khả năng gây co cơ. Độc tố của loài nhện mang tên Góa phụ áo đen (black widow) khiến chất Ach được liên tục tiết ra làm các cơ không ngừng co thắt, hậu quả là nạn nhân chết vì ngạt thở do co cơ hô hấp. Chất ACh cũng liên quan đến thuốc độc curare mà dân da đỏ ở Nam Mỹ bôi vào đầu các ngọn giáo đi săn thú. Curare ngăn không cho chất ACh đến các tế bào thụ thể, dẫn đến tê liệt các cơ khung xương (skeletal muscle) và cuối cùng là nạn nhân tử vong vì ngạt thở do liệt cơ hô hấp. Về mặt tích cực, việc nghiên cứu chất ACh giúp hiểu rõ hơn những tình trạng bệnh lý như bệnh nhược cơ (myasthenia gravis) khiến người bệnh mất dần việc kiểm soát hoạt động của các cơ. Đặc biệt, nhiều phương pháp điều trị đã được đề ra, trong đó các thuốc được cho để ngăn cơ thể phân hủy chất ACh, kết quả là cơ thể có trở lại chất Ach để phục hồi việc dẫn truyền các xung động thần kinh qua các xy–náp, và từ đó dẫn đến việc phục hồi kiểm soát hoạt động của các cơ. Một số nhà tâm lý học hiện nay cho rằng bệnh Alzheimer, một rối loạn gây thoái hóa tiến triển và cuối cùng dẫn đến mất trí nhớ (loss of memory), lơ mơ (confusion), và thay đổi cá tính (personality), gắn liền với việc cơ thể sản xuất chất ACh. Các chứng cứ ngày càng cho thấy chất ACh liên hệ chặt chẽ đến khả năng ghi nhớ, và hiện nay một số công trình nghiên cứu cho thấy bệnh nhân bị Alzheimer có tình trạng giảm sản xuất chất ACh ở một số vùng trong não của họ. Nếu các công trình nghiên cứu này được kiểm chứng là chính xác, chúng có thể dẫn đến các liệu pháp giúp phục hồi sản xuất ACh. Gamma–amino butyric acid (GABA) là một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng khác chất GABA, được tìm thấy ở não bộ và tủy sống, dường như là chất dẫn truyền tín hiệu ức chế nguyên thủy của hệ thần kinh. Nó điều tiết một số hành vi khác nhau, từ ăn đến gây hấn. Độc tố gây tử vong, Strychnine, gây co giật bằng cách cắt đứt dẫn truyền GABA qua các xy–náp. Strychnine ngăn không cho GABA có tác động ức chế, dẫn tới việc nơron được tự do khởi động, do đó gây ra cơn co giật. Trái lại, một vài chất thông thường, thí dụ thuốc an thần Valium và rượu, lại có hiệu quả cắt đứt co giật vì chúng giúp GABA hoạt động hiệu quả hơn. Một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng khác là dopamine (DA) có tác động ức chế một số thể loại nơron và kích thích một số thể loại khác, thí dụ như nơron ở tim. Việc phát hiện một số thuốc có tác dụng rõ rệt đối với việc phóng thích DA đã dẫn đến việc đề ra các biện pháp chữa trị hữu hiệu rất nhiều chứng bệnh về thể xác và tâm thần. Thí dụ như bệnh Parkinson, được đặc trưng bởi nhiều mức độ co cứng cơ và run rẩy và có lẽ do thiếu DA trong não bộ. Các thuốc kích thích não sản xuất chất DA đã được tìm ra, và ở nhiều bệnh nhân các thuốc này cho thấy có hiệu quả rất cao trong việc giảm bớt các triệu chứng bệnh Parkinson. Ở bệnh nhân bị Parkinson nặng, việc sản xuất ra DA được kích thích bởi việc cấy ghép một số bộ phận cơ thể vào não bộ. Các nhà nghiên cứu cũng đã nêu giả thuyết cho rằng chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) và một số rối loạn tâm thần khác bị ảnh hưởng bởi hoặc ngay cả có lẽ bị gây ra bởi tình trạng sản sinh dư thừa DA. Các loại thuốc chẹn việc tiếp nhận DA đã thành công trong việc giảm bớt các hành vi bất thường được thấy ở một số người có chẩn đoán là mắc bệnh tâm thần phân liệt, như chúng ta sẽ xem xét sâu hơn khi nghiên cứu về hành vi bất thường (abnormal behavior) và biện pháp điều trị chứng này ở các chương 12 và 13. Trong một số trường hợp, việc sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh có thể bị ảnh hưởng bởi thói quen, các sinh hoạt thường nhật. Ta thử xem xét trường hợp sau đây: Trừ những lúc chạy jogging, thời gian còn lại David Bartlett là một người trầm lặng, không có tính khoa trương. Hầu hết mọi người quen biết anh ta đều cho rằng anh là mẫu người sống nội tâm. Nhưng mỗi khi chạy bộ xong, người ta thấy con người anh dường như thay đổi. Cứ chạy xong được khoảng đường dài cỡ 5 hoặc 6 dặm mà anh ta tự lên kế hoạch, David lại trở nên phấn khích, vui vẻ – thậm chí đôi khi còn https://thuviensach.vn cảm thấy hưng phấn – và nói huyên thuyên. Bất cứ ai gặp David sau buổi chạy cũng đều nhận thấy sự thay đổi này. Trên thực tế, một số bạn David đã nói đùa về hiện tượng này khi bảo rằng anh ta có hành vi giống như “phê” một thứ gì đó trong khi anh ta đang chạy. Điều gì đã xảy ra cho David Bartlett khi anh đang chạy logging? Lời giải thích hợp lý nhất liên quan đến một chất dẫn truyền thần kinh đặc hiệu gọi là endorphin. Các endorphin là những hóa chất do cơ thể sản xuất, chúng tương tác với một nơron biệt hóa được gọi là thụ thể nhận các chất thuộc họ thuốc phiện (opiate receptor). Thụ thể các chất thuộc họ thuốc phiện tác động làm giảm đau, và trên thực tế nhiều loại thuốc giảm đau, thí dụ như morphine, được sử dụng nhằm kích hoạt các thụ thể này. Endorphin là một loại morphine “tự nhiên” do cơ thể sản xuất để giảm đau. Thí dụ như nhiều người bị các chứng bệnh gây đau đớn kéo dài và trầm trọng thường có nồng độ endorphin tăng cao trong não bộ của họ, điều này gợi ý rằng cơ thể họ đang cố gắng tự giảm đau. Endorphin giống như morphine và các chất khác cũng thuộc họ thuốc phiện còn tác động khác ngoài tác động giảm đau. Các chất này có thể tạo cảm giác hưng phấn mà David Bartlett đã có được sau một lần chạy jogging. Có lẽ khối lượng bài tập thể dục và nhất là các cơ bị nhức mỏi sau buổi chạy jogging đã kích thích cơ thể Bartlett sản xuất endorphin – dẫn tới tình trạng được gọi là “cơn phê của người chạy bộ” (runner's high). Sự phóng thích endorphin cũng có thể giải thích các hiện tượng khác bao lâu nay đã khiến các nhà tâm lý học thắc mắc, thí dụ như các lý do khiến thủ thuật châm cứu (acupuncture) và các giả dược (placebos)– tức các viên không thật sự chứa dược phẩm nhưng được cho bệnh nhân để khiến họ tưởng là mình đã khỏe hơn nhờ dùng các viên ấy – đôi khi có hiệu quả giảm đau. Một số nhà tâm lý sinh học phỏng đoán rằng thủ thuật châm cứu cũng như các placebos gây ra hiện tượng phóng thích endorphin. Rồi các endorphin lại gây ra trạng thái thể xác hưng phấn. Công trình nghiên cứu về endorphin và các chất dẫn truyền thần kinh khác cũng có thể giúp cho các nhà tâm lý sinh học tìm ra được các loại thuốc giảm đau mới có hiệu quả hơn. Thí dụ như các nhà nghiên cứu chất dẫn truyền thần kinh đã có khả năng nhận diện ra tế bào thần kinh đóng vai trò thụ thể đối với thành phần hoạt tính có trong cần sa (marijuana). Khám phá này có thể lót đường cho việc bào chế các thuốc có các tác động có lợi của cần sa như giảm đau, trị suyễn, và buồn nôn – mà không gây bất kỳ triệu chứng thứ phát nào của ngộ độc cần sa. Một khi đã biết được bản chất phức tạp của nơron và các tiến trình dẫn truyền thần kinh, thì không còn gì phải ngạc nhiên về việc các cấu trúc do nơron hình thành cũng sẽ phức tạp như các nơron. Tuy nhiên, hệ thần kinh của loài người hội đủ cả tính hợp lý lẫn tinh tế. Các nơron nối liền với nhau thông qua các mạng thần kinh (neural networks), tức là các nhóm cầu nối thông tin có tổ chức. Mối liên kết giữa các nơron cho phép luồng thông tin di chuyển qua các khoảng cách trải dài khắp cơ thể. Ngoài ra các mạng thần kinh còn làm một việc khác nữa: chúng giúp hệ thần kinh cải tiến (modify), thanh lọc (filter), và phân tích (sift) thông tin trong khi thông tin được chuyển đến và đi khỏi não bộ. Công trình nghiên cứu các mạng thần kinh này đã dẫn đến một ngành công nghệ khoa học mới mang tên “Thần kinh điện toán” (Computational neuroscience) bao quát ngành Tâm lý sinh học (biopsychology) và ngành Tâm lý nhận thức (cognitive psychology). Các nhà nghiên cứu thuộc khoa thần kinh điện toán, với mục tiêu nhận diện các mô hình mạng lưới thần kinh để từ đó mô phỏng chúng trên điện toán, đã thấy phần lớn các mạng rơi vào một trong những dạng mạch đơn giản được trình bày ở Hình 2–7. Các dạng chủ yếu của mạng lưới thần kinh liên kết các nhóm nơron với nhau. Mỗi chữ cái biểu thị một loại nơron. https://thuviensach.vn Ở các mạch trực tuyến (linear circuit), nơron thứ nhất chuyển tín hiệu đến nơron thứ hai, nơron thứ hai chuyển tín hiệu đến nơron thứ ba, và cứ thế các nơron chuyển tín hiệu cho nhau như các mắt xích tiếp nối nhau trong một sợi dây chuyền. Lợi điểm của các mạch trực tuyến là chúng cho phép việc dẫn truyền các xung điện thần kinh trên những đoạn đường tương đối dài trong hệ thần kinh. Nhưng cũng giống như sợi dây chuyền, mạch trực tuyến có độ bền chắc chỉ bằng chỗ nối yếu nhất của nó, có nghĩa là một chấn thương hoặc một bệnh xảy ra ở bất kỳ một nơi nào trên mạng cũng có thể đặt toàn bộ hệ thống mạng vào tình trạng có nguy cơ bị hủy hoại. Ở một mức độ phức tạp hơn, các nơron kết nối với nhau theo các hệ thống cấp bậc trên dưới. Các mạch đa nguồn/ hội tụ (multiple source/ convergent circuit) chuyển thông tin từ nhiều nơron đến một nơron duy nhất. Thông tin được chuyển đến nơron tiếp nhận duy nhất này có thể căn bản là kích thích, ức chế, hoặc phối hợp cả hai loại. Như chúng ta đã biết ở phần trên, nơron tiếp nhận sẽ khởi động (và hậu quả là chuyển thông tin đến một nơron khác) hay không khởi động tùy thuộc vào tỷ lệ chiếm ưu thế của loại tín hiệu kích thích hay ức chế mà nó nhận được. Thể loại mạch phân cấp thứ bậc khác là mạch độc nguồn/ phân kỳ (single source/ divergent circuit). Mạch này gồm các mạng lưới trong đó một nơron nguồn duy nhất chuyển tín hiệu đến một số rất lớn nơron tiếp nhận. Bởi vì các mạch này thường cùng một lúc ảnh hưởng đến nhiều loại nơron khác nhau, nên chúng hoạt động tương tự như một nhạc trưởng. Cũng giống như một nhạc trưởng, nơron nguồn chỉ huy việc phối hợp (coordination) và tiếp hợp (integration) các tín hiệu truyền đi xuyên suốt các sợi thần kinh. Những thể loại căn bản này của mạng thần kinh đã hình thành một con số đáng kinh ngạc của các kết nối thần kinh. Bởi vì chỉ cần có một nơron đã có thể tạo kết nối với 80.000 nơron khác, nên tổng số các kết nối có thể có lớn đến mức gây kinh ngạc. Một số các ước tính về số lượng các kết nối thần kinh trong não bộ đã cho con số lên tới khoảng một quadrillon–tức con số 1 được tiếp nối bởi 15 số 0 (1015), một số chuyên gia khác còn cho là số lượng các kết nối có thể còn cao hơn nữa. Biểu đồ các mối liên hệ giữa các bộ phận của hệ thần kinh Hệ thần kinh trung ương bao gồm não bộ và tuỷ sống Thật khó mà hiểu được có thể có con số lớn đến vậy. Thực ra, khả năng vẽ chính xác một bản đồ mạng lưới thần kinh của não bộ hiện nay còn ở giai đoạn tương đối sơ bộ, tuy nhiên bản đồ này đang nhanh chóng được hoàn thiện. Như các bạn thấy ở Hình 2–8, hệ thần kinh (nervous system) gồm hai phần chính: hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thần kinh trung ương (central nervous system–CNS) bao gồm não bộ vã tủy sống. Tủy sống (spinal cord) là một bó sợi thần kinh, lớn khoảng bằng cây viết chì, xuất phát từ não bộ và chạy dọc xuống hết chiều dài của lưng (xem Hình 2–9). Nó là phương tiện chủ yếu để chuyển các tín hiệu giữa não bộ và cơ thể. Một số hành vi đơn giản được tổ chức hoàn toàn trong tủy sống. Một thí dụ thường thấy là phản xạ đầu gối – tức đầu gối nảy lên khi bị gõ bởi búa cao su tìm phản xạ. Các hành vi này được gọi là phản xạ (reflexes), và biểu thị các đáp ứng không chủ ý (ngoại ý), tức không do não chỉ huy, đối với một kích thích, nói cách khác phản xạ được coi như là kích thích được “phản ánh” (reflected) ra bên ngoài cơ thể. Một thí dụ khác của phản xạ là tay rụt lại ngay khi chạm phải bếp nóng. Mặc dù trong thời gian sau đó não bộ sẽ phân tích cảm giác đau, những cử động rụt tay về ngay lúc ban đầu được điều khiển đơn thuần bởi các nơron của tủy sống. Có 3 thể loại nơron liên quan đến việc hình thành cung phản xạ: nơron cảm giác/ nơron đến (sensory/ afferent neuron) dẫn truyền thông tin từ ngoại vi cơ thể đến hệ thần kinh trung ương; nơron vận động/ nơron đi (motor/ efferent neuron) dẫn truyền thông tin từ hệ thần kinh đến các cơ và các tuyến trong cơ thể, và nơron trung gian (interneuron) kết nối nơron cảm giác với nơron vận động https://thuviensach.vn và dẫn truyền tín hiệu giữa hai thể loại nơron này. Tầm quan trọng của tủy sống và phản xạ được minh họa bởi hậu quả của các tai nạn làm tổn thương hoặc đứt tủy sóng. Một trong các hậu quả đó, chứng liệt hai chi dưới (paraplegia), khiến người bệnh không thể tự ý vận động bất kỳ cơ nào ở nửa dưới của cơ thể. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp tủy sống bị đứt, vùng không bị tổn thương của tủy sống vẫn còn khả năng tạo ra một số phản xạ đơn giản. Thí dụ, nếu đầu gối của người bị liệt hai chi dưới được gõ nhẹ, cẳng chân của người ấy sẽ nẩy nhẹ ra phía trước. Tương tự, trong một số trường hợp chấn thương tủy sống người bệnh vốn có thể cử động chân như một đáp ứng không tự ý (ngoại ý) với một kích thích như châm kim (pinprick) cho dù người bệnh đã mất cảm giác đau. Tủy sống cũng liên quan đến các chức năng sinh học cơ bản khác. Thí dụ như khi bộ phận sinh dục một người bệnh nam liệt hai chi dưới bị kích thích, thì người bệnh vẫn có thể cương dương và xuất tinh. Tuy nhiên, vì tủy sống bị tổn thương nên người bị liệt hai chi dưới sẽ bị mất các cảm giác bình thường có trong sinh hoạt tình dục. Như tên gọi, hệ thần kinh ngoại biên (peripheral nervous system) phân nhánh ra từ tủy sống và não bộ, hệ này nối dài đến các nơi xa nhất trong cơ thể. Được cấu tạo bởi các sợi trục dài và đuôi gai, hệ thần kinh ngoại biên bao phủ tất cả các bộ phận của hệ thần kinh ngoại trừ não bộ và tủy sống. Có hai bộ phận chính: phân hệ thần kinh cơ thể (somatic division) và phân hệ thần kinh tự động (autonomic division), cả hai đều có nhiệm vụ kết nối hệ thần kinh trung ương với các giác quan, các cơ, các tuyến, và các cơ quan khác. Phân hệ thần kinh cơ thể chuyên điều khiển các vận động tự ý (voluntary movement) – thí dụ như chuyển động cặp mắt để đọc dòng chữ hoặc cử động bàn tay lật trang sách – và việc dẫn truyền thông tin đến và ra khỏi các giác quan. Trái lại, phân hệ thần kinh tự động liên quan đến các bộ phận sinh tồn của cơ thể – tim, mạch, các tuyến, phổi, và các cơ quan khác có hoạt động không tự ý (involuntary) không cần đến nhận thức của chúng ta. Thí dụ như trong lúc bạn đang đọc sách, phân hệ tự động thuộc hệ thần kinh ngoại biên kiểm soát tim bơm máu đi khắp cơ thể bạn, thúc đẩy hai buồng phổi bạn thở ra và hít vào, điều hành hệ tiêu hóa chuyển hóa các thực phẩm mà bạn đã ăn cách đây vài giờ, v.v... và hoàn toàn không cần bạn suy nghĩ hay quan tâm đến các việc vừa kể. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 2: Phần 3 Phân hệ thần kinh tự động đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các tình huống cấp cứu. Giả sử bạn đang đọc sách, đột nhiên bạn có cảm giác như có một người lạ đang theo dõi bạn qua cửa sổ. Khi bạn ngước nhìn, bạn thấy một vật gì đó giống như một con dao lóe lên. Tâm trí bạn tràn ngập hoang mang và nỗi hoảng loạn khiến bạn mất khả năng suy luận, lúc ấy điều gì xảy đến cho cơ thể bạn? Nếu bạn giống như đa số người trong cùng hoàn cảnh, bạn sẽ có ngay lập tức các phản ứng sinh lý như nhịp tim tăng lên, mồ hôi toát ra, và gai óc nổi khắp cơ thể. Các thay đổi sinh lý nói trên là hậu quả của việc kích hoạt một trong hai bộ phận hình thành phân hệ thần kinh tự động: Phân hệ thần kinh giao cảm (sympathetic division). Bộ phận này tác động nhằm chuẩn bị cho cơ thể đáp ứng các tình huống cấp cứu gây căng thắng (stressful emergency situation), huy động mọi tiềm năng của cơ thể để đáp ứng đối với một nguy cơ đe dọa mạng sống. Phản ứng này thường có dạng “chống trả hoặc bỏ chạy” (fight or flight). Trái lại, phân hệ thần kinh đối giao cảm (parasympathetic division) tác động nhằm xoa dịu cơ thể sau khi tình huống căng thẳng đã đi qua. Trở lại thí dụ trên, khi bạn biết rằng người lạ bên cửa sổ ấy thật ra chỉ là một người bạn cùng phòng bị mất chìa khóa và đang leo qua cửa sổ để tránh đánh thức bạn, thì phân hệ thần kinh đối giao cảm bắt đầu chiếm ưu thế dẫn đến hạ nhịp tim, ngưng đổ mồ hôi, và đưa cơ thể trở về trạng thái như trước khi cơn hoảng loạn xảy ra. Phân hệ thần kinh đối giao cảm cũng là một công cụ giúp cơ thể duy trì sự tích trữ các nguồn năng lượng như chất dinh dưỡng và oxygen. Hai phân hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm phối hợp với nhau để điều tiết nhiều chức năng của cơ thể (xem Hình 2–10). Thí dụ như tình trạng kích dục (sexual arousal) được kiểm soát bởi hệ đối giao cảm, còn tình trạng cực khoái (sexual orgasm) được kiểm soát bởi hệ giao cảm. – Vị trí đặc hiệu để dẫn truyền tín hiệu từ nơron này sang nơron khác được gọi là xy–náp (synapse). Các tín hiệu di chuyển qua các xy–náp có bản chất hóa học, mặc dù chúng di chuyển bên trong nơron dưới dạng xung điện. – Chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter) là các hóa chất chuyên biệt thực hiện việc liên kết hóa học tại xy–náp (khớp thần kinh); các chất này tác động nhằm kích thích các nơron khác khởi động hoặc ức chế chúng. – Nơron liên kết với nhau thông qua các mạng thần kinh, tức là các nhóm liên kết thông tin có tổ chức giữa các tế bào. – Hệ thần kinh trung ương (central nevous system–CNS) được hình thành bởi não bộ và tuỷ sống. Tủy sống (spinal com) là một bó dây gồm các sợi thần kinh, xuất ra từ não bộ chạy dọc xuống theo chiều dài của lưng. Nó là con đường chủ yếu để dẫn truyền tín hiệu giữa não bộ và phần còn lại của cơ thể. – Hệ thần kinh ngoại biên (peripheral nenvous system) bao gồm tất cả các bộ phận thuộc hệ thần kinh nói chung, không kể não bộ và tủy sống. Hệ thần kinh ngoại biên phần làm hai phân hệ chính: phân hệ soma (điều khiển các vận động chủ ý) và phân hệ tự động (điều khiển các vận động ngoại ý). – Bản thân phân hệ thần kinh tự động gồm hai bộ phận (thần kinh giao cảm và đối giao cảm) đóng vai trò chính trong các tình huống cấp cứu. 1. Kết nối hóa học giữa hai nơron xảy ra ở một khoảng trống gọi là: a) sợi trục (axon) https://thuviensach.vn b) nút tận cùng thần kinh (terminal button) c) xy–náp (khớp thần kinh) d) amino acid 2...là các phương tiện thông tin bằng hóa chất dân truyền giữa các nơron. 3. Cặp đôi chất dẫn truyền thần kinh với chức năng của nó. a. ACh b. GABA c. Endorphins 1. Giảm cảm giác đau 2. Điều tiết hành vi ăn và gây hấn 3. Gây co cơ khung xương (skeletal muscles) 4. Bệnh Parkinson đã được phát hiện có liện hệ đến tình trạng thiếu... trong não bộ. 5. Các nơron liên kết nhau theo cấu trúc giống như dây chuyền được cho là để hình thành một mạng lưới... 6. Mạch độc nguồn/ phân kỳ (single–source/ divergent circuit) bao gồm một nơron dẫn truyền thông tin cùng một lúc đến nhiều nơron khác. Đúng hay Sai?... 7. Nếu em chạm tay vào một mảnh kim loại nung đỏ, phản ứng tức thời rụt tay về là một thí dụ về hành vi... 8. Bộ phận thuộc hệ thần kinh đảm nhiệm các chức năng như hô hấp và tiêu hóa được gọi là phân hệ thần kinh... 9. Hệ thần kinh ngoại biên (peripheral nevous system) bao gồm các dây thần kinh định vị ở tứ chi và tuỷ sóng. Đúng hay Sai?... 10. Maria trong thấy một cậu bé chạy ra đường rồi bị ôtô đụng phải. Khi chạy đến đỡ cậu bé lên, cô rơi vào trạng thái hoảng loạn (panic). Mồ hôi cô toát ra và tim cô đập nhanh. Trạng thái sinh lý này của cô là hậu quả của việc kích hoạt bộ phận nào thuộc phân hệ thần kinh tự động? a. đối giao cảm (parasympathetic) b. cơ thể (somatic) c. ngoại biên (peripheral) d. giao cảm (sympathetic) Sự truyền đạt thông tin giữa các nơron diễn ra như thế nào trong trường hợp con người hành động chủ ý? (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) https://thuviensach.vn Quan sát trực tiếp bạn sẽ thấy nó không đẹp mắt cho lắm. Dạng mềm xốp, lốm đốm hồng nhạt pha lẫn màu xám của nó khiến người ta khó có thể nói rằng nó hấp dẫn về sắc đẹp hình thể. Mặc dù bề ngoài như vậy, nó vẫn được xem là kỳ công vĩ đại nhất của tạo hóa mà chúng ta được biết và nó có vẻ đẹp và cấu trúc tinh tế của riêng nó. Như bạn đã có thể đoán ra, đối tượng vừa được mô tả chính là não bộ (brain). Não chịu trách nhiệm từ các ý tưởng cao thượng nhất đến các bản năng sơ khai nhất của chúng ta. Nó là viên quản đốc của mọi hoạt động phức tạp của cơ thể. Nếu có người thử thiết kế một máy điện toán mô phỏng đúng theo các khả năng của não, thì việc làm ấy dường như không thể nào thực hiện được; trên thực tế, thiết kế một máy chỉ mới ở mức độ gần giống cũng đã được chứng minh cho thấy là khó. Chỉ riêng con số gây choáng ngợp về số lượng tế bào thần kinh của não cũng đủ khiến cho một kỹ sư tin học đầy tham vọng phải nản lòng. Nhiều tỉ tế bào thần kinh hợp thành một câu trúc chỉ nặng khoảng 3 cân Anh (tức khoảng 1,362kg) ở một người trưởng thành trung bình. Tuy nhiên, điều gây kinh ngạc về não không không phải là số lượng tế bào mà chính là năng lực của não đã cho phép trí tuệ con người thăng hoa trong khi não điều khiển hành vi và tư duy của chúng ta. Não luôn là một thách đố cho những ai muốn nghiên cứu nó. Trong phần lớn thời gian của lịch sử y khoa thuở xưa, việc khảo sát não chỉ có thể được tiến hành sau khi người bệnh đã chết. Chỉ khi ấy mới có thể mở hộp sọ và cắt não mà không có nguy cơ gây sang thương đe dọa tính mạng. Tuy việc khảo sát não được làm trên xác chết có cung cấp thông tin, nhưng vì bị giới hạn ở một cái xác không có chức năng sinh lý của người sống nên việc khảo sát này khó cho chúng ta biết được nhiều về sự vận hành của não bộ trong cơ thể người sống. Nhưng ngày nay sự việc đã khác hẳn. Có lẽ các tiến bộ quan trọng nhất từng được thực hiện trong công cuộc nghiên cứu về não đã có được dựa vào việc sử dụng kỹ thuật phân quét hình não (brain scan). Nhờ kỹ thuật này người ta đã có được những hình ảnh sinh động về cách vận hành nội tại của não mà không cần phải mở hộp sọ của người bệnh. Các kỹ thuật scan não chủ yếu được mô tả ở phần dưới đây và được minh họa ở Hình 2–11. – Điện não đồ (electroencephalogram–EEG) ghi lại các tín hiệu xung điện đang được dẫn truyền trong não nhờ các điện cực gắn bên ngoài hộp sọ. Các kỹ thuật điện não đồ cổ điển chỉ có thể ghi lại một biểu đồ các đường biểu diễn sóng điện, nhưng các kỹ thuật hiện đại có khả năng chuyển đổi các hoạt động xung điện của não thành hình ảnh về não bộ và từ đó giúp chẩn đoán các vấn đề như động kinh (epilepsy) và mất khả năng học hỏi (learning disabilities). – Chụp hình cắt lớp trục bằng máy điện toán (computerized axial tomography–CAT) sử dụng một máy điện toán để tạo hình ảnh về não dựa vào việc phối hợp hàng ngàn tia X độc lập ở nhiều góc độ chỉ hơi cách nhau. Kỹ thuật này cực kỳ hữu ích cho việc biểu thị các bất bình thường trong cấu trúc não bộ, như sự sưng và phình lớn của một số bộ phận của não. Nhưng kỹ thuật này không có khả năng cung cấp thông tin về hoạt động của não. – Quét phân hình cộng hưởng từ tính (magnetic resonance imaging scan – MRI) tạo ra một từ trường đủ mạnh để cung cấp hình ảnh hiển thị có đầy đủ chi tiết trên máy điện toán về cấu trúc não. – Chụp phim positron cắt lớp (positron emission tomography–PET) phản ánh rõ hoạt động thực tế của não vào một thời điểm nhất định. Như chúng ta đã giải thích khi thảo luận về trường hợp Andrea Fyie ở đầu chương này, kỹ thuật quét phân hình PET khởi đầu bằng cách tiêm các chất đồng vị phóng xạ vào não. Qua việc theo dõi các vị trí phát xạ bên trong não, máy điện toán có thể xác định được các vùng hoạt động nhiều hơn, và cung cấp một hình ảnh rõ nét về não đang lúc hoạt động. Mỗi kỹ thuật nêu trên đều đưa ra nhiều khả năng khích lệ không những riêng cho việc chẩn đoán và https://thuviensach.vn chữa trị các bệnh lý và tổn thương ở não, mà còn giúp chúng ta hiểu biết nhiều hơn về hoạt động bình thường của não. Tuy các khả năng của não bộ con người vượt xa hơn bất cứ loài sinh vật nào, chúng ta sẽ không lấy làm lạ rằng, giống như ở loài linh trưởng (primates), các chức năng cơ bản như hít thở, ăn, và ngủ mà chúng ta có được điều khiển bởi một bộ phận tương đối nguyên thủy (theo nghĩa có từ thời sơ khai) của não. Bộ phận ấy được gọi là tủy trung tâm (central core, xem Hình 2–12), nó hoàn toàn giống não được tìm thấy ở tất cả các loài động vật có xương sống (vertebrates). Tủy trung tâm thường được xem là “não nguyên thủy” bởi vì người ta cho rằng nó đã tiến hóa tương đối sớm trong quá trình tiến hóa của loài người. Nếu chúng ta đi từ đáy hộp sọ dọc lên theo tuỷ sống để định vị các cấu trúc của phần tủy trung tâm não, thì bộ phận đầu tiên của tủy trung tâm mà chúng ta gặp phải là hành tủy (medulla–xem Hình 2–13). Hành tủy kiểm soát một số thức năng quan trọng của cơ thể, trong đó quan trọng nhất là các chức năng hô hấp và duy trì nhịp tim. Gần kề hành tủy là cầu não (pons), nằm ngay kế bên hành tủy, và nối liền hai bán cầu não. Bao gồm các bó sợi thần kinh lớn, cầu não có nhiệm vụ dẫn truyền thông tin về vận động (transmitter of motor information), giúp phối hợp vận động các cơ (muscular coordination), và tiếp hợp vận động (movement integration) giữa nửa bên phải và nửa bên trái của cơ thể. Tiểu não (cerebellum) ở ngay bên trên hành tủy và phía sau cầu não. Nếu không có sự góp sức của tiểu não, chúng ta sẽ không thể bước đi theo một vạch thẳng mà không lảo đảo hoặc không ngã chúi người về phía trước, bởi vì nhiệm vụ của tiểu não là giữ thăng bằng cơ thế. Tiểu não liên tục theo dõi thông tin được phản hồi từ các cơ để phối hợp các việc như định vi cơ, vận động cơ, và trương lực cơ. Trên thực tế, uống quá nhiều rượu dường như ức chế hoạt động của tiểu não dẫn đến dáng đi lảo đảo và các cử động đặc trưng cho tình trạng say rượu. Cho đến đây, phần mô tả về các bộ phận của não đã gợi ý việc não được hình thành bởi một loạt các cấu trúc độc lập, có giới hạn rõ rệt, và tách biệt nhau. Tuy nhiên, một số bộ phận của não không chỉ đơn giản được bố trí theo một chuỗi thứ tự nối tiếp nhau, chúng còn được tìm thấy nằm bên trong hoặc xen giữa các cấu trúc khác. Một thí dụ là cấu tạo mạng lưới (reticular formation) trải dài từ hành tủy xuyên suốt tới cầu não. Cấu tạo mạng lưới này được hình thành bởi một nhóm tế bào thần kinh phục vụ như tên lính canh có nhiệm vụ kích hoạt ngay lập tức các bộ phận khác của não bộ, dẫn đến tình trạng kích ứng toàn bộ cơ thể giúp cơ thể cảnh giác đối với nguy cơ. Thí dụ như khi bạn bị giật mình bởi một tiếng động lớn, cấu tạo mạng lưới thần kinh của bạn sẽ thúc đẩy cơ thể bạn đi vào trạng thái cảnh giác tức thời, dẫn đến một trạng thái nhận thức cao độ nhằm quyết định xem bạn có cần phản ứng hay không. Ngoài ra, cấu tạo này còn một chức năng phục vụ khác diễn ra trong lúc bạn đang ngủ, chức năng này dường như thanh lọc các kích thích của môi trường xung quanh bạn và qua đó giúp cho bạn được ngủ yên giấc. Các bộ phận còn lại của tủy trung tâm là vùng đồi và dưới đồi. Vùng đồi (thalamus) nằm ở chính giữa tủy trung ương, đóng vai trò chủ yếu của một đài tiếp sống nhằm tiếp nhận các tín hiệu liên quan đến các thông tin về cảm giác. Các tín hiệu được các giác quan như mắt, tai, và da di chuyển đến đồi não sẽ được truyền đạt tiếp lên các bộ phận ở phân hệ cao hơn trong não. Đồi não cũng tiếp hợp các thông tin từ các phân hệ cao hơn này, rồi sàng lọc chúng để gởi chúng tiếp lên tiểu não và hành tủy. Vùng dưới đồi (hypothalamus) nằm ngay bên dưới vùng đồi. Tuy có kích thước rất nhỏ, chỉ khoảng bằng đầu ngón tay, nhưng vùng dưới đồi đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quy trình vận động của cơ thể. Một trong những chức năng chủ yếu của vùng dưới đồi là duy trì cân bằng nội môi (homeostasis), có nghĩa là duy tri một môi trường nội tại ổn định. Như chúng ta sẽ bàn luận sâu hơn ở chương 9, vùng dưới đồi giúp cung cấp một thân nhiệt ổn định và theo dõi lượng các chất dinh dưỡng được tích trữ ở các tế bào. Nhiệm vụ chủ yếu thứ hai không kém phần quan trọng là hình thành và điều chỉnh các hành vi tối cần cho https://thuviensach.vn tình trạng sinh tồn của loài người như ăn, uống, hành vi tình dục, gây hấn, và nuôi dưỡng con cái. (Bàn luận về một số công trình nghiên cứu gần đây về cấu trúc của não, xin xem phần “Nghiên cứu đang tiến hành”). Theo một tầm nhìn kỳ ảo về thế giới tương lai, một số nhà văn khoa học giả tưởng gợi ý sẽ có một ngày con người được thường quy cấy điện cực vào não. Các điện cực này sẽ giúp họ tiếp nhận được các rung động li ti tạo cảm giác khoái lạc bằng cách kích thích một số trung tâm của não bộ. Khi cảm thấy lo buồn, người ta chỉ cần kích hoạt các điện cực ây là đạt ngay đến trạng thái hưng phấn. Mặc dù khó tin – và có thể cuối cùng sẽ không thực hiện được – nhưng ý tưởng độc đáo này về tương lai đã được suy ra từ thực tiễn: não thật sự có những trung tâm khoái lạc nằm ở một vùng được gọi là hệ limbic (limbic system), tạm dịch là “hệ bản tính”. Bao gồm một loạt các cấu trúc liên hệ với nhau, hệ limbic bao vòng quanh đỉnh phần tủy trung tâm và liên hệ với tủy trung tâm và vỏ não (Hệ này được định vị trong Hình 2–12, đại thể ở trong khoảng ranh giới giữa hai màu). Các cấu trúc của hệ limbic đồng kiểm soát một số chức năng khác nhau liên quan đến sự sinh tồn, như ăn, gây hấn và sinh sản. Chấn thương đối với hệ limbic có thể gây ra những thay đổi hành vi cực kỳ quan trọng. Chấn thương có thể biến đổi các động vật có vú từ trạng thái hiền lành và thuần dưỡng sang trạng thái hoang dã hiếu chiến. Ngược lại, những động vật hoang dã khó thuần dưỡng nhất lại có thể trở thành hiền lành và biết vâng lời. Có lẽ khám phá thách đố trí tuệ nhất đã nổi lên từ việc nghiên cứu hệ limbic, bắt nguồn từ cuộc khảo sát các tác động của các xung điện trên một số các bộ phận của hệ limbic. Trong một thí nghiệm, chuột cống được cấy một điện cực vào hệ limbic, sau đó mỗi khi đè vào một thanh chắn của lồng, chuột sẽ nhận được một dòng điện đi qua điện cực. Ngay cả những con chuột đói đang trên đường đi kiếm thức ăn cũng sẽ dừng chân để đạp vào thanh chắn thật nhiều lần tùy theo mức độ nó có thể làm được. Trên thực tế, nếu cứ để cho chúng tự do, chuột sẽ kích thích hệ bản tính của chúng như thế đến hàng ngàn lần một giờ, cho đến khi chúng kiệt sức ngã quỵ. Mức độ cực khoái lạc do một số kiểu kích thích hệ limbic tạo ra cũng đã được tìm thấy ở loài người khi một số khu vực thuộc hệ limbic nhận kích thích điện, như thường áp dụng trong những liệu pháp dành cho việc đều trị chứng rối loạn chức năng não bộ (brain dysfunction). Tuy có khó khăn trong việc mô tả chính xác các cảm giác ấy, nhưng những người nhận kích thích điện báo cáo là họ đã có được cảm giác cực khoái, theo họ về một số mặt cảm giác này tương tự như cảm giác cực khoái (orgasm) có được trong lúc giao hợp. Hệ limbic cũng đóng một vai trò quan trọng trong chức năng học hỏi và ghi nhớ. Một khám phá đã chứng minh vai trò ấy ở những bệnh nhân bị động kinh đã được cắt bỏ một phần của hệ limbic như một liệu pháp nhằm cắt đứt các cơn động kinh. Sau cuộc giải phẫu cắt bỏ một phần hệ limbic, các bệnh nhân này đôi khi gặp khó khăn trong việc học hỏi và ghi nhớ các thông tin mới. Trong một trường hợp (sẽ được bàn luận trở lại khi chúng ta nghiên cứu về bộ nhớ ở Chương 6), sau cuộc giải phẫu cắt bỏ một phận hệ limbic bệnh nhân đã không nhớ được địa chỉ nhà mình đang ở mặc dù ông ta đã thường trú ở địa chỉ đó suốt 8 năm. Ngoài ra còn có trường hợp một người bệnh có khả năng nói chuyện thật sôi nỗi, nhưng chỉ vài phút sau đó anh ta không còn khả năng nhớ được mình đã vừa bàn luận về điều gì. Như vậy, hệ limbic liên quan đến nhiều chức năng quan trọng, bao gồm chức năng sinh tồn, học hỏi, ghi nhớ, và cảm giác khoái lạc. Các chức năng này không chỉ riêng loài người mới có. Thật ra, hệ limbic đôi khi còn được gọi là “não bộ của loài thú” (animal brain) bởi vì cấu trúc và chức năng của nó quá giống các cấu trúc và chức năng được tìm thấy ở các động vật có vú khác. Để tìm ra được phần nào là đặc hiệu https://thuviensach.vn cho loài người, chúng ta cần chuyển qua một phần khác của não bộ: vỏ não. Hãy xem xét các hiện tượng sau: – Các bé trai thường dễ có vấn đề trong kỹ năng đọc ở bậc tiểu học so với các bé gái. – Phụ nữ hồi phục sau một số thể chấn thương sọ não nhanh hơn nam giới. – Nam giới có khả năng hơn nữ giới trong khi thực hiện các công việc liên quan đến lãnh vực không gian. Tại sao tất cả những khẳng định trên lại có thể đúng. Một câu trả lời, mặc dù có vẻ ngược ngạo, gợi ý rằng có những cấu trúc khác nhau giữa não của nam giới và não của nữ giới. Theo giả thuyết này, có những điểm dị biệt tinh tế giữa cấu trúc não bộ nam và nữ. Những dị biệt về cấu trúc này được coi như là những nguyên nhân có thể gây ra nhiều dị biệt giữa nam giới và nữ giới liên quan đến hành vi. Dường như có nhiều thể loại di biệt giữa não bộ nam và nữ. Thí dụ như một phần thể chai (corpus callosum), một bó sợi nối liền phân nửa này của não với phân nửa còn lại, ở nữ có tỷ lệ lớn hơn so với nam. Các công trình nghiên cứu được tiến hành trên động vật cũng đã phát hiện những điểm dị biệt theo giới tính. Thí dụ như ở chuột cống, một số bộ phận ở vùng dưới đồi của chuột đực lớn hơn của chuột cái, mặc dù kích thước toàn bộ não chuột đực và não chuột cái bằng nhau. Ngoài ra, những dị biệt theo giới tính cũng được tìm thấy ở cấu trúc đuôi gai chuột cống, hamster, và khỉ. Mặc dù càng ngày càng có các bằng chứng cho thấy có những di biệt tinh tế giữa não bộ nam và nữ, nhưng ý nghĩa của những dị biệt ấy thì vẫn chưa được làm rõ. Hãy thử xem xét một khả năng suy luận liên quan đến phần thể chai ở nữ lớn hơn ở nam: sự gia tăng về kích thước này có thể cho phép ta nghĩ đến những mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa phần này với những phần của não có nhiệm vụ kiểm soát khả năng nói. Giả thuyết này sẽ giúp giải thích tại sao khả năng nói có khuynh hướng phát triển ở các bé gái hơi sớm hơn so với các bé trai. Tuy nhiên, trước khi chúng ta vội vã hướng đến một giải thuyết như trên, điều quan trọng là cần xem xét một giải thuyết khác: cũng có thể việc xuất hiện sớm khả năng nói ở các bé gái là do các bé gái được khuyến khích nói nhiều hơn các bé trai. Và sự xuất hiện sớm của khả năng nói sẽ kéo theo sự phát triển của một số bộ phận khác của não. Như vậy, các dị biệt về thể xác có thể là những phản ánh của những ảnh hưởng xã hội và môi trường, hơn là nguyên nhân của những dị biệt giữa nam là nữ liên quan đến hành vi. (Chúng ta bàn sâu hơn về vấn đề này khi chúng ta xem xét các di biệt Về giới tính ở Chương 15). Còn quá sớm để nói dược cái gì là nguyên nhân và cái gì là hậu quả của dị biệt giữa nam và nữ về cấu trúc của não. Điều hiển nhiên là kiến thức ngày càng phát triển về cấu trúc não đã chỉ cho chúng ta thấy những phương cách mới khả dĩ giúp chúng ta hiểu biết về các dị biệt giữa nam và nữ liên quan đến hành vi. – Tủy trung tâm (central core) thuộc não bộ con người, đôi khi được xem là “não bộ nguyên thuỷ “, tương tự như não bộ tìm thấy ở tất cả các loài động vật có xương sống (vertebrates) – Nếu dò theo hệ thần kinh trung ương (CNS) từ phía trên tuỷ sống đi vào não bộ, thì bộ phận đầu tiên chúng ta thấy được là hành tủy (medulla). Bộ phận này đảm nhiệm các chức năng như hô hấp và nhịp tim. Kế đó là cầu não (pons) có nhiệm vụ truyền đạt các thông tin vận động. Tiểu não (cerebellum) có liên quan đến việc kiểm soát các cử động của cơ thể. – Cấu tạo lưới (reticular formation) trải từ hành tủy xuyên qua chủ não, có nhiệm vụ đánh thức và phát động toàn bộ cơ thể nhưng cũng phản ứng làm dịu kích thích từ môi trường bên ngoài trong khi người ta đang ngủ. https://thuviensach.vn – Vùng đồi (thalamus) có nhiệm vụ chủ yếu là một trung tâm tríếp sóng thông tin cảm giác, vùng dưới đồi (hypothalamus) duy trì tình trạng ổn định nội môi (homeostasis), tức là môi trường không biến động bên trong cơ thể. – Hành vi tìm thức ăn và sinh sản được chi phối một phần lớn bởi hệ bản tính (limbic system). Hệ này khi bị kích thích điện cũng gây ra cảm giác khoát lạc cho cơ thể. 1... là một kỹ thuật có thể giúp ta chụp được hình ảnh của não bộ mà không cần phải mổ hộp sọ ra. 2. Cặp đôi tên của mỗi kỹ thuật quét phân hình não bộ với phương thức tiến hành kỹ thuật ấy. a. EEG. b. CAT c. MRI d. PET (1). Các từ trường cung cấp hình ảnh hiển thị trên màn hình máy điện toán. (2). Vị trí của các chất đồng vị phóng xạ (radioactive isotopes) bên trong não bộ xác định các vùng hoạt động của não. (3). Các điện cực gắn bên ngoài hộp sọ ghi lại các tín hiệu xung điện truyền đi bên trong não bộ. (4). Phối hợp hàng ngàn bức hình chụp được bằng tia X thành một hình ảnh hiển thị trên màn hình máy điện toán. 3. Việc điều khiển các chức năng như hô hấp và ngủ thuộc về một bộ phận mới tiến hóa gần đây, gọi là “bộ óc mới tiền hoá”. Đúng hay Sai?... 4. Cặp đôi bộ phận thuộc não bộ với chức năng của nó. a. Hành tuỷ. b. Cầu não. c. Tiểu não. d. Cấu tạo lưới. (1). Duy trì hô hấp và nhịp tim. (2). Kiểm soát tình trạng cân bằng của cơ thể. (3). Phối hợp và tiếp hợp các vận động của cơ. (4). Kích hoạt não bộ để tạo tình trạng cảnh giác của cơ thể. 5. Bạn vừa nhận được bó hoa do người bạn tặng. Màu sắc, mùi hương và cảm nhận về bó hoa ấy còn lưu lại nhờ bộ phận nào trong não bộ?... 6..., một bộ phận thuộc não bộ có kích thước khoảng bằng đầu ngón tay. Có nhiệm vụ duy trì..., tức điều hòa mối trường bên trong cơ thể. https://thuviensach.vn 7. Vùng dưới đồi (hypothalamus) có nhiệm vụ tạo ra và điều chỉnh các hành vì có tính quyết định đối với sự sống còn của giống nòi như ăn uống, tình dục, và gây hấn. Đúng hay Sai?... 8. Người ta đã chứng minh rằng phụ nữ có khả năng nói thích hợp hơn nam giới do các dị biệt sẵn có trong não bộ. Đúng hay Sai?... 9. Chuột được cấy ghép điện cực vào... của não bộ đã chấm dứt việc đi tìm thức ăn để tiếp tục kích thích các điện cực ấy nhằm tìm cảm giác khoái lạc cao độ. Bạn sẽ trả lời ra sao đối với lập luận cho rằng: “Các nhà tâm lý nên dành công việc nghiên cứu nơron, khớp thần kinh, và hệ thần kinh cho các nhà sinh học.”? (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 2: Phần 4 Khi chúng ta từ tủy sống đi tiếp lên phân hệ cao hơn và đi vào não, thảo luận của chúng ta đã tổng tập trung vào các khu vực thuộc não đảm nhiệm các chức năng tương tự như các chức năng khám phá được ở các loài sinh vật kém tiến hóa hơn. Bạn có lẽ đã tự hỏi: bộ phận nào trong não giúp con người hành động hữu hiệu nhất, và khiến cho loài người khác hẳn mọi loài vật khác? Những đặc điểm độc đáo ấy của bộ óc con người – cũng chính là những khả năng đã giúp bạn nêu ra được câu hỏi đề ra ở trên – gói trọn trong khả năng tư duy và ghi nhớ. Định vị chính của các năng lực này, cùng với nhiều năng lực khác, là vỏ não (cerebral cortex). Vỏ não, đôi khi còn gọi là “não bộ đương đại” bởi vì nó mới hình thành tương đối gần đây trong hành trình tiến hóa của loài người, là một khối mô gấp nếp sâu, dợn sóng, và tạo vòng cuốn. Mặc dù chỉ dày khoảng 1/12 inch (# 2,2 mm), nhưng nếu căng phẳng ra vỏ não có thể phủ một diện tích rộng đến hơn 2 bộ vuông (# 929 cm2). Hình dạng thể chất này giúp cho diện tích bề mặt của vỏ não lớn hơn một cách đáng kể so với trường hợp vỏ não có dạng lỏng lẻo hơn và dễ xếp vào hộp sọ. Hình dạng này cũng tạo điều kiện cho các nơron nằm trong vỏ não được nối kết một cách phức tạp với nhau, cho phép việc nhập thông tin trong não đạt đến mức cao nhất, và do đó tạo điều kiện để xử lý các thông tin một cách tinh vi nhất. Vỏ não gồm 4 phần chính được gọi là các thùy (lobe). Nhìn mặt bên của não, các thùy trán (frontal lobe) nằm ở vùng trung tâm phần trước của vỏ não, và thùy đỉnh (parietal lobe) nằm vùng phía sau các thùy trán. Các thùy thái dương (tempo–ral lobe) được tìm thấy ở vùng trung tâm phần dưới của não bộ, với các thùy chẩm (occpital lobe) nằm ở vùng phía sau các thùy thái dương. Bốn bộ thùy này về mặt vật thể được phân cách nhau nhờ các rãnh sâu được gọi là các rãnh vỏ não (sulcus–sulci). Hình 2–14a trình bày 4 vùng vỏ não. Vỏ não: (a) Các cấu trúc vật chất chủ yếu của vỏ não được gọi là các thuỳ (lobes); (b) Hình này minh họa các chức năng liên quan đến các vùng đặc biệt của vỏ não. Một phương cách mô tả khác về vỏ não là xem xét các chức năng liên quan đến một vùng nhất định của vỏ não. Hình 2–14b cho thấy các vùng chuyên biệt nằm trong các thùy, chúng liên quan đến các chức năng và vùng chuyên biệt trên cơ thể. Có ba vùng chính đã được phát hiện: vùng vận động, vùng cảm giác, và vùng liên hợp. Mặc dù chúng ta sẽ thảo luận từng vùng một cách riêng rẽ như thể chúng là những thực thể độc lập với nhau, nhưng hãy nhớ rằng phương thức tiếp cận này chỉ nhằm mục tiêu đơn giản hóa vấn đề: trong hầu hết các trường hợp, hành vi bị ảnh hưởng đúng lúc bởi nhiều cấu trúc và nhiều vùng trong não bộ hoạt động tương thuộc nhau. Ngoài ra, bên trong mỗi vùng còn có các phân vùng. – Vùng vận động. Nếu nhìn vào thùy trán ở Hình 2–14b; bạn sẽ thấy một vùng in đen có tên là vùng vận động (motor area). Vùng vỏ não này chịu nhiều trách nhiệm trong vận động chủ ý của các bộ phận đặc biệt trong cơ thể. Thật vậy, một phần trong vùng vận động tương ứng với một vị trí đặc biệt trên cơ thể. Nếu cấy một điện cực vào một phần đặc biệt thuộc một vùng vận động rồi tạo một kích thích điện nhẹ, thì bộ phận tương ứng trên cơ thể sẽ có vận động ngoại ý. Nếu chúng ta dời điện cực sang một phần khác trong vùng vận động rồi kích thích nhẹ thì một bộ phận khác trên cơ thể tương ứng với phần mới này cũng sẽ vận động ngoại ý. Đến nay vùng vận động đã được lập bản đồ khá tỉ mỉ để vẽ được sơ đồ như trình bày trong Hình 2–15. Mô hình trông có vẻ kỳ lạ này minh họa diện tích và định vị tương đối phần mô vỏ não được sử dụng để tạo vận động ở các bộ phận đặc biệt trên cơ thể con người. Như bạn có thể thấy, việc kiểm soát các vận https://thuviensach.vn động của cơ thể có phạm vi tương đối rộng và ít có yêu cầu về tính chính xác, thí dụ như vận động khớp gối hay khớp hông, được tập trung trong một khoảng diện tích rất nhỏ trong vùng vận động. Trái lại, các vận động cần phải chính xác và tinh tế, như các nét mặt và sử dụng khéo léo các ngón tay, được điều khiển bởi một phần lớn hơn nhiều của vùng vận động. Tóm lại. vùng vận động của vỏ não cung cấp một sự chỉ dẫn rõ ràng về mức độ phức tạp và tầm quan trọng của các khả năng vận động thuộc các vùng chuyên biệt của cơ thể. Sự tương ứng giữa diện tích và vị trí các mô thuộc vùng vận động trên vỏ não với các bộ phận đặc biệt trên cơ thể được điều khiển bởi các mô ấy (Penfield & Rasmussen, 1950). – Vùng cảm giác: Một khi đã biết được sự tương ứng từng cặp giữa vùng vận động và bộ phận trên cơ thể, sẽ không có gì để ngạc nhiên khi khám phá được mối liên kết tương tự giữa các phần chuyên biệt của não với các giác quan. Vùng cảm giác (sensory area) trong vỏ não gồm có ba khu vực: một khu vực chủ yếu tương ứng với xúc giác, một với thị giác, và khu vực thứ ba liên quan đến thính giác. Thí dụ như vùng cảm thể (somatosensoly area) bao gồm các vị trí chuyên biệt liên quan đến khả năng cảm nhận được các cảm giác sờ chạm (touch) ở một vùng chuyên biệt trên cơ thể. Cũng giống như vùng vận động, số lượng mô não liên kết với một vị trí chuyên biệt trên cơ thể sẽ quyết định mức độ nhạy cảm ở vị từ đó: diện tích trên não càng lớn thì độ nhạy cảm càng tăng ở vị trí tương ứng trên cơ thể. Như bạn có thể thấy ở Hình 2– 16, các bộ phận như các ngón tay liên hệ với một diện tích tỷ lệ khá lớn trong vùng cảm thể của vỏ não và ngón tay là bộ phận nhạy cảm nhất trong cơ thể. Số lượng mô càng nhiều chừng nào trong vùng vỏ não thì bộ phận liên hệ trên cơ thể càng nhạy cảm chừng nấy. Nếu như kích thước bộ phận trên cơ thể chúng ta phản ảnh số lượng mô vỏ não tương ứng thì cơ thể chúng ta sẽ trông giống như tạo vật kỳ dị này. Các cơ quan thính giác (sound) và thị giác (sight) cũng được biểu hiện ở các vùng chuyên biệt trên vỏ não. Vùng thính giác được định vị ở thùy thái dương chịu trách nhiệm đối với cơ quan thính giác. Nếu vùng thính giác bị kích thích điện, người ta sẽ nghe được các âm thanh như tiếng lách tách (click) hoặc ậm ừ (hum). Các vị trí chuyên biệt trong khu vực thính giác cũng dường như tương ứng với các âm vực (pitch) chuyên biệt. Nằm trong thùy chẩm, trung tâm thị giác (visual center) hoạt động tương tự như các vùng cảm giác khác; kích thích thông qua các điện cực tạo ra cảm giác thấy ánh lóe lên của ánh sáng hoặc màu sắc, việc này cho thấy các tín hiệu cảm giác ở dạng thô sơ về các hình ảnh từ mắt đưa vào sẽ được tiếp nhận ở các khu vực vỏ não này đề chuyển đổi thành các kích thích có ý nghĩa. Khu vực thị giác cũng cho một thí dụ khác về cách thức các khu vực vỏ não liên kết mật thiết với các bộ phận chuyên biệt trên cơ thể: các bộ phận chuyên biệt trong mắt liên kết với một vùng tương ứng của não – và, như bạn có thể đoán được, phần diện tích lớn nhất của vùng chuyên biệt này trên não sẽ được dành cho bộ phận nhạy cảm nhất trong mắt. – Vùng điều phối: Hãy xem xét trường hợp sau đây. Vào một ngày trong năm 1848, Phineas Gage, một nhân viên ngành đường sắt 25 tuổi đang phá đá thì một bộc phá đã bất chợt làm bắn một thanh đá nhọn đầu dài khoảng 3 bộ (# 0,9m) với đường kính khoảng 1 inch (# 2,5 cm) xuyên thâu qua sọ anh. Thanh đá đã đâm vào vùng dưới má trái của anh, rồi đâm xuyên lên đỉnh đầu, và cuối cùng bắn ra ngoài không gian. Ngay lập tức anh bị lên hàng loạt cơn co giật, vậy mà ít phút sau anh đã có thể nói chuyện với các nhân viên cứu hộ. Thật ra anh đã đủ sức leo lên một đoạn cầu thang dài trước khi gặp được nhân viên cứu hộ và được chăm sóc y tề. Điều đáng ngạc nhiên là chỉ sau vài tuần vết thương của anh đã lành, và về mặt thể xác anh gần giống y như mình trước khi xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, về mặt tâm thần, có sự khác biệt: xưa kia là một người cẩn trọng và chăm làm, nay Phineas trở thành một người luôn mê say các đề án viển vông, luôn ở tình trạng như đang bay bổng trên mây và thường là vô https://thuviensach.vn trách nhiệm. Như một trong các bác sĩ của anh đã nhận xét: “Trước khi bị tai nạn, mặc dù không thông qua trường lớp nào, nhưng anh có một trí tuệ thăng bằng và được những người quen biết anh đánh giá là một nhà kinh doanh nhạy bén và khôn ngoan, đầy năng động và kiến trì thực hiện các đề án hoạt động của mình. Về phương diện này trí tuệ anh đã cơ bản thay đổi hơn khiến bạn hữu và người quen biết anh phải bảo là ‘anh không còn là Gage của ngày xưa nữa.’. Điều gì đã xảy ra cho Gage trước kia? Mặc dù không thể biết chắc – do nền khoa học vào các năm 1800 chưa có các kỹ thuật khảo sát như ngày nay – nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán rằng có lẽ tai nạn xảy ra đã gây tổn thương vùng liên hợp nằm trong vỏ não của Gage. Xem lại một lần cuối sơ đồ vỏ não (Hình 2–14b), bạn sẽ thấy các vùng vận động và cảm giác chiếm một phần tương đối nhỏ trên vỏ não, phần còn lại là vùng điều phối. Vùng điều phối (association area) thường được xem là cứ địa của các tiến trình trí tuệ cấp cao hơn như tư duy (thinking), ngôn ngữ (language), ký ức (memory) và vận ngôn (speech). Hầu hết các hiểu biết của chúng ta về vùng liên hợp đều có được từ những bệnh nhân đã bị một tổn thương não bộ – do các nguyên nhân tự nhiên như một khối u (tumor) hoặc một cơn đột quỵ (stroke), mỗi chứng bệnh này đều gây nghẽn tác một số mạch máu ở vỏ não, hoặc, như trong trường hợp Phineas Gage, do các tai nạn gây ra. Tổn thương vùng này có thể gây hậu quả là những thay đổi bất thường về hành vi, việc này cho thấy tầm quan trọng của vùng điều phối đối với chức năng hoạt động bình thường của con người. Thử xem xét một thí dụ: tình trạng thất điều (aphasia/ apraxia). Thất điều xảy ra khi người ta không thể hợp nhất các hoạt động một cách hợp lý hoặc có lý luận. Thí dụ như một bệnh nhân được yêu cầu lấy một chai sô–đa trong tủ lạnh, người đó có thể đi đến bên tủ lạnh, lặp đi lặp lại động tác mở đóng cửa tủ lạnh, hoặc có thể lấy hết chai sô–đa này đến chai sô–đa khác ra khỏi tủ lạnh, nhưng lần nào cũng đánh rơi chai xuống sàn nhà. Tương tự, một người bị thất điều khi được yêu cầu mở một ổ khóa với một chìa khóa, họ có thể không có khả năng làm được điều ấy để đáp ứng theo yêu cầu – nhưng, nếu đơn giản để người ấy một mình trong một căn phòng khóa kín, khi muốn rời khỏi phòng, người ấy sẽ mở được khóa phòng. Thất điều rõ ràng không phải là một bệnh của cơ, bởi vì người bệnh có khả năng thực hiện được từng động tác riêng lẻ của một hành vi thông thường. Ngoài ra, nếu được yêu cầu thực hiện từng động tác riêng lẻ của một dạng hành vi quan trọng hơn, thì thường người bệnh sẽ thực hiện hoàn toàn thành công. Chỉ khi nào được yêu cầu thực hiện một chuỗi các hành vi đòi hỏi một mức độ về hoạch định và trù liệu thì người bệnh mới cho thấy có khiếm khuyết. Khi ấy, dường như vùng đều phối có thể tác động như một “chủ kế hoạch” (master planner), tức người tổ chức các hành động. Các khó khăn khác phát sinh do tổn thương ở vùng điều phối trong vỏ não liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ. Những vấn đề liên quan đến việc diễn đạt bằng lời nói, được gọi là rối loạn vận ngôn (aphasia), có thể có nhiều dạng. Trong trường hợp rối loạn vận ngôn Broca (Broca's aphasia, do nguyên nhân bị tổn thương vùng Broca ở não, vùng này mang tên của Paul Broca, người thầy thuốc Pháp đầu tiên xác định được vùng này), khả năng nói trở nên nói nhát gừng (halting) và khó khăn (laborious). Sở dĩ như vậy vì người bệnh không còn khả năng tìm ra thuật ngữ đúng – chúng ta thỉnh thoảng cũng bị tình trạng như là đã có thuật ngữ muốn nói trên đầu lưỡi nhưng không nói ra được, người bị rối loạn vận ngôn chỉ khác chúng ta ở điểm là không phải chỉ thỉnh thoảng bị như chúng ta mà liên tục bị tình trạng này. Người bị bệnh rối loạn vận ngôn cũng nói theo “ngôn ngữ điện tín” (verbal telegram). Một câu như: “Tôi đặt quyển sách lên bàn!” sẽ được người bệnh phát ra thành: “Tôi... đặt... quyển... sách... lên... bàn.” Trong bệnh rối loạn vận ngôn Wernicke (Wernicke's aphasia, bệnh được đặt tên theo Carl Wernicke, người đã khám phá ra nó), người bệnh gặp khó khăn trong việc hiểu được lời người khác nói. Chứng này được thấy ở những người bệnh bị tổn thương ở một vùng chuyên biệt của não và được xác định đầu tiên bởi Wernicke. Rối loạn này khiến người bệnh có vẻ như nói lưu loát nhưng thật ra những lời được thốt ra https://thuviensach.vn hoàn toàn vô nghĩa. Thí dụ như trường hợp Philip Morgan, một trong những bệnh nhân của Wernicke, khi được hỏi nguyên nhân nào đã khiến ông ta đến bệnh viện, ông ta đã trả lời: “Này ông, tôi đang toát mồ hôi, tôi bứt rứt khủng khiếp, ông biết không, thỉnh thoảng tôi bị bắt lỗi, tôi không thế nói đến tarripoi1, cách nay 1 tháng, cũng đã khá lâu, tôi đã khỏe nhiều, tôi đã chơi trên cơ nhiều người, trong khi đó, mặt khác, ông hiểu tôi muốn nói gì mà, tôi đã phải chạy quanh, tìm nó, trebbin2 và mọi thứ lỉnh kỉnh như vậy.” Phát triển gần đây nhất, hay ít nhất cũng được hiểu theo nghĩa “tiến hoá” gần đây nhất, trong việc tổ chức và vận hành của não bộ chúng ta có lẽ đã xảy ra trong một triệu năm vừa qua: đó là sự biệt hóa của các chức năng được kiểm soát bởi hai phần nằm đối xứng nhau bên phải và trái của não bộ. Một cách chuyên biệt, não có thể được phân thành hai phần đại thể giống nhau như kiểu hai hình ảnh đối xứng nhau qua một tấm gương, giống như thể ta có 2 tay, 2 chân, và 2 lá phổi đối xứng nhau vậy. Do phương thức nối kết các thần kinh với nhau từ não đến phần còn lại của cơ thể, nên 2 phần nửa trái và nửa phải đối xứng nhau này, còn được gọi là bán cầu não (hemisphere), kiểm soát phần cơ thể đối ứng với chúng, tức bán cầu não bên phải kiểm soát nửa trái của cơ thể, trong khi bán câu não bên trái kiểm soát nửa phải của cơ thế. Do đó những tổn thương ở bán cầu não bên phải sẽ được biểu hiện một cách điển hình bởi các rối loạn về chức năng ở nửa trên cơ thể. Tuy vậy sự tương đồng về cấu trúc giữa 2 bán cầu não không hoàn toàn được phản ảnh trong mọi khía cạnh vận hành của não; dường như một số hoạt động thường xảy ra ở bán cầu não này nhiều hơn so với bán cầu não còn lại. Chứng cớ ban đầu về các di biệt chức năng giữa 2 bán cầu não bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu bệnh nhân bị thất điều; các nhà nghiên cứu thấy những người gặp khó khăn về vận ngôn điển hình cho chứng thất điều thường có tổn thương thể chất (physical damage) ở bán cầu não trái. Trái lại, các bất thường thể chất ở bán cầu não phải hiếm khi gây rồi loạn về vận ngôn. Khám phá này khiến các nhà nghiên cứu đi đến kết luận là: đối với hầu hết mọi người, khả năng ngôn ngữ đinh vị thiên lệch về một bên (lateralized), nghĩa là thuộc về bán cầu não này nhiều hơn so với bản cầu não kia, như trong trường hợp này khả năng ngôn ngữ lệch về bán cầu não bên trái. Ngày nay, dường như đã rõ ràng là hai bán câu não chuyên trách các chức năng khác nhau, mặc dù chúng ta cũng sẽ thấy về mặt bản chất và mức độ có những điểm dị biệt tùy thuộc vào mỗi cá nhân cũng như tùy thuộc vào mỗi giới tính. Bán cầu não trái chuyên trách các công việc đòi hỏi năng lực về ngôn từ (verbal strength) như kỹ năng nói (speaking), kỹ năng đọc (reading), tư duy (thinking) và lập luận (reasoning). Bán cầu não phải chỉ huy các năng lực chuyên biệt trong các lĩnh vực phi ngôn từ (non– verbal) như hiểu biết về không gian (spatial understanding), nhận biết (recognition) được các hình dạng (pattem) và hình vẽ (drawing), âm nhạc (music), và diễn tả cảm xúc (emotional expression) (Xem hình 2– 17). Loạt quét phân hình PET này trình bày hoạt động của các bán cầu não trái và phải của một người đang thực hiện nhiều hoạt động khác nhau Ngoài ra, cách thức xử lý thông tin dường như cũng hơi khác nhau ở một bán cầu não: bán cầu não trái xem xét thông tin theo chuỗi, mỗi lúc một mảng thông tin; còn bán cầu bên phải thường xử lý thông tin một cách toàn diện, coi thông tin đó như là một tổng thể. Hơn nữa, còn có bằng chứng cho thấy hai bán cầu não phát triển theo nhịp độ hơi khác nhau trong quá trình một đời người. Về mức độ và bản chất, tình trạng thiên lệch về một bên (lateralization) có nhiều dạng khác biệt nhau giữa cá nhân này với cá nhân khác. Nếu, giống như đa số (90%), bạn thuận tay phải (right–handed), thì phần não chi phối khả năng ngôn ngữ của bạn có lẽ nằm tập trung ở phần bên trái não. Trái lại, nếu bạn nằm trong thiểu số còn lại (10%) những người thuận tay trái (left–handed) và những người thuận cả 2 tay (ambidextrous), thì có lẽ các trung tâm ngôn ngữ trong não của bạn được định vị nơi bán cầu não phải https://thuviensach.vn (thuận tay trái) hoặc được phân phối đều cho 2 bán cầu não trái và phải (thuận cả 2 tay). Ngoài những dị biệt về cấu trúc não bộ như đã được mô tả ở phần trên, ta cũng thấy ở nam giới và nữ giới một số dị biệt về giới tính liên quan đến bán cầu não cần được giải đáp. Hầu hết nam giới đều có trung tâm ngôn ngữ nằm lệch về phía bán cầu não trái: như vậy đối với họ rõ ràng ngôn ngữ được ủy thác phần lớn cho bán cầu não trái. Trái lại, nữ giới ít bị tình trạng thiên lệch hơn, nên khả năng ngôn ngữ được chia đều hơn giữa hai bán cầu não. Các dị biệt này về tình trạng thiên lệch chức năng của não bộ có thể phần nào giải thích được sự vượt trội mà nữ giới thường cho thấy trong những cuộc khảo sát đánh giá năng khiếu ngôn từ (verbal skill), chẳng hạn khả năng bắt chuyện (onset, mở đầu câu chuyện) và nói lưu loát (fluency of speech). Các yếu tố văn hóa cũng có thể do sự khác biệt về tình trạng thiên lệch chức năng của não bộ. Thí dụ, người bản xứ Nhật Bản nói tiếng Nhật dường như xử lý thông tin về các nguyên âm chủ yếu ở bán cầu não trái. Ngược lại, người Bắc và Nam Mỹ, Châu âu, và những người có tổ tiên là người Nhật nhưng bản thân họ chỉ học tiếng Nhật khi đã lớn tuổi (thí dụ như người Mỹ gốc Nhật) thường chủ yếu vận dụng các nguyên âm bằng bán cầu não phải. Nguyên nhân của dị biệt này có lẽ do một số đặc điểm của Nhật ngữ, như khả năng diễn đạt các ý tưởng phức tạp chỉ nhờ vào việc sử dụng các nguyên âm, dẫn đến sự phát triển một thể loại thiên lệch chức năng não bộ chuyên biệt ở người bản xứ Nhật Bản. Dị biệt về tình trạng thiên lệch này có khả năng lý giải được những sự bất đồng (dissimilarities) giữa người bản xứ nói tiếng Nhật và người phương Tây liên quan đến thế giới quan (way of thinking about the world). Tuy đã có các thí dụ về tình trạng thiên lệch chức năng (lateralization) và sự biệt hóa (specialization) của các bán cầu não, nhưng trên thực tế hai bán cầu não cùng phối hợp vận hành và tương thuộc lẫn nhau ở hầu hết mọi người. Thậm chí, những người (đặc biệt là trẻ em nhỏ tuổi) bị tổn thương ở bán cầu não trái khiến bị mất khả năng ngôn ngữ cũng thường phục hồi được khả năng nói chuyện, bởi vì bán cầu não phải đã tham gia đảm nhận phần nào chức năng của bán cầu não trái. Như vậy não có khả năng thích nghi rất cao và có thể cải biến chức năng của nó, ít nhất cũng đến một mức độ nào đó, để phản ứng lại các hoàn cảnh bất lợi cho cá nhân. Các dị biệt về chức năng của mỗi bán cầu não ít nhất cũng gợi ý là các đặc điểm giúp phân biệt chúng ta với những người khác có lẽ một phần do các năng lực tương đối khác nhau giữa các bán cầu não. Thí dụ như chúng ta có thể phỏng đoán rằng một văn sĩ thiên tài có bộ óc trong đó bán cầu não trái đặc biệt chiếm ưu thế, còn não bộ của một họa sĩ hoặc một kiến trúc sư có thể có nhiều năng lực hơn nơi bán cầu não phải. Như vậy công việc chúng ta có thể làm được một cách hoàn hảo nhất trong cuộc đời chúng ta có lẽ tùy thuộc vào bán cầu não nào có năng lực ưu thế hơn. (Liên quan đến các ứng dụng thực tiễn mà hiện tượng thiên lệch bán cầu não có thể mở ra, xem phần “ứng dụng thực tiễn” trình bày sau đây). Lần đầu tiên các cơn động kinh xảy ra, Cindy Gluccles đã nghĩ rằng bác sĩ của cô sẽ có thể cho cô một thứ thuốc để ngăn chặn chúng tái phát. Cả bác sĩ điều trị lẫn bác sĩ chuyên về nội thần kinh của cô đều lạc quan cho rằng đa số các trường hợp động kinh đều có thể bị khống chế nếu dùng đúng thuốc. Nhưng các cơn động kinh của cô ngày càng tệ hơn và xảy thường xuyên hơn, và dường như không còn biện pháp chữa trị bằng thuốc nào đem lại hiệu quả. Khám nghiệm kỹ hơn cho thấy các cơn động kinh được phát sinh do xung điện đột ngột tăng lên khá nhiều trong một bán cầu não, sau đó xung điện tràn sang bán cầu não còn lại. Cuối cùng, các bác sĩ đã quyết định chọn biện pháp tối hậu: phẫu thuật cắt bỏ bó thần kinh nối liền 2 bán cầu não. Một cách gần như thần kỳ, các cơn động kinh đã dứt hẳn. Rõ ràng cuộc giải phẫu đã thành công – nhưng liệu Cindy có còn là con người cũ như trước khi được giải phẫu không? Vấn đề này đã khơi gợi rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu về não bộ và thực tế đã mang lại https://thuviensach.vn giải Nobel cho Roger Sperry. Sperry, cùng với một nhóm đồng nghiệp, đã khảo sát hành vi của những bệnh nhân từng được phẫu thuật cắt bỏ thể chai, tức bó sợi thần kinh nôi 2 bán cầu não. Nhóm nghiên cứu đã thấy về mọi mặt không có biến đổi gì lớn về cá tính hoặc về mức độ thông minh. Tuy nhiên, các bệnh nhân cá biệt như Cindy Gluccles, được gọi là bệnh nhân bị tách đôi não bộ (split– brain patient, tức 2 bán cầu não thật sự hoạt động độc lập với nhau khiến 2 nửa người mất sự phối hợp) thỉnh thoảng lại có vài hành vi thật sự bất thường. Thí dụ như một bệnh nhân đã báo cáo rằng trong khi một tay ông ta kéo quần ông ta xuống thì tay kia lại kéo lên. Ngoài ra ông ta còn kể rằng tay trái ông ta túm lấy vợ ông ta lắc thật mạnh, trong khi tay phải cố giúp bà ấy thoát khỏi tay trái báng cách khống chế tay trái. Tuy nhiên, hứng thú dành cho việc tìm hiểu hành vi kỳ lạ thi thoảng mới xảy ra này không mấy sâu sắc vì hiếm khi có người bệnh bị tách đôi não bộ có hành vi kỳ lạ để cung cấp thông tin cho cuộc nghiên cứu về việc hai bán cầu não vận hành độc lập với nhau. Vì vậy Sperry đã xây dựng một số kỹ thuật sáng tạo để nghiên cứu phương thức hoạt động của một bán cầu não. Trong một tiến trình thực nghiệm, các đối tượng nghiên cứu đã bị bịt mắt (blindfolded) được phép dùng tay mặt sờ một vật rồi được yêu cầu nói lên tên gọi vật ấy. Bởi vì nửa phải của cơ thể kết nối với bán cầu não trái – tức bán cầu não chịu trách nhiệm nhiều nhất về khả năng ngôn ngữ – người bệnh bị tách đôi não bộ có khả năng nói được tên vật ấy. Nhưng khi dùng tay trái sờ vào vật, thì các đối tượng nghiên cứu đã bịt mắt không nói được tên vật ấy. Ngoài ra, thông tin về vật ấy đã được não bộ ghi nhận vì khi bỏ khăn che mắt ra, đối tượng nghiên cứu đã có thể chọn đúng các vật đã được sờ trong lúc che mắt. Như vậy thông tin có thể được nhận biết và ghi nhớ khi chỉ sử dụng duy nhất bán cầu não phải. Đến đây cũng cần nói là thực nghiệm này sẽ không thực hiện được với bạn – trừ phi bạn đã bị phẫu thuật tách đôi não bộ – bởi vì các dây thần kinh nối liền hai bán cầu não của một não bộ bình thường sẽ lập tức truyền đạt thông tin từ bán cầu não này sang bán cầu não kia, nên dù bạn sờ vào một vật gì với tay trái thì thông tin cũng được truyền sang bán cầu não phải, do đó không phân biệt được thông tin do tay phải hay tay trái truyền đạt). Dựa vào các thông tin rút từ được thực nghiệm giống như thực nghiệm trên ta đã thấy rõ là bán cầu não phải và trái đã được biệt hóa trong việc xử lý các thể loại thông tin khác nhau. Một điều quan trọng khác là ta phải nhận thức rằng cả hai bán cầu não đều có khả năng giúp ta hiểu biết (understanding), nhận biết (knowing), và nhận thức về thế giới (beins aware), tuy chúng hoạt động theo những phương thức có phần khác nhau. Như vậy, hai bán cầu não nên được xem là khác nhau về phương diện hiệu quả xử lý (processing efficiency) một số thể loại thông tin, chớ ta không nên xem chúng là hai bộ óc hoàn toàn tách biệt nhau. Vả lại, ở những người có não bộ bình thường, không bị tách đôi, các bán cầu não hoạt động tương thuộc nhau để giúp cho tư duy của những người này có thể đạt đến mức toàn bích và phong phú nhất mà loài người có thể làm được. https://thuviensach.vn TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN Roberts Feldman www.dtv-ebook.com Chương 2: Phần 5 “A há! Bạn đã có được Baby lý tưởng!” “Em (Anh) rất thích điều Anh (Em) đã làm cho Em (Anh)!” “Cứ làm đi!” “Thật khủng khiếp nếu bạn lãng phí trí tuệ!” Nghe có vẻ quen tai phải không? Hẳn là quen rồi, bởi vì bạn có thể đã nghe dược những câu này không biết bao nhiêu lần. Bất kỳ ngày nào, một người Mỹ bình thường cũng phải tiếp xúc với khoảng 300 quảng cáo. Tính trong một năm, các quảng cáo đã lên đến con số trên 100.000. Dĩ nhiên các nhà thiết kế quảng cáo không chỉ nhất thời quan tâm đến việc làm cho bạn nhớ đến các quảng cáo của họ. Để đạt được điều này họ đã cung cấp vật liệu để ươm mầm kỹ thuật mới gắn kết việc ứng dụng quảng cáo với khoa học tâm lý sinh học. Những nỗ lực đầu tiên để tìm hiểu sinh học hậu thuẫn cho quãng cáo đã khởi sự với những công cụ liên kết xung điện dược phát ra từ lòng bàn tay với các nội dung quảng cáo. Sử dụng một dụng cụ đo sự dẫn truyền xung điện dọc trong lòng bàn tay, các nhà thiết kế quảng cáo đã đo được từng khoảnh khắc một các mức độ chú ý dành cho các quảng cáo. Thí dụ như những người đang xem một mẫu thử nghiệm quảng cáo của hãng Kodak đã cho thấy sự chú ý ở mức cao nhất khi nhìn thấy hình ảnh một bé gái tóc thắt bím đang mỉm cười dược lồng vào mẫu quảng cáo, điều này cho phép các nhà thiết kế ra mẫu quảng cáo hiểu được là chính hình ảnh bé gái đó là then chốt cho sự thành công của mẫu quảng cáo do họ thiết kế. Những sáng kiến gần đây trong việc thử nghiệm độ hiệu quả của quảng cáo đã dựa trên công cuộc nghiên cứu về sự thật hóa của bán cầu não phải và trái. Công trình nghiên cứu được thực hiện trong một phòng thực nghiệm đã cho thấy các mẫu quảng cáo thu hút sự chú ý do có tính logic, thí dụ như những quảng cáo biểu diễn đề–mô (dùng thử) các sản phẩm, sẽ được xử lý tư duy bởi bán cầu não trái. Trái lại, các mẫu quảng cáo chủ yếu vận dụng cảm xúc dường như được xử lý tư duy bởi bán cấu não phải. Thông tin này đã giúp các nhà thiết kế quảng cáo dự đoán được các vấn để nghiêm trọng sẽ nảy sinh với các mẫu quảng cáo Thí dụ như một mẫu quảng cáo bắt đầu với hình ảnh một ông bố dang trò chuyện rất tình cảm và thân thương với cô con gái của mình sẽ dẫn đến sự xử lý tư duy chủ yếu bên bán cầu não phải. Nhưng khi mẫu quảng cáo đột ngột chuyển sang phần trình bày các thông tin về sản phẩm (đòi hỏi logic) do đó chuyển sang sự xử lý tư duy chủ yếu của bán cầu não trái, thì anh hưởng còn lưu lại của sự xử lý tư duy của bán cầu não phải có thể sẽ cản trở việc hiểu rõ các thông tin về sản phẩm vốn do bán cấu não trái xử lý tư duy. Điều quan trong cần nhớ là phần nhiều các công trình nghiên cứu về quảng cáo chỉ mới trong giai đoạn thực nghiệm và giả thuyền. Chưa có một kết quả cụ thể nào liên hệ sự thành công của một mẫu quảng cáo với việc xử lý tư duy do bán cấu não phải hoặc trái. Tuy vậy, việc các nhà thiết kế quảng cáo quan tâm đến các công trình khảo sát các dấu hiệu sinh học đáng chú ý trong các mẫu quảng cáo là một thí dụ thú vị về ứng dựng thực tiễn bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu trong ngành tâm lý sinh học. Hẳn các bạn còn nhớ ở phần trước cũng trong chương này chúng ta đã thảo luận về cấu trúc não liên quan đến các dạng kết nối nơron. Tuy nhiên các nhà tâm lý học có một phương thức khác đế nghiên cứu cấu trúc não căn cứ vào một liên hệ giữa các chức năng chuyên biệt, một mặt, với các cấu trúc của não, và https://thuviensach.vn mặt khác, với các tiến trình nhận thức phức tạp như tư duy (thinking), hiểu biết (understanding), nhận biết (perceiving), và ý thức (awareness). Theo một quan điểm mới về phương thức vận hành của não thì não được tổ chức thành nhiều hệ thống mô–đun. Các mô–đun não (brain module) là các đơn vị tách biệt thực hiện các công việc chuyên biệt. Được phân bố khắp não, các mô–đun này vận hành tương thuộc nhau và gần như đồng thời trong việc xử lý thông tin. Khái niệm căn bản làm cơ sở cho hướng tiếp cận kiểu mô–đun này là những khả năng mà trước đây đã được cho rằng nên xử lý như là một tổng thể thì nay được thấy là thật sự được cấu thành bởi nhiều hoạt động có tầm cỡ nhỏ hơn. Lấy thí dụ về khả năng xử lý thông tin thị giác của não chẳng hạn. Trước đây, người ta cho rằng trong não có một vùng duy nhất điều hành xử lý các tín hiệu thị giác. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thảo luận khi nghiên cứu về thị giác ở Chương 3, các chứng cớ ngày càng nhiều gợi ý là có những vùng tách biệt trong não liên quan đến những khía cạnh chuyên biệt khác nhau của thị giác. Thí dụ như một vùng não dường như xử lý các tín hiệu về màu sắc; một vùng khác chuyên xử lý sự chuyển động của hình ảnh; và còn một vùng khác nữa chuyên trách cảm nhận về độ nông sâu. Mỗi mặt này của thị giác được xử lý đồng lúc bởi một mô–đun tách biệt, sau đó thông tin sẽ được hội nhập thành một hình ảnh tổng hợp và toàn vẹn. Một nghiên cứu mới đây cho thấy mức độ biệt hóa mô–đun rất cao. Thí dụ như ngày nay người ta đã thấy dường như não bộ có thể xử lý ngôn ngữ viết và nổi độc lập nhau nhờ vào sự hiện hữu của các mô– đun tách biệt nhau. Thay vì có một hệ thống duy nhất để học các quy tắc trong một hệ thống ngôn ngữ, thì nay có lẽ các mô–đun tách biệt sẽ nghiên cứu phương thức phát âm các thuật ngữ, viết các thuật ngũ, phân tích nguồn gốc các thuật ngữ, cú pháp, và các khía cạnh khác của hệ thống ngôn ngữ. Cũng tương tự như với thị giác, mỗi đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ sẽ được xử lý đồng lúc và độc lập nhau, rồi sau đó các thông tin sẽ được tổng hợp. Các chứng cớ ngày càng nhiều về sự hiện hữu của nhiều mô–đun não bộ độc lập với nhau đã cung cấp cho chúng ta phương thức liên kết các nơron cá thể với ý thức tổng thể mà chúng ta có được khi làm người. Michael Gazzaniga, một nhà tâm lý sinh học nổi tiếng, đã dự đoán ràng điều mà đã cung cấp cho mọi người một thế giới quan thống nhất chính là một mô–đun duy nhất chỉ có ở loài người: “mô–đun thông dịch” (interpreter) khu trú ở bán cầu não trái. Theo Gazzaniga, mô–đun thông dịch này giúp chúng ta tự xây dựng các giả thuyết để giải thích các phản ứng của chúng ta. Mô–đun thông dịch đã cung cấp cho chúng ta phương thức phát triển và thay đổi các niềm tin của chúng ta về thế giới, cũng như hiểu điều gì đang xảy ra trong môi trường quanh ta. Hãy còn quá sớm để có thể nói giả thuyết của Gazzaniga đúng hay sai. Tuy nhiên, rõ ràng là não bộ và hệ thần kinh của loài người đang ngày càng bộc lộ các bí ẩn của chúng trước một đội ngũ các nhà tâm lý sinh học, các nhà nghiên cứu về nội thần kinh chuyên về nhận thức (cognitive neuroscientists), và các nhà nghiên cứu thuộc các lãnh vực khác. * Vỏ não (Cerebral cortex) bao gồm 3 vùng chính: vùng vận động, vùng cảm giác, và vùng điều phôi. Các vùng này điều khiển lần lượt cử động hữu ý, cảm giác, và các tiến trình trí tuệ cao cấp (bao gồm tư tưởng, ngôn ngữ, ký ức, và khả năng vận ngôn). * Hai bán cầu não tương đồng về mặt cấu trúc, nhưng dường như chúng chuyên trách các chức năng khác biệt nhau. Bán cầu não bên trái liên hệ chặt chẽ nhất đến ngôn ngữ và các kỹ năng nói, còn bán cầu não bên phải liên hệ đến các kỹ năng phi ngôn ngữ như năng khiếu âm nhạc, biểu lộ tình cảm, nhận thức mô hình, và xử lý các tín hiệu thị giác. https://thuviensach.vn * Hệ nội tiết tiết ra các kích thích tố, là các hóa chất ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và vận hành cơ thể. * Phản hồi sinh học là một kỹ thuật theo đó người ta học cách kiểm soát một số tiến trình sinh lý bên trong cơ thế, nhờ đó chữa trị được nhiều chứng bệnh chuyên biệt. 1. Thuỳ... nằm phía sau thùy trán và thùy... nằm phía sau thùy thái dương. 2. Một bác sĩ phẫu thuật gắn một điện cực lên một bộ phận thuộc não bộ của bạn và kích thích điện. Lập tức, cổ tay phải của bạn co giật mạnh. Rất có thể vị bác sĩ ấy đã kích thích một bộ phận thuộc vùng... trong não bộ của bạn. 3. Vùng vận động trong não bộ được phân thành những phân đoạn kiểm soát các phần khác nhau của cơ thể. Độ chính xác cần thiết cho các vận động của các phần cơ thể này càng cao thì diện tích tương ứng nằm trên não bộ càng lớn. Đúng hay sai?... 4. Các vùng cảm giác trong não bộ được phân theo kích thước của các cơ quan cảm giác. Như vậy, do da (cơ quan cảm giác) ở phần lưng con người rộng hơn so với da ở các đầu ngón tay (cơ quan cảm giác) nên phần nằm trong vùng cảm giác ở não liên kết với các cảm giác ở lưng sẽ lớn hơn nhiều so với phần liên kết với các cảm giác ở đầu ngón tay. Đúng hay Sai?... 5. Bạn trông thấy một người đàn ông được yêu cầu chuốt viết chì. Ông ta xoay đồ chuốt viết chì trong suốt năm phút mà không sao đút được cây viết chì vào lỗ chuốt được. Chứng bệnh có thể gây nên thể loại hành vi này được gọi là... 6. Các bán cầu não điều khiển phần cơ thể cùng phía với chúng, bán cầu trái điều khiển phần cơ thể bên trái, và bán cầu não phải điều khiển phần cơ thể bên phải. Đúng hay sai?... 7. Các lĩnh vực phi ngôn ngữ, như tình cảm và âm nhạc, được điều hành chủ yếu bởi bán cầu não..., còn bán cầu não... chịu trách nhiệm nhiều hơn về các kỹ năng nói và đọc. 8. Các lý thuyết hiện hành gợi ý rằng não bộ được tổ chức thành một bộ các... mỗi bộ ấy vận hành tương thuộc để thực hiện một công việc nhất định. 9... là một kỹ thuật theo đó người ta học cách theo dõi và cải biến các hiện tượng sinh lý, trong tương lai có kỹ thuật này có thể được áp dụng để giúp đỡ các sinh viên tập trung học tập. Hãy nghĩ đến hai người bạn từng quen biết. Hãy căn cứ vào mức độ khác biệt họ cho thấy mà ước đoán bán cầu não phải hoặc trái chi phối họ nhiều hơn. (Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương) Một khía cạnh khác của não bộ chưa được chúng ta xem xét là hệ nội tiết (endo–crine system), một mạng lưới truyền tin bằng hóa chất gởi các tín hiệu đi khắp hệ thống thần kinh thông qua sự tuần hoàn máu. Mặc dù bản thân nó không phải là một cấu trúc của não bộ, nhưng hệ nội tiết liên kết mật thiết với vùng dưới đồi (hạ đồi). Công việc của hệ nội tiết là tiết ra các kích thích tố (hormone) khác nhau. Kích thích tố là các hóa chất tuần hoàn theo máu để tác động lên sự vận hành hoặc phái triển của các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Giống như nơron, các kích thích tố dẫn truyền các tín hiệu đi khắp cơ thế, mặc dù tốc độ và phương thức dẫn truyền hoàn toàn khác biệt nơron. Trong khi các tín hiệu được thần kinh truyền đi với tốc độ tính bằng phần ngàn giây, thì các tín hiệu được kích thích tố truyền đi có thể phải tính bằng phút mới đến được nơi cần đến của chúng. Ngoài ra, các tín hiệu thần kinh di chuyển xuyên suốt các nơron theo những con https://thuviensach.vn