🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tạ Tiểu Nga Truyện Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents YỂU NƯƠNG TÁI THẾ KÊ KÊ KÊ DẬU THÔI VĨ TRIỆU CƠ ĐIỀN PHỤNG KIỀU KIM TRÚC TỰ KÍNH NHI HỒNG TUYẾN HÓA LANG NHI BÌNH ẨN TỬ MẪN DỰ THIỀU TÚ "TÔ HUỆ VÀ “CHỨC CẨM HỒI VĂN THI” ĐÀM CỬU LIỄU THANH KHANH NGÂN CHÂM PHẤN LANG PHÙNG HIỆP TẠ TIỂU NGA TRUYỆN THUÝ THUÝ TRUYỆN TÍ THỊ TU VĂN XÁ NHÂN TRUYỆN VĨNH CHÂU DÃ MIẾU KÝ https://thuviensach.vn TẠ TIỂU NGA TRUYỆN Tập truyện ngắn liêu trai Nhiều tác giả Dịch thuật: Phạm Xuân Hy Tập hợp, làm ebook: Cuibap Cover: db Nguồn: chimviet.free https://thuviensach.vn YỂU NƯƠNG TÁI THẾ 窅 娘 再 世 Tác giả : Vương Thao Bản dịch cuả : Phạm Xuân Hy Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH Chu Vị Hoàng tự là Bích Thần, hiệu là Trọng Du, người Kim Lăng, vốn dòng dõi thế gia đại tộc, nhưng đến đời Hoàng thì gia đình bắt đầu sui vi sa sút, trở thành bình dân. Nhưng Hoàng vẫn tự coi là con nhà gia thế, thường tỏ ra ngạo mạn, khinh đời. Gặp lúc giặc cờ đỏ Hồng Tú Toàn nổi dậy phản loạn, vây hãm Kim Lăng, rồi biến nơi đó thành kinh đô, làm thành hang ổ của giặc, trong gần mười ba năm. Ngôi nhà của gia đình Sinh, vốn rất to lớn rộng rãi, từng bị một viên tướng của Hồng Tú Toàn chiếm làm chỗ cư trú. Đến khi giặc bị quét sạch, quan quân tiến vào Kim Lăng, ngôi nhà cũ ấy lại trở thành chỗ ở của quan quân. Bấy giờ, những người trong gia đình Sinh phải bỏ xứ phiêu linh tứ tán. Riêng chàng, một thân một mình, bôn đào đến mãi vùng Trấn Nam xa xôi. Mười năm sau, khi Sinh trở về Kim Lăng, thì ngôi nhà bị bỏ hoang, không ai ở, cửa đóng then cài đã lâu, nên Sinh phải nhờ người cắt bỏ tạp thảo, gai góc, gạch ngói, quét dọn bụi bặm cho sạch sẽ, rồi thuê thợ tô vôi làm mới lại. Nhưng nhà rộng người thưa, cứ đêm đêm, thường thấy lân tinh đom đóm lập lòe , bay lên bay xuống.Từ những ngõ ngách tối tăm, hay những góc nhà vắng vẻ, luôn vẳng nghe có tiếng chồn kêu cú hú, khiến gia nhân sợ hãi không ngủ yên được. Nhưng riêng Sinh chẳng sợ hãi gì. https://thuviensach.vn Một đêm, chàng vừa chợt tỉnh dậy, thình lình cảm thấy có người luồn tay vào trong chăn của mình, nghe giá băng lạnh lẽo, bừng mắt ra nhìn, té ra là một con a hoàn đi chân đất. Mặt mày nhem nhuốc, xấu xa, bèn quát đuổi đi : -Tay lạnh như tay ma, dám đến mó vào người ta, ngươi không biết tự ngượng à ? Con a hoàn đỏ mặt, xấu hổ, lẳng lặng tự ý thoái lui, ra đến ngoài cửa, miệng khe khẽ lẩm bẩm : -Đáng lẽ để cho cô ta tự đến, xem anh chàng có còn gối cao ngủ yên không ! Sinh biết là bị ma trêu, tuy thế, cũng chẳng sợ gì . Đứa a hoàn đi khỏi một lúc, Sinh thấy có người vén rèm bước vào, nói : -Chồng con đứa nào, dám cả gan dọa nạt đứa tỳ nữ dại khờ nhà người ta vậy ? Sinh nhìn người mới đến. Thì ra là một nữ lang, tuổi khoảng mười bẩy mười tám. Đôi lông mày vừa cong vừa đen, tú lệ như mày ngài. Mái tóc búi cao tròn ở trên đỉnh đầu, đẹp như chim phụng. Sinh tìm áo quần để mặc, tính đứng dậy, thì nữ lang đã đến trước giường, cản lại, rồi ngồi ghé xuống bên cạnh, nói : -Trời lạnh như thế này, chi bằng quấn chăn, tựa gối, đối diện nhau mà tán gẫu ! Sinh hỏi : -Nửa đêm khuya vắng, ngoài trời tuyết đổ, sao nàng lại lặn lội giá rét mà đến đây ? Nữ lang mắt rươm ruớm nước mắt, đáp : -Vừa rồi cãi nhau với người dì, nên tức giận bỏ nhà ra đi. Bụng còn đang hoang mang, lo không biết đêm nay ngủ chỗ nào, thì vừa lúc đi qua nhà chàng, thấy khe cửa còn le lói ánh đèn, biết là chàng chưa ngủ, nên vào quấy quả một chút. Lại hỏi : -Cái con a hoàn xấu xí vừa rồi có phải tay chân của nàng đấy không ? https://thuviensach.vn Nữ lang trả lời : -Đó là đứa đầu bếp, lo việc cơm nước cho người dì của thiếp đấy mà! Khi hỏi đến tính danh, tịch quán, thì nữ lang tự giới : -Thiếp họ Phùng, tự là Hương Lân, người gốc Dương Châu, song thân đều đã qua đời cả rồi, vì thế phải đến sống nhờ ở nhà người dì. Tối qua người chú dượng xuống xóm Tầm Dương, thiếp lấy lời phải khuyên bảo người dì, lại bị người dì lăng nhục, vì thế mà bỏ nhà ra đi . Sinh gan hỏi đầu đuôi. Đáp : -Truyện phòng the khuê các, chẳng đáng kể cho chàng nghe làm gì ! Hai người lan man truyện trò hồi lâu, rồi cùng bông lơn hài hước.Lát sau, Sinh lần tay vào đôi gò bồng đảo của nàng, thấy trơn nhẵn, tròn trịa, đầy đặn, mà mềm mại khác hẳn những cô gái khác. Bèn đùa: -Đây chính là ngọn đậu khấu mới nhú vào đầu tháng hai ! Nữ lang đỏ bừng mặt, như có vẻ không cầm được lòng. Sinh lại bảo : -Đêm nay khanh không có chỗ về, chi bằng ở lại đây, cho ta khỏi cảnh gối lẻ chăn đơn, bớt cô tịch. Nói rồi thay nàng cởi bỏ giây quần, yếm thắm, hài vớ. Nữ lang đẩy ra, không chịu.Sinh càng ghẹo thêm. Cuối cùng chàng nắm được chân nữ lang, thoát được đôi hài của nàng ra. Ngắm nghía , thấy mũi hài nhỏ, nhọn như mũi trủy thủ, còn đế hài được làm bằng một thứ gỗ thơm, điêu khắc rất là tinh sảo, bên trong để mạt sạ hương, mùi thơm nhuốm đầy tay, khiến Sinh tâm thần mê mẩn, tiêu hồn. Đêm đó, Sinh cùng nữ lang yến nỉ , oanh non, tỉ tê tâm sự, tận tình mây mưa như điên, mặc cho trăng tà dòm ngoài song cửa. Rồi gối đầu tay nhau mà ngủ, mãi cho đến lúc mặt trời đã lên cao, lúc nào không biết. https://thuviensach.vn Nữ lang dậy trước, đánh thức Sinh, nói: -Gớm ! Ngủ quên cả trời sáng. Nói xong, lấy quần áo mặc vào người, hẹn Sinh buổi tối lại đến. Sinh không chịu, nắm vai nàng níu lại, không cho đi.Từ đấy, nữ lang ngụ hẳn tại nhà Sinh, trông nom cơm nước, thay Sinh mua bán chi thu. Nghiễm nhiên như vợ chồng. Sinh vốn chưa lấy vợ, bấy giờ bèn đặt một bữa tiệc thịnh soạn, mời khắp họ hàng, bè bạn đến dự, rồi bảo nữ lang ăn mặc hoa lệ rực rỡ, đi ra chào khách. Khách khứa ai cũng tấm tắc khen nàng kiều diễm, đẹp như tiên nữ. Ở được ít lâu, một hôm giữa nửa đêm, Sinh thấy nàng nức nở sụt sùi, lấy làm kinh ngạc, cật hỏi duyên cớ. Nàng đáp : -Hôm nay, thiếp đứng chơi ngoài cửa, thì con nữ tì ngày hôm trước đi qua, nó thấy thiếp, đột nhiên tiến đến hỏi thăm thiếp, báo cho thiếp là người dì của thiếp tìm thiếp đã lâu, nay đã biết nơi chỗ thiếp ở, sớm chầy thì cũng đến đây bắt về, thiếp ngại vì thế mà sinh ra kiện tụng. Sinh nói : -Truyện đó không hề gì ! Khanh không còn cha mẹ, thân do mình làm chủ, dù có ăn ở nhà người dì, nhưng đâu phải bà ấy đã nuôi khanh từ bé cho đến lớn đâu. Giả sử có kiện cáo, cũng chẳng hợp lý. Từ lúc khanh đến nhà ta, ta đã sớm lo liệu trước rồi. Có sẵn người mai mối làm chứng, và giá thú làm bằng. Dẫu người dì của khanh có một trăm lưỡi, cũng khó mà biện bác nổi. Nữ lang nói : -Tuy rằng như thế, nhưng sớm lánh đi thì hay hơn.nay thiếp chỉ nhắc đến tên dì ấy mà lòng đã sợ, huống chi là gặp mặt. Thiếp có người chú làm quan ở Võ Xương, mình đến đó nương nhờ chăng ? Sinh vốn tính ham thích viễn du, nay nghe nàng nói thế, bè nhận lời, rồi sắm sửa hành trang lập tức lên đường ngay. Chừng đến Tô Châu, Sinh buộc thuyền đậu ở ngoài cửa Kim Sương Môn.Ban đêm, trên không trăng vừa mới mọc, sáng vằng https://thuviensach.vn vặc.Nữ lang dựa bên sông cửa, chăm chú nhìn về phía xa.Chỉ thấy mây nước tiếp liên trên dưới một mầu.Một chốc, có một chiếc thuyền lướt sóng thừa phong chèo đến, đậu sát gần thuyền của Sinh.Rồi có người đưa danh thiếp sang, muốn được gặp Sinh.Chàng thấy lạc khoản đề tên là " Lý Trùng Quang", bụng lấy làm lạ, vì chàng không hề quen biết gì người này, tại sao lại gửi danh thiếp cho chàng thế này.Sinh tính từ tạ. Nhưng khách đã ngang nhiên bước lên thuyền, đi thẳng vào trong khoang. Nữ lang vội vã lẩn vào phía sau. Khách chắp tay hướng Sinh hành lễ. Chàng thấy khách mình khoác áo da điêu, đầu đội mũ da chồn, phục sức hết sức hoa lệ, sang trọng. Biết không phải người thường. Bèn mời ngồi cùng nhau đàm đạo. Khách tỏ ra người học rộng hiểu nhiều, khi bàn luận văn thơ thì dẫn cổ trưng kim, phân tích ngọn nguồn, càng khiến Sinh thêm bội phục sự uyên bác của khách. Hai người truyện vãn mãi cho đến lúc đuốc tàn, trời gần sáng, khách mới từ giã ra về. Ngày hôm sau, bỗng gió to mưa lớn, thuyền bè đều phải đậu lại, không đi được, Sinh bèn sang thuyền của khách để đáp lễ. Khách thấy Sinh đến, tỏ ra rất mừng, nói: -Mưa to gió lớn như thế này, được huynh quá bộ đến chơi, thật cũng đỡ tịch mịch ! Rồi sai bầy tiệc khoản đãi. Sinh thấy đồ ăn thức nhắm đều là những thứ sơn trân hải vị, lạ lùng, hiếm quý. Trong lúc ăn, khách bỗng nhắc đến những sự hưng vong của các triều trước, miệng giảng tay khua, như đích thân mục kích sự trị loạn từ thời Ngũ Đại. Rượu được vài tuần, khách truyền gọi bọn ca nữ ra hát làm vui trợ hứng, và bảo với Sinh rằng : -Rượu mà cứ uống tì tì thì không thú, không phải cách đãi bạn quý ! Khách nói xong, Sinh đã thấy một bọn ba bốn ca nữ đi ra. Cô nào cũng mắt xanh, răng trắng, đều thuộc loại hương sắc xinh đẹp.Riêng cô đi cuối cùng, ôm đàn tì bà, thì diễm lệ hơn cả. Họ https://thuviensach.vn cùng nhau cất tiếng đồng ca. Thanh âm cao vút như hành vân lưu thủy. Lại có lúc ròn rã như tiếng xé lụa. Sau đó, thì chuyển sang độc tấu tì bà. Tiếng đàn du dương lên xuống, lúc trầm lúc bổng, bi ai quyến luyến, khiến người nghe cũng hi hu không cầm được lệ. Khách bảo với Sinh : -Đây là khúc “Niệm gia sơn phá”, nhắc lại truyện cũ mà nát ruột đau lòng ! Sinh hỏi : -Đệ nghe nói khúc hát này do Nam Đường Hậu Chủ sáng tác, các ca nữ của huynh vì sao lại học được ? Khách đáp : -Đệ nói ra, e làm huynh sợ ! Đệ đây chính là Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục. Tuy chết đã cả ngàn năm, mà hồn phách chưa tan, nên vẫn thường xuống rong chơi trần thế, cho tiêu hết mối hờn uất trong tim. Rồi lấy tay chỉ vào người cơ thiếp ngồi cuối, giải thích : -Cô này là cung nữ Lưu Châu, thiên tính rất thông minh, được đệ yêu quý lắm ! Rồi lại chỉ người cơ thiếp mặc áo tím, nói: -Còn đây là Bảo Nghĩa Hoàng A Yêu, cùng bị bắt đưa về miền Bắc chung với đệ, rồi chết ở Đại Lương, đến nay nghĩ lại, lòng còn thương tiếc. Sinh tử tế nhìn kỹ, thấy nàng có sắc đẹp kinh hồn. Cử chỉ lại phong lưu tao nhã. Dung mạo diễm lệ. Đôi mắt long lanh như hàm tiếu, đúng là một tuyệt thế giai nhân. Sau đó, khách lại giới thiệu đến hai người cơ thiếp khác, ngồi ở mé ngoài : -Còn đây là Thu Thủy và Khánh Nô. Lúc đó, Sinh nghe có tiếng ca nữ thổi bài "Thủy Long Ngâm". Âm thanh bay bổng lên không trung, nghe thánh thót, du dương, tựa hồ như làm cho trăng mờ mây đọng. Khách nói : -Đó chính là những giọt châu của nhà họ Kiều đấy ! https://thuviensach.vn Sinh hỏi : -Nghe đồn Lý huynh còn có người mỹ nữ sủng ái tên là Yểu Nương, nay ở đâu ? Đáp : -Nàng nay đã xuống cõi trần, làm vợ huynh để trả cái nghiệt duyên phong lưu năm trăm năm trước, nên dẫu là người yêu dấu cũ của đệ, cũng không tiện gọi nàng ra đây, e nẩy sinh đố kỵ. Sinh nghe lời khách nói thế, lòng cảm thấy ngượng nghịu, bất an. Nhưng khách đã cười, bảo : -Giang sơn còn chẳng giữ nổi, huống hồ là những cơ thiếp ? Bất quá, Yểu Nương nay thuộc về huynh cũng chỉ là tạm thời, chứ không phải việc trường cửu. Xin huynh hãy yêu thương nàng, đừng để cho thời gian đẹp đẽ trôi đi mất. Nói xong, sai Lưu Châu rót rượu cho Sinh, rồi tiếp : -Mời huynh cạn hết chén này, xin mừng huynh đã được "thiên cổ mỹ nhân", người đẹp ngàn năm cũ Sinh nâng chén uống một hơi cạn. Lần lượt sau đó, từ Bảo Nghĩa trở xuống, các nàng cơ thiếp của Hậu Chủ, luân lưu rót rượu mời Sinh. Chàng đều không từ chối. Sinh hỏi khách : -Nghe đồn Bảo Nghĩa có tài thư pháp, đạt đến chỗ tuyệt diệu của họ Chung, họ Vương, chuyên lo việc văn phòng tứ bảo, chẳng hay đệ có thể thưởng thức cái tài đó của nàng chăng ? Rồi lấy ra một tấm lụa mộc để Bảo Nghĩa viết chữ. Khách sai thị nữ mang nghiên mực, bút lông ra. Bảo Nghĩa ngồi đối diện với Sinh, vung tay múa bút, khoảnh khắc chữ viết đầy trên bức lụa, sau đó dùng ấn ngọc in lên một nét son hổng tươi rói. Sinh ngồi uống một mạch từ giờ ngọ đến giờ dậu, chừng cũng đã có vẻ hơi túy lúy, nhân sợ thất lễ, khước từ không uống thêm nữa. Khách bèn bảo Lưu Châu ca tiễn hành. Tiếng ca êm ái dịu dàng, lời lời uyển chuyển, dư âm quấn quýt xoay vần bất tuyệt. Khách giải thích cho Sinh : https://thuviensach.vn -Hai khúc hát này do Chiêu Huệ Hoàng Hậu sáng tác, tên gọi là "Yêu Túy Vũ " và "Hận Lai Trì ", may nhờ có Lưu Châu thuộc lòng, bằng không chỉ có trên thiên đình, đâu còn được lưu truyền chốn nhân gian nữa. Nói xong, khách nắm tay Sinh để từ biệt, nói: -Từ đây u minh hai nẻo, không biết bao giờ mới lại gặp lại nhau, xin huynh chớ đem chuyện này mà viết thành truyện, e làm người nghe kinh hãi. Rồi sai người tiễn Sinh xuống thuyền, gửi theo hai cái rương để tặng Yểu Nương, lại dặn dò : -Nhớ nói với Yểu Nương hãy phục thị huynh cho tử tế, đừng hoài niệm gì đến đệ nữa. Tặng vật trong hai rương này tuy nhỏ bé, nhưng đủ để sống suốt đời không hết. Cả năm nàng cơ thiếp của khách cũng đều đem tặng vật ra cho, và ân cần gửi lời thăm hỏi đến Yểu Nương. Lúc Sinh về đến thuyền của mình thì chiếc thuyền của khách cũng vội vã khởi hành. Mái chèo rẽ sóng như phi. Chớp mắt không còn thấy hình tích chi nữa. Sinh đem truyện kỳ dị vừa gặp tường tận thuật lại cho Yểu Nương nghe.Nàng cảm thấy mơ hồ như từ một kiếp xa xôi nào khác, lại còn trách Sinh đặt điều bịa chuyện để đánh lừa nàng. Sinh bảo : -Lời nói còn có thể bịa được, chứ những tặng phẩm này đâu có thể ngụy tạo ra được ! Rồi mở rương ra coi.Thấy trân châu bảo vật chất đầy, chẳng biết gọi tên là gì. Sinh bèn đem một vài vật đến một tiệm kim hoàn ở cổng Ngô Môn bán được ngàn lạng. Lúc hai người đến Hán Khẩu, gặp dịp một viên kinh quan trong triều tìm mua một viên ngọc lớn, đã từng đến tận Quỳnh Đảo Tân Châu mà không mua được. Sinh đem ngọc ra cho coi.Viên kinh quan ngạc nhiên sửng sốt khen thầm, liền bỏ năm vạn tiền ra mua.Tuy thế, tặng vật của khách https://thuviensach.vn cho Sinh cất dấu vẫn còn nhiều. Chàng đem một số tiền lớn đến Hán Khẩu thuê nhà cửa và mở tiệm buôn bán ở nơi thị tứ kiếm lời. Sắp xếp nhà cửa xong xuôi, Sinh mới đến Võ xương để tìm người chú của Yểu Nương, nhưng người chú của nàng mấy hôm trước đó vì việc công đã đi Dự Chương rồi. Từ khi, Sinh bỏ nghiệp nho để làm thương mại, buôn bán lời một thành ba, trở nên giầu sang sung túc, ăn uống hưởng thụ ngang với bậc công hầu. Nữ tì, nam bộc thường đầy nhà. Sinh lại đem tiền đến Tô Châu mua bốn người tì nữ nữa, đều thuộc hạng nhan sắc diễm tuyệt về nhà nhờ nhạc sư truyền dậy ca hát, và sáng chiều học thêm chữ nghĩa, vì thế họ hiểu thêm về âm luật, kinh sử. Yểu Nương vốn biết chữ, nay lại biết ngâm thơ làm phú, cùng chàng xướng họa, khiến Sinh tâm mãn ý túc, tự nhủ : -Bây giờ ta mới thực hiện được nguyện ước ngày xưa, thật là không ngờ.Tuy thế, ngôi nhà cũ không thể không tu sửa, để sau này về già còn có chỗ an dưỡng. Rồi sai một người nô bộc tài giỏi mang tiền về Kim Lăng để sửa lại ngôi nhà cũ cho thật to lớn. Một hôm, Sinh đến ngao du ở Hoàng Hạc Lâu, đi mỏi chân, bèn ngồi xuống một hiên đá nghỉ ngơi, thấy trước mặt có một thiếu phụ quý phái , khoảng bốn chục tuổi, ngồi trong một chiếc kiệu đi tới.Thiếu phụ trông vừa xinh tươi vừa phong lưu văn nhã, đẹp chẳng kém chi nàng ái phi họ Từ của Lương Vũ Đế. Đằng sau, lại có đám a hoàn theo hầu.Trong đó, Sinh thấy có cả đứa nữ tì xấu xí ngày trước. Nó dường như cũng nhận ra chàng, nên đến bên người thiếu phụ ghé tai thì thào mấy lời.Thiếu phụ tiến đến trước mặt Sinh, vén áo nghiêng mình thi lễ, nói : -Chàng là rể bên ngoại nhà ta, ngày trước lấy cháu gái ta, sao không cho người mai mối đến hỏi, nhà cửa ở đâu, ta có thể ghé thăm cho biết được chăng ? Sinh nghe hỏi, lòng cảm thấy ngượng ngùng, không biết trả lời ra sao, thì thiếu phụ đã sai bộc tòng mang kiệu đến, cùng Sinh đồng hành. https://thuviensach.vn Lại bảo với Sinh : -Tệ xá cũng gần đây thôi, xin mời chàng ghé thăm trước, sau này họ hàng qua lại, cũng dễ nhận ra cửa nẻo. Đi chừng hơn nửa dậm, thì phu kiệu dừng lại. Sinh thấy nhà cửa nguy nga.Rõ ra là thế gia đại tộc.Bên trong cửa có bốn năm người đàn ông đứng sẵn để chào đón khách, Sinh bước lên đại đường cùng thiếu phụ tương kiến. Chàng cung kính lấy hàng tiểu bối mà hành lễ. Thiếu phụ dẫn chàng vào trong nội thất, rồi sai tì nữ gọi người con gái là Tú Cô ra. Khoảnh khắc, nghe có tiếng bội ngọc leng keng. Rồi mùi sạ lan thơm lừng xông vào mũi. Một người con gái dáng đẹp như ngọc, tuổi khoảng hai tám, bước đến bên cạnh Sinh. Người thiếu phụ bảo : -Đây là con gái ta, hai người có thể gọi nhau bằng anh em cũng được ! Sinh liếc mắt nhìn, thấy hoa nhường nguyệt thẹn, tuyệt thế giai nhân.Sau đấy, thiếu phụ sai bầy tiệc khoản đãi Sinh.Chàng được cả hai mẹ con song song bồi tọa, lần lượt rót rượu khuyên mời. Chàng cũng tận tình đánh chén no say. Người con gái đưa sóng mắt như nước hồ thu, liếc nhìn Sinh rồi dùng những ngón tay thon nhỏ của nàng véo vào tai chàng nói đùa : -Này ! Tớ mời mà không uống thì tớ đổ rượu cho đấy . Sinh mỗi lúc mỗi cảm thấy thần hồn điên đảo, bất giác say mèm, rồi nằm gục xuống tràng kỷ. Mãi cho tới lúc trời tối lờ mờ mới tỉnh lại.Chàng thấy gió lạnh như kim châm, sương rơi đầy đất, bóng trăng chìm bên vách núi.Trong nội thất, cả người lẫn vật đều không thấy đâu, còn chàng, té ra đang nằm trên một nấm mồ hoang, mới biết là gặp ma, bèn thất thểu tập tễnh trở về nhà. Chàng bước vào trong buồng tìm Yểu Nương, nhưng nàng cũng biến đâu mất, chỉ thấy trên bàn có một lá thư từ giã. Sinh buồn chán đến phát cuồng, xuống tóc, bỏ đi vào núi . Rốt cuộc, chẳng ai biết cuộc đời Sinh sau này ra sao cả. https://thuviensach.vn _________________________________________________________ __________________ Vài hàng về tác giả : Vương Thao (王 韜 ) Vương Thao (1828-1878) tự là Trọng Thao, hiệu là Thiên Nam Độn Tẩu, người Trường Châu tỉnh Giang Tô, là học giả và nhà văn thời Thanh Mạt.Năm 18 tuổi ông đỗ tú tài, sau đo thi nhiều lần không đậu, ông bèn bỏ thi cử.Năm 22 tuổi , cha ông qua đời, ông đến Thượng Hải làm trong Mặc Hải Thư Quán với một người Anh trong ba chục năm.Nhân thế đươc tiếp xúc rộng rãi với các tư tưởng Tây phương. Khi xẩy ra cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc, ông từng nhiều lần viết thư cho nhà đương cuộc Thanh triều hiến phương lược " bình tặc ". Năm 1862, ông về Tô Châu thăm mẹ bịnh, rồi đổi tên là Hoàng Uyển, đề nghị với quân đội Thái Bình Thiên Quốc mượn thế lực ngoại quốc để mưu đồ trung nguyên .Khi quân Thanh chiếm Tô Châu, tìm được bức thư kiến nghị ấy của ông, ghép ông vào tội thông phỉ và ra lệnh bắt, may nhờ người Anh giúp ông trốn được ra Hương Cảng. Sau đó theo người Anh sang Anh Quốc, phiên dịch các thư tịch cổ điển, nhờ đó ông có cơ hội đi du lịch các nước Pháp, Anh, Nga, rồi trở về Hương Cảng làm chủ bút báo Tuần Hoàn Nhật Báo, đề xướng biến pháp, đi trước cả Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cả chục năm. Ông mất năm 1878, để lại một số tác phẩm như : -Thao Viên Thi Văn Tập -Độn Quật Lan Ngôn -Tòng Ẩn Mạn Lục -Tòng Ẩn Tỏa Thoại Những truyện trong tác phẩm Tòng Ân Mạn Lục được viết theo thể tài chí quái, bằng lối văn ngôn như Liêu Trai Chí Dị, ca tụng những cuộc tình chung thủy, đề cao nam nữ tự do luyến ái, chỉ trích những tệ nạn hủ bại của lớp quan lại phong kiến đương thời.Văn pháp lưu loát, ngôn từ tế nhị, tình tiết cố sự uyển chuyển khúc triết chen lẫn với nhiều bài thơ hay. https://thuviensach.vn Một số truyện trong Tòng Ẩn Mạn Lục đã được chúng tôi dịch và in trong Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây. Chú thích : Yểu Nương (窅 娘) : Yêủ Nương là tên của một nàng cung nữ được Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục.Yểu Nương chẳng những có dáng người tha thướt, lại tài nhẩy múa.Nàng dùng vải bó cho chân nhỏ bé và cong như cung trăng.Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục làm một cái đài hoa sen bằng vàng, cao sáu tấc, trên để những báu vật, và các loại hoa đẹp để cho nàng múa, trông phiêu nhiên như tiên nữ, rất được Hậu Chủ yêu thương sủng ái, và dùng mấy chữ :"Tam thốn kim liên 三 寸 金 蓮) để tán thưởng nàng. Sau nầy, trong thi văn Trung Quốc thường dùng chữ "Kim Liên " để hình dung đôi bàn chân nhỏ của phụ nữ.Có thể nói tục bó chân của người đàn bà Trung Hoa bắt đầu từ Yểu Nương, rồi lan truyền ra dân gian, đời này sang đời khác, được sùng thượng đến nỗi người đàn bà nào không có bàn chân nhỏ, thì bị đàn ông chê ghét, có thể không lấy được chồng. Hủ tục bó chân nầy phải chờ đến đời Khang Hy, năm 1664, mới ra lệnh cấm.Nhưng cấm lệnh của Khang Hy cũng chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn, thì bị phe bảo thủ chống đối, nên năm 1668, Khang Hy theo lời tâu của Bộ Lễ rút lại lệnh cấm. Đến cuộc cách mạng Tân Hợi, hủ tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa mới thực sự bị tiêu diệt. Kim Lăng (金 陵 ) : Nhà thơ Lý Bạch có hai bài thơ nổi tiếng nhắc đến Kim Lăng, ở hai hoàn cảnh khác nhau là Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, và Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt. Kim Lăng nay là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô. Theo tác giả Cô Vong Ngôn, một truyện văn học cực dâm, thì Kim Lăng bị đổi nhiều tên gọi khác nhau, theo từng triều đại.Thời Xuân Thu, Kim Lăng thuộc nước Ngô, thời Chiến Quốc thuộc nước https://thuviensach.vn Việt, sau thuộc nước Sở. Vì vua Sở Uy Vương dựng lăng chôn vàng để trấn yểm đất đó, nên mới gọi là Kim Lăng. Đến đời Tần Thủy Hoàng thì đổi là Mạt Lăng.Thời Tam Quốc, năm 212 CN Tôn Quyền xây cất Thạch Đầu Thành và đến năm 229 Quyền đóng đô ở đó mới đổi Kim Lăng là Kiến Nghiệp.Đời Tây Tấn, vì tị húy Tư Mã Nghiệp đổi Kiến Nghiệp là Kiến Khang.Các đời Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần và Nam Đường đều đóng đô ở đó. Đời Tùy là Tưởng Châu. Đời Tống là Kiến Khang Phủ. Đời Nguyên là Tập Khánh . Đến Minh Thái Tổ lại đổi là Ứng Thiên Phủ. Năm 1421 CN, Minh Thành Tổ rời đô đến Bắc Kinh, Ứng Thiên Phủ mới gọi là Nam Kinh Năm 1853 CN, Nam Kinh trở thành quốc đô của Hồng Tú Toàn và gọi là Thiên Kinh. Năm 1927 Trung Hoa Dân Quốc thành lập, đến năm 1930 lại gọi là Nam Kinh Thị Hồng Tú Toàn (洪 秀 全) : Nguyên tác viết là "Xích khấu chi loạn 赤 寇 之 亂", vì vào thời điểm tác giả viết truyện này, Hồng Tú Toàn còn bị coi là giặc, và khi khởi nghĩa dùng mầu cờ đỏ, nên tác giả dùng chữ "xích khấu" để ám chỉ Hồng Tú Toàn giặc, chứ chưa được tôn xưng là một nhà cách mạng như ngày nay ở lục địa. Hồng Tú Toàn sinh năm 1814 mất năm 1864. Ông là người Hoa Huyện tỉnh Quảng Đông , nguyên danh là Hỏa Tú, rồi lại đổi là Nhân Khôn, và mãi đến khi lớn mới tự lấy tên là Tú Toàn. Ngay từ hồi còn bé, Toàn là đứa trẻ hiếu học, nên rất được thân phụ thương yêu.Khoảng năm Tuyên Thống nhà Thanh, Toàn ra nhập "Bái Thượng Đế Hội", nhận Chu Cửu Đào làm sư phụ. Khi Cửu Đào mất, Toàn được đồ chúng đưa lên làm giáo chủ. Để thu hút và mê hoặc quần chúng, Toàn phao ngôn mình là con thứ hai của thượng đế, em của Chúa Giê Su. https://thuviensach.vn Năm 1851, với sự phò tá của Dương Tú Thanh và Thạch Đạt Khai, Toàn khởi nghĩa ở thôn Kim Điền, tỉnh Quảng Tây, rồi đem quân đánh chiếm châu Vĩnh An, kiến lập Thái Bình Thiên Quốc và đem quân Bắc phạt, liên tiếp chiếm được nhiều tỉnh, Năm 1853, Toàn công hạ Kim Lăng (tức Nam Kinh ), tự xưng là Thiên Vương và đóng đô ở đấy.Toàn ra lệnh đổi Dương Lịch, cải y phục, đề xướng tân học, phế bỏ tục bó chân của phụ nữ, phế bỏ xướng kỹ, cấm nha phiến. Quân triều đình nhiều phen bị Toàn đánh bại. Nhưng về sau vì nội bộ lãnh đạo mâu thuẫn, các tướng đố kỵ giết hại nhau, khiến lòng dân ly tán.Thái Bình Thiên Quốc bị Tăng Quốc Phiên và Tả Tôn Đường, những trọng thần của Thanh triều, đánh bại. Năm 1964, Thiên Kinh bị phá vỡ, Hồng Tú Toàn uống độc dược tự tử.Thái Bình Thiên Quốc bị diệt vong. Tầm Dương (潯 陽) : Tầm Dương là tên một quận đời Đường, nay thuộc thị trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Thời Tùy đặt tên là Bồn Thành, sang đến nhà Đường mới cải là Tầm Dương. Nhà thơ Bạch Cư Di bị biếm làm Tư Mã Giang Châu, từng để lại dấu chân của mình ở địa danh này, qua bài thơ nổi tiếng " Tỳ Bà Hành 琵 琶 行 ", mở đầu bằng câu :" Tầm Dương giang đầu dạ tống khách ". Sau này, khi Tống Giang , thủ lãnh của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc, bị đầy đến Giang Châu, ngồi trên lầu uống rượu, ngắnm mưa rơi trên sông Tầm Dương, say rồi phẫn kích, đề phản thi mà bị bắt. Nam Đường Hậu Chủ (南 唐 後 主): Nam Đường(937-975) là một triều đại trong thời Ngũ Đại Thập Quốc (907 -975) do Lý Thăng kiến lập.Hậu Chủ của vương triều tên là Lý Dục, thường gọi là Lý Hậu Chủ, tự là Trùng Quang, hiệu là Liên Phong Cư Sĩ, sinh năm 937 CN, mất năm 978 CN Năm 961CN Lý Dục được phong làm Thái Tử, lên nối ngôi cha. Là một ông vua tài hoa phong nhã, giỏi thơ văn, hội họa, âm luật và đặc biệt về từ khúc.Trong suốt thời gian tại vị, Hậu Chủ https://thuviensach.vn không lo nhiều đến chính sự mà chỉ chuyên chú vào những yến tiệc, ca vũ, vui đùa cùng bầy cung tần mỹ nữ. Những câu truyện diễm tình của Hậu Chủ với những giai nhân tri kỷ cũng như những bài từ của ông được người đời đua nhau tường thuật truyền tụng.Đặc biệt là ông từng sủng ái nàng cung phi Kiều thị.Kiều thị là người rất thông minh, viết chữ rất đẹp, lại tôn thờ đạo Phật, Hậu Chủ tự tay viết "Kim Tự Tâm Kinh " để tặng nàng Năm 975, Nam Đường bị Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn diệt, Kim Lăng bị phá vỡ, Hậu Chủ bị bắt làm tù binh.Trước cảnh quốc phá gia tan, Hậu Chủ tuy đau đớn như đứt tùng khúc ruột, nhưng vẫn không bỏ được "tật" phong lưu, vung bút viết một bài từ để đời, tả cảnh vong quốc, lời lẽ rất là thê lương, đau đớn, đó là bài "Lâm Giang Tiên." Hậu chủ bị đưa về Biện Kinh, hai năm sau thì bị Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa sai em là Triệu Đình Mỹ đánh thuốc độc chết. Sau khi Hậu Chủ mất, Kiều thị đã viết lại "Kim Tự Tâm Kinh" , chữ viết rất đẹp, đem dâng vào chùa Tướng Quốc để cầu phúc cho Hậu Chủ. Lạc khoản (落 款) Ký tên trên những thư tín, lễ phẩm, thư, họa thì gọi là lạc khoản Ngũ Đại Thập Quốc (五 代 十 國) : Năm 907 CN, Chu Ôn diệt nhà Đường xưng đế, lấy quốc hiệu là Lương, sử gọi là Hậu Lương, chiếm một phần lớn phía Bắc nước Tầu, kế tục sau đó xuất hiện các nước như Hậu Đường, Hậu Hán, Hậu Chu, Hậu Tấn. Sử gia gọi năm nước này là thời kỳ Ngũ Đại. Đồng thời với năm nước này, ở phía nam nước Tầu cũng xuất hiện trước sau 10 nước là Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Sở, Mân, Nam Hán, Tiền Thục, Hậu Thục, Kinh Nam, Bắc Hán.Năm 979 CN, các nước này bị Triệu Khuông Dẫn tiêu diệt, kết thúc cục diện thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Đậu khấu (荳 蔻): https://thuviensach.vn Đậu khấu là một loại hương thảo, hoa nở vào mùa hè, mọc ở xứ nóng, rất đẹp, dùng làm thuốc được.Trong các văn thơ cổ điển, người dùng từ ngữ đậu khấu để tương trưng người con gái còn trong trắng chưa lấy chồng. Lương Vũ Đế (梁 武 帝): Sinh năm 464 CN mất năm 549 CN. Lương Vũ Đế tên thật là Tiêu Diễn, người sáng lập nhà Lương thời Nam Triều, tự là Thúc Đạt, vốn là người đồng tộc của vua nhà Tiêu Tề, em họ Tiêu Đạo Thành, người Nam Lan Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Châu, phía tây bắc Thường Châu).Tiêu Diễn từng làm quan nhà Tề, giữ chức Thứ Sử Ung Châu, trấn thủ Tương Dương. Nhân vua Tề vô đạo, giết người anh của Tiêu Diễn, Diễn khởi binh vây hãm Kiến Khang, l ập Tiêu Bảo Dung làm Hòa Đế. Diễn nắm chức Đại Tư Mã, và được phong Lương Vương. Năm 502 CN, Diễn được nhường ngôi, lấy quốc hiệu là Lương, trọng dụng sĩ tộc, sửa sang văn giáo, nhờ vậy quốc thế được chấn hưng. Sau lại dốc lòng tín thờ Phật giáo, xây cất Đồng Thái Tự, ba lần vào đó tu. Năm 547 CN, Tiêu Diễn tiếp thụ đầu hàng của Hầu Cảnh.Hai năm sau thì bị Hầu Cảnh dẫn binh vượt sông nam hạ, công phá thủ đô, Tiêu Diễn bị đói và bệnh mà chết. Tiêu Diễn là người giỏi về văn học, âm luật, thư pháp. Văn phòng tứ bảo (文 房 四 寶): Văn phòng tức thư phòng.Cổ nhân ngày xưa ở trong thư phòng thường dùng và thường bầy biện bốn vật dụng được quý trọng như bảo vật là bút, giấy, nghiên, mực.Vì thế nên gọi là văn phòng tứ bảo. (Dịch xong ngày 21-5-2004 lúc 12:42.Phạm xuân Hy) https://thuviensach.vn KÊ KÊ KÊ DẬU 雞 鷄 鸡 酉 Phạm Xuân Hy Nhân có người bạn già vong niên đến thăm tôi, ngày trời tháng bụt, lại lún phún mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ rải truyện phiếm dông dài, gió trăng mây nước, lan man những truyện cà kê dê ngỗng. Con hổ giấy. Con hổ thật. Con chồn con cáo. Con chuột con gà. Lại biết tôi có biết đôi chút chữ nho, anh bèn lấy bút viết ra mấy chữ dưới đây: 雞 鷄 鸡 酉 KÊ KÊ KÊ DẬU Bảo tôi cắt nghĩa và cho biết những sự tích liên quan đến gà. Bị hỏi đột ngột, bất ngờ, nhất thời tôi tỏ ra lúng túng, đỏ mặt, không biết trả lời bạn tôi ra sao. Vả, biển học mênh mông, chữ nghĩa chập chùng, cái vốn chữ nho của tôi cũng chỉ có giới hạn, nên không dám nói sằng nói bậy. Tôi đành khất nợ với bạn. Xin cho tôi đựợc phép mở sách ra đọc, và trả lời bạn sau. Vì thế, hôm nay mới có bài viết này. 1. Nghĩa của bốn chữ kê 雞, kê 鷄, kê 鸡, dậu酉. Ba chữ 雞 鷄 鸡 này âm Hán Việt đều đọc là "kê", đều là những chữ đồng âm và đồng nghĩa, và đều chỉ một loại gia cầm có khả năng báo hiệu giờ giấc, mỏ ngắn, phần trên hơi cong, trên đầu có mào, cánh ngắn, không thể bay cao được. Tiếng Việt dịch nghĩa là "Con Gà". Sách "Thuyết Văn Giải Tự" giải thích "知 時 畜 也 - tri thời súc dã ". Gà là gia súc có khả năng biết giờ giấc, và báo sáng, nên ngày xưa người ta nuôi gà để báo thức dậy sớm đi làm. Nhưng ngày nay, đã có đồng hồ, nên gà được nuôi phần lớn để ăn thịt. Tuy nhiên, ba chữ này có sự khác biệt nhau về cách tạo tự của chúng. https://thuviensach.vn a/ Chữ 雞. (đọc là KÊ) : Theo giáp cốt văn và kim văn, đây là một chữ thuộc loại tượng hình tự. Tự hình của chữ này rất giống hình một con gà trống, trên có mào, chữ được cấu tạo bởi hai thành phần. Thành phần bên trái gọi là thanh bàng là chữ 奚 (đọc hề), sử dụng làm thanh phù. Thành phần bên phải hình bàng là chữ 隹 (đọc chuy) sử dụng làm ý phù. Chuy 隹, theo sách "Thuyết Văn Giải Tự" của Hứa Thận đời Đông Hán, giải thích là từ dùng để gọi chung loài chim lông đuôi ngắn (短 尾 禽 總 名 - Đoản vĩ cầm tổng danh) b/ Chữ 鷄. (đọc là KÊ) : Chữ 鷄 (đọc kê) do diễn biến của chữ 雞 (đọc kê) này thành chữ hình thanh tự. Hai chữ này chỉ khác nhau ở phần ý phù bên phải, là chữ điểu 鳥 thay chữ chuy 隹 mà thôi. Còn thanh phù vẫn giữ nguyên chữ hề 奚, âm và nghĩa giống nhau. Chữ điểu 鳥, "Thuyết Văn Giải Tự" giải thích là loại chim lông đuôi dài (長尾禽總名 - Trường vĩ cầm tổng danh) c/ Chữ 鸡. (đọc là KÊ) : Có người loại suy cho rằng chữ kê 鸡 này mới xuất hiện trên đại lục, khi nước Cộng Hòa Nhân Trung Hoa được thành lập. Thật ra, đây là chữ thuộc loại giản thể của chữ kê 鷄 trên, thanh phù bên trái 奚 (đọc hề) được giản hóa bằng chữ 又 (đọc hựu), còn ý phù bên phải 鳥 (đọc điểu), được giản hóa thành 鸟 (đọc điểu), âm và nghĩa như hai chữ kê trên, không thay đổi. Chữ kê 鸡 này, người ta đã thấy xuất hiện trong sách "Kim Bình Mai Kỳ Thư" và sách "Mục Liên Ký Đạn Từ " đời nhà Thanh. Đến năm 1932 và năm 1935, bộ giáo dục công bố bảng"Giản Thể Tự Biểu", chữ kê giản thể cũng đã được ghi trong bảng giản thể biểu đó, tuy nhiên chỉ giản hóa phần thanh phù thôi, phần ý phù vẫn giữ nguyên. Vì là giản thể, nên chữ kê 鸡 này không thể phân tích theo như phương pháp lục thư được. d/ Chữ 酉. (đọc là DẬU) : https://thuviensach.vn Người ta thường nói:"Tôi tuổi Dậu", để nói rằng năm sinh của người đó thuộc năm gà, vì thế, đôi khi đưa đến sự lầm lẫn cho rằng dậu 酉, có nghĩa là gà. Thật ra, chữ dậu là chữ thuộc loại độc thể tự. Tự hình, là hình vẽ một cái bình đựng đầy rượu, nên nghĩa gốc của dậu 酉 ngày xưa là rượu, nên chữ tửu 酒 mới đầu viết là dậu 酉. Về sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu thị danh xưng của chi thứ mười trong mười hai địa chi: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, DẬU, tuất hợi. Nhưng tại sao lại dùng con gà làm tượng trưng của chi dậu, con chuột là tượng trưng của chi tý, con chó là tượng trưng của chi tuất v. v...? Câu hỏi này cho đến nay, các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, hầu như vẫn chưa tìm ra câu trả lời rõ rệt, thỏa đáng. Hoặc chỉ đưa ra những ức đoán mà không chứng minh được, và ngay cả các học giả Trung Hoa cũng không tìm được xuất xứ của mười hai địa chi trên. Tuy thế, dầu không biết xuất xứ, nhưng ảnh hưởng của mười hai địa chi này, như một thực tế, ăn sâu vào những suy tư, sinh hoạt của người Trung Hoa, không thể chối cãi được. Người Trung Hoa từ hàng nghìn năm trước đã dùng mười hai địa chi phối hợp với mười thiên can để ghi nhớ ngày, tháng, năm. Ghi nhớ các sự kiện lịch sử, những ngày sinh, tháng đẻ, đến ngày tết ngày giỗ, ngày cưới vợ gả chồng, cất nhà mở tiệm, đi chơi xuất hành, nhất nhất cái gì cũng được ghi nhớ bằng thiên can, địa chi cả. Có khi còn đến các thầy bói, các thầy địa lý, các tử vi gia, để nhờ reo quẻ, bấm độn cho biết sự tốt xấu về tình duyên, gia đạo, buôn may bán đắt. Các thầy bói, các thầy tử vi, các chiêm tinh gia, hàng ngày vẫn phải lẩm bẩm nhắc tên từng thuộc tướng tý, sửu, dần, mão, thìn, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi... để thỏa mãn những câu hỏi của khách hàng. Đây thật là một điều kỳ lạ khó hiểu trong một văn minh rực rỡ lâu đời như nền văn minh Trung Quốc. Nhưng thôi, tôi xin gác vấn đề này sang một bên, để dịp khác. Và xin trở lại với đề tài về gà. 2. Những từ ngữ chữ Hán dùng để chỉ gà. https://thuviensach.vn Như trên đã trình bầy, chữ dậu không có nghĩa là con gà. nhưng trong những thư tịch và văn thơ cổ điển Trung Hoa, người ta thường gặp những từ ngữ sau đây để chỉ con gà: a/ Song cầm 窗 禽: Theo sách "Nghệ Văn Loại Tụ" thì:"Thứ sử Duyện Châu đời Tấn, tên là Tống Xử Tông, người Bái Quốc, từng mua được một con gà, có tiếng gáy rất dài, nên Xử Tông rất lấy làm yêu quý, nuôi dưỡng rất cẩn thận, thường để lồng gà ở bên cửa sổ. Gà bèn dùng tiếng người đàm luận với Xử Tông, rất là biện bác, suốt ngày không ngừng. Nhờ thế mà tài hùng biện của Xử Tông tiến rất xa. Sau này, hậu thế dùng từ ngữ "Song cầm" để chỉ gà. b/ Kim cầm 金 禽: Theo thuyết ngũ hành, gà thuộc hành kim 金, vì thế gọi gà là « kim cầm金 禽 ». c/ Tốn vũ 巽 羽: Trong Kinh Dịch, quẻ tốn 巽 chỉ con gà. Gà thuộc loại vũ trùng, vì thế gọi gà là tốn vũ. Như Ban Cố, tác giả Hán Thư, từng dùng hai chữ « tốn vũ巽 羽» để chỉ gà "巽羽化于宣宮兮-Tốn vũ hóa vu Tuyên Cung hề" d/ Thời dạ 時 夜: Gà có khả năng coi đêm tối, vì thế gọi gà là "thời dạ時 夜". Thời, có nghĩa là chưởng quản, trông coi. Trong sách "Trang Tử -Tề Vật Luận" có câu "Kiến noãn nhi cầu thời dạ 見卵而求時 夜" Có nghĩa là "Thấy trứng thì muốn có gà". e/ Chúc dạ 燭 夜: Gà có khả năng coi đêm, và quan sát trời sáng, nên gọi gà là chúc dạ. Chúc 燭 có nghĩa là quan sát, xem xét cho rõ. 3. Những từ ngữ có liên quan đến chữ kê. Liên quan đến chữ kê, hán tự có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, và điển cố. Như trên đã trình bầy, chữ kê 雞 vốn là loại chữ tượng hình. Đó là hình vẽ của một con gà trống, nhưng các tự điển chữ Hán, hay Hán Việt từ điển, chỉ giải thích chữ kê có nghĩa là gà. https://thuviensach.vn Muốn nỏi rõ gà trống thì phải gọi là "công kê 公 雞", gà mái là "mẫu kê 母雞". Nhưng cũng có những từ ngữ có chữ kê, lại chỉ một vật khác, hay ám chỉ một nghề nghiệp khác như. Như chữ "dã kê 野 雞", ngoài cái nghĩa chỉ loại chim trĩ ở ngoài đồng ruộng, ngày xưa còn dùng hai chữ này để ám chỉ những cô gái mại dâm, đứng ở ngoài đường, lôi kéo khách về nhà. Tôi không rõ thành ngữ "mèo mả gà đồng" của ta, trong đó hai chữ "gà đồng" có phải do ý từ chữ "dã kê" này mà ra chăng? Hay do chữ "điền kê 田雞" mà ra? Dưới đây xin cử ra một vài thành ngữ khác. a/ Kê công xa 雞公車. Kê công xa là tên gọi loại xe một bánh, do vợ Gia Cát Lượng là Hoàng Nguyệt Anh nghĩ chế tạo ra. Nguyên vào thời Tam Quốc, Lưu Bị sau khi mượn được đất Kinh Châu, nhưng lương thực không đủ dùng, mới sai Gia Cát Lượng tìm cách khai khẩn trồng trọt. Kinh Châu lại là vùng đất có nhiều hồ, vì thế muốn khai khẩn thì phải đào đất làm đê để ngăn nạn lụt. Gia Cát Lượng thấy sĩ tốt lao lụy người cuốc người vác, vất vả, công việc chậm chạp mà lại cực nhọc vất vả, muốn dùng chiến xa để chuyên trở thì không được, mà mùa nước lũ sắp tới. Về nhà Gia Cát Lượng thở vắn thở dài, chưa nghĩ ra biện pháp. Người vợ là Hoàng Nguyệt Anh thấy vậy mới hỏi nguyên cớ, Gia Cát Lượng đem sự việc kể lại cho vợ nghe. Người vợ chỉ cười. Gia Cát Lượng biết vợ đã tìm ra biện pháp, bèn khom người vái vợ mấy vái xin chỉ giúp. Người vợ mới nói:"Tối nay thiếp sẽ thiết kế làm một chiếc xe nhỏ, khi gà kêu đến lần thứ ba sẽ giao hàng cho tướng công". Gia Cát Lượng đứng chờ ở ngoài cửa, khi gà gáy đến lần thứ hai, ông sốt ruột, đẩy cửa bước vào phòng của vợ, thì thấy người vợ đã hoàn thành xong một chiếc xe nhỏ, có một bánh, khi đẩy xe lên, thì xe phát ra tiếng kêu cót ket như cục tác, lại hoàn thành trước cả dự định một tiếng gà, nên mới đặt tên là " kê công xa". Nhờ loại xe mới sáng chế nầy, mà công việc vận chuyển đất để đắp đê được nhanh chóng và bớt vất vả hơn, giúp cho việc khẩn https://thuviensach.vn hoang của Lưu Bị được mở rộng và phát triển thêm, có đủ lương thực để chống lại với phe Ngụy và Ngô. b/ Kê gian 雞 姦. Chỉ việc con trai hành dâm với con trai. Ngày xưa đó là một tội danh bị phạt xử tử, và bị coi là một tội hèn hạ, xỉ nhục, mất đạo đức. Tức như bây giờ thường gọi là bệnh đồng tỉnh luyến ái. Bê đê. Trên thực tế bệnh kê gian, bệnh háo nam sắc này xuất hiện đã từ lâu đời. Nước Tầu, từ khi Tần thống nhất cho đến nhà Mãn Thanh bị lật đổ, kéo dài 2133 năm, gồm 564 vị hoàng đế, không thiếu những ông vua anh hùng, tài trí thao lược, nhưng lại mắc bệnh "kê gian", hiếu nam sắc. Tần Thủy Hoàng có gã Triệu Cao xinh đẹp mà gian ác. Triều nhà Hán, Hán Cao Tổ Lưu Bang có chàng Tịch Nhũ thanh tú linh lợi.Hán Văn Đế Lưu Hằng có chàng Đặng Thông xuất thân bần hàn, sống bằng nghề lái đò, nhưng nhờ khuôn mặt đẹp như trăng, nước da trắng như ngọc ngà mà được vua yêu. Hán Võ Đế Lưu Triệt có nam sủng là Hàn Yên và Lý Diên Niên. Vua Ai Đế đời Hậu Hán có Đổng Hiển. Ai Đế say mê Đổng Hiền, thường cho Hiền cùng ăn cùng ngủ. Có lần vua cho Hiền ngủ trên tay áo của mình, vua muốn đứng dậy, nhưng thấy Hiền còn chưa tỉnh, không nỡ đánh Hiền thức dậy, bèn dùng dao cắt đứt tay áo của mình, để cho Hiền ngủ yên. Thành ngữ "Đoạn tụ 斷袖 -Cắt tay áo" thường được sử dụng trong thơ văn cổ điển để chỉ bệnh háo nam sắc của các bậc đế vương. Háo nam sắc đối với các ông vua, không phải là một thứ tình cảm bẩm sinh, chẳng qua chỉ là một món ăn chơi "nghiệp dư", khi đã là "thiên tử con trời", muốn gì được nấy. Bằng cớ là các vị thiên tử này vẫn vì nữ sắc mà bị mất thiên hạ. c/ Kê đầu nhục 雞 頭 肉. Nếu hiểu theo nghĩa là "miếng thịt đầu gà" thì không đúng. "Kê đầu nhục" có nghĩa là đầu vú của phụ nữ. Nhân vì Đường Minh Hoàng là một ông vua bay bướm đa tài lẫn đa tình. Một hôm vua thấy Dương Qúy Phi tắm xong, đứng soi gương, để lộ một đầu vú ra khỏi áo, vua bèn lấy tay vân vê sờ lẩn, rồi bảo với Dương Quý Phí rằng:"Nhuyễn ôn tân bác kê đầu nhục -軟 溫 新 剝 雞 頭 肉. Mềm https://thuviensach.vn mại êm ấm như thịt đầu gà mới bóc". Nhưng đầu gà thì chỉ toàn xương thôi, làm sao mà mềm mại êm ấm được. Chẳng qua là một cách nói văn hoa, ẩn dụ cho đẹp, thay vì nói toạc móng heo, một càch sỗ sàng là cái đầu vú. Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị, truyện Liên Tỏa, cũng dùng từ ngữ này một cách khéo léo. Ông viết:"戲 以 手 探 胸 則 雞 頭 之 肉 依 然 處 子 - Hí dĩ thủ thám hung, tắc kê đầu chi nhục, y nhiên xử tử. - Đùa lấy tay lần sâu vào bụng nàng, thấy đầu vú, y nhiên còn là trinh nữ. " Cổ nhân dùng chữ quả thật nhiêu khê, rắc rối. d/ Kê đầu cẩu huyết 雞 頭 狗 血 - Đầu gà máu chó. Cổ xưa, người Trung Hoa cho rằng gà và chó là những con vật có nguồn gốc thần bí, khác những gia súc khác. Gà là do Ngọc Hành Tinh tan ra mà thành. Chó là do Đẩu Tinh mà sinh ra, nên người Trung Hoa xử dụng một số bộ phận nào đó của gà để làm pháp bảo phù chú, như đầu gà máu chó. Họ tin rằng dùng máu gà, máu chó có thể tịch tà, diệt trừ được những điều bất tường, xui sẻo. Theo sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, việc sử dụng máu chó, máu gà bôi vào cửa để giải trừ những thế lực "tà ma", hoặc phá những "yêu thuật" gian ác của kẻ thù. Đó là một hiện tượng đã có từ đời Tần Thủy Hoàng. Tập tục chém đầu gà treo ở trước cửa vào đêm giao thừa để trợ trường sinh và giúp ích cho việc trồng trọt, cấy cầy của nhà nông cũng là một hiện tượng phổ biến ở Trung Hoa trước cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Ngoài ra, người Tầu còn dùng xương gà, gan gà, mỏ gà, trứng gà để bói toán, dự đoán cát hung, may rủi. Để chấm dứt bài này, tôi xin thuật lại sự tích "Kê cân 雞筋 - gân gà " dưới đây : Kê cân 雞 筋 hay kê lặc 雞 肋. Gân gà hay xương gà? Hồi còn nhỏ, tôi ham đọc "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa", tôi cố để dành tiền mua được một bản dịch truyện này, do nhà in Phúc Chi ấn https://thuviensach.vn hành, nhưng lại không ghi tên người dịch. Nguyên danh là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, La Quán Trung đã dựa vào Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đời Tấn mà soạn ra, được các nhà phê bình văn học Trung Hoa coi là đệ nhất tài tử thư. La Quán Trung đã vẽ lại cho người đọc thấy cuộc đấu tranh quân sự giữa các sứ quân cát cứ, và tình hình chính trị phức tạp kéo dài hơn nửa thế kỷ trong thời kỳ Hán mạt - Tam Quốc. Toàn truyện có nhiều chi tiết có thật rút từ chính sử ra, và có khoảng 1191 nhân vật, rất khó mà nhớ hết. Nhiều thành ngữ của Trung Quốc cũng được rút ra từ bộ truyện này, như "Quá Ngũ Quan Trảm Lục Tướng - 過 五 關 斬 六 將", "Vọng Mai Chỉ Khát - 望 梅 止 渴", "Thất Bộ Thành Thi - 七 步 成 詩", "Tam Cố Thảo Lư - 三 顧 草 蘆", "Dương Tu Kê Lặc 揚 修 雞 肋"… Dương Tu vốn là mưu sĩ của Tào Tháo, con của Dương Bưu, người Hoằng Nông Hoa Âm, nổi tiếng là một người tài tư mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, nhưng thường ỷ tài, nhiều lần mạo phạm vào những điều cấm kỵ của Tào Tháo, lại thêm đứng về phe Tào Thực trong cuộc tranh dành ngôi báu với Tào Phi, càng khiến Tháo ghét thêm. Năm Kiến An nhị thập tứ niên, tức năm 219 Công Nguyên, Tào Tháo với Lưu Bị tranh nhau đất Hán Trung. Tào Tháo đánh nhiều trận không thắng, lại mất viên mãnh tướng Hạ Hầu Uyên, nên Tháo có ý muốn rút quân, nhưng trù trừ chưa quyết định. Giữa lúc đó, bộ hạ của Tháo là Hạ Hầu Đôn vào trong trướng xin hiệu lệnh ban đêm. Tháo nhìn thấy trong bát thang đang ăn của mình còn có cái "gân gà" chưa ăn, bèn thuận miệng nói:"Gân gà! Gân Gà ". Đôn ra ngoài truyền lệnh cho các quan quân bảo là "Gân gà". Hành Quân Chủ Bạ Dương Tu nghe thấy hai chữ "Gân gà", bèn bảo cho quân sĩ của mình sửa soạn hành trang để đi về. Có người đến báo cho Hạ Hầu Đôn biết. Đôn giật mình kinh sợ, cho mời Tu vào trong trướng của mình, và hỏi: - Tại sao ông lại thâu thập hành trang vậy? Tu đáp: https://thuviensach.vn - Theo như hiệu lệnh đêm nay là biết Ngụy Vương sớm muộn gì cũng rút quân về. "Gân gà " ăn vào thì không có thịt, mà bỏ đi thì còn mùi vị. Nay ta tiến thì không thể thắng, còn lùi thì sợ địch quân chê cười. Trong hoàn cảnh vô ích như thế, chi bằng rút về. Tương lai, Ngụy Vương thế nào cũng ban sư đấy, vì thế tôi thâu thập hành trang trước, tránh khỏi bị hỗn loạn lúc lâm hành. Ngụy Vương tức Tào Tháo, các cận thần của Tháo đều tôn xưng Tháo là Ngụy Vương. Đôn nghe nói thế, bảo: - Ông thật là người biết hết gan ruột của Ngụy Vương đấy! Rồi cũng cho lính thâu thập hành trang. Thế là các tướng trong doanh trại của quân Ngụy, chẳng ai là không chuẩn bị để rút về. Đêm đó, Tào Tháo thấy trong lòng bồn chồn rối loạn, ngủ không yên, bèn sách cương phủ đi một vòng quanh trại. Chỉ thấy quân sĩ trong trại của Hạ Hầu Đôn ai nấy đều chuẩn bị hành trang. Tháo đâm hoảng, vội vã trở về trong trướng, gọi Hạ Hầu Đôn lên hỏi. Đôn thưa: - Chủ Bạ Dương Đức Tổ biết trước được ý muốn trở về của Đại Vương! Đức Tổ là tên chữ của Tu. Tháo cho gọi Tu lên hỏi. Tu lấy ý của hai chữ "Gân gà" ra giải thích. Tháo giận quá, nói: -Nhà ngươi dám tạo ngôn, làm loạn quân tâm à! Rổi hét đao phủ thủ lôi Tu ra chém đầu treo ở ngoài cửa hiên môn. Sự tích trên đây, tôi đã dịch từ nguyên bản chữ Hán sách Tam Quốc Diễn Nghĩa, hồi thứ bẩy mươi, sách do Minh Lương Thư Cục ở Hương Cảng phát hành. Đến đây tôi xin mở một dấu ngoặc: Vốn trong nguyên truyện bằng chữ Hán, không hề có chữ "kê cân 雞 筋" mà chỉ có chữ "kê lặc 雞 肋". Câu trong nguyên truyện viết là: 適 庖 官 進 雞 湯, 操 見 碗 中 有 鶵 肋, 因 而 有 感 於 懷, 正 沈 吟 間 夏 侯 惇 入 帳 稟 請 夜 間 口 號. 操 隨 口曰: 雞 肋! 雞 肋.惇傳令 https://thuviensach.vn 眾官都稱 雞 肋. (Dịch âm: Thích bào quan tiến kê thang Tháo kiến oản trung hữu sồ lặc nhân nhi hữu cảm ư hoài Chính trầm ngâm gian Hạ Hầu Đôn nhập trướng bẩm thỉnh dạ gian khẩu hiệu. Tháo tùy khẩu viết "Kê lặc! Kê lặc!".Đôn truyền lệnh chúng quan đô xưng "Kê lặc". ) Trong nguyên bản rõ ràng là chữ kê lặc 雞 肋 chứ không phải chữ kê cân 雞 筋. Chữ lặc 肋 có nghĩa là xương, còn cân 筋 mới có nghĩa là gân, hai chữ chỉ hơi giống nhau. Nhìn vội dễ có thể đọc nhầm. Nhưng sở dĩ tôi vẫn dịch là "gân gà", không câu nệ phải dịch đúng nghĩa là "xương gà", một phần vì thương tiếc hai chữ "gân gà", mà tôi cho là tuyệt cú mèo và thích hợp với văn cảnh và ý của cốt truyện, mà người dịch giả vô danh đã cố tình sử dụng một cách khéo léo, thần tình. Hai nữa, cũng để hoài cảm bộ sách cũ, tôi đã cố để dành tiền mua được, rồi giữ gìn, bảo quản, đóng bìa mạ gáy, mang theo khi vào Nam, sau 1975 bị nạn phần thư, chung một kiếp bạc mệnh, không còn nữa. Ôi! Cái tình "Trung thư hữu nữ nhan như ngọc 中 書 有 女 顏 如 玉" là thế đấy! Cố nhân hề cố nhân! Năm thân sắp qua, năm dậu sắp lại, con khỉ đi con gà đến, gọi là có dúm chữ nho, trả món nợ cuối năm, và để tạ cái tình của người bạn vong niên, anh đến thăm em một chiều mưa, chẳng có gì đãi đằng, ngoài tách trà "đinh" đắng chát. Phần chú thích Tào Tháo 曹 操 Tào Tháo tức Ngụy Võ Đế, sinh năm 155 CN, là một chính trị gia, quân sự gia, thi nhân đời Tam Quốc, người đất Tiêu, tự là Mạnh Đức, tiểu danh A Man, vốn họ Hạ Hầu, cha là Tung làm con nuôi con nuôi hoạn quan Tào Đằng, nhân thế mới mang họ Tào. Cuối thời Đông Hán, Tháo trấn áp giặc Khăn Vàng, để khuyếch trương lực lương quân sự của mình. - Năm 192 CN, Tháo chiếm cứ Duyện Châu, rồi phân hóa và dụ hàng được một bộ phận quân đội của giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu, rồi lập thành "Thanh Châu Binh". https://thuviensach.vn - Năm 196 CN, Tháo đón vua Hiến Đế về Hứa Đô (nay là thuộc phía đông Hứa Xướng tỉnh Hà Nam), rồi lấy danh nghĩa của Hiến Đế để ra lệnh cho chư hầu. Trước sau, Tháo tước trừ thế lực cát cứ của Lã Bố, đại phá lực lượng thế tộc quân phiệt cua Viên Thiệu tại trận Quan Độ, dần dần thống nhất được miền bắc Trung Quốc. - Năm 208 CN, Tháo lên làm Thừa Tướng, xuất quân đánh miền Nam, bị liên quân Tôn Quyền, Lưu Bị đánh bại ở trận Xích Bích. - Năm 216 CN, Tào Tháo được phong Ngụy Vương. Khi mất, con là Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán và xưng đế, truy tôn Tháo là Võ Đế. Trong thời gian cai trị ở phía bắc Trung Quốc, Tào Tháo cho lập đồn điền, hưng tu thủy lợi, giải quyết đựơc vấn đề thiếu thốn lương thực. Ông lại biết dùng người có tài, đả phá cái quan niệm coi trọng thế tộc môn đệ, chiêu mộ những nhân vật trung và hạ tầng địa chủ, ức chế bọn cường hào, gia cường trung ương tập quyền, khiến cho bắc phương xã hội, kinh tế khôi phục và phát triển. Là một nhà quân sự có tài, Tào Tháo từng viết "Tôn Tử Lược Giải", "Binh Thư Tiếp Yếu". Ông còn giỏi về thi ca, có nhiều bài thơ được người đời yêu thích truyền tụng rất rộng như "Tang Thương Hải", "Đoản Ca Hành", được xưng tụng là "Kiến An Phong Cốt", hiện nay còn "Ngụy Võ Đế Tập". Nhưng về mặt đạo lý cũ, Tháo bị coi là kẻ gian hùng, bất trung bất nghĩa, có nhiều thủ đoạn. Tháo mất năm 220 CN. Tôn Quyền 孫 權 Ngô Quyền là người kiến lập ra nước Ngô thời Tam Quốc, tự là Trọng Mưu, người Phú Xuân Ngô Quận (nay Phú Dương tỉnh Triết Giang). Cuối đời Đông Hán, Tôn Quyền kế nghiệp người anh là Tôn Sách, chiếm cứ sáu quận Giang Đông. - Năm 208 CN, Tôn Quyền hợp binh với Lưu Bị đại phá Tào Tháo ở trận Xich Bích. - Năm 222 CN, trong cuộc chiến Ngô Thục, tại trận Di Lăng, Quyền dùng hỏa công đại phá hơn bốn chục doanh trại của Lưu Bị, tận diệt thuyền bè, khí giới và quân tư, khiến cho Lưu Bị phải chạy https://thuviensach.vn về Bạch Đế Thành(nay là Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên), năm sau thì mất. - Năm 229 CN, Quyền xưng đế ở Võ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô. Sau rời đô đến Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh tỉnh Giang Tô). Trong thời gian ở ngôi, Quyền từng phái hàng hải liên hệ với Di Châu (nay là Đài Loan). Thái Thú Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ cũng từng đem ngọc trai, sừng tê, ngà voi, cùng trái cây quý giá cống cho Quyền, được Quyền khen ngợi và phong cho chức Long Biên Hầu. Để thúc đẩy phát triển, Quyền thiết lập nông quan, thực hành đồn điền, nhưng vì hình pháp tàn khốc, và phú thuế nặng nề, nên thường xấy ra các cuộc nổi dậy chống đối của dân chúng. Năm 252 CN, Tôn Quyền mất, ở ngôi ba mươi mốt năm. Con là Tôn Lượng kế vị, truy tôn là Đại Đế, người đời thường gọi là Ngô Đại Đế. Lưu Bị 劉備 Lưu Bị tức Chiêu Liệt Đế, sinh năm 161 CN, là người kiến lập ra nhà Thục Hán đời Tam Quốc, tự là Huyền Đức, người Trác Huyện Trác Quận (nay thuộc Hà Bắc, là họ một chi xa với hoàng tộc. Thuở nhỏ, Bị nhà nghèo, theo mẹ sống bằng nghề bán giầy và dệt chiếu. Cuối thời Đông Hán, Lưu Bị khởi binh, tham dự trấn áp giặc Khăn Vàng. Trong cuộc hỗn chiến của các quân phiệt thời đó, Bị từng đến nương nhờ Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Tào Tháo, Viên Thiệu, và Lưu Biểu. Sau Lưu Bị nghe kế của Gia Cát Lượng chủ trương "liên Tôn cự Tào" đánh bại Tào Tháo ỏ trận Xích Bích năm 208 CN, rồi chiếm lãnh Kinh Châu, lực lượng dần dần trở nên lớn mạnh. Sau đó, Bị đánh chiếm Ích Châu, Hán Trung. Năm 221 CN, Lưu Bị xưng đế, đóng đô ở Thành Đô, đặt quốc hiệu là Hán, sử quen gọi là Thục Hán. Trong cuộc chiến tranh Ngô, Thục, Lưu Bị đại bại ở trận Di Lăng, năm 223 CN bị bệnh mất. Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa 三 國 志 演 義 https://thuviensach.vn Trường biên lịch sử tiểu thuyết. Nguyên toàn danh xưng là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, hoặc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Tam Quốc Chí là loại lịch sử tiểu thuyết mở đầu trong văn học Trung Quốc, do La Quán Trung soạn vào thời Minh Mạt Thanh Sơ. La Quán Trung đã căn cứ vào sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ đời Tây Tấn và do Bùi Tòng Chi chú, cùng sách Tam Quốc Chí Bình Thoại đời Nguyên mà viết thành. Bản Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa lưu hành hiện nay là do Mao Tôn Cương đã tu đính và sửa chữa. Cố sự bắt đầu từ truyện Lưu Bị, Quan Vũ, và Trương Phi kết nghĩa vườn đào, đến Vương Tuấn bình Ngô, trải qua gần một nửa thế kỷ. Tác giả đã vẽ lại cho người đọc thấy rõ những cuộc đấu tranh quân sự giữa các sứ quân và tình hình chính trị phức tạp của thời kỳ Hán Mạt và Tam Quốc, đồng thời thành công nặn ra được hàng loạt những nhân vật mang những hình tượng điển hình, rõ rệt như Tào Tháo, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi v. v... Tác phẩm có nhiều chương tiết rất sống động, bóng bẩy. Như “Lưu, Quan, Trương, tam anh chiến Lã Bố”, “Tam cố thảo lư”, “Xích Bích chiến”. Toàn truyện có rất nhiều chi tiết khúc chiết, kết cấu hoằng đại, nhưng bố cục rõ ràng, mạch lạc, được vinh dự coi là “Đệ nhất tài tử thư”. Truyện có cả thẩy 1191 nhân vật có danh có tính, chia ra: - 436 võ tướng - 456 văn quan - 128 nhân vật là tôn thất, hoạn quan, cung phi. - 67 người thuộc các sắc tộc ngoài biên, như Tiên Ty, Khương. - 109 nhân vật thuộc các tam giáo cửu lưu. Chủ đề của Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy tư tưởng chính thống “tôn Lưu biếm Tào”, và coi cuộc nổi dậy Hoàng Cân là làm loạn, làm giặc, lấy trung hiếu tiết nghĩa làm tiêu chuẩn, và coi thuyết "Thiên hạ qui nhất", "hợp cửu tất phân, phân cửu tất hợp" là xu thế tất nhiên của qui luật phát triển lịch sử. https://thuviensach.vn Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được quảng đại quần chúng hâm mộ ưa thích. Ở Việt Nam, có ít nhất sáu bản dịch khác nhau. La Quán Trung 羅 貫 中 Là một tiểu thuyết gia thời cuối đời Nguyên, đầu đời Minh, tác giả "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa", tên là Bổn, tự là Quán Trung, hiệu là Hồ Hảo Tán Nhân, người Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. Cuộc đời bình sinh của ông chưa có tài liệu nào nhắc đến. Tương truyền, ông từng là học trò của Thi Nại Am, ít giao thiệp với người đời, chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng nho gia, mang trong lòng hoài bão phò vua giúp nước, để tạo nên sự tạo nên sự nghiệp. Cả cuộc đời ông, để hết lòng vào việc sáng tác văn học. Ông soạn hơn mười bộ tiểu thuyết, hiện còn lại: - Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa tức Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. - Tam Toại Bình Yêu truyện. - Tùy Đường Chí truyện. - Tàn Đường Ngũ Đại Sử Diễn Nghĩa. - Phấn Trang Lầu. Trừ hai bộ truyện đầu còn bảo lưu được nguyên diện mạo của nguyên tác, các bộ sau bị hậu nhân san cải, sửa chữa nhiều lần, không còn giữ được nguyên dạng lúc đầu nữa. Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa là bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử vĩ đại nhất của Trung Quốc, hưởng một vinh dự lớn trong văn học sử, và ảnh hưởng thâm sâu đối với hậu thế. Liêu Trai Chí Dị 聊 齋 志 異 Tên một cuốn tiểu thuyết gồm các truyện ngắn viết bằng văn ngôn, tác giả là Bồ Tùng Linh, đời Thanh trước tác, cộng 431 truyện. Tác giả đã dựa vào những truyền thuyết dân gian, dã sử, dật văn, lấy đời sống sinh hoạt người dân hạ tầng và trung tầng làm chủ thể, rồi dùng trí tưởng tượng độc đặc hiếm hoi của chính mình mà dựng nên những câu truyện hồ ly, ma quỷ, hoa yêu, với mục đích để: https://thuviensach.vn - Phơi bầy ra ánh sáng những hủ bại hắc ám ở chốn quan trường, và sự cai trị tàn bạo độc ác của nhà cầm quyền Thanh Triều. - Chọc cười, phóng thích những phong tục hủ bại, giả đạo đức, đày tác hại của lễ giáo phong kiến, cũng như những tệ đoan của chế độ khoa cử. - Tán tụng tình yêu chân chính và đề cao tự do luyến ái, tự do kết hôn cuả thanh niên trai gái. Liêu Trai Chí Dị phản ánh rõ ràng diện mạo xã hội Trung Quốc ở thế kỷ thứ 17, và thông qua những câu truyện ma quỷ, hồ ly, tác giả muốn thổ lộ nỗi niềm "cô phẫn" của mình đối với xã hội đương thời. Những câu truyện được tác giả thuật lại bằng lối văn ngôn điêu luyện sâu sắc, lãng mạn, những lời đối thoại được diễn tả sống động, truyền thần, với những tình tiết ý vị, hư hư thực thực, thắt cởi, lên xuống, dẫn đưa người đọc mê say, đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác, khiến cho tác phẩm tiếp nối được truyền thống truyền kỳ và trở thành ngọn đỉnh phong của lối văn truyền kỳ chí quái cổ xưa của văn học Trung Quốc. Tác phẩm sau khi ra đời được hơn hai trăm năm, được quảng đại độc giả hỷ hoan ái mộ, cùng lưu truyền các nước trên thế giới như Anh, Phap, Đức, Ý, Mỹ, Nhật, Nga, Việt Nam v. v. đều có những bản dịch. Riêng ở Việt Nam ước chừng có hơn mười bản dịch khác nhau. Có bản nhiều truyện, có bản ít truyện, tùy người dịch. Liêu Trai là tên phòng đọc sách của Bồ Tùng Linh, nên ông lấy đó làm tên sách, và vì thế Bồ Tùng Linh còn có hiệu là Liêu Trai Tiên Sinh, và Liễu Tuyền Cư Sĩ. Đa số những truyện cuả ông là viết về quỷ ma, quái dị, nên gọi là Chí Dị. Bồ Tùng Linh 蒲 松 齡 Bồ Tùng Linh là văn học gia đầu đời Thanh, tác giả truyện "Liêu Trai Chí Dị", tự là Lưu Tiên, một tự khác là Kiếm Thần, hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ, người đời thường gọi ông là Liêu Trai Tiên Sinh, người Truy Xuyên. Có thuyết cho rằng ông là người Mông Cổ, hay Hồi tộc, https://thuviensach.vn xuất thân từ một gia đình phú hào đã bị suy vi, và thuộc phần tử trí thức. Ông có tài cao từ hồi còn trẻ, dốc chí thi cử, năm mười chín tuổi thi đậu tú tài, sau đi thi nhiều lần không đậu, mãi đến năm bẩy mươi mốt tuổi mới đậu cống sinh, bốn năm sau thì qua đời. Một đời Bồ Tùng Linh lấy nghề dậy học mưu sinh, lao đao sầu cùng. Nhân vì khoa cử bất đắc ý, lại thấy quan trường tham tàng uổng pháp, mà nhân dân thì thống khổ nghèo khổ, ông bèn mượn những hình ảnh của hồ ly, ma quỷ, yêu quái, viết truyện "Liêu Trai Chí Dị", để trút bớt niềm cô phẫn, bất bình ở trong lòng. Sau hai mươi năm, thì "Liêu Trai Chí Dị "được hoàn thành. Truyện được viết bằng một bút pháp lãng mạn, phơi bầy những tội ác hắc ám của nhà cầm quyền, công kích những tệ đoan hủ bại của khoa cử, cùng chủ trương tự do luyến ái, phản ánh những sinh hoạt xã hội của thời kỳ đó. Liêu Trai Chí Dị là tuyệt đỉnh của loại văn ngôn đoản biên tiểu thuyết của Trung Hoa, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Nhiều người đã mô phỏng Liêu Trai Chí Dị để viết nên những tác phẩm riêng của mình, như "Dạ Vũ Thu Đăng Lục" của Tuyên Đỉnh, "Tòng Ẩn Mạn Lục" của Vương Thao, "Dạ Đàm Tùy Lục" của Hòa Bang Ngạch. "Huỳnh Song Dị Thảo" của Trường Bạch Hạo Ca Tử (Chúng tôi đã dịch một số truyện trong những tác phẩm này.) Ở Việt Nam có sách Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ gồm hai mươi hai truyện, cũng viết theo thể văn ngôn đoản biên tiểu thuyết, mà theo Trần văn Giáp thì chịu ảnh hưởng của Nguyễn Nho, ra đời từ thời Lê, trước cả "Liêu Trai Chí Dị". https://thuviensach.vn THÔI VĨ 崔 煒 Tác giả : Bùi Hình Bản dịch của : Phạm xuân Hy Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH Niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, có người họ Thôi tên Vĩ, vốn là con quan cố Giám Sát Ngự Sử Thôi Hướng.Khi còn sinh tiền, Thôi Hướng từng nổi tiếng là người giỏi làm thơ, sau chết trong lúc tòng sự ở Nam Hải. Thôi Vĩ cư trú ở Nam Hải, tính tình rộng rãi khoáng đạt, truộng nghĩa khinh tài, không chăm lo gì đến gia tài sản nghiệp.Trong vòng mấy năm thì khánh tận, tiền bạc hết sạch sàng sanh, đành đến cửa chùa ngủ đậu. Một hôm vào tết Trung nguyên ngày này dân chúng Phiên Ngung thường có tục đem thức ăn ngon đến chùa cúng lễ, và tập trung hàng trăm thứ trò chơi múa diễn ở Khai Nguyên Tự. Vĩ cũng đến đó để xem. Chàng thấy có một bà lão ăn mày, nhân không đề phòng bị té, làm đổ vỡ một bình rượu của một quán bán rượu, bị chủ quán vung chân múa tay đánh đập.Mà bình rượu, thật ra, cũng chỉ đáng giá một mân tiền mà thôi.Vĩ thấy vậy, lòng thương hại, bèn cởi chiếc áo đang mặc trên người ra để bồi thường thay cho bà lão. Bà lão bỏ đi thẳng, chẳng thèm cám ơn một lời. Sau đó một hôm, bà lão tìm đến bảo với Vĩ rằng : -Mụ xin đa tạ công tử đã cứu mụ thoát khỏi tai nạn.Mụ có thuật châm cứu chữa khỏi bệnh bướu trên người, nay có mấy sợi cỏ ngải vùng Việt Tỉnh Cương tặng công tử, nếu như mà gặp ngừời mắc https://thuviensach.vn bệnh đó, chẳng những có thể trị cho người ta, lại còn được vợ đẹp nữa. Thôi cười, rồi cầm lấy những sợi ngải, thì bà lão đã thình lình biến mất. Ít lâu sau Vĩ đến vùng Hải Quang Tự du ngoạn, gặp một vị sư già, có cái bướu mọc ở tai, chàng lấy ngải ra đốt để chữa cho nhà sư, quả nhiên hiệu nghiệm đúng như lời bà lào ăn mày nói, cái bướu liền rụng xuống đất.Vị sư già hết lòng cẩm kích, bảo với Vĩ : -Bần đạo chẳng có gì quý để đền ơn công tử, chỉ xin niệm kinh cầu chúc cho công tử hạnh phúc trường thọ.Tuy thế, ở dưới chân núi này, có cụ già họ Nhâm, gia tư giầu có cự vạn, cũng mắc chứng bệnh như bần đạo.Như nếu công chữa khỏi, chắc chắn sẽ được đền ơn lớn.Để lão viết thư giới thiệu nhá. Vĩ gật đầu đồng ý. Khi lão Nhâm được tin ấy, mừng nhẩy cẫng lên, lấy lễ đón tiếp Vĩ thật là trịnh trọng.Vĩ bèn đem ngải ra đốt, chữa cho lão Nhậm khỏi bệnh ngay. Lão Nhậm bảo với Vĩ : -Tạ ơn công tử đã cứu lão khỏi khổ nạn này, lão chẳng có gì nhiều để hậu tạ công tử, xin biếu công tử mười vạn sâu tiền , mong công tử thư thả ở lại chơi tệ xá ít hôm, đừng vội vã đi ngay. Vì thế mà Vĩ ở lại nhà lão Nhậm. Chàng vốn sành sỏi đàn sáo.Nhân nghe có tiếng đàn cầm trổi lên ở nhà trên của chủ nhân, bèn hỏi với đứa gia đồng xem ai là người gẩy, thì nó đáp : -Đó là con gái yêu của chủ nhân đấy. Chàng bèn mượn đàn để gẩy.Chính lúc đó, người con gái của chủ nhân âm thầm đi qua, nghe tiếng đàn của Vĩ, liền sinh cảm tình, đem bụng yêu dấu . Đương thời, trong nhà lão Nhậm có thờ một vị thần gọi là Thần Một Chân (Độc Cước Thần), cứ mỗi ba năm phải giết một người để cúng, mà tế kỳ lại sắp đến, lão Nhậm vẫn chưa kiếm được người để https://thuviensach.vn giết, bỗng thay lòng đổi dạ, gọi người con trai đến thương lượng, nói : -Nhà ta nay chẳng có khách lạ nào đến, còn thân thuộc không ai có thể giết để tế thần được.Ta nghe nói đại ân còn có thể không báo, huống hồ chỉ chữa cái tật nhỏ ! Bèn ra lệnh sửa soạn đầy đủ thức ăn rau trái để tế thần, chờ nửa đêm sẽ đem Vĩ ra giết.Sau đó âm thầm khóa bên ngoài cửa phòng Vĩ lại, mà Vĩ chẳng hề hay biết gì. Người con gái của lão Nhâm lén nghe biết chuyện, kín đáo đem một con dao để vào ngách cửa sổ, và bảo với Vĩ : -Nhà thiếp thờ quỷ, đêm nay tất giết chàng để cúng quỷ, chàng hãy dùng con dao này, phá cửa mà trốn đi, bằng không, lát nữa thì chết.Nhưng nhớ mang dao theo, đừng để lại mà lụy đến thiếp. Vĩ nghe xong, sợ hãi, toàn thân mồ hôi tháo ra như tắm, vớ lấy đao, chém gẫy trấn song cửa sổ, cầm theo ít cỏ ngải, rồi nhẩy ra ngoài, tháo then cửa lớn, lập tức chuồn thẳng. Lão Nhâm bất ngờ biết được, bèn đem theo hơn mười đứa gia đồng, kẻ cầm đuốc, người cầm đao, đuổi theo Vĩ sáu bẩy dặm, cơ hồ suýt bắt được chàng. Vĩ vì lạc đường, rơi xuống một cái giếng khô, nên bọn người đuổi theo bị mất tung tích, phải quay trở về nhà. Khi Vĩ bị rơi xuống giếng, cũng nhờ những lá khô, lá mục, lâu ngày thành một cái đệm dầy, nên Vĩ không bị thương tích gì. Chừng khi trời sáng, Vĩ nhìn, té ra là một cái huyệt lớn, sâu hơn một trăm trượng , không thể nào ra nổi .Tứ phía đều là lối trống không ngoằn ngoèo khúc khuỷu, có thể chứa cả ngàn người.Vĩ thấy ở giữa động có một con trăn trắng to lớn, nằm cuộn khúc, dài cũng vài trượng.Trước đầu trăn có một cái cối đá bằng đá, trên trần đá có một vật lỏng như mật cao nhỏ từng giọt xuống cối.Vĩ thấy trăn bèn lấy nước đó mà uống, lòng cảm thấy thấy lạ lùng, kỳ quái, bèn khấu đầu khấn vái : -Tôi chẳng may rơi lạc xuống đây, xin Long Vương thương tình đừng làm hại tôi ! https://thuviensach.vn Khấn xong, lấy chỗ mật cao còn lại trong cối đá mà uống, nhất thời trong bụng không cảm thấy đói khát nữa.Khi nhìn kỹ thêm, Vĩ thấy ở môi của trăn cũng có một cục biếu, nghĩ đến cái ơn trăn đã thương mình, ý tính đem ngải cứu ra trị cho trăn, nhưng chẳng lấy lửa vào đâu được.Một lúc lâu sau, chợt cótia lửa từ xa bay vào trong động, Vĩ bèn đốt ngải, rồi giải thích với trăn, sau đấy mới châm vào cái bướu .Bướu lập tức rơi xuống đất. Từ truớc, trăn bị bướu làm trở ngại ăn uống, nay nhất thời mất đi, cảm thấy thuận lợi, bèn nhả ra một viên ngọc lớn , đường kính chừng một thốn để đền ơn Vĩ. Vĩ không nhận, bảo với trăn rằng : -Ngài là Long Vương có tài hưng vân bố vũ, chuyển hóa âm dương, xuất một tùy tâm, tất có cách cứu kẻ trầm luân, nếu đưa được tôi ra khỏi chốn này, trở về nhân thế, thì ơn ấy tôi xin một đời khắc ghi tại tâm can.Tôi chỉ mong được về ngay, còn châu báu ngọc ngà nào có cần chi. Nghe Vĩ nói thế, trăn liền nuốt lại viên ngọc vào bụng, rồi uyển chuyển bò đi, như có ý định đến một chỗ nào đó. Vĩ vái thêm lần nữa, rồi trèo lên lưng trăn.Nhưng trăn chỉ bò ở trong động, như thế có đến hơn mười dặm, chứ không chịu ra khỏi động khẩu.Trong động hắc ám như sơn , may nhờ có ánh sáng từ vẩy trăn tỏa ra như đuốc, chiếu lên hai bên vách, Vĩ thấy có những hình vẽ đàn ông, ngừơi nào cũng đội mũ đeo đai cả, phục sức như các vị quan ngày xưa.Sau , đi đến một cái cửa bằng đá, trên cửa có khoen thú vật bằng đồng, miệng ngậm môn hoàn, thông suốt bên kia sáng trưng. Trăn đi đến đấy, thì cúi đầu, không muốn tiến thêm nữa, mà ngừng lại để cho Vĩ xuống.Vĩ tưởng đã về đến cõi trần, bèn bước vào nhà.Chỉ thấy đó là động phủ, trống không, rộng rãi, diện tích ước chừng hơn một trăm bộ., ngăn bởi bốn vách trạm trổ, điêu khắc.Giũa động buông phủ màn gấm thêu mầu vàng, mầu tía.Trên màn lại gắn trân châu phỉ thúy, làm Vĩ hoa cả mắt.Trước màn, là một chiếc lư đồng, có các loại thú như giao long, loan phụng, quy https://thuviensach.vn xà, yến tước, làm trang trí, đang há mỏ trương mồm nhả khói hương thơm nồng nặc.Bên cạnh có một cái ao nhỏ, lát băng hoàng kim và bạch ngọc.Trong ao đổ đầy thủy ngân để thả những con vịt trời, hải âu, bằng ngọc quý bơi lội.Sát bốn vách tường, kê những chiếc bàn khảm tê giác, sừng voi.Trên bàn bầy các loại nhạc khí như cầm, sắt, sênh , hoàng , đào, chúc...Nhất thời, Vĩ không sao nhớ nổi hết là bao nhiêu thứ.Chừng để ý nhìn kỹ, thấy những nhạc khí đó còn in dấu tay của người vừa mới chơi xong, lòng đâm ra hoang mang mơ hồ, không biết đây là động phủ nào.Lúc lâu sau, Vĩ lấy đàn gẩy thử , thì những cửa sổ trên bốn vách tường đều bật mở, có một con hầu áo xanh đi ra cười , nói : -Ngọc Quỳnh Tử đã đưa Thôi lang đến ! Rồi lại quay người trở vào ngay. Khoảnh khắc, có bốn nữ lang, đều búi tóc theo lối cổ, quần áo sặc sỡ thướt tha, đi ra bảo Vĩ : -Chàng họ Thôi này ở đâu mà tự tiện vào trong mộ huyệt của hoàng đế vậy ! Vĩ vội vã buông đàn xuống, chắp tay hành lễ vái chào.Các nàng cũng vái chào đáp lễ. Vĩ hỏi : -Đã là mộ của hoàng đế, vậy xin quý nương cho biết hoàng đế nay ở đâu ? Đáp : -Hoàng đế đi dự yến với vua Chúc Dong, nay tạm vắng nhà. Rồi các nàng mời Vĩ vào ghế ngồi gẩy đàn tiếp.Chàng gẩy một khúc nhạc của người Hồ.Các nàng hỏi : -Đó là khúc nhạcgì vậy ? Vĩ thưa : -Đó là khúc Hồ Gìa. Lại hỏi : -Hồ Gìa là khúc gì, chị em thiếp không hiểu ? Vĩ đáp : https://thuviensach.vn -Thời Hán có nàng Sái Văn Cơ, con gái quan Trung Lang Sái Ung, bị người Hung Nô bắt, phải luân lạc nơi đất Hồ, khi trở về nước, cảm nhớ đến những việc cũ ở đấy, mới đem phổ thành một khúc nhạc để gẩy, nhạc nghe ai oán nức nở như tiếng kèn của Hung Nô vậy. Các nàng đều tỏ ra vui vẻ, nói : -Thật đúng là một tân khúc ! Rồi sai thị nữ đem rượu nếp ra rót mời Vĩ.Chàng khấu đầu tạ ơn, đem cái ý tha thiết muốn trở về , cầu xin với các nàng giúp đỡ. Một nữ lang bảo : -Chàng đã đến nơi đây, âu cũng là cái duyên tiền thế, hà tất phải vội vã, xin hãy tạm nán lại, lát nữa sẽ có sứ giả nước Việt đưa về . Một cô khác nói : -Hoàng thượng đã hứa đem Điền phu nhân gả cho chàng, thì cũng nên gặp gỡ nhau mới phải chứ ! Vĩ chẳng hiểu đầu đuôi truyện gì, nên im lặng không dám nhận lời. Các nàng bèn bảo thị nữ vào mời Điền phu nhân ra, nhưng phu nhân lấy cớ chưa có chiếu chỉ của nhà vua, nên không dám gặp Vĩ.Mời thêm lần nữa, cũng không ra . Nữ lang bảo Vĩ rằng : -Điền phu nhân là người nhu mì, đức hạnh, lại xinh đẹp, trên đời không ai sánh nổi, xin chàng hày để tâm săn sóc , cũng là túc duyên cả.Phu nhân chính là con của Tề Vương đấy. Vĩ hỏi : -Tề Vương là ai vậy ? Đáp : -Tề Vương húy là Điền Hoành, vào thời kỳ đầu nhà Hán, từng làm vua nước Tề, khi Hàn Tín diệt Tề, mới bỏ trốn ra sống ở hải đảo. Lát sau, có bóng mặt trời chiếu vào chỗ Vĩ ngồi, chàng ngẩng đầu lên nhìn, qua một lỗ hổng, chàng thấy thấp thoáng ẩn hiện thế giới nhân gian. https://thuviensach.vn Các nàng đều nói : -Sứ giả Dương Thành sắp đến ! Sau đó, quả nhiên Vĩ thấy từ trên không có một con dê trắng từ từ đi xuống, tiến đến chỗ ngồi.Trên lưng dê có một người đàn ông, áo quần nghiêm trang, một tay cầm một cây bút lớn.Tay kia cầm thanh trúc xanh, trên có những chữ viết theo lối triện. Sứ giả đặt thanh trúc xanh lên trên án thư.Các nàng sai tì nữ đọc các hàng chữ trên thanh trúc như sau : « Thứ Sử Quảng Châu là Từ Thân đã qua đời, nay do An Nam Đô Hộ Triệu Xương thay thế » Rồi rót rượu mời sứ giả và nói : -Thôi lang muốn trở về Phiên Ngung, xin phiền sứ giả đưa chàng cùng về nhá. Sứ giả mạnh dạn nhận lời ngay, rồi quay đầu sang bảo với Vỹ : -Ngài sau này nhất định phải thay tôi đổi áo quần , tu bổ phòng thất, để trả thù lao đấy nhá. Vĩ chẳng hiểu sứ giả nói gì, chỉ gật đầu lia lịa cho xong. Các nàng lại nói : -Hoàng thượng có sai chị em thiếp đem quốc bảo Toại Dương Châu tặng cho Thôi lang, khi đưa về nước, sẽ có người Hồ bỏ mười vạn mân tiền ra mua . Vĩ chắp tái vái tạ lần nữa, nhận lấy báu vật, rồi hỏi các nàng : -Vĩ tôi chưa từng được yết kiến hoàng thượng, lại không phải chỗ thân tộc, sao lại đột ngột đem ngọc quý mà ban cho như vậy ? Các nàng đáp : -Tiên quân trước đây từng có thơ đề ở Việt Vương Đài, khiến cho quan Thứ Sử Từ Thân cảm động mới cho tu bổ lại Việt Vương Đài.Hoàng thượng cũng lấy làm cảm kích, nên cũng có thơ đề tiếp, cái ý đem ngọc báu tặng cho chàng nằm ở trong bài thơ đó, đâu cần chị em thiếp nói ra , lẽ nào chàng lại không thấy. Vĩ hỏi : -Không biết trong thơ hoàng thượng viết gì ? Các nàng bèn sai thị nữ, đem thơ đề trên quản bút của sứ giả nước Việt cho Vĩ coi.Thơ rằng : https://thuviensach.vn Thiên tuế hoang đài huy lộ ngung 千 歲 荒 台 隳 路 隅 Nhất phiền Thái thú trùng tiêu đồ 一 煩 太 守 重 椒 涂 Cảm quân phất thức ý hà cực 感 君 拂 拭 意 何 极 Báo nhĩ mỹ phụ dữ minh châu. 報 爾 美 婦 與 明 珠 Vĩ lại hỏi : -Hoàng đế nguyên danh tính là gì ? Nữ lang đáp : -Sau này thì sẽ tự biết ! Rồi nói tiếp : -Vào ngày tết Trung nguyên, chàng nên sửa soạn rượu ngon và đồ nhắm tốt trong một tĩnh thất ở Chùa Bồ Giản tỉnh Quảng Châu, chị em thiếp sẽ đưa Điền phu nhân tới. Vĩ bái tạ cáo từ, tính trèo lên lưng dê của sứ giả, thì nữ lang nói : -Nghe nói chàng có loại ngải cứu của Bảo Cô, có thể cho chị em thiếp ít nhiều được chăng ? Vĩ để ngải cứu lại tặng bốn nàng, nhưng không biết Bảo Cô là ai, bụng còn đang suy nghĩ, chớp mắt đã thấy ra khỏi động phủ, chân đạp trên một vùng đất bằng phẳng, ngẩng đầu nhìn sao trên trời, mới biết là đã canh năm.Một lát sau thì nghe tiếng chuông chùa Bồ Giản vọng lại, bèn đi đến đó, đựơc các tăng nhân trong chùa, đem cháo sớm cho ăn, rồi trở về Quảng Châu. Nguyên ngày trước, ở Quảng Châu, Vĩ có thuê một gian phòng làm chỗ cư trú, nay bèn trở về đấy để hỏi thăm tin tức, té ra chàng xa nhà đã ba năm rồi. Chủ nhà hỏi Vĩ : -Công tử đi đâu mà ba năm nay mới trở về vậy? Vĩ không muốn nói sự thực, cứ đẩy cửa bước vào phòng , chỉ thấy bàn ghế, giường tủ , vẫn y nguyên như cũ, nhưng bụi bặm phủ https://thuviensach.vn đầy , trong lòng cảm thấy sót sa đau đớn.Chàng hỏi chủ nhà về tình huống của viên quan Thứ sử Quảng Châu Từ Thân, quả nhiên ông đã qua đời, và người đến thay là Triệu Xương. Hôm sau, Vĩ tìm đến một thương điếm của người Ba Tư, lén bỏ viên ngọc báu đã được tặng ra bán.Một ông lão người Hồ, chợt nhìn thấy viên ngọc ấy, lập tức bò xuống đất, hai tay chắp lên trán vái chàng, nói : -Công tử nhất định từ mộ huyệt của Nam Việt Vương Triệu Đà trở về, bằng không, không thể có viên ngọc báu này được.Bởi vì viên ngọc này đã được đem tuẫn táng chung với Triệu Vương rồi. Vĩ bèn đem tình thực nói cho ông ta rõ, và chàng mới được biết hoàng đế chính là Triệu Đà, nhân vì Triệu Đà từng xưng là Nam Việt Võ Vương.Sau đấy, ông lão người Hồ bỏ ra mười vạn mân để mua viên ngọc của chàng. Vĩ hỏi ông lão người Hồ : -Cụ làm sao mà biết được lai lịch của viên ngọc này ? Ông lão người Hồ đáp : -Viên ngọc Toại Dương Châu này là quốc bảo của nước Đại Thực chúng tôi, vào thời đầu nhà Hán, Triệu Đà từng phái người có bản lãnh trèo núi vượt biển đến nước tôi ăn cắp mang về Phiên Ngung, cách nay cũng cả ngàn năm.Nước chúng tôi có người có tài coi xem xét thiên tượng, có báo trước là năm sau quốc bảo sẽ được trở về nước, bởi thế cho nên quốc vương nước tôi mới phái tôi đem thuyền lớn và tiền bạc đến Phiên Ngung để tìm mua về.Nay quả nhiên đúng như vậy. Sau đấy, ông lão người Hồ lấy nước ngọc dịch để rửa , phút chốc sáng chưng cả phòng, rồi ông vội vã xuống thuyền trở về Đại Thực Quốc. Vĩ có được món tiền lớn, bèn mua sắm đất đai nhà cửa, nhưng tìm kiếm Dương Thành sứ giả thì tuyệt vô âm tín. Một hôm chàng có việc đến miếu thành hoàng, bất chợt thấy những tượng thờ ở đó có một bức trông giống Dương Thành sứ giả, lại thấy trên cây bút của bức tượng có những chừ viết nho nhỏ, đó https://thuviensach.vn chính là bài thơ đã đọc ngày trước ở trong mộ.Nhân thế, Vĩ đem rượu thịt đến miếu cúng tế, và cho tô điểm lại bức tượng, cùng mở mang miếu rộng thêm.Và cũng nhờ vậy, Vĩ mới biết là Dương Thành tức Quảng Châu thành, vì trong miếu có tượng năm con dê. Sau đó, chàng hỏi thăm đến nhà cửa chỗ ở của ông già họ Nhâm, té ra đó là mộ của Nam Việt úy là Nhâm Ngao.Vĩ lại lên Việt Vương Đài để xem bài thơ do cha chàng đề.Thơ rằng : Việt Tỉnh Cương đầu tòng bá lão 越 井 岡 頭 松 柏 老 Việt Vương Đài thượng sinh thu thảo 越 王 台 上 生 秋 草 Cổ mộ đa niên vô tử tôn 古 墓 多 年 無 子 孫 Dã nhân đạp tiễn thành quan đạo 野 人 踏 踐 成 官 道 Bên cạnh có bài thơ họa của Nam Việt Vương Triệu Đà, khiến Vĩ cảm thấy nguồn gốc sự tình có nhiều điều kỳ quái, bèn tìm người chủ trì miếu để hỏi, thì người ấy nói : -Trước đây quan Thứ Sử Từ Thân nhân lên thăm Việt Vương Đài, cảm động vì bài thơ của Thôi Ngự Sự, mới cho tân trang tu bổ lại đài, nên bây giờ trông mới tráng lệ như vậy đấy! Sau, đến gần ngày tết Trung Nguyên, Vĩ chuẩn bị một mâm rượu thịt rất là phong phú hậu hĩnh, đem đến chờ trong một tĩnh thất ở chùa Bồ Giản.Quả nhiên đến gần nửa đêm, có bốn người con gái dìu Điền phu nhân đến.Trông nàng dung mạo, rất là kiều diễm, nói năng từ tốn văn vẻ.Bốn nàng con gái cùng Vĩ uống rượu trò truyện, cười đùa, mãi cho đến lúc gần sáng, mới cáo từ ra về.Vĩ cũng vái chào tạ ơn, rồi viết một lá thư cho Nam Việt Vương Triệu Đà, lời thư rất là cung kính, chỉ cốt bầy tỏ lòng biết ơn mà thôi, sau đó, mới dắt Điền phu nhân vào trong phòng. Vĩ hỏi nàng : -Khanh đã là con gái của Tề Vương, vì sao lại lấy Nam Việt Vương ? https://thuviensach.vn Nàng đáp : -Thiếp vì cảnh quốc phá gia vong, nên bị Nam Việt Vương bắt đem về làm cung nữ.Khi Nam Việt Vương mất, thiếp bị tuẫn táng chung.Nay không biết là thời đại nào, chỉ mơ màng nhớ rằng việc Tề Vương Điền Quảng luộc Lịch Tự Kỳ như mới vừa xẩy ra hôm qua.Nên mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, không khỏi sót sa rơi lệ. Lại hỏi : -Còn bốn người con gái ? Đáp : -Đều là những cung nữ bị tuẫn táng như thiếp.Trong đó có hai cô do vua Âu Việt là Dao tặng, còn hai cô kia do vua Mân Việt là Vô Chư kính hiến. Vĩ lại hỏi : -Cả bốn nàng đều nhắc đến tên Bảo Cô, vậy Bảo Cô là ai, khanh có biết không ? Đáp : -Bảo Cô là con gái Bảo Tịnh, vợ của Cát Hồng, thường đốt ngải cứu để trị bệnh cho người ta ở Nam Hải. Bấy giờ Vĩ mới hiểu rõ Bảo Cô là bà lão đã cho chàng những sợi cỏ ngải cứu ngày trước, lòng không khỏi kinh sợ. Còn Ngọc Quỳnh Tử là con rồng mà cổ xưa An Kỳ Sinh đã cưỡi để lên chầu Thiên Đế, nên mới có hiệu là Ngọc Quỳnh Tử. Vĩ nhân vì rơi xuống huyệt, được uống nước rãi rồng mà da dẻ trở nên nõn nà, và gân cốt nhẹ nhàng cứng cáp.Chàng sống tại Nam Hải hơn mười năm, rồi đem hết tiền tài gia sản phân phát cho người ta, một lòng học đạo, rồi đem vợ con đến núi La Phù Sơn đi tìm Bảo Cô. Rốt cuộc, không ai thấy chàng đâu nữa. (Dịch xong ngày 20-9-2003-lúc 23:49 Phạm xuân Hy) _________________________________________________________ __________________ Vài nét về tác giả: Bùi Hình https://thuviensach.vn 裴 鉶 Theo "Toàn Đường Thi" và " Đường Thi Ký Sự " thì vào năm Hàm Thông đời Ý Tông nhà Đường, Bùi Hình từng chức Chưởng Thư Ký, gia Thị Ngự Sử cho Cao Biền, lúc đó làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ ( thuộc Lãnh Nam đạo, trị Giao Châu ) Đến năm Càn Phù ngũ niên (năm 878 ) đời Hy Tông, từ Ngự Sử đại phu, Bùi Hình được thăng làm Tiết Độ Phó Sứ Thành Đô.Ông soạn bộ "Truyền Kỳ" gồm ba quyển, thuật những sự tích kỳ lạ, biến ảo.Lời văn mỹ lệ, tinh vi, làm say mê người đọc.Tại các triều Đường, Tống, sách cuả ông được phổ biến rộng rãi.Vì thế, người thời Tống gọi những tiểu thuyết thần tiên hư ảo đời Đường là " Truyền Kỳ ".Và hai chữ truyền kỳ trở thành tên gọi của một thể tài văn học Trung Quốc (thường gọi là thể truyền kỳ chí quái), Liêu Trai Chí Dị cũng được viết theo thể tài này. Sách "Lĩnh Nam Chích Quái " trong truyện Nam Chiếu, thuật là "Niên hiệu Hàm Thông thứ sáu, vua Ý Tông nhà Đường sai Cao Biền sang làm Đô Hộ, đem binh đánh Nam Chiếu, bèn đặt đạo quân Tĩnh Hải ở thành An Nam và cho Biền làm Tiết Đ Sứ. Lỗ Tấn đặt ra câu hỏi là " Việc Biền là ham thích những việc thần tiên, chẳng hiểu có quan hệ gì đến Bùi Hình không ? (Truyện Thôi Vỹ được tuyển từ Thái Bình Quảng Ký ). Trong sách An Nam Chí Lược (thế kỷ thứ 14) có chép bài bia "Thiên Oai Kinh Tân Tạc Hải Phái Bia " do Bùi Hình soạn. Rất mong bài bia này được các sử gia chuyên nghiệp đẻ ý nghiên cứu. Vài hàng chú thích : Trinh Nguyên 貞 元 Vua Đức Tông nhà Đường làm vua từ năm 780 đến năm 805, có ba niên hiệu là Kiến Trung, Hưng Nguyên và Trinh Nguyên. Trinh Nguyên là niên hiệu từ năm 785 đến năm 805. Triệu Đà 趙 佗 https://thuviensach.vn Năm 210 trứơc Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng chiếm Lĩnh Nam và chia vùng đất này làm ba quận là Quế Lâm , Hải Nam(nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận, cho Nhâm Ngao làm Nam Hải Uý, (sách Đại Việt Sử Lược viết là chức Ký Quận)và cho Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh( thuộc quận Nam Hải).Cuối đời Tần, Đà nghe lời Nhâm Ngao đánh chiếm Lĩnh Nam, tự xưng là Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, (năm 207 trước công nguyên) , trước Lưu Bang xưng Hán Vương ở Trung nguyên một năm, (tức năm 206 trước CN). Đến năm 196 TCN, sau khi đã định yên được thiên hạ rồi, Lưu Bang sai Lục Gỉa sang phong cho Đà là Nam Việt Vương. Tuy vẫn gọi là Nam Việt Vương, nhưng ý nghĩa khác hẳn nhau.Vì khi Đà xưng là Nam Việt Vương, thì chữ Vương ở đây là danh hiệu cao quý của người nắm quyền tối cao trong một nước, như vua các triều đại Hạ, Thương, Chu, đều có danh hiệu là Vương cả (Chu văn Vương). Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc bỏ danh xưng là Vương, mà gọi là Hoàng Đế.Vua các triều đại từ Hán Cao Đế Lưu Bang tập theo lối của Tần Thủy Hoàng đều gọi là Hoàng Đế. Còn chữ Vương trong Nam Việt Vương mà Lưu Bang phong cho Đà, chỉ là một tước phong mà thôi, Đà bị coi như thần tử của nhà Hán.Việc phong vương như thế , chúng ta thấy xẩy ra dài dài trong lịch sứ của nước ta, cho đến khi Pháp đặt quyền cai trị ở Việt Nam thì chấm dứt. Đến thời Lã Hậu cấm không cho người Nam Việt mua đồ sắt, Đà tự tôn là « đế » , Nam Việt Võ Đế, cho ngang hàng với nhà Hán rồi đem binh đánh quận Trường Sa. Sang đến đời Hiếu Văn Đế nhà Hán, Văn Đế sai Lục Gỉa sang trách việc Đà tự lập làm « đế », thì Đà giải thích : « Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu « đế »chỉ để tự mua vui chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ ». Coi ngôi báu như một trò mua vui, Đà quả là một tay chơi ngông.Đã vậy, sao về sau lại sợ mà phải từ bỏ danh hiệu hoàng đế? (Đọc thêm Sử Ký của Tư Mã Thiên : Nam Việt Liệt Truyện) https://thuviensach.vn Việt Tỉnh Cương 越 井 岡 Tức núi Việt Tú Sơn, nay thuộc phía bắc Quảng Châu Hồ Gìa 胡 笳 Là một loại nhạc cụ thổi bằng ống của người Hồ, thời Đường rất thịnh hành ở vùng biên giới phía bắc Trung Quốc và Tây Vực. Hồ nhân 胡 人 Thời cổ người Trung Hoa gọi những người dân tộc ở Tây Vực và người ở biên giới phía bắc gọi họ là người Hồ.Từ thời nhà Hán trở về sau, người Tầu gọi chung các người ngoại quốc gọi là Hồ nhân. Điền Hoành 田 横 Điền Hoành người Địch Huyện(nay nằm phía đông nam huyện Cao Thanh, tỉnh Sơn Đông)vốn là dòng giõi quý tộc nước Tề.Cuối đời nhà Tần theo anh là Điền Đam khởi binh xây dựng lại nước Tề.Trong luc Hán và Sở tranh nhau thiên hạ, thì Hoành tự lập làm Tề Vương, được ít lâu thì bị quân Hán đánh bại, phải chạy sang nhờ cậy Bành Việt.Khi nhà thành lập, Hoành dẫn năm ngàn người đồ đảng chạy ra hải đảo, Hán Cao Tổ cho vời Hoành đến Lạc Dương, nhưng Hoành không muốn làm thần tử nhà Hán, đến giũa đường bèn tự sát.Những người đi theo Hoành ra cư trú ở hải đảo, được tin Hoành chết, đều tự sát tất cả. (Hoành chết năm 202 trước Công Nguyên, không rõ năm sinh) An Nam Đô Hộ Triệu Xương 安 南 都 護 趙 昌 Theo An Nam Chí Lược của Lê Tắc thì : Triệu Xương tự là Hồng Tộ làm Thứ Sử Kiền Châu, gặp lúc tù trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn khởi binh chống lại, vua (tức Đường Đại Tông) cho Triệu Xương làm Đô Hộ.Xương ở An Nam mười năm , chân đau xin về nước. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì :Nhà Đường lấy Triệu Xương làm Đô Hộ.Xương vào trong cõi lòng dân bèn yêu .Xương sai sứ dụ https://thuviensach.vn An (tức Phùng An con của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng), An đem quân hàng.Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trứớc, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về, vua Đường chuẩn cho, lấy Lang Trung Bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.(Theo truyện thì Xương giữ chức An Nam Đô Hộ được về thay Thứ Sử Quảng Châu là Từ Thân mất ) Cũng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì Đỗ Anh Hàn không phải tù trưởng An Nam mà là người đồng hương của Phùng Hưng đã hiến kế cho Phùng Hưng đem quân vây phủ, khiến cho Cao Chính Bình (lúc đó là An Nam Đô Hộ ) lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Năm ngoài bẩy mươi tuổi, Xương lại được Đường Đức Tông làm Đô Hộ Giao Châu. Cát Hồng 葛 洪 Sinh năm 283 mất năm 363 Người thời Đông Tấn, nổi tiếng là Đạo Giáo học giả, Luyện đan gia, tự là Trĩ Xuyên , hiệu là Bão Phác Tử, người Đan Dương Câu Dung (nay thuộc Giang Tô), đời gọi là Tiểu Tiên Ông , xuất thân trong một thế gia đại tộc , quảng lãm chư tử bách gi, ham thích phép thần tiên đạo dưỡng.Tư Mã Duệ dùng làm duyện thuộc, tham quân, sau nhờ có công trấn áp cuộc nổi dậy của Thạc Băng thăng làm Phục Ba Tướng Quân, tước Quan Nội Hầu. Đầu năm Hàm Hòa đời Tấn Thành Đế, nghe đất Giao Chỉ có nhiều đan sa, ông xin được làm Câu Lậu lệnh(nayở phía nam tỉnh Quảng Tây.), rồi đem con cháu đến Quảng Tây, lên núi La Phù Sơn hái thuốc luyện đan tu hành ở đấy. Ông chủ trương rằng muốn sống lâu người theo đạo học phải trung đa văn quảng kiến, biết khí pháp, đạo dẫn, luyện kim đan, phòng trung thuật...mới có thể trường thọ thành tiên được.Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh phải lấy trung hiếu, thuận hòa, nhân tín làm căn bản, còn không tu trì đạo đức, mà chỉ chuyên vào phương thuật không thôi, không thể đạt đến chỗ trường sing được. https://thuviensach.vn Trứ tác của ông để lại hiện nay còn có : « Bão Phác Tử nội biên », « Bão Phác Tử ngoại biên », « Đạo Tạng », « Thần Tiên Truyện ». An Nam Chí Lược của Lê Tắc chỉ viết rất sơ sài về ông Việt Vương đài 越 王 台 Đài do Nam Việt Vương Triệu Đà xây cất, nay trên núi Việt Tú Sơn ở tỉnh Quảng Tây Nam Việt Vương mộ 南 越 王 墓 Theo truyện thì Thôi Vĩ rơi xuống một ngôi mộ, đó là mộ của Triệu Đà. Nhưng vào tháng sáu năm 1983, tại tỉnh Quảng Đông , thị trấn Quảng Châu, trên núi Tượng Cương Sơn người ta đã khai quật một ngôi mộ đời vua thứ hai nhà Triệu tên là Triệu Muội, mà trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi đời vua thứ hai này của nhà Triệu làVăn Vương, húy là Hồ, con của Trọng Thủy, cháu của Triệu Đà, lên nối ngôi Đà vào năm Kiến Nguyên thứ tư đời Hán Võ Đế (tức năm 137 t CN ), và chết năm 125 tCN.Về sau được nhà Trần phong là Khai Thiên Tác Đạo Thánh Võ Thần Triết Hoàng Đế 開 天 作 道 聖 武 神 晢 皇 帝. Ngôi mộ của Triệu Văn Vương có bề ngang là 12.42 m, bề dọc là 10.8 m, cao 3 m.Phía trướcnphía sau, bên tả, bên hữu, có bốn ngôi trắc thất.Tiền thất là môn sảnh, hậu thất là mộ chủ để quan tài của Triệu Văn Vương.Quan tài này đã bị hủ nát, nhưng xương cốt của Triệu Văn Vương được bao bọc trong một chiếc ngọc y, từ trên xuống dưới gắn mười viên ngọc bích.Ở hai bên nách của mộ chủ đeo 10 thanh kiếm sắt, và 8 ấn chương, mà ấn lớn nhất là viên ngọc tỉ của Triệu Văn Vưong, có đề bốn chữ :"Văn Đế Hành Tỉ" 文 帝 行 璽 .Còn hai căn phòng trắc thất hai bên cạnh, là nhà mồ của những cơ thiếp, nhạc sư, trù sư, ngự nữ, những người bị bồi táng chung với Triệu Văn Vương, Các nàng cơ thiếp thì đeo ấn đề "Hữu Phu Nhân Tỉ" và "Tả Phu Nhân Tỉ". https://thuviensach.vn Ngoài ra , người ta còn tìm thấy hơn một ngàn khí vật khác như thạch ngọc khí, kim ngân khí, thanh đồng khí, đào khí, đồ sơn, và tơ lụa, rất quý trọng, và huữ ích cho người nghiên cứu về lịch sử của nước Nam Việt ngày xưa.Tất cả những bảo vật tren hiên đang ở viện bảo tàng Nam Việt Vương Mộ Bác Vật Quán ổ Quảng Châu..(Tài liệu trich trong Hoa Hạ Văn Hóa Từ Điển ) Từ viên ngọc tỷ của Triệu Văn Vương với 4 chữ đề là Văn Đế Hành Tỉ chứng tỏ cho thấy là bề ngoài dù Triệu Đà đã viết thư cho nhà vua Hán là Lưu Hằng , chịu từ bỏ đế hiệu, nhưng trên thực tế đến đời cháu vẫn hành xử đế hiệu, không chịu nhận tước vương 王 đã bị nhà Hán phong cho. Và cũng chứng tỏ thêm một điều nữa là chữ Hán đã có mặt ở nước Nam Việt vào thời nhà Triệu, chứ không phải bắt đầu ở thời Sĩ Nhiếp, như nhiều người đã viết. Trước đây trên báo Khởi Hành, hình như giáo sư Trần Ngọc Ninh đã có bài viết về ngôi mộ này.Và trên Minh Báo của ông Tra Lương Dung, xuất bản ở Hồng Kông cũng có tác giả viết về ngôi mộ này.Nhưng báo tôi bị mất không còn tra cứu thêm được. Tuẫn táng 殉 葬 Là tục lệ dùng người hoặc vật chôn theo với người chếtgọi là tuẫn táng..Ở Trung Quốc , tục lệ tuẫn táng có từ thời nguyên thuỷ xã hội, người Tàu đã có tục đem những vật dụng tùy thân, võ khí, cùng những vật phẩm được yêu thích chôn theo với người chết.Sang dến chế độ nô lệ , thì nô lệ bị giết hoặc bị chôn sống để làm tuẫn táng phẩm.Trên phương diện giai cấp, phụ nữ chỉ là ngoạn vật , hoặc vật phụ thuộc của đàn ông quý tộc, vì thế cũng bị chôn theo người chết để làm vật tuẫn táng.Sách ''Tây Kinh Tạp Ký'' có ghi rằng :Mộ phần của U Vương nhà Chu có hơn một trăm người phụ nữ bị chôn theo.Kẻ ngồi người nằm , hoặc đứng.y phục sắc thái không khác gì người sống.Phần lớn là những phi tần của vua U Vương. Đến thời nhà Tần, tục tuẫn táng phát triển đến cực điểm, và được coi là tàn khốc nhất. https://thuviensach.vn Khi Tần Thuỷ Hoàng chết, Tần Nhị Thế hạ lệnh bồi táng toàn bộ tất cả những phi thiếp và cung nữ không có con với Tần Thuỷ Hoàng.Sách Hán Thư ghi rằng số người cung nữ cùng với thợ bị tuẫn táng lên đến hàng vạn. Đến đời nhà Hán, tục tuẫn táng bị bãi bỏ.Hán Võ Đế sau khi chết, những tuẫn táng vật dược sử dụng là những kim ngân châu báu, và những lọai cầm thú chim chóc, trâu, dê, ngựa, báo còn sống để thay thế cho hàng ngãn cung nữ phi thiếp, được bảo toãn tính mệnh đưa ra phụng thị lăng tẩm. Đến đời Minh, tục phụ nữ tuẫn táng lại được phục hồi, và người phục hồi ác tục này lại chính là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.Khi người con thứ của ông chết, ông bắt hai người vương phi phải bị tuẫn táng theo.Và chính bản thân Chu Nguyên Chương khi chết, cũng có 46 người phi thiếp bị chết theo.Mãi đến năm 1464, Minh Anh Tông lúc gần chết mới để di chiếu lại nói rằng ''Dùng người tuẫn táng theo trẫm là điều bất nhẫn, từ trẫm trở đi con cháu đời sau không được làm điều này nữa." Người ta giải thích về ác tục này là do cổ nhân ngày xưa tin rằng linh hồn bất diệt, con người sau khi chết xuống dưới âm gian tiếp tục sinh hoạt, cho nên các vua quan muốn giữ cái vinh hoa phú quý lúc sinh tiền, mới đem thê thiếp, nô bộc cùng xuống để tiện bề sai khiến. Ý của hai bài thơ trên đây : Đài hoang bị hủy đã trăm năm nằm bên vệ đường Nhờ có thái thú sửa chữa trang hoàng lại Tạ ơn đă giúp đỡ trùng kiến Việt Vương đài Xin tặng ngọc báu và mỹ nữ làm vợ Trên đầu núi Việt Tỉnh Cương tùng bách xanh già Trên đài Việt Vương cỏ thu đă lại mọc ra Mộ cổ nhiều năm không có con cháu đến Để cho người ta đi lại thành đường cái quan Nhâm Ngao 任 囂 https://thuviensach.vn Quận úy quận Nam Hải đời Tần, khi nhà Tần sắp bị diệt vong thì Nhâm Ngao tiến cử Triệu Đà lên thay, lúc đó Đà đang làm huyện lệnh Long Xuyên, một huyện của quận Nam Hải. https://thuviensach.vn TRIỆU CƠ 趙 姬 Phạm Xuân Hy Người đàn bà loạn dâm trong cung Tần Lã Bất Vi ( ?-235 trước CN), là người Bộc Dương nước Vệ thời Chiến Quốc, nguyên là một thương gia, tại kinh đô Hàm Đan của nhà Triệu, Lã Bất Vi gặp Tần Công Tử là Dị Nhân, lúc đó bị nước Tần phái sang làm nhân chất ở nước Triệu. Lã Bất Vi cho rằng Dị Nhân có thể là " kỳ hóa khả cư ", nên Lã Bất Vi vào nước Tần du thuyết Hoa Dương Phu Nhân, ái thiếp của An Quốc Quân, lập Dị Nhân làm Thái Tử. Đến khi Tần Trang Tương Vương, tức Dị Nhân, lên nối ngôi cha, bổ nhiệm Lã làm Tướng Quốc, phong làm Văn Tín Hầu. Khi Tần Trang Tương Vương qua đời, Tần Vương Chinh mới có 13 tuổi lên Kế Vị, Lã Bất Vi kế tục giữ chức Tướng Quốc, hiệu là Trọng Phụ, thực ấp hai huyện ở Lam Điền, và 20 hộ ở Lạc Dương Hà Nam. Lã Bất Vi còn lợi dụng sự mâu thuẫn của hai nước Yên và Triệu, được Triệu, được Yên hiến cho mười thành trì ở Hà Giang để làm phong ấp ( vùng đông nam huyện Hiến tỉnh Hà Bắc. ) Trong thời kỳ chấp chính, Lã Bất Vi tấn công các nước Chu, Triệu, Ngụy và chiếm đất của những nước này để thành lập các quận Tam Xuyên, Thái Nguyên, Đông Quận. Trong nhà Lã Bất Vi, môn khách có đến ba ngàn người, gia đồng có cả vạn đứa. Cuối thời kỳ Chiến Quốc, nhằm mục đích chấn hưng đất nước, Tần Hiếu Công dùng Thương Ửơng để biến pháp, cùng với lục quốc ở trung nguyên, đánh thành cướp đất, dân dần trở nên một nước hùng mạnh đứng đầu lục quốc, khiến cho vua nhà Chu là Chu Nõan Vương phải đem cửu đỉnh, báu vật tượng trưng cho chính quyền của nước mình dâng cho Tần. https://thuviensach.vn Trong lục quốc lúc bấy giờ, thực lực giữa hai nước Tần và Triệu tương đối là ngang ngửa với nhau. Liêm Pha, danh tướng của nước Triệu từng cầm quân đanh bại hai lần tấn công của nước Tần, nên Tần buộc phải đem người con nhỏ là Dị Nhân, con của một nàng phi tử với Thái Tử, sang làm con tin, bên nước Triệu. Khỏang năm 265 t CN đến 259 t CN, Lã Bất Vi thường đến buôn bán ở kinh đô Hàm Đan của nước Triệu, gặp được Dị Nhân, bấy giờ đang bị là nhân chất sống ở Triệu. Lã Bất Vi gặp Dị Nhân, trông lòng cho rằng Dị Nhân có thể " kỳ hóa khả cư ", có nghĩa là một lọai hàng hóa hiếm quý, tích trữ giữ lại để bán giá cao về sau này, máu con buôn là vậy, nên Lã Bất Vi dùng hết tâm chí để kết giao với Dị Nhân, dần dần trở thành tri giao. Dị Nhân sống nơi đất lạ quê người, nhìn xa nhìn gần, quanh mình không có một người thân, nay lại có người tự nguyện đến nghe mình than thở kể lể tâm tình, lại còn lo tương lai tiền đồ chính trị cho mình, khiến Lã Bất Vi cảm kích đến rơi lệ, bèn đem hết nỗi sót sa, khổ muộn, buồn chán nơi dị hương đất khách, nhất nhất giãi bầy cho Lã Bất Vi nghe. Lã Bất Vi nghe xong, bèn đến nước Tần, thay Dị Nhân, bỏ tiền bạc hối lộ mua chuộc Hoa Dương Phu Nhân, sủng phi của An Quốc Quân, Thái Tử nước Tần, nhờ Hoa Dương Phu Nhân khuyên Thái Tử lập Dị Nhân làm Trừ Nhị. Lã Bất Vi lại bỏ ra một ngàn tiền vàng để tặng Dị Nhân, để cho Dị Nhân có tiền kết giao với các tân khách. Dị Nhân vạn phần cảm kích, nhân thế cùng Lã Bất Vi kín đáo ký kết mật ước, như nếu tương lai sau này, Dị Nhân được làm Tần Vương, tất sẽ cùng Lã Bất Vi chia sẻ vinh hoa phú quý. Do đó, Lã Vất Vi sang nước Tần để họat động cho Dị Nhân. Dọc đường, Lã Bất Vi mua vô số trân châu bảo vật. Đến khi vào đến đất Tần, việc làm đầu tiên của Lã Bất Vi là liên lạc với người chị của Hoa Dương Phu Nhân. Nguyên vì Hoa Dương Phu Nhân là sủng phi của An Quốc Quân, nhưng lại không có con nối dõi. Vì vậy, người chị của Hoa Dương Phu Nhân mới khuyên Hoa Dương Phu Nhân nên nhận Dị Nhân làm nghĩa tử. https://thuviensach.vn Nàng bảo với Hoa Dương Phu Nhân rằng : -Phu Nhân không có con, nên sớm tính chuyện chọn người nối dõi đi, bằng không, đợi đến lúc sắc đẹp phai tàn, không còn được sủng ái nữa, thì biết dựa vào ai. Nay Dị Nhân bị đưa sang làm nhân chất bên nước Trịêu, nên ngày đêm thường thương nhớ Thái Tử với Phu Nhân mà khóc, sao Phu Nhân không thừa cơ hội này mà lập Dị Nhân làm đích tự. Như thế, Dị Nhân sẽ cảm kích ân huệ của Phu Nhân mà không quên. Còn Phu Nhân cũng sẽ có nơi nương dụa cho đến hết đời. Nghe người chị nói như vậy, Hoa Dương Phu Nhân, như người trong mộng vừa tỉnh dậy. Ngay đêm hôm ấy, Hoa Dương Phu Nhân đem việc nói với An Quốc Quân, quyết định lập Dị Nhân làm đích tử. Lã Bất Vi trở về nước Triệu, từ đó giao tình với Dị Nhân mỗi ngày càng thêm thân thiết đậm đà hơn. Lã Bất Vi còn suy nghĩ tính tóan một điều khác nữa. Tuy là một thương gia phi thường thành công giầu có, nhưng thâm cảm thấy rằng địa vị của người thương nhân trong xã hội quá thấp kém, và trong thời buổi lọan ly, các nước tranh nhau làm bá chủ. Mà nước Triệu và nước Tần lại sát ở gần nhau. Nước Triệu vừa nhỏ lại vừa yếu, thì tốt hơn cả là vào nước Tần tham chính. Lã Bất Vi suy di tính lại, ý muốn lợi dụng người nứơc Tần là Dị Nhân để sắp xếp kế họach nhập Tần. Trong khi đó, tại kinh đô Hàm Đan của nước Triệu, có một nàng ca kỹ tên là Triệu Cơ. Môi đỏ như hoa anh đào. Hai hàng răng trắng như bạch ngọc. Dáng người lả lướt như chim yến ;Trông kiều diễm rung động lòng người. Lã Bất Vi bỏ rất nhiều tiền không hề ngần gại, mua Triệu Cơ về làm thiếp. Ba tháng sau thì Triệu Cơ mang thai. Bấy giờ, Lã Bất Vi mới đem sự thật nói cho Triệu Cơ rằng : -Ý ta tính muốn chiếm lấy thiên hạ nhà Tần, vì thế nên cưới khanh về, chờ khanh có thai sẽ hiến khanh cho Dị Nhân. Lúc này Dị Nhân làm con tin ở nước Triệu, chưa vợ con gì cả. Như quả, khanh sinh con trai, Dị Nhân tất sẽ lập làm con nối dõi. Đến khi Dị Nhân https://thuviensach.vn qua đời, thì đứa bé sẽ lên kế ngôi. Vợ chồng chúng mình do đó mà làm chủ thiên hạ nhà Tần. Triệu Cơ, nghe Lã Bất Vi nói vậy thì đồng ý ngay. Ngày hôm sau, Lã Bất Vi mở yến tiệc để mời Dị Nhân. Trong tiệc bầy hàng trăm thứ của ngon vật lạ. Đàn hát, vũ nữ đứng thành hành ở hai bên. Chờ cho Dị Nhân uống đến lúc túy lúy càn khôn, bấy giờ Lã Bất Vi mới cho gọi Triệu Cơ đi ra. Dị Nhân thấy Triệu Cơ ăn mặc rực rỡ, mày ngài mắt phượng, mái tóc như mây, gót sen lả lướt, lại thêm mùi thơm từ tay áo bay ra phảng phất, khiến cho Dị Nhân đôi mắt như mờ hẳn đi, thần trí hỏang hốt mê như mộng, nhưng chỉ dám đưa mắt nhìn trộm. Còn Triệu Cơ cũng đong đưa khóe mắt, uyển chuyển tống tình, thẹn thò nhìn Dị Nhân nhưng không nói lời nào, rồi tiến đến rót rượu mời Dị Nhân. Dị Nhân tiếp lấy chén rượu, nhưng hai mắt vẫn không rời Triệu Cơ. Chính khi đó thì Lã Bất Vi cũng đã rượu say ngủ gục trên bàn tiệc. Dị Nhân bèn nhân cơ hội nắm lấy tay áo của Triệu Cơ kéo nàng vào sát người mình. Triệu Cơ tỏ vẻ vừa giận vừa vui, nửa như muốn đẩy Di Nhân ra, nửa như muốn ngả vào lòng Dị Nhân. Giữa lúc đó, bỗng có tiếng đập bàn thật lớn, rồi nghe tiếng Lã Bất Vi hét to, mắng : -Ngươi cả gan dám chòng ghẹo ái thê của ta sao ? Dị Nhân hỏang hốt quay đầu lại nhìn, thấy Lã Bất Vi đùng đùng nổi giận, đứng sừng sừng ngay bên cạnh bàn, thì sợ hãi, ba hồn bẩy vía bay lên mây hết, vội vàng quỳ xuống đất xin Lã Bất Vi tha mạng. Nhưng Lã Bất Vi chỉ cười nhạt, nói : -Chúng mình giao hảo với nhau đã mấy năm nay, điện hạ đáng lẽ chẳng nên làm như thế. Gỉa như có yêu vợ tôi, thì cũng nên bảo nhau một tiếng, lẽ nào lại lén lút như bị ma ám vậy ? Dị Nhân nghe Lã Bất Vi nói thế, nhất thời liền chuyển sợ thành vui, hướng về phía Lã Bất Vi khấu đầu cầu khẩn, thưa : -Đệ bị làm con tin nơi đất lạ xứ người, khách lữ cô đôn, xin huynh cho Triệu Cơ làm vợ đệ, nếu được như vậy, thì sau này phú quý, đệ thề sẽ báo đáp ! https://thuviensach.vn Lã Bất Vi còn đang trầm ngâm suy nghĩ, thì Dị Nhân lại tiêp : -Đệ xin thề " sống thì kết thảo, chết thì ngậm vành ", không dám quên ơn nghĩa của huynh đâu. Lã Bất Vị giả vờ giận dỗi, nói : -Nếu như điện hạ đã thích, thì tôi cũng xin tặng cho điện hạ thôi. Nói chi chuyện báo đáp làm gì ! Rồi nâng Dị Nhân đứng dậy, dắt Triệu Cơ đến ngồi bên cạnh Dị Nhân, và cả ba cùng nhau tiếp tục yến ẩm cho đến mãi thật khuya. Sau đó, Lã Bất Vi tiễn Triệu Cơ lên xe bầu bạn với Dị Nhân, cùng trở về khách quán. Từ sau ngày được Triệu Cơ, Dị Nhân đêm ngày cùng Triệu Cơ xóăn súyt. Thời gian trôi nhanh, chẳng mấy chốc tám tháng bay vèo. Triệu Cơ sinh được một người con trai. Mũi to. Mắt xếch. Trán vuông. Đẻ ra đã có răng. Nhân sinh vào ngày nguyên đán chính nguyệt nên đặt tên là Chính, và lấy họ mẹ gọi là Triệu Chính. Ba năm sau, hai nước Tần, Triệu bất hòa. Tần đem quân vây kinh đô Hàm Đan của Triệu. Nước Triệu tính đem Dị Nhân ra giết. Lã Bất Vi phải đem tiền của hối lộ viên quan coi giữ Dị Nhân, để thả Dị Nhân trở về Tần. Dị Nhân về đến Tần, vào gặp Hoa Dương Phu Nhân, khóc lóc kể lể nỗi xa cách nhó thương, và nhận Hoa Dương Phu Nhân là người nước Sở, Dị Nhân thay đổi trang phục, ăn mặc theo lối người Sở, làm cho Hoa Dương Phu Nhân thêm niềm cảm động, thương sót, lau nước mắt mà bảo với Dị Nhân rằng : -Ta là người nước Sở, thấy khanh hạ mình chiều theo ý ta, ta nguyện ý nhận khanh làm dưỡng tử, khanh hãy cải danh là Tử Sở. Dị Nhân bèn nhận Hoa Dương Phu Nhân, người đàn bà chỉ hơn mình có ba tuổi làm mẹ. Cũng từ đấy, Dị Nhân sớm chiều ra vào ân cần thăm hỏi Hoa Dương Phu Nhân. Khi Tần Chiêu Tương Vương qua đời, An Quốc Quân tức vị, tức Tần Hiếu Văn Vương, lập Tử Sở làm Thái Tử. Nhưng sau đó ba ngày, Tần Hiếu Văn Vương lại qua đời. Tử Sở lên kế vị tức Tần Vương, tôn Hoa Dương Phu Nhân làm Hoa Dương Thái Hậu, và mẹ đẻ là Hạ Cơ https://thuviensach.vn làm Hạ Thái Hậu, lập Triệu Cơ làm Vương Hậu, con là Doanh Chính ( nhân vì trở về nước Tần, Triệu Chính lấy lại họ Doanh của mình nên gọi là Doanh Chính ) làm con nối nghiệp, và bổ nhiệm Lã Bất Vi làm Tướng Quốc, tước Văn Tín Hầu, thực ấp Thập Vạn Hộ ở Lạc Dương Hà Nam. Thấm thóat bốn năm trôi qua, Tử Sở đắm say mê lọan trong chốn phòng the cung cấm. Tinh huyết cạn khô. Nguyên khí hao tổn. Lại thêm Triệu Cơ đêm đêm tận lực dâng hiến, đem hết kỹ năng nghề tình ra phụng sự. Tử Sở tham hoan thành tật, được ít lâu trở nên suy nhược, hết kham nổi. Rồi một đêm, trong lúc trên giường say sưa ngọan lạc, Tử Sở bị trúng gió, ô hô táng mệnh. Tuổi mới vừa ba mươi sáu. Bấy giờ Doanh Chính mới có mười ba tuổi, lên kế vị Tần Vương. Vì Doanh Chính còn niên ấu, nên Thái Hậu Triệu Cơ buông rèm thính chính. Tòan bộ quốc sự ủy nhiệm vào tay Lã Bất Vi, và được tôn là Trọng Phụ. Còn Triệu Cơ tuy là Thái Hậu, lúc đó tuổi cũng chưa đến ba chục, không chịu đựng nổi cảnh chăn đơn gối lẻ, tịch mịch cô đơn trong cung cấm, nên lại cùng Lã Bất Vi nối lại cựu tình, bí mật lai vãng. Bọn cung nga, thái nữ, đều là người tâm phúc của Triệu Cơ, tự nhiên là phải kín miệng như bưng. Còn Doanh Chính thì ít tuổi, không hiểu rõ điều bí ần giữa hai người. Vì thế, Triệu Cơ và Lã Bất Vi kín đáo tư thông với nhau như đôi vợ chồng. Dần dần Doanh Chính lớn lên, còn Lã Bất Vi cũng già đi, sức bất tòng tâm. Trong khi đó, lòng ham muốn nhục dục của Triệu Cơ không ngừng. Thường thường luôn luôn tuyên triệu Lã Bất Vi vào trong cung để hành lạc. Nhưng Lã Bất Vi sợ việc bị bại lộ, bèn cho tìm một người có " vật riêng " kích thước to lớn tên là Lao Ái, bổ nhiệm làm xá nhân. Qủa thật vật ấy tráng kiện và vĩ đại. Lao Ái từng đùa nghịch dùng nó xuyên nhập vào lỗ bánh xe, để cho bánh xe quay. Lã Bất Vi hết lời tán dương tuyệt kỹ của Lao Ái với Triệu Cơ, khiến Triệu Cơ hâm mộ, muốn đích thân thử một lần cho biết. https://thuviensach.vn Nhân thế, Lã Bất Vi cạo gọt hết râu ria của Lao Ái để giả trang làm thái giám, đem vào trong cung phục thị hầu hạ Triệu Cơ. Lao Ái đúng thuộc lọai " cửu chiến bất bì ", khiến cho Triệu Cơ tri chì không nổi, mừng rỡ như bắt được vàng. Từ đấy, Triệu Cơ cùng Lao Ái ở trong hậu cung đêm ngày tham hoan hưởng lạc. Được ít lâu thì Triệu Cơ có thai. Lao Ái và Triệu Cơ kín đáo bàn bạc với nhau, mua chuộc bọn bộc nhân đầy tớ, nói trá là trong cung bất lợi cho Thái Hậu, nên dời cư đến nơi khác để tránh tai họa. Doanh Chính không biết đó là điều nói dối, bèn đưa mẫu hậu đến cư trú ở Ung Cung. Từ đấy, hai mẹ con mỗi người một ngả, chẳng còn gì trở ngại tỵ hiềm nữa. Triệu Cơ trước sau sinh được hai người con trai, nhưng Doanh Chính đều không hay biết. Trái lại, do mẫu thân yêu cầu, Doanh Chính phong cho Lao Ái làm Trường Tín Hầu, ban cho mấy ngàn nô tỳ, thực ấp ở Sơn Dương. Oai quyền của Lao Ái mỗi ngày một lớn, mật mưu riêng với Triệu Cơ, mưu tính đưa con tư sinh của hai người lập làm tự vương. Nhưng Lao Ái vốn xuất thân chỉ là dân đầu đường xó chợ, tiểu nhân đắc chí, tránh không khỏi nói năng không có suy nghĩ. Một hôm, Lao Ái, yến ẩm cùng với một viên đại thần, lúc quá chén, rựơu vào lời ra, xẩy ra cãi cọ. Lao Ái mới tức giận, lớn tiếng chửi : -Ta là giả phụ của Tần Vương, ngươi cả gan cùng ta đấu khẩu à ? Chắc ngươi có mắt không tròng, không còn biết trên, dưới là gì nữa ! Viên đại thần cũng không chịu nhục, bèn đem những lời nói của Lao Ái tâu lại với Tần Vương Chính. Doanh Chính vốn người có tướng mũi ong, mắt xếch, bản tính hà khắc, khinh bạc, qủa ân, nghe thấy những lời Lao Ái nói như thế, không dằn nổi cơn tức giận, lập tức hạ lệinh điều tra hư thực. Sau lại được báo cáo là Lao Ái chỉ là người thường, không phải là người bị họan, thực sự có thông gian với Thái Hậu và sinh đợc hai con. https://thuviensach.vn Lao Ái cũng được biết tin đó, lẽ nào khoanh tay chờ chết. Bền ngụy tạo chiếu thư, điều động vệ binh và huyện tốt để đối phó với Tần Vương Chính. Hai bên cùng nhau giao chiến, nhưng Lao Ái binh bại bỏ chạy tứ tán. Doanh Chính bắt được Lao Ái đem ra xử tội " Ngũ Mã Phân Thi ", và " Chu Di Tam Tộc " của Lao Ái. Sau đó cho tướng đến lục sóat Ung Cung, bắt giết hai đứa con tư sinh của Lao Áí và Triệu Thái Hậu, và đem Triệu Thái Hậu về u cấm tử Hàm Dương Cung. Riêng Lã Bất Vi vì đưa Lao Ái giả làm thái giám vào cung thông gian với Thái Hậu, phạm tội khi quân, lẽ ra phải chịu chung tội với Lao Ái, nhưng nghĩ đến công Lã Bất Vi phụng thị giúp đỡ tiên vương, tức Tử Sở, nên cho lấy công chuộc tội, nhưng bị bãi chức Tướng Quốc, đuổi về sống ở phong địa ở Hà Nam. Lã Bất Vi sông ở Hà Nam được hơn một năm, các chư hầu quốc ở vùng Sơn Đông đều cho sứ giả liên tiếp đến thăm hỏi, vấn an. Việc này đến tai Tần Vương Doanh Chính. Để phong ngừa sự nổi dậy phản lọan của Lã Bất Vi, Doanh Chính bèn viết một chiếu thư, biếm Lã Bất Vi đến đất Thục bắt buộc phải dời khỏi Hà Nam ngay: " Ngươi có công trạng gì với nước Tần mà được phong quốc ở Hà Nam, thực ấp cả thập vạn hộ ? Ngươi có thân thuộc bà con gì với nước Tần mà xưng là Trọng Phụ ?. Nay ngươi phải cấp tốc đem gia đình dời cư gấp đến đất Thục, không được chần chừ gì nữa " Lã Bất Vi đọc xong chiếu thư, buông mấy tiếng thở dài, đôi mắt rưng rưng như muốn rơi lệ. Bụng bảo dạ, nếu đem nói hết thực tình, một người tính tình kiêu ngạo và hà khắc như Tần Thủy Hòang, việc lộ ra ngòai, chỉ là rước họa vào thân thôi. Lã Bất Ví suy đi tính lại, thấy tương lai chắc chẳng có gì là tốt, chi bằng nhân bây giờ kết liễu đời mình cho khỏi khổ về sau. Bèn lấy rượu độc ra, cố dốc vào miệng, một lát sau thì thuốc ngấm, hồn du địa phủ. Suốt cuộc đời của Lã Bất Vi khổ tâm tính tóan kinh doanh. Lúc đầu thì bằng những chén rượu ngọt, cuối cùng lại phải kết liễu đời mình bằng một chén rượu độc. https://thuviensach.vn Còn Triệu Cơ, sống thêm được vài năm nữa, rồi cũng qua đời trong uất hận đau buồn. Câu truyện trên đây đã được Tư Mã Thiên tường thuận theo lối truyền kỳ cố sự trong " Sử Ký-Lã Bất Vi Liệt Truyện ". Theo Tư Mã Thiên, mẹ của Doanh Chính là nàng kỹ nữ Triệu Cơ, vợ của lái buôn Lã Bất Vi, nhưng Dị Nhân vì say đắm sắc đẹp của Triệu Cơ nên muốn lấy nàng. Lã Bất Vi miễn cưỡng phải đem vợ gả cho Dị Nhân Tư Mã Thiên còn ghi rõ là, khi Triệu Cơ về nhà Dị Nhân thì đã có thai, nhưng Dị Nhân không biết, đến khi mãn nguyệt thì sinh ra Chính. Điều mâu thuẫn ở đây là Dị Nhân, cũng như người đời lúc bấy giờ, đều cho Chính là con của Dị Nhân Nên sau đó, khi Dị Nhân lên nối ngôi vị Tần Vương, tức Tần Trang Tương Vương, thì Triệu Cơ được phong làm Vương Hậu, Lã Bất Vi làm Tướng Quốc, Doanh Chính làm Thái Tử. Việc Tư Mã Thiên coi Chính là con của Lã Bất Vi, hơn một trăm năm sau, cũng được sử gia Ban Cố đồng tình chấp nhận, nên trong " Hán Thư ", Ban Cố đã gọi Doanh Chính là Lã Chính. Tác giả Bốc Đức trong bài " Trung Quốc Đích Đệ Nhất Cá Thống Trị Gỉa " lập luận cho rằng việc Tư Mã Thiên đem việc một người đàn bà vô danh có thai vào " sử ký " là một việc " phi bình thường ", chỉ là nhằm mục đích phỉ báng Tần Thủy Hòang, để chứng minh chính trị và thân thế nguồn gốc của vị bạo quân này không thuộc chính thống, tuy vậy, lập luận này cũng khó mà dẫn chứng được. Cũng như bảo Tần Thủy Hoàng là " con lái buôn - thương nhân chi tử 商人之子 ", hay " Con rơi, con riêng - Tư sinh tử 私 生 子 " thì cũng thế thôi, vì theo truyền thống của Trung Quốc " lái buôn " bị nho sinh các đời sau liệt vào hạng thấp hèn nhất trong xã hội. Nhưng rõ ràng thuyết coi Tần Thủy Hòang là " con vợ lẽ " thì cho đến bây giờ vẫn được công nhận. Nhưng liệu " Sử Ký " của Tư Mã Thiên có bị sửa đổi, hay sóan cải không ? Lịch sử của Trung Quốc chứng minh rằng có nhiều lúc sử đã đựơc viết theo lệnh và ý riêng https://thuviensach.vn của vua chúa cầm quyền đương thời. Và ngay cả thời hiện đại của chúng ta, chúng ta liệu có thể nào tin được rằng các các sự kiện lịch sử được viết một cách công bằng, mà không có lập trường chính trị phe phái không ? Còn Vương Thế Trinh, sử học gia nổi tiếng đời Minh, trong " Độc Thư Hậu Ký ", đã tỏ ra hòai nghi về tính chất chân thực giai thọai bên trong " Lã Bất Vi Liệt truyện " của Tư Mã Thiên. Ông đưa ra hai lập luận : 1-Chính Lã Bất Vi muốn bảo vệ sự phú quý của mình đã cố tạo ra câu chuyện là mình là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. 2-Những môn khách của Lã Bất Vi, chửi Tần Thủy Hoàng là con rơi, con riêng, để trút bớt nỗi căm phẫn, nên đã viết ra thuyết này. Qúach Mạt Nhược bài " Thập Phê Phán Thư " cũng tỏ ra nghi ngờ chuyện Lã Bất Vi là cha đẻ của Tần Thủy Hòang, với ba nghi vấn : 1-Sự tích Lã Bất Vi là cha đẻ của Tần Thủy Hòang chỉ thấy " Sử Ký " của Tư Mã Thiên, nhưng trong " Chiến Quốc Sách ", là một cuốn sách ghi chép các lời nói, việc làm, sự tích của các mưu thần, sách sĩ thời Chiến Quốc, do Lưu Hướng ngươi thời Tây Hán biên hiệu và chỉnh lý. 2- Cố Sự về Lã Bất Vi và nàng Triệu Cơ giống như chuyện Xuân Thân Quân với nàng Nữ Hòan, tình tiết mang tính tiểu thuyết. 3- Chính trong " Lã Bất Vi Liệt Truyện " lại có câu :" 子 楚 夫 人 趙 豪 家 女-Tử Sở phu nhân Triệu hào gia nữ- Vợ Tử Sở là con nhà giầu có tai mắt ở nước Triệu ", như thế há chẳng phải là Tư Mã Thiên tự mâu thuẫn sao ? Dã hai ngàn năm trôi qua, sự tranh luận liên quan đến thân thế của Tần Thủy Hòang đến nay vẫn chưa tìm được một cái nhìn nhất chí. Tuy nhiên, bất luận dù Triệu Cơ mang thai rồi mới lấy chồng, và Doanh Chính có thật là huyết mạch của Tử Sở hay không, thì cũng không thể nào che đậy được địa vị trọng yếu của Tần Thủy Hoàng trong lịch sử Trung Quốc. https://thuviensach.vn Hoặc thôi, chẳng bàn đến nữa (Phạm Xuân Hy-Paris ngày 4-8-2009 - 22h09). _____________________ Chú thích riêng của Phạm Xuân Hy Công Tử 公子 1-Cổ xưa, ngoài người con đích của chư hầu vương, thì những người con khác được gọi là công tử, chẳng hạn như trong sach "Sử Ký-Ngụy Công Tử Liệt Truyện" thì Ngụy Công Tử Vô Kỵ là con út của vua Ngụy Chiêu Vương, và là em của vua Ngụy An Hy Vương, người anh cùng cha khác mẹ với Ngụy Công Tử Vô Kỵ. Tề Hoàn Công khi chưa lên ngôi được gọi là Công Tử Tiểu Bạch. Tấn Văn Công khi chưa tức vị cũng gọi là Công Tử Trung Nhĩ. 2-Về sau, người ta thường gọi con các quan lại là công tử, rồi dần dần tôn xưng con người khác cũng gọi là công tử. 3-Trong cách xưng hô, gọi người đối thoại với mình là công tử là để tỏ ý kính trọng người đó. 4-Con gái thì gọi là “nữ công tử” Nhân Chất 人 質 Chất 質, có nghĩa là dệ áp, tức cầm cố, thay thế. Nhân Chất 人 質 là người được đem ra để thế' làm con tin. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, sự liên lạc giữa các nước chư hầu, vì để tỏ lòng tín nhiệm của nhau, thường phái những nhân vật trọng yếu của nước mình sang cư trú tại nước đối phương để làm đệ áp, để thế. Người bị phái đi như vậy gọi là Nhân chất, thông thường là do con của quốc vương đảm nhậm, còn gọi là "Chất Tử", hay "Giao Chất". Nếu như trong hai nước, một nước mạnh, một nước yếu, thì chỉ có nước yếu gửi Nhân Chất đến nước mạnh mà thôi, còn nước mạnh không phải gửi người sang. Đó là trường hợp Tử Sở, cha của Tần Thủy Hoàng, sang làm con tin nước Triệu. https://thuviensach.vn Trong cuộc bang giao giữa nhà Hán và vua Nam Việt, nước Nam Việt bị yếu thế, phải phái thái tử Anh Tề, con của Triệu Văn Vương, sang Hán làm nhân chất. Phu Nhân 夫 人 1-Đời nhà Chu gọi vợ của các chư hầu là Phu Nhân. Đến đời nhà Hán, vợ của các Liệt Hầu cùng gọi là Phu Nhân. 2-Đời cổ vợ bé của các đến vương gọi Phu Nhân. Đời nhà Hán vợ bé của các Hòang Đế cũng gọi là Phu Nhân, như gọi người sủng thiếp của Hán Võ Đế họ Lý là Lý Phu Nhân. 3-Phu Nhân còn là phong hiệu của phụ nữ, bắt đầu có từ thời Vương Mãng. Vương Mãng phong cho vợ của Thôi Triện họ Sư là Nghĩa la Phu Nhân. Đến đời Đường, mẹ hoặc vợ của các quan văn võ nhất phẩm gọi là Quốc Phu Nhân, tam phẩm trở lên gọi là Quận Phu Nhân. 4-Phu Nhân còn dùng để gọi một cách kính trọng người đàn bà đã lấy chồng Kỳ Hóa Khả Cư 奇貨可居 Tức hàng hóa trân quý được thương nhân tích trữ giữ lại để chờ cao giá mới bán kiếm lời nhiều. Cũng còn được dùng để tỷ dụng người nào dựa vào tài năng kỹ thuật độc đáo của mình để có được địa vị, hoặc danh lợi lớn. Nguyên câu này được trích từ sách " Sử Ký -Lã Bất Vi Liệt Truyện " cua Tư Mã Thiên, như sau : " 子 楚 , 秦 諸 庶 孽 孫,質 於 諸 侯,車 乘 進 用 不 饒,居 處 困,不 得 意。 呂 不 韋 賈 邯鄲 ,見 而 憐 之,曰'此 奇 貨 可 居 ' - Tử Sở, Tần chư thứ nghiệt tôn, chất ư chư hầu, xa thừa tiến dụng bất nhiêu, cư xử khốn, bất đắc ý. Lã Bất Vi cổ Hàm Đan, kiến nhi lân chi, viết :' thử kỳ hóa khả cư ' - Tử Sở là cháu vua Tần, con vợ lẽ Thái Tử, bị làm con tin ở chư hầu, xe cộ tiền bạc không đủ, ăn ở tiêu dùng khốn khó, lòng bất như ý. Lã Bất Vi đi lại buôn bán ở Hàm https://thuviensach.vn Đan, thấy vậy, tỏ ý thương hại, mới nói :' Đây là hóa phẩm hiếm quý, có thể tích trữ bán làm giầu được ' " Câu thành ngữ " Kỳ Hóa Khả Cư " này cho thấy rằng người Trung Hoa đã có truyền thống buôn bán tich trữ từ rất lâu đời, mà người Việt không có, nên thường bị thất bại về phương diện thương mại. Trọng Phụ 仲 父 1--Thời cổ gọi người em lớn của cha mình là Trọng Phụ, theo sách " Dịch danh giải thích ;" 父 之弟 曰 仲 父……仲 父 之 弟 曰 叔 父。 Phụ chi đệ viết Trọng Phụ, Trọng Phụ chi đệ viết Thúc Phụ Người em của cha gọi là Trọng Phụ…Người em của Trọng Phụ thì gọi là Thúc Phụ. " " Sử Ký-Lã Bất Vi Liệt Truyện " của Tư Mã Thiên chép :"莊 襄 王 即 位 三 年,薨,太 子 政 立 為王,尊 呂 不 韋 為 相 國,號 稱 ' 仲 父- Trang Tương Vương tức vị tam niên, hoăng, Thái Tử Chính lập vi vương, tôn Lã Bất Vi vi Tướng Quốc, hiệu xưng Trọng Phụ - Trang Tương Vương tức vị năm thứ ba thì qua đời, Thái Tử là Chính được lập làm Tần Vương, tôn Lã Bất Vi làm Tướng Quốc, gọi là Trọng Phụ. " -Thời Xuân Thu, Tề Hòan Công cũng từng tôn Qủan Di Ngô là Trọng Phụ để giao việc nước. " Trọng " là tên tự của Qủan Di Ngô. " Phụ " có nghĩa là thờ kính như cha. Về sau nhân thê gọi Qủan Di Ngô là Qủan Trong. -Trọng Phụ cũng còn chỉ Khổng Tử. Khổng Tử tên tự là Trọng Ni, nên cũng gọi là Trọng Phụ. 2-Từ ngữ "Á Phụ " cũng được dùng để tôn xưng người được coi như người thứ hai' sau cha mình ;' Á亞 ' có nghĩa là thứ hai. Thí dụ như Á Hậu " người hoa hậu đứng thứ hai. Mưu sĩ Phạm Tăng từng được Hạng Vũ kính trọng và tôn xưng là " Á Phụ " Cửu Đỉnh 九 鼎 https://thuviensach.vn Bảo vật truyền quốc cổ đại, dùng làm tượng trưng cho chính quyền một nước Theo sách " Tả Truyện 左 傳 " thì vua nhà Hạ ra lệnh cho châu mục của " Cửu Châu 九 州 " đem cống hiến đồng để đúc cửu đỉnh, sau khi làm xong, thi ghi lên thân đỉnh hình vẽ sông núi, sơn xuyên, và những vật lạ kỳ của khắp mọi nơi, sau đó đem cửu đỉnh bầy ở ngoài cửa cung, để tiện cho người ta biết được nơi nào, chỗ nào là chỗ thần linh hay ma quỷ, để mà tránh điều hung, lựa điều cát. Tương truyền rằng việc làm của vua nhà Hạ được " thiên đế 天 帝 " tán đông và phù hộ. Cửu đỉnh ra đời đã mang sẵn ngay một sắc thái thần bí. Nhà Hạ dùng đồng của cửu châu để đúc cửu đỉnh, chẳng những nhằm tượng trưng cho cửu châu, đồng thời biểu thị là nhà Hạ là chủ nhân của cửu châu, thực hiện được sự thống nhất thiên hạ. Sau đó, cửu đỉnh được coi là tượng trưng của quyền lực, và trở thành vật " truyền quốc chi bảo 傳 國 之 寶 " của nước Tầu. Khi nhà Hạ bị tiêu diệt, cửu đỉnh truyền vào tay nhà Thương. Nhà Thương mất, cửu đỉnh sang tay nhà Chu. Chu Thành Vương đem cửu đỉnh bầy ở ấp Gíap Nhục (nay thuộc Lạc Dương tỉnh Hà Nam), để cho người ta biết rằng " mệnh trời " qui về nhà Chu. Cho nên trong ngôn ngữ, người Tầu có từ ngữ " vấn đỉnh 問 鼎 ", để chỉ sự tranh đoạt quyền lực, và từ "định đỉnh 定 鼎 " chỉ sự thiết lập chính quyền. Còn thời tam quốc thì gọi là " tam phân đỉnh túc 三 分 鼎 足 ". Còn vấn đề hịên nay cửu đỉnh đó nay ở đâu' thì do lịch sử ghi không thống nhất, có thuyết cho rằng Tần Chiêu Vương đem cửu đỉnh về nước Tần, nên khi nước Tần bị diệt vong, thi cửu đỉnh thất tung. Còn có thuyết cho rằng khi Tần Chiêu Vương đem cửu đỉnh về nước Tần, thì một chiếc bị rơi xuống sông Tứ Thuỷ, còn lại tám chiếc mới mang vào Tần. Một thuyết khác nữa cho là dưới thời vua Chu Hiển Vương, cửu đỉnh bị chìm ở sông Tứ Thuỷ ở Bành Thành, nên khi Tần Thuỷ Hoàng năm 219 t CN' trên đường qua Bành https://thuviensach.vn Thành, cho hơn một ngàn người xuống mò tìm ở sông Tứ Thuỷ nhưng không thấy. Ngũ Mã Phân Thi 五 馬 分 屍 Là tên gọi của một hình phạt tàn khốc thời cổ tại Trung Quốc. Người ta dùng năm con ngựa hay năm con trâu xé rời tứ chi và đầu của tội nhân. Cũng còn gọi là Xa Liệt 车裂 . Thương Ưởng khi làm tướng quốc nước Tần, hình pháp nghiêm ngặt, nên gây nhiều óan hận với quý tộc nước Tần. Sau khi Tần Hiếu Công mất, con là Thái Tử Huệ Vương lên ngôi, Công Tử Kiền muốn báo thù cũ, mới vu cho Thương Ưởng làm phản. Thương Ưởng bỏ trốn sang nước Ngụy, nhưng bị từ chối. Bất đắc dĩ, Thương Ưởng phải trở về Tần rồi cùng với thuộc hạ khởi binh đánh Trịnh, nhưng binh bại bị bắt và bị Tần Hiếu Công xử Xa Liệt. Tuy thế, có thuyết cho rằng Ngũ Mã Phân Thi chỉ là truyền thuyết dân gian, và chỉ xuất hiện sớm nhất trong tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc. Sách Sử Ký của tư Mã Thiên thuật lại rằng Thương Ưởng bại trận bị giết ở Thằng Trì ở đất Trịnh, nghĩa là bị chết rồi' sau đó mới bị vua Tần Huệ Vương xử Xa Liệt, cho xe xé xác. _______________________________________ Sách tham khảo : Trung Quốc Đế Vương Hậu Cung Tư Sinh Họat Chi Mê Tòan Kỷ Lục 中 国 帝 王 后 宫 私 生 活 之 谜 全 纪 录 của Hoa Trọc Long ) https://thuviensach.vn ĐIỀN PHỤNG KIỀU 田 鳳 翹 Tác giả :Trường Bạch Hạo Ca Tử Bản dịch của : Phạm xuân Hy Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH Tại Hàn Thành có vị hiếu liêm họ Lư, lên kinh thi tiến sĩ lạc đệ, bèn cùng tên gia bộc, mỗi người một ngựa, theo đường Hà Bắc trở về quê ở Thiểm Tây. Bấy giờ, trời đã về chiều, mặt trời đã ngả về tây, nhưng Lư vẫn chưa tìm được quán trọ, trong lòng còn đang lo lắng bồn chồn, thì bỗng nghe có tiếng chó sủa vang. Chàng cho rằng gần đó tất có người cư ngụ, nên ra roi thúc cho ngựa đi mau. Nhưng lắng tai nghe kỹ, thấy tiếng chó sủa hình như phát ra từ một khu rừng cây, Lư bèn bỏ đường lớn, rẽ vào một con tiểu lộ, ngoằn ngoèo khúc khuyủ. Đi chưa đày một dặm, thì hòang hôn dần dần tắt nắng, trời đất tối sầm lại.Khi đến chỗ có tiếng chó sủa, Lư thấy phòng thất lưa thưa, không có nhiều.Lác đác dăm căn thảo đường, lè tè thấp bé.Một ngôi nhà dựng bên bờ nước làm nơi cư ngụ. Chàng để ý quan sát kỹ, thấy trước cổng của ngôi nhà ấy, có một cây đại hòe thật lớn, cành lá xum xuê um tùm.Dưới đất, tơ liễu bị gió thổi rơi đày.Mấy cây hạnh, cây quế, nhô cao khỏi bờ tường, nặng chĩu những qủa sắp chín. Khung cảnh càng làm cho khách viễn du, động tình cố lý. Lư chưa kịp gõ cổng, thì đã nghe tiếng chó sủa ầm ĩ ở trong nhà.Một ông lão, tuổi khoảng lục tuần, mang guốc, tập tễnh đi ra mở cổng, hỏi chàng đến có việc gì.Lư đem ý mình muốn xin ngủ trọ ra trình bầy.Chàng phải nói đi nói lại hai ba lượt, ông lão mới nghe hiểu, rồi tươi cười bảo Lư : https://thuviensach.vn -Chủ nhân đã có tiếng là Mạnh Thường Quân, tự nhiên là sẽ không chối từ, nhưng chỉ e tệ xá nhỏ hẹp mà thôi, biết làm sao chứ ! Lư lại khẩn khoản thêm mấy lần nữa, thì ông lão tiếp : -Thôi, để lão vào bẩm với chủ nhân xem sao nhé ! Rồi đi vào. Mãi một lúc lâu sau, lão mới đi ra đón Lư. Bấy giờ, con trăng đã mọc, in bóng xuống dòng nước trong xanh ở trước cổng. Lư xuống ngựa, đi theo ông lão vào trong sân.Chàng thấy có một căn buồng ở mé đông, vưà thấp lại vừa bé, nhưng bên trong bầy biện có vẻ ngăn nắp, sạch sẽ. Ông lão, đưa Lư vào đấy, còn giữ đứa gia bộc và hai con ngựa ở ngòai sân, rồi khiêm tốn bảo với Lư : -Trời đã trễ, thình lình đón tiếp qúy khách, tệ xá lại ở xa thành thị, không kịp chuẩn bị rựơu thịt để quý khách tẩy trần, xin qúy khách miễn thứ cho nhá ! Rồi tự đứng ra ngòai. Lư bước ra sân, thấy đứa gia bộc của chàng đang cho ngựa ăn cỏ, đi lại bồi hồi dưới bóng trăng. Xung quanh, phòng ốc khin khít, sát cạnh nhau. Hình như gian ngọa thất của chủ nhân cũng chỉ cách căn buồng của Lư bằng một bụi chuối.Tiếng cười, giọng nói, từ bên đó phát ra, nghe rõ mồn một. Chàng đứng hồi lâu, nghe có tiếng lẩm bẩm, thanh âm nhỏ nhẹ, hình như là của một thiếu phụ : -Cái con ranh Điền, tối nay lại không đến, thật là khinh người qúa ! Tiếng nói chưa dứt, thì có tiếng cưòi của một người con gái còn trẻ, đáp lại : -Chị không phải là tôi, sao chị biết tôi không đến ! Người thiếu phụ vừa cười vừa nói đùa : -Vừa mới nhắc đến Tào Tháo, thì Tào Tháo xuất hiện liền ! Người con gái hỏi : -Đường xá cách trở xa xôi, chẳng biết dì Trần có tới không nhỉ ? https://thuviensach.vn Người thiếu phụ trả lời : -Bả là người tính thích nhiệt náo, ham vui, lẽ nào lại không đến.Hơn nữa, hôm nay nhà này lại có khách qúy, muốn mời khách nhập tiệc cho vui, nhưng chỉ sợ các cô e thẹn mà chuồn đi hết thôi ! Người con gái cười : -Chị tự mình chẳng biết xấu hổ, đội mũ đi hia, giả nhân nghĩa bà tú đễ. Bọn em đều là người lớn đàng hoàng cả, há đâu phải là nhà quê, con nít, mà chị đoán mò như thế ! Người thiếu phụ cũng cười theo : -Cái con ranh này, chẳng ngờ nó mặt dày đến thế ! Giữa lúc hai người còn đang đối đáp, thình lình có một luồng gió thổi tới. Âm thanh mơ hồ, hỗn độn. Lào xào tựa như tiếng bà gìa, con gái, dăm ba ngừơi đang hàn huyên chuyện vãn trong khuê phòng. Thanh âm cứ mỗi lúc nhỏ dần.Rồi biến mất. Không nghe thấy gì nữa. Một lúc sau, ông lão đi ra mời Lư, nói : -Chủ mẫu tôi, chẳng ngại nhà thanh bần giản lậu, những mong được diện kiến bậc cao hiền, xin mời quý khách vào ngay. Vừa rồi Lư được nghe giọng cười tiếng nói của ngừơi thiếu phụ, trong lòng cũng có phần dao động, sao xuyến.Lại thêm lữ đồ tịch mịch, trống trải trống trải. Bèn đi theo ông lão. Chàng đi qua vườn, để vào trong nhà, thấy không có gì là rộng rãi cho lắm.Nhưng hương hoa nồng nàn, thơm ngát. Bóng cây âm u, trầm lặng.Dưới ánh trăng vằng vặc, vạn vật cỏ cây đều rõ mồn một.Ở mé trái, có ba gian buồng, tu sức rất là hoa mỹ, không giống như những gian phòng của người thường. Lư đồ chừng là chỗ cư trú của chủ nhân.Ở mé phải, là một gian thảo đình, so ra khá tươm tất, bên trong đã kê sẵn ba chiếc bàn, có một bàn chưa có ai ngồi cả.Còn hai bàn kia, có bốn năm người phụ nữ đang truyện trò, cười cười nói nói, rất là cao hứng. Họ thấy Lư đến, đều đứng cả dậy, dời thảo đình, đi ra đón chàng. Một người mặc sắc phục mầu trắng, trông dung mạo rất là https://thuviensach.vn thanh tú, diễm lệ, vén vạt áo lên, rồi cung kính, nói với Lư : -Thiếp vì tiên phu sớm xa cõi trần, nên phải cư ngụ ở chốn quê mùa hẻo lánh này, nay may được bậc cao hiền huệ cố đến chơi, khiến cho tệ xá được thêm phần vinh dự. Nay, cô em họ Điền có bầy chút tiệc mọn, lấy hoa cúng Phật, xin quý khách đừng cho là lạ mà chê trách nhé ! Lư hiểu đó là chủ nhân nhà này, bèn vòng tay thi lễ, đáp tạ : -Tiểu sinh là kẻ bất tài, đi thi lạc đệ, lấy làm hổ thẹn. Nay trở về quê nhà ở Thiểm Tây, nhưng trời đã tối, lại sợ đường xá xa xôi, hổ lang bạo khách dữ dằn, nên phải ghé vào quấy rầy quý phủ, xin ngủ đậu, chẳng những đã được bao dung, lại cho dự yến tiệc, thật lấy làm cảm kích vô cùng. Chàng nói xong, thì mấy người phụ nữ còn lại, đều từng người một đến chào hỏi chàng, rồi dẫn chàng vào thảo đình, mời chàng ngồi vào bàn nhất.Lưu phải khiêm nhượng từ chối một hồi, sau mới dám nhận. Tiệc rượu không có đèn đuốc chi cả. May nhờ có ánh trăng, Lư mới kín đáo liếc nhìn quan sát. Chàng thấy ở bàn phía trái là một người cao tuổi và hai người phụ nữ. Bà lão tuy khỏang gần năm chục, nhưng dung mạo hãy còn mặn mòi sắc sảo lắm.Áo quần năm mầu sặc sỡ, lấp lánh như điện quang.Mọi người đều gọi bà bằng Dì.Còn hai người phụ nữ kia, thần sắc phong thái cũng diễm lệ xinh đẹp.Y phục mầu trắng sạch sẽ.Tuổi tác xem ra cũng xấp xỉ với chủ nhân. Còn bàn bên hữu, trừ cô gái mặc áo the mỏng, và một nữ lang mặc áo dài mầu đỏ, trông chẳng khác gì một bức tranh mỹ nữ. Chốc chốc nàng lại đưa mắt liếc nhìn Lư, như có điều gì muốn nói. Lư ngồi giữa một đám người toàn là giai lệ, nên cảm thấy gò bó dụt dè, không dám có cử chỉ phóng túng buông thả chút nào. Vừa hết một tuần rượu, Lư đã cảm thấy hơi men chếnh chóang, chàng lấy làm lạ, từ từ nhấm thêm một chút nữa.Thấy vị rượu trong chén đặm đà, nhưng sắc đạm nhạt, thuần hậu dị thường, bèn không https://thuviensach.vn dám uống nhiều thêm, chỉ ăn đôi chút trái cây, để đáp lại thịnh tình mời mọc của chủ nhân. Sang đến tuần rượu thứ hai, người đàn bà cao tuổi nói : -Uống rượu mà như trâu uống nước, thì dù có uống hết tám đấu, cũng nào có thú vị gì ?Vậy xin đề nghị chúng ta nên phỏng theo chuyện uống rượu vườn đào ngày xưa, mỗi người phải làm và ngâm một bài thơ ngắn, để trợ tửu hứng. Còn quý khách nghĩ thế nào ? Lư '' dạ, dạ'' tỏ ý đồng tình. Nhân thế, tất cả đều đề cử người đàn bà cao tuổi ngâm trước.Người đàn cao tuổi tỏ vẻ kiêu hãnh, không từ chối, tằng hắng lấy giọng, rồi cất giọng ngâm một bài tứ tuyệt : Tăng Triệu Bá đồ mâu hối phụng 曾 兆 霸 圖 侔 翽 鳳 Canh phù thánh đạo tiếu minh hồng 更 符 聖 道 笑 冥 鴻 Hồng nhan lão khứ phong lưu tại 紅 顏 老 去 風 流 在 Mỗi hướng Nam dương hóa xích hồng 每 向 南 陽 化 赤 虹 Người đàn bà lớn tuổi ngâm xong, cả bọn đều vỗ tay khen. Chừng đến phiên Lưu, chàng từ chối ba bốn lần không được, cũng phải ngâm một bài : Nhất viên hồng hạnh nguyên vô ngã 一 園 紅 杏 原 無 我 Mãn nhỡn yêu đào tín thị thuỳ ? 滿 眼 夭 桃 信 是 誰 Do tác quảng hàn hoa hạ khách 猶 作 廣 寒 花 下 客 Bất tu lư xướng thả thư mi 不 須 臚 唱 且 舒 眉 Các nàng nghe Lư ngâm xong, cảm tạ thưa : -Bọn thiếp so với hằng nga thua xa, đâu dám so sánh, mà chàng quá khen như thế. https://thuviensach.vn Tiếp đó, đến phiên ba cô khác, họ đều thoái thác không biết ngâm thơ, xin nhận lấy chén tống u rượu phạt. Chỉ có người con gái mặc áo hồng khe khẽ cất giọng ngâm : Trường dạ vô đăng lân tự chiếu 長 夜 無 燈 磷 自 照 Đoạn hồn thùy bạn nguyệt vi trù 斷 魂 誰 伴 月 為 儔 Thê thê nhất thụ bạch dương hạ 淒 淒 一 樹 白 楊 下 Mai tận kim khuê vạn hộc sầu 埋 盡 金 閨 萬 斛 愁 Lưu nghe lời thơ ảm đạm nặng nề âm khí, lòng cảm thấy lo lắng, mặt mày biến sắc, đứng dậy. Các cô gái thấy thế, tức giận lớn tiếng trách mắng người con gái áo hồng : -Cái con ranh con này, làm mất cả hứng vui của người ta ! Rồi cùng nhau chán nản bỏ đi. Lư ra ngoài cửa, lòng bồn chồn bất an, tim đập thình thình. Có ý muốn rời khỏi nơi đây, thì trời đã khuya. Bốn bề đen tối mênh mông. Vả, cũng chẳng biết đi về đâu. Còn ở lại, thì e ngại về hành tung lạ kỳ bí hiểm của những người con gái. Nghĩ tới nghĩ lui, đành cứ để nguyên cả quần áo, nằm xuống ngủ Giữa lúc Lưu còn trằn trọc, xoay dọc xoay ngang, thình lình nghe có người búng ngón tay gõ vào cửa sổ gọi.Chàng nhỏm dậy, nhìn ra ngoài.Chỉ thấy người con gái áo hồng, vụt như điện chớp, vội vã bứơc vào, bảo chàng : -Nếu chẳng có bài thơ vụng về của thiếp, thì chàng nguy hiểm đến tính mạng rồi.Chốn này dữ dằn còn hơn hang hùm ổ rắn. Sao còn muốn ở lại đây ? Lưu ngạc nhiên, sợ hãi vặn hỏi, thì người con gái áo hồng nắm lấy vạt áo của chàng, vừa kéo vừa bảo với chàng : -Đi, đi thôi !Đừng hỏi han gì nữa. Lưu muốn nghĩ đến đứa gia bộc, và con ngựa, nhưng nàng nói : -Nếu còn sống, sau này sẽ tính ! https://thuviensach.vn Rồi cứ thế kéo chàng chạy trốn . Hai người chạy về hướng đông, được hơn một dậm, thì ngoắt về hướng tây.Mồ hôi trên lưng Lưu nhễ nhại, đằm đìa, chẳng biết phải làm gì. Chừng đến chỗ có một gốc cây thật lớn, người con gái áo hồng bảo với Lưu : -Chỗ này là nhà thiếp, hãy nghỉ ngơi thở một chút.Nếu bọn ma nữ ấy đến đây, thiếp sẽ có cách đối phó. Lưu thở hổn hển, phủi bụi bặm trên người, rồi gạn hỏi nguồn cơn, thì người con gái trả lời : -Thiếp tên Phụng Kiều, họ Điền, còn mụ đàn bà gọi là dì Trần, cư ngụ ở Kỳ Châu, thực ra là một con gà rừng thành tinh.Còn ba đứa con gái kia đều là những con nhím tu luyện ngàn năm thành yêu nữ cả. Bọn chúng chuyên môn phục ở dưới điạ hạ để rình hút tủy não người qua đường.Những ngôi mộ quanh đây, đều là của những người chết vì bọn chúng.Thiếp sinh thời, nhờ thành khẩn tụng niệm kinh Kim Cương, lúc chết, chôn kinh theo làm tuẫn táng phẩm, nên bọn yêu quái ấy chẳng những không dám xán gần đến mộ phần của thiếp, lại còn kết làm chị em, rong chơi sớm chiều, nhưng thực tế, bọn chúng chỉ muốn cướp đoạt báu vật của thiếp thôi. Tối qua, người nhà thiếp đem rượu thịt đến cúng, bọn chúng đánh hơi, biết tin, bèn dùng pháp thuật mang đi, rồi ép thiếp làm ''đông đạo chủ''. Chẳng ngờ, chàng lại cũng có mặt dự tiệc.Thiếp không đành vì miếng ăn, để chàng phải phơi gan đổ óc, cho bọn ma đói ấy, nên đã mấy lần đưa mắt ra hiệu cho chàng, mà chàng cứ lặng im làm ngơ.Cũng còn may, thiếp nhờ dịp ngâm thơ mà gửi ý, đánh động cho chàng biết để đề phòng, nếu không thì bây giờ chàng đâu còn sống nữa. Lưu nghe nàng nói, càng thêm kinh hoàng sợ hãi, rợn cả người, ý muốn hỏi cho rõ thêm, thì thoáng thấy mấy đốm hỏa quang từ phía bờ rừng bay vụt tới. Lúc đoàn hỏa quang bay gần tới gốc cây, người con gái bèn rút trong tay áo ra một quyển kinh, lâm râm khấn nguyện, khiến cho https://thuviensach.vn những đốm hỏa quang ấy phải dừng lại, như có điều úy kỵ, không dám tiến tới.Hai phe dằng co không phân thắng bại, mãi cho đến lúc có tiếng gà gáy, thì những đốm hỏa quang mới chịu tản mát bay đi. Lưu trốn nấp trong bụi cỏ, nín thở, không dám ho he lên tiếng, sợ toát mồ hôi, ướt đằm cả quần lẫn áo. Mãi cho đến lúc tang tảng sáng, người con gái mới mừng rỡ bảo chàng : -Chàng may thoát chết! Xin hãy chờ mặt trời mọc rồi đi theo đường cũ mà trở về cố xứ, và nghiệm xem lời thiếp có đúng không. Thiếp là kẻ thuộc âm gian dị lọai, không thể xuất hiện ban ngày được. Tối nay, khi chàng ngủ tại lữ quán, thiếp sẽ đến để cùng chàng truyện trò cặn kẽ. Vả, cũng còn ít việc quan trọng phải bàn cho hết. Nói xong thì biến đi, không còn hình tích gì nữa. Lưu nhìn xung quanh, chỉ thấy cỏ hoang ngập lối, khói sương lạnh lùng, bên cạnh có một ngôi mộ mới, dài ba thước, còn cả đống tiền âm phủ, phía trên được chặn bằng một hòn đá.Bèn hướng về ngôi mộ chắp tay vái tạ, rồi men theo đường cũ, tìm đến căn nhà đã xin tá túc tối hôm trước, nhưng chỉ thấy mồ mả ngang dọc như bàn cờ.Tuyệt, không thấy nhà cửa làng xóm chi cả.Các vật dụng của chàng ngổn ngang tứ tán trên cỏ hoang.Chàng vội vã đi tĩm đứa ở, té ra, đã chết từ lâu.Ở ngay giữa trán, có một lỗ sâu hoắm, bên trong không còn gì cả, óc chừng như đã bị yêu quái hút hết. Lưu sợ qúa, may tìm được lại con lừa, vẫn còn sống không hề hấn thương tích gì, bèn cưỡi lừa rời khỏi ngay nơi ấy.Đến trung ngọ, thì vaò đến thị trấn.Chàng đem truyện đã gặp phải thuật lại cho người ta nghe.Ai nghe, cũng đều kinh dị, lấy làm kỳ quái, giữ chàng ở lại lữ quán, rồi trình báo quan huyện.Đến tối, Lưu nằm ngủ, thì mộng thấy người con gái áo đỏ đến bên cạnh.Chàng ngỏ lời cám ơn nàng cứu mạng, và hỏi lý do vì sao thằng ở của chàng bị chết. Người con gái trả lời: -Lũ yêu quái ấy chiếm cứ ở dưới hoàng tuyền, nếu không thế thì không thể sống nổi.Nhưng hễ gặp người sống thì chúng hút hết não https://thuviensach.vn tủy, công hiệu bằng mười lần của người đã chết. Chàng nhờ phúc trạch lớn, bọn chúng không dám lại gần, nên mượn tửu sắc để mê cảm chàng, gỉa như chàng ngủ say không dậy nổi, bấy giờ chúng sẽ ra tay.May là chàng theo thiếp đào tẩu đấy, còn thằng ở vì ngủ say, nên chết vì chúng, thật cũng không có gì làm lạ. Lưu lại hỏi xem có cách nào khu trừ yêu quái không, thì nàng trả lời : -Lũ yêu này sống đã nhiều năm, linh dị khác thường, có thể đi về hàng mấy trăm dặm, ngay như bậc thần tiên cũng chẳng làm gì nổi chúng, huống chi người trần. Rồi nàng bẽn lẽn e dè bảo với Lưu : -Thiếp đã gây thù kết oán với chúng rồi, thì không thể tiếp tục ở lại chốn này nữa.Chàng lại góa vợ, vậy thiếp tình nguyện xin theo chàng phụng thừa cầm sắt, đem kinh về nhà, trước dùng vật trấn yêu, sau là giữ cho hài cốt của thiếp được trường cửu lưu tồn.Chẳng hay chàng có bằng lòng không ? Lưu thấy nàng nhan sắc diễm kiều, cũng đem lòng ái mộ, nhưng lại e nàng kẻ thuôc âm gian dị lọai, mới đáp : -Chịu ơn cứu tử của nàng, việc gì nàng muốn mà ta chẳng làm, duy có điều, nàng đã cứu sống ta, nay lại đảy ta vào cõi chết, thế chẳng hóa ra lại làm mờ cái công đức của nàng đi sao?Thật, ta chẳng dám nhận. Người con gái tư lự, trầm ngâm một hồi, rồi bảo với Lư : -Lời chàng nói thật cận nhân tình đạo lý, thiếp cũng chẳng ép.Ngày mai vào chốn quan nha, thiếp e chàng sẽ bị người ta nghi ngờ, khi ấy chàng cứ hô gọi tên thiếp ra, ắt sẽ được hỗ trợ. Ngày hôm sau vào đến nha môn, qủa nhiên Lưu bị quan huyện nghi là thủ phạm giết đứa ở.Lưu bị oan, lấy làm phẫn hận, lớn tiếng gào gọi tên Phụng Kiều. Quan huyện vô cùng kinh ngạc, cho bãi gấp công đường, rồi sai dẫn chàng đến trước mặt, gạn hỏi : -Phụng Kiều là con gái ta, chết từ hai tháng nay, sao nhà ngươi lại biết được nhũ danh của nó ? https://thuviensach.vn - Lưu bèn đem truyện kỳ ngộ của chàng và Phụng Kìêu, cùng cách phục sức của nàng thuật lại cho quan huyện nghe. Cái gì cũng đều phù hợp cả. Quan huyện tỏ ra mừng rỡ, bảo chàng : -Con gái ta, lúc sinh tiền rất thích niệm kinh Kim Cương, chẳng ngờ lại hữu ich.Điều này, trước đây ta không hề biết. Nguyên lai, vị quan huyện này là người Phúc Kiến, nhân vì đường xá xa xôi cách trở, không thể đưa thi hài người con gái về quê được, đành an táng ở nơi nhiệm sở.Vả, theo tập quán, cổ nhân thường coi nhiệm sở là quê hương của mình. Sau đó, quan huyện không còn nghi ngờ gì Lưu nữa, chỉ cho là đứa ở của chàng chết bất đắc kỳ tử, trình lên thượng cấp, và kết thúc vụ án. Lưu đề nghị với quan huyện, đào quan tài của Phụng Kiều lên, đem để vào chùa, cho nàng khỏi lo lắng gì đối với bọn yêu quái nữa. Quan huyện cũng đồng ý nghe theo. Rồi chàng từ biệt, trở về quê.Chính lúc chàng vừa đặt chân vào nhà, thì mẹ chàng mang thai vừa đến thời sinh nở.Một hôm, Lưu mộng thấy Phụng Kiều hiện đến bảo chàng : -Thiếp tuy chẳng được cùng chàng kết duyên phu phụ, thì xin kết làm huynh muội vậy ! Khi tỉnh dậy, thì nghe thấy mẹ chàng sinh được một đứa con gái, chàng cho đó là Phụng Kiều chuyển thế, bèn bẩm với cha mẹ, lấy tên nàng đặt cho em. Lúc người em trưởng thành, ngoài cái tình huynh muội, Phụng Kiều trở nên người bạn chí đồng đạo hợp của Lưu. Cho đến khi chàng ngòai ngũ tuần, mấy lần đi thi đều chẳng đỗ đạt chi cả, gia cảnh suy lạc, lâm vào cảnh túng thiếu, may nhờ có em lấy chồng đại phú, thường luôn tư trợ cho Lưu. Vaì hàng chú thích Mạnh Thường Quân 孟 嘗 君 https://thuviensach.vn Mạnh Thường Quân, tên là Điền Văn, là quý tộc nước Tề thời Chiến Quốc, đươc tập tước của cha là Điền Anh, phong địa ở đất Tiết, xưng là Tiết Công, hiệu là Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân được vua Tề Mẫn Vương bổ làm Tướng Quốc, trong nhà nuôi hàng ngàn thực khách. Mạnh Thường Quân từn liên hợp với các nước Hàn và Ngụy đánh bại ba nước Sở, Tần và Yên. Có lần vào làm Tướng Quốc nước Tần, được ít lâu bỏ về. Năm Tề Mẫn Vương thất niên, tức 294 trước CN, nhân vì sự phản loạn của Điền Giáp, Mạnh Thường Quân chạy sang nước Ngụy và làm Tướng Quốc nước này, rồi chủ trương liên Tần phạt Tề, sau lại chủ trương hợp tung với các nước Yên và Triệu đánh Tề. Tào Tháo 曹 操 Tào Tháo sinh năm 155 CN mất năm 220 CN. Ông là một nhà chính trị gia, quân sự gia, thi nhân đời Tam Quốc, người Bái Quốc, huyện Tiếu, vốn họ Hạ Hầu, cha tên là Tung, làm con nuôi hoạn quan Tào Đằng, nên đổi ra họ Tào, tự là Mạnh Đức, tiểu tự là A Man. Tháo là người có hùng tài, lại giỏi quyền trá. Năm hai mươi tuổi đỗ hiếu liêm, rồi ra làm quan. Cuối thời nhà Hán, nhờ trấn áp giặc Khăn Vàng mà khuyếch trương được lực lượng quân sự. Năm 192 CN, Tào Tháo chiếm cứ Duyện Châu, phân hóa và dụ hàng được môt bộ phận quân đội của giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu rồi biên chế thành "Thanh Châu Binh", sau đó đón vua Hán Hiến Đế về Hứa Đô, và dựa danh nghĩa của Hiến Đế mà ra lệnh các chư hầu, đánh dẹp thế lực cát cứ của Lã Bố. Năm 200 CN, tại Quan Độ (nay thuộc huyên Trung Mâu tỉnh Hà Nam), Tào Tháo đại phá quân phiệt thế tộc Viên Thiệu và Viên Thuật, thống nhất miền bắc Trung Quốc, đảm nhậm chức Thừa Tướng, được phong Đại Tướng Quân. Năm 208 CN, nhằm mục đích thống nhất miền nam Trung Quốc, Tào Tháo thống lãnh hơn hai chục vạn quân đánh Tôn Quyền và Lưu Bị nhưng bị liên quân Lưu và Tôn đánh bại ở trận Xích Bích. https://thuviensach.vn