🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sử Việt - 12 Khúc Tráng Ca
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Thực hiện ebook: BSapien. Cuốn sách này dành tặng mẹ tôi
https://thuviensach.vn
LỜI NÓI ĐẦU
Một dân tộc chỉ có thể bước đến tương lai trên đôi chân vững vàng của lịch sử. Bởi lịch sử là bài học tiền nhân để lại cho hậu thế, là kho tàng kiến thức phát triển tương lai, tránh những sai lầm của quá khứ.
Đối với tôi, lịch sử là những câu chuyện, không phải là những thống kê khô khan. Quan điểm của tôi về lịch sử khá đặc biệt. Tôi định nghĩa lịch sử là bài học của tiền nhân. Vì thế lịch sử phải là những câu chuyện để dẫn dắt lớp trẻ đến với tình yêu và sự đam mê khám phá.
Dựa trên những tài liệu sử học đã có và được công nhận, cuốn sách vì thế sẽ kể lại những câu chuyện lịch sử qua góc nhìn mới mẻ hơn.
Nói theo cách nhìn lãng mạn, tôi giống như gã thanh niên đi góp nhặt các câu chuyện cũ ngàn năm sương khói thành các nốt nhạc mà viết lên 12 khúc ca, tổng hòa thành một bản hùng ca lịch sử, để bạn yêu quê hương hơn, yêu dân tộc hơn và nhìn vào các bậc tiền nhân mà xây dựng bản lĩnh Việt hôm nay.
Cuốn sách này không phải là dã sử, những chi tiết được kể lại trong cuốn sách lấy từ chính sử. Nhưng cuốn sách với rất nhiều câu chuyện về những anh hùng dựng nước và giữ nước như Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Lê Thánh Tông... sẽ được kể lại với sự mềm mại nhất, hùng tráng nhất. Có lẽ bởi thế mà xin được đứng vào khoảng giữa vậy, vừa đủ tư liệu chính sử để bạn hiểu và nhớ về sử nước nhà vừa đủ ly kỳ để đưa hồn xưa thẩm đượm vào từng câu chuyện, ngõ hầu mang bạn đến gần tình yêu sử Việt hơn mà yêu dân tộc ta hơn.
Vì cuốn sách còn nhiều hạn chế, lại không có điều kiện để gặp từng tác giả đi trước, hòng nói lời cảm ơn chân thành, rồi nhờ thế mà được quý vị
https://thuviensach.vn
bổ sung kho sử liệu còn khiếm khuyết của bản thân nên tôi vô cùng cảm kích nếu nhận được sự góp ý chí tình của quý vị gần xa.
Dũng Phan
(TP. Hồ Chí Minh, mùa xuân, 2017)
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 1:
TIẾNG NHẠC DẠO ĐẦU
DÒNG HỌ KHÚC, ĐẶT NỀN MÓNG TỰ CHỦ
Đã bao giờ trên những trang sách lịch sử viết về thời kỳ Bắc thuộc, các bạn tự hỏi: Vì sao chỉ có chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng là chấm dứt được 1000 năm Bắc thuộc, trong khi các cuộc khởi nghĩa trước đó của Bà Trưng, Bà Triệu, của Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, của Phùng Hưng, hay của Mai Thúc Loan chỉ là những chiến thắng ban đầu gây tiếng vang và rồi nhanh chóng bị dập tắt? Câu trả lời mấu chốt có liên quan đến một dòng họ quan trọng trong lịch sử dân tộc: dòng họ Khúc.
Năm 938, Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kể từ ngày ấy, quân phương Bắc không còn trở lại và đất nước ta chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng tại sao quân phương Bắc không còn trở lại để đánh Ngô Quyền nữa? Bởi vì họ đã nhìn thấy nước Nam như một quốc gia riêng biệt khó bề chế ngự. Chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng không phải là một cuộc khởi nghĩa đơn thuần như các cuộc khởi nghĩa trước đó, mà trận đánh này là cuộc chiến giữa hai vùng đất tự chủ: vùng đất Giao Châu do người nước Nam quản lý và vùng đất Nam Hán của vua Lưu Nham phương Bắc. Khác với tính chất một cuộc khởi nghĩa vùng lên bột phát bởi sự cai trị hà khắc của kẻ cầm quyền, tính chất của trận đánh ở Bạch Đằng là sự ngăn chặn Nam Hán xâm chiếm trở lại An Nam. Những gì Ngô Quyền có hôm ấy không phải là một sự manh mún, nhỏ lẻ như Bà Trưng Bà Triệu... ngày nào mà là một chính quyền và quân đội rõ ràng.
https://thuviensach.vn
Chính quyền ấy đã được tạo nên từ cách đó hơn 30 năm, dưới tay của một vị hào trưởng thuộc đất Hồng Châu, tỉnh Hải Dương: Khúc Thừa Dụ. Ba đời dòng họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ) đã xây dựng một chính quyền của nước Nam riêng biệt với phương Bắc, với một nền kinh tế tự chủ và một đội quân bảo vệ Giao Châu hoàn toàn của người Việt.
Bởi vậy điểm mấu chốt cho thắng lợi của Ngô Quyền không phải là chiến thuật trên sông Bạch Đằng mà ở cái gốc rễ được tạo dựng dưới chân Ngô Vương trước đó. Bạch Đằng chỉ là chiến trường để phân định thắng thua, là nơi ghi nhận tài năng quân sự của Ngô Vương, còn phía sau lưng Ngô Vương thì quyền lực đã được quản lý đến cấp địa phương. Sự khác biệt quan trọng của một chính quyền “ăn sâu bén rễ” đến cấp thôn làng đã giúp Ngô Quyền, chứ không phải Hai Bà Trưng hay Lý Nam Đế, mới là người chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc của dân tộc.
1. Khúc Thừa Dụ
“Thời thể tạo anh hùng”, câu nói ấy chính ứng vào Khúc Thừa Dụ. Cuối thế kỷ IX, nhà Đường đi vào giai đoạn suy vong. Sự suy yếu đến tận gốc rễ của một trong những triều đại hùng mạnh nhất Trung Quốc đã tạo điều kiện cho vương quốc của người Bạch và người Di tên là Nam Chiếu hùng mạnh lên. Nam Chiếu đã tấn công thẳng vào An Nam, cạnh tranh nhà Đường. Nhưng sự suy yếu của nhà Đường cùng sự đi xuống của Nam Chiếu theo thời gian viễn chinh đã dẫn đến một cuộc chiến tương tàn mà cả hai bên đều thất bại, cuối cùng chỉ có người Việt chiến thắng. Sự rối ren đã đưa quyền lực đến cho quyền thần Chu Toàn Trung. Lúc này, Chu Toàn Dục là tiết độ sứ An Nam nhưng sau đó lại được thay bằng tiết độ sứ Độc Cô Tổn. Độc Cô Tổn lại không được lòng quyền thần Chu Toàn Trung, cuối cùng bị giết. Đất An Nam không có tiết độ sứ, còn chính quyền đô hộ như rắn mất đầu.
https://thuviensach.vn
Chính lúc này vị anh hùng của chúng ta là Khúc Thừa Dụ bước chân lên vũ đài lịch sử. Ông là một hào trưởng thuộc đất Hồng Châu, tỉnh Hải Dương. Được dân chúng ủng hộ, ông đã cùng với bộ thuộc tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội) và tự xưng là tiết độ sứ. Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) chép lại: “Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là tiết độ sứ.” Như vậy, Khúc Thừa Dụ đã thực hiện một màn cướp chính quyền trong âm thầm và đẩy nhà Đường vào thế sự đã rồi, buộc phải công nhận tước vị của ông. Sự khôn khéo của Khúc Thừa Dụ nằm ở chỗ, ông không dựng cờ để gây sự chú ý mà âm thầm xây dựng một chính quyền của người Việt và cho người Việt. Ông đứng trên danh nghĩa là tiết độ sứ của nhà Đường, là người thuộc bộ máy đô hộ, nhưng phía sau lại làm công việc của một người giành độc lập. Đấy là chuyển quyền tự chủ dân tộc sang cho người Việt, một cách khéo léo.
Trí tuệ của Khúc Thừa Dụ còn ở cái cách khiến cho nhà Đường phong hàm tước đồng bình chương sự cho ông. Rồi dùng chính chức tước ấy, ông phong cho con là Khúc Hạo chức vụ Tĩnh Hải hành quân tự mã quyền tri lưu hậu, tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ thay thế nắm quyền hành tiết độ sứ khi cha mất đi. Ông muốn rằng, nếu một ngày mình tạ thế thì quyền lực vẫn trong tay người Việt.
Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, người đời sau thương mến gọi ông là Khúc Tiên chủ, dù cho ông chưa hề xưng đế hay xưng vương. Con ông - Khúc Hạo - lên nắm quyền chức tiết độ sứ thay cha, và lúc này, Khúc Hạo chứng minh bản lĩnh của một người kế thừa xứng đáng. Khúc Hạo là một nhà cải cách lớn ngay từ thế kỷ X, một nhân tài trị quốc dường như đã bị bỏ quên và cần ghi công lại trong dòng chảy của lịch sử dân tộc.
2. Khúc Hạo
https://thuviensach.vn
Lúc này, nhà Đường đã mất, Trung Quốc bước vào giai đoạn “Ngũ đại Thập quốc(1)”. Nhà Hậu Lương một lần nữa muốn quay trở lại thôn tính nước ta. Vua Hậu Lương là Chu Ôn (tức Chu Toàn Trung) phong cho Lưu Ẩn chức tiết độ phó sứ Quảng Châu, nhưng lại kiếm thêm Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ, như một cách gián tiếp cho phép Lưu Ẩn được quyền quay lại An Nam nắm quyền. Đứng trước tình thế nguy hiểm ấy, Khúc Hạo mềm mỏng xưng tôi với vua Hậu Lương, đưa vàng bạc qua thương thuyết. Ông đối ngoại khôn khéo và giữ yên được bờ cõi, tránh được một cuộc can qua. Cùng với đó là đường hướng đối nội, Khúc Hạo tiến hành cải cách ở hai mặt hành chính và kinh tế để giúp nước Việt vững mạnh, nhằm đương đầu khi có chiến tranh, xác lập tự chủ lâu bền.
Cho đến bây giờ, chúng ta đều nắm rõ, để một vương triều tồn tại lâu dài cần phải có sự gắn kết trong bộ máy hành chính: cai trị từ trung ương đến địa phương. Vào thế kỷ X, Khúc Hạo đã nghĩ đến điều đó. Một chiến thắng ngoài mặt trận không thể giúp đất nước vững bền, nhưng một hệ thống hành chính kiện toàn có thể làm được điều đó.
Khúc Hạo chia cả nước thành đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Thời thuộc Đường, dưới châu là hương, Khúc Hạo đổi hương là giáp. Mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc thu thuế. Theo sách An Nam chí nguyên, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp cả thảy bao gồm trước đó, tổng cộng trên cả nước ta có 314 giáp. Dưới giáp là xã, mỗi xã có xã quan, một chánh lệnh trưởng và một tá lệnh trưởng. Dưới xã là quận, tổng cộng, trình tự bộ máy thời họ Khúc tự chủ do ông cải cách là: lộ - phủ - châu - giáp - xã - quận.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước Nam có một cuộc cải cách sâu rộng đến như thế. Chính những cải cách gần dân và ở cấp cơ sở này sẽ là tiền đề để 30 năm sau, Ngô Quyền chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc một cách đường đường chính chính.
Cần phải nhấn mạnh: Ở bộ máy cải cách do Khúc Hạo đặt ra có một điểm đặc biệt quan trọng để sau này không chỉ giúp nước ta giành được độc
https://thuviensach.vn
lập, đứng lên chống lại sự xâm lược qua từng thời kỳ mà còn củng cố văn hóa nghìn năm của dân tộc này, đó là “văn hóa lũy tre làng”. Làng xã Việt Nam phía sau lũy tre đã quay tròn lại cùng nhau, kể cho nhau thuở Hồng Bàng, Văn Lang, Âu Lạc, đã nhắc nhở nhau và giữ gìn truyền thống ăn trầu, nhuộm răng, để 1000 năm mất nước vẫn không quên đi nguồn gốc đất tổ. Khi Khúc Hạo Cơ cấu phân khu xã làng và quận, ông đã gián tiếp thu gom lực lượng, chính thức hóa một nét Việt và bảo vệ mãi mãi truyền thống ấy.
Cải cách thứ hai của Khúc Hạo là kinh tế. Khúc Hạo chấm dứt tình trạng tô thuế, lao dịch và cống nạp nặng nề mà người Việt phải chịu đựng trong quá trình Bắc thuộc trước đó. Ông cho ban hành chính sách “bình quân thuế ruộng”, có nghĩa là phân phối ruộng đất theo chế độ công xã, và tiến hành đánh thuế bình quân theo ruộng đất mà các hộ được phân chia. Điều này giúp nông dân đẩy mạnh sản xuất và an tâm cày cấy.
Ngoài ra, Khúc Hạo còn sửa đổi lại chế độ điền tô, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã viết về các chính sách cải cách của Khúc Hạo bằng 11 chữ sau: “Cốt khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui.”
Mặc dù hoàn cảnh dân tộc khi ấy khiến cho những cải cách của Khúc Hạo chưa được toàn diện và triệt để nhưng tính từ khi lập nước, cải cách của Khúc Hạo đã đưa dân tộc ta tiến một bước dài đến tự chủ và độc lập. Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi nền móng chắc chắn, một con người chỉ thành công khi cái gốc vững vàng. Câu chuyện từ dòng họ Khúc lặng lẽ xây dựng vun đắp nước Việt để tạo nên chiến thắng cho dân tộc sau đó hơn 30 năm chính là bài học lịch sử vĩ đại mà tiền nhân đã dạy chúng ta.
Năm 917, Khúc Hạo mất. Con trai ông là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Khúc Thừa Mỹ không có được tính nhẫn nại của cha và ông, đã vội vàng gây sự với quân Nam Hán. Kết quả, gây ra cuộc chiến tranh vào năm 930. Quân Nam Hán tiến quân thần tốc, đánh bại quân Việt, Khúc Thừa Mỹ bị bắt,
https://thuviensach.vn
phủ thành Đại La (Hà Nội) bị chiếm. May sao một vị ái tướng nhà họ Khúc tên là Dương Đình Nghệ đã đem quân vây lấy quân Nam Hán, chém chết hai tướng, rồi giành quyền tự chủ về lại cho nước Việt, ông là vị tiết độ sứ kế thừa dòng họ Khúc. Nhưng Dương Đình Nghệ chỉ ở cương vị tiết độ sứ được 7 năm thì bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại. Con rể của ông là Ngô Quyền (cưới con gái của Dương Đình Nghệ là Dương Như Ngọc) đã đưa bộ thuộc từ Thanh Hóa đến bảo vệ Đại La, giao chiến trên sông Bạch Đằng. Phần còn lại, hẳn chúng ta đều đã biết.
Dẫu chỉ tồn tại đúng 25 năm nhưng dòng họ Khúc đã đặt nền móng tự chủ cho dân tộc Việt Nam một cách vững vàng, từ chiến thắng ngoài trận tiền cho đến việc kiến quốc, dựng nước, tạo nền tảng hành chính - kinh tế mà các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê đã kế thừa.
Sử gia Lê Tung nhà Hậu Lê thế kỷ XVI đánh giá công lao của Khúc Hạo: “Khúc Trung Chúa (tức Khúc Hạo) nối nghiệp mở nước, khoan hòa, có phong thái trù mưu định kể quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, thật là bậc chúa hiền của nước Việt.”
Những trang sử vẻ vang của dân tộc rồi đây sẽ lần lượt được kể lại với những chiến thắng và những công tích kỳ vĩ. Nhưng hậu nhân không bao giờ quên có một dòng họ Khúc thầm lặng đã xây nên một nền móng vững vàng, cho khúc ca tự chủ ngân lên vào năm 938 sau này.
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 2:
HÙNG CA TỰ CHỦ
NGÔ QUYỀN - NGƯỜI ANH HÙNG CHẤM DỨT 1000 NĂM BẮC THUỘC
Người ta gọi ngài là vị “vua đứng đầu các vua”, Phan Bội Châu thì gọi ngài là “vị Tổ trung hưng của Việt Nam”. Những mỹ từ ấy dành cho ngài không hề quá lời. Bởi vì ngài là Ngô Quyền.
1. Ngô Quyền lên ngôi
Nhà vua sinh năm 897, là con trai của Châu Mục Đường Lâm Ngô Mân. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trang mạo khác thường, có ba nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc.” Ở khúc ca đầu tiên, chúng ta đã nghe về Khúc Hạo. Dưới trướng Khúc Hạo, tại Ái Châu (Thanh Hóa) có một vị tướng tên là Dương Đình Nghệ, một người rất trung thành và yêu nước. Khi Lý Khắc Chính - tướng nhà Nam Hán - đánh bại họ Khúc và bắt Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ đã chiêu mộ về quanh mình hơn 3000 giả tử (con nuôi, cũng có thể hiểu là gia khách), triệu tập hào kiệt khắp nơi để báo thù cho chủ. Ông có ba nha tướng quan trọng, mà cả ba người sau này đều có vai trò trong lịch sử Việt Nam. Một anh hùng, một kẻ phản bội và một người cha có một người con anh hùng. Đầu tiên là Ngô Quyền, hai là Kiều Công Tiễn và ba là Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh). Trong đó Ngô
https://thuviensach.vn
Quyền là được người được ưu ái nhất, không chỉ là con nuôi, nha tướng mà còn là con rể của ông. Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân ra Đại La vây thứ sử Giao Châu là Lý Tiến, để Ngô Quyền ở lại giữ Ái Châu thay mình. Vua Nam Hán sai Trần Bảo đem quân sang cứu, nhưng đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành, còn Lý Tiến trốn về nước. Lúc Trần Bảo vây thành, Dương Đình Nghệ đem quân ra đánh, giết chết Trần Bảo. Chiến thắng đã giúp ông lấy lại vị trí tiết độ sứ, cai quản Giao Châu cho người Việt, tiếp tục nền tự chủ mà dòng họ Khúc để lại.
Độc lập kéo dài được khoảng 7 năm thì đến một ngày mùa xuân của năm 937, ông bị ái tướng của mình là Kiều Công Tiễn phản bội. Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ rồi tự xưng là tiết độ sứ. Từ Ái Châu, nhận được tin báo, Ngô Quyền tức giận kéo quân ra đánh Kiều Công Tiễn, báo thù cho Dương Đình Nghệ. Hành động hèn hạ của Kiều Công Tiễn đã gây ra sự phản ứng dữ dội, tất cả các hào trưởng đều đứng dưới ngọn cờ của Ngô Quyền, kể cả cháu nội của Kiều Công Tiễn là Kiều Công Hãn (người sau này sẽ trở thành một của 12 sứ quân trong “Loạn 12 sứ quân” thời Đinh Bộ Lĩnh). Thấy bản thân mình bị cô lập, Kiều Công Tiễn đem vàng bạc qua cầu cứu vua Nam Hán. Nhưng Ngô Quyền đã kéo tiên phong ra đến Đại La. Dương Tam Kha và Ngô Xương Ngập đánh trận đầu, hạ thành, giết Kiều Công Tiễn. Dẹp yên nội loạn xong, Ngô Quyền sắp đặt trận tiền, sẵn sàng chống giặc Nam Hán đang chuẩn bị tràn sang bờ cõi.
Lúc này, ở Nam Hán, sau khi nhận được thư cầu cứu của Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán là Lưu Cung hỏi ý sùng văn sứ(2)là Tiêu Ích, Tiêu Ích trả lời: “Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.” Vua Nam Hán không nghe, sai con là Lưu Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào. Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân
https://thuviensach.vn
mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.” (Theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Trí - dũng của Ngô Quyền không chỉ được thể hiện qua những câu nói trên, hay qua lời khen của đối thủ mà qua cả cách ngài đã chiến thắng ở lòng sông huyền thoại đó. Việc khảo sát và nghĩ ra kể cắm cọc nhọn trên sông, lợi dụng khi thủy triều lên che khuất cọc và thủy triều rút để hãm địch vào trận, nhằm phá tan chiến thuyền ở Bạch Đằng rồi đây sẽ trở thành bí kíp bảo vệ dân tộc suốt 1000 năm trước họa phương Bắc.
2. Trận Bạch Đằng
Hầu hết trong mỗi chúng ta đều thuộc và nhớ diễn biến của trận chiến ở sông Bạch Đằng. Đấy là khi Ngô Quyền cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Đợi nước triều lên, nhà vua sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến và giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn đưa quân ra đánh, liều chết chiến đấu đẩy quân Nam Hán lui về phía hàng Cọc. Đúng lúc ấy thì nước triều rút xuống rất gấp, khiến thuyền địch mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi.
Nhưng đây là Bạch Đằng giang, là địa danh đã trở thành dấu mốc tự hào và vinh quang của dân tộc. Bởi thế nếu chỉ nhắc về chiến công lẫy lừng ấy bằng những dòng đơn giản như vậy thì liệu có thể khiến hậu nhân nhớ về Bạch Đằng để khâm phục tài trí của cha ông? Bởi dòng sông này, chiến tích này quá vĩ đại nên ta cần đào sâu, đọc kỹ, truy xét tỉ mỉ. Ngô Quyền đã đóng cọc ở sống như thế nào? Ngô Quyền đã làm gì để có thể dụ được giặc vào đúng thời điểm thủy triều lên và rút đi như thế?
https://thuviensach.vn
2.1. Tính khoa học
Sông Bạch Đằng là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km, thuộc hệ thống sông Thái Bình. Đây là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền Nam Trung Quốc. Đó là lý do vì sao sông Bạch Đằng luôn là địa điểm của các trận giao tranh. Khoảng 500 - 700 năm trước, nơi đây là một bộ phận của châu thổ sông Hồng. Vì thế lòng chính sông không bị xâm thực, hình phễu, sâu rộng như bây giờ mà nông hơn và hẹp hơn. Mô tả của Nguyễn Trãi trong Dư địa chí như sau: “Sông Vân Cừ rộng hai dặm sáu mươi chín trượng, sâu năm thước.” Vì vậy việc tồn tại một trận địa cọc chính cắm ngang qua dòng chủ lưu sông Bạch Đằng vào giai đoạn 500 - 700 năm trước là phù hợp với thủy văn, địa chất lúc đó.
Tính khoa học trong việc cắm cọc trên sông Bạch Đằng vào những năm 938 thực tế là trùng khớp với nguyên lý xây dựng của thời hiện đại, đó là hệ thống móng cọc và móng cừ tràm ở các công trình xây dựng bây giờ. Tất cả các loại cọc đóng từ thô sơ đến hiện đại đều dựa trên một nguyên lý khoa học căn bản là lực ma sát. Nếu chỉ đóng một Cọc thì khi có lực lớn từ trên tác động xuống, nó sẽ dễ bị tụt xuống dưới sình. Nhưng với số lượng cọc chi chít dính sát vào nhau, nhờ lực ma sát, chúng sẽ kết dính cứng lại với cát và bùn đất xung quanh, kể cả sình lầy đi chăng nữa, và qua đó tạo thành một khối cứng dưới lòng đất. Trí tuệ của ông cha chính là phát hiện ra lực ma sát đó.
2.2. Phương pháp đóng cọc trên sông
Vào năm 2008, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Hải Phòng đã tổ chức hội thảo “Tìm hiểu kỹ thuật cắm cọc gỗ trên sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm”. Các nhà nghiên cứu khoa học đã cùng nhau tìm hiểu phương pháp đóng cọc trên lòng sông. Theo đó, kỹ thuật cắm cọc trên lòng sông Bạch Đằng đã sử dụng kinh nghiệm cắm cọc đáy của dân chài ngày xưa: “Dây
https://thuviensach.vn
giữ cọc, cọc giữ dây, dây giữ phương tiện (thuyền).” Nghĩa là vấn đề cắm cọc sâu hay nông, cọc to hay nhỏ không quan trọng bằng sự chắc chắn của cọc nháng và dây nháng (có vai trò đối với cọc gỗ như những chiếc neo đối với tàu thuyền, bè mảng). Thời điểm đóng cọc là đợi lúc thủy triều rút xuống, mực nước ở mức thấp nhất.
Kỹ thuật cắm cọc như sau: Cọc lớn được thả xuống sông, đầu gốc được nhấn chìm một phần xuống mặt bùn, phần ngọn buộc một sợi dây để giữ và điều chỉnh cọc. Thân cọc được dựng theo phương thẳng đứng với mặt nước, dây nháng tiền và hậu buộc ở thân trên giữ cho cọc không bị nghiêng ngả. Cũng tại phần trên này có que nháng buộc ngang cọc để đỡ một hoặc hai người đứng lên nhún nhảy và lắc ngang thân cọc, nhấn cọc chìm sâu dần. Khi cọc không xuyên xuống được nữa thì tháo đoạn tre ra, buộc lên cao hơn và buộc thêm một đoạn tre nữa để không chỉ hai mà bốn người cùng lắc theo nhịp. Bao giờ cọc chìm dưới mặt nước triều một mức nào đó theo tính toán của các bô lão thì dừng lại.
Nếu ở những luồng nước sâu, khi cọc sắp chìm xuống mặt nước thì tiến hành đặt nối vào một đoạn cọc khác bằng cách ốp bốn nửa đoạn cây tre dài cỡ cái đòn gánh, lấy dây mây buộc thắt lại để cho người trèo lên lắc tiếp. Đến khi cọc đứng chắc chân trong nền đất dưới đáy sông mới cởi dây mây ra, tháo đoạn cọc gá tạm đi, lắp nón sắt vào cọc. Chính nón sắt ấy sau này sẽ có tác dụng đâm thẳng vào ván gỗ của thuyền địch. Khi cọc cắm xuống độ sâu ổn định, tiến hành vừa kéo lên và vừa lắc ngang, đẩy thân cọc xiên 45 độ về phía hướng rút của thủy triều.
Những đoàn thuyền của phương Bắc rồi đây sẽ nhận lấy những đoạn xiên của những chiếc cọc này. Vỡ tan cả đoàn, vỡ tan luôn giấc mộng xâm lược nước Việt.
2.3. Nghệ thuật chiến thắng
Điều khiến Ngô Quyền trở thành một danh tướng lẫy lừng chính là việc tính toán được khả năng lên xuống của thủy triều và dụ được địch đến nơi
https://thuviensach.vn
cắm cọc đã chuẩn bị sẵn, nói cách khác là nghệ thuật tập trung lực lượng và lựa chọn địa điểm quyết chiến. Để làm được như thế thì phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Ngô Quyền sở hữu một mạng lưới tình báo đủ tốt để ngăn cản được những thông tin tuồn ra bên ngoài về việc cắm cọc nhọn trên sông, và đủ lớn để có thể biết được thời gian mà quân Nam Hán đổ bộ vào Bạch Đằng. Đến khi giao chiến, Ngô Quyền phải tính toán thời gian sao cho khớp để có thể dẫn dụ quân Nam Hán đến cửa sông khi thủy triều còn dâng cao che đi những chiếc cọc nhọn và tính toán sao cho đúng thời điểm thủy triều chuẩn bị rút.
Vào thời điểm mà thủy triều chuẩn bị rút đi cũng là lúc ông cho quân quay đầu giao chiến đánh liều chết, đánh rát từ các hướng để ép đội thuyền của quân Nam Hán phải lùi ra cửa sông. Những cọc nhọn nhô lên mặt sông trở thành bãi đá ngầm chọc thủng thuyền của giặc, khiến chúng va vào nhau, kẹt cứng ở đó như cá mắc cạn. Thuyền của Ngô Quyền vốn là thuyền nhỏ, rất linh động, lại nắm vững địa hình sông liền ào tới, luồn lách mà đánh vào. Phần còn lại, quá đơn giản để đoán biết kết quả.
Nghệ thuật cắm cọc nhọn ngăn giặc phương Bắc đều là từ Ngô Quyền mà ra.
Ngô Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án như sau: “Trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi.”
3. Tiền Ngô Vương
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là vương, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô; dời đô tới Cổ Loa, như nhắc nhở về vong hồn dân tộc 1000 năm về trước thuở chưa mất nước. Từ đây, dân tộc ta chính thức chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Người không có miếu hiệu, cũng chẳng có thụy hiệu, con cháu đời sau vì quá yêu quý và ngưỡng mộ mà gọi là Tiền Ngô Vương.
https://thuviensach.vn
Đến năm 944, Ngô Vương qua đời khi mới 47 tuổi, chỉ làm vua được 6 năm. Nhưng công tích để lại thì vô cùng rực rỡ. Sử gia Lê Văn Hưu khi biên soạn Đại Việt sử ký đã viết về ngài với sự ngưỡng mộ không giấu giếm: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy.”
Còn sử gia Ngô Sĩ Liên thì viết trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: “Mưu tài đánh giỏi, làm nên công dựng lại cơ đồ, đứng đầu các vua.”
Sử gia các thời đại đều nhắc về Ngô Vương với tình cảm và sự khâm phục. Hậu nhân nhắc về Ngô Quyền còn đầy lòng tự hào và biết ơn. Nguyễn Trãi khi đi qua cửa sông Bạch Đằng, đã có câu thơ tả về dòng sông ấy như sau:
“Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.(3)”
Nghĩa là:
“Cửa sông xung yếu do trời đặt, hai người chống cả trăm người, Những bậc anh hùng xưa kia từng lập công đất này.”
Ngô Quyền và chiến thắng trên lòng sông Bạch Đằng năm 938 không chỉ mở ra giai đoạn độc lập lâu dài của dân tộc, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc mà còn dành tặng cho hậu nhân một bài học binh pháp để bảo vệ nền độc lập tự chủ trong suốt 1000 năm tiếp theo, đây là nghệ thuật mai phục và cắm cọc nhọn trên lòng sông lịch sử, hòng bảo vệ đất nước trong cơn nguy nan.
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 3:
TIẾNG CA HOÀNG ĐẾ
TIÊN HOÀNG ĐẾ ĐINH BỘ LĨNH, HOÀNG ĐẾ ĐẦU TIÊN
Từ trước tới nay, mỗi khi nhắc đến những anh hùng giữ nước, vô tình chúng ta thường hay xếp Đinh Bộ Lĩnh bên cạnh những Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Quang Trung. Thực tế thì Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh là một hoàng đế dựng nước, ông dẹp loạn cát cứ và ly loạn lòng người để thống nhất dân tộc. Trên tất cả những chiến công dẹp loạn, ông là vị hoàng đế mở nước.
Năm 938, Ngô Quyền chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc bằng chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Tuy nhiên Ngô Vương chỉ truyền được hai đời thì mất. Đất nước bước vào thời kỳ ly loạn, sử gọi là “Loạn 12 sứ quân”.
Người Việt Nam vì ảnh hưởng của phim ảnh Trung Hoa nên hẳn cũng ít nhiều biết tới tác phẩm Đông Chu liệt quốc thời Chiến Quốc kể về cuộc tranh hùng của bảy nước Tần, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy và kết thúc bằng thắng lợi của Tần Thủy Hoàng, hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Một tác phẩm đồ sộ, những mưu kế trập trùng và những trận đánh hấp dẫn. Có thể nói người Trung Quốc rất tự hào về pho sử này. Nhưng thực tế thì người Việt cũng có trong tay một trang sử bi tráng như thế, cũng có một người anh hùng khai thiên lập quốc dẹp loạn cát cứ như thế, cũng dùng pháp luật và sự nghiêm khắc để bảo vệ đất nước sau khi độc lập như thế. Đấy là Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh - hoàng đế đầu tiên của nước Việt.
https://thuviensach.vn
1. Trị nước
Năm 968, sau khi thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lấy tước hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế. Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện: “Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế” và “Vua mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế”. Ông đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. 3 năm sau, ông lấy niên hiệu là Thái Bình.
Chúng ta hãy để ý ba việc làm ấy của Đinh Bộ Lĩnh.
Thứ nhất là tước hiệu hoàng đế. Trong khúc ca về dòng họ Khúc, hẳn mọi người không quên họ Khúc chỉ xưng làm tiết độ sứ, tới Ngô Quyền thì xưng vương, sử cũ gọi là Ngô Vương. Nhưng tới vua Đinh thì ông đã xưng làm hoàng đế, Đại Thắng Minh Hoàng đế chính là tôn hiệu ngày mở nước của vị anh hùng Đinh Bộ Lĩnh. Chính từ đây, người đứng đầu nước Nam thực sự nhận về mình hai chữ “thiên tử” (con trời) như một lời khẳng định về độc lập và tự chủ của cả quốc gia. Từ sau “Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh”, các đời Lê, Lý, Trần, Nguyễn không xưng vương hay tiết độ sứ nữa mà đều xưng hoàng đế như một dòng chính thống độc lập hẳn với phương Bắc, đã mở ra thời đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam, đẩy lui 1000 năm Bắc thuộc về phía sau dĩ vãng lịch sử.
Điều thứ hai là tên nước Đại Cồ Việt. Thời Ngô, các vua xưng vương nhưng chưa có quốc hiệu, vẫn gọi theo tên thời thuộc Đường là Tĩnh Hải quân. Nhưng bây giờ, Đinh Tiên Hoàng đế đã đặt cho Việt Nam một cái tên là Đại Cồ Việt, ngài muốn khẳng định với phương Bắc đây là đất nước của người Việt chứ không phải của người Hán. Đây là đất Việt, không phải đất Tống. Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt (chữ Hán: 大瞿越): “Đại” (大) theo nghĩa chữ Hán là lớn, “Cồ” là âm Việt cổ của từ “Cự” hay “Cừ” (巨) cũng là lớn (mạnh). Đinh Tiên Hoàng đế muốn ghép hai chữ để khẳng định nước Việt là nước lớn. Một cái tên gửi gắm rất nhiều hoài bão với dân tộc.
Điều cuối cùng cần chú ý là niên hiệu Thái Bình được đặt vào năm 970. Trước Đinh Tiên Hoàng đế, các vị vua Việt Nam đều lấy niên hiệu theo
https://thuviensach.vn
hoàng đế Trung Quốc. Việc tự đặt cho mình một niên hiệu riêng đã khẳng định bây giờ nước Nam là một nhà nước phong kiến tập quyền riêng với quân đội riêng, không còn phụ thuộc phương Bắc. Đi cùng niên hiệu Thái Bình chính là đồng tiền “Thái Bình hưng bảo”, được coi là đồng tiền xưa nhất Việt Nam, được nhà Đinh đúc ra vào năm 970. Đồng tiền tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì lớn, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam không chỉ ở lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa mà còn ở lĩnh vực kinh tế.
Ba việc làm lớn, mở ra lịch sử ngàn năm.
Nhận xét về Đinh Tiên Hoàng đế, sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký viết: “Có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết.” Còn sử gia Lê Tung soạn Việt giám thông khảo tổng luận thời vua Lê Tương Dực thì nhận định: “Vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy.”
Một điều cần lưu ý: Nhà Đinh được dựng lên bằng máu và ly loạn nên Đinh Tiên Hoàng đế lập trật tự đất nước bằng một bàn tay sắt. Luật pháp dưới thời vua Đinh cực kỳ nghiêm khắc. Các trọng phạm sẽ bị ném vào vạc dầu sôi đặt trước cửa điện, hoặc làm thức ăn cho thú dữ ở ngự uyển. Những hình phạt tàn khốc đó đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng những người muốn chống đối, qua đó bảo vệ được sự bình yên của một vương triều mới thành lập. Đi cùng với các hình phạt là việc duy trì quân đội thường trực, ông chia quân đội thành mười đạo, dưới sự thống lĩnh của Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn. Nhờ các biện pháp này, tình hình trong nước được ổn định.
2. Cầm quân
Một sự hiểu lầm như ở đầu câu chuyện đã nói, cái tên Đinh Bộ Lĩnh luôn được đặt cạnh Trần Hưng Đạo hay Quang Trung ấy là vì tên tuổi của ông luôn gắn với giai thoại “Cờ lau ra trận” và “Dẹp loạn cát cứ”. Chính hai võ lược này khiến ông được tôn vinh trên mặt trận cầm quân. Đinh Tiên
https://thuviensach.vn
Hoàng để không chỉ là một vị vua vĩ đại của dân tộc mà còn là một vị tướng trên lưng ngựa đánh Đông dẹp Bắc, một người vừa có tầm nhìn của hoàng đế vừa có cái xuất chúng của tướng cầm quân.
Nếu các bạn, những người đang đọc trang sách này, có dịp tới thăm lăng mộ của Đinh Tiên Hoàng đế ở Hoa Lư – Ninh Bình, sẽ cảm nhận tinh thần thượng võ của vua Đinh qua cách ông chọn nơi an nghỉ cuối cùng. Lăng của Tiên Hoàng nằm trên núi Mã Yên. Gọi là Mã Yên bởi vì đó là một thung lũng đá vôi hơi trũng, rộng và bằng phẳng, hai bên nhô cao và ở giữa hõm xuống hình như yên ngựa. Nơi này bốn mùa cây lá xanh rờn che phủ. Lăng chính đặt ở trên núi, ngay vị trí của “yên ngựa”. Tất cả để nói lên rằng, tuy đã ở nơi thiên giới nhưng hoàng đế lúc nào cũng ở trên yên ngựa, nhìn về vận mệnh dân tộc như ngày người còn sống.
Nhà văn Đông Châu khi đến cố đô Hoa Lư, trèo lên 256 bậc đá núi Mã Yên để viếng lăng vua Đinh, ông đã cảm khái mà làm nên bài thơ:
“Yên ngựa chon von ngất đỉnh đèo
Sơn lăng dấu cũ đá cheo leo
Đìu hiu ngọn gió cờ lau phất
Văng vẳng sườn non tiếng mục reo
Nền miếu Tràng An còn vững đá
Tấm bia Tiên đế chửa mờ rêu
Non sông Cồ Việt nào đâu đó?
Bảng lảng thành Hoa bóng ác chiều.”
Hãy luôn tin rằng, tiền nhân luôn ở bên. Nhưng bản thân chúng ta phải là những người có lòng.
Đinh Tiên Hoàng được gọi là “Vạn Thắng Vương”, vị vua trăm trận trăm thắng, vị vua đích thân cầm quân ra trận, vị vua sắp đặt mưu kế và tiêu diệt kẻ địch. Tầm của ông đã hiển hiện từ khi còn nhỏ, khi những đứa trẻ cùng
https://thuviensach.vn
thời khoanh tay làm kiệu cho ông, lấy tre làm giáo, lấy cỏ lau làm cờ, theo hiệu lệnh của ông tấn công lũ trẻ làng bên cạnh. Trong những đứa trẻ ấy có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú. Họ sẽ cùng nhau tạo nên một sự nghiệp oanh liệt sau này.
Hãy bắt đầu về hành trình đánh dẹp cát cứ của Đinh Bộ Lĩnh. Xuất thân Đinh Bộ Lĩnh là con trai của Đinh Công Trứ - thứ sử Châu Hoan, nha tướng của tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Khi cha mất sớm, ông về Hoa Lư, tập hợp quanh mình những bộ thuộc và những anh em trung thành nhất.
Năm 944, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha - em của Dương Thái hậu - cướp ngôi, tự xưng Dương Bình Vương. Con trai của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy về Nam Sách (Hải Dương) tạo nên cuộc tranh chấp ngôi báu giữa nhà Ngô và ngoại tộc. Kết quả: Dương Tam Kha bại trận, Ngô Xương Ngập cùng Ngô Xương Văn nắm lại quyền lực. Nhưng khoảng thời gian đấu đá nội bộ ấy đã khiến dòng tộc nhà Ngô mất sự kiểm soát ở các phương, dẫn đến trong khoảng thời gian từ năm 944 đến năm 966 dần hình thành những sứ quân cát cứ. Đến năm 966, khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất ở Thái Bình, loạn 12 sứ quân chính thức nổi dậy. Đinh Bộ Lĩnh đã xuất hiện trong hoàn cảnh đó.
Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh có một khoảng thời gian can qua với hai vua Ngô Xương Ngập và Ngô Vương Văn. Hai vua thì không đánh được ông, mà ông vì lực mỏng, cũng không thể tấn công được Cổ Loa (kinh đô dòng họ Ngô). Sau đó, ông cùng các bộ thuộc đến đầu quân dưới sứ quân đang giữ vùng đồng bằng Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố (Thái Bình): Trần Minh Công Trần Lãm. Trần Lãm rất yêu quý Đinh Bộ Lĩnh và nhận ông làm con nuôi. Đến khi Trần Lãm mất, ông nắm quyền ở Bố Hải Khẩu nhưng đồng loạt đưa toàn bộ quân lực về lại vùng đất tuổi thơ Hoa Lư - Ninh Bình. Đi cùng với ông là những người anh em sát cánh thuở ở Hoa Lư và cả những người lính dưới trướng của Trần Lãm cũ. Bằng việc này, Đinh Bộ Lĩnh đã nắm trong tay “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” để có thể thống nhất thiên hạ.
https://thuviensach.vn
Thiên thời có: Nhà Ngô không nắm được triều chính, 12 sứ quân thì ai cũng tham vọng nhưng không đoàn kết. Bên Trung Quốc lúc này, Triệu Khuông Dẫn vừa mới lập nên nhà Tống. Bên ngoài thì bận rộn diệt trừ tàn dư cát cứ Ngũ đại Thập quốc (lại bị uy hiếp bởi nước Liêu cường thịnh), bên trong thì phải lo toan ổn định triều chính. Bởi vậy không thể vươn tay xuống tận đất Việt.
Nhân hòa có: Lực lượng đồng đều, số lượng tăng cao, lại nhiều kinh nghiệm chinh chiến. Ở phía lãnh đạo, Đinh Bộ Lĩnh cùng với con trai Đinh Liễn, các hạ thần Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng được các sử gia Trung Quốc gọi là “Giao Châu thất hùng”. Với một lực lượng tinh nhuệ như thế, không khó để Đinh Bộ Lĩnh áp đảo các sứ quân còn lại. Đặc biệt trong bảy người ấy có Lê Hoàn, người sau này sẽ là vị vua mở ra triều Tiền Lê và đánh tan quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất. Chúng ta sẽ gặp ngài ở khúc ca thứ 4 trong cuốn sách này. Trên có Đinh Bộ Lĩnh, dưới có Lê Hoàn, đừng nói là 11 sứ quân nhỏ nhoi, chỉ hai người này thôi cũng đủ khiến cho quân Tống phải “thất kinh táng đởm”.
Địa lợi có: Kinh đô Hoa Lư ở một vị trí cực kỳ “hiểm”, sau lưng được dãy núi dài bao bọc như một tòa thành tự nhiên vững chắc, trước mặt là dòng sông Hoàng Long khi đó còn rộng và nhiều nhánh chứ không thu hẹp như bây giờ. Luận về phòng thủ, các vách núi đá vôi và hệ thống sông hồ sẽ làm thành quách tự nhiên bảo vệ Hoa Lư. Nếu tấn công, chỉ cần xuôi thuyền từ bến Ghềnh Tháp đi vào sông Hoàng Long rồi đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy và sông Châu Giang. Chạy thẳng đến Phủ Lý, ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch là coi như đã âm thầm chĩa mũi giáo sau lưng hai tướng quân Đỗ Cảnh Thạc và Nguyễn Siêu ở Đại La rồi. Từ đó, chỉ cần tiến hành chia nhánh bộ binh, lặng lẽ hành quân trong đêm là có thể đánh được các mặt trận địa của 11 sứ quân còn lại một cách bất ngờ nhất.
Có cả “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” trong tay, thật không khó để ông lấy được thiên hạ.
https://thuviensach.vn
Bắt đầu chiến dịch, Đinh Bộ Lĩnh tấn công sứ quân Kiều Công Hãn, tự xưng Kiều Tam Chế, là sứ quân đóng giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt Trì và Lâm Thao, Phú Thọ). Lý do Đinh Bộ Lĩnh chọn tấn công vùng đất này đầu tiên chính vì vị trí này nằm sát ngay sau lưng của hai sứ quân mạnh nhất là Đỗ Cảnh Thạc và Nguyễn Siêu. Nếu chiếm được Bạch Hạc, sẽ uy hiếp được Đại La, cùng với quân từ Hoa Lư đánh thẳng lên, coi như hai mặt giáp công vây lấy Đỗ Cảnh Thạc vào giữa, không thể cựa quậy được. Một loạt các bước ngoại giao và phản gián với sứ quân ở xa nhất là Kiều Thuận giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê (Phú Thọ) được áp dụng giúp ông dễ dàng rảnh tay đánh bại Kiều Công Hãn.
Nắm được Bạch Hạc, Đinh Bộ Lĩnh tiến đánh sứ quân mạnh nhất Đỗ Cảnh Thạc. Lợi dụng Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân đến cướp Trại Quyền. Đỗ Cảnh Thạc vội chạy đến cứu nhưng lại bị Đinh Bộ Lĩnh cho mai phục giữa đường để chặn đánh. Về đầu đuôi không cứu được nhau, Đỗ Cảnh Thạc mất trại và thua trận bước ngoặt. Không còn giữ được thế “ỷ dốc” ban đầu, đến năm 967, Đỗ Cảnh Thạc bị đánh bại hoàn toàn và chết vì trúng tên ở chân núi Sài Sơn.
Hạ được Đỗ Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh tiến đánh sứ quân mạnh thứ hai là sứ quân Nguyễn Siêu. Lần này ông dùng kế hỏa công, đánh bại được quân Nguyễn Siêu. Hạ được hai sứ quân mạnh nhất, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt tấn công các sự quân khác. Đánh sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, tức Nguyễn Lệnh Công, ông tập kích quân lương, vừa vây vừa diệt. Đối với các sứ quân nhỏ hơn như sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh), sứ quân Lã Đường giữ (Văn Giang, Hưng Yên), ông mặt giáp mặt, điều binh khiển tướng chém ngay trong trận. Đi cùng với thắng lợi trên sa trường là thắng lợi ngoại giao. Đinh Bộ Lĩnh luôn dùng các kế sách chiêu hàng bằng cách vừa dụ dỗ vừa đe dọa, lại lợi dụng mâu thuẫn của các sứ quân để làm lợi cho mình. Đặc biệt, riêng đối với hai sứ quân họ Ngô là Ngô Nhật Khánh đóng ở Đường Lâm và Ngô Xương Xí đóng ở Châu Ái (Thanh Hóa), vốn là hậu duệ của Ngô Vương, Đinh Bộ Lĩnh tiến hành chiêu hàng chứ không đánh nhằm lấy lòng thiên hạ.
https://thuviensach.vn
Kết quả: Trong vòng 3 năm, từ năm 966 đến năm 968, bằng tài năng và bản lĩnh, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được đất nước. 3 năm của ngài có giá trị liên thành cho vận mệnh dân tộc. Bởi đó là thời điểm nhà Tống vừa duỗi chân tới Quảng Châu và tiêu diệt vong Nam Hán, đang chuẩn bị kéo xuống nước Nam ta. Chính lúc ấy, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh đã kịp xưng đế, thu mảnh giang sơn đang vỡ nát về một mối, tập trung toàn bộ quốc lực vào tay, củng cố gốc nước khiến quân Tống phải khựng lại.
Có thể nói rằng, Đinh Tiên Hoàng đế không chỉ là vị vua dựng nước mà còn giữ nước qua việc dẹp bỏ ly loạn, tạo nên nước Việt thống nhất, ngăn sức mạnh của phương Bắc và cùng đoàn kết chống lại sự xâm lấn. Ngài đồng thời là nhà chính trị, một vị tướng, một “Vạn Thắng Vương” trăm trận trăm thắng. Một vị hoàng đế đến cả khi tạ thế vẫn muốn thân mình ở trên ngọn núi Mã Yên, như thể ngày còn trên lưng ngựa lo cho vận mệnh của dân tộc.
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 4:
LỜI CA UY VŨ
HÙNG TÀI ĐẠI LUỢC LÊ HOÀN - LÊ ĐẠI HÀNH
Lê Hoàn - Lê Đại Hành, nếu ví ngài như Trần Thủ Độ thì ngài là Trần Thủ Độ, nếu ví ngài với Lý Thường Kiệt thì ắt là Lý Thường Kiệt. Tài năng quán triệt như ngài, cổ kim hiếm gặp.
1. Bí ẩn giờ khắc lên ngôi
Để nói về câu chuyện Lê Hoàn, hắn ta phải quay lại câu chuyện Đinh Bộ Lĩnh. Trong khúc ca số 3 về “Vạn Thắng Vương” chúng ta có nói qua về cuộc can qua của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn Hoa Lư với hai vua nhà Ngô là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn. Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh sai Đinh Liễn vào Cổ Loa làm con tin. Khi Đinh Liễn đến, hai vua Ngô trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn, đem theo đi đánh Hoa Lư. Nhưng Hoa Lư quá hiểm trở cho phòng thủ, quân Ngô không đánh nổi, hai vua Ngô liền bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: “Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?” Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vua Ngô kinh sợ nói: “Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì?” Bèn không giết Liễn mà đem quân về. Khi Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn chết, triều đình Cổ Loa rối ren, Đinh Liễn về lại Hoa Lư, kết hợp cùng Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm
https://thuviensach.vn
Hạp và Phạm Cự Lạng. Họ cùng với người chủ soái Đinh Bộ Lĩnh được các sử gia Trung Quốc gọi là “Giao Châu thất hùng”. Những con người sẽ dẹp loạn cát cứ và tạo nên vương triều họ Đinh sau này.
Ở đây chúng ta có hai chi tiết: Câu chuyện về việc treo Liễn trên ngọn cây sào đó để ta hiểu, bản thân Đinh Liễn là một người con đã theo cha vào sinh ra tử, đã cùng chiến đấu với cha từ thuở còn chạy loạn đến khi lên ngôi cửu đỉnh. Đinh Liễn xứng đáng ở ngôi thái tử không chỉ vì ngài là con trưởng mà còn vì công trạng ngài đã lập lên. Và câu chuyện “Giao Châu thất hùng” để ta biết Lê Hoàn năm xưa là bề tôi của vua Đinh Bộ Lĩnh, không những thế ông còn là khai quốc công thần của nhà Đinh.
Hai chi tiết đó sẽ dẫn chúng ta đến chương sử đẫm máu và ly kỳ nhất trong giai đoạn cuối Đinh, đầu Lê.
Có lẽ trong mỗi chúng ta đều biết về câu chuyện thái hậu Dương Vân Nga khoác áo bào cho vua Lê Hoàn khi giặc Tống xua quân xuống đánh nước ta. Trước sự đe dọa của giặc ngoại xâm, trong khi vua Đinh Toàn còn quá nhỏ, thái hậu Dương Vân Nga vì đại cục đã sai lấy áo long bào khoác lên mình “thập đạo tướng quân” Lê Hoàn và trao ngôi vua cho ông.
Nhưng những dòng ngắn gọn ấy liệu có khiến chúng ta phải suy nghĩ?
Thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng chia quân đội làm mười đạo, người đứng đầu là thập đạo tướng quân - người nắm giữ binh quyền, và chức tước ấy là của Lê Hoàn. Tức việc đánh dẹp quân xâm lược vốn là nhiệm vụ của ông, người nắm vai trò như bộ trưởng Bộ Quốc phòng thời hiện đại. Vậy tại sao ông phải lên ngôi thì mới đánh trận với quân Tống được, khi bảo vệ bờ cõi là bổn phận của ông? Nếu vua Đinh Toàn còn nhỏ thì mang danh khai quốc công thần ông cần giúp vua chứ sao lại cần thay ngôi?
Ngoài ra, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép lại: “Nguyễn Bặc, Đinh Điền làm phụ chính cho Phế Đế, nhưng lúc đó Dương Thái hậu cho Lê Hoàn làm Phó Vương, nắm quyền chỉ huy quân đội, tự do ra vào cung cấm. Nguyễn Bặc lo lắng bàn với các tướng:
https://thuviensach.vn
“Lê Hoàn sẽ bất lợi cho ‘nhụ tử’ (chỉ vua Đinh Toàn), chúng ta chịu ơn dày của nước, nếu không tính trước đi, giữ cho xã tắc được yên thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế (chỉ Đinh Bộ Lĩnh) ở suối vàng nữa?”
Ông bèn cùng Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh, chia hai đường thủy bộ cùng tiến đánh Lê Hoàn, Nhưng cả hai đều không phải là đối thủ của Lê Hoàn. Kết quả Đinh Điền chết tại trận, Nguyễn Bặc thì bị bắt sống và chém đầu.
Điều này cho thấy, Lê Hoàn lên ngôi là cả một quá trình đấu đá nội bộ rất phức tạp chứ không đơn giản bằng mấy dòng “Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo bào.”
Bây giờ, hãy đi sâu vào vụ án ly kỳ này. Như đã nhắc ở đoạn đầu về Đinh Liễn, vua Đinh Tiên Hoàng cả một đời anh minh đã phạm sai lầm chết người vào lúc cuối đời. Sai lầm này đã phải trả giá bằng một vương triều mà ông cất công gây dựng. Đó chính là “phế trưởng lập thứ”. Vì yêu con thứ Đinh Hạng Lang mà trao ngôi thái tử cho Hạng Lang, bỏ qua người con cả đã “vào sinh ra tử” với mình lại đang nắm binh quyền là Nam Việt Vương Đinh Liễn. Bằng việc này, Đinh Bộ Lĩnh đã đưa tới một cuộc đua tranh dữ dội cả trong hậu cung lẫn các viên cận thần. Sự bất mãn của Đinh Liễn lên đến tột đỉnh bằng việc giết chết người em ruột của mình là Đinh Hạng Lang. Đinh Tiên Hoàng để xá tội cho Đinh Liễn vì đại cục. Nhưng mọi thứ đã không còn như trước nữa. Một âm mưu đáng sợ đang vây quanh hai con người đã thống nhất đất nước thời ly loạn.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 1) chép: “Mùa đông, tháng Mười (năm Kỷ Mão, 979), quan giữ chức Chi Hậu Nội Nhân là Đỗ Thích giết chết nhà vua (Đinh Tiên Hoàng) ở trong cung. (Đỗ Thích người làng Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Trước đó, Đỗ Thích từng có lúc làm quan ở Đồng Quan (nay thuộc Ninh Bình). Một hôm, nhân nằm chơi rồi ngủ lại trên cầu, Đỗ Thích mơ thấy có vì tinh tú từ trên trời rơi xuống và hắn đã nuốt được. Đỗ Thích lấy đó làm điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, thấy nhà vua dùng yến tiệc
https://thuviensach.vn
vừa xong say rượu nằm ngủ ngay giữa sân cung đình, Đỗ Thích bèn lẻn vào giết chết nhà vua, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn. Bấy giờ, lệnh lùng bắt thủ phạm rất gấp, Đỗ Thích phải trèo lên nằm trong máng nước ở trong cung suốt ba ngày liền, đói khát lắm. Thế rồi trời đổ mưa, Đỗ Thích thò tay hứng nước mà uống, cung nữ nhìn thấy nên đi báo. Đinh Quốc Công là Nguyễn Bặc sai người bắt xuống và đem đi chém đầu.”
Tuy nhiên nếu giết vua để đoạt quyền thì Đỗ Thích phải là người đủ tư cách để lên nắm quyền, vì để lên ngôi vua cần sự ủng hộ của quân đội, của các đại thần và có tính pháp lý để cáo thị với nhân dân. Nhưng Đỗ Thích chỉ là một viên quan nhỏ bé, không nắm trọng quyền như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ... Vậy giết vua để làm gì khi có giết cũng không thể lên ngôi chí tôn được?
Điều này có nghĩa là phải có người nắm trọng quyền đứng sau Đô Thích.
Trong những vụ án “tranh quyền đoạt vị”, thường có một đáp án chung: hung thủ là người được lợi nhất trong trường hợp cho con Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn không còn trên cõi đời. Đó là Đinh Toàn, người duy nhất dành chính ngôn thuận nối ngôi vua, chứ không phải Đỗ Thích. Nhưng Đinh Toàn khi đó mới chỉ 6 tuổi, không thể đủ sức lập nên âm mưu này, và dù có lên nối ngôi cũng không thể có được quyền lực trong tay vào một sớm một chiều mà phải cần thái hậu nhiếp chính sau lưng. Ở đây, thái hậu Dương Vân Nga là người đó, vừa nắm quyền lực nhiếp chính vừa có con chính thất nối dõi.
Tuy vậy thái hậu Dương Vân Nga có đúng là người sắp đặt âm mưu? Đó là điều cần phải bàn nữa. Hãy cùng tìm về 1000 năm lịch sử Việt Nam, chúng ta sẽ bắt gặp một dòng họ tuy lặng lẽ nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong thời đại mở nước và giữ nước của Việt Nam: dòng họ Dương. Đây là một dòng tộc danh gia và có vị trí cao trong xã hội Việt Nam thời phong kiến. Để giữ vững ngôi báu, đa số các vương triều của Việt Nam đều kết hôn chính trị với các mỹ nhân của dòng họ Dương nhằm tạo vây cánh ở phía bên ngoài. Một chi tiết sẽ khiến tất cả phải kinh ngạc, trừ triều đại nhà
https://thuviensach.vn
Trần kết hôn cận giới để tránh trường hợp Lý Chiêu Hoàng - Trần Cảnh lặp lại thì gần như tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam đều có hoàng hậu là người họ Dương. Tiền Ngô Vương Ngô Quyền với hoàng hậu Dương Như Ngọc - con gái của tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Đinh Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn - Lê Đại Hành với hoàng hậu Dương Vân Nga. Thượng Dương Hoàng hậu, tức Dương Hồng Hạc, là hoàng hậu của vua Lý Thánh Tông và là “hoàng đích mẫu” của vua Lý Nhân Tông. Đến thời Hậu Lê, hoàng hậu Dương Thị Bí là vợ chính thất của vua Lê Thái Tông, mẹ của vua Lê Nghi Dân. Sang thời nhà Nguyễn, thái hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam, Khôn Nghi thái hoàng thái hậu Dương Thị Thục là chính thất của vua Đồng Khánh và là mẹ ruột của vua Khải Định. Sức mạnh của “danh gia vọng tộc” Dương thị lớn tới mức cũng có thể một tay tạo nên các cuộc binh biến lớn và lấy ngôi trong thời gian ngắn. Dương Tam Kha, con trai thứ ba của Dương Đình Nghệ, sau cái chết của Ngô Quyền đã thay thế Ngô Xương Ngập, tự lên làm vua. 400 năm sau, Dương Nhật Lễ kế vị Trần Dụ Tông, giành được ngôi báu của nhà Trần. Từ những chi tiết ấy, câu chuyện về thái hậu Dương Vân Nga sẽ dễ giải thích hơn rất nhiều trong ngày Đinh Toàn kể vị. Nhưng cũng có thể thái hậu không phải là chủ mưu mà vấn đề là sự tranh đoạt hoàng quyền giữa các dòng họ lớn của Việt Nam giai đoạn này, như một “trò chơi vương quyền”.
Vậy vua Lê Hoàn ở đâu trong chuyện này? Lê Hoàn - người nắm giữ quân đội với vai trò thập đạo tướng quân lúc này đóng vai trò ủng hộ thái hậu Dương Vân Nga. Bởi sau khi lên ngôi, Đinh Toàn chọn hai người nhiếp chính, một người là thái hậu Dương Vân Nga và người kia chính là Lê Hoàn. Những ván cờ mà Lê Hoàn muốn đánh tiếp thì đã vượt quá tính toán của tất cả. Tham vọng của Lê Hoàn không dừng lại ở vị trí dưới một người trên vạn người mà phải là đỉnh đỉnh thiên hạ.
Đại Việt sử ký toàn thư chép lại như sau: “Tháng Bảy năm 980, tình thế quân Tống rất gấp. thái hậu Dương Vân Nga sai Phạm Cự Lạng làm đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân. Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với
https://thuviensach.vn
mọi người: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn.”
Quân sĩ đều hộ vạn tuế.
Ở đây có những chi tiết quá ly kỳ mà ta thường gặp trong lịch sử Trung Hoa hay Tây Phương và giờ là ở Việt Nam. Thứ nhất là câu này: “Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ”. Đây rõ ràng là cảnh đưa quân lính đi thẳng vào trong triều để gây sức ép, chúng ta hoàn toàn có thể tưởng tượng hình ảnh sợ hãi của thái hậu Dương Vân Nga và Vệ Vương Đinh Toàn vào lúc ấy. Thứ hai, sau khi nghe Phạm Cự Lạng nói xong thì “Quân sĩ đều hồ vạn tuế”. Hoàn toàn là một âm mưu được chuẩn bị trước. Thái hậu Dương Vân Nga ngoài việc lấy chiếc áo bào khoác lên người, bà thật không còn sự lựa chọn nào khác. Cuối cùng, việc bà từ vị trí thái hậu rồi trở thành hoàng hậu của vua Lê đã khiến nhân gian đặt câu hỏi. Nhưng cũng có thể là sự hy sinh của bản thân bà, để giữ lại vị trí của dòng tộc họ Dương trong triều đình mới. Nếu như thế nghi án phủ xung quanh bà mãi mãi chỉ là nghi án thiên cổ nghìn năm, Lê Hoàn có thể coi là anh hùng nhưng cũng là một gian hùng. Tuy vậy phải quán triệt một tư tưởng: Tại đây, ngay lúc này, chúng ta không phải xét đoán về vua Lê Hoàn, đặc biệt đó lại là một vị vua có công với nước, điều đó sẽ vô tình dẫn chúng ta đến việc phủ nhận một bậc tiền nhân có công với dân tộc. Con người ấy 26 tuổi đã nắm binh quyền, 35 tuổi đánh Tống, bình Chiêm, dẹp loạn trong nước, kinh bang tế thế, đối nội, đối ngoại đều rất xuất sắc. Nhà vua đáng phải để ta cúi đầu kính nể, tuy nhiên để lấy được ngôi báu thì khó nói chuyện nhân đạo được.
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, như một câu nói: “Làm chính trị thì không có chuyện nhân đạo. Cái nhân đạo chỉ tạo nên người anh hùng, còn để thành đế vương ắt phải là gian hùng.” Gian hùng của đế vương thì khác nhau ở chỗ lộ ra ngoài hay giấu vào trong mà thôi. Trong bối cảnh xã
https://thuviensach.vn
hội chung của phương Đông lúc ấy, chuyện quân phiệt quyền thần thoán đoạt quá phổ biến suốt thời Ngũ đại cho đến Tống dựng nước - mà Triệu Khuông Dẫn ở Trần Kiều - là một thí dụ, để trở thành một tấm gương hành động.
Điều may mắn của hậu thế khi đọc về các trang sách sử đó là có thể tự tạo cho bản thân những góc nhìn đa chiều về những nhân vật ngày xưa, qua chính các di tích lịch sử còn ở lại. Bởi lòng dân đôi khi cũng là một trang sử mộc mạc. Đền thờ Lưu Cơ được xây dựng trong một không gian rất đẹp của danh thắng Tràng An. Lưu Cơ là vị tướng cùng với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, những người chống lại Lê Hoàn và bị thua cuộc. Đền thờ ông còn đây, như một chứng tích của lòng dân luôn nhìn về mọi hướng. Lăng vua Đinh Bộ Lĩnh như đã kể ở khúc ca số 3, người được chôn trên núi Mã Yên. Vậy còn lăng vua Lê Hoàn? Nhà vua được chôn phía sau vách núi của Mã Yên. Trước khi làm vua, Lê Hoàn là bề tôi của Đinh Bộ Lĩnh. Ngài không an nghỉ cùng trên núi với vua Đinh mà chỉ xin đứng sau lưng núi, dưới chân núi. Ngôi mộ của ngài sơ sài, heo hút, rào chắn tạm bợ. Sự cô đơn của vị anh hùng đánh Tống khiến ta giật mình, bão lòng sâu xa trong cõi lòng của tiền nhân nào ai hiểu cho hết được.
Nghi án có thể mãi là nghi án và cũng có thể là sự thật. Nhưng dù sự thật là Lê Hoàn có thoán đoạt được ngôi vua từ tay dòng họ Đinh đi chăng nữa thì điều cuối cùng quan trọng nhất mà ngài đã đem đến cho dân tộc này chính là đánh tan giặc Tống xâm lược, đuổi quân Chăm Pa xâm phạm, giữ yên bờ cõi vững bền và tạo phúc cho bá tánh Đại Cồ Việt non sông gấm vóc bình an. Điều hậu nhân đọc về ông chỉ là để hiểu thêm một phần về tính cách đế vương quyết liệt của ông, cũng như hiểu sử ta cũng đầy ly kỳ, hấp dẫn chứ không phải để phủ nhận ông.
2. Uy Vũ Lê Đại Hành
Trước khi thái úy Lý Thường Kiệt trở thành người anh hùng “phá Tống bình Chiêm” thì vua Lê Hoàn - Lê Đại Hành đã làm được điều đó rồi. Thế
https://thuviensach.vn
kỷ X có vẻ là thế kỷ sinh ra những vị vua đánh trận giỏi nhất Việt Nam từ trước tới nay, mà phải đến sau này họa may có Quang Trung - Nguyễn Huệ mới có thể sánh hơn. Lịch sử thế giới rất hiếm có một đất nước sản sinh ra ba vị vua mỗi người cách nhau trên dưới 20 năm, sở hữu những võ công oanh liệt trên lưng ngựa đến như thế. Đầu tiên là vua Ngô Quyền với nghệ thuật cắm cọc nhọn trên sông Bạch Đằng tiêu diệt quân Nam Hán vào năm 938, rồi đến vua Đinh Bộ Lĩnh được mệnh danh là “Vạn Thắng Vương”, khi trong vòng 3 năm ngắn ngủi đã đánh một lèo hạ gục 11 vị sứ quân để thống nhất đất nước vào năm 968, và cuối cùng là vua Lê Đại Hành không những dẹp tan quân Tống xâm lược mà còn đưa quân xuống phía Nam đuổi Chăm Pa vào năm 981 - 982.
Để biết rõ về cái xuất chúng của Lê Hoàn, chúng ta cần biết hoàn cảnh mà Lê Hoàn chiến thắng quân Tống vào năm 981. Thời điểm đó, Tống Thái Tông đã lên ngôi, ông được đánh giá là vị hoàng đế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên giai đoạn thịnh trị của triều Tống. Hãy nhìn lại Trung Quốc khi ấy, sự hùng mạnh của nhà Tống được kế thừa sau một loạt những cuộc “thay máu” và “tranh giành” trước đó, từ triều Tần, Hán, Đường... cho đến các thời kỳ loạn lạc như Tam quốc hay Ngũ đại Thập quốc. Tất cả đã tạo nên diện mạo của nền văn minh Trung Hoa được thế giới ngưỡng mộ.
Còn Việt Nam ta khi ấy? Chúng ta xuất phát từ những bộ tộc Việt ở Hồng Bàng, sau đó đến Văn Lang, Âu Lạc, rồi thì đối diện với 1000 năm Bắc thuộc. Trong 1000 năm ấy, khi Trung Quốc đã trải qua bao nhiêu triều đại để xây dựng đất nước thì những gì liên quan đến dân tộc ta chỉ là những cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ. Mãi đến sau này, ta mới có quyền tự chủ vào năm 938 nhờ chiến thắng của Ngô Quyền. Từ năm 938 đến năm 980, chỉ 42 năm, từ triều Ngô sang triều Đinh. Chúng ta hãy đặt câu hỏi: Ta có gì khi ấy? Không, không có nhiều. Chính quyền trung ương tập quyền ở Hoa Lư cũng chưa xây dựng được một hệ thống áp đặt rõ ràng với các hào thổ địa phương. Hoàn cảnh ấy, không thể tạo ra được một thể chế dân tộc thống nhất để dùng kể “Vườn không nhà trống”, theo kiểu toàn dân đánh giặc như
https://thuviensach.vn
sau này nhà Trần làm. Đại Cồ Việt của năm 981 chỉ là một quốc gia thời sơ khởi tự chủ mà thôi, nên sự hoàn thiện cơ cấu quyền lực, hành chính là chưa đủ mạnh để Lê Hoàn có thể ngồi sau trường, định việc ngàn dặm như cái cách Lý Nhân Tông giao quyền cho Lý Thường Kiệt ở cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, mà đích thân Lê Hoàn phải cầm quân ra trận để lòng dân nhìn theo. Trọng trách gánh lên vai ông là rất lớn. Cần phải nhắc một điều, Tống Thái Tông đã cho Lê Hoàn một cơ hội khi sai sứ yêu cầu đưa hai mẹ con Dương Vân Nga - Đinh Toàn sang quy phục, đổi lại nhà Tống sẽ trao Tiết Việt cho Lê Hoàn. Nhưng Lê Hoàn đã từ chối.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhà Tống sai Trương Tông Quyền mang thư trả lời rằng: Họ Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con thì nên bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẽ có điện lễ ưu đãi và sẽ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh nên chọn một. Vua Lê Hoàn không nghe.”
Tại sao vua Lê Hoàn không chấp nhận? Nếu một quốc gia cống vua tiền triệu cho nước khác thì đó là sự nhục nhã lớn. Tầm chính trị của ông cha ta là mềm mỏng với phương Bắc để giữ hòa bình chứ không phải là quy phục phương Bắc. Sau này, khi đã giành chiến thắng trước Hầu Nhân Bảo, Lê Hoàn tiếp tục thi hành chính sách mềm dẻo và xưng thần với vua Tống, nhưng luôn cương quyết trước mọi hành động làm nhục quốc thể.
Lê Hoàn chính là vị tướng, vị vua đầu tiên của một Việt Nam tự chủ sẽ “thử sức” với một triều đại hùng mạnh thống nhất của Trung Quốc, đây là nhà Tống. Ngài là vị vua gặp khó khăn nhất và cũng cô đơn nhất trong việc tìm cho mình những đồng minh sẵn sàng đi theo ngọn cờ mà ngài dựng nên. Chiến thắng hay thất bại của ngài sẽ là bước ngoặt cho dân tộc. Hoặc ta có nguy cơ đối diện 1000 năm Bắc thuộc tiếp theo, với những thất bại hiển nhiên và đáng lẽ phải thể vì sự chênh lệch lực lượng của hai bên. Hoặc ta chiến thắng và xác lập nên truyền thống vĩ đại về một quốc gia nghìn năm lấy yếu chống mạnh trong chiến tranh giữ nước.
https://thuviensach.vn
Năm 981, nhà Tống đưa quân tràn xuống nước ta, chia làm nhiều mũi tiến công cả thủy lẫn bộ, bao gồm: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Ba cánh quân này hẹn nhau hội tụ ở Đại La, sau đó áp sát tấn công Hoa Lư. Đứng trước tình thế ngặt nghèo ấy, Lê Hoàn chia quân ra ba mặt lần lượt phòng thủ ở ba nơi hiểm trở. Tại Bạch Đằng, Lê Hoàn áp dụng kế sách giữ nước năm nào của Ngô Quyền là cắm cọc nhọn trên sông để phòng ngự, ngăn lực lượng thủy quân của Lưu Trừng. Tại Ải Chi Lăng, ngài sắp xếp quân mai phục hai bên đường núi hiểm trở để đón đợi toán quân bộ của Hầu Nhân Bảo. Tuy nhiên vinh quang và chói lọi nhất của cuộc chiến mà Lê Hoàn đại phá Tống không phải ở Bạch Đằng, càng không phải ở Chi Lăng hay Tây Kết mà là địa danh mang tên: thành Bình Lỗ.
Thành Bình Lỗ, ba chữ ấy đáng lẽ ngàn thu phải sánh cùng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ thì gần như đã bị quên lãng trong dòng chảy sử Việt. Hôm nay, tại đây, chúng ta sẽ nói về địa danh vinh quang phủ bụi mờ đó, để khắc sâu trong lòng niềm kiêu hãnh của cha ông trong khúc tráng ca giữ nước.
Hãy bắt đầu bằng một câu chuyện về ngày mất của Hưng Đạo Đại Vương, được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Tháng Sáu (Âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?” Ông trả lời: “... Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...” Thành Bình Lỗ đã được xuất hiện qua lời trăn trối của Trần Hưng Đạo như thế. Từ câu nói này của Đại Vương, ta có thể lùi lại lịch sử trước đó hơn 320 năm, để tin rằng chính thành Bình Lỗ chứ không phải Chi Lăng, Bạch Đằng mới là trận thắng then chốt của quân ta trước quân Tống, là chiến thuật được Hưng Đạo Đại Vương coi là bài học giữ nước quan trọng nhằm trăn trối lại cho đời sau.
https://thuviensach.vn
Bình Lỗ ở đâu? Dù có nhiều giả thiết khác nhau, nhưng khả năng thành được cho là ở gần khu vực sông Cầu và sông Cà Lồ, thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Đôi khi đứng trước các nguồn sử liệu còn ít ỏi và những di tích đã bị chôn vùi mãi mãi trong trầm tích lịch sử, hậu thế cần phải đặt niềm tin vào một giả thiết hợp lý nhất. Bởi vì mục đích của quân Tống là chiếm Đại La và Cổ Loa, qua đó sẽ áp sát Hoa Lư và tiêu diệt kinh đô của Đại Cồ Việt. Có nghĩa thành Bình Lỗ phải được xây ở vị trí mà chắc chắn quân Tống phải đi qua để đánh đến Hoa Lư. Mà phía bắc muốn tiến vào Cổ Loa và Đại La thì quân Tống phải đến sông Như Nguyệt rồi vào sông Cà Lồ, từ Cà Lồ ngược ra sông Hồng, đi theo sông Đáy và tiếp cận Hoa Lư. Thành Bình Lỗ bởi vậy có khả năng cao là được xây ở khu vực sông Cà Lồ.
Sử liệu có một chi tiết đắt giá để khẳng định thêm cho điều này: “Tháng Mười năm 980, Lê Hoàn thân chinh dẫn đại quân từ kinh thành Hoa Lư theo đường thủy, ngược sông Đáy, sông Nhuệ mà vào sông Hồng, rồi từ đó tiến lên miền địa đầu Đông Bắc đất nước.” Đoạn đường này, nhà vua đã ngược từ Hoa Lư lên chính vị trí ngã ba Xà, tả ngạn sông Cầu, gần bên sông Cà Lồ, vậy nếu không phải để đắp thành Bình Lỗ, còn để làm gì?
Vấn đề quan trọng nhất lúc này đối với vị thống soái như Lê Hoàn chính là dụ cho bằng được Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đi vào trận địa mai phục “thành Bình Lỗ”, Lê Hoàn đã dùng kế “trá hàng” và “dụ hàng”, không chỉ một lần mà là hai lần. Mỗi lần du hàng là lại đẩy Hầu Nhân Bảo đi sâu vào một chút, sau hai lần giả hàng thì Lê Hoàn đưa Hấu Nhân Bảo đến gặp... Diêm Vương.
Lần thứ nhất vua giả vờ thua chạy ở biên giới để dẫn dụ quân Tống vào sâu trong nội địa, đến khúc sông Như Nguyệt. Nhưng khi đi vào sông Cà Lồ thì quân Tống ngần ngại không tiến vào nữa, quân do thám của Hầu Nhân Bảo cũng phát hiện có “một thành đang xây”. Bởi vậy mà Lê Đại Hành phải dụ hàng thêm lần thứ hai, lần này dùng kể “trá hàng”. Nhà vua cho một đại tướng sang trá hàng, dùng lời đường mật để dẫn dụ quân của Hầu Nhân Bảo trong đêm đến tập kích thành Bình Lỗ. Quả nhiên quân
https://thuviensach.vn
Tống mắc mưu. Sau khi đợi cho quân Tống bị dẫn dụ vào sâu trong sông Cà Lồ, một tiếng pháo hiệu nổi lên, Lê Hoàn cùng với Phạm Cự Lạng hò reo, chia hai ngả tập kích. Trận chiến đã được sách Lĩnh Nam chích quái thần thoại hóa bằng hình tượng hai vị thần Trương Hồng, Trương Hát: “Một người dẫn đoàn âm binh áo trắng, từ phía nam sông Bình Giang mà tới, một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt mà lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm Ba mươi tháng Mười, trời tối đen, mưa to, gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng.”
Hầu Nhân Bảo và quân Tống bị “đoàn âm binh áo đỏ khóa đuôi”, trong khi lại bị “đoàn âm binh áo trắng đánh vỗ mặt”, hoảng hốt bỏ chạy về phía sông Hữu Ninh. Nhưng nơi này, Lê Hoàn đã bố trí một trận địa phục kích từ nhiều tháng trước rồi. Ba mặt giáp kích, kết quả quân Tống thua to. Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng cho biết: “Nhân Bảo đem vạn quân xông vào trước bị thể giặc rất mạnh, viện quân phía sau đến cứu không kịp, trận thể bị vây hãm, nên Nhân Bảo bị loạn quân giết chết quẳng xác xuống sống.” Cái chết của tổng chỉ huy Hầu Nhân Bảo khiến mọi cánh quân còn lại tự động rút lui, quân ta giữ yên bờ cõi. Chiến thắng đã cho thấy ý nghĩa và tác dụng của thành Bình Lỗ, nơi đây vừa là cứ điểm phòng ngự vừa là nơi tập trung quân lực vừa là mồi nhử giết giặc.
Xét ra về chuyện này, há cần gì phải đưa các ví dụ về David và Goliath(4) để nói về các cuộc chiến yếu thắng mạnh. Trong lòng con dân nước Việt đã luôn vượt qua khổ ngại theo cách đó. Ngay từ cuộc chiến đầu tiên do Lê Hoàn lãnh đạo, vốn chúng ta đều đã ở thế yếu, rất yếu rồi. Phép màu trước các nước lớn đã được tạo nên từ trí tuệ, lòng dũng cảm, nghệ thuật tình báo và một tình yêu dân tộc không bao giờ bị bẻ gãy của những người con đất Việt.
Lê Hoàn còn thêm nhiều lần đánh bại Chiêm Thành. Chẳng hạn, năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành, nhưng vua Chiêm vuốt râu hùm khi bắt giữ hai sứ giả của Đại Cồ Việt, Lê Hoàn tức giận, đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi
https://thuviensach.vn
Thuế tại trận, bắt sống quân sĩ, đánh tan kinh thành, chỉ trong 1 năm là bình định xong và trở về kinh sư. Võ công oanh liệt như vậy, cổ kim hiếm gặp.
Một điều không thể không nhắc về Lê Hoàn trong công cuộc trị nước, nhà vua là người đã khai sinh ra lễ tịch điền, nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Từ đó, mà trở thành một lễ nghi trọng đại, được các vương triều phong kiến Việt Nam sau này kế thừa.
Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tổng để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy.” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Sử gia Ngô Thì Sĩ nhận định: “Vua Đại Hành là người anh minh, quả quyết, nhiều mưu trí, dụng binh khéo như thần, cho nên khu sách các anh hào, vang động cả quân Mán và người Tàu.” (Việt sử tiêu án).
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 5:
TIẾNG NHẠC VÚT CAO
LÝ THÁI TỔ, NGƯỜI VƯƠN CÁNH RỒNG BAY
Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn, công ơn của ngài đối với nước nhà lớn đến thế nào, chắc chúng ta đều đã được nghe nhiều, nhưng ngoài những điều đó thì còn gì nữa?
1. Lý Công Uẩn và Lê Long Đĩnh
Lê Ngọa Triều là vị vua cuối cùng của triều Tiền Lê, là con trai thứ ba của vua Lê Hoàn - Lê Đại Hành, người thay thế nhà Đinh sau cái chết của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn. Khi Lê Hoàn nắm quyền, nhằm đào tạo cho những người con của mình, ông đã sắc phong vương cho các hoàng tử, cho họ được quyền nắm giữ các quân đội riêng. Điều này có một cái lợi đó là sản sinh ra những người con dũng mãnh với tham vọng như sói, nhưng đồng thời tạo ra cuộc đấu đá tranh giành, không phục lẫn nhau vì ai cũng có quân trong tay.
Quả nhiên, sau khi Lê Đại Hành mất, một cuộc tranh giành kéo dài 8 tháng đã diễn ra giữa thái tử Lê Long Việt, Đông Thành Vương Lê Long Tích, Trung Quốc vương Lê Long Kính và Khai Minh Đại Vương Lê Long Đĩnh. Sách An nam chí lược chép rằng: “Lê Hoàn đã chết, mấy người con đều tụ tập binh mã, chia đặt trại sách, quan thuộc ly tán, nhân dân lo sợ.”
Kết quả cuối cùng chiến thắng thuộc về Lê Long Đĩnh. Ông lên ngôi vua. Nhưng trong cuộc “huynh đệ tương tàn” làm suy yếu nhau ấy, không
https://thuviensach.vn
ai để ý có một đạo quân riêng đóng vai trò trung lập, lặng lẽ quan sát và đợi thời cơ, đó là đạo quân của Lý Công Uẩn - người đang giữ chức điện tiền chỉ huy sứ, chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư, người sẽ là nhân vật chính của chúng ta ở khúc ca số 5 này.
Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim chép lại:
“Long Đĩnh là người bạo - ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.
Vì lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa Triều.”
Câu chuyện về hai chữ “Ngọa Triều” và “tàn ác” của Lê Long Đĩnh cũng được sự thống nhất ở cả Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Để rồi trong hoàn cảnh suy tàn đó, Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan điện tiền chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của chi nội là Đào Cam Mộc cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế, các quan trong triều đều nhất trí suy tôn. Sự tàn ác của Lê Long Đĩnh, ngày đăng cơ của Lý Công Uẩn đã được đóng đinh vĩnh viễn trong trang sử với ngôn từ và xác lập số phận như thế.
Nhưng bạn hãy dừng lại một chút, một chút thôi, cùng nhau tư duy ở chỗ này: Thời đại phong kiến, vua là “thiên tử" - con trời, có vị trí duy ngã độc tôn và thay trời cai quản thiên hạ. Điều này có nghĩa bất kỳ một sự đổi ngôi nào cũng tạo nên một trường đoạn máu chảy vì tranh chấp hai chữ “thiên hạ”. Thế thì tại sao nhà Lê lại có thể dễ dàng truyền ngôi cho nhà Lý như vậy? Và rằng nếu như Lê Long Đĩnh xấu xa cần phải thay thế thì tại sao không thay người cùng họ Lê mà lại thay bằng người họ Lý? Vào thế kỷ XI, đất nước ta nào có phải là thời Nghiêu, Thuấn bên Trung Quốc để Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn và Thuấn truyền ngôi cho Vũ(5) đâu? Và thiền sư Vạn Hạnh có vai trò gì trong cuộc “thay triều đổi đại này”? Thiền sư Vạn Hạnh có thể coi như là người dẫn lôi cho đời sống tâm linh của nhân dân trong giai đoạn đầu của Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh là cố vẫn
https://thuviensach.vn
tin cẩn của vua Lê Đại Hành nhưng đồng thời còn là thầy của vua Lý Thái Tổ. Sự quan hệ chồng chéo của thiền sư Vạn Hạnh với hai triều đại Việt Nam rõ ràng là điều chúng ta không thể không đặt câu hỏi. Liệu lịch sử thế giới đã có cuộc đổi ngôi nào mà một vị quốc sư đóng vai trò lớn đến vậy? Cho tới tận bây giờ, khác với những lần thay đổi triều đại khác như Lê Đại Hành thay Đinh Toàn với việc Phạm Cự Lạng ập vào trong cung cấm, hay cuộc hôn nhân chính trị giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh mà thái sư Trần Thủ Độ sắp đặt thì chuyện Lý Công Uẩn thay nhà Tiền Lê lại sở hữu sắc màu bí ẩn, đi cùng những lời đồn dân gian và những câu sấm truyền miệng, chẳng hạn ngày Lý Công Uẩn sinh ra trên bàn tay có bốn chữ “Sơn hà xã tắc” hay chuyện cây gạo bị sét đánh rồi xuất hiện mấy câu sấm. Những tình tiết huyền thoại đó có lẽ chỉ được vận động từ một người có vị trí là thủ lĩnh tâm linh của nhân dân mà thôi.
Đó phải chăng là lời đáp cho việc vì sao mà dưới thời Lý, Phật giáo phát triển rực rỡ nhất. Như sử gia Lê Văn Hưu đã nhận xét về việc sùng Phật của Lý Thái Tổ trong Đại Việt sử ký: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ điệp (văn bằng cấp cho người xuất gia đi tu) cho làm Tăng hơn nghìn người ở kinh sư làm sư.” Đưa Phật giáo trở thành quốc giáo, rộng khắp trong đời sống nhân dân, đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu đã phải thốt lên: “Trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền, nhân dân quá nửa là sư sãi.”
Đó nếu không phải là sự đáp tạ cho việc ủng hộ của thiền sư Vạn Hạnh và tăng chúng thiên hạ trong việc lập ra triều Lý thì còn là gì nữa đây?
Quay lại câu chuyện về Lê Long Đĩnh, Đại Việt sử ký toàn thư chép về vua Lê Long Đĩnh như sau: “Ngự Bắc Vương cùng Trung Quốc Vương chiếm trại Phù Lan làm phản. Vua thân đi đánh.” Hoặc: “Vua thân đi đánh hai châu Đô Lương, Vị Long”. Hoặc: “Vua thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà”... Tính ra thì có tới sáu lần được nhắc đến chuyện vua thân chinh ra ngoài đánh dẹp để bảo vệ cương thổ nhà Tiền Lê. Một con
https://thuviensach.vn
người mạnh mẽ trên lưng ngựa như vậy với sáu lần đích thân ra trận tiền thì rõ ràng không thể ốm yếu. Thật không logic chút nào khi được miêu tả là “Ngọa Triều” - chỉ nằm mà thương triều, một hình ảnh phải nói quá nhục nhã về một vị vua.
Nếu bảo là “ác như Kiệt Trụ” thì tại sao Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép vua Lê Long Đĩnh có công thỉnh kinh Phật về nước Việt, qua câu sau: “Đinh Mùi, năm thứ 14 (1007). Nhà vua (Lê Long Đĩnh) sai Minh Xưởng và chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh sách Đại Tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả.” Một vị vua thỉnh một tôn giáo đầy tính nhân đạo như Phật giáo về nước, há có thể là Kiệt, Trụ?
Tài năng có, công lao với dân tộc cũng có nhưng mang nỗi oan nghìn thu khi bị đóng đinh trong suy nghĩ “Ngọa Triều” và “bạo ngược”. Thiết nghĩ hậu nhân cũng cần phải nhìn nhận một cách công bằng chăng?
Chúng ta hôm nay chỉ có thể đặt nghi án, liệu phía sau màn lên ngôi đầy êm thấm của Lý Công Uẩn có thể là một cuộc tranh đoạt chính trị trong bóng tối? Một lưỡi gươm đã rút ra mà không thấy máu? Hậu thế chưa có được một bằng chứng rõ ràng nào cho chuyện này, ngoài những sự kiện chắp nổi và những dấu tích lịch sử, để tin rằng vấn đề không đơn giản như đã viết, cũng như để tin rằng, nếu sử Việt thật sự được khai thác một cách triệt để nhất, độ hấp dẫn ly kỳ, há kém ai!
2. Lý Thái Tổ và Thăng Long
Tuy nhiên dù cho được quyền chọn lại chăng nữa, tin chắc rằng, nhân dân Việt Nam, lịch sử Việt Nam vẫn lựa chọn Lý Công Uẩn mà thôi. Câu chuyện Lý Công Uẩn, thiền sư Vạn Hạnh và vua Lê Long Đĩnh để biết sử Việt luôn hấp dẫn, đồng thời lại giúp ta biết thêm về một vị vua được chính sử nhận định là “khoan thứ, nhân từ, tinh tế, hòa nhã, có lượng để vương”, nhưng để bước lên ngôi cửu đỉnh, hẳn không thể bằng một cách suy tôn
https://thuviensach.vn
thông thường từ các đại thần nhờ nhân cách mà còn phải bằng một loạt những âm mưu chốn quan trường. Chuyện đấu đá ấy không làm xấu đi hình ảnh của nhà vua, ngược lại còn để hậu nhân hiểu, khi một con người đủ hùng tài đại lược để thay triều đổi đại trong êm thấm thì ắt hẳn sẽ đủ tầm nhìn để xây dựng được một nước Việt chắp cánh bay cao trong ngày ngài nắm quyền.
Để bàn về tầm vóc của Lý Thái Tổ, đôi khi nên “vẽ mây, nẩy trăng”. Đó là nhận định về giá trị lớn nhất mà Lý Thái Tổ đã để lại cho dân tộc, chính là dời đô từ Hoa Lư - Ninh Bình về Đại La (Thăng Long - Hà Nội). Hà Nội hôm nay, sau hơn ngàn năm phát triển, đã đủ để ta hiểu rằng tầm nhìn dời đô là đúng đắn. Nhưng ý nghĩa thực sự của việc dời đô ngày hôm đó thì không hề đơn giản chút nào. Hoa Lư, thủ đô của nước Đại Cồ Việt, cố đô của Việt Nam như đã phân tích ở khúc tráng ca mang tên Đinh Bộ Lĩnh, đó là một vùng đất mạnh về phòng thủ với dãy núi đá vôi bọc xung quanh và hệ thống sông ngòi trải phía trước. Địa thế này là cực phẩm về phòng thủ. Đại La, vùng đất sắp được dời đô lại nằm ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc Việt - vị trí nằm giữa con sông Hồng ở phía đông và sông Tô Lịch phía tây. Địa thế hội tụ bốn phương này giúp phát triển mạnh về kinh tế nhưng không phải là vị trí tốt trong phòng thủ chiến tranh.
Bằng việc dời đô từ Hoa Lư, một vị trí có ý nghĩa về phòng thủ sang Thăng Long, một vị trí có ý nghĩa về phát triển kinh tế, Lý Công Uẩn đã cho thiên hạ thấy rằng, đã đến lúc dân tộc Việt Nam không còn phải căng mình đối phó chống sự xâm lược của phương Bắc, cũng không cần phải thu giấu ở một miền đất phòng thủ nữa, bây giờ, ngay lúc này, đường hoàng bước chân ra ánh sáng và sẵn sàng xây dựng một thủ đô nghìn năm văn hiến, hệt như một chú rồng bay lên, vẫy vùng trong giai đoạn mới.
Thủ đô Hà Nội hôm nay, Thăng Long ngày xưa và Đại La thời Bắc thuộc luận về phong thủy có thể bàn thể này: Hà Nội - Thăng Long có một vị trí “núi sông chầu phục”, xung quanh vùng đất này là một hệ thống núi non trùng điệp từ các mạn Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc bủa vây về, khí thế rầm
https://thuviensach.vn
rập như “thiên binh vạn mã” đổ dồn đến trung tâm của vùng đất. Quanh Hà Nội còn có hệ thống sông ngòi từ bốn phương tám hướng cùng nhau chảy về sông Nhị Hà, đó là sông Cầu, sông Lô, sông Đà... Địa thế này trong phong thủy gọi là “chân long”, hình thái có thể coi là tuyệt đích trong việc lập đô nghìn năm. Hiểu được giá trị của thủ đô nghìn năm mà tiền nhân lựa chọn thì hậu nhân mới biết bảo vệ, chăm sóc, phát triển quê hương. Hà Nội chính là vùng đất cần được bảo vệ như thế.
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên viết: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này.”
Quả nhiên không sai, nếu như khi còn ở Hoa Lư, nhà Đinh chỉ tồn tại có 13 năm, nhà Tiền Lê có 30 năm thì nhà Lý khi đóng đô ở Thăng Long đã ở ngôi tới 217 năm. Đến lượt nhà Trần nối ngôi, cũng cầm quyền lên tới 175 năm. Nhưng sang nhà Hồ dời đô về Tây Đô thì lại chỉ tồn tại vỏn vẹn 8 năm. Đến khi nhà Lê lên nắm vận mệnh đất nước, dời đô về lại Thăng Long thì lại trở thành vương triều lâu nhất lịch sử phong kiến Việt Nam, kéo dài tới 361 năm vắt qua hai đời Lê Sơ và Lê Trung Hưng.
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn cũng ghi mấy chữ như sau: “Ở vào nơi trung tâm trời đất, được thể rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.”
Tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu (tức 21 tháng 11 năm 1009), vua Lý Công Uẩn lên ngôi, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, nghĩa là thuận theo ý trời. Với tài trị quốc và tầm nhìn xuất chúng, vua Lý Thái Tổ đã củng cố nội trị bằng việc chia nước ra làm 24 lộ, dưới lộ là phủ, dưới phủ là huyện, hương, xã. Nhà vua miễn thuế cho nhân dân trong vòng 3 năm kể từ ngày lên ngôi. Ngài còn thi hành chính sách “thân dân”, năm 1013 định lại các lệ
https://thuviensach.vn
thuế, từ thuế ruộng đất, ao hồ đến thuế bãi dâu, thuế sản vật. Ông nhiều năm xá thuế cho dân như năm 1016 xá tô thuế 3 năm, năm sau, năm 1017 lại xá tô ruộng. Đồng thời trong sáu thứ thuế mà vua ban hành, ngài chỉ thu bốn thứ, hai hạng khoan thu để tạo điều kiện cho việc phát triển nghề nông. Chính việc khoan thư sức dân này đã tạo nên rễ sâu gốc bền, khiến dân tin yêu và đảm bảo cho vương triều tồn tại lâu dài, cũng như đủ lực để chống chọi với cuộc xâm lăng của nhà Tống sau đó 60 năm.
Cũng như bao nhiêu vương triều mới thành lập khác, luôn cần phải xử lý các vấn đề về cương thổ và sự chống đối từ những nơi còn vương vấn triều cũ. Lý Thái Tổ đã phải nhiều phen cầm quân ra ngoài đánh dẹp. Tiêu biểu như vào tháng 2 năm 1011, vua mang quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Đến tháng 10 năm 1013, nhà vua lại thân chinh ra đánh quân Man ở châu Vị Long. Tính ra từ khi đăng cơ, nhà vua đã phải bốn lần thân chinh ra mặt trận và thêm bốn lần điều quân từ trung ương ra để đánh dẹp những hào trường địa phương làm phản, trong đó có một lần đánh tan quân Chiêm Thành từ phía Nam tràn lên quấy rối.
Những tháng năm chinh chiến trên lưng ngựa trong suốt chặng dài rong ruổi của ngài đã có tác dụng tạo nên một xã tắc vững bền. Trong thời gian tại ngôi kéo dài 19 năm, Lý Thái Tổ đã giành lại cho thái tử Lý Phật Mã một thiên hạ bình an và nền móng vững vàng. Sau đó tám đời vua nhà Lý tiếp theo đã phát triển đất nước Việt Nam lên một tầm mới. Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư khi nói về Lý Thái Tổ đã viết: “Nam Bắc thông hiểu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương.”
Dưới thời Lý Thái Tổ, Phật giáo nhờ đó cũng phát triển mạnh mẽ hơn. Vào tháng 6 năm 1018, nhà vua ra lệnh cho Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc qua Trung Quốc và thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. Năm 1019, lập đàn giới ở chùa Vạn Thọ, sai các tăng đồ đến thụ giới. Đến năm 1024, cho xây chùa Chân Giáo ở trong thành để nhà vua tiện ngự đọc tụng kinh kệ. Đến năm 1027, cho sao chép Đại Tạng kinh làm
https://thuviensach.vn
nhiều bản để phổ biến cho dân chúng nghiên cứu, tu học. Ở đây, chúng ta không thể đánh giá chung chung là công trạng mà cần nói thêm để cho thấy tầm nhìn chính trị xuất chúng của một bậc quân vương, đó là tạo ra ý thức hệ cho người dân. Để đối phó với Nho giáo của nhà Tống trong giai đoạn vừa chập chững độc lập qua thời Ngô, Đinh, Tiền Lê trong khi dân tộc chưa có một hệ thống tư tưởng luận rõ ràng thì thời điểm thế kỷ XI ấy, không có gì phù hợp hơn Phật giáo. Phát triển Phật giáo đã giúp Lý Công Uẩn hai việc, đáp tại công ơn với lực lượng Phật giáo đã ủng hộ ông lên nắm quyền, đồng thời dùng chính tôn giáo này làm ý thức hệ trong nhân dân, tạo nên một chế độ trung ương tập quyền vững mạnh.
Một điều rất thú vị, trong “An Nam tứ đại khí” huyền thoại của dân tộc, bao gồm tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điển và vạc Phổ Minh thì có tới ba quốc bảo được chế tạo ở thời Lý, chỉ có duy nhất một quốc bảo được chế tạo ở thời Trần (vạc Phổ Minh), có nghĩa đỉnh cao của thời Lý đến từ cả lĩnh vực nghệ thuật. Những bảo vật này sẽ khiến bạn sẽ tự hỏi, giờ ở nơi đâu mà hôm nay ta không thấy nữa? Một điều rất buồn mà chúng ta sẽ được gặp trong cuốn sách này ở khúc ca số 9 về vua Lê Thái Tổ, ba trong bốn bảo vật trên đã bị quân nhà Minh gỡ lấy để đúc súng đạn sau thất bại ở trận Tốt Động trước nghĩa quân Lam Sơn.
Tháng 3 năm 1928, Lý Thái Tổ qua đời, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế, an táng ở Thọ Lăng. Trong gần 20 năm trị vì, ông đã đặt nền móng cho 200 năm tiếp theo của dòng tộc nhà Lý ở Việt Nam, giúp dòng tộc này làm được những điều vĩ đại mà chỉ có những vương triều tồn tại lâu dài mới kịp làm được. Thời đại nhà Lý, khoa thi đấu tiên (tháng 2 năm 1075, Lê Văn Thịnh là trạng nguyên), trường đại học đầu tiên (Quốc Tử Giám) và đặc sắc nhất: bộ luật đầu tiên của Việt Nam, bộ luật Hình thư chính do nhà Lý soạn thảo. Giá trị lớn lao của bộ luật này đã giúp phát triển hệ thống phong kiến tập quyền và đảm bảo nền độc lập dân tộc. Thời Lý còn là thời đại mà Lý Thường Kiệt đã tiến hành “phá Tống bình Chiêm” để mở rộng lãnh thổ về phía Nam cho nước Việt, vị tướng quân vĩ đại mà chúng ta sẽ được gặp trong khúc ca số 6.
https://thuviensach.vn
Sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký đã tổng kết về vua Lý Thái Tổ và vua Lê Đại Hành như sau: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài.”
Từ Khúc Thừa Dụ đến Ngô Quyền, từ Đinh Bộ Lĩnh qua Lê Hoàn và đến Lý Thái Tổ, đất nước Việt Nam những năm tháng tự chủ đầu tiên hệt như một chú bé ăn no chóng lớn, phát triển thần tốc sau chưa đầy một thế kỷ. Nhưng để vĩnh viễn xác lập nước Việt Nam trên bản đồ thế giới, tạo nên độc lập lâu bền thì công lao của Lý Thái Tổ xứng đáng là đệ nhất. Nước Việt bay lên, chính ở tầm vóc của ngài và triều Lý đấy thôi.
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 6:
LỜI CA CHIẾN THẮNG
LÝ THƯỜNG KIỆT, NGƯỜI ANH HÙNG “PHÁ TỐNG BÌNH CHIÊM
Đất nước Việt Nam có vị trí địa lý khá đặc biệt, đó là đứng cạnh nền văn minh Trung Hoa. Vị thế đó là một may mắn, vì sẽ giúp ta tiếp cận được văn minh cổ đại. Nhưng đó cũng là một bất hạnh khi ta sẽ luôn đối diện với những cuộc xâm lấn của một dân tộc luôn có tư tưởng bá quyền. Bởi vậy ngày cha ông lập quốc, dựng nước luôn đi đôi với giữ nước. Giữ nước đã khó, há mộng mơ gì việc tấn công Trung Quốc? Nhưng cái gì cũng luôn có ngoại lệ và người anh hùng của khúc ca số 6 Lý Thường Kiệt chính là ngoại lệ ấy.
Ngoại lệ của Lý Thường Kiệt không chỉ ở chuyện ông dám đưa quân tấn công bên đất Trung Quốc mà còn nằm ở khiếm khuyết của ông - Lý Thường Kiệt là một hoạn quan. Lịch sử dân tộc Việt Nam có hai vị hoạn quan đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong dòng chảy của đất nước. Họ là khai quốc công thần sáng lập triều đại, là người anh hùng trị nước, là đại tướng quân đánh dẹp. Ngoài Lý Thường Kiệt, còn có tá quân Lê Văn Duyệt, khai quốc công thần nhà Nguyễn, người đánh bại Tây Sơn trên đầm Thị Nại, vị tổng trấn đã tạo nên bộ mặt của Gia Định ngày đầu, nền tảng cho Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh của ngày hôm nay. Chúng ta sẽ gặp ông ở khúc ca số 12.
Từ trước tới nay, quan điểm về hoạn quan thời phong kiến đa phần là xấu, lý do chính bởi các bộ phim truyền hình Trung Quốc chiếu trên ti vi mỗi ngày. Chẳng hạn Triệu Cao, Trương Nhượng hay Ngụy Trung Hiền(6)...
https://thuviensach.vn
đều tham ô, phá hoại, những loạn triều chính, người người đời tru diệt. Thế còn hoạn quan Việt Nam? Ngược lại, rất nhiều vị hoạn quan giỏi. Ngoài hai người uy vũ, văn võ song toàn Lê Văn Duyệt và Lý Thường Kiệt ở trên, chúng ta còn có Nguyễn An, người có thể xem là ông tổ của kiến trúc sư Việt Nam. Nguyễn An quê gốc Hà Đông (Hà Nội ngày nay), 16 tuổi tham gia thi công thành Thăng Long, 26 tuổi, khi đất nước bại trận trước nhà Minh, ông và hàng trăm chàng trai trẻ, những nhân tài của đất nước bị Trung Quốc đem về, ông bị thiên để làm hoạn quan. Dù làm hoạn quan nhưng đức tính khiêm tốn, thanh liêm và biệt tài tính toán đã giúp ông lọt vào mắt xanh của Minh Thành Tổ, tài năng kiến trúc vì thế đã nở rộ như mặt trời chính ngọ. Đây chính là vị tổng công trình sư đã chỉ đạo xây Tử Cấm Thành Bắc Kinh dưới thời Minh Thành Tổ. Các công trình như Tiền Môn ở phía nam quảng trường Thiên An Môn hay Quốc Học (Quốc Tử Giám) giờ là thư viện Bắc Kinh cũng do ông xây nên. Vậy có thể nói, Bắc Kinh hôm nay có dấu ấn của người Việt ta. Một vị tướng tài nữa cũng là hoạn quan, ông tên Hoàng Ngũ Phúc, là vị đại tướng số một của Chúa Trịnh, vị tướng già này là người đầu tiên vượt qua Lũy Thầy (Lũy Đào Duy Từ) nổi tiếng để qua sông Gianh tiến vào địa phận của chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc là một cái tên đã bị rớt lại trong lịch sử dân tộc. Dù võ nghệ, mưu trí của ông cùng đức tính thanh liêm, sự trung thành của ông thật đáng để ngã mũ.
Những vị hoạn quan xuất chúng, có công lao đối với dân tộc chính là điểm đặc biệt của lịch sử Việt Nam.
1. Anh hùng và bị thống
Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, ông vốn thuộc họ Ngô, tên thật là Tuấn, tự là Thường Kiệt, sau được ban quốc tính (được mang họ nhà vua) nên gọi là Lý Thường Kiệt. Họ Ngô chắc khiến bạn có chút liên tưởng, không sai chút nào. Ngô Tuấn chính là cháu năm đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người anh hùng đã đánh
https://thuviensach.vn
tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Dòng họ Ngô đã sinh ra hai người anh hùng ở hai thế kỷ khác nhau đánh tan quân xâm lược phương Bắc.
Ngô Tuấn dung mạo đẹp đẽ, khôi ngô, từng được phong “Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Không chỉ có vẻ ngoài, Ngô Tuấn còn là một người thông minh và ham học hỏi, văn võ song toàn. Đọc binh pháp Tôn Tử từ nhỏ, lại giỏi bắn cung, cưỡi ngựa. Tuổi trẻ tài cao như thế, lại thêm vẻ ngoài tuấn tú, một người hoàn hảo như thế lại trở thành hoạn quan? Sự việc này liên quan đến một đoạn tình bi kịch của ông. Ngô Tuấn thời trẻ có một mối tình oan nghiệt với người con gái tên Dương Hồng Hạc - mỹ nhân thuộc dòng họ Dương, người sau này trở thành hoàng hậu Thượng Dương. Mối tình đó không thể đi đến cuối cùng, vì Dương Hồng Hạc được gả cho thái tử Lý Nhật Tôn. Dương Hồng Hạc không được Lý Thánh Tông để ý, vì thế bà muốn Lý Thường Kiệt, khi ấy vừa là tình cũ, lại vừa là người được vua sủng ái, đứng sau lưng mình. Bà cần Lý Thường Kiệt có tác động trong cuộc “thâm cung nội chiến” này. Nhưng nếu ông ủng hộ thì ông sẽ bị vua đánh giá là bắt tay với tình cũ để lũng đoạn triều chính, việc thân thiết với Dương Hồng Hạc (lúc này là hoàng hậu Thượng Dương) sẽ dẫn đến sự xì xào trong triều đình. Điều gì sẽ xảy ra nếu có tin đồn về việc “nhà vua bị cắm sừng”? Đứng giữa tình thế hung hiểm như vậy, đặt bên sinh mệnh của bản thân và cái chí lớn chưa làm gì nên sự nghiệp, không thể chết vì một mối tình thời niên thiếu trong cuộc chiến chốn quan trường và chốn hậu cung, Lý Thường Kiệt phải lựa chọn, và ông đã lựa chọn theo cách đau đớn nhất: trở thành hoạn quan.
Hành động ấy đã khẳng định lòng trung thành của Ngô Tuấn nhưng cũng là lời cáo chung đầy bi thống của ông đối với Dương Hồng Hạc, là lời khẳng định rõ ràng nhất: Xin đứng ngoài cuộc trong câu chuyện tình yêu và mối quan hệ lằng nhằng chốn hậu phi này. Đây là lý do tại sao một chuẩn mực tài mạo song toàn, dung mạo tựa ngọc như Lý Thường Kiệt lại trở thành hoạn quan. Quả nhiên sau đó, Ngô Tuấn nhận được sự sủng ái cực lớn của thái tử Lý Nhật Tôn (sau này là vua Lý Thánh Tông), như một sự
https://thuviensach.vn
bù đắp lớn lao cho sự hy sinh khủng khiếp của người đàn ông văn võ song toàn, dung mạo đẹp đẽ đó. Không chỉ được đổi thành họ Lý mà các chức danh cao quý nhất đã lần lượt đến với Ngô Tuấn, và ông đã đáp lại bằng trí tuệ và võ lược của mình để giữ vững thiên hạ nhà Lý.
Dù sao đây vẫn là một giả thuyết, một giai thoại đẹp để cắt nghĩa về quyết định của Lý Thường Kiệt. Hậu nhân sẽ luôn có cho mình những luận giải khác nhau.
2. Bình Chiêm.
Vào năm 1069, lãnh thổ đất nước ta kéo dài từ Ải Nam Quan đến tỉnh Hà Tĩnh là dừng lại. Còn lãnh thổ của Chiêm Thành kéo dài từ Quảng Bình cho đến Ninh Thuận bây giờ. Từ Ninh Thuận xuống mũi Cà Mau là Chân Lạp. Thời điểm đó, Đại Việt là một quốc gia hùng mạnh và yêu cầu phía Chiêm Thành phải thần phục. Nhưng vua Chiêm khi đó là Chế Củ đã thay đổi chính sách ngoại giao và muốn thần phục nhà Tổng, dựa vào nhà Tống để chống đối Đại Việt. Vua Lý Thái Tông không chấp nhận điều này và quyết định nam chinh. Đại tướng tiên phong Lý Thường Kiệt từ Thăng Long, đi đường thủy, dẫn 5 vạn quân với 2000 chiến thuyền bằng mọi giá phải chế ngự được Chiêm Thành. Ngày 24 tháng 2 năm 1069, vua Lý ThánhTông hạ chiếu thư tấn công. Trong vòng 10 ngày kể từ khi rời Thăng Long, vua đã đưa quân vào hải phận Chiêm Thành. Sau 15 ngày, Lý Thường Kiệt có mặt tại cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) - nơi tập trung của thủy quân Chiêm Thành. Một cuộc đụng độ xảy ra, Lý Thường Kiệt dễ dàng bẻ gãy tuyến phòng thủ thứ nhất của địch. Sau 19 ngày kể từ khi rời Thăng Long, quân Đại Việt đã kéo tới Quy Nhơn. Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Lý Thường Kiệt chém đầu tướng rồi vượt qua sông Tu Mao, thẳng tiến đến kinh đô Chiêm Thành. Tính ra ngài chỉ cần 26 ngày để từ kinh đô nước mình qua kinh đô nước bạn. Vua Chế Củ trong đêm mang vợ con chạy trốn. Lý Thường Kiệt sau khi đánh phá Chiêm Thành đã đuổi Chế Củ ra tới tận biên giới Chân Lạp và bắt sống tại đây. Đến tháng Bảy, đoàn quân Nam chinh chiến thắng trở về.
https://thuviensach.vn
Vua Chế Củ và toàn gia quyến bị bắt sống. Như thường lệ, Chăm Pa xin cắt đất đổi lấy hòa bình, Chế Củ xin cống nạp cho Đại Việt ba châu: Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý, đấy là Quảng Bình và Quảng Trị hôm nay.
35 năm sau, người kế thừa ngôi báu của Chiêm Thành là Chế Ma Na quyết định đòi lại đất của tổ tiên, vua Chế Ma Na mở đợt phản công nhắm về Đại Việt và lấy lại được ba vùng đất ấy. Lý Thường Kiệt một lần nữa phải lên lưng ngựa. Năm ấy, vị tướng già của chúng ta đã 85 tuổi, là vị tướng quân có tuổi thọ cao bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Ông làm quan trải qua ba đời vua, Lý Thái Tông (1028 - 1054), Lý Thánh Tông (1054 - 1072) và Lý Nhân Tông (1072 - 1127).
Lại một lần nữa, ông đánh tan quân Chiêm Thành, buộc Chế Ma Na phải trả lại ba vùng đất đã lấy đi. Bằng bệ phóng là mưu lược cầm quân của Lý Thường Kiệt mà sau này các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn dần dần tạo nên đất nước hình chữ S như ngày hôm nay. Câu chuyện lịch sử của Lý Thường Kiệt giúp hậu thế hiểu hơn về con đường mà cha ông ta đã từng đi, về vùng đất cha ông đổ máu xương mà giành lấy. Nhiệm vụ chúng ta vì thế cần phải bảo vệ và giữ gìn cương thổ đất nước. Nếu hôm nay phá hoại sơn hà của cha ông, ngày xuống suối vàng, trả lời sao với tiền nhân đây?
3. Phó Tống
3.1. Trên đất Tống
Thế kỷ XI, đất đai Trung Quốc không thống nhất như bây giờ, quanh Đại Tống còn có các quốc gia như Đại Liêu, Đại Lý, Thổ Phồn và Tây Hạ và đương nhiên là cả Đại Việt. Theo thời gian, các quốc gia như Đại Liêu, Đại Lý, Thổ Phồn và Tây Hạ lần lượt bị vong quốc và sáp nhập nền văn minh Hoa Hạ của người Hán, tạo nên đế chế Trung Hoa ngày nay. Chỉ có Đại Việt là trải qua bao thăng trầm của lịch sử vẫn một cõi sơn hà, độc lập và phát triển. Ấy chính là vì đất này luôn sinh ra người tài để bảo vệ lãnh thổ và Lý Thường Kiệt là một anh hùng như thế.
https://thuviensach.vn
Vào thế kỷ XI, Đại Tống có một vị tể tướng tên là Vương An Thạch, một nhà kinh tế và chính trị lỗi lạc. Vương Tể tướng tiến hành những cải cách quan trọng nhưng vì quá vội vã, họ Vương đã gây ra xáo trộn mạnh trong nước. Bởi vậy nhằm yên lòng dân và tạo sự đoàn kết, ông ta đề xuất với vua Tống cần tạo một kẻ thù bên ngoài bằng cách xâm lấn Đại Việt. Vua Tống đồng ý. Nhà Tổng tiến hành mua chuộc các tù trưởng phía Bắc biên giới để họ dọn đường cho quân Tống tiến vào Thăng Long, đồng thời đưa ra lời hứa hẹn với Chăm Pa và Chân Lạp, nhằm tạo thế hai gọng kìm đánh vào nước ta. Tình thế này cứ từ từ siết chặt lấy Đại Việt từ các hướng: trên biển và phía Nam là Chân Lạp, Chăm Pa. Phía Bắc và trên bộ là các cánh quân đang điều động của nhà Tống cùng với sự quấy phá của các vị tù trưởng phía Bắc. Đại Tống đánh Đại Việt nhưng lại cố tình như không đánh, tất cả đều làm âm thầm. Thậm chí còn không dám tiếp nhận tù trưởng nắm vị trí trọng yếu của nhà Lý vì sợ “rút dây đồng rừng”.
Đứng trước cái thòng lọng đang từ từ tìm cách siết lại ấy, Lý Thường Kiệt đề xuất một quyết sách táo bạo: “Ngồi yên đợi giặc, không bằng ra quân trước để phá mũi nhọn của giặc.” Đầu tiên, ông xử lý mặt trận phía Nam. Tháng 8 năm 1075, Lý Thường Kiệt thần tốc kéo quân xuống phía Nam đánh Chiêm Thành, đuổi Chiêm Thành ra khỏi biên giới, để lại một lượng lớn dân di cư và quân đội ở các châu vừa chiếm được. Đến tháng 10 năm 1075, Lý Thường Kiệt kéo quân lên phía Bắc, tấn công toàn biên giới Trung Quốc, đánh cho nhà Tống một trận tối tăm mặt mũi. 10 vạn quân chia làm hai đường thủy, bộ tập kích các châu Khâm, châu Liêm. Vị tướng Tông Đản tập kích châu Ung, còn Lý Thường Kiệt tập kích châu Khâm, Liêm. Tông Đản cùng các tù trưởng phía Bắc ào ạt đánh hướng tây nam, dẹp các trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Tây Bình của Tổng nằm gần biên giới. Nhân đà thắng lợi, cho tiến quân về thành Ung Châu. Thành Ung Châu cầu cứu ở các thành khác mà không để ý rằng, cánh quân của Lý Thường Kiệt đang lặng lẽ đánh úp từ phía đông nam.
Giữa tháng 11 năm 1075, khi chiến sự đang đổ dồn mắt về phía Tông Đản ở tây nam thì Lý Thường Kiệt đi đường thủy, trong đêm tập kích vào
https://thuviensach.vn
thành Khâm Châu. Lặng lẽ và thần tốc tới mức khi bắt quan giữ thành Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái thì tướng giữ thành vẫn đang uống rượu. Ba ngày sau, đến lượt Liêm Châu bị hạ. Quan giữ thành là Lỗ Khánh Tôn cùng thuộc hạ bị giết chết. Quân nhà Lý bắt hơn 8000 tù binh, ép làm khuân vác, thu gom của cải lên thuyền chở thẳng về Đại Việt.
Trong ba châu, như vậy chỉ còn châu Ung. Lý Thường Kiệt đưa thư sang cho Tông Đản. Hai bên cùng kéo quân từ hai hướng tiến về châu Ung. Trước giờ, hậu thế hầu như chỉ nhớ Lý Thường Kiệt qua bài thơ Nam quốc sơn hà. Ý nghĩa bài thơ này ngoài một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc còn là cái nâng cao sĩ khí để Đại Việt trụ vững trước cuộc tiến công của Quách Quỳ ở sông Như Nguyệt. Nhưng Lý Thường Kiệt còn một bài văn nữa, đó là bài hịch khi tấn công châu Ung:
“Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép “thanh miêu”, “trợ dịch”, khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo mập...
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuận thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!”
Dân Tống nghe xong, hoàn toàn bị thu phục, đưa rượu thịt ra khoản đãi quân nhà Lý. Cái “văn” đi kèm cái “vẽ” của Lý Thường Kiệt họa chăng sau này chỉ Trần Hưng Đạo có thể sánh cùng.
Nếu Việt Nam ta có Lý Thường Kiệt thì nhà Tống có Vương An Thạch. Nhà cải cách của Trung Quốc quyết không chịu kém, soạn lại một chiếu
https://thuviensach.vn
thư khác tên là Thảo Giao Chỉ chiếu, khích lệ quân dân nhà Tống đánh lại Đại Việt. Hai đoạn chiếu thư chớp chớp lóa lóa cài vào nhau để đánh động lương tri của quân dân. Một trận đánh thú vị trên mặt trận ngôn từ:
“Hỡi nhân dân đã lâu ngày sống trong cảnh lầm than, nếu biết khuyên dụ chủ mình nội phụ xuất chúng quy phục, bắt giặc hiến cống, đem mình hiếu thuận thì sẽ được thưởng tử tước lộc, vinh hiển bội phần, những tội lỗi trước đây đều được ân xá. Càn Đức(7) đương còn ấu trĩ, chính lệnh không do y mà ra, khi nào lại triều cũng sẽ được tiếp đãi trong hậu như trước. Lời ta không sai, chớ có nghe lầm. Gần đây, ta nghe nhân dân bị bóc lột cực khổ, ta đã căn dặn sứ thần truyền đạt ân chiếu của ta, sự tàn bạo và thuế nặng đều được tẩy trừ. Mong rằng nước chư hầu của ta luôn được yên vui.”
Bố cáo của Lý Thường Kiệt giúp quân Đại Việt đến được chân thành mà không tốn nhiều công sức. Còn chiếu thư của Vương An Thạch lại tạo nên một Tô Giám liều chết giữ thành Ung Châu. Tại nơi đây, một trang huyết sử trong mối bang giao của hai nước đã xuất hiện. Cuộc tấn công đẫm máu đó diễn ra suốt hơn một tháng cho đến khi Lý Thường Kiệt hạ được thành, Đại Tống phải đưa quân tiến về phía Nam để tiếp cứu. Nhưng Lý Thường Kiệt đã rút về và ông chỉ cần có vậy, vì việc đánh tan ba châu Khâm, Liêm, Ung đã giúp Đại Việt ba điểm. Thứ nhất là tạo thế chủ động cho nhà Lý thay vì ngồi đợi thòng lọng siết cổ từ từ. Thứ hai là khiến giặc nôn nóng báo thù và đưa quân mỏi mệt từ phương xa đến, qua đó nhà Lý lấy quân nhàn đánh quân mệt mỏi áp dụng đúng binh pháp. Thứ ba là khiến hậu phương của giặc bị phá thủng, trong khi đó Lý Thường Kiệt có thời gian để xây dựng được hệ thống chướng ngại vật suốt tuyến biên giới đến nội địa để tiếp đón quân Tống.
3.2. Trên Đại Việt
Quách Quỳ - một tướng giỏi nhà Tống - được điều từ mặt trận biên giới với Đại Liêu về cầm quân đánh Đại Việt. 10 vạn quân được điều động, 20 vạn dân phu góp mặt và 5 triệu lạng vàng được nhà Tống tung vào chiến
https://thuviensach.vn
trận. Những con số để cho thấy nhà Tống đánh giá Đại Việt cao thế nào. Quách Quỳ quả nhiên là tướng giỏi, tất cả mọi vành đai phòng thủ của Lý Thường Kiệt để lại từ Quảng Tây cho tới biên giới phía Bắc, Quách Quỳ đều vượt qua. Đặc biệt, đây là vị tướng đã đi đường vòng để tránh cuộc mai phục trên Ải Chi Lăng, đánh tạt sườn vào Đại Việt và áp sát Thăng Long ở bờ sông Như Nguyệt. Như vậy Quách Quỳ chỉ cách Thăng Long 20 cây số.
Nhưng khi đó Lý Thường Kiệt đã bày sẵn “thiên la địa võng” đợi Quách Quỳ rồi.
Lý Thường Kiệt nắm vững vấn đề quan trọng nhất với quân viễn chinh, đấy là lương thảo. Ông điều Phò mã Thân Cảnh Phúc ra giữ biên giới với nhiệm vụ đêm đêm tập kích vào dân phu, cướp lương thực, đồng thời đánh “bọc hậu” các nhóm nhỏ từ phía sau. Thời gian càng kéo dài, lương thực vận chuyển càng khan hiếm, quân Tống lâm vào tình thế đói khát. Khi Quách Quỳ tiến vào cửa sông Như Nguyệt, vốn ban đầu giữ thế thủ, ông ta đợi thủy quân tập kích cùng. Nhưng ông ta đã không ngờ rằng, thủy quân nhà Tổng do Dương Tùng Tiên chỉ huy đã bị Lý Kế Nguyên - đô đốc thủy sư quân ta - đánh tan trên sông rồi. Chờ mãi không thấy quân thủy tới, trong khi lương thảo thì cạn dần, Quách Quỳ đành tấn công, bắc cầu phao vượt sông.
Lý Thường Kiệt để cho quân Tống vượt qua, sau khi quân Tống vào được một lực lượng tương đổi lớn thì quân nhà Lý ba mặt ào ra tấn công, hình thế giống như thắt nút một chiếc bao lại. Với hai mặt tạt sườn để xé lẻ quân địch ra, đẩy quân Tống phía sau quay lưng bỏ chạy, nhưng quá muộn, vì SỢ Lý Thường Kiệt vượt sông đốt trại nên quân Tống đã chặt cầu phao mất rồi, vậy là “gậy ông đập lưng ông”, cuộc tập kích qua cầu phao thất bại. Rút kinh nghiệm, quân Tống chuyển từ bắc cầu phao sang những chiếc bè nhỏ. Từng đoàn kéo qua, hỏa tiễn đánh về. Nhưng thể phòng thủ của Như Nguyệt tầng tầng lớp lớp, cứ có bè nào qua, thì đánh đắm bè đó rồi hằng đêm loan truyền bản hùng ca:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
https://thuviensach.vn
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan hủ bại hư.”
Cứ vang lên ở đền Trương Hồng, Trương Hát càng giúp nâng cao sĩ khí quân Đại Việt và khiến quân Tống sợ hãi.
Quách Quỳ thiếu lương thực, chỉ mong đánh lớn. Nhưng Lý Thường Kiệt án binh bất động không ra, vì ông đợi cho quân Quách Quỳ hết lương, dịch bệnh đeo bám thì khi ấy, ông mới thực hiện cuộc tổng phản công trên diện rộng. Tháng 2 năm 1077, thủy quân Đại Việt tràn lên bờ, đánh chiếm núi Nham Biền rồi đổ bộ xuống trại quân Tống. Một cuộc giao tranh ác liệt diễn ra, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang chống đỡ. Hai bên tiêu hao nặng nhưng Quách Quỳ, Triệu Tiết không hề biết rằng đó chỉ là nghi binh. Đêm ấy, lợi dụng quân Triệu Tiết mệt mỏi và không đề phòng, Lý Thường Kiệt vượt sông Như Nguyệt, đánh một trận khủng khiếp trong đêm. 5 vạn quân viễn chinh của Tống bị diệt. Quách Quy từ 10 vạn còn lại hơn 3 vạn thoi thóp như cá nằm trên thớt đợi Lý Thường Kiệt qua mổ xẻ.
Lúc này, Lý Thường Kiệt phân tích tình hình. Đại Việt còn một mối nguy nữa là Chân Lạp và Chăm Pa. Tuy nhiên hai quốc gia này dù nhận lời nhưng lại muốn “đục nước béo co”, xem Đại Việt và Đại Tông ai thắng ai bại thì mới điều quân. Nếu Tổng thắng thì nhân đó tấn công lấy đất Đại Việt. Nếu Tống thua thì cũng không khiến Đại Việt mất lòng. Tuy vậy thời gian càng dài thì sự uy hiếp sẽ càng lớn dần bởi chủ lực Đại Việt đã dồn hết về mặt trận phía Bắc, còn mặt Nam thì rất mỏng. Nếu quân Đại Việt tiếp tục đánh với Quách Quỳ, tình trạng “lưỡng bại câu thương” xảy ra, đến khi quân ta đuổi được Quách Quỳ đi cũng không còn sức xuống phía Nam nữa. Tuy vậy, nếu nghị hòa với Quách Quỳ thì lại khác, sẽ đẩy đến việc làm cho Chân Lạp và Chăm Pa phải rợn người vì điều đó cho thấy Tống đã bỏ đồng minh và Đại Việt vẫn quá mạnh, lại đủ thì giờ để bảo vệ biên giới.
https://thuviensach.vn
Bởi thế lá thư nghị hòa được gửi qua, nhà Tống mừng như bắt được vàng, giao kèo được ký kết. Một lá thư, yên cả mạn Bắc và mạn Nam. Có thể nói rằng, xuyên suốt cuộc đời Lý Thường Kiệt, ông luôn biết đặt đại cục lên đầu, khi uyển chuyển, khi mạnh bạo, khi hòa hoãn, khi tấn công. Một đời anh hùng đó, đáng để hậu thế cúi rạp người học hỏi và ngưỡng mộ. Năm 1077, Lý Thường Kiệt đại phá quân Tống, làm câm lặng Chăm Pa. Người là anh hùng xứng danh nhất thế kỷ XI.
Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt, hậu nhân hãy nhớ về cái tên ấy. Ngàn đời lịch sử dân tộc rất nhiều anh hùng, nhưng vị anh hùng bản lĩnh đến mức đem quân sang Bắc đánh giết thì được mấy người dám nghĩ, lại càng hiếm ai dám làm. Con người ấy không chỉ có tài năng thống lĩnh ba quân mà còn có khả năng thơ phú, dùng ý chí để khích lệ lòng quân. Một hoạn quan mà toàn vẹn hơn vô vàn triệu triệu người khác bởi công tích phá Tống bình Chiêm vĩ đại của mình.
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 7:
TIẾNG CA HÙNG TRÁNG
HÀO KHÍ ĐÔNG A VÀ ĐỨC THÁNH TRẦN
Theo lối chiết tự, Trần còn gọi là Đông A (do chữ “Trần” (陳) được ghép từ hai chữ là chữ “Đông” (東) và chữ “A” (向). “Hào khí Đông A" bởi vậy chính là “hào khí nhà Trần”. Bốn chữ đó đã trở thành biểu tượng của chiến thắng của dân tộc, đây chính là “võ công đệ nhất trong lịch sử giữ nước Việt Nam. Hình ảnh chiến thắng đi cùng với câu chuyện về người anh hùng được ca tụng nhất, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
1. Gốc Nhà Trần
1.1. Hoàn cảnh lập nên nhà Trần
Để đi tới Trần Hưng Đạo có lẽ cần phải nói về nhà Trần và sự xuất hiện của dòng họ này trên vũ đài lịch sử Việt Nam trước. Bởi phải đi từ chính cái gốc rễ này, ta mới tìm hiểu được một phần lý do tạo nên chiến thắng của quân dân nhà Trần trước đế quốc mạnh nhất lịch sử thế giới là Mông Cổ. Tại sao một đội quân kỵ binh hùng mạnh đã đánh từ Á sang Âu, khiến nhà Tống phải quỳ gối, khiến cả nước Pháp phải sợ hãi mà đình trệ buôn bán, khiến cả để quốc La Mã thần thánh phải hát bài kinh cầu nguyện: “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác – ta(8). Mông Cổ” lại phải chăn gối trước Đại Việt? Tại sao đối diện với sự uy hiếp kinh hoàng ấy mà
https://thuviensach.vn
người dân Đại Việt lại khắc lên người hai chữ “Sát Thát(9)”? Đây sẽ là một câu hỏi mà hậu nhân của “hào khí Đông A” sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Sử sách viết: “Năm 1922, Lý Huệ Tông không có con trai nên nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng cưới Trần Cảnh. Đến năm 1425, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần từ đó thay nhà Lý.” Nếu lịch sử chỉ là những câu chuyện đơn giản như vậy thì máu có lẽ đã không đổ quá nhiều trên con đường tranh đoạt thiên hạ của các triều đại. Thực tế thì người đọc sử có thể có được tư duy học thuật hơn rất nhiều. Chế độ phong kiến là một chế độ phụ hệ, “trọng nam khinh nữ”, coi trọng dòng máu gia tộc. Trường hợp Lý Huệ Tông không có con trai thì khi gia tộc nhà Lý cần giữ dòng chính thống, một người cháu trai tài năng có thể được chọn làm thái tử, còn không sẽ là một vương gia được chọn kế vị. Thực tế thì lịch sử Việt Nam 400 năm sau sự kiện Lý Chiêu Hoàng, có một câu chuyện tương tự, nhưng cách giải quyết khác biệt hoàn toàn, đó là sự kiện vua Tự Đức không có con cái, nhà vua đã nhận ba người cháu là Nguyễn Phúc Ưng Chân, Nguyễn Phúc Ưng Kỷ và Nguyễn Phúc Ưng Đăng làm con nuôi để kế vị ngai vàng, là các vị vua Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc sau này. Đây là bằng chứng rõ ràng nhất cho việc giải các bài toán liên quan đến việc vua chúa không có Con trai. Câu hỏi đặt ra vì vậy là: Tại sao Lý Huệ Tông phải nhất nhất nhường ngôi cho một cô con gái 7 tuổi, để rồi cô gái đó nhường ngôi cho chồng lo việc nước, và chồng - Trần Cảnh - cũng chỉ mới 11 tuổi? Tức là phía sau cuộc nhường ngôi êm thấm này là một âm mưu đã được sắp đặt của một người ngoại tộc. Người thực hiện điều này chính là một gian hàng bậc nhất, tài năng và quyết liệt bậc nhất của thời đại ấy: thái sư Trần Thủ Độ. Đại Việt sử ký toàn thư vì thế mới chép: “Thái Tông lấy được thiên hạ đều là màu sắc của Thủ Độ cả, cho nên quốc gia phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.”
Người đời sau vì quá yêu những Công tích vĩ đại của Hưng Đạo Đại Vương nên hầu như cũng chỉ biết mỗi ông và xem ông là đệ nhất quần thần. Tuy nhiên thực tế thì trước Trần Quốc Tuấn còn bốn người nữa có đóng góp cũng cực kỳ quan trọng cho vương triều nhà Trần, đó là: Trần Tự
https://thuviensach.vn
Khánh, Tô Trung Từ, Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ. Bốn con người này chính là khai quốc công của vương triều Trần. Đã có rất nhiều máu đổ xung quanh hai cái tên là Trần Tự Khánh và Tô Trung Từ để giúp sáng lập nên một triều đại của họ Trần chỉ bằng một cuộc hôn nhân êm thấm.
Vào thời buổi suy vi của nhà Lý, Lý Cao Tông nghe lời gian thần Phạm Du, giết trung thần Phạm Binh Di. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc khởi binh báo thù cho chủ, đánh vào kinh thành Thăng Long. Vua Cao Tông chạy lên Quy Hóa, thái tử Sảm (sau này là vua Lý Huệ Tông) cùng mẹ và hai em gái chạy về Hải Ấp (Thái Bình). Vừa khéo chính nơi đây thuộc địa bàn của Trần Lý (là ông của Thái Tông Trần Cảnh). Trần Lý có một người con gái tên Trần Thị Dung (chính là Linh Từ Quốc Mẫu) rất có nhan sắc, thái tử Sảm lấy làm thích, liền đem về làm phi. Tô Trung Từ khi đó bàn với Trần Lý, cùng nhau đưa thái tử Sảm làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Nhân đó Trần Lý được phong làm minh tự, Tô Trung Tự làm điện tiền chỉ huy sứ. Sau khi xong đâu đó, hai người khởi binh về Thăng Long, đánh bại Quách Bốc, Trần Lý chết trận, triều chính lại nằm hết cả vào tay Tô Trung Từ. Tại Thăng Long, một tay Tô Trung Từ đưa thái tử Sảm lên ngôi, đánh dẹp hết các cuộc chống đối của cựu thần nhà Lý và nắm hết triều chính.
Đúng vào lúc này, lịch sử bỗng xuất hiện một người phụ nữ mà theo những gì bà tạo ra (dù chỉ một cách gián tiếp) có thể khẳng định xứng đáng với bốn chữ “hồng nhan họa thủy”. Người con gái ấy là công chúa Thiên Cực. Sử cũ ghi lại: “Năm Tân Tỵ (1211), tháng Sáu, Tô Trung Từ ban đêm sang nhà ở Gia Lâm để cùng với công chúa Thiên Cực tư thông, bị chồng của Công chúa làm Quan nội hầu là Vương Thượng giết chết.” Theo luật pháp nhà Lý khi đó, nếu nam nữ tư thông mà bị bắt quả tang thì người chồng có thể giết tình địch mà không bị tội. Vậy là Tô Trung Từ, bậc kiêu hùng nắm giữ triều chính, dẹp loạn hết mọi cựu thần nhà Lý, cuối cùng lại chết bởi một mỹ nhân. Lùi lại trước đó, Đại Việt sử lược chép: “Biết đã đến lúc dân ở vùng Hồng đi đón rước mà Phạm Du còn cùng với công chúa Thiên Cực tư thông...” Phạm Du chính là người được lệnh của vua Cao
https://thuviensach.vn
Tông đi liên hệ với họ Đoàn nhằm tấn công Trần Lý và Tô Trung Từ sau sự việc tự ý đưa thái tử Sảm lên ngôi. Nhưng vì bận đắm say với công chúa Thiên Cực mà lỡ hết việc lớn. Vậy công chúa Thiên Cực đẹp đến thế nào mà một mình có thể khiến hai quyền thần phải đắm say mà dẫn đến cái chết vậy?
Cái chết của Tô Trung Từ tạo điều kiện cho đệ nhất khai quốc công thần của nhà Trần là Trần Tự Khánh bước lên vũ đài lịch sử. Từ Hải An, ông đưa binh đến Thăng Long. Khác với cách mà người cậu Tô Trung Từ hay người anh Trần Thừa có được binh quyền nhờ loạn lạc, Trần Tự Khánh lại có được uy quyền bằng tài năng đánh trận trên lưng ngựa. Chỉ bằng một đạo quân, ông đánh tan quần hùng khắp mọi nơi. Đi lên từ vùng Hải Ấp của nhà Trần, Trần Tự Khánh kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam), chiếm cứ sông Lô, sông Thiên Đức (sông Đuống), rồi chiếm luôn đồng bằng hạ lưu sông Hồng và sông Đáy, phát triển thể lực lên đến Quốc Oai và cuối cùng đánh đến kinh đô. Lý Huệ Tông quyết không theo Trần Tự Khánh mà chọn họ Đoàn (là một gia tộc lớn giai đoạn này) để nương nhờ.
Lúc ấy, loạn cát cứ nổi lên khắp nơi, xét ra SO với thời “12 sứ quân” cũng không chịu kém. Trần Tự Khánh nổi bật lên như một tướng quân tài ba nhất, thắng các sứ quân khác như chẻ tre. Sự tàn bạo và quyết liệt của Trần Tự Khánh lớn tới mức sẵn sàng vây và đốt cháy cả Thăng Long. Cuối cùng Lý Huệ Tông nhận thấy chỉ có Tự Khánh là đáng nương nhờ, đành phải theo về. Có Lý Huệ Tông làm cớ danh chính ngôn thuận, trong khoảng thời gian 4 năm (1217 - 1220), Trần Tự Khánh đánh đông dẹp bắc, thu về một mối cả bốn thể lực chống đối.
Cuối năm 1923, Trần Tự Khánh qua đời ở Phù Liệt, thọ 49 tuổi. Quyền bính trong triều được giao cho em họ ông là Trần Thủ Độ - người sẽ đạo diễn cuộc hôn nhân chính trị đưa thiên hạ về cho nhà Trần sau này. Điều Trần Thủ Độ làm được đương nhiên là vì mưu sâu kế hiểm của một gian thần, cũng là sự góp sức quan trọng của Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung trong việc dẹp yên nội trị ở cung cấm, nhưng đầu tiên chính là nhờ người
https://thuviensach.vn
anh họ Trần Tự Khánh đã “tiền trạm” cho ông vậy. Trần Thủ Độ cũng không kém anh, để giữ vững cơ nghiệp cho nhà Trần, ông sẵn sàng “nhổ cỏ tận gốc”. Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi thì làm sư, xưng là Huệ Quang. Năm 1226, Trần Thủ Độ sợ lòng dân nhớ vua cũ, bèn chuyển Huệ Quang vào chùa Chân Giáo. Một lần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhổ cỏ ở vườn, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu.” Huệ Tông nói: “Điều người nói, ta hiểu rồi.” Sau đó, Lý Huệ Tông tự tử ở sau vườn.
1.2. Tính cách Mông Cổ, tính cách Đông A
Khúc tráng ca này muốn đi từ cái gốc tạo nên nhà Trần để tất cả chúng ta hiểu rằng, những năm cuối thời Lý không hề yên ả như cuộc hôn nhân chính trị giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh mà giống như cuộc chiến “Loạn 12 sứ quân” năm nào ở khúc ca số 3. Đấy là một dữ kiện quan trọng để hậu nhân đọc lịch sử biết rằng: Đức tính tàn bạo và quyết liệt, mềm mỏng và bao dung, chính trị dày dạn và dũng mãnh trên chiến trường của “hào khí Đông A” đã có từ ngày lập quốc chứ không phải đến cuộc chiến chống Nguyên Mông mới xuất hiện.
Nếu người Mông Cổ tự hào với truyền thuyết về nguồn gốc sói thảo nguyên của mình thì Nhà Trần và Đại Việt cũng là giống kinh nghê, cùng truyền thuyết tiên rồng. Người Mông Cổ xuất thân từ “sói”. “Sói thảo nguyên” đã “sinh” ra Thành Cát Tư Hãn, cho ông ta những đức tính tàn bạo và quyết liệt, thông minh, cơ trí, kiêu hùng và nhẫn nại, dũng cảm, liều mình, khôn ngoan và cả binh pháp của sói. Còn nhà Trần, gốc của họ là nghề chài lưới, họ cũng săn bắn nhưng là săn bắn trên sông và trên biển. Những người con đầu tiên đều lấy tên các loại cá, chẳng hạn Trần Thừa (tên tục là Dưa), Trần Tự Khánh (Ngạnh) và Trần Thị Dung (Ngừ). Công cuộc tiếp xúc với máu hằng ngày và cuộc đấu tranh giành giật kế sinh nhai trên sông biển, những âm mưu để tồn tại và chứng kiến quy luật “cá lớn nuốt cá bé” cũng đã dạy cho dòng tộc họ Trần tính cách của loại cá kình” - loại cá được mệnh danh là “chó sói của biển cả”.
https://thuviensach.vn
Trên thảo nguyên mênh mông, người Mông Cổ là dân tộc du mục và săn bắn, bởi là một dân tộc săn bắn, họ có sức mạnh và sự táo bạo để tiêu diệt nền văn minh nông canh. Trên sông nước, những người con nhà Trần, người dân Đại Việt cũng săn bắn, đương đầu với sóng dữ, hiểm họa và những loại cá hung tợn. Mông Cổ là khắc tinh của các nước khác, nhưng không phải là khắc tinh của nhà Trần, ngược lại, họ giống nhau trong tính cách tồn tại.
Thành Cát Tư Hãn và An Sinh Vương Trần Liễu (cha của Hưng Đạo Đại Vương) đều từng bị... cướp vợ. Rồi cả An Sinh Vương và Thành Cát Tư Hãn đều cầm gươm đứng dậy mà cướp lại vợ chứ không chịu cúi đầu trước kẻ mạnh hơn. An Sinh Vương có thể thất bại, nhưng trước khi chết, vẫn trăn trối lại với con mình là Trần Quốc Tuấn: “Con không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết dưới suối vàng cũng không thể nhắm mắt.” Thế giới “mạnh được yêu thua” đã sinh ra những con người như Trần Tự Khánh, như Thành Cát Tư Hãn, tất cả những vị tướng ấy đều vùng lên để giành lấy quyền lợi cho dòng họ. Trần Khánh Dư, tôn thất nhà Trần cũng từng nói một câu rất tàn bạo: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì lạ?” Cuộc chiến giữa Mông Cổ và Đông A vốn là cuộc quyết chiến của hai đối thủ có khá nhiều điểm tương đồng của “sói” và “kình”.
2. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Để miêu tả về sức mạnh quân Mông Cổ, một nhà sử học thời Tống bên Trung Quốc đã viết: “Hoặc xa hoặc gần, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc hợp lại hoặc tản ra, hoặc ẩn hoặc hiện, đến thì như trên trời rơi xuống, đi thì nhanh như chớp giật. Kẻ địch chia ra thì họ chia ra, kẻ địch hợp lại thì họ hợp lại. Họ mà thắng thì đuổi theo quân địch chém giết, không để trốn thoát. Họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp.”
Đoạn miêu tả ấn tượng ấy giúp ta thấy sức mạnh khủng khiếp của binh đoàn này, nhưng đây là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu của quân lính
https://thuviensach.vn
Mông Cổ. Chính vì sống trên lưng ngựa, đánh thắng trên lưng ngựa nên ngựa trở thành điểm chính yếu cho sự tồn tại của kỵ binh. Tốc độ hành quân quá nhanh dẫn đến lương thảo thường không theo kịp, quân sĩ bởi vậy thường mang theo lượng lương thảo tinh giảm và gọn nhẹ nhất, chủ yếu sẽ là “tự cung tự cấp”, chém giết các điểm đến để lấy thức ăn cho người và ngựa. Sinh thời, Thành Cát Tư Hãn cũng đã từng nói: “Phải chinh phạt kẻ thù, phải bắt kịp kẻ thù, phải cướp bóc tài sản của bọn chúng...” Nhưng nếu không có gì để mà cướp thì sao? “Vườn không nhà trống” của Đại Việt chính là lời hồi đáp cho câu hỏi đó. Việc này khiến quân thiết kỵ Mông Cổ chưng hửng. Cướp phá chẳng được gì, lương thực thì cạn kiệt. Đến một thời điểm nhất định, chỉ cần dùng đại quân đã được ém kỹ, lấy sức nhàn đánh quân mệt, nổ một phát sấm sét là coi như thành công. Kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258 hoàn toàn là theo tính toán này. Khi đó quân Mông Cổ tiến vào Đại Việt theo đường Đại Lý. Đích thân vua Trần Thái Tông và thái tử Trần Hoàng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Không quá khó hiểu khi quân Đại Việt thất bại. Vai trò của Lê Phụ Trần chính là đã ngăn cản vua Trần Thái Tông nướng quân ở Bình Lệ Nguyên mà tham mưu lại với Trần Thủ Độ để chuyển sang thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, giải tán toàn bộ vật lực trong thành khiến quân Mông gặp phải khó khăn về lương thực. Trong vòng 10 ngày khi quân Mông cạn kiệt lương thực và đang chán nản, vua Trần và thái tử lại dẫn quân phản công, trên Đông Bộ Đầu (nay là quận Ba Đình, Hà Nội), quân dân Đại Việt thắng một trận tưng bừng, đuổi quân Mông Cổ chạy một mạch về Trung Quốc. Dọc đường quân Mông Cổ còn bị dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà Bổng chỉ huy tập kích càng thêm hao tổn.
Như đã nói ở phần 1 của bài viết, người đời vì yêu thương và ngưỡng vọng Đức Thánh Trần mà hễ nhắc đến nhà Trần, nhắc đến “ba lần thắng quân Nguyên Mông” là đều nói về Trần Quốc Tuấn. Nhưng nếu xét riêng về dòng tộc, đóng góp của Trần Quốc Tuấn dưới Trần Tự Khánh, Tô Trung Từ hay Trần Thủ Độ. Nếu xét về công lao đánh giặc thì cuộc kháng chiến
https://thuviensach.vn
chống Nguyên Mông lần thứ nhất vào năm 1958, công lao lớn nhất là ở Lê Phụ Trần, người khuyên vua Trần rút quân ở trận Bình Lệ Nguyên, còn vai trò của Trần Quốc Tuấn khi đó là giữ biên giới phía Bắc. Sân khấu của Hưng Đạo Đại Vương thực ra là ở cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288), với vai trò chỉ huy quân đội.
Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan đưa quân tràn sang nước ta, thể giặc như gió cuốn. Hội nghị Diên Hồng được tổ chức, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng.” Đây được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nơi mà các phụ lão có thể coi là đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân. Nhà Trần chiến thắng bởi có lòng dân đồng nhất từ trên xuống dưới vậy. Bản thân người chỉ huy Hưng Đạo Vương thì tâu: “Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng!”
Về Vạn Kiếp, Hưng Đạo Đại Vương làm hai việc quan trọng. Đầu tiên, vị quốc công tiết chế soạn thảo bộ Binh thư yếu lược - bộ binh pháp đầu tiên của nước ta - để huấn luyện quân sĩ và các tướng. Tiếp đó, ngài tuyên truyền Hịch tướng sĩ trong 20 vạn quân dưới trướng để khích lệ binh lính chiến đấu, những câu văn đến giờ khi đọc lên vẫn khiến hậu nhân hừng hực khí thế như đang sống ở thời kỳ Đông A: “Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sự ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước, có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc
https://thuviensach.vn
nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bạn không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào!” Binh sĩ nghe xong lời hịch, sĩ khí dâng lên, lấy mực xăm vào tay hai chữ: “Sát Thát”, cùng nhau hết lòng chiến đấu chống giặc.
Thu phục được lòng người về một mối rồi, Hưng Đạo Đại Vương vận dụng binh pháp “Kiên thủ chờ suy” rút quân chủ lực vào Thiên Trường Tam Điệp, Thanh Hóa, đồng thời tăng cường quân địa phương chặn đánh nhỏ phía trước, triệt hậu cần phía sau, cốt giữ giặc ở lâu trong đất lạ, hạn chế đánh giáp lá cà. Tháng 5 năm 1285, Trần Hưng Đạo cho quân tổng phản công từ hai hướng Chương Dương và Giang Khẩu. Một mình chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ, điều binh ở các điểm Hàm Tử, Chương Dương và Tây Kết. Hào khí Đông A dâng cao nhất trong chiến thắng tại Hàm Tử. Người chỉ huy trận đánh đó chính là nhà ngoại giao tài ba của nhà Trần, một trong những nhân vật được yêu mến nhất lịch sử: Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, người mà cách đó 5 năm từng một mình một ngựa, cười nói thản nhiên, uống rượu trong trường của Trịnh Giác Mật giữa hai hàng đao phủ thủ để chiêu dụ tù trưởng phía Bắc. Sau khi Trần Nhật Duật thắng ở Hàm Tử thì đến lượt Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải tấn công ở Chương Dương. Thoát Hoan cuối cùng phải bỏ chạy khỏi Thăng Long vì không chịu nổi sức ép. Cùng thời điểm, tướng Toa Đô từ phía nam tiến lên. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc đợi liên lạc với Thoát Hoan. Được ít ngày, tin bại trận của Thoát Hoan báo đến, Toa Đô hoảng hốt lui về Tây Kết, không ngờ gặp đúng quân nhà Trần, trận này, Toa Đô chết.
Nói về Thoát Hoan, khi đó đang rút chạy về phía bắc Sông Hồng thì đến ngày 10 tháng 6 năm 1285, Hưng Đạo Vương đích thân lên lưng ngựa, phó tướng Trần Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công Thoát Hoan ở bờ Bắc sông Hồng, đánh bại Lưu Thế Anh, đuổi Thoát Hoan đến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Vừa đến sông, lại khéo gặp ngay Trần Quốc Toản. Quân Nguyên bị vị tướng trẻ với lá cờ thêu sáu chữ vàng này đánh bại, không
https://thuviensach.vn
sang sống được, phải chạy về phía Vạn Kiếp. Chạy đến sông Sách, quân Nguyên bắc cầu phao định vượt sông, nhưng Hưng Đạo Đại Vương đánh ập vào, xé ngang quân Nguyên khiến chúng xô nhau chạy, cầu phao đất, chết đuối hết mấy phần. Vất vả lắm mới vượt qua sông Sách, quân Nguyên chạy về Vĩnh Bình, gặp Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Đại Vương) chỉ huy. Tướng của Thoát Hoan là Lý Hằng bị trúng tên độc tử trận. Thoát Hoan sợ hãi quá, chui ngay vào ống đồng, để cho quân lính khiêng, chạy một mạch về nước.
3 năm sau, năm 1288, quân Nguyên Mông trở lại một lần nữa. Lúc này, vua Trần Nhân Tông hỏi vị quốc công tiết chế của mình: “Năm nay đánh giặc thế nào?” Trần Hưng Đạo cười đáp: “Năm nay đánh giặc nhàn.” Cái tuyệt luân của Hưng Đạo Đại Vương là ở chỗ đấy. Khi nào cần rút lui, khi nào cần phản công, khi nào thấy sự đáng sợ của giặc để phải dùng Hịch tướng sĩ, khi nào ung dung, tự tin phá giặc. Để chứng minh cho điều này, lần thứ ba, quân nhà Trần không dùng chiêu cũ là “vườn không nhà trống” nữa mà tự tin giữ thành Thăng Long. Thoát Hoan vây thành suốt một tháng mà không biết rằng đây chỉ là kế “Dương đông kích tây”. Trong khi Thoát Hoan tổn thất bao nhiêu thì ở ngoài Vân Đồn, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư lập được công to khi đánh tan đội thuyền lương của Trương Văn Hổ, trận đánh này sẽ có bước ngoặt rất lớn bởi sau khi có tin từ Trần Khánh Dư, quân dân Đại Việt lại rút khỏi Thăng Long. Thoát Hoan có Thăng Long nhưng không có lương thực của Trương Văn Hổ tiếp tế. Vậy là lần thứ ba đánh Đại Việt, lần thứ ba bị đói, triệt lương thực và dịch bệnh. Có lẽ một đời Thoát Hoan chẳng bao giờ quên được những ngày ác mộng này. Trước tình hình đó, Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp, sai tướng A Bát Xích đi tiên phong mở đường. Nhưng đến Vạn Kiếp lại bị tập kích hằng ngày. Cuối cùng, phải chia quân mà rút về. Một cánh đường thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy và một cánh bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. Kết quả trên sông Bạch Đằng huyền thoại, đích thân Trần Hưng Đạo ra tay, bắt sống Ô Mã Nhi ngay tại trận bằng kế sách mà Ngô Quyền để lại năm nào: cắm cọc nhọn. Trên đường bộ, Thoát Hoan gặp
https://thuviensach.vn
hai, ba lần phục kích, tướng A Bát Xích(10) bị bắn chết, cuối cùng, mới trốn được về nước.
Hai lần oanh liệt đánh bại quân Nguyên Mông khi đứng ở vị trí tổng chỉ huy quân đội, Hưng Đạo Đại Vương trở thành vị tướng quân xuất chúng nhất của thời đại Đông A. Sử gia Nguyễn Khắc Thuần khi bàn về Trần Hưng Đạo đã đúc kết nghệ thuật quân sự của Đại Vương, tựu chung có ba điểm chính:
Thứ nhất, lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ít thắng nhiều, đánh phục kích bất ngờ.
Thứ hai, nêu cao tinh thần đoàn kết, đoàn kết trên thượng tầng lãnh đạo, đoàn kết trong quân, đoàn kết trong dân, gạt bỏ tình riêng để cùng chiến đấu vì lợi ích chung của cả quốc gia dân tộc.
Thứ ba, điểm quan trọng nhất là: “lấy dân làm gốc”, dựa vào dân để chiến đấu, để chiến thắng, để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, để làm nền tảng tồn tại của chế độ.
Nhưng vượt lên trên thời đại và suy nghĩ của một quý tộc nhà Trần, Hưng Đạo Đại Vương là một người yêu nước thương dân và lo cho dân, đặt vận mệnh đất nước hơn mọi tham vọng cá nhân thông thường. Chẳng hạn như việc bỏ qua lời trăn trối của cha là An Sinh Vương Trần Liễu về việc giành lấy ngôi báu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “26 tháng Chạp năm Giáp thân (1284) giặc Nguyên đánh tan quân ta ở Nội Bàng. Hưng Đạo Đại Vương dự định di chuyển bằng đường núi, nhưng gia thần của ông là Dã Tượng nói rằng nếu Yết Kiêu chưa gặp Vương thì nhất định không đưa thuyền rời bến. Hưng Đạo Vương nghe lời, đến bến đò Bãi, quả thấy chỉ còn độc nhất chiếc thuyền của Yết Kiêu đang ở đó để chờ Vương tới cùng đi.”
Hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương bỏ đường núi an toàn để đi đường thủy vì tin rằng Yết Kiêu sẽ chờ mình. Hình ảnh Yết Kiêu một mình một thuyền cô đơn giữa lằn ranh sống - chết vẫn đứng đợi người chủ. Đó là một chi tiết
https://thuviensach.vn
của tinh thần trung liệt, tin tưởng vào nhau. Hôm đó, Trần Hưng Đạo nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi.” Câu nói cùng hình ảnh Yết Kiêu chống thuyền chờ chủ là biểu trưng của một tinh thần lớn lao hơn nhiều: mối quan hệ giữa người lãnh đạo và quần chúng nhân dân, điều mà Trần Quốc Tuấn đã nhìn ra và làm theo suốt thế kỷ XIII. Trước khi là một tướng tài, Trần Quốc Tuấn là một lãnh tụ an dân, không xa cách tướng sĩ, yêu dân như con. Ngày ông ốm nặng, vua tới thăm và hỏi nếu quân phương Bắc tràn xuống thì sao? Hưng Đạo Đại Vương đã kể rất nhiều bài học về giữ nước của các bậc tiền nhân từ thời Đinh, Tiền Lê, nhà Lý, cuối cùng ông trả lời: “Khoan thứ sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.” Hình ảnh Đức Thánh Trần vì thế sống mãi trong nhân gian, là biểu tượng để lòng dân hướng về, là tấm gương mà rất nhiều vua quan hay lãnh đạo anh minh các thời kỳ của dân tộc Việt Nam đã noi gương và đi theo để được dân yêu, dân quý.
Trong lịch sử dân tộc, hiếm có ai văn võ song toàn như Trần Quốc Tuấn. Cũng hiếm ai được tấm lòng nhân hậu như Trần Quốc Tuấn. Cũng chẳng mấy ai cả về chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, tấm lòng vì dân vì nước đều đạt đến mức tột đỉnh như ông. Nhân tài như vậy phải mấy trăm năm mới xuất hiện một lần. May cho nhà Trần, may cho Đại Việt là ông sinh ra vào đúng giai đoạn này. Bởi người như vậy mới có thể làm quốc công tiết chế lãnh đạo được toàn dân đạp nát vó ngựa quân Mông Cổ.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một thiên tài quân sự, một tấm gương chiếu soi cả sử xanh, một con người bất diệt với non sông dân tộc. Ngài bất tử trong lòng người dân, không chỉ bởi sự vĩ đại của một con người kiệt xuất văn võ song toàn mà còn cả một tấm lòng yêu dân vô hạn. Ngài là Đức Thánh Trần của dân tộc Việt Nam.
Một chút về Yết Kiêu:
Trong cuộc kháng chiến vĩ đại này, có những nhân vật đã xuất hiện, khiến nhân dân yêu quý, rồi bỏ ngỏ cái kết trong sử sách khiến hậu thế ngơ
https://thuviensach.vn
ngác. Đó có thể là vị tướng với lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân” Trần Quốc Toản, với cái chết ít được nhắc đến. Đó cũng có thể là An Tư công chúa, người con gái đã chấp nhận bản thân mình cho giặc vì lợi ích quốc gia. An Tư công chúa sau khi gả cho Thoát Hoan trong kháng chiến lần thứ hai đi đâu, về đâu, không thấy ai nói đến. Và còn có Yết Kiêu, gia nô trung thành của Hưng Đạo Vương, người lặn xuống dưới sâu, đâm thủng thuyền giặc. Trong cuốn sách này, tác giả đã được một người bạn ở Hải Dương cho nghe một giai thoại liên quan đến Yết Kiêu, xin kể hầu bạn đọc:
“Yết Kiêu khi bị giặt bắt lần thứ nhất, đã trốn thoát được như trong sử chép. Nhưng lần thứ hai bị bắt, quân Mông Nguyên dụ hàng không được, đã chém đầu ông. Đầu của ông trôi xuôi về hạ lưu, rồi dừng ở một điểm tả ngạn tại Bắc Ninh. Người dân đã chôn đầu ông ở đó rồi dựng nên một đền thờ, gọi là đền Tam. Một điều cực kỳ đặc biệt, mỗi năm lụt lên, xung quanh ngập cả, nhưng đền Tam thì không hề ngập. Đó có phải vì nơi ấy đã chôn cất một trong những “thủy thần” của dân tộc này?”
https://thuviensach.vn
KHÚC CA 8:
TIẾNG NHẠC BI AI
HỒ QUÝ LY, BẢN BI HÙNG CA CỦA HOÀNG ĐẾ SINH NHẦM THỜI
Một câu nói tuy đơn giản nhưng chạy suốt lịch sử, không chỉ ở Việt Nam mà cả nhân loại. Một câu thành ngữ ngắn mà tàn nhẫn lột tả rõ bản chất của những cuộc biến thiên. Nó có thể vùi một anh hùng xuống bùn đen, cũng có thể tô sáng một nhân vật trong sử sách: “Thắng làm vua, thua làm giặc”. Hậu thế đọc lịch sử đôi khi cần biết rằng “vua” đương nhiên giỏi (không giỏi sao thắng?). Nhưng đừng đánh đồng “giặc” là kém, “giặc” chưa chắc đã kém tài năng, kém bản lĩnh, chỉ là số phận không chọn họ. Hồ Quý Ly chính là một nhân vật tiêu biểu trong rất nhiều nhân vật không được thời đại và lịch sử lựa chọn như vậy.
1. Hồ Quý Ly và bi kịch mất nước 1.1. Cuộc chiến Đạt Minh - Đại Ngu
Như chúng ta đã được đọc ở khúc ca số 7, nhà Trần và “hào khí Đông A” chính là triều đại sở hữu võ công oanh liệt nhất lịch sử Việt Nam với ba lần đánh bại giặc Nguyên Mông xâm lược. Triều đại tồn tại 175 năm với 12 đời vua này có một điều khá đặc biệt. Khi chiến thắng, họ rực rỡ nhất, còn khi thất bại, họ điêu tàn đến tận đáy. Trong thế kỷ XIII, vó ngựa Mông Cổ đánh khắp từ Âu sang Á, bất khả chiến bại và là nỗi kinh hoàng của tất cả các quốc gia, nhưng thua Đại Việt những ba lần. Kết quả, Toa Đô bị chém,
https://thuviensach.vn
Thoát Hoan chui ống đồng, Ô Mã Nhi bị bắt sống còn hạm đội quân Nguyên tan hoang trên sông Bạch Đằng. Nhưng cũng là triều đại đó, vào năm 1371, tức là gần một thế kỷ sau chiến công hiển hách trước Nguyên Mông, vua Chăm là Chế Bồng Nga, vị vua anh hùng nhất lịch sử Chăm Pa, sau những trận giao tranh thắng lợi, đã nhận thấy quân đội nhà Trần quá suy yếu, liền đưa quân vượt biển, đánh vào tận Thăng Long - Hà Nội. Cả vua lẫn quan nhà Trần thua tan tác, dắt díu nhau bỏ thành mà chạy. “Hào khí Đông A” ngày nào chỉ còn là gió thoảng, bụi mờ.
Thời điểm đó, điều hành đất nước là vua Trần Nghệ Tông. Ông là người có công lấy lại ngôi vương nhà Trần từ tay Dương Nhật Lễ, nhưng ông lại mê muội tin dùng một vị đại thần đầy dã tâm và nhiều tham vọng: Hồ Quý Ly. Dưới thời Trần Nghệ Tông, Hồ Quý Ly được trọng dụng tới mức mà theo Đại Việt sử ký toàn thư chép lại thì dù việc chuyển quyền và cắt đặt vây cánh đã rõ mà vẫn trao cho Hồ Quý Ly một thanh gươm và một lá cờ đề: “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”. Nếu lịch sử là bài học của tiền nhân thì Trần Nghệ Tông chính là bài học về cách nhìn người. Ông trọng dụng Nguyễn Nhiên, một người không học thức, chỉ vì có công can gián ông trong lúc chính biến mà thăng lên chức hành khiển (chức vụ Nguyễn Trãi về sau từng nắm) dù Nguyễn Nhiên không biết chữ. Ông tin tưởng Hồ Quý Ly đến mù quáng mà sẵn sàng giết cả vua Trần Phế Đế và nhiều người cùng họ chống đối Hồ Quý Ly, dù cho lúc đó ông vẫn còn thực quyền trong tay. Việc Hồ Quý Ly phế truất nhà Trần vào năm 1400 đương nhiên là vì tham vọng của Hồ Quý Ly muốn lên ngôi cửu đỉnh, nhưng chính Trần Nghệ Tông đã đặt vào tay Hồ Quý Ly thanh gươm “thay triều đổi đại” ấy .
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu (hàm ý tự xưng mình là dòng dõi vua Thuấn trong huyền sử Trung Quốc). Chưa được 1 năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm thái Thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc. Giang sơn từ nay thuộc về nhà Hồ. Nhưng lòng dân thì không ở họ Hồ. Một người tên là Trần Thiêm Bình, gia nô của tôn thất nhà Trần là Trần Tông có tên thật là Nguyễn
https://thuviensach.vn
Khang, đã bỏ trốn sang Ai Lao rồi đi theo đường Vân Nam chạy sang Trung Quốc. Trần Thiên Bình đến Yên Kinh, ra mắt với Minh Thành Tổ, tự nhận là con của Trần Nghệ Tông xin vua Minh qua đánh nhà Hồ báo thù. Tại sao lại là Trung Quốc? Lý do cho việc này bởi một mối quan hệ uyên nguyên sâu xa giữa Việt Nam và Trung Quốc thời phong kiến. Trung Quốc được ví như là thiên triều, còn Việt Nam là nước nhỏ bên cạnh, dù độc lập nhưng vẫn phải triều cống. Khi có một hoàng đế Việt Nam đăng cơ, thường phải qua thông báo với Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc đồng ý thì mới trở thành vua hợp pháp và sẽ có ấn tín của thiên triều. Trong trường hợp có sự nổi loạn ở trong lòng Việt Nam, Trung Quốc luôn nhân danh chính nghĩa thiên triều để phán xét. Bởi thường thì tôn thất của vương triều trước sẽ qua cầu cứu thiện triều. Trong trường hợp này, sức mạnh của triều đại mới sẽ quyết định là hợp pháp hay không hợp pháp trước thiên triều.
Đáng tiếc, quân sự là điểm yếu của Hồ Quý Ly. Ngay từ thời Trần Nghệ Tông, dẫu ở chức vị cao, Hồ Quý Ly vẫn là một vị tướng đánh đến đâu thua đến đấy, Chăm Pa nhỏ yếu là thế mà từng đuổi ông ngay tại đất Thăng Long, và nếu không nhờ may mắn cùng sự xuất sắc của Trần Khát Chân, người giữ tinh thần Đông A cuối cùng, thì có lẽ Hồ Quý Ly đã bị vua Chăm là Chế Bồng Nga hạ sát ngay tại đường trường. Bởi vậy ông càng không phải là đối thủ của 20 vạn quân Minh. Ông đã thua ngay từ cái tầm rồi. So với một Lê Hoàn mai phục, một Quang Trung thần tốc, một Lý Thường Kiệt táo bạo thì Hồ Quý Ly càng thể hiện sự yếu đuối của mình trên bề mặt quân sự. Đối thủ của Hồ Quý Ly không may lại chính là Trương Phụ và cùng với Mã Viện là hai trong những vị tướng giỏi nhất Trung Quốc từng tấn công Việt Nam.
Tháng 9 năm 1406, Trương Phụ cùng các cánh quân của Mộc Thạnh bắt đầu tấn công Đại Ngu. Lực lượng mạnh mẽ, lại thêm sự ủng hộ của một bộ phận người Việt đã giúp cho binh đoàn này đánh một mạch tới thành Đa Bang chỉ sau 4 tháng. Thành Đa Bang chính là cứ điểm phòng thủ cuối cùng và cũng quan trọng nhất của Đại Ngu. Trận chiến quyết định là ở nơi này, cả Mộc Thạnh và Trương Phụ đều quyết hạ thành. Mộc Thạnh dùng
https://thuviensach.vn
thang máy đánh lên mặt thành, nhà Hồ phản công dữ dội, quân bị giết xác chất cao như núi nhưng quân Minh vẫn không ngừng tấn công, bu lên thành như kiến. Đúng lúc ấy, tướng nhà Hồ là Nguyễn Tông Đỗ có một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, ông đục thành, lùa voi ra đánh. Điểm yếu của voi chính là sợ lửa, quân Minh cho bắn tên lửa, bắn súng nhắm vào voi, khiến voi sợ quá chạy ngược vào trong thành. Quân Minh bám theo voi, đuổi theo vào trong, nhà Hồ thua to, các tướng nhà Hồ là Lương Dân Hiến và Thái Bá Nhạc tử trận. Quân Minh đánh chiếm được thành Đa Bang cùng 12 voi chiến và vô số binh khí. Thua trận quyết định ở Đa Bang, quân nhà Hồ chạy dài về Tây Đô, bao nhiêu lần phản công là bấy nhiêu lần thất bại. Trong những thất bại, có một trận tại Hàm Tử, nơi mà hơn một thế kỷ trước, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã đánh bại quân phương Bắc, thế mà hôm nay, tình thế đã đổi ngược.
Ngày 23 tháng 4 năm 1407 (Âm lịch), quân Minh đã đánh đến Lỗi Giang. Quân nhà Hồ không đánh mà tan. Ngày 29, quân Minh tấn công vào cửa biển Điển Canh, thủy quân nhà Hồ tự tan vỡ. Hai cha con họ Hồ bơ vơ không biết lánh đến đâu, trong khi đó ở mặt trận phía Nam, quân Chiêm Thành cũng nhận “cháy nhà hội của” đánh ngược lên, lấy lại các vùng đất năm xưa cống nạp cho Đại Việt. Tướng Ngụy Thức rơi nước mắt xin hai cha con họ Hồ tự thiêu: “Nước đã sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác!”
Nhưng Hồ Quý Ly không có khí khái tuấn tiết ấy, ông tiếp tục chạy về Hà Tĩnh. Tại đó, lần lượt ông và hai con Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương bị bắt.
Vậy là mất nước.
1.2. Bài học của tiền nhân
Nhận định về thất bại của Hồ Quý Ly có lẽ cần nhìn ở rất nhiều mặt. Ngoài lý do về hạn chế quân sự mà ta đã được thấy ở trên kia, còn một lý do quan trọng nữa, đây là lòng dân không theo. Trước khi chiến tranh xảy
https://thuviensach.vn
ra, Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi.” 600 năm rồi, câu nói ấy vẫn chứa đựng bao nhiêu uẩn ức. Xưa nay, kẻ đế vương khi tranh đoạt thường chỉ lấy máu quân sĩ để tưới dưới chân thành chứ đâu để ý lòng dân trước một trận đánh. Nhưng Hồ Nguyên Trừng lại thốt lên câu đó, vì cha đẻ của súng thần công này đã nhìn thấy 20 vạn quân Minh được sự hậu thuẫn của một lượng lớn người Nam. Chẳng hạn, khi Trường Phụ tiến đến sông Phú Lương, quân nhà Hồ chặn giữ. Trương Phụ chưa biết tính ra sao thì có hai hàng tướng người Việt là Mạc Thúy và Đặng Nguyên vẽ bán đồ địa hình xin làm hướng đạo, Trương Phụ đánh thẳng vào, nhà Hồ bại trận.
Thất bại của Hồ Quý Ly là bài học mất nước mà dân tộc không được quên. Ở đây Trần Thiêm Bình là người đã cho giặc Minh cái cớ chính thống để “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tại vạ”, nhưng Trần Thiêm Bình chỉ là đại diện của một tầng lớp quý tộc nhà Trần sa cơ, trong cơn khủng hoảng hồng cứu lấy vị trí lãnh đạo của mình mà sẵn sàng đánh đổi cả chủ quyền dân tộc. Bi kịch hơn cả, chính là một bộ phận người Việt đã bị nhà Minh thu phục được nhân tâm theo cái cách biến Hồ Quý Ly thành nhân vật phản diện, đưa chính nghĩa về tay họ như một người anh cả đang lấy lại công bằng cho tiền triều. Với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, quân Minh thậm chí còn được sự hỗ trợ bởi một số lực lượng người Việt, như Đèo Cát Hãn, thể ty châu Ninh Viễn (nay là Lai Châu), xin dẫn 4000 bộ thuộc theo đánh giúp. Ngày đánh bại nhà Hồ, việc đầu tiên người Trung Quốc làm là đăng cáo thị gọi tất cả tôn thất nhà Trần đến. Những kẻ vì danh vọng, vì quyền lợi bản thân mà quên đi dân tộc đã xuất hiện với hy vọng nhận chức tước và ngôi báu. Nhưng điều họ nhận được thật quá đau đớn, khi tất cả phải ký vào một văn bản của nhà Minh với nội dung: “Vì đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ.” Những chí sĩ của nhà Trần đến tận ngày cuối khi phát hiện ra bộ mặt thật của nhà Minh, vì quá phẫn uất và hối hận, đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Có lẽ họ đã cứu vãn được một chút danh dự cuối cùng.
https://thuviensach.vn
2. Cải cách mang tên Hồ Quý Ly
Lòng dân và thể cuộc quân sự đều không theo Hồ Quý Ly, nhưng nhìn lại di sản ngắn ngủi của ông trong 7 năm có thể chúng ta sẽ có những kiến giải khác. . .
2.1. Thiên tài kỹ thuật Hồ Nguyễn Trừng
Hãy bắt đầu bằng cái tên Hồ Nguyên Trừng, người con cả của Hồ Quý Ly. Không đơn thuần là tướng quân, ông còn là một nhà khoa học, nhà kỹ thuật quân sự, một kỹ sư - kiến trúc sư xây dựng lỗi lạc, chưa kể còn là một nhà văn tài năng. Về văn học, Hồ Nguyên Trừng là ông tổ của thể loại hồi ký trong văn xuôi tự sự Việt Nam. Về quân sự, ông là người đã sáng chế và chỉ đạo chế tác súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng). Cần phải nhắc lại rằng, với súng thần cơ và thuyền cổ lâu, sức mạnh quân sự của Đại Việt nhờ cải tiến khoa học của Hồ Nguyên Trừng mà hoàn toàn vượt trội so với quân Đại Minh ở cả trên bộ lẫn trên sông. Song khi một vương triều không có được lòng dân thì cơ đồ đó sẽ là một cơ đồ nghiêng ngả, bất kể có trong tay những vũ khí tiên tiến nhất. Hồ Nguyên Trừng còn là tổng công trình sư của thành nhà Hồ và đặc biệt cũng là tổng công trình sư của hệ thống để điều khu vực miền Bắc trong giai đoạn nhà Hồ cải cách.
Trí tuệ Hồ Nguyên Trừng được thể hiện qua công trình thành nhà Hồ đến hôm nay còn di tích. Trong tài liệu sử học tỉnh Thanh Hóa, phần di tích thành nhà Hồ, đã chép như sau:
“Toàn bộ mặt ngoài tường thành và bốn cổng chính được xây bằng những phiến đá vôi xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới hơn 6 mét, ước nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20000 mét khối và gần 100000 mét khối đất được đào đắp công phu. Các phiến đá được đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen
https://thuviensach.vn
theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Điều đặc biệt là công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà quá trình xây dựng chỉ vỏn vẹn ba tháng (từ tháng Một năm 1397 đến tháng Ba năm 1397).
Thời ấy chưa có công nghệ vận chuyển hay ghép đá gắn xi măng, vậy làm sao để những bức tường thành được xếp vuông vắn, thẳng đứng và tồn tại đến ngày nay? Điều gì đã giúp người thợ xưa với công cụ thô sơ lại có thể vận chuyển và xây nên tường thành bằng những phiến đá khổng lồ như vậy?”
Sau này các nhà khảo cổ học đã tìm được những viên đá bi tròn, chứng minh Hồ Nguyên Trừng đã sử dụng kỹ thuật tời (ròng rọc) trong xây dựng hiện đại để vận chuyển đá.
Hồ Nguyên Trừng chính là thiên tài khoa học kỹ thuật trăm năm hiếm có của đất nước Việt Nam. Không những vậy ông còn là một thiên tài toàn bích với đủ các mặt từ văn học đến quân sự, xây dựng. Điều đặc sắc của Hồ Nguyên Trừng đó là ông là một người coi trọng thực hành và các môn toán, lý theo hướng tự nhiên, một nhà khoa học chứ không phải thi tài văn phú như các nho sĩ đương thời. Chỉ có điều, người đàn ông đó đã sinh nhầm thời đại!
2.2. Tầm nhìn Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly là một nhà cải cách vượt tầm phong kiến. Vào giai đoạn mà những nhà nho xem việc ra câu đối, đáp qua đáp lại là văn hóa đường thời, các cuộc thi Hương, thi Hội, thi Đình như làm bài phú vịnh hoa sen, hoa huệ sẽ được dùng để chọn người tài ra làm quan thì Hồ Quý Ly đã đưa toán học vào đề thi. Ông phê phán Nho giáo chuộng hình thức, ông đẩy mạnh việc thực hành nhiều hơn. Đây là một điều kỳ lạ của thế kỷ XV.
https://thuviensach.vn
Có những nỗi oan của Hồ Quý Ly mà hậu nhân có lẽ cần phải luận giải cho rõ ràng. Theo sử sách, Hồ Quý Ly gốc Chiết Giang (Trung Quốc). Tên nước Đại Ngu cũng là có ý hướng về Trung Quốc (Nghiêu - Thuấn). Nhưng nếu vậy thì sao ông cương quyết không chịu hàng mà đánh đến cùng như thế, và người Nam phản bội ông chứ nào phải ông không giữ đất đâu? Nếu bảo là Hồ Quý Ly hướng về Trung Quốc thì khi cải cách sao Hồ Quý Ly không ca ngợi Nho giáo mà ngược lại còn hết mực phê phán, không dùng tiếng Hán mà lại muốn Việt Nam tự lực tự cường, bằng cách đưa chữ Nôm vào dạy phổ thông (việc làm mà sau này chính Quang Trung, Nguyễn Trãi cũng rất tích cực ủng hộ)? Thời đại ngắn ngủi của Hồ Quý Ly, lớp học miễn phí được dựng nên tại các lỵ sở, phủ. Còn trước đó, chỉ Thăng Long mới có trường học công lập. Xã hội của Hồ Quý Ly là xã hội chỉ dành cho người tài và người công tâm, những kẻ bất tài vô dụng đều bị loại bỏ. Trong khúc ca số 6 về Lý Thường Kiệt có nhắc đến hoạn quan Nguyễn An, tổng công trình sư xây dựng Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Nguyễn An chính là người sinh ra trong giai đoạn Hồ Quý Ly cải tổ này, cùng với Hồ Nguyên Trừng là hai nhân tài kỹ thuật đã mất của dân tộc ta.
Cải cách của Hồ Quý Ly còn nằm ở y tế. Ông lập ra một bộ phận gọi là y tỳ để coi sóc việc thuốc thang, đấy chính bệnh viện thời nay. Hồ Quý Ly còn mạnh tay cải tiến bộ luật hình sự và cải tổ thuế. Người không có đất, đàn bà góa và kẻ mồ côi được miễn thuế. Ông hạn chế số nô tỳ trong các điền trang (chính là điều đã gây đụng chạm đến tầng lớp quý tộc nhà Trần). Đặc biệt, về kinh tế Hồ Quý Ly có một quyết sách rất táo bạo. Ở khúc ca số 3, chúng ta biết được rằng, đồng tiền “Thái Bình hàng bảo” dưới thời Đinh Bộ Lĩnh được coi là đồng tiền xưa nhất Việt Nam. Nhưng chỉ sau năm thế kỷ, Hồ Quý Ly đã tạo ra tiền giấy. Quan điểm của Hồ Quý Ly, đồng là dùng cho quân sự, kỹ thuật, không phải để giao dịch hàng hóa. Đây chẳng phải là tư duy của thế kỷ XIX, thế kỷ XX?
Hồ Quý Ly cũng sinh nhầm thời đại.
https://thuviensach.vn
Lịch sử của các nước Á Đông luôn nhắc về Duy Tân Minh Trị của Nhật Bản với sự ngưỡng mộ. Nhưng thực tế thì lịch sử Việt Nam đã từng có một Minh Trị từ thế kỷ XV rồi. Có điều do hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh thời đại, mà trên tất cả là cái bóng khổng lồ của nền văn minh Trung Hoa đang cường thịnh đã phủ lên dân tộc Việt Nam giai đoạn ấy. Để rồi sự cải tổ như mặt trời của Hồ Quý Ly hóa ra chỉ là vệt đom đóm giữa đêm đen hoang mạc. Hãy hiểu cho rằng, trong cái thời đại mà nho sĩ còn đông đảo như thế, trong cái thời đại mà người dân còn bỡ ngỡ với những điều mới mẻ, trách sao được khi người dân không hiểu cho nhà Hồ! Nhà Hồ không có lòng dân không phải vì nhà Hồ không nghĩ cho dân, mà vì dân không hiểu những cải tổ của họ. Thời đại ấy, giai đoạn ấy, cả Đông Nam Á, cả châu Á, cả Nhật Bản đều không theo kịp tầm nhìn của ông chứ nói gì một Việt Nam bé nhỏ. Hồ Quý Ly thua không phải vì ông kém, mà vì tầm chính trị của ông quá vượt trội, nó không rơi vào đúng thời đại. Để cuối cùng ông phải dùng cái “sở đoản” (quân sự) đi đường cự quân Minh, không một tướng tài nào cũng bày mưu tính kế, bởi họ coi ông là kẻ bạo chúa vô đạo, đáng phải quy hàng.
Bi kịch vậy đấy! Thống hận vậy đấy!
https://thuviensach.vn