🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Thống Trị Của Nam Giới Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn TỰA VĨNH VIỄN HÓA ĐIỀU VÕ ĐOÁN1 C uốn sách này, trong đó tôi đã có thể dựa vào rất nhiều công trình dành cho quan hệ giữa các giới để xác định, củng cố và đính chính những phân tích trước đây của tôi về cùng một chủ đề, đặt ra rõ ràng để bàn cãi vấn đề được đa số các nhà phân tích (và những người phê phán tôi) nhắc nhở một cách ám ảnh, vấn đề tính vĩnh cửu hay sự thay đổi (được ghi nhận hoặc được mong ước) của trật tự giới. Quả thực, chính sự du nhập và sự áp đặt thế đôi ngả (alternative) vừa ngờ nghệch vừa mang tính quy phạm một cách ngờ nghệch này dẫn đến chỗ cảm nhận, ngược với điều hiển nhiên rành rành, rằng sự kiểm chứng tính hằng cửu tương đối của các cấu trúc giới và của những dạng thức qua đó các cấu trúc này được nhận biết, như là một cách phủ định và kết án những thay đổi trong tình thế của phụ nữ, cái cách đáng bị kết án và lập tức bị kết án, cái cách sai lầm và lập tức bị bác bỏ do việc nhắc nhở lại mọi biến đổi của tình thế trên. Với vấn đề này, cần phải đem một vấn đề khác ra để đối lập, một vấn đề thích đáng hơn về phương diện khoa học, và theo tôi, chắc hẳn cũng cấp thiết hơn về phương diện chính trị: nếu quả thật quan hệ giữa các giới ít biến đổi hơn là một quan sát phiến diện có thể khiến ta tưởng như vậy, và nếu quả thật việc hiểu biết các cấu trúc khách quan cùng các cấu trúc nhận thức của một xã hội coi nam giới là trung tâm và được bảo toàn đặc biệt nguyên vẹn (ví dụ https://thuviensach.vn xã hội của người Kabylie, như tôi từng quan sát được vào đầu những năm sáu mươi) cung cấp những phương tiện cho phép thấu hiểu một số phương diện được che giấu kĩ hơn cả về những gì là các quan hệ đó trong những xã hội đương đại tiên tiến nhất về kinh tế, thì lúc ấy cần phải tự hỏi xem những cơ chế lịch sử nào chịu trách nhiệm về việc phi lịch sử hóa và vĩnh viễn hóa một cách tương đối những cấu trúc phân chia giới và những nguyên tắc nhìn tương ứng. Đặt vấn đề như vậy, là đánh dấu một bước tiến bộ trong phạm trù nhận thức có thể thuộc căn nguyên của một bước tiến bộ quyết định trong phạm trù hành động. Nhắc lại rằng những gì, trong lịch sử, xuất hiện như vĩnh viễn chỉ là sản phẩm của một công việc vĩnh viễn hóa thuộc phận sự của những thể chế (kết nối với nhau) như gia đình, Giáo hội, Nhà nước, trường học, và ở một phạm trù khác, cả thể thao và báo chí (những khái niệm trừu tượng này là những định danh đơn giản mang tính tốc kí của những cơ chế phức tạp, ở mỗi trường hợp cần được phân tích trong tính đặc thù lịch sử của chúng), đó là đặt trở lại vào lịch sử, vậy là trả lại cho hành động lịch sử, mối quan hệ giữa các giới bị cách nhìn theo tự nhiên luận và bản thể luận giật ra khỏi lịch sử - chứ không phải, như người ta từng muốn gán cho tôi nói như thế, là định ngăn chặn lịch sử và tước đi của phụ nữ vai trò tác nhân lịch sử. Chống lại các lực lượng lịch sử thực hiện việc phi lịch sử hóa này chính là điều mà một cuộc động viên nhằm tái khởi động lịch sử bằng cách vô hiệu hóa các cơ chế vô hiệu hóa lịch sử cần phải ưu tiên hướng tới. Cuộc động viên đúng là chính trị này sẽ mở ra cho phụ nữ khả năng có một hoạt động kháng cự tập thể, hướng về những cải cách thuộc pháp luật và chính trị, cuộc động viên ấy phản đối cả sự cam chịu được khuyến khích bởi mọi cách nhìn bản thể luận (sinh học và phân tâm học) về sự khác biệt giữa các giới và cũng phản đối cả sự kháng cự thu hẹp vào những hành vi cá nhân hoặc những “sự kiện” diễn từ luôn luôn bắt đầu lại và được cổ vũ bởi một số nhà lí luận nữ quyền: những sự đoạn tuyệt anh dũng như vậy với đường mòn lối cũ thường ngày, như những “thực hành mô phỏng (parodic performances)” mà Judith Butler2 yêu mến, có lẽ đòi hỏi quá nhiều cho một kết quả quá ít và quá bấp https://thuviensach.vn bênh. Kêu gọi phụ nữ tham gia một hoạt động chính trị đoạn tuyệt với ý đồ phản kháng hướng nội (révolte introvertie3) của những nhóm nhỏ đoàn kết và ủng hộ lẫn nhau, dù những nhóm này hết sức cần thiết trong những thăng trầm của các cuộc đấu tranh hằng ngày, ở nhà, ở nhà máy hoặc ở văn phòng, đó không phải, như mọi người có thể tưởng, và lo sợ, là xúi giục phụ nữ tán thành một cách không đấu tranh các hình thức và các chuẩn mực thông thường của cuộc đấu tranh chính trị, với nguy cơ bị sáp nhập hoặc bị chìm ngợp trong những phong trào xa lạ với các mối bận tâm và các lợi ích của chính họ. Đó là mong cho họ biết dụng công để - ngay giữa lòng phong trào xã hội, và bằng cách dựa vào những tổ chức sinh ra từ cuộc phản kháng chống lại sự phân biệt tượng trưng mà họ, cùng những người tình dục đồng giới (nam và nữ) là một trong những mục tiêu ưa thích - phát minh và áp đặt được những hình thức tổ chức và hoạt động tập thể cùng những vũ khí hiệu nghiệm, nhất là những vũ khí tượng trưng, có khả năng làm rung chuyển những thể chế góp phần vĩnh viễn hóa tình trạng phụ thuộc của họ. 1Bài tựa này được viết năm 1998 cho các bản tiếng Anh và tiếng Đức (Các chú thích không ghi thêm “N.D” đều là của tác giả). https://thuviensach.vn 2Judith Butler (sinh năm 1956 tại Cleveland): triết gia nữ quyền người Mĩ (N.D.) https://thuviensach.vn 3Introverti - tính từ - và introversion - danh từ - (hướng nội hay hướng ngã), trong tâm lí học, chí khuynh hướng coi trọng chủ thể hơn thế giới bên ngoài. (N.D.) https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU1 C ó lẽ tôi sẽ không đương đầu với một đề tài khó như thế này nếu như tôi không bị toàn bộ logic của sự nghiên cứu của mình lôi cuốn. Quả thực, tôi chưa bao giờ thôi ngạc nhiên trước điều mà ta có thể gọi là nghịch lí của dư luận (paradoxe de la doxa): việc trật tự thế giới như nó hiện hữu, với những hướng duy nhất và những hướng bị cấm, theo nghĩa đen và nghĩa bóng, với những nghĩa vụ và những chế tài của nó, về đại thể được tôn trọng, việc không có nhiều hơn nữa những sự không tuân thủ hoặc những sự phá hoại, những sự vi phạm và những điều “điên rồ” (chỉ cần nghĩ đến sự đồng tình phi thường của hàng ngàn ý hướng - hoặc ý chí - mà năm phút lưu thông xe hơi trên quảng trường Bastille hoặc quảng trường Concorde tất yếu phải có); hoặc, đáng kinh ngạc hơn nữa, là trật tự được thiết lập với những quan hệ thống trị của nó, những luật pháp và những điều phi pháp của nó, những đặc quyền và những sự bất công của nó, rốt cuộc cứ vĩnh tồn một cách dễ dàng đến thế, ngoại trừ vài biến cố lịch sử, và những điều kiện sống khó chịu đựng nhất lại có thể xuất hiện như chấp nhận được, thậm chí như là tự nhiên, một cách thường xuyên đến thế. Và tôi cũng luôn luôn nhìn thấy trong sự thống trị của nam giới, cùng cách thức mà sự thống trị này được áp đặt và được chịu đựng, ví dụ rõ nhất về sự phục tùng đầy nghịch lí, kết quả của điều mà tôi gọi là bạo lực tượng trưng, bạo lực êm ái, khó cảm nhận, không nhìn thấy được ngay đối với các nạn nhân của nó, thứ bạo lực thi hành chủ yếu bằng những con đường thuần túy tượng trưng của sự giao tiếp và sự hiểu biết hoặc chính xác hơn là sự không hiểu biết, của sự thừa nhận hoặc, ở giả thuyết tột https://thuviensach.vn cùng, của tình cảm. Như vậy, mối quan hệ xã hội bình thường một cách khác thường này cung cấp một cơ hội đặc biệt để nắm bắt logic của sự thống trị thi hành nhân danh một nguyên lí tượng trưng được biết và được thừa nhận bởi kẻ thống trị cũng như bởi kẻ bị trị, một ngôn ngữ (hoặc một cách phát âm), một phong cách sống (hoặc một cách thức suy nghĩ, nói năng hay hành động) và thông thường hơn cả, một tính chất đặc dị, là biểu hiệu hay là dấu vết sỉ nhục, mà đặc tính có hiệu quả nhất một cách tượng trưng là cái đặc tính cơ thể hoàn toàn võ đoán và không có tính dự báo, đó là màu da. Ta thấy rõ rằng trong các vấn đề này trước hết phải hoàn lại cho dư luận tính chất nghịch lí của nó đồng thời phải tháo rời các tiến trình chịu trách nhiệm về việc biến lịch sử thành tự nhiên, biến cái võ đoán mang tính văn hóa thành mang tính tự nhiên. Và, để làm điều này, cần phải có được, đối với thế giới của chính ta và đối với chính cách nhìn thế giới của ta, quan điểm của nhà nhân loại học có khả năng trả lại tính chất võ đoán, ngẫu nhiên cho căn nguyên khác biệt giữa nam và nữ như ta thường (không) hiểu biết, đồng thời, trả lại cả tính tất yếu logic-xã hội của nó. Không phải tình cờ mà Virginia Woolf, khi muốn đình chỉ điều được bà gọi một cách tuyệt hay là “quyền lực thôi miên của sự thống trị”, đã tự trang bị một phép loại suy dân tộc học, liên kết về phương diện di truyền sự phân biệt kì thị phụ nữ với những nghi lễ của một xã hội cổ xưa: “Một cách tất nhiên không tránh khỏi, chúng ta coi xã hội như một nơi chốn âm mưu nó nuốt chửng người anh mà nhiều người trong chúng ta có lí do để tôn trọng trong đời sống riêng tư, rồi áp đặt vào vị trí của anh một gã đàn ông quái đản, có giọng nói oang oang, có nắm đấm tàn nhẫn, cái gã ghi lên mặt đất, một cách trẻ con, những dấu hiệu bằng phấn, những đường phân giới thần bí bên trong đó những con người bị cố định, cứng đờ, chia cách, giả tạo. Những nơi chốn ở đó anh ta, được trang sức nào màu hoàng kim nào sắc đỏ tía, được điểm tô bằng lông vũ như một người hoang dã, tiếp tục những nghi lễ thần bí và thụ hưởng những lạc thú khả nghi của quyền lực và sự thống trị, trong khi chúng ta, những người phụ nữ “của anh ta”, chúng ta bị giam cầm trong ngôi nhà gia đình chẳng được https://thuviensach.vn phép tham dự bất kì một hội đoàn nào của đông đảo các hội đoàn tạo thành xã hội của anh ta2. “Đường phân giới thần bí”, “nghi lễ thần bí”: ngôn ngữ này - ngôn ngữ của phép biến hình thần thông và của sự chuyển hóa tượng trưng được tạo ra bởi việc chuẩn nhận mang tính nghi thức, căn nguyên của một sự sinh thành mới mẻ - khuyến khích hướng việc nghiên cứu về một cách tiếp cận có khả năng nắm bắt kích thước đúng là tượng trưng của sự thống trị của nam giới. Vậy sẽ phải yêu cầu ở một sự phân tích duy vật cụ thể về việc tổ chức và điều hành tài sản tượng trưng, những phương kế để thoát khỏi thế đôi ngả tai hại giữa cái “vật chất” và cái “tinh thần” hay “cái tư tưởng” (ngày nay được làm cho vĩnh tồn qua sự đối lập giữa những nghiên cứu gọi là “duy vật” giải thích tình trạng bất đối xứng giữa các giới bằng điều kiện sản xuất, và những nghiên cứu gọi là “tượng trưng”, nhiều khi xuất sắc, nhưng chỉ từng phần). Nhưng, trước đó, duy chỉ việc sử dụng một cách thật đặc biệt môn dân tộc học mới có thể cho phép thực hiện dự định, mà Virginia Woolf gợi ý, là khách quan hóa một cách khoa học thao tác thực sự thần bí sản sinh ra sự phân li giữa các giới như ta biết, hoặc, nói theo cách khác, là coi sự phân tích khách quan một xã hội được tổ chức thấu suốt bên này qua bên kia theo nguyên tắc lấy nam giới làm trung tâm (truyền thống Kabylie) như một khảo cổ học khách quan về vô thức của chúng ta, tức là như công cụ của một sự phân tích xã hội đích thực.3 Cách đi đường vòng qua một truyền thống ngoại lai là cần thiết để phá vỡ mối quan hệ thân tình lừa gạt liên kết chúng ta với truyền thống của chính chúng ta. Các bề ngoài sinh học và các kết quả rất thực tế do một công việc tập thể lâu dài nhằm xã hội hóa cái mang tính sinh học và sinh học hóa cái mang tính xã hội, sản sinh ra trong các thân thể và các trí não, hợp lực với nhau để đảo ngược mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả và làm xuất hiện một sự kiến tạo xã hội được tự nhiên hóa (các “giới” với tư cách là những habitus4 mang giới tính) như là nền tảng tự nhiên của sự phân chia võ đoán nằm ở căn nguyên cả của thực tại cả của sự hình dung thực tại và đôi https://thuviensach.vn khi tự áp đặt cho bản thân việc nghiên cứu5. Nhưng việc sử dụng gần như mang tính phân tích môn dân tộc học, môn khoa học dùng cách lịch sử hóa để phi tự nhiên hóa điều xuất hiện như tự nhiên nhất trong trật tự xã hội, sự phân chia giữa các giới, liệu có nguy cơ chứng giải những sự hằng cửu và những sự bất biến - những điều ở chính căn nguyên tính hiệu quả phân tích xã hội của phương pháp này - và, do đó, vĩnh viễn hóa, bằng cách phê chuẩn nó, một sự hình dung bảo thủ về mối quan hệ giữa các giới, chính mối quan hệ được huyền thoại về “nữ tính vĩnh hằng” cô đúc lại? Chính ở chỗ này cần đương đầu với một nghịch lí mới, ép buộc phải thay đổi hoàn toàn cách thức đề cập điều mà người ta từng muốn xem xét dưới các kiểu “lịch sử phụ nữ”: những điều bất biến, vượt ra ngoài mọi thay đổi rõ rệt của thân phận phụ nữ, được tuân thủ trong quan hệ thống trị giữa các giới, chẳng buộc ta phải coi là đối tượng ưu tiên những cơ chế và những thể chế lịch sử từng không ngừng, trong tiến trình lịch sử, giằng những điều bất biến này ra khỏi lịch sử đó sao? Cuộc cách mạng trong nhận thức này có lẽ chẳng phải là không quan trọng trong thực tiễn, nhất là trong sự hình thành các chiến lược nhằm biến đổi tình trạng hiện thời của tương quan lực lượng thực tế và tượng trưng giữa các giới. Nếu quả thật căn nguyên của sự vĩnh cửu hóa mối quan hệ thống trị này không thật sự, hoặc dù sao cũng không chủ yếu, nằm ở một trong những nơi chốn thực thi rõ rệt nhất của nó, nghĩa là ở giữa lòng đơn vị gia đình, từng được một diễn ngôn vì nữ quyền nào đó tập trung mọi sự chú ý, mà lại ở trong các cấp như Nhà trường hoặc Nhà nước, những nơi khởi thảo và áp đặt các nguyên lí thống trị được thi hành ngay trong lòng thế giới riêng tư nhất, thì một lĩnh vực hoạt động rộng lớn mênh mông đang mở ra cho các cuộc đấu tranh vì nữ quyền, như vậy là có sứ mệnh giữ một vị trí độc đáo và được khẳng định chắc chắn, giữa lòng các cuộc đấu tranh chính trị chống lại mọi hình thức thống trị. 1 Vì không biết rõ liệu những lời cảm ơn đích danh sẽ có lợi hay có hại cho những người mà tôi những muốn ngỏ lời, nên tôi đành nói lên ở đây niềm tri ân sâu sắc của tôi đối với những người đàn ông và nhất là những phụ nữ đã cung cấp cho tôi các chứng cứ, các tư liệu, các điều tham khảo khoa học, các ý https://thuviensach.vn tưởng, cùng với niềm hi vọng rằng công trình này sẽ xứng đáng, nhất là ở tác dụng của nó, với lòng tin cậy và những mong đợi mà họ đã đặt vào công trình. https://thuviensach.vn 2 V. Woolf, Ba đồng ghi nê, bản dịch tiếng Pháp của V. Forrester, NXB Phụ nữ, Paris, 1977, tr.200. https://thuviensach.vn 3 Có lẽ chỉ nhằm chứng minh rằng lời tôi nói hiện nay không phải là kết quả của một sự cải hóa mới đây, tôi xin nhắc lại những trang trong một cuốn sách đã cũ ở đó tôi nhấn mạnh đến việc dân tộc học, khi ứng dụng vào sự phân chia các giới trong thế gian, có thể “trở thành một hình thức phân tích xã hội đặc biệt hiệu quả” (P. Bourdieu, Le Sens pratique (Cảm quan thực tiễn), Paris, NXB Minuit, 1980, tr.246-247). https://thuviensach.vn 4 Habitus: trong tiếng Latin, có nghĩa là một cách thức hiện hữu, một tư thái, một khuynh hướng tinh thần. Thuật ngữ này được nhiều nhà triết học, xã hội học sử dụng, với những sắc thái ít nhiều khác biệt. Norbert Elias nhắc đến “dấu ấn” mà xã hội để lại trên nhân cách của cá nhân do những hệ thống phụ thuộc tương hỗ trong đó cá nhân hoạt động. Theo Pierre Bourdieu, habitus là một tổng thể những khuynh hướng bền vững và có thể chuyển dịch, sản phẩm của việc giáo hóa và đồng hóa các trải nghiệm, cho phép các cá nhân vận động và diễn giải xã hội. Đó là một cấu trúc được cấu trúc và có thể nhanh chóng vận hành với tư cách cấu trúc tạo nên cấu trúc. Có những chỗ, trong tác phẩm này, bên cạnh từ habitus, P. Bourdieu đặt trong ngoặc kép từ dispositions (các ý hướng) (N.D.). https://thuviensach.vn 5 Bởi vậy chẳng phải là hiếm thấy các nhà tâm lí học sử dụng lại cho mình cách nhìn thông thường về các giới như là những tập hợp triệt để phân li, không có sự tương giao, và họ không biết đến mức độ trùm phủ (recouvrement) giữa sự phân phối các thành tích của nam và nữ cùng các khác biệt (về độ lớn) giữa những khác biệt được kiểm chứng trong nhiều lĩnh vực khác nhau (từ cốt cách giới tính cho đến trí năng). Hoặc, nghiêm trọng hơn, nhiều khi họ để bị dẫn dắt, trong sự xây dựng và miêu tả đối tượng, bởi những nguyên tắc nhìn và phân chia được khắc ghi trong ngôn ngữ thông thường, hoặc do họ cố gắng ước lượng những khác biệt được gợi lên trong ngôn ngữ - như hiện tượng đàn ông thì “gây gổ” hơn còn đàn bà “sợ sệt” hơn - hoặc do họ sử dụng những từ ngữ thông thường, vậy là mang nặng những phán xét về giá trị, để miêu tả những khác biệt này. Xin hãy xem một số tác phẩm, tác giả như J.A. Sherman, Sex-Related Cognitive Differences: An Essay on Theory and Evidence (Những khác biệt trong nhận thức liên quan đến giới: Luận về lí thuyết và sự hiển nhiên), Springfield (Illinois), Thomas, 1978; M.B. Parlee, “Psychology: review essay”, Signs: Journal of Women in Culture and Society (Kí hiệu: Tạp chí về Phụ nữ trong văn hóa và trong xã hội), 1,1975, p. 119-138 - đặc biệt là về bản tổng kết những khác biệt về tinh thần và về ứng xử giữa các giới do J.E. Garai và A. Sheinfeld lập năm 1968; M.B. Parlee, “The Premenstrual Syndrome” “Hội chứng tiền-kinh nguyệt”, Psychological Bulletin (Thông báo Tâm lí học), 80, 1973, p.454-465. https://thuviensach.vn CHƯƠNG I MỘT HÌNH ẢNH PHÓNG ĐẠI L à nam hay nữ, do bao hàm trong đối tượng mà chúng ta đang cố nắm bắt, nên chúng ta đã hội nhập vào cơ thể (incorporer) các cấu trúc lịch sử của trật tự nam giới, dưới hình thái những dạng thức tri giác và đánh giá vô ý thức; vậy là để tư duy sự thống trị của nam giới, chúng ta có nguy cơ viện đến những phương thức tư duy bản thân chúng là sản phẩm của sự thống trị. Chúng ta chỉ có thể hi vọng ra khỏi vòng tròn này với điều kiện tìm ra được một chiến lược thực tiễn để tiến hành một sự khách quan hóa chủ thể của sự khách quan hóa khoa học. Chiến lược này, mà chúng tôi sẽ sử dụng ở đây, là biến một hoạt động suy tư tiên nghiệm nhằm thăm dò các “phạm trù của trí năng”, hay, để nói như Durkheim, “các hình thức phân loại” được ta dùng để kiến tạo thế giới (nhưng do sinh ra từ thế giới này, nên chủ yếu chúng hòa hợp với nó, đến mức không ai nhận thấy chúng), thành một loại thực nghiệm ở phòng thí nghiệm: thực nghiệm này sẽ là coi sự phân tích dân tộc học các cấu trúc khách quan và các hình thái nhận thức của một xã hội đặc thù mang tính lịch sử, vừa ngoại lai vừa thân thiết, vừa xa lạ vừa quen thuộc, xã hội của người Berbère ở Kabylie, như là phương tiện cho một công việc phân tích xã hội cái vô thức coi nam giới là trung tâm, một công việc có khả năng khách quan hóa các phạm trù của cái vô thức này.1 Những nông dân miền núi ở Kabylie, vượt ra ngoài những cuộc chinh https://thuviensach.vn phục cùng những sự cải hóa và có lẽ là phản ứng lại những điều trên, đã gìn giữ được những cấu trúc, đặc biệt được bảo vệ bởi tính nhất quán thực tiễn, tương đối ít biến chất, của các cách cư xử và các diễn ngôn phần nào bị bứt ra khỏi thời gian do tính khuôn sáo lễ nghi, những cấu trúc thể hiện một hình thái mang tính hệ hình (paradigmatique) của cách nhìn “tự si mê dương vật” (phallonarcissique) và của vũ trụ luận coi nam giới là trung tâm, cách nhìn và vũ trụ luận chung cho mọi xã hội miền Địa Trung Hải và ngày nay vẫn còn tồn tại, nhưng ở tình trạng cục bộ và như vỡ tung, trong các cấu trúc nhận thức và cấu trúc xã hội của chúng ta. Việc lựa chọn trường hợp đặc thù của xứ Kabylie được biện minh nếu như mọi người biết được rằng, một mặt, truyền thống văn hóa được duy trì tại đây là một sự thực hiện có tính hệ hình truyền thống Địa Trung Hải (ta có thể tự thuyết phục về điều này bằng cách tham khảo các công trình nghiên cứu dân tộc học dành cho vấn đề danh dự và sỉ nhục tại nhiều xã hội khác nhau thuộc miền Địa Trung Hải như Hi Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kì, Kabylie, v.v.2); và mặt khác, toàn bộ mặt bằng văn hóa Âu châu có quan hệ hiển nhiên với truyền thống này, việc so sánh đối chiếu các nghi thức quan sát được ở Kabylie với những nghi thức do Arnold Van Gennep3thu thập tại nước Pháp đầu thế kỉ XX chứng nhận điều đó4. Chắc hẳn mọi người có thể dựa vào cả truyền thống của Hi Lạp cổ xưa là nơi mà phân tâm học đã khai thác phần cốt yếu trong các dạng thức diễn giải của nó, nhờ vô số công trình nghiên cứu dân tộc học lịch sử dành cho truyền thống này. Nhưng không gì có thể thay thế được việc nghiên cứu trực tiếp một hệ thống vẫn còn đang trong trạng thái vận hành và vẫn còn tránh được một cách tương đối những sự tái diễn giải nửa-bác học (do không có truyền thống được viết thành văn): quả thực, như tôi từng chỉ ra ở chỗ khác5, việc phân tích một văn tập (corpus) như văn tập của Hi Lạp, mà sự hình thành trải ra nhiều thế kỉ, có nguy cơ đồng đại hóa một cách giả tạo những trạng thái kế tiếp, và khác biệt, của hệ thống, và nhất là có nguy cơ trao cùng một phận vị nhận thức như nhau cho những văn bản đã bắt vốn nghi lễ-huyền thoại cổ xưa phải chịu những sự tu chỉnh ít hay nhiều sâu xa. Như vậy, người diễn giải tự https://thuviensach.vn nhận mình hành động với tư cách nhà dân tộc học có nguy cơ coi những tác giả cũng đã hành động với tư cách (gần như) nhà dân tộc học rồi, là những người truyền đạt “mộc mạc chân chất”, ở những tác giả này, các huyền thoại được nhắc nhở, ngay cả những điều cổ xưa nhất theo bề ngoài, như của Homère hay Hésiode, đều đã là những huyền thoại bác hóc bao hàm những chỗ bỏ sót, những sự biến dạng và những cách tái diễn giải (và nói gì đây, khi, giống như Michel Foucault trong tập hai của Lịch sử giới tính, người ta quyết định khởi đầu từ Platon việc điều tra về giới tính và chủ thể, không đếm xỉa đến những tác giả như Homère, Hésiode, Eschyle, Sophocle, Hérodote hay Aristophane, không kể đến các triết gia thời tiền-Socrate, ở các triết gia này, nền tảng Địa Trung Hải cổ xưa trồi lên rõ rệt hơn?). Ta lại gặp cũng tính chất hàm hồ này ở mọi công trình (nhất là về y học) có tham vọng uyên bác, trong đó ta không thể phân biệt những gì vay mượn từ các điển cứ (như Aristote, ở những điểm chủ yếu, tự mình cải biến huyền thoại Địa Trung Hải cổ xưa thành huyền thoại bác học) với những gì được tái sáng tác xuất phát từ các cấu trúc của vô thức và được thừa nhận hoặc được phê chuẩn bởi sự bảo chứng của tri thức vay mượn. Sự kiến tạo của xã hội đối với các thân thể Trong một thế giới tại đó, giống như trong xã hội Kabylie, trật tự giới tính không được cấu thành với tư cách trật tự giới tính, và những sự khác biệt về giới vẫn chìm trong tổng thể những sự đối lập tổ chức nên toàn bộ vũ trụ, thì các thuộc tính và các hành vi giới tính chứa chất nặng nề những quy định mang tính nhân loại học và vũ trụ luận. Vậy nếu ta tư duy những điều trên theo phạm trù của giới tính ở bản thân nó là ta tự buộc mình không hiểu ý nghĩa sâu xa của những điều đó. Việc cấu thành giới tính với tư cách giới tính (việc này được hoàn thành trong sự gợi dục) đã khiến chúng ta bỏ qua ý nghĩa của vũ trụ luận được giới tính hóa, nó bắt rễ trong một loại hình học giới tính về thân thể được xã hội hóa, về các động tác và các sự di chuyển thân thể lập tức được cấp một ý nghĩa xã hội - ví dụ như động tác hướng lên https://thuviensach.vn trên được liên tưởng với nam tính, với sự cương cứng, hoặc với vị trí bên trên trong hành vi tính dục. Mang tính võ đoán khi ở trạng thái cô lập, sự phân chia các sự vật và các hoạt động (tính dục hoặc những hoạt động khác) theo sự đối lập giữa nam và nữ có được tính tất yếu khách quan và chủ quan do gia nhập một hệ thống những đối lập tương tự, cao/thấp, trên/dưới, trước/sau, phải/trái, thẳng/cong (và giảo quyệt), khô/ẩm ướt, rắn/mềm, đậm đà/nhạt nhẽo, sáng/tối, bên ngoài (công)/bên trong (tư), v.v. trong đó một số đối lập tương ứng với những động tác của thân thể (trên/dưới // lên/xuống, bên ngoài/bên trong // ra/vào). Do giống nhau trong sự khác biệt, nên những đối lập này khá phù hợp để nâng đỡ lẫn nhau, trong và bởi sự vận động vô tận của những chuyển di thực tiễn và những ẩn dụ, lại khá bất đồng để đem lại cho mỗi đối lập một thứ bề dày ngữ nghĩa, nảy sinh từ sự quy định đa yếu tố, do những hòa âm, những liên tưởng và những tương ứng6. Những dạng thức tư duy được ứng dụng phổ quát này ghi nhớ những sai biệt và những nét đặc dị (về thân thể chẳng hạn) như những khác biệt bản chất, nằm trong tính khách quan, các dạng thức tư duy ấy góp phần làm cho những sai biệt và những nét đặc dị trên tồn tại, đồng thời “tự nhiên hóa” chúng bằng cách đưa chúng vào một hệ thống những khác biệt, tất cả đều tự nhiên như nhau theo bề ngoài; thành thử những dự báo do các dạng thức tư duy này sản sinh không ngừng được xác nhận bởi sự vận hành của thế giới, nhất là bởi mọi chu kì sinh học và vũ trụ. Bởi vậy ta không thấy làm thế nào có thể ý thức được mối quan hệ thống trị mang tính xã hội nằm ở căn nguyên của những điều trên, mối quan hệ này, do một sự đảo ngược hoàn toàn các nguyên nhân và kết quả, xuất hiện như một sự ứng dụng giữa những ứng dụng khác một hệ thống quan hệ ý nghĩa hoàn toàn độc lập với các tương quan thế lực. Ở đây hệ thống lễ nghi-huyền thoại đóng một vai trò tương đương với vai trò của lĩnh vực pháp luật trong các xã hội khu biệt: trong chừng mực các nguyên tắc nhìn và phân chia do nó đề xuất ăn khớp một cách khách quan với những sự phân chia có trước, nó công nhận trật tự đã được https://thuviensach.vn thiết lập, bằng cách đưa trật tự ấy vào tình trạng tồn tại được biết và được thừa nhận, chính thức. Sự phân chia các giới có vẻ ở “trong trật tự của sự vật”, như đôi khi người ta nói để phát biểu về cái gì bình thường, tự nhiên, đến mức không sao tránh khỏi: sự phân chia ấy hiện diện đồng thời ở trạng thái khách quan hóa, trong các sự vật (trong nhà chẳng hạn, nơi mọi bộ phận đều “có giới tính”), trong toàn bộ xã hội, và ở trạng thái được hội nhập vào cơ thể, trong các thân thể, trong habitus của các tác nhân, vận hành với tư cách những dạng thức tri giác, tư duy và hành động (Ở những chỗ, do nhu cầu thông tin, tôi nói đến, như ở đây, các phạm trù hay các cấu trúc nhận thức, với nguy cơ có vẻ rơi vào một triết lí trí thức luận (philosophie intellectualiste) mà tôi đã không ngừng phê phán, có lẽ nên nói đến những dạng thức thực tiễn hay đến các ý hướng thì hơn; từ “phạm trù” đôi khi buộc ta phải dùng nó bởi nó có khả năng chỉ ra đồng thời vừa một đơn vị xã hội - phạm trù những người làm nghề nông - vừa một cấu trúc nhận thức và có khả năng biểu lộ mối liên hệ kết hợp hai điều ấy.). Chính tình trạng phù hợp giữa các cấu trúc khách quan và các cấu trúc nhận thức, giữa hình thù của hữu thể và các hình thái của tri thức, giữa tiến trình của thế giới và những mong đợi đối với nó, khiến cho có thể có mối quan hệ với thế giới mà Husserl miêu tả dưới cái tên “thái độ tự nhiên” hay “kinh nghiệm khuôn sáo” (expérience doxique7) - nhưng lại bỏ qua không nhắc đến các điều kiện xã hội của sự có thể. Kinh nghiệm này nắm bắt xã hội cùng những sự phân chia võ đoán của nó, bắt đầu từ sự phân chia do xã hội kiến tạo giữa các giới, như là có tính tự nhiên, hiển nhiên, và trên danh nghĩa này bao hàm một sự thừa nhận hoàn toàn tính hợp thức. Chính bởi không nhận thấy hoạt động của những cơ chế sâu xa, chẳng hạn như những cơ chế tạo nền móng cho sự hòa hợp của các cấu trúc nhận thức và các cấu trúc xã hội, và, từ đó, kinh nghiệm khuôn sáo về xã hội (ví dụ, trong các xã hội của chúng ta, logic tái sản xuất của hệ thống giáo dục), nên những nhà tư tưởng do các triết lí rất khác nhau chi phối, có thể gán mọi kết quả hợp thức hóa (hoặc biện giải xã hội8) mang tính tượng trưng là do các yếu tố https://thuviensach.vn thuộc phạm trù thể hiện (représentation9) ít hay nhiều có ý thức và chủ tâm (“hệ tư tưởng”, “diễn ngôn”, v.v.). Sức mạnh của trật tự nam giới lộ rõ ở chỗ nó chẳng cần biện minh10: cách nhìn lấy nam giới làm trung tâm tự áp đặt như thể trung lập và không cần tự phát biểu trong những diễn ngôn nhằm hợp thức hóa cách nhìn đó11. Trật tự xã hội vận hành như một cỗ máy tượng trưng vô cùng lớn lao nhằm phê chuẩn sự thống trị của nam giới vốn là cơ sở trên đó trật tự này được thiết lập: đó là sự phân chia lao động theo giới, sự phân phối rất nghiêm ngặt các hoạt động được thuận cho mỗi giới, phân phối các nơi chốn, các thời điểm, các phương tiện của họ; đó là cấu trúc không gian, với sự đối lập giữa nơi nghị hội hoặc thương trường, dành cho đàn ông, và ngôi nhà, dành cho đàn bà, hoặc, ở bên trong nhà, giữa phần của nam giới, với bếp lò, và phần của phụ nữ, với chuồng gia súc, nước và thảo mộc; đó là cấu trúc thời gian, ngày, năm nông nghiệp, hoặc chu kì cuộc sống, với những thời điểm đứt đoạn, của nam giới, và những thời kì hoài thai dài, của nữ giới12. Xã hội kiến tạo thân thể với tư cách thực tế mang giới tính và với tư cách nơi nhận kí thác những nguyên tắc nhìn và phân chia mang lại giới tính. Chương trình tri giác này của xã hội, một chương trình đã được hội nhập vào cơ thể, áp dụng cho mọi sự vật trên đời, và đầu tiên là áp dụng cho chính thân thể, trong thực tế sinh học của nó: chính chương trình ấy kiến tạo sự khác biệt giữa các giới sinh học chiểu theo các nguyên tắc của một cách nhìn huyền thoại về thế giới, bắt rễ trong mối quan hệ võ đoán nam giới thống trị nữ giới, bản thân mối quan hệ này, cùng với sự phân chia lao động, nằm trong thực tế của trật tự xã hội. Như vậy, sự khác biệt sinh học giữa các giới tính (sexe), nghĩa là giữa thân thể nam và nữ, và, đặc biệt là, sự khác biệt về cấu tạo cơ thể giữa các cơ quan sinh dục, có thể xuất hiện như là sự biện minh tự nhiên cho sự khác biệt do xã hội kiến tạo giữa các giới (genre) và đặc biệt là sự phân chia lao động theo giới tính (Thân thể và các động tác thân thể, khuôn đúc của những khái niệm phổ biến phải chịu một sự kiến tạo của xã hội, không được xác định hoàn toàn về ý nghĩa của chúng, nhất là ý nghĩa giới https://thuviensach.vn tính, cúng không hoàn toàn bất định, thành thử tính tượng trưng gắn liền với chúng đồng thời vừa là quy ước vừa “có lí do”, vậy là được cảm nhận với tư cách hầu như tự nhiên.). Do nguyên tắc nhìn của xã hội kiến tạo nên sự khác biệt về cấu tạo cơ thể và do sự khác biệt được xã hội kiến tạo này trở thành nền tảng và điều bảo đảm có vẻ tự nhiên cho cách nhìn xã hội tạo lập ra nó, nên ta có một mối liên hệ nhân quả vòng tròn nó giam hãm tư duy trong tính hiển nhiên của các quan hệ thống trị vừa nằm trong tính khách quan, dưới hình thái những sự phân chia khách quan, lại vừa ở trong tính chủ quan, dưới hình thái những dạng nhận thức, chúng được tổ chức hợp với những phân chia trên, và chúng tổ chức sự tri giác những phân chia khách quan ấy. Khí lực nam nhi (virilité), ngay ở phương diện đạo đức của nó, tức là với tư cách điều kiện bản chất của vir, virtus (đức tính), vấn đề danh dự (nif), nguyên lí bảo tồn và gia tăng danh dự, gắn bó không tách rời, ít ra cũng ngấm ngầm, với khí lực nam nhi về thể chất, đặc biệt là qua những chứng thực về sức mạnh tình dục - phá trinh cô dâu, sinh nhiều con trai, v.v. - được chờ đợi ở người đàn ông thực sự đàn ông. Ta hiểu rằng dương vật, luôn hiện diện một cách ẩn dụ nhưng rất hiếm khi được gọi tên, và có thể gọi tên, tập trung mọi huyễn tưởng tập thể về sức mạnh làm sinh sôi nảy nở13. Theo kiểu các món tẩm bột rán hoặc bánh nướng, mà người ta ăn vào các dịp sinh nở, cắt bao quy đầu, mọc răng, nó “bốc lên” hoặc “dậy lên”. Dạng thức mập mờ nước đôi về sự phồng lên là nguyên lí phát sinh của các nghi lễ phồn thực, nhằm làm trương to theo cách mô phỏng (dương vật và bụng của người phụ nữ), đặc biệt nhờ những thức ăn phồng lên và làm phồng lên, những nghi lễ buộc phải có trong những thời điểm mà hoạt động làm sinh sôi nảy nở của sức mạnh nam giới phải thực thi, như các đám cưới - và cả khi khai mở việc cày bừa, là dịp thực hiện một hành động tương đương khai mở đất và làm đất sinh sôi nảy nở14. Tính mập mờ nước đôi trong cấu trúc, biểu lộ qua sự tồn tại của một mối liên hệ hình thái học (ví dụ giữa abbuch, dương vật, và thabbutcht, giống cái của abbuch, vú), của một số biểu tượng liên quan đến sự phồn thực, có thể https://thuviensach.vn giải thích do chúng thể hiện nhiều cách biểu lộ khác nhau về sức sống viên mãn, về chất sống ban sự sống (qua sữa và tinh dịch được coi như giống với sữa15: khi đàn ông đi vắng một thời kì dài, người ta bảo - với vợ họ - là họ sắp trở về với “một bình sữa loãng, sữa đặc”; về một người đàn ông ít kín đáo trong các quan hệ ngoài-hôn nhân, người ta bảo “anh ta đã đổ sữa loãng lên chòm râu”; yecca yeswa, “anh ta đã ăn và đã uống”, nghĩa là anh ta đã làm tình; cưỡng lại sự cám dỗ, đó là “không đổ sữa loãng lên ngực”). Cũng mối quan hệ hình thái học như vậy giữa thamellalts, trứng, biểu tượng tột bậc cho sự phồn thực của phụ nữ, và imellalen, tinh hoàn; người ta nói về dương vật rằng đó là con đực duy nhất ấp hai quả trứng. Và ta lại thấy cũng những liên tưởng đó trong các từ chỉ tinh dịch, zzel và đặc biệt là laâmara, do yếu tố gốc - aâmmar, là làm đầy, hưng vượng, v.v. - gợi lên sự viên mãn, cái đầy sức sống và cái làm cho đầy sức sống, dạng thức của sự làm đầy (đầy/rỗng, phì nhiêu/cằn cỗi, v.v.) phối hợp đều đặn với dạng thức về trạng thái phồng lên trong sự phát sinh các nghi lễ về sự phì nhiêu16. Bằng cách kết hợp sự cương lên của dương vật với động lực sống của sự phồng lên là điều cố hữu của toàn bộ tiến trình sinh sản tự nhiên (sự nảy mầm, sự hoài thai, v.v.), sự kiến tạo của xã hội về các cơ quan sinh dục ghi nhớ và phê chuẩn một cách tượng trưng một số đặc tính tự nhiên không thể bàn cãi; như vậy là, cùng với những cơ chế khác, mà cơ chế quan trọng nhất, như ta đã thấy, chắc chắn là việc đưa mỗi quan hệ (ví dụ như đầy/rỗng) vào một hệ thống quan hệ tương đương và kết nối với nhau, sự kiến tạo xã hội này góp phần chuyển đổi tính võ đoán của nomos (luật17) xã hội thành tính tất yếu của tự nhiên (phusis) (Logic của sự chuẩn nhận tượng trưng này đối với các tiến trình khách quan, thuộc vũ trụ và nhất là thuộc sinh học, hoạt động trong toàn bộ hệ thống nghi lễ-huyền thoại - cùng với, ví dụ như, việc coi sự nảy mầm của hạt như sự phục sinh, hiện tượng tương đương với sự tái sinh của người ông trong đứa cháu trai, sự tái sinh được thừa nhận bởi sự trở lại của cái tên - cung cấp một cơ sở hầu như khách quan cho hệ thống này, và từ đó, cho niềm tín ngưỡng mà hệ thống ấy là đối tượng, niềm tín ngưỡng còn https://thuviensach.vn được củng cố thêm do tình trạng nhất trí toàn thể.). Khi những kẻ bị trị áp dụng vào những gì thống trị họ các dạng thức là sản phẩm của sự thống trị, hoặc, nói cách khác, khi những suy nghĩ và tri giác của họ được cấu trúc chiểu theo chính các cấu trúc của mối quan hệ thống trị được áp đặt cho họ, thì những hành vi nhận biết của họ tất phải là hành vi thừa nhận, phục tùng, không sao tránh khỏi. Nhưng dù sự tương ứng giữa thực tế hay là các tiến trình của giới tự nhiên với những nguyên tắc nhìn và phân chia áp dụng cho các tiến trình này có chặt chẽ đi nữa, thì vẫn luôn có chỗ cho một cuộc đấu tranh thuộc nhận thức về ý nghĩa của các sự vật trên thế gian và đặc biệt là của các thực tế giới tính. Quả thực, tính bất định phần nào của một số đối tượng cho phép có những diễn giải đối địch, cung cấp cho những kẻ bị trị một khả năng cưỡng lại tác động của sự áp đặt tượng trưng. Chính vì vậy mà phụ nữ có thể dựa trên những dạng thức tri giác chủ đạo (trên/dưới, cứng/mềm, thẳng/cong, khô/ẩm ướt, v.v.) dẫn họ đến chỗ hình dung rất tiêu cực về bản thân giới của mình18 để tư duy các thuộc tính của nam giới dựa trên sự tương tự với những thứ lõng thõng, mềm nhẽo, vô khí lực (laâlaleq, asaâlaq, cũng dùng cho các củ hành hoặc thịt xâu lại, hoặc acherbub, bộ phận sinh dục mềm nhẽo, vô khí lực, của ông lão, đôi khi kết hợp với ajerbub, giẻ rách)19; và thậm chí lợi dụng trạng thái sút kém của bộ phận sinh dục nam để khẳng định ưu thế của bộ phận sinh dục nữ - như trong câu ngạn ngữ: “Anh, toàn bộ dụng cụ (laâlaleq) của anh thõng thẹo, người đàn bà nói với người đàn ông/ trong khi tôi thì tôi là một phiến đá gắn chặt20.” Như vậy, định nghĩa xã hội về các cơ quan sinh dục, không hề là một sự ghi nhớ đơn giản các đặc tính tự nhiên, được cung cấp trực tiếp cho tri giác, mà là sản phẩm của một sự kiến tạo được tiến hành qua một loạt lựa chọn có định hướng hoặc, hơn thế nữa, thông qua việc nhấn mạnh một số điều khác biệt hoặc che lấp một số điều tương tự. Sự hình dung âm hộ như là dương vật đảo ngược, mà Marie-Christine Pouchelle21 phát hiện trong các bài viết của một nhà phẫu thuật thời Trung cổ, tuân thủ cũng những đối lập cơ bản giữa https://thuviensach.vn cái tích cực và cái tiêu cực, mặt phải và mặt trái, những đối lập tự áp đặt mỗi khi nguyên lí nam được đem ra để đo lường mọi sự22. Biết được như vậy rằng đàn ông và đàn bà được tri giác như hai dị bản, cao cấp và hạ cấp, của cùng một sinh lí học, ta hiểu là, cho đến thời Phục Hưng, mọi người không có thuật ngữ giải phẫu học để miêu tả chi tiết bộ phận sinh dục của phụ nữ mà người ta hình dung như cấu thành bởi cùng những cơ quan như bộ phận sinh dục của đàn ông, nhưng được sắp đặt theo cách khác23. Và, cũng như Yvonne Knibiehler24 cho thấy, các nhà giải phẫu cơ thể đầu thế kỉ XIX (đặc biệt là Vừey), tiếp nối diễn ngôn của các nhà luân lí, định tìm ra trong thân thể người phụ nữ sự biện minh cho phận vị xã hội mà họ chỉ định cho phụ nữ nhân danh những đối lập truyền thống giữa bên trong và bên ngoài, cảm tính và lí trí, thụ động và hoạt động25. Và có lẽ chỉ cần theo dõi lịch sử “phát hiện” âm hạch (clitoris) như Thomas Laqueur thuật lại26, và kéo dài lịch sử này cho đến thuyết của Freud về sự di cư của bản năng giới tính nữ từ âm hạch đến âm hộ (vagin) để hoàn thành việc thuyết phục rằng, những sự khác biệt thấy rõ giữa cơ quan sinh dục nam và nữ không hề đóng vai trò tạo lập như đôi khi người ta gán cho chúng, mà là một sự kiến tạo xã hội có căn nguyên trong các nguyên tắc phân chia của lí lẽ coi nam giới là trung tâm, bản thân lí lẽ này tạo lập trong sự phân chia các phận vị xã hội được chỉ định cho người đàn ông và người đàn bà27. Các dạng thức cấu trúc nên sự cảm nhận về các cơ quan sinh dục và, hơn nữa, về hoạt động tình dục cũng áp dụng cả với chính thân thể, nam hoặc nữ, có phần trên cao và phần dưới thấp - ranh giới được đánh dấu bằng dây lưng, dấu hiệu rào kín (người phụ nữ giữ dây lưng thắt chặt, không tháo cởi nó, được coi như đức hạnh, trinh khiết) và giới hạn tượng trưng, ít ra là ở phụ nữ, giữa cái thanh khiết và không thanh khiết. Dây lưng là một trong những dấu hiệu của sự đóng kín thân thể phụ nữ, cánh tay khoanh trước ngực, bắp chân khép chặt, y phục thắt buộc, như nhiều nhà phân tích đã chỉ rõ, hãy còn được áp đặt cho phụ nữ trong các xã hội Âu Mĩ ngày nay28. Dây lưng cũng tượng trưng cho rào chắn thiêng liêng bảo vệ https://thuviensach.vn âm hộ, được xã hội kiến tạo thành vật thiêng, vậy là, phù hợp với sự phân tích của Durkheim, phải tuân theo những phép tắc ngặt nghèo về tránh né hoặc tiếp cận, quy định rất nghiêm ngặt các điều kiện của sự tiếp xúc được thừa nhận, tức là các tác nhân, các thời điểm và các hành vi hợp thức, hoặc, trái lại, mang tính chất phạm thánh. Các phép tắc này, đặc biệt thấy rõ trong nghi lễ hôn nhân, có thể vẫn được tuân thủ, cho đến tận nước Mĩ ngày nay, trong những tình thế mà một thầy thuốc nam giới phải tiến hành khám âm hộ. Như để vô hiệu hóa một cách tượng trưng và một cách thực tế mọi hàm nghĩa có tiềm năng tính dục của việc khám phụ khoa, người thầy thuốc tuân theo một nghi lễ thực sự nhằm duy trì rào chắn, được tượng trưng bằng dây lưng, giữa con người công khai và âm hộ, không bao giờ được cảm nhận đồng thời: thời gian đầu, ông ta nói chuyện riêng mặt đối mặt với một con người; rồi, một khi người cần khám đã cởi y phục, trước sự hiện diện của một nữ y tá, thì ông ta khám cho người đó, nằm dài và phủ một tấm khăn che phần trên của thân thể, xem xét một âm hộ có thể nói là phân li khỏi con người và như vậy là bị quy về trạng thái sự vật, trước sự hiện diện của nữ y tá, ông phát biểu những nhận xét của mình với nữ y tá này, nói về bệnh nhân ở ngôi thứ ba; cuối cùng, ở thời kì thứ ba, ông lại nói với người phụ nữ đã mặc lại y phục khi ông không có mặt29. Hiển nhiên đó là vì âm hộ tiếp tục được tạo thành vật thần và được đối xử như thiêng liêng, bí mật và cấm kị, nên việc mua bán tình dục vẫn bị bêu riếu trong ý thức cộng đồng cũng như trong văn bản pháp luật không chấp nhận phụ nữ có thể chọn chuyện làm điếm như một công việc30. Bằng cách để tiền bạc can thiệp vào, một sự dâm đãng nào đó của nam giới kết hợp việc tìm kiếm lạc thú với việc thực thi thô bạo quyền lực trên các thân thể bị quy về trạng thái đồ vật, và kết hợp với sự báng bổ ở chỗ vi phạm luật lệ theo luật lệ này thì thân thể (cũng như máu huyết) chỉ có thể được trao tặng, trong một hành vi dâng hiến hoàn toàn không lấy tiền, mà khi có hành vi này tất phải có sự tạm đình chỉ bạo lực31. Thân thể có phía trước của nó, nơi chốn của sự khác biệt giới tính, và phía sau, không phân biệt giới tính, và mang nữ tính về tiềm năng, nghĩa là thụ https://thuviensach.vn động, phục tùng, như những lời lăng nhục miền Địa Trung Hải nhắc nhở, bằng cử chỉ hay lời lẽ (nhất là cái câu nổi tiếng “người liêm sỉ”) chống lại tình dục đồng giới32, có các bộ phận công khai, mặt, trán, mắt, ria mép, miệng, những cơ quan cao quý giới thiệu bản thân, nơi cô đúc căn cước xã hội, vấn đề danh dự, nif, buộc phải đối diện và nhìn vào mặt người khác, và các bộ phận riêng tư, giấu kín hoặc nhục nhã, mà danh dự ra lệnh phải che đậy. Cũng chính do trung gian môi giới của việc phân chia theo giới tính các cách sử dụng hợp thức thân thể mà hình thành mối liên hệ (được phân tâm học phát biểu) giữa dương vật và logos (lời): những sự sử dụng công khai và tích cực phần trên cao, nam tính, của thân thể - đối diện, đối đầu, đối mặt (qabel), nhìn thẳng vào mặt, nhìn vào mắt, phát biểu công khai - là độc quyền của đàn ông; người phụ nữ, ở Kabylie, lánh khỏi những nơi chốn công cộng, có thể nói là phải khước từ sử dụng công khai ánh nhìn của mình (người phụ nữ ấy bước đi giữa công chúng mắt nhìn xuống bàn chân) và lời lẽ của mình (lời duy nhất hợp với người ấy là “tôi không biết”, phản đề của lời lẽ nam nhi nó là lời xác định quả quyết, dứt khoát, đồng thời lại chín chắn và chừng mực)33. Mặc dù nó có thể xuất hiện như khuôn đúc gốc từ đó sản sinh ra mọi hình thái kết hợp của hai nguyên lí đối lập - lưỡi cày và luống cày, trời và đất, lửa và nước, v.v. - song bản thân hành vi tính dục lại được tư duy theo nguyên tắc vị trí tối cao của nam tính. Sự đối lập giữa các giới nằm trong loạt đối lập nghi lễ-huyền thoại: cao/thấp, trên/dưới, khô/ẩm ướt, nóng/lạnh (người ta nói về đàn ông đang ham muốn “kanoun của anh ta đỏ”, “nồi của anh ta nóng bỏng”, “trống của anh ta phát nhiệt”; về phụ nữ, người ta nói họ có khả năng “dập tắt lửa”, “đem lại sự mát mẻ”, “cho uống”), hoạt động/thụ động, động/bất động (hành vi tính dục được so sánh với cối xay, phần trên động, còn phần dưới bất động, gắn chặt với mặt đất, hoặc so sánh với quan hệ giữa cái chổi, đi đi lại lại, và ngôi nhà)34. Bởi vậy mà tư thế được coi như bình thường, theo logic là tư thế ở đó người đàn ông “chiếm thế bên trên”. Giống như tính cách độc hại, chẳng lành, của âm hộ có lẽ do âm hộ được tư duy như https://thuviensach.vn là trống rỗng, nhưng cũng như là sự đảo ngược tiêu cực của dương vật, tư thế ân ái trong đó người đàn bà ở trên đàn ông cũng bị kết tội rõ ràng ở nhiều nền văn minh35. Và truyền thống Kabylie, tuy không có nhiều diễn ngôn biện giải, song cũng viện đến một kiểu huyền thoại về khởi nguyên để hợp pháp hóa các tư thế được chỉ định cho hai giới trong sự phân chia hoạt động tính dục, và nhờ trung gian của sự phân chia theo giới tính hoạt động sinh sản và tái sinh sản, mà hợp pháp hóa những tư thế đó trong toàn bộ trật tự xã hội và, vượt xa hơn, trong trật tự vũ trụ. “Chính ở suối nước (tala) người đàn ông đầu tiên gặp người đàn bà đầu tiên. Cô đang múc nước thì người đàn ông, ngạo mạn, đến gần cô và đòi uống. Nhưng cô là người đến trước tiên và cả cô cũng khát. Bất bình, người đàn ông xô đẩy cô. Cô hụt chân và ngã xuống đất. Thế là người đàn ông nhìn thấy đùi người đàn bà, chúng khác với đùi anh ta. Anh ta sững sờ kinh ngạc. Người đàn bà, giảo hoạt hơn, dạy cho anh rất nhiều điều. Cô bảo anh: “Hãy nằm xuống, tôi sẽ bảo anh các khí quan dùng để làm gì.” Anh nằm dài xuống đất; cô vuốt ve dương vật của anh, nó to lên gấp hai lần và cô nằm lên trên anh. Người đàn ông cảm thấy một lạc thú lớn lao. Anh đi theo người đàn bà khắp nơi để làm lại vẫn điều ấy, vì cô biết nhiều điều hơn anh, đốt lửa, v.v. Một hôm, người đàn ông bảo người đàn bà: “Tôi đây tôi cũng muốn cho em xem; tôi biết làm các thứ. Hãy nằm dài ra và tôi sẽ nằm lên trên em.” Người đàn bà nằm xuống đất và người đàn ông nằm lên trên cô. Anh cảm thấy cùng lạc thú ấy và thế là bảo người đàn bà: “Ở suối nước, là em (thống trị); ở nhà, là tôi.” Trong đầu óc của đàn ông, bao giờ những lời lẽ cuối cùng cũng đáng kể và từ đó đàn ông bao giờ cũng thích trèo lên trên đàn bà. Họ đã trở thành thứ nhất như vậy đó và chính họ phải chỉ huy”36. Ở đây ý định biện giải cho xã hội như nó hiện hữu (sociodicée) tự khẳng định không hề quanh co: huyền thoại sáng lập đặt ra, tại chính khởi nguyên của văn hóa được hiểu như trật tự xã hội do nguyên lí nam thống trị, sự đối lập cấu thành (thực tế là, qua sự đối lập giữa suối nước và ngôi nhà chẳng hạn, sự đối lập cấu thành này đã tham gia những lí do dùng để biện minh cho https://thuviensach.vn nó) giữa tự nhiên và văn hóa, giữa “bản năng giới tính” tự nhiên và “bản năng giới tính” văn hóa: đối lập với hành vi vô quy tắc, được thực hiện bên suối nước, nơi chốn mang tính nữ tột bậc, và phát khởi do người đàn bà, kẻ khai tâm bất chính, biết các chuyện tình ái một cách tự nhiên, là hành vi tuân theo nomos (luật), thuộc về gia đình và được thuần dưỡng, được tiến hành theo yêu cầu của người đàn ông và phù hợp với trật tự của sự vật, với tôn ti đẳng cấp căn bản của trật tự xã hội và trật tự vũ trụ, và ở trong nhà, nơi chốn của tự nhiên đã được vun trồng giáo hóa, nơi chốn của sự thống trị hợp thức của nguyên lí nam đối với nguyên lí nữ, được tượng trưng bởi địa vị ưu việt của cây xà chính (asalas alemmas) đối với trụ dọc (thigejdith), chàng nạng nữ tính mở ra và hướng lên trời. Trên hay dưới, hoạt động hay thụ động, những sự luân phiên song song này miêu tả hành vi tính dục như một quan hệ thống trị. Chiếm hữu tính dục, như “baiser” trong tiếng Pháp, hay “to fuck” trong tiếng Anh, đó là thống trị theo nghĩa bắt phải phục tùng quyền uy của mình, nhưng cũng là lừa, dụ hoặc, hay như ta thường nói, “thắng được” (trong khi cưỡng lại sự quyến rũ, đó là không để mình bị lừa, không “để thắng được mình”). Các biểu hiện (hợp thức hoặc không hợp thức) của khí lực nam nhi ở trong logic của sự oanh liệt, của chiến công, làm vẻ vang. Và dù tính chất nghiêm trọng cực kì của sự vi phạm nhỏ nhặt nhất về tính dục cấm bày tỏ nó công khai, song sự thách thức gián tiếp đối với tính toàn vẹn nam giới của những người đàn ông khác bao hàm trong mọi khẳng định khí lực nam nhi, chứa đựng nguyên tắc của cái nhìn mang tính đấu sĩ của bản năng giới tính nam, sẵn sàng bộc lộ hơn tại nhiều vùng thuộc khu vực Địa Trung Hải và xa hơn nữa. Một xã hội học chính trị về hành vi tính dục sẽ làm lộ ra rằng những sự thực hành và những sự hình dung của hai giới không hề cân xứng, như sự tình bao giờ cũng vậy trong một quan hệ thống trị. Không chỉ vì con gái và con trai, ngay trong các xã hội Âu-Mĩ ngày nay, có những quan điểm rất khác nhau về quan hệ yêu đương, thường hay được đàn ông tư duy nhiều nhất theo logic của sự chinh phục (nhất là trong những cuộc trò chuyện giữa bạn bè, https://thuviensach.vn thường dành vị trí quan trọng cho sự khoe khoang về chinh phục phụ nữ)37, mà còn vì bản thân hành vi tính dục được đàn ông quan niệm như một hình thức thống trị, chiếm hữu, “sở hữu”. Từ đó mà có độ chênh giữa những trông đợi có thể của đàn ông và đàn bà về vấn đề tính dục - và những hiểu lầm, liên quan đến những diễn giải sai về các “tín hiệu”, đôi khi cố tình mập mờ, hoặc lừa dối, dẫn tới hiểu lầm. Khác với phụ nữ, về phương diện xã hội được chuẩn bị để cảm nhận tính dục như một trải nghiệm sâu kín và chứa chất nhiều xúc cảm, nó không nhất thiết bao hàm sự thâm nhập mà có thể gồm một tổng thể rộng rãi các hoạt động (nói chuyện, sờ mó, vuốt ve, ôm siết, v.v.38), con trai thiên về “chia thành ngăn” tính dục, được quan niệm như một hành vi tấn công và đặc biệt là hành vi chinh phục thuộc thể chất hướng tới sự xâm nhập và cực khoái39. Và dù, về điểm này cũng như mọi điểm khác, những sự biến thiên dĩ nhiên là rất lớn, tùy theo địa vị xã hội40, tuổi tác - và các trải nghiệm trước đó -, ta có thể suy ra từ một loạt cuộc trao đổi rằng các cách làm bề ngoài có vẻ đối xứng (như fellatio - dùng miệng kích thích dương vật - và cunnilingus - dùng miệng kích thích âm vật) có khuynh hướng mang những ý nghĩa rất khác biệt đối với đàn ông (thiên về nhìn thấy ở đó những hành vi thống trị, do sự phục tùng hay do lạc thú đạt được) và đối với phụ nữ. Lạc thú của nam giới/ một phần là lạc thú vì lạc thú của phụ nữ, vì quyền lực tạo nên lạc thú: như vậy có lẽ Catherine MacKinnon41 có lí khi nhìn thấy ở “sự cực khoái giả vờ” (faking orgasm), một chứng nhận kiểu mẫu về quyền lực của nam giới khiến cho tác động tương hỗ giữa hai giới phù hợp với cách nhìn của đàn ông, họ chờ đợi ở sự cực khoái của phụ nữ một chứng cứ về khí lực nam nhi của họ và lạc thú được đảm bảo bởi hình thái phục tùng cực điểm này42. Cũng như vậy, sự quấy rối tình dục không phải bao giờ cũng có mục đích là sự chiếm hữu tình dục mà dường như nó chuyên đeo đuổi: có khi nó chỉ nhằm sự chiếm hữu thế thôi, sự khẳng định thuần túy về quyền thống trị ở trạng thái thuần túy.43 Nếu quan hệ tình dục xuất hiện như một quan hệ thống trị mang tính xã hội, đó là vì nó được kiến tạo thông qua nguyên tắc phân chia căn bản giữa https://thuviensach.vn cái nam tính, hoạt động, và cái nữ tính, thụ động, và vì nguyên tắc này tạo ra, tổ chức, biểu lộ và điều khiển ham muốn, ham muốn nam giới như là ham muốn chiếm hữu, như là sự thống trị mang tính chất nhục dục, còn ham muốn nữ giới như là ham muốn sự thống trị của nam giới, như là sự phục tùng mang tính chất nhục dục, hoặc thậm chí, đến cực hạn, như là sự thừa nhận mang tính nhục dục đối với quyền thống trị. Trong một trường hợp, ví dụ như trong các quan hệ tình dục đồng giới, ở đó tình trạng tương hỗ là có thể, thì các quan hệ giữa tình dục và quyền lực bộc lộ ra đặc biệt rõ ràng và các tư thế cùng các vai trò được đảm nhận trong quan hệ tình dục, nhất là hoạt động hay thụ động, xuất hiện như không thể phân li khỏi các quan hệ giữa những điều kiện xã hội quy định cả khả năng cả ý nghĩa cửa những điều trên. Sự thâm nhập, nhất là khi nó được tiến hành trên một người đàn ông, là một trong những sự khẳng định libido dominandi (dục năng thống trị) không bao giờ vắng bóng hoàn toàn trong xung năng tính dục nam giới. Ta biết rằng, trong nhiều xã hội, sự chiếm hữu tình dục đồng giới được quan niệm như một sự biểu thị “uy lực”, một hành vi thống trị (được thực thi với tư cách ấy, trong một số trường hợp, để khẳng định ưu thế bằng cách “nữ giới hóa”), và chính với tư cách ấy, mà ở xã hội Hi Lạp, nó khiến người phải chịu điều này bị ô nhục và mất phận vị đàn ông hoàn hảo và phận vị công dân44trong khi, với một công dân La Mã, tình dục đồng giới “thụ động” với một nô lệ được cảm nhận như một điều gì đó “quái đản”45. Lại cũng giống như vậy, theo John Boswell46, “sự thâm nhập và quyền lực ở trong số những đặc quyền của bộ phận nam giới thượng lưu thống trị; chịu để cho thâm nhập là một sự thủ tiêu tượng trưng quyền lực và uy thế47”. Ta hiểu rằng, từ điểm nhìn này, điểm nhìn liên kết tình dục và quyền lực, thì điều nhục nhã tệ hại nhất, đối với một người đàn ông, là bị hóa thành đàn bà. Và ở đây ta có thể nhắc nhở lại lời chứng của những người đàn ông mà những sự hành hạ được cố ý tổ chức nhằm nữ giới hóa họ, nhất là qua sự hạ nhục về tình dục, những sự đùa cợt về khí lực nam nhi của họ, những lời buộc tội tình dục đồng giới, v.v. hoặc, đơn giản hơn, sự cần thiết phải cư xử như thể họ là phụ nữ, đã khiến họ khám phá https://thuviensach.vn ra “ý nghĩa của việc không ngừng có ý thức về thân xác mình, luôn có thể bị hạ nhục hoặc làm trò cười, và tìm thấy niềm an ủi trong công việc nội trợ hoặc trong chuyện phiếm với bạn bè48”. Hội nhập sự thống trị vào cơ thể Nếu như quan niệm coi định nghĩa xã hội về thân thể, đặc biệt về các cơ quan sinh dục, là sản phẩm của một công cuộc kiến tạo mang tính xã hội/ đã trở nên hoàn toàn bình thường do đã được toàn bộ truyền thống nhân học bảo vệ, thì cơ chế của sự đảo ngược quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, nhờ đó việc tự nhiên hóa sự kiến tạo xã hội nói trên được thực hiện, cái cơ chế mà tôi thử tháo gỡ ở đây, theo tôi dường như chưa được miêu tả trọn vẹn. Quả thực nghịch lí là ở chỗ chính những sự khác biệt rõ rệt giữa thân thể phụ nữ và thân thể nam giới, do được tri giác và kiến tạo hợp theo những dạng thức thực tiễn của cách nhìn coi nam giới là trung tâm, lại trở thành điều đảm bảo hiển nhiên nhất cho những ý nghĩa và những giá trị phù hợp với những nguyên tắc của cách nhìn trên: không phải dương vật (hay sự thiếu vắng nó) là cơ sở của thế giới quan đó, mà chính thế giới quan đó, do được tổ chức hợp theo sự phân chia thành các giới đặt trong mối quan hệ (genres relationnels), nam và nữ, lại có thể thiết định dương vật, được xác lập thành biểu tượng của khí lực nam nhi, của vấn để danh dự (nif) riêng thuộc nam giới, còn sự khác biệt giữa các thân thể sinh học thì thành cơ sở khách quan cho sự khác biệt giữa các giới, theo nghĩa là những giới được kiến tạo như hai thực thể xã hội xếp theo trật tự đẳng cấp. Nhu cầu thiết yếu của sự truyền giống không những không quy định tổ chức tượng trưng của sự phân chia lao động theo giới tính và, lần lần, của toàn bộ trật tự tự nhiên và xã hội, mà chính một sự kiến tạo võ đoán về cái sinh học, đặc biệt là về thân thể, nam và nữ, về các cách sử dụng và các chức năng của thân thể, lại cung cấp một nền tảng bề ngoài có vẻ tự nhiên cho cách nhìn coi nam giới là trung tâm, đối với sự phân chia hoạt động tình dục và phân chia lao động theo giới tính và, qua đó, phân chia toàn bộ vũ trụ. Sức mạnh đặc biệt của thuyết biện giải xã hội (sociodicée) theo https://thuviensach.vn nam giới là ở chỗ nó kiêm nhiệm và cô đúc hai thao tác: nó hợp thức hóa một mối quan hệ thống trị bằng cách đưa quan hệ này vào một tự nhiên mang tính sinh học, bản thân tự nhiên sinh học ấy lại là một sự kiến tạo xã hội được tự nhiên hóa. Công việc kiến tạo tượng trưng không thu hẹp ở một thao tác định danh chỉ mang tính chất thực hiện, định hướng và cấu trúc cho các sự hình dung, bắt đầu bằng những hình dung về thân thể (không phải là không quan trọng); công việc đó hoàn thành trọn vẹn và kết thúc ở một sự biến hóa sâu xa và trường cửu các thân thể (và các bộ não), tức là trong và do một công việc kiến tạo thực tiễn áp đặt một định nghĩa khu biệt về những sự sử dụng hợp thức thân thể, nhất là sử dụng về tình dục, định nghĩa này có khuynh hướng loại khỏi thế giới của điều có thể nghĩ và có thể làm, tất cả những gì ghi dấu việc thuộc về giới kia - và đặc biệt là mọi tiềm thế có về mặt sinh học ở trong kẻ “đa hình đồi bại” (pervers polymorphe) mà nếu tin theo Freud, thì đó là mọi đứa trẻ còn non nớt - để sản sinh ra cái hiện tượng xã hội nhân tạo là một người đàn ông có khí lực nam nhi hoặc một người đàn bà có nữ tính. Nomos (luật) võ đoán thiết lập hai đẳng cấp trong tính khách quan chỉ mang vẻ bề ngoài của một luật của tự nhiên (mọi người thường hay nói về tình dục, hoặc ngay cả ngày nay, về hôn nhân “trái với tự nhiên”) do thực hiện đến cùng một công cuộc biến các quan hệ thống trị mang tính xã hội thành mang tính cơ thể: chính là do trải qua và do thực hiện đến cùng một công việc tập thể lớn lao phi thường là xã hội hóa một cách tỏa lan và liên tục, mà những bản sắc đặc dị do sự võ đoán văn hóa thiết lập, mới hóa thân vào những habitus được khu biệt rõ ràng theo nguyên tắc phân chia chủ yếu, và có khả năng tri giác thế giới theo nguyên tắc đó. Do chỉ tồn tại trong mối quan hệ, nên mỗi giới trong hai giới là sản phẩm của một công việc kiến tạo nhằm phân biệt, vừa về lí thuyết vừa về thực tiễn, cần thiết để sản sinh ra giới với tư cách là thân thể được khu biệt về phương diện xã hội với giới đối lập (từ mọi điểm nhìn thích đáng về phương diện văn hóa), nghĩa là với tư cách habitus nam nhi, vậy là không có nữ tính, hoặc https://thuviensach.vn habitus phụ nữ, vậy là không có nam tính. Hoạt động xây dựng, Bildung, theo nghĩa mạnh, thực hiện sự kiến tạo của xã hội đối với thân thể chỉ mang hình thức của một hoạt động giáo dục rõ ràng và minh bạch ở từng phần nhỏ mà thôi. Phần lớn nó là kết quả máy móc và không cần tác nhân của một trật tự thể chất và xã hội hoàn toàn được tổ chức theo nguyên tắc phân chia coi nam giới là trung tâm (điều này giải thích sức mạnh cực độ của sự chi phối mà nó thực thi). Nằm ở trong sự vật, trật tự của nam giới cũng nằm trong các thân thể thông qua những mệnh lệnh ngầm bao hàm trong những đường mòn lối cũ của sự phân chia lad động hoặc của những nghi thức tập thể hay riêng tư (ví dụ ta hãy nghĩ đến cách cư xử tránh né áp đặt cho phụ nữ do việc loại trừ họ khỏi các nơi chốn của nam giới). Những điều hợp quy tắc của trật tự thể chất và trật tự xã hội áp đặt và khắc sâu vào trí óc các khuynh hướng bằng cách loại trừ phụ nữ khỏi những nhiệm vụ cao quý nhất (ví dụ như điều khiển chiếc cày), bằng cách phân định cho họ những vị trí thấp kém (phía dưới của con đường hoặc của bờ dốc), bằng cách dạy dỗ họ xử sự như thế nào với thân thể họ (ví dụ như cúi mình, khoanh tay sát vào ngực, trước những người đàn ông đáng kính), bằng cách giao cho họ những nhiệm vụ khó chịu, thấp kém và hèn hạ (họ chở phân bón và khi thu hoạch ô liu, chính họ nhặt quả, cùng với trẻ con, trong khi đàn ông sử dụng cây sào), và, thông thường hơn, bằng cách lợi dụng những khác biệt sinh học, theo nghĩa là các tiền giả định cơ bản, như vậy những khác biệt sinh học này có vẻ như thuộc nền tảng của các khác biệt xã hội. Trong chuỗi dài liên miên những sự nhắc nhở ngầm phải giữ trật tự, các nghi lễ xác lập giữ một vị trí riêng, do tính chất trang trọng và khác-thường của chúng: chúng nhằm thiết lập, nhân danh và trước sự hiện diện của toàn thể cộng đồng được huy động, một sự phân cách thiêng liêng hóa, không chỉ giữa những người đã nhận dấu hiệu khu biệt và những người chưa được nhận vì quá ít tuổi, như khái niệm nghi lễ vượt qua khiến người ta tưởng như vậy, mà còn và chủ yếu là giữa những người vệ phương diện xã hội xứng đáng được nhận và những người mãi mãi bị loại trừ khỏi điều đó, tức là những https://thuviensach.vn người phụ nữ49; hoặc, trong trường hợp cắt bao quy đầu, nghi lễ tột bậc xác lập nam tính, phân cách giữa những người được nó công nhận khí lực nam nhi bằng cách chuẩn bị một cách tượng trưng cho họ thực thi khí lực đó với những người nữ không ở trạng thái được chịu phép khai mở và không thể không tự phát hiện ra rằng mình khiếm khuyết cái điều là cơ hội và là trụ cột cho nghi lễ xác nhận khí lực nam nhi. Như vậy, những gì mà diễn ngôn huyền thoại dạy dỗ một cách rốt cuộc là khá ngây thơ, thì những nghi lễ xác lập thực hiện theo cách thâm hiểm hơn và chắc hẳn là hiệu nghiệm hơn một cách tượng trưng; và chúng nằm trong loạt các thao tác khu biệt hóa nhằm nhấn mạnh ở mỗi tác nhân, đàn ông hay đàn bà, những dấu hiệu bên ngoài phù hợp trực tiếp nhất với định nghĩa xã hội về đặc thù giới tính của họ hoặc nhằm khuyến khích các tập quán phù hợp với giới của họ đồng thời cấm đoán hoặc làm nản chí những cách xử sự không thích đáng, nhất là trong quan hệ với giới kia. Đó là trường hợp của những nghi lễ gọi là “phân cách” có chức năng giải phóng đứa con trai đối với mẹ nó và đảm bảo việc dần dần nam giới hóa nó bằng cách khuyến khích và chuẩn bị cho nó đối mặt với thế giới bên ngoài. Cuộc điều tra nhân loại học phát hiện ra rằng quả thực hoạt động tâm lí mà, theo truyền thống phân tâm học nào đó50, các cậu con trai phải thực hiện để dứt mình ra khỏi tình trạng khởi nguyên hầu như cộng sinh với người mẹ và để khẳng định bản sắc giới tính riêng của mình, được phụ giúp một cách rõ ràng và cố ý và thậm chí được tổ chức bởi đám người, trong cả loạt nghi lễ xác lập giới tính hướng về việc nam nhi hóa, và, rộng hơn, trong mọi hành xử khu biệt và khu biệt hóa của đời sống bình thường (các môn thể thao và các trò chơi nam giới, săn bắn, v.v.), thường khuyến khích việc đoạn tuyệt với thế giới của người mẹ, việc này được miễn đối với con gái (cũng như, thật bất hạnh cho họ, đối với “các con trai của bà góa”) - do đó cho phép con gái sống trong một kiểu tình trạng tiếp nối với mẹ của mình51. “Ý định” khách quan chối bỏ phần phụ nữ của nam tính (chính cái phần mà Mélanie Klein52 yêu cầu phân tâm học thu hồi, nhờ một thao tác ngược https://thuviensach.vn lại với thao tác do lễ nghi thực hiện), thủ tiêu các mối ràng buộc và các sự quyến luyến đối với người mẹ, với đất, với cái ẩm ướt, với đêm tối, với thiên nhiên, biểu thị ví dụ như trong các nghi thức thực hiện vào thời điểm gọi là “sự phân cách thành ennayer”(el âazla gennayer), như lần cắt tóc đầu tiên của con trai, và trong mọi lễ tiết đánh dấu việc vượt qua ngưỡng cửa thế giới đàn ông, những lễ tiết sẽ hoàn thành với việc cắt bao quy đầu. Có lẽ ta sẽ liệt kê không xuể những hành vi nhằm phân cách đứa con trai khỏi mẹ nó - bằng cách sử dụng những đồ vật do lửa chế tác và thích hợp để tượng trưng cho sự cắt đứt (và giới tính nam nhi): dao, dao găm, lưỡi cày, v.v. Như vậy, sau khi ra đời, đứa trẻ được đặt ở bên phải (phía nam giới) người mẹ, bản thân bà cũng nằm nghiêng về bên phải, và người ta đặt giữa hai mẹ con những đồ vật tiêu biểu của đàn ông như một chiếc lược chải len, một con dao to, một cái lưỡi cày, một trong những phiến đá của bếp lò. Cũng như vậy, tầm quan trọng của lần cắt tóc đầu tiên liên quan đến việc mái tóc, mang tính nữ, là một trong những mối liên hệ tượng trưng kết nối đứa con trai với thế giới của người mẹ. Chính người cha có nhiệm vụ thực hiện việc cắt tóc khai mở này, bằng dao cạo, dụng cụ của đàn ông, vào ngày “phân cách thành ennayer”, trước lần đầu tiên vào chợ ít lâu, tức là ở độ tuổi giữa lên sáu và lên mười. Và công việc nam nhi hóa (hoặc phi nữ giới hóa) tiếp tục vào dịp lần đầu được giới thiệu với thế giới đàn ông, với vấn đề danh dự và các cuộc đấu tượng trưng, đó là lần đau tiên vào chợ: đứa trẻ, mặc quân áo mới và đeo day lưng lụa, được nhạn một dao găm, một chiếc khóa và một cái gương, trong lúc người mẹ đặt một quả trứng tươi vao mu trùm của áo khoác của con. Đến cửa chợ, đứa trẻ đập vỡ trứng và mở khóa, hành vi nam nhi phá tnnh, va tự nhìn mình trong chiếc gương, giống như ngưỡng cửa, là một tác nhân thực hiện sự đảo ngược. Cha đứa trẻ dẫn nó vào chợ, thế giới riêng thuộc nam giới, và giới thiệu nó với những người đàn ông khác. Khi ra về, họ mua một cái đầu bò, biểu tượng dương vật - do cặp sừng - kết hợp với nif (vấn đề danh dự). Cùng một công việc mang tính chất tâm thần-thân thể (psychosomatique), áp dụng cho con trai, nhằm nam nhi hóa chúng, bằng cách lột khỏi chúng tất https://thuviensach.vn cả những gì là nữ tính có thể còn lại ở chúng - như ở các “con trai của bà góa” - thì khi áp dụng cho con gái, mang một hình thức triệt để hơn: do người đàn bà được kiến tạo như một thực thể tiêu cực, chỉ được xác định bằng tình trạng khiếm khuyết, nên bản thân các đức tính của đàn bà cũng chỉ có thể tự khẳng định trong một sự phủ định kép, như là tật xấu bị phủ nhận hoặc được khắc phục, hay như cái xấu nhỏ nhất. Bởi thế, toàn bộ công việc xã hội hóa hướng đến áp đặt cho đàn bà những giới hạn, tất cả đều liên quan đến thân thể, được xác định như thiêng liếng, h’aram, và cần phải đưa vào trong các ý hướng của thân thể. Chính như vậy mà người phụ nữ trẻ Kabylie nội tâm hóa các nguyên lí cơ bản của nghệ thuật sống của phụ nữ, của thái độ đúng đắn về thân thể và tinh thần khăng khít không chia tách, trong khi học cách khoác và mặc những y phục khác nhau phù hợp với những trạng thái khác nhau kế tiếp của mình, em gái nhỏ, trinh nữ tới tuần cập kê, người vợ, người mẹ của gia đình, và trong khi đạt được dần dần, do bắt chước một cách vô ý thức cũng như do vâng theo một cách rõ ràng, cách thức đúng đắn để thắt dây lưng hay buộc tóc, để cử động hay giữ im bất động bộ phận này bộ phận kia của thân thể khi bước đi, để phô gương mặt và để hướng ánh nhìn. Việc học tập này càng hiệu quả hơn bởi chủ yếu nó vẫn cứ ngấm ngầm: đạo đức phụ nữ tự áp đặt chủ yếu thông qua một kỉ luật thường xuyên, liên quan đến mọi bộ phận thân thể và nó tự nhắc nhở và thực thi liên tục qua sự gò bó của y phục hay của mái tóc. Những nguyên lí đối kháng của bản sắc nam và bản sắc nữ tự khắc ghi như vậy dưới hình thái những cách thức thường trực giữ tư thế thân thể, giữ thái độ, chúng giống như sự thực hiện hoặc, đúng hơn, như sự tự nhiên hóa một đạo đức. Cũng giống như đạo lí của danh dự đàn ông có thể được tóm tắt trong một từ, hàng trăm lần được những người cung cấp thông tin lặp lại, qabel, đối mặt, nhìn vào mặt, và trong tư thế đứng thẳng (tư thế đứng nghiêm quân sự của chúng ta), chứng thực sự chính trực do từ ngữ này mệnh danh53, cũng giống như vậy, sự phục tùng của phụ nữ dường như tìm được một cách diễn tả tự nhiên trong việc nghiêng mình, cúi mình, khom mình, đặt mình xuống dưới (trái với “chiếm thế hơn”), các tư https://thuviensach.vn thế uốn cong, mềm mại, và sự nhu thuận tương quan với những tư thế trên được coi như thích hợp cho phụ nữ. Sự giáo dục căn bản hướng về việc khắc sâu vào trí não những cách thức giữ tư thế thân thể, toàn bộ hoặc phần này phần kia của thân thể, bàn tay phải, thuộc nam giới, hay bàn tay trái, thuộc nữ giới, các cách thức bước đi, giữ dáng đầu, hay hướng ánh nhìn, thẳng vào mặt, vào mắt, hay, ngược lại, xuống chân mình, v.v., những điều mang nặng một đạo đức học, một đường lối và một vũ trụ luận (Toàn bộ đạo đức học của chúng ta, không nói đến mĩ học của chúng ta, nằm trong hệ thống các tính từ chủ yếu, cao/thấp, thẳng/vẹo, cứng rắn/mềm mại, mở/đóng kín, v.v., mà một bộ phận lớn cũng chỉ rõ các tư thế hoặc các ý hướng của thân thể, hoặc của bộ phận này bộ phận kia của thân thể - “ngẩng cao đầu”, “cúi mặt”.). Thái độ phục tùng được áp đặt cho phụ nữ Kabylie là cực hạn của thái độ ngày nay hãy còn áp đặt cho phụ nữ, ở nước Mĩ cũng như ở châu Âu, và, như nhiều nhà quan sát đã chỉ rõ, nằm trong một số điều có tính mệnh lệnh: mỉm cười, nhìn xuống, chấp nhận những sự ngắt lời, v.v. Nancy M. Henley cho thấy người ta dạy phụ nữ choán khoảng không gian như thế nào, bước đi ra sao, có những tư thế cơ thể thích đáng như thế nào. Frigga Haug54 cũng cố làm xuất hiện trở lại (nhờ một phương pháp gọi là memory work (công việc hồi tưởng) nhằm khơi gợi lại những truyện thời thơ ấu, được thảo luận và diễn giải tập thể) những cảm nghĩ gắn với các bộ phận khác nhau của thân thể, với những chiếc lưng phải giữ cho thẳng, với những cái bụng phải thót vào, với những bắp chân không được dang ra, v.v., chừng ấy tư thế mang nặng một ý nghĩa đạo lí (để chân dang ra là thô tục, có cái bụng to chứng thực một sự thiếu ý chí, v.v.)55. Như thể nữ tính được ước lượng bằng nghệ thuật “tự thu nhỏ” (trong tiếng Berbère, giống cái biểu lộ bằng hình thái giảm bớt - diminutif), phụ nữ giam mình trong một thứ khoảnh đất rào kín vô hình (mà tấm mạng che chỉ là sự biểu lộ nhìn thấy được) nó giới hạn địa hạt dành cho các cử động và các sự di chuyển của thân thể họ (trong khi đàn ông chiếm nhiều chỗ hơn với thân thể họ, nhất là ở những không gian công cộng). Cái kiểu cấm cồ tượng trưng này được đảm bảo một cách thực tế do y phục https://thuviensach.vn của họ (điều này còn rõ rệt hơn nữa ở những thời kì xa xưa hơn), có hiệu quả vừa che giấu thân thể vừa liên tục nhắc nhở nó giữ trật tự (chiếc váy thực hiện một chức năng hoàn toàn tương tự với tấm áo dài của các tu sĩ), mà không cần phải quy định hay cấm đoán điều gì một cách rõ ràng (“mẹ tôi chưa bao giờ bảo tôi đừng để chân dang ra”): hoặc y phục ấy gò bó các cử động theo nhiều cách, như giày cao gót hoặc chiếc túi xách khiến bàn tay vướng bận liên miên, và nhất là chiếc váy ngăn cấm hoặc làm nản chí mọi loại hoạt động (chạy, nhiều kiểu ngồi, v.v.), hoặc nó chỉ cho phép cử động với những giữ gìn thận trọng thường xuyên, như những phụ nữ trẻ không ngừng kéo xuống một chiếc váy quá ngắn, cố dùng cánh tay che chỗ cổ chỗ ngực hở quá rộng hoặc phải làm những thủ thuật nhào lộn thực sự để nhặt lên một đồ vật mà vẫn giữ được bắp chân khép lại56. Những cách thức giữ tư thế thân thể, kết hợp rất sâu sắc với tư thái tinh thần và sự giữ gìn thận trọng thích hợp với phụ nữ, tiếp tục tự áp đặt cho phụ nữ, như thể ngoài ý muốn của họ, ngay cả khi những cách thức ấy không còn do y phục áp đặt (ví dụ như cách đi những bước ngắn, nhanh ở những phụ nữ trẻ mặc quần và dùng giày gót phẳng). Và những bộ dạng hoặc tư thế buông thả như đu đưa mình trên ghế ngồi hay gác chân lên bàn giấy, mà đôi khi đàn ông - có phận vị cao - tự cho phép, để chứng thực quyền uy hoặc sự vững vàng tự tin, rốt cuộc cũng như nhau cả, nói cho đúng, là chuyện không thể nghĩ đến đối với một phụ nữ57. Với những ai phản bác rằng ngày nay nhiều phụ nữ đã đoạn tuyệt với các chuẩn tắc và các hình thức truyền thống của sự giữ gìn thận trọng và nhìn thấy một chứng tích “giải phóng” ở vị trí mà phụ nữ dành cho việc phô bày thân thể có kiểm soát, thì chỉ cần cho thấy việc sử dụng chính thân thể này hiển nhiên vẫn rất phụ thuộc vào điểm nhìn của nam giới (như ta thấy rõ ở việc sử dụng người phụ nữ trong quảng cáo, ngay cả ngày nay, tại Pháp, sau nửa thế kỉ của thuyết nữ quyền): thân thể phụ nữ đồng thời vừa được dâng hiến vừa bị từ chối biểu thị trạng thái tùy ý sử dụng tượng trưng, thích hợp với phụ nữ, như nhiều công trình về nữ quyền đã chỉ rõ, nó là sự phối hợp https://thuviensach.vn của một quyền lực hấp dẫn và quyến rũ được biết và được thừa nhận bởi tất cả mọi người, đàn ông hay đàn bà, và phù hợp để vinh danh đàn ông mà người đàn bà phụ thuộc hoặc có liên quan, với một bổn phận từ chối có tuyển chọn, điều này tăng thêm giá trị của tính độc hữu cho hiệu quả “tiêu thụ phô trương”. Những sự phân chia cấu thành trật tự xã hội và, nói một cách chính xác hơn, những quan hệ xã hội thống trị và bóc lột được thiết lập giữa các giới khắc ghi dần dần như vậy trong hai loại habitus khác biệt, dưới hình thức những hexis (tư thái) thân thể đối lập và bổ sung cho nhau, cùng những nguyên tắc nhìn và phân chia dẫn tới chỗ xếp loại mọi sự trên thế gian và mọi thực hành theo những sự khu biệt có thể quy về trạng thái đối lập giữa nam tính và nữ tính. Phần của đàn ông, những người ở phía bên ngoài, phía chính thức, phía công chúng, phía thẳng, khô, cao, gián đoạn, là thực hiện mọi hành vi vừa gọn, vừa nguy hiểm và gây ấn tượng, những hành vi, giống như việc cắt tiết bò, cày bừa hay gặt hái, không nói đến giết người hoặc chiến tranh, đánh dấu những sự đứt đoạn trong tiến trình bình thường của cuộc sống; ngược lại, đàn bà, ở phía bên trong, phía của cái ẩm ướt, thấp, cong và liên tục, được phân định mọi công việc trong nhà, nghĩa là công việc riêng tư và che giấu, thậm chí không nhìn thấy được hay đáng hổ thẹn, như chăm sóc trẻ con hay súc vật, cùng tất cả những công việc bên ngoài được giao cho họ bởi đạo lí huyền thoại, nghĩa là những công việc liên quan đến nước, đến cỏ, đến cây lá (như giẫy cỏ hay làm vườn), đến sữa, đến củi, và đặc biệt là những công việc bẩn thỉu nhất, đơn điệu nhất và hèn mọn nhất. Do toàn bộ thế giới hữu hạn trong đó họ cư trú, không gian thôn làng, ngôi nhà, ngôn ngữ, các dụng cụ, chứa đựng cùng những sự nhắc nhở lặng lẽ phải giữ trật tự, nên phụ nữ chỉ có thể trở thành những gì họ đang là theo đạo lí huyền thoại, bằng cách xác nhận như vậy, và thoạt tiên là trước chính con mắt của họ, rằng họ được dành một cách tự nhiên cho cái thấp hèn, cái cong vẹo, cái nhỏ bé, cái ti tiện, cái phù phiếm v.v. Họ buộc phải thường xuyên phô ra những vẻ ngoài của một cơ sở tự nhiên của bản sắc bị đánh giá thấp được phân định cho họ https://thuviensach.vn về phương diện xã hội: phần của họ là nhiệm vụ kéo dài, bạc bẽo và tỉ mỉ lượm lặt ngay dưới đất những quả ô liu hay những cành củi mà đàn ông, được trang bị cây sào hay chiếc rìu, đã làm rơi xuống; chính họ, được giao những lo toan tầm thường của việc quản lí hằng ngày kinh tế gia đình, dường như thích chí với những nhỏ nhen ti tiện của sự tính toán, của kì hạn và lời lãi mà người đàn ông đàng hoàng phải không được đếm xỉa đến (Tôi còn nhớ, khi tôi còn nhỏ, những người đàn ông, bè bạn và láng giềng, buổi sáng vừa giết lợn, trong một cuộc phô diễn ngắn ngủi, bao giờ cũng hơi phô trương, về bạo lực - tiếng kêu của con vật chạy trốn, những con dao to, máu đổ, v.v. -, ngồi cả buổi chiều, và đôi khi cho đến tận hôm sau, để bình thản đánh bài, có gián đoạn chút ít để nhấc một chiếc vạc quá nặng, trong khi những người đàn bà trong nhà bận rộn tới tấp để làm các món dồi, xúc xích và chả lợn.). Đàn ông (và bản thân những người đàn bà) chỉ có thể không biết rằng chính logic của quan hệ thống trị đạt được việc áp đặt và khắc sâu vào trí não phụ nữ, với cùng danh nghĩa như những đức hạnh do đạo lí truyền phán, tất cả những đặc tính tiêu cực mà cách nhìn thống trị gán cho bản tính của họ, như là sự mưu mẹo, hoặc, để miêu tả một cách ưu ái hơn, như là trực giác. Hình thái đặc thù của sự sáng suốt riêng thuộc những kẻ bị trị, điều mà người ta gọi là “trực giác phụ nữ”, ngay trong thế giới của chúng ta, không thể tách rời trạng thái phục tùng khách quan và chủ quan, nó khích lệ hoặc ép buộc phải chú ý và quan tâm, phải có sự giám sát và cảnh giác cần thiết để đón trước các ý muốn hoặc đoán trước những điều khó chịu. Nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ trạng thái minh mẫn đặc thù của những kẻ bị trị, nhất là của phụ nữ (và đặc biệt là những phụ nữ chịu hai tầng hoặc ba tầng thống trị), như những phụ nữ giúp việc da đen, được Judith Rollins nhắc đến trong Betwween Women (Giữa những người đàn bà): nhạy cảm hơn đàn ông đối với những dấu hiệu không lời (nhất là giọng điệu), đàn bà biết nhận dạng giỏi hơn một xúc cảm thể hiện không bằng lời lẽ và hiểu được điều ẩn tàng trong một đối thoại58; theo một cuộc điều tra do hai nhà nghiên cứu Hà Lan thực hiện, những người đàn bà có thể nói về chồng mình với rất nhiều chi tiết, https://thuviensach.vn trong khi những người đàn ông chỉ có thể miêu tả vợ mình qua những khuôn sáo rất chung chung, có giá trị cho “phụ nữ nói chung”59. Cũng những tác giả trên gợi ý rằng những người tình dục đồng giới, do tất nhiên được nuôi dạy như những người tình dục khác giới, nên đã nội tâm hóa quan điểm thống trị, họ có thể nhìn bản thân họ theo quan điểm ấy (điều này khiến họ ở một trạng thái có thể nói là không đồng điệu trong nhận thức và đánh giá nó góp phần vào sự minh mẫn đặc thù của họ) và họ hiểu quan điểm của những kẻ thống trị rõ hơn là những kẻ này có thể hiểu quan điểm của họ. Do được dành một cách tượng trưng cho sự nhẫn nhịn và sự kín đáo, nên phụ nữ chỉ có thể thực thi ít nhiều quyền lực bằng cách đảo ngược sức mạnh của chính kẻ mạnh để chống lại kẻ đó hoặc bằng cách chấp nhận né mình đi, và, dù sao mặc lòng, cũng chối không nhận một quyền lực mà họ chỉ có thể thực thi qua ủy quyền (với tư cách mưu sĩ). Nhưng, theo quy luật được Lucien Bianco60 phát biểu nhân nói về các cuộc kháng cự của nông dân tại Trung Quốc, “vũ khí của kẻ yếu bao giờ cũng là vũ khí yếu61”. Ngay các kế sách tượng trưng mà phụ nữ dùng để chống lại đàn ông, như kế sách của ma thuật,_ vẫn bị thống trị, bởi toàn bộ những biểu tượng và thủ thuật huyền thoại mà họ sử dụng hay những mục đích mà họ theo đuổi (như tình yêu hoặc sự bất lực của người đàn ông được yêu hay bị ghét) đều có căn nguyên ở cách nhìn coi nam giới là trung tâm, nhân danh cách nhìn này mà họ bị thống trị. Không đủ hiệu lực để lật đổ thực sự mối quan hệ thống trị, những kế sách này ít ra cũng có tác dụng cung cấp những xác nhận cho cách hình dung chủ đạo về phụ nữ như những sinh thể có hại, mà bản sắc, hoàn toàn tiêu cực, chủ yếu được cấu thành bởi các điều cấm kị, rất thích hợp để tạo ra chừng ấy cơ hội vi phạm: đặc biệt đó là trường hợp của mọi hình thức bạo lực êm dịu, đôi khi hầu như không nhìn thấy, mà phụ nữ đem đối lập với bạo lực cụ thể hữu hình hoặc tượng trưng mà đàn ông thực thi với họ, từ ma thuật, mưu mẹo, lời nói dối hay sự thụ động (nhất là trong hành vi tính dục), cho đến tình yêu chiếm hữu của những kẻ bị ám ảnh, tình yêu của người mẹ miền Địa Trung Hải hay của người vợ mang tính chất mẹ, cảm thấy mình là nạn nhân và cảm thấy tội https://thuviensach.vn lỗi trong khi thấy mình là nạn nhân và trong khi dâng hiến sự bao la vô hạn của lòng tận tụy và của nỗi đau câm lặng như là tặng vật không thể có vật tặng-trở-lại hoặc như món nợ không thể nào trả được. Như vậy, dù họ làm gì chăng nữa, phụ nữ cũng bị buộc phải cung cấp bằng chứng về tính hiểm độc của họ và bù lại phải biện minh cho những điều cấm đoán cũng như cho thành kiến gán cho họ một bản thể có hại - theo cái logic, đúng là mang tính bi kịch, muốn rằng thực tế xã hội do nền thống trị sản sinh thường xác nhận những sự hình dung mà nền thống trị ấy viện ra để tự thực thi và tự biện minh. Như vậy, cách nhìn coi nam giới là trung tâm liên tục được hợp thức hóa bởi chính những sự thực hành do cách nhìn đó quy định: bởi các khuynh hướng của phụ nữ là sản phẩm của sự hội nhập vào cơ thể thành kiến bất lợi chống lại nữ tính được thiết lập trong trật tự của sự vật, nên phụ nữ chỉ có thể luôn luôn xác nhận thành kiến ấy. Logic này là logic của sự trù rủa, theo nghĩa mạnh là điều tiên tri tự thực hiện (self-fulfilling prophecy) đầy bi quan, vời gọi kiểm chứng chính nó và làm xảy ra những gì nó đoán trước. Logic này hoạt động, hằng ngày, trong nhiều sự trao đổi giữa các giới: cũng những khuynh hướng khiến đàn ông thiên về phó cho phụ nữ những nhiệm vụ cấp thấp cùng những công việc bạc bẽo và nhỏ nhen (như ở thế giới của chúng ta, việc hỏi giá cả, kiểm tra hóa đơn, nài xin hạ giá), tóm lại, rũ bỏ mọi cách xử sự ít thích hợp với ý tưởng về phẩm cách đàng hoàng của họ, lại cũng khiến họ chê bai phụ nữ vì “đầu óc hẹp hòi” hay “nhỏ nhen tầm thường”, thậm chí quở trách phụ nữ nếu phụ nữ thất bại trong những việc mà đàn ông đã để mặc họ phải lo, song lại chẳng chịu coi trọng họ vì thành công mà nhỡ đâu họ có thể đạt được62. Bạo lực tượng trưng Như vậy, sự thống trị của nam giới thấy tất cả những điều kiện cho sự thực thi trọn vẹn của nó được tập hợp. Quyền ngồi trên mà toàn thiên hạ thừa https://thuviensach.vn nhận cho đàn ông tự khẳng định trong tính khách quan của các cấu trúc xã hội và của các hoạt động sản xuất và tái sản xuất, đặt cơ sở trên một sự phân công theo giới tính về lao động sản xuất và tái sản xuất sinh học và xã hội, sự phân công này trao cho đàn ông phần tốt đẹp hơn, quyền ngồi trên ấy còn tự khẳng định cả trong những dạng thức cố hữu của mọi habitus: được đào luyện bởi những điều kiện tương tự, vậy là hòa hợp một cách khách quan, những dạng thức này hoạt động như những khuôn đúc nên các tri giác, các tư tưởng và hành động của mọi thành viên của xã hội, những tiên nghiệm mang tính lịch sử, do được toàn thể mọi người cùng chia sẻ, nên tự áp đặt cho mỗi tác nhân với tư cách tiên nghiệm. Bởi vậy, sự hình dung về tái sản xuất sinh học và tái sản xuất xã hội, một sự hình dung coi nam giới là trung tâm, được trao tặng tính khách quan của một lẽ thường, được hiểu như là sự đồng thuận thực tiễn, thuộc dư luận chung, về ý nghĩa của các thực hành ứng dụng. Và bản thân những người phụ nữ cũng áp dụng vào mọi thực tế, và, đặc biệt, vào các quan hệ quyền lực mà họ bị mắc trong đó, những dạng thức tư duy là sản phẩm của sự hội nhập vào cơ thể các quan hệ quyền lực này và biểu lộ trong những đối lập tạo dựng nên trật tự tượng trưng. Cho nên chính vì vậy mà các hành vi nhận thức của họ là những hành vi thừa nhận mang tính thực tiễn, hành vi tán đồng theo dư luận, là tín ngưỡng không cần tự tư duy và tự khẳng định với tư cách tín ngưỡng, và có thể nói là “làm ra” bạo lực tượng trưng mà nó phải chịu đựng63. Mặc dù tôi không có một ảo tưởng nào rằng mình có năng lực xua tan trước mọi sự hiểu lầm, song tôi chỉ muốn đề phòng những nghĩa sai thô thiển nhất thường phạm phải đối với khái niệm bạo lực tượng trưng, tất cả những nghĩa sai này đều có căn nguyên ở một sự diễn giải ít hay nhiều giản lược về tính từ “tượng trưng”, được dùng ở đây theo một nghĩa mà tôi cho là nghiêm ngặt và tôi đã trình bày cơ sở lí thuyết trong một bài viết đã lâu64. Do hiểu “tượng trưng” theo một trong những nghĩa thông thường nhất của nó, nên đôi khi người ta cho rằng nhấn mạnh đến bạo lực tượng trưng, tức là giảm nhẹ vai trò của bạo lực cụ thể hữu hình và (làm cho) quên rằng có những phụ nữ https://thuviensach.vn bị đánh đập, cưỡng bức, bóc lột, hoặc, tệ hơn nữa, là muốn giải tội cho đàn ông về hình thức bạo lực ấy. Hiển nhiên là không hề có chuyện đó. Do hiểu “tượng trưng” là đối lập với hiện thực, xác thực, nên người ta cho rằng bạo lực tượng trưng là một bạo lực thuần túy “tinh thần” và, rốt cuộc, không có hiệu quả thực tế. Chính sự phân biệt ngây ngô này, riêng thuộc một duy vật luận sơ đẳng, là điều mà lí thuyết duy vật về tổ chức và điều hành các tài sản tượng trưng, mà tôi ra sức xây dựng từ nhiều năm nay, nhằm đả phá, bằng cách dành vị trí trong lí thuyết cho tính khách quan của trải nghiệm chủ quan về các quan hệ thống trị. Một sự hiểu lầm nữa, là việc viện dẫn dân tộc học, mà tôi cố gắng chỉ ra ở đây các chức năng phát hiện, bị nghi ngờ là một phương sách để phục hồi, dưới bề ngoài khoa học, huyền thoại về “nữ tính vĩnh hằng” (hoặc nam tính) hay, nghiêm trọng hơn, để vĩnh viễn hóa cấu trúc nền thống trị của nam giới bằng cách miêu tả nó như là bất biến và vĩnh hằng. Trong khi đó, không hề khẳng định rằng các cấu trúc thống trị là phi lịch sử, tôi sẽ gắng xác định rằng chúng là sản phẩm của một công việc tái sản xuất không ngừng (vậy là mang tính lịch sử) có sự góp phần của những tác nhân đặc thù (trong đó có đàn ông, với những vũ khí như bạo lực cụ thể hữu hình và bạo lực tượng trưng) cùng các thể chế, gia đình, Nhà thờ, Nhà trường, Nhà nước. Những kẻ bị trị áp dụng những phạm trù được kiến tạo theo quan điểm của kẻ thống trị vào các quan hệ thống trị, do đó làm cho những quan hệ này có vẻ như tự nhiên. Điều đó có thể dẫn tới một kiểu tự-giảm-giá, thậm chí tự chê-bai một cách hệ thống, đặc biệt rõ ràng, như ta đã thấy, trong sự hình dung của phụ nữ Kabylie về bộ phận sinh dục của mình như một vật khiếm khuyết, xấu xí, thậm chí gớm guốc (hoặc, trong thế giới của chúng ta, trong cái nhìn của nhiều phụ nữ đối với thân thể mình như không phù hợp với các tiêu chuẩn thẩm mĩ do thời trang áp đặt), và, thông thường hơn nữa, trong việc họ tán đồng một hình ảnh làm giảm giá trị người phụ nữ65. Bạo lực tượng trưng tự thiết lập qua trung gian của sự tán đồng mà kẻ bị trị không thể không chấp thuận cho kẻ thống trị (vậy là cho sự thống trị) khi mà kẻ bị trị, https://thuviensach.vn để tư duy về kẻ thống trị và để tư duy về mình, hoặc, hơn nữa, để tư duy về quan hệ của mình với kẻ kia, chỉ có để sử dụng những công cụ nhận thức chung với kẻ kia, và bởi các công cụ này chỉ là hình thức đã được hội nhập vào cơ thể của mối quan hệ thống trị, nên chúng làm cho quan hệ đó như thể tự nhiên; hoặc, nói theo cách khác, khi các dạng thức mà kẻ bị trị đưa vào hoạt động để tự tri giác và tự đánh giá, hoặc để nhận thấy và đánh giá kẻ thống trị (cao/thấp, nam tính/nữ tính, trắng/đen, v.v.), là sản phẩm của việc hội nhập vào cơ thể những sự phân loại, như vậy là đã được tự nhiên hóa, mà thực thể xã hội của kẻ bị trị là sản phẩm của những sự phân loại này. Vì không thể gợi lại một cách đủ tinh tế (nếu vậy cần phải có một Virginia Woolf) những ví dụ khá nhiều, khá đa dạng và khá hùng hồn về những tình thế cụ thể nơi cái bạo lực êm dịu và nhiều khi không nhìn thấy được ấy đang thực thi, nên tôi sẽ dựa vào những quan sát, mà tính khách quan của chúng buộc mọi người phải thừa nhận một cách khó bàn cãi hơn là việc miêu tả điều cực nhỏ trong các tác động tương hỗ. Như vậy, người ta nhận thấy đại đa số phụ nữ Pháp tuyên bố rằng họ mong muốn có một người chồng lớn tuổi hơn và, theo cách hoàn toàn nhất quán, cũng cao lớn hơn họ, hai phần ba số phụ nữ này thậm chí còn khước từ rành rọt một người đàn ông không cao bằng mình66. Việc không chịu thấy mất đi những dấu hiệu thông thường của “trật tự đẳng cấp” giới tính có nghĩa gì đây? Michel Bozon trả lời: “Chấp nhận một sự đảo ngược các bề ngoài, đó là để cho mọi người nghĩ rằng chính người đàn bà thống trị, điều này (một cách nghịch lí) hạ thấp người đàn bà về phương diện xã hội: người đó cảm thấy mình bị giảm giá cùng với một người đàn ông giảm giá.67” Vậy nhận xét rằng phụ nữ nói chung thường đồng ý với đàn ông (về phía họ, đàn ông thích những người đàn bà trẻ tuổi hơn mình) để chấp nhận những dấu hiệu bề ngoài của một địa vị bị trị, như thế chưa đủ; trong sự hình dung của phụ nữ về quan hệ giữa họ với người đàn ông mà thân phận xã hội của họ đang (hoặc sẽ) gắn bó, họ coi trọng sự hình dung mà toàn thể đàn ông và đàn bà ắt sẽ có về anh ta trong khi áp dụng cho anh ta những dạng thức tri giác và đánh giá mà tất cả mọi người (trong quần thể được xem https://thuviensach.vn xét) đều chia sẻ. Do những nguyên tắc chung này đòi hỏi một cách ngấm ngầm và không thể bàn cãi rằng người đàn ông, ít ra là bề ngoài và đối với bên ngoài, phải chiếm địa vị thống trị trong cặp vợ chồng, nên chính vì anh ta, vì phẩm cách đàng hoàng mà phụ nữ thừa nhận cho anh ta một cách tiên nghiệm và muốn thấy toàn thiên hạ thừa nhận, song cũng vì bản thân mình nữa, vì phẩm cách đàng hoàng của chính mình, mà phụ nữ chỉ có thể muốn và yêu một người đàn ông mà phẩm cách đàng hoàng được khẳng định và được chứng nhận một cách hiển nhiên trong và bởi việc “anh ta hơn họ” rõ rệt. Điều này, dĩ nhiên, là ở bên ngoài mọi tính toán, và thông qua tính võ đoán rành rành của một xu hướng không tự bàn cãi cũng chẳng tự suy luận, nhưng, như việc quan sát những sự chênh lệch được mong muốn, và cũng có thực, xác nhận rằng xu hướng đó chỉ có thể nảy sinh và thực hiện trong kinh nghiệm về ưu thế mà tuổi tác và tầm vóc (được biện giải như những chứng tích về sự chín chắn và như những bào đảm về sự an toàn) là những dấu hiệu khó bàn cãi nhất và được tất cả mọi người thừa nhận một cách rõ ràng nhất68. Để đi đến cùng những nghịch lí mà chỉ một cách nhìn ý hướng luận69 mới cho phép hiểu được, chỉ cần lưu ý rằng những phụ nữ tỏ ra tuân phục mẫu mực “truyền thống” hơn cả - khi bảo rằng họ mong muốn một sự chênh lệch nhiều hơn về tuổi tác - thường được gặp nhiều nhất trong giới thợ thủ công, buôn bán, nông dân và cả công nhân, ở những giới này hôn nhân, đối với phụ nữ, vẫn là phương kế ưu tiên để đạt được một địa vị xã hội; cứ như thể, do là sản phẩm của một sự điều chỉnh vô ý thức cho khớp với những xác suất liên kết với một cấu trúc thống trị khách quan, nên các ý hướng phục tùng biểu lộ trong những ưa chuộng nọ tạo ra điều tương đương với những gì có thể là một tính toán lợi ích được hiểu rõ. Ngược lại, những ý hướng này có chiều yếu đi - có lẽ là với những hiệu quả hystérésis (tồn lưu)70 mà một sự nghiên cứu những biến thiên của các thực tiễn chẳng những theo địa vị đang nắm giữ mà còn theo quỹ đạo có lẽ sẽ cho phép nắm bắt được - dần dần theo mức độ giảm bớt tình trạng phụ thuộc khách quan, tình trạng này góp phần sản sinh và duy trì những ý hướng trên (cũng logic của sự điều chỉnh ý hướng cho https://thuviensach.vn khớp với cơ hội khách quan giải thích rằng người ta có thể ghi nhận việc phụ nữ có khả năng tiến tới nghề nghiệp chuyên môn là một yếu tố chiếm ưu thế trong việc họ có khả năng tiến tới li hôn71). Điều này hướng đến việc xác nhận rằng, trái với sự hình dung lãng mạn, tình cảm yêu đương không phải là không có một hình thái của tính hợp lí vốn chẳng phải nhờ cậy gì ở sự tính toán duy lí, hoặc, nói theo cách khác, nhiều khi tình yêu có một phần là amor fati (tình yêu định mệnh), yêu định mệnh xã hội. Vậy ta chỉ có thể tư duy hình thức thống trị đặc biệt này với điều kiện vượt qua thế đôi ngả của sự ép buộc (do các sức mạnh) và sự tán đồng (các lí lẽ), của sự cưỡng bách máy móc và sự phục tùng tự nguyện, tự do, cố ý, thậm chí tính toán. Hiệu lực của sự thống trị tượng trưng (dù thống trị về dân tộc, về giới, về văn hóa, về ngôn ngữ, v.v.) thực hiện không phải trong logic thuần túy của những ý thức thông hiểu, mà qua những dạng thức cảm nhận, đánh giá và hành động cấu thành các habitus và, vượt ra ngoài những quyết định của ý thức và những sự kiểm soát của ý chí, tạo lập một quan hệ nhận thức hết sức mù mờ khó hiểu đối với chính nó72. Như vậy, logic nghịch lí của sự thống trị của nam giới và sự phục tùng của nữ giới, mà ta có thể nói đồng thời, và không mâu thuẫn, là tự phát và bị cưỡng ép, chỉ có thể hiểu được nếu ta ghi nhận những hiệu lực bền vững mà trật tự xã hội thực hiện đối với phụ nữ (và nam giới), nghĩa là những ý hướng phù hợp một cách tự phát với cái trật tự do logic này áp đặt cho họ. Sức mạnh tượng trưng là một hình thức quyền lực thực thi trên các thân thể, một cách trực tiếp, và như bởi ma thuật, ở bên ngoài mọi cưỡng bức thể chất; nhưng ma thuật này chỉ có công hiệu khi dựa vào những ý hướng được đặt, giống như những chiếc lò xo, ở nơi sâu thẳm nhất của các thân thể73. Nếu nó có thể tác động như một cái bật chốt hãm, nghĩa là với sự tiêu phí năng lượng cực kì ít, đó là vì nó chỉ làm cái việc khởi động những người mà công việc giáo hóa và hội nhập vào cơ thể đã đặt vào những người đàn ông hay đàn bà, những người này, do hiện tượng trên, tạo cơ hội cho nó. Nói theo cách khác, nó tìm được các điều kiện cho tính khả thi của nó, và tìm được https://thuviensach.vn phức bản đối chiếu của nó về tổ chức và điều hành (theo nghĩa mở rộng của từ này) trong công việc vô cùng lớn lao được làm trước, cần thiết để tiến hành một sự biến hóa bền vững các cơ thể và sản sinh ra những ý hướng thường trực do nó khởi động và thức tỉnh; hành động biến hóa này càng có hiệu lực hơn bởi nó thực thi, chủ yếu, một cách vô hình và âm hiểm, thông qua sự làm quen dần dần khó nhận biết với một thế giới cụ thể hữu hình được cấu trúc một cách tượng trưng và thông qua trải nghiệm từ sớm và kéo dài của những tác động tương hỗ trong đó tồn tại những cấu trúc thống trị. Những hành vi thực tế nhận biết và thừa nhận ranh giới thần kì giữa những kẻ thống trị và những kẻ bị trị do ma thuật của quyền lực tượng trưng khởi động, qua các hành vi này những kẻ bị trị góp phần, mà nhiều khi họ không biết, mà đôi khi trái với ý họ, vào sự thống trị đối với chính họ, bằng cách ngầm chấp nhận những hạn giới được áp đặt, những hành vi thực tế ấy thường mang hình thái của những xúc động cơ thể - hổ thẹn, nhục nhã, rụt rè, lo âu, tội lỗi - hoặc của những đam mê và tình cảm - yêu, ngưỡng mộ, tôn trọng; những xúc động đôi khi càng đau đớn hơn bởi chúng tự bộc lộ ra ở những biểu hiện nhìn thấy được, như đỏ mặt, lời lẽ lúng túng, sự vụng về, run rẩy, phẫn nộ hay điên giận bất lực, chừng ấy cách để phục tùng sự phán xét thống trị, dù ngoài ý muốn và bất đắc dĩ, chừng ấy kiểu để cảm nhận, đôi khi trong xung đột nội tâm và trong sự chia tách của cái tôi, sự đồng lõa âm thầm bí ẩn mà một cơ thể, trốn tránh những chỉ thị của ý thức và ý chí, duy trì đối với những sự kiểm duyệt cố hữu của các cấu trúc xã hội. Những đam mê của habitus bị trị (từ điểm nhìn của giới, của dân tộc, của văn hóa hay ngôn ngữ), quan hệ xã hội được cơ thể hóa (somatisé), luật lệ xã hội cải hoán thành luật lệ được hội nhập vào cơ thể (incorporé), không thuộc những đam mê mà ta có thể đình chỉ nhờ một nỗ lực đơn giản của ý chí, trên cơ sở một sự thức nhận có tác dụng giải phóng. Nếu như tin rằng bạo lực tượng trưng có thể bị đánh bại chỉ bằng vũ khí của ý thức và ý chí là chuyện hoàn toàn hão huyền, thì đó là vì tác dụng và điều kiện của tính hiệu quả của bạo lực này được khắc ghi bền vững tại nơi sâu kín nhất trong các thân thể https://thuviensach.vn dưới hình thái ý hướng. Ta đặc biệt thấy rõ điều này trong trường hợp các quan hệ thân tộc và mọi quan hệ hình thành theo mô hình ấy, ở đó những xu hướng bền vững của thân thể xã hội hóa biểu lộ và sống trong logic của tình cảm (tình cha con, tình anh em, v.v.) hoặc của bổn phận, những điều này, do thường hòa trộn trong trải nghiệm về niềm kính trọng và lòng tận tụy mến thương, nên có thể còn tồn tại lâu dài sau khi những điều kiện xã hội sản sinh ra chúng đã tiêu vong. Như vậy người ta nhận thấy rằng, khi những bó buộc bên ngoài mất đi và những quyền tự do rõ ràng minh bạch - quyền bầu cử, quyền được giáo dục, được làm mọi nghề nghiệp, kể cả nghề nghiệp chính trị - đã đạt được, thì việc tự-bài-trừ và “thiên chức” (điều này “tác động” một cách tiêu cực ngang với tích cực) đến thay thế cho sự bài trừ rõ ràng: việc đuổi khỏi những nơi chốn công cộng, khi nó tự khẳng định rành rọt như ở những người Kabylie, buộc phụ nữ phải ở những không gian riêng biệt và khiến cho việc đến gần một không gian nam giới, như xung quanh nơi hội họp, thành một thử thách ghê gớm, việc đuổi này có thể thực hiện ở chốn khác, cũng gần hiệu quả như thế, thông qua loại bệnh sợ quảng trường74 do xã hội áp đặt, chứng bệnh có thể còn tồn tại lâu dài sau khi những điều cấm đoán rõ ràng nhất đã bị phế bỏ và khiến phụ nữ tự bài trừ mình khỏi quảng trường. Nhắc nhở những dấu vết do sự thống trị khắc ghi lâu dài trong các thân thể và những hiệu lực mà sự thống trị thực hiện thông qua các dấu vết này, đó không phải là đem vũ khí đến cho cái cách thức, đặc biệt tà ác, chuẩn nhận sự thống trị, nó phân định cho phụ nữ chịu trách nhiệm về tình trạng bị áp bức của chính họ, bằng cách gợi ý, như đôi khi người ta vẫn làm, rằng phụ nữ lựa chọn việc chấp nhận những hành xử phục tùng (“đàn bà là kẻ thù tệ hại nhất của mình”) hoặc thậm chí họ yêu mến sự thống trị chính mình, “thụ hưởng” những sự đối xử mà mình phải chịu, do một kiểu khoái cảm được hành hạ (masochisme) cấu thành bản tính họ. Cần phải đồng thời thừa nhận rằng những ý hướng “phục tùng” mà đôi khi mọi người vin vào để “chê trách nạn nhân” là sản phẩm của những cấu trúc khách quan, và những cấu trúc này chỉ https://thuviensach.vn có hiệu lực nhờ các ý hướng do chúng khởi động và những ý hướng đó góp phần tái sản xuất chúng. Quyền lực tượng trưng không thể thực thi mà không có sự góp phần của những kẻ phải chịu nó và họ chỉ chịu nó vì họ kiến tạo nó như nó là thế. Nhưng, tránh không dừng lại ở sự kiểm chứng này (như thuyết kiến tạo75theo chủ nghĩa duy tâm, theo phương pháp luận chủng tộc76 hoặc theo kiểu khác), cần phải ghi nhận và thuyết minh về sự kiến tạo của xã hội đối với các cấu trúc nhận thức, chúng tổ chức các hành vi kiến tạo thế giới và kiến tạo những quyền lực của thế giới. Và nhận ra rõ ràng như vậy rằng sự kiến tạo thực tiễn này không hề là hành vi trí tuệ có ý thức, tự do, cố tình của một “chủ thể” cô lập, mà bản thân nó là kết quả của một quyền lực, được khắc ghi bền vững trong cơ thể những kẻ bị trị dưới hình thái những dạng thức tri giác và những ý hướng (muốn ngưỡng mộ, kính trọng, yêu mến v.v.) khiến người ta thành mẫn cảm với một số biểu hiện tượng trưng của quyền lực. Nếu quả thực là bao giờ việc thừa nhận sự thống trị cũng ắt phải có một hành vi nhận biết, ngay cả khi sự thừa nhận có vẻ dựa trên sức mạnh trần trụi, sức mạnh của vũ khí hay sức mạnh của tiền bạc, thì điều này vẫn không hàm ý rằng ta có cơ sở để miêu tả sự thừa nhận ấy bằng ngôn ngữ của ý thức, qua “nẻo đường quanh co” mang tính kinh viện và trí thức luận, như ở Marx (và nhất là ở những người, sau Lukács, nói đến “ngụy ý thức”), cái nẻo đường hướng người ta chờ đợi việc giải phóng phụ nữ ở kết quả máy móc của sự “thức nhận” mà không biết đến, do thiếu một lí thuyết ý hướng luận về các thực tiễn, tình trạng mờ đục và sức ì là kết quả của việc khắc ghi những cấu trúc xã hội trong cơ thể. Nếu như Jeanne Favret Saada đã chỉ rõ tính không thích đáng của khái niệm “tán đồng” đạt được nhờ “thuyết phục và cám dỗ”, thì bà lại không thực sự ra khỏi được thế đôi ngả của sự cưỡng ép và sự tán đồng như là “tự do thừa nhận” và “đồng tình rõ ràng” vì, giống như Marx, người được bà vay mượn các từ ngữ về sự tha hóa, bà vẫn bị giam cầm trong một triết học về “ý thức” (bà nói về “ý thức bị thống trị, bị chia ra từng mảnh, mâu thuẫn, của https://thuviensach.vn người phụ nữ bị áp bức” hoặc nói về “sự xâm lấn ý thức của phụ nữ bởi quyền lực về thể chất, về pháp luật và về tinh thần của đàn ông”); do không ghi nhận hiệu quả bền vững mà trật tự nam giới thực hiện trên các cơ thể, nên bà không thể hiểu một cách thích đáng sự phục tùng hoan hỉ nó là hiệu quả riêng thuộc bạo lực tượng trưng77. Ngôn ngữ của “tưởng tượng” mà ta thấy sử dụng chỗ này chỗ khác, hơi quàng xiên một chút, có lẽ lại còn kém thích đáng hơn ngôn ngữ của “ý thức” ở chỗ nó đặc biệt có xu hướng quên đi rằng nguyên tắc nhìn thống trị không phải là một sự hình dung tinh thần đơn giản, một huyễn tưởng (“những ý tưởng trong đầu”), một “hệ tư tưởng”, mà là một hệ thống cấu trúc được khắc ghi bền vững trong các sự vật và các cơ thể. Nicole-Claude Mathieu có lẽ là người đã đẩy xa nhất, trong một văn bản mang nhan đề Về ý thức bị thống trị78, việc phê phán khái niệm tán đồng nó “thủ tiêu hầu như mọi trách nhiệm của kẻ áp bức79” và “một lần nữa, quả thực đổ tội cho người bị áp bức80’’, nhưng, do không từ bỏ ngôn ngữ của “ý thức”, nên bà đã không đẩy đến tận cùng việc phân tích những sự hạn chế khả năng tư duy và hành động do sự thống trị áp đặt cho những phụ nữ bị áp bức81 và sự “xâm lấn ý thức của phụ nữ bị áp bức bởi quyền lực hiện diện khắp nơi của nam giới82’’. Những sự phân biệt mang tính phê phán này không có gì là vô cớ hết: quả thực, những sự phân biệt ấy bao hàm rằng cuộc cách mạng tượng trưng mà phong trào nữ quyền kêu gọi không thể thu hẹp vào một sự cải hoán đơn giản các ý thức và ý chí. Do nền tảng của bạo lực tượng trưng không ở các ý thức bị lừa phỉnh chỉ cần soi sáng mà ở những ý hướng khớp với những cấu trúc thống trị sản sinh ra các ý hướng ấy, nên ta chỉ có thể chờ đợi một sự đoạn tuyệt mối quan hệ đồng lõa mà các nạn nhân của bạo lực tượng trưng thuận cho những kẻ thống trị, ở một sự biến đổi triệt để các điều kiện xã hội sản sinh ra những ý hướng khiến kẻ bị trị nhìn kẻ thống trị và nhìn bản thân từ chính điểm nhìn của kẻ thống trị. Bạo lực tượng trưng chỉ thực hiện thông qua một hành vi thực tiễn nhận biết và không nhận biết ra, tiến hành ở phía bên kia của ý thức và ý chí, nó trao ‘‘quyền lực thôi miên” của nó cho mọi sự https://thuviensach.vn biểu thị, truyền bảo, xúi giục, dụ dỗ, dọa nạt, trách móc, ra lệnh hoặc nhắc nhở phải giữ trật tự. Nhưng một quan hệ thống trị chỉ vận động thông qua sự đồng lõa của các ý hướng, thì để vĩnh cửu hóa hoặc để biến hóa, nó phụ thuộc sâu sắc vào sự vĩnh cửu hóa hoặc sự biến hóa của các cấu trúc sản sinh ra những ý hướng trên (và đặc biệt phụ thuộc vào cấu trúc của một thị trường tài sản tượng trưng mà luật lệ cơ bản là phụ nữ bị đối xử tại đó như những vật thể (objet) lưu thông từ thấp lên cao). Phụ nữ trong sự tổ chức và điều hành các tài sản tượng trưng Như vậy, các ý hướng (habitus83) khăng khít không tách rời các cấu trúc (habitudines, theo nghĩa của Leibniz) sản xuất và tái sản xuất chúng, ở đàn ông cũng như ở phụ nữ, và đặc biệt là không tách rời toàn bộ cấu trúc của các hoạt động nghi lễ-chuyên môn mà nền tảng cuối cùng nằm ở cấu trúc của thị trường tài sản tượng trưng84. Nguyên tắc về địa vị hạ đẳng và về sự bài trừ phụ nữ, được hệ thống lễ nghi-huyền thoại phê chuẩn và khuếch đại, đến mức khiến nó thành nguyên tắc phân chia toàn thế giới, chẳng là cái gì khác ngoài tình trạng bất đối xứng căn bản, bất đối xứng giữa chủ thể và đối tượng, giữa tác nhân và công cụ, thiết lập giữa người đàn ông và người đàn bà trên lĩnh vực của những sự trao đổi tượng trưng, của các quan hệ sản xuất và tái sản xuất tư bản tượng trưng, mà thiết bị trung tâm là thị trường hôn nhân, những điều này nằm ở nền tảng của mọi trật tự xã hội: phụ nữ chỉ có thể xuất hiện tại đó với tư cách đối tượng85 hoặc, hơn nữa, với tư cách biểu tượng mà ý nghĩa được kiến tạo ở bên ngoài họ và chức năng là góp phần làm vĩnh tồn hoặc tăng thêm tư bản tượng trưng do đàn ông nắm giữ. Sự thật của phận vị được trao cho phụ nữ, tự bộc lộ ngược lại trong tình thế cực hạn, tại đó, để tránh tình trạng tuyệt diệt của dòng họ, một gia đình không có hậu duệ nam không có cách nào khác ngoài việc lấy cho con gái mình một người đàn ông, awrith, người này, trái với tục lệ về ở nhà chồng, lại đến cư ngụ tại nhà vợ https://thuviensach.vn mình và như vậy là lưu thông như một người đàn bà, nghĩa là như một đồ vật (người Kabylie bảo “anh ta làm cô dâu”): bản thân nam tính như vậy là bị đặt thành vấn đề, người ta nhận thấy, ở Béarn cũng như ở Kabylie, toàn bộ quần thể có một kiểu khoan dung quyết tụng đối với những mưu mẹo mà cái gia đình bị nhục nhã như vậy đưa vào hoạt động để cứu vãn bề ngoài của danh dự gia đình và, nếu được chừng nào hay chừng ấy, bề ngoài danh dự của “người đàn ông đồ vật”, con người này, trong khi tự thủ tiêu với tư cách đàn ông, khiến danh dự của gia đình tiếp nhận anh ta thành có vấn đề. Việc lí giải vị trí tối cao dành cho nam tính trong các phân loại văn hóa nằm ở logic của sự tổ chức và điều hành các trao đổi tượng trưng, và chính xác hơn ở sự kiến tạo xã hội các quan hệ thân tộc và hôn nhân, chúng phân định cho phụ nữ phận vị xã hội là vật trao đổi được xác định phù hợp với lợi ích của nam giới và được dành cho việc góp phần tái sản xuất tư bản tượng trưng của đàn ông. Điều cấm kị về loạn luân qua đó Lévi-Strauss nhìn thấy hành vi tạo lập xã hội với tư cách là hành vi bao hàm yêu cầu khẩn thiết của sự trao đổi được hiểu như giao lưu bình đẳng giữa đàn ông, điều cấm kị này có tương quan với thiết chế bạo lực qua đó phụ nữ bị phủ định với tư cách là chủ thể của sự trao đổi và của liên minh được thiết lập thông qua họ, nhưng bằng cách quy họ về trạng thái đồ vật hoặc, hơn nữa, trạng thái công cụ tượng trưng cho đường lối của nam giới: do bị dành cho việc lưu thông như những kí hiệu tín dụng và như vậy là thiết lập nên các quan hệ giữa những người đàn ông, nên phụ nữ bị quy về phận vị là công cụ sản suất hoặc tái sản xuất tư bản tượng trưng và tư bản xã hội. Và có lẽ, bằng cách đẩy đến cùng việc đoạn tuyệt với cách nhìn thuần túy “kí hiệu học” cua Lévi-Strauss, cần phải thấy sự lưu thông kiểu Sade, như Anne-Marie Dardigna nói, khiến “thân thể phụ nữ, theo nghĩa đen, là một vật có thể định giá và đổi lẫn nhau, lưu thông giữa đàn ông với cùng danh nghĩa như tiền tệ86’’, là cực hạn, tỉnh mộng hay trơ tráo, của sự lưu thông của Lévi-Strauss, có lẽ khả thi do tình trạng tỉnh mộng (mà sự dâm đãng là một dạng vẻ) kết hợp với việc phổ cập hóa các trao đổi tiền tệ, sự lưu thông này đưa ra ánh sáng lồ lộ bạo lực mà, phân tích đến cùng, là https://thuviensach.vn nền tảng của sự lưu thông hợp thức những người phụ nữ hợp thức. Cách hiểu đơn thuần theo kí hiệu học, quan niệm việc trao đổi những người đàn bà như quan hệ giao lưu, che lấp kích thước chính trị của giao dịch hôn nhân, tương quan lực lượng tượng trưng nhằm duy trì hoặc gia tăng thế lực tượng trưng87, còn cách diễn giải thuần túy “kinh tế học”, marxit hoặc khác, lẫn lộn logic của kiểu thức sản xuất tượng trưng với logic của một kiểu thức sản xuất kinh tế thực sự, lí giải việc trao đổi những người đàn bà như một sự trao đổi hàng hóa, tất cả đều bỏ sót tính nhập nhằng cốt yếu của sự tổ chức và điều hành các tài sản tượng trưng: do hướng về việc tích lũy tư bản tượng trưng (danh dự), nên sự tổ chức và điều hành này biến đổi các vật liệu thô, đứng đầu những vật liệu này là người đàn bà, song cũng biến tất cả các vật có thể đem trao đổi theo nghi thức, thành tặng vật (chứ không thành sản phẩm), tức là thành những kí hiệu giao lưu đồng thời cũng là những công cụ thống trị88. Một lí thuyết như vậy không chỉ lưu ý đến cấu trúc đặc thù của sự trao đổi này, mà còn đến cả công việc xã hội mà sự trao đổi đó đòi hỏi ở những người thực hiện trao đổi, đặc biệt là công việc xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất cả các tác nhân (chủ động, những người đàn ông, hoặc thụ động, những người đàn bà) và cả chính logic của sự trao đổi - điều này ngược lại với ảo tưởng cho rằng tư bản tượng trưng tái sản xuất có thể nói là do sức mạnh của chính nó, và ở bên ngoài hoạt động của các tác nhân đặt trong không gian và thời gian. (Tái) sản xuất các tác nhân, tức là (tái) sản xuất các phạm trù (theo nghĩa kép là các dạng thức tri giác và đánh giá, và các quần thể xã hội) tổ chức nên xã hội, dĩ nhiên là các phạm trù họ hàng thân thích, nhưng cả các phạm trù lễ nghi-huyền thoại: (tái) sản xuất trò chơi và các thứ đặt cược, đó là (tái) sản xuất những điều kiện để đạt được sự tái sản xuất xã hội (chứ không chỉ đạt được riêng tính dục), sự tái sản xuất xã hội này được đảm bảo bởi một sự trao đổi mang tính đua tranh nhằm tích lũy những phận vị thuộc gia hệ, những thanh danh thuộc dòng dõi hoặc tổ tiên, tức là tích lũy tư bản tượng trưng, vậy là tích lũy những uy lực và những quyền bền vững đối với https://thuviensach.vn những con người: đàn ông sản xuất các kí hiệu và trao đổi chúng một cách chủ động, như những đối tác-đối thủ liên kết bởi một mối quan hệ chủ yếu là bình đẳng về danh dự, chính là điều kiện của một sự trao đổi có thể sản xuất ra tình trạng bất bình đẳng về danh dự, tức là sự thống trị - điều này không có ở một cách nhìn kí hiệu học đơn thuần theo kiểu nhìn của Lévi-Strauss. Vậy tình trạng bất đối xứng là triệt để giữa người đàn ông, chủ thể, và người đàn bà, đối tượng của sự trao đổi; giữa người đàn ông, chịu trách nhiệm và chủ nhân của sự sản xuất và tái sản xuất, và người đàn bà, sản phẩm bị biến hóa của công việc trên89. Khi mà - như trường hợp ở Kabylie - việc kiếm được tư bản tượng trưng và tư bản xã hội gần như là hình thức tích lũy duy nhất có thể, thì phụ nữ là những giá trị cần phải giữ gìn khỏi sự xúc phạm và sự nghi ngờ, những giá trị đem ra đầu tư trong các cuộc trao đổi, có thể sản xuất các mối liên minh, tức là tư bản xã hội, và những đồng minh có uy thế, tức là tư bản tượng trưng. Trong chừng mực mà giá trị của những sự liên minh này, nghĩa là lợi lộc tượng trưng mà những mối liên minh đó có thể cung cấp, phụ thuộc một phần vào giá trị tượng trưng của những người phụ nữ có thể đem trao đổi, tức là vào danh tiếng của họ và nhất là sự trinh khiết của họ - được kiến tạo thành thước đo được sùng bái để đo danh tiếng của nam giới vậy là đo tư bản tượng trưng của cả dòng họ - thì danh dự của những người anh hoặc những ông bố, dẫn tới một sự cảnh giác cũng ngặt nghèo tỉ mỉ, thậm chí cuồng loạn, như sự cảnh giác của những người chồng, danh dự ấy là một hình thái của lợi ích được hiểu rõ. Sức nặng quyết định của sự điều hành tài sản tượng trưng, tổ chức nến toàn bộ sự cảm nhận xã hội thông qua nguyên tắc phân chia cơ bản, sức nặng ấy tự áp đặt cho toàn thể xã hội, tức là không chỉ cho việc tổ chức và điều hành sự sản xuất kinh tế, mà cả cho việc tổ chức và điều hành sự tái sản xuất sinh học. Chính như vậy mà ta có thể giải thích, ở trường hợp của xứ Kabylie và ở nhiều truyền thống khác nữa, công việc thai nghén và sinh nở riêng thuộc phụ nữ như thể bị phế bỏ để có lợi cho công việc làm sinh sôi nảy nở https://thuviensach.vn riêng thuộc nam giới (Nhân tiện ta sẽ lưu ý rằng, nếu như, trong khi tự đặt mình vào một viễn cảnh phân tâm học, Marie O’Brien đã không lầm khi nhìn thấy sự thống trị của nam giới là sản phẩm của nỗ lực nơi đàn ông để khắc phục tình trạng họ bị tước mất các phương tiện tái sản xuất giống loài và để khôi phục quyền tối thượng của địa vị làm cha bằng cách che giấu công việc thực sự của phụ nữ trong sinh đẻ, thì bà lại bỏ qua không đưa công việc “thuộc tư tưởng” này về với những nền tảng đích thực của nó, tức là về với những bó buộc của sự tổ chức và điều hành tài sản tượng trưng, chúng bắt việc tái sản xuất sinh học phải phụ thuộc vào các nhu cầu của việc tái sản xuất tư bản tượng trưng90.). Trong chu kì sinh đẻ cúng như trong chu kì nông nghiệp, logic lễ nghi-huyền thoại dành ưu tiên cho sự can thiệp của nam giới, luôn được đánh dấu, nhân dịp kết hôn hoặc khởi đầu việc cày bừa, bằng những nghi lễ công khai, chính thức, tập thể, làm thiệt thòi cho những thời kì thai nghén, của đất đai trong mùa đông, cũng như của phụ nữ, chỉ diễn ra những hành vi nghi thức tùy ý không bắt buộc và gần như thầm lén: một bên, là một sự can thiệp đứt-đoạn và khác-thường trong tiến trình của cuộc sống, hành động khai mở liều mình và nguy hiểm được thực hiện một cách long trọng - đôi khi, như lần cày bừa đầu tiên, một cách công khai, trước mặt tập đoàn; bên kia, là một thứ quá trình nở phồng lên một cách tự nhiên và thụ động mà mặt đất và phụ nữ là nơi chốn, là cơ hội, là giá đỡ, hơn là tác nhân, và chỉ yêu cầu ở phụ nữ những công việc phụ trợ, mang tính chuyên môn hoặc nghi thức, những hành vi nhằm giúp đỡ thiên nhiên đang hoạt động (như việc giẫy cỏ và thu lượm cỏ cho gia súc) và, do đó, bị kết án đến hai lần phải âm thầm không ai biết tới, và trước tiên là không được đàn ông biết tới: quen thuộc, liên tục, bình thường, lặp lại và đơn điệu, “khiêm nhường hèn mọn và dễ dàng”, như lời nhà thơ của chúng ta, phần lớn những công việc ấy được thực hiện khuất mắt mọi người, trong bóng tối của ngôi nhà, hoặc trong những thời gian chết của năm nông nghiệp91. Sự phân biệt giới được khắc ghi, một mặt, trong sự phân chia các hoạt động sản xuất được chúng ta liên tưởng với ý niệm về lao động, và rộng rãi https://thuviensach.vn hơn, trong sự phân chia công việc duy trì tư bản xã hội và tư bản tượng trưng, nó phân định cho đàn ông được độc quyền về mọi hoạt động thể hiện chính thức, công khai, đặc biệt là độc quyền về mọi sự trao đổi vinh dự, trao đổi lời lẽ (trong các cuộc gặp gỡ hằng ngày và nhất là trong nghị hội), trao đổi tặng vật, trao đổi phụ nữ, trao đổi những sự thách thức và hạ sát (mà cực hạn là chiến tranh); mặt khác, nó được khắc ghi ở các ý hướng (các habitus) của các vai trò chủ chốt trong tổ chức và điều hành tài sản tượng trưng: ý hướng của những người phụ nữ, mà sự tổ chức và điều hành này quy về trạng thái vật trao đổi (ngay cả nếu, với một số điều kiện, họ có thể góp phần, ít ra là qua ủy quyền, vào việc định hướng và tổ chức trao đổi, nhất là trao đổi hôn nhân); ý hướng của những người đàn ông, mà toàn bộ trật tự xã hội, đặc biệt là các chế tài tích cực hoặc tiêu cực gắn với hoạt động của thị trường tài sản tượng trưng, buộc phải học được năng lực và xu hướng - các yếu tố cấu thành ý thức danh dự - coi là nghiêm túc mọi trò chơi được kiến tạo như là nghiêm túc. Trong khi miêu tả sự phân chia chỉ riêng các hoạt động sản xuất, như tôi từng làm ở chỗ khác92, dưới luận điểm về sự phân chia lao động giữa các giới, tôi đã lầm lẫn đi theo một định nghĩa dân tộc học về lao động mà ở nơi khác93 chính tôi đã chỉ ra rằng, do là phát kiến mang tính lịch sử, nó khác biệt sâu sắc với định nghĩa tiền tư bản về “lao động” như sự thực thi một chức năng xã hội mà ta có thể nói là “toàn thể” hoặc không phân hóa bao gồm cả những hoạt động mà các xã hội của chúng ta coi như phi sản xuất, bởi không có bất kì một chuẩn nhận nào về tiền tệ: trong xã hội Kabylie và phần lớn các xã hội tiền tư bản, nhưng cũng trong giới quý tộc ở các xã hội của Chế độ cũ, và những tầng lớp có đặc quyền ở các xã hội tư bản, đó là trường hợp của mọi công việc trực tiếp hoặc gián tiếp hướng tới tái sản xuất tư bản xã hội và tư bản tượng trưng, như việc thương lượng một cuộc hôn nhân hay phát biểu tại nghị hội của nam giới ở những người Kabylie, hoặc ở nơi khác, việc chơi một môn thể thao sang trọng, đảm đương một thính phòng, mở một vũ hội hoặc khai mạc một tổ chức từ thiện. Mà, chấp nhận một định nghĩa bị cắt xén https://thuviensach.vn như vậy, là không cho mình nắm bắt được trọn vẹn cấu trúc khách quan của sự phân chia theo giới các “phận sự” hoặc các chức trách, cấu trúc này mở rộng ra mọi lĩnh vực của thực tiễn, đặc biệt là những cuộc trao đổi, với sự khác biệt giữa những trao đổi của nam giới, công khai, đứt đoạn, khác thường, và những trao đổi của phụ nữ, riêng tư, thậm chí thầm kín, liên tục và bình thường, còn mở rộng ra các hoạt động tôn giáo hoặc nghi thức tại đó ta thấy những sự đối lập thuộc cùng một căn nguyên. Sự đầu tư nguyên sơ vào các trò chơi xã hội (illusio), khiến người đàn ông là đàn ông thực sự - ý thức về danh dự, khí lực nam nhi, manliness, hoặc, nói như người Kabylie, “chất Kabylie” (thakhaylith)- là căn nguyên chắc chắn của mọi nghĩa vụ đối với bản thân, động lực hoặc động cơ của tất cả những gì người ta có bổn phận, tức là có bổn phận thực hiện để hợp thức với chính mình, để xứng đáng, trước con mắt của chính mình, với một quan niệm nào đó về người đàn ông. Quả thực, chính trong mối quan hệ giữa một habitus được kiến tạo theo sự phân chia cơ bản giữa thẳng và cong, giữa dựng đứng và nằm, giữa mạnh và yếu, tóm lại, giữa nam tính và nữ tính, với một không gian xã hội cũng được tổ chức theo sự phân chia trên mà sinh ra, như chừng ấy điều khẩn cấp, chừng ấy điều phải làm, những sự đầu tư mang tính đua tranh của đàn ông cùng những đức tính, tất cả đều là kiêng cữ và nín nhịn, của đàn bà. Như vậy, vấn đề danh dự, hình thái đặc thù của cảm quan về trò chơi đạt được nhờ tuân phục lâu dài các sự hợp thức và các quy tắc của sự tổ chức và điều hành tài sản tượng trưng, là căn nguyên của hệ thống chiến lược tái sản xuất nhờ đó những người đàn ông, chiếm giữ độc quyền về phương tiện sản xuất và tái sản xuất tư bản tượng trưng, gắng đảm bảo việc duy trì hoặc gia tăng tư bản đó: chiến lược sinh đẻ, chiến lược hôn nhân, chiến lược giáo dục, chiến lược kinh tế, chiến lược kế thừa di sản, tất cả đều hướng về việc chuyển giao những quyền lực và những đặc quyền được thừa kế94. Điều bất đắc dĩ của trật tự tượng trưng trở thành đức tính, nó là sản phẩm từ sự hội nhập vào cơ thể khuynh hướng của danh dự (tức là của tư bản tượng trưng, sở hữu https://thuviensach.vn chung của một dòng họ hoặc - như ở miền Béarn và các gia đình quý tộc thời Trung cổ, có lẽ còn vượt xa hơn nữa - của một “gia tộc”) muốn lưu truyền vĩnh viễn thông qua hành động của các tác nhân. Phụ nữ bị loại trừ khỏi mọi chốn công cộng, hội nghị, thương trường, nơi tiến hành những trò chơi được coi như nghiêm túc nhất của đời người, ví dụ như những trò chơi về danh dự. Và có thể nói là bị loại trừ, một cách tiên nghiệm, nhân danh nguyên tắc (ngầm) bình đẳng về danh dự muốn rằng sự thách thức, bởi nó làm vinh dự, chỉ có giá trị nếu như nó được gửi tới một người đàn ông (ngược lại với đàn bà) mà là đàn ông danh giá, có khả năng trả miếng, sự trả miếng này làm vinh dự, do cũng chứa đựng một hình thức thừa nhận. Tính vòng tròn hoàn hảo của tiến trình chỉ ra rằng đây là một sự phân định võ đoán. Khí lực nam nhi và bạo lực Nếu như phụ nữ, vốn phải chịu đựng một công cuộc xã hội hóa nhằm giảm giá trị của họ, phủ định họ, thường học tập những đức tính tiêu cực của sự hi sinh, sự nhẫn nhục và sự thinh lặng, thì đàn ông cũng là tù binh, và là nạn nhân một cách âm hiểm, của sự hình dung chủ yếu. Giống như các ý hướng phục tùng, những ý hướng muốn đòi và muốn thực thi sự thống trị không nằm trong một bản chất và phải được kiến tạo bởi một công cuộc xã hội hóa lâu dài, tức là, như ta đã thấy, một công cuộc khu biệt hóa tích cực đối với giới đối lập. Địa vị đàn ông theo nghĩa vir bao hàm một sự phải-là (devoir-être), một virtus nó tự áp đặt theo kiểu “dĩ nhiên như vậy rồi”, không bàn cãi. Tương tự như sự quý phái, danh dự - được khắc ghi trong cơ thể dưới hình thái một tập hợp những khuynh hướng có vẻ tự nhiên, nhiều khi nhìn thấy được ở một cách thức đặc biệt giữ tư thái, ở một tư thế thân thể, một dáng đầu, một thái độ, một kiểu bước đi, liên đới với một cách thức suy nghĩ và hành động, một ethos, một tín ngưỡng, v.v. - chi phối con người danh dự, vượt khỏi mọi bó buộc bên ngoài. Nó chỉ huy (theo nghĩa kép) các suy nghĩ https://thuviensach.vn và hành xử của người đó theo kiểu một sức mạnh (“điều đó mạnh hơn bản thân anh ta”) nhưng không ép buộc anh ta một cách máy móc (anh ta có thể lẩn tránh và không ở ngang tầm với sự đòi hỏi); nó dẫn dắt hành động của anh ta theo kiểu một tất yếu logic (“anh ta không thể làm khác” nếu không thế là tự chối bỏ mình), nhưng không áp đặt cho anh ta như một phép tắc, hoặc như phán quyết logic không nao núng của một kiểu tính toán duy lí. Cái sức mạnh cao siêu, có thể khiến anh ta chấp nhận như là không sao tránh khỏi hoặc như dĩ nhiên, tức là không bàn bạc không xem xét, những hành động mà người khác sẽ thấy như không thể được hoặc không thể nghĩ tới, đó là tính siêu nghiệm của cái xã hội đã biến thành thực thể và hoạt động như amor fati, tình yêu định mệnh, xu hướng của cơ thể muốn thực hiện một bản sắc được kiến tạo thành bản chất xã hội và như vậy là được biến hóa thành định mệnh. Sự cao thượng khảng khái, hay vấn đề danh dự (nif), theo nghĩa một tập hợp các ý hướng được coi như khảng khái cao thượng (can đảm về thể chất và tinh thần, hào hiệp, đại lượng, v.v.) là sản phẩm của một công cuộc bổ nhiệm và khắc sâu vào trí não do xã hội tiến hành, khi công việc này kết thúc thì một bản sắc xã hội được thiết lập bởi một trong những “đường phân giới thần bí”, được tất cả mọi người biết và thừa nhận, khắc ghi vào một bản tính sinh học, và trở thành nếp cảm nghĩ và xử sự, thành luật lệ xã hội được hội nhập vào cơ thể. Đặc quyền nam giới cũng là một cái bẫy và đặc quyền này tìm thấy phức bản đối chiếu của nó ở trạng thái căng thẳng và gắng sức thường trực, đôi khi bị đẩy đến phi lí, mà nghĩa vụ khẳng định khí lực nam nhi ở bất kì trường hợp nào95 áp đặt cho mỗi người đàn ông. Trong trường hợp mà vấn đề danh dự thực ra có chủ thể là một tập thể, dòng họ hoặc gia tộc, bản thân tập thể này cũng phải chịu những yêu sách cố hữu của trật tự tượng trưng, thì quả thực nó như là một lí tưởng, hoặc, hơn nữa, như một hệ thống yêu sách, mà số phận đã định, trong nhiều trường hợp, là không thể nào đạt được. Khí lực nam nhi, được hiểu như là năng lực tái sản xuất, về tình dục và xã hội, nhưng cũng như là khả năng chiến đấu và thực thi bạo lực (nhất là trong báo thù), trước hết là https://thuviensach.vn một chức trách. Đối lập với phụ nữ, mà danh dự, chủ yếu là tiêu cực, chỉ có thể được bảo vệ hoặc bị mất đi, do đức tính của phụ nữ là sự trinh bạch và sự thủy chung lần lượt tiếp nối nhau, người đàn ông “thực sự đàn ông” là người tự cảm thấy khi gặp cơ hội thì phải gia tăng được danh dự của mình bằng cách tìm vinh quang và danh giá tại lĩnh vực công cộng. Sự phấn khích của các giá trị nam nhi có phức bản đối chiếu tăm tối của nó ở những mối sợ hãi và những lo âu do nữ tính khơi gợi: yếu đuối và là căn nguyên của yếu đuối do hiện thân cho tính dễ bị thương tổn của danh dự, của h’urma, được phong tặng là bên trái (nữ tính, đối lập với nam tính, được phong tặng là bên phải), luôn có nguy cơ bị xúc phạm, phụ nữ cũng mạnh vì mọi vũ khí của sự yếu đuối, như mưu ma chước quỷ, thah’ raymith, và phép thuật96. Mọi sự đều góp phần làm cho lí tưởng bất khả thi về khí lực nam nhi thành căn nguyên của một trạng thái dễ bị tổn thương vô cùng. Một cách nghịch lí, chính trạng thái này dẫn tới việc đầu tư, đôi khi điên khùng, vào mọi trò chơi bạo lực của nam giới, như những môn thể thao trong các xã hội của chúng ta, và đặc biệt là những môn thích hợp nhất để tạo ra các dấu hiệu rõ ràng về nam tính97, và để biểu lộ đồng thời cũng để cảm nhận những phẩm chất bảo là khí lực nam nhi, như các môn thể thao quyết đấu98. Giống như danh dự - hay nỗi nhục, mặt trái của danh dự, mà ta biết rằng, khác với cảm giác tội lỗi, nó được cảm nhận trước mặt những người khác, khí lực nam nhi phải được những người đàn ông khác chuẩn nhận, ở sự thật của bạo lực hiện thời hoặc trong tiềm thế của nó, và được bảo chứng bởi sự thừa nhận rằng mình thuộc quần thể những “đàn ông đích thực”. Nhiều nghi thức xác lập, trong nhà trường hay đặc biệt là trong quân đội, gồm những thử thách thực sự về khí lực nam nhi hướng tới tăng cường những mối đoàn kết nam nhi. Những việc làm như một số cuộc cưỡng hiếp tập thể của những nhóm thanh niên mới lớn - biến thể xuống cấp của việc cùng nhau đi nhà chứa, còn rất sống động trong kí ức của những thanh niên tư sản mới lớn - có mục đích là buộc những người bị thử thách phải khẳng định trước mặt những người khác khí lực nam nhi của họ trong sự thật bạo lực của nó99, tức là ở https://thuviensach.vn bên ngoài mọi niềm thương mến và mọi mối cảm động của tình yêu chúng làm giảm nam tính, và những việc làm trên biểu lộ hùng hồn tính chất tùy thuộc bên ngoài (hétéronomie) của mọi khẳng định về khí lực nam nhi, sự phụ thuộc của những khẳng định này vào phán xét của quần thể nam nhi. Một số hình thái “can đảm”, những hình thái bị đòi hỏi và được thừa nhận bởi quân đội hoặc cảnh sát (và đặc biệt là các “đội tinh nhuệ”) và các bầy nhóm phạm pháp, song cũng bởi, một cách tầm thường hơn, một số tập thể lao động - đặc biệt trong nghề xây dựng, khuyến khích hoặc ép buộc từ chối các biện pháp thận trọng và không thừa nhận hoặc thách thức nguy hiểm bằng những cách cư xử phách lối gây ra nhiều tai nạn - có căn nguyên, một cách nghịch lí, ở nỗi sợ bị mất sự quý trọng hay niềm ngưỡng mộ của quần thể, sợ bị “mất mặt” trước “bạn hữu”, sợ thấy mình bị tống vào loại mang chất nữ tiêu biểu của những “kẻ yếu”, những “kẻ ẻo lả”, những “kẻ nhu nhược”, những “kẻ đồng tính”, v.v. Như vậy, cái mà người ta gọi là “can đảm” đôi khi cũng bắt rễ ở một hình thái hèn nhát: để thuyết phục về điều này, chỉ cần nêu lên mọi tình thế tại đó, để có được những hành vi như giết chóc, tra tấn hoặc hãm hiếp, ý muốn thống trị, bóc lột hoặc áp bức đã dựa trên nỗi sợ “nam nhi” là tự thải loại khỏi thế giới của những “người đàn ông” không yếu đuối, những người mà đôi khi người ta gọi là kẻ “tàn nhẫn” bởi họ tàn nhẫn với sự đau khổ của chính họ và nhất là với nỗi đau khổ của người khác - những kẻ sát nhân, tra tấn và tiểu thủ lĩnh của mọi nền độc tài và mọi “thể chế toàn quyền”, ngay cả những thể chế bình thường nhất, như các nhà tù, các trại lính hoặc các trường nội trú - nhưng cả những ông chủ tham chiến mới mẻ được xưng tụng bởi văn chương tân-tự do ca ngợi thánh nhân, những người nhiều khi cũng phải chịu những thử thách về sự can đảm cụ thể vật chất, và biểu lộ tài cán bằng cách ném những công nhân viên dư thừa của họ vào cảnh thất nghiệp. Khí lực nam nhi, như ta thấy, là một khái niệm mang tính quan hệ rất cao, được kiến tạo trước mặt và để cho những người đàn ông khác, và chống lại nữ tính, trong một kiểu sợ hãi chất nữ, trước hết ở bản thân mình. https://thuviensach.vn 1 Chắc tôi không thể nắm bắt lại được trong Đến chơi tháp hải đăng của Virginia Woolf sự phân tích tàng ẩn trong tác phẩm, về cái nhìn của nam giới (sự phân tích mà tôi sẽ trình bày dưới đây) nếu như tôi không đọc lại tác phẩm bằng con mắt đã được biết về cách nhìn của người Kabylie (V. Woolf, Đến chơi tháp hải đăng - To the Lighthouse, bản dịch của M. Lanoire, Paris, Stock, 1929, tr.24). https://thuviensach.vn 2 Xem J. Peristiany, Honour and Shame: the Values of Mediterranean Society (Danh dự và Sỉ nhục: những giá trị của xã hội Địa Trung Hải), Chicago, University of Chicago Press, 1974, và xem cả J. Pitt Rivers, Mediterranean Countrymen. Essays in the Social Anthropology of the Mediterranean (Những người dân miền Địa Trung Hải, Luận văn Nhân học xã hội về miền Địa Trung Hải), Paris-La Haye, Mouton, 1963. https://thuviensach.vn 3 A. Van Gennep (1873-1957): nhà dân tộc học và folklore học người Pháp. (N.D.) https://thuviensach.vn 4 A. Van Gennep, Khái luận về folklore Pháp đương thời, Paris, Picard. 3 tập, 1937-1958. https://thuviensach.vn 5 Xem E Bourdieu, “Sự đọc, người đọc, văn nhân, văn chương” trong Những điều đã định, Paris, NXB Minuit, 1987, tr.132-143. https://thuviensach.vn 6 Về một sự miêu tả chi tiết việc phân bố những hoạt động giữa các giới, xem P Bourdieu, Cảm quan thực tiễn, sđd, tr.358. https://thuviensach.vn 7 Doxa: tổng thể những ý kiến, những niềm tin của một cộng đồng, thường là điểm xuất phát không được chứng minh cho lập luận của mọi người. Trong triết học, khái niệm doxa (dư luận) thường được đem đối lập với khái niệm connaissance (nhận thức), còn trong đời sống, doxa - danh từ -, doxique - tính từ - nhiều khi mang nghĩa tương đương với lẽ thường, khuôn sáo. (N.D.) https://thuviensach.vn 8Sociodicée: giải thích và biện minh về phương diện lí thuyết cho tổ chức xã hội như nó hiện hữu. Được cấu tạo bởi socio (tiếng Latin) và dikè (chính nghĩa, tiếng Hi Lạp), dựa theo cách cấu tạo từ théodicée (biện thần luận). (N.D) https://thuviensach.vn 9 Représentation: trong ngôn ngữ thông thường, có nghĩa sự thể hiện, sự trình bày, sự hình dung. Về thuật ngữ représentation sociale, một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học và tâm lí học xã hội, xin xem chú thích ở phần sau. (N.D) https://thuviensach.vn 10 Người ta nhiều lần quan sát thấy, trong tri giác xã hội cũng như trong ngôn ngữ, giống đực xuất hiện như là không mang dấu hiệu, có thể gọi là trung tính, đối lập với giống cái, được xác định rõ ràng đặc tính. Dominique Merllié đã có thể kiểm chứng điều này trong trường hợp thừa nhận “giới tính” của sự viết, chỉ có các đặc tính thuộc giống cái được nhận thức như là hiện diện hoặc khiếm diện (xem. D. Merllié. “Giới tính của sự viết. Ghi chú về tri giác của xã hội đối với nữ tính”, Văn kiện nghiên cứu khoa học xã hội, 83, tháng Sáu 1990, tr.40-51). https://thuviensach.vn 11 Chẳng hạn rất đáng chú ý là thực tế ta không gặp những huyền thoại biện minh cho trật tự đẳng cấp về giới (có lẽ trừ huyền thoại về sự ra đời của lúa mạch [xem E Bourdieu, Cảm quan thực tiễn, sđd, tr.128] và huyền thoại nhằm hợp lí hóa tư thế “bình thường” của người đàn ông và người đàn bà trong hành vi tính dục, mà tôi sẽ viện dẫn ở phần sau). https://thuviensach.vn 12 Có thể cần nhắc lại ở đây toàn bộ sự phân tích hệ thống lễ nghi-huyền thoại (ví dụ như, về cấu trúc không gian bên trong nhà: xem R Bourdieu, Cảm quan thực tiễn, sđd, tr.441-461; về tổ chức ngày từ sáng đến tối: tr.415-421; về tổ chức năm nông nghiệp: tr.361-409). Do bị bó buộc chỉ gợi lại ở đây điều tối thiểu cần thiết cho việc xây dựng mô hình, nên tôi phải mời độc giả nào muốn đem lại toàn bộ sức mạnh cho “công cụ phân tích” dân tộc học hãy đọc kĩ Cảm quan thực tiễn hoặc, ít ra, đọc sơ đồ tổng quát được thể hiện lại ở phụ lục cuối sách (N.D.) https://thuviensach.vn 13 Truyền thống Âu châu kết hợp sự can đảm về thể chất hoặc về tinh thần với khí lực nam nhi (“có được…” “en avoir…” v.v.) [uyển ngữ của “có ngọc hành, có khí lực nam nhi” “en avoir des couilles, être viril” N.D.] và, giống như truyền thống của người Berbère, xác lập rõ ràng mối liên hệ giữa thể tích của mũi (nif) biểu tượng của danh dự, với tầm vóc giả định của dương vật. https://thuviensach.vn 14 Về những thức ăn nở phồng, như các ufthyen, và làm nở phồng, xem P Bourdieu, Cảm quan thực tiễn, sđd, tr.412-415, còn về chức năng của những hành vi hay những đồ vật mập mờ nước đôi một cách huyền thoại, do nhiều nguyên nhân quy định, hoặc mơ hồ, xem tr.426. https://thuviensach.vn 15 Từ ngữ giàu sức gợi nhất là ambul, nghĩa đen là bong bóng, khúc dồi to, nhưng cũng là dương vật (xem T. Yacine-Titouh: “Nhân học về nỗi sợ. Algérie, ví dụ về các quan hệ nam-nữ” trong Yacine Titouh, Tình yêu, những huyễn tưởng và những xã hội ở Bắc Phi và ở Sahara, Paris, L’Harmattan, 1992, tr.3-27; và “Nữ tính hay là sự thể hiện nỗi sợ trong tưởng tượng xã hội của người Kabylie”, Ghi chép văn chương truyền khẩu, 34, INALCO, 1993, tr.19-43). https://thuviensach.vn 16 Về các sơ đồ đầy/rỗng và về sự làm đầy, xem P Bourdieu, Cảm quan thực tiễn, sđd, tr.452-453, và cả tr.397 (về con rắn). https://thuviensach.vn 17 Tiếng Hi Lạp. (N.D.) https://thuviensach.vn