🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Nghèo Nàn Của Thuyết Sử Luận Ebooks Nhóm Zalo Thông tin sách Tên sách: Sự nghèo nàn của thuyết sử luận Nguyên tác: The poverty of historicism- Routledge, 1974 Tác giả: Karl Popper Người dịch: Chu Lan Đình Nhà xuất bản: NXB Tri thức Kích thước: 12x20 cm Ngày phát hành: 2012 Số trang: 272 Giá bìa : 55.000đ Thể loại: Triết học - Chính trị Thông tin ebook Nguồn: http://tve-4u.org Type+Làm ebook: banycol Ngày hoàn thành: 01/01/2016 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Ebook này được thực hiện nhằm chia sẻ cho những bạn không có điều kiện mua sách! Còn nếu bạn có khả năng hãy mua sách ủng hộ nha! Để tưởng nhớ đến tầng tầng lớp đàn ông và phụ nữ thuộc mọi tín ngưỡng, mọi quốc gia hay mọi sắc tộc, từng là nạn nhân của niềm tin phát xít và niềm tin theo lối công xã vào những định luật vô cảm của vận mệnh lịch sử. Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trên tay bạn đọc là bản dịch tiếng Việt cuốn sách The Poverty of Historicism(Sự nghèo nàn của thuyết sử luận). Tác giả của nó là Karl Raimund Popper (28/07/1902, Wien, Áo - 17/09/1994, London, Anh), triết gia Anh, gốc Áo, nguyên giáo sư Viện Kinh Tế London, được đánh giá là một trong những triết gia có nhiều ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Như giới triết học đánh giá, ông đã đưa ra một thứ “triết lý phê phán không-biện minh đầu tiên trong lịch sử triết học”. Tư tưởng triết học của ông bao trùm các lĩnh vực: - Triết học khoa học với các tác phẩmLogic phát kiến khoa học (Logik der forschung, Wien, 1934), Phỏng định và Bác bỏ (Conjectures and refutation, 1953), Tri thức khách quan (Objective knowledge, 1972). Qua loạt tác phẩmnày, ông phê phán gay gắt quan điểm duy nghiệm luận và cho rằng các lý thuyết khoa học về bản chất là trừu tượng, nên chỉ có thể trắc nghiệm chúng một cách gián tiếp thông qua sự quy chiếu với các hệ quả thực nghiệm của chúng. Tuy nhiên, Popper thừa nhận ông chỉ xây dựng một tri thức luận mới cho các khoa học thường nghiệm chứ không hề bác bỏ tính hợp thức và giá trị của những cách tiếp cận tự nhiên khác (như triết học, siêu hình học, phân tâm học.v..v.). - Triết học chính trị và xã hội với các tác phẩm Sự nghèo nàn của thuyết sử luận (The poverty of historicism, 1936, 1957), và Xã hội mở và những kẻ thù của nó (The open society and its enemies, 1945). Ở đây, Popper chủ yếu tập trung phê phán các ông gọi là thuyết sử luận hoặc là quan điểm duy vật lịch sử (historicism) và những lý thuyết chính trị được xây dựng trên cơ sở quan điểmđó, đồng thời đưa ra một cái nhìn bất định (indeterminist) về thế giới. Thay vào thuyết sử luận, Popper đề xướng một triết lý căn bản trên nền tảng thuyết bất định, phù hợp với quan điểm tri thức luận của ông, theo đó tri thức tiến bộ thông qua quá trình thử và loại bỏ sai lầm: để giải quyết một vấn đề người ta phải đề xuất nhiều giải pháp mang tính giả thuyết rồi mang ra thử và loại bỏ những sai lầm. - Về tiến hóa và chức năng của ngôn ngữ: Karl Popper không những quan tâmtới triết học khoa học, triết học chính trị mà còn đưa ra nhiều quan điểm hết sức độc đáo và sâu sắc về thuyết tiến hóa, về logic học, về nghiên cứu ngôn ngữ và nhiều lĩnh vực tư tưởng khác. Những ý niệm về các lĩnh vực đó được trình bày rải rác trong các tác phẩm lớn nói trên và trong các tác phẩm khác như Quantum theory and the Schism in physics (1956/57), Realism and the aim of science (1956/57), Unended quest: an intellectual autobiography (1976),... Năm 2012, thế giới kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Karl Popper, cũng là lúc chúng ta tìm hiểu kỹ hơn về di sản triết học của ông. Mặc dù có không ít ý kiến phê phán các quan điểm của Popper nhưng ảnh hưởng của ông là rất rõ nét đối với các trào lưu triết học phương Tây trong thế kỷ XX và cho đến hiện nay. Chúng tôi xin lưu ý bạn đọc rằng đây là sách tham khảo, chủ yếu dành cho những người làm công tác nghiên cứu. Để đảm bảo tính khách quan cũng như sự tôn trọng tính toàn vẹn của tác phẩm, chúng tôi xin được giới thiệu đầy đủ bản dịch đến bạn đọc. Rất mong bạn đọc cân nhắc khi tiếp nhận quan điểm của các tác giả với tinh thần phê phán cần thiết. Bản in này chúng tôi đặc biệt dành để tưởng nhớ đến dịch giả Chu Lan Đình (1942 - 2012) vì sự trân trọng và cẩn trọng của ông với từng chữ, từng ý tưởng của tác giả. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. CHÚ THÍCH VỀ NIÊN BIỂU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Luận điểm chính được đề cập đến trong cuốn sách này - tức là luận điểm cho rằng niềm tin vào vận mệnh lịch sử là một niềm tin mang màu sắc mê tín tuyệt đối, và cũng là luận điểm cho rằng dù có sử dụng những phương pháp khoa học hay bất cứ phương pháp có lý tính nào khác, cũng không ai có thể đoán trước những bước phát triển của lịch sử loài người - được manh nha hình thành từ những năm 1919 - 1920. Những nét cơ bản của luận điểm này được phác thảo đầy đủ vào năm 1935, và được trình bày lần đầu vào tháng Hai năm 1936 dưới hình thức một bài viết có nhan đề “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” (The Poverty of Historicism) trong một cuộc tọa đàm tự tổ chức tại tư gia của bạn tôi là Alfred Braunthal ở Brussels. Tại buổi tọa đàm này, một sinh viên cũ của tôi đã đưa ra một số ý kiến đóng góp quan trọng. Đó là tiến sĩ Karl Hilferding, người đã sớm trở thành nạn nhân của Gestapo và của những niềm tin mang tính sử luận dị đoan của Đệ Tam Quốc Xã. Trong cuộc tọa đàm này còn có sự tham gia của một vài triết gia khác. Ngay không lâu sau đó, tôi có trình bày một tham luận tương tự tại cuộc hội thảo do F. A. Hayek tổ chức ở Học Viện Kinh Tế London. Việc xuất bản chậm trễ mất vài năm vì bản thảo tôi giao cho một tập san triết học định kỳ bị từ chối. Sau đó bài viết đã được đăng tải lần đầu vào ba kỳ trên tạp chí Economica, Bộ Mới, tập XI, số 42 và 43, 1944, và tập XII, số 46, 1945. Tiếp đó, một bản dịch tiếng Italia (Milano, 1954) và một bản dịch tiếng Pháp (Paris, 1956) đã được ra mắt dưới dạng sách. Trong lần xuất bản mới này, bài viết đã được chỉnh sửa và bổ sung. LỜI TỰA Trong cuốn Sự nghèo nàn của thuyết sử luận, tôi muốn chứng minh rằng thuyết sử luận là một phương pháp nghèo nàn - một phương pháp không đơm hoa kết trái. Nhưng tôi đã không thể thực sự bác bỏ được thuyết này. Nhưng rồi về sau, tôi nghĩ mình đã thành công trong việc tìm ra một lời bác bỏ đối với thuyết sử luận: bằng những lí lẽ hoàn toàn logic, tôi đã chứng minh được rằng chúng ta không cách gì tiên đoán được tiến trình tương lai của lịch sử. Luận cứ được đưa ra để chứng minh điều đó nằm trong bài viết của tôi có tựa đề Thuyết bất định trong vật lý cổ điển và trong vật lý lượng tử (Indeterminism in classical physics and in quantumphysics) được công bố năm 1950. Nhưng nay tôi không còn thấy thỏa mãn với bài viết này nữa. Một cách diễn giải thỏa đáng hơn được trình bày tiếp đó trong chương viết về Thuyết bất định, là một phần của Lời bạt: Sau hai mươi năm (Postscript: after twenty years) trong cuốn Logic phát kiến khoa học (Logic of scientific discovery) của tôi. Để độc giả nắm được những kết luận mới hơn này, tôi xin phác qua những nét chính của luận cứ nhằm bác bỏ thuyết sử luận. Luận cứ này có thể được tóm lược trong năm phát biểu ghi nhận như sau: 1. Tiến trình lịch sử nhân loại bị ảnh hưởng rất mạnh bởi sự phát triển đi lên của tri thức nhân loại (thậm chí những ai chỉ cần thấy được những sản phẩm phụ của những quá trình phát triển mang tính hữu hình này kia trong các ý niệm của chúng ta, gồm cả những ý niệm khoa học, cũng đều phải công nhận một tiền đề như vậy là đúng đắn). 2. Bằng những phương pháp có lý tính hoặc những phương pháp khoa học, chúng ta cũng không thể tiên đoán sự phát triển đi lên của tri thức khoa học trong tương lai (lời khẳng định này có thể được chứng minh một cách logic thông qua những nhận định sơ lược sau đây). 3. Bởi vậy, chúng ta không thể tiên đoán tiến trình tương lai của lịch sử nhân loại. 4. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ khả năng có một môn sử học lý thuyết, tức là một khoa học về lịch sử xã hội tương đương môn vật lý lý thuyết. Không thể có một lý thuyết nào về sự phát triển lịch sử được lấy làm cơ sở cho tiên đoán lịch sử. 5. Mục đích cơ bản của những phương pháp sử luận (xem các mục từ 11 đến 16 của sách này) do đó đã bị hiểu sai; và thuyết sử luận như vậy là sụp đổ. Luận cứ trên tất nhiên không nhằm bác bỏ tất cả những khả năng tiên đoán xã hội; ngược lại, nó hoàn toàn tương thích với khả năng trắc nghiệm các lý thuyết xã hội - chẳng hạn các lý thuyết về kinh tế - bằng việc tiên đoán rằng một vài quá trình phát triển nhất định nào đó sẽ diễn ra trong những điều kiện nhất định. Nó chỉ nhằm bác bỏ khả năng tiên đoán các quá trình phát triển lịch sử dựa trên quan điểm coi chúng như những quá trình bị tác động bởi sự phát triển đi lên về tri thức của chúng ta. Bước quyết định trong luận cứ này là phát biểu ghi nhận (2). Tôi cho rằng bản thân nó đã mang tính thuyết phục: nếu có cái gọi là sự phát triển đi lên của tri thức ấy, thì thậm chí ở ngày hôm nay chúng ta cũng chẳng thể dự đoán được ngày mai chúng ta sẽ biết được điều gì. Tôi cho rằng nói như vậy nghe có vẻ hợp lý nhưng không thể là một phép chứng minh logic cho lời phát biểu. Những bước chứng minh cho (2) mà tôi đã trình bày trong những ấn phẩm vừa được nhắc đến rất phức tạp; và tôi cũng không ngạc nhiên nếu thấy có được những phép chứng minh đơn giản hơn. Tôi chứng minh bằng cách chỉ ra rằng không có một nhà tiên tri khoa học nào - dù đó là một nhà khoa học bằng xương bằng thịt hay một cỗ máy tính - có khả năng, bằng những phương pháp khoa học, tiên đoán được những kết quả trong tương lai của chính mình. Những nỗ lực thực hiện điều đó chỉ có thể đạt được kết quả sau khi việc đã rồi, lúc đã quá muộn cho một lời tiên đoán; kết quả chỉ có thể có sau khi lời tiên đoán đã biến thành lời hồi đoán. Mang tính thuần túy logic, luận cứ này áp dụng được cho tất cả các nhà tiên tri khoa học thuộc mọi thể thức, bao gồm cả những “hội” các nhà tiên tri đang trong mối tương giao. Và điều đó muốn nói lên rằng không một xã hội nào có thể tiên đoán một cách khoa học những tri thức mà bản thân mình sẽ có được trong tương lai. Luận cứ của tôi ít nhiều mang tính hình thức, và do vậy có quyền bị nghi ngờ là không mang một ý nghĩa thực tiễn nào, kể cả nếu về mặt logic nó được hoàn toàn đảm bảo là có giá trị hiệu lực. Tuy nhiên, tôi đã cố chỉ ra ý nghĩa của vấn đề trong hai công trình khảo cứu. Ở công trình khảo cứu thứ hai, Xã hội mở và những kẻ thù của nó (The open society and its enemies), tôi đã chọn ra vài sự kiện từ lịch sử của thuyết sử luận nhằm minh họa cho ảnh hưởng dai dẳng và độc hại của nó đến triết học xã hội và triết học chính trị, từ Heraclitus và Plato cho tới Hegel và Marx. Trong công trình thứ nhất, Sự nghèo nàn của thuyết sử luận (The poverty of historicism), được công bố lần đầu dưới dạng sách như thế này, tôi đã cố chỉ ra ý nghĩa của thuyết sử luận với tính chất một cấu trúc trí tuệ đầy quyến rũ. Tôi đã cố phân tích cái logic của thứ chủ thuyết ấy - một thứ chủ thuyết nhiều khi rất tinh vi, rất hấp dẫn và rất xảo trá - và cũng đã cố lập luận rằng nó đang mắc phải một thứ bệnh cố hữu, một thứ bệnh vô phương cứu chữa. Penn, Buckinghamshire, Tháng Bảy 1957 Một số người tham gia biên tập cuốn sách này có ý băn khoăn về cái tên của nó. Nhan đề như vậy chẳng qua là muốn ám chỉ cuốn Sự nghèo nàn của triết học (The poverty of philosophy) do Marx viết nhằm đáp lại cuốn Triết học của sự nghèo nàn (The philosophy of poverty) của Proudhon. Penn, Buckinghamshire, Tháng Bảy 1959 DẪN NHẬP Không dễ gì có thể nói sự quan tâm đến tính chất khoa học của những vấn đề xã hội và chính trị xuất hiện muộn hơn so với sự quan tâm đến tính chất khoa học của nghiên cứu vũ trụ và của vật lý học. Bởi ngay từ thời Cổ Đại, có những giai đoạn mà khoa học về xã hội tưởng chừng đã có sự phát triển vươn xa hơn so với khoa học về tự nhiên (nói như vậy là tôi nghĩ đến luận thuyết chính trị của Plato và bộ hiến pháp của Aristotle). Nhưng với Galileo và Newton, vật lý học đã có những thành công ngoài mong đợi, qua mặt hầu hết các bộ môn khoa học khác; và kể từ Pasteur, người được coi là Galileo của sinh học, các khoa học sinh học cũng đã đạt được những thành tựu không thua kém. Trong khi đó, có vẻ như các bộ môn khoa học xã hội vẫn chưa tìm được cho mình một Galileo. Trong hoàn cảnh ấy, các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau đã thể hiện một mối quan tâm lớn đến vấn đề phương pháp. Có rất nhiều cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề này đã dẫn dắt họ đến với những phương pháp được sử dụng trong các bộ môn khoa học phát triển rực rỡ nhất, đặc biệt là vật lý học. Chẳng hạn, trong thế hệ của Wilhelm Wundt, những nỗ lực sao chép một cách có ý thức phương pháp thực nghiệm của vật lý học đã dẫn tới một cuộc cải cách trong bộ môn tâm lý học; và bắt đầu từ J. S. Mill, hết nỗ lực này đến nỗ lực khác đã được đưa ra nhằmcải biến phương pháp của các bộ môn khoa học xã hội theo đường hướng đó. Ở một chừng mực nhất định, có thể nói những cuộc cách tân như vậy trong lĩnh vực tâm lý học cũng đã đạt được một số thành tựu, mặc dù có không ít kết quả tiêu cực. Còn ở các bộ môn khoa học lý thuyết về xã hội, trừ kinh tế học, những nỗ lực này không mang lại thành quả gì nhiều, nếu không muốn nói là chúng đã mang lại toàn những thất vọng. Khi tranh cãi về những thất bại, một câu hỏi đã sớm được đặt ra: liệu có thực sự áp dụng được các phương pháp của vật lý học cho khoa học xã hội hay không? Phải chăng sự cố gắng tin vào khả năng áp dụng những phương pháp như vậy đã là nguyên nhân gây ra tình trạng đáng thất vọng của những công trình nghiên cứu nói trên? Câu hỏi này cho phép ta nghĩ đến một sự phân loại đơn giản các trường phái tư duy liên quan đến những phương pháp được áp dụng trong các bộ môn khoa học kém thành công hơn cả. Hiểu theo cách quan niệm của từng trường phái về khả năng áp dụng các phương pháp vật lý học, ta có thể chia những trường phải này thành hai nhóm: duy tự nhiên luận (pro naturalistic) và phản tự nhiên luận (anti-naturalistic). Ta gọi những trường phái ủng hộ việc áp dụng các phương pháp vật lý học vào các bộ môn khoa học xã hội là những trường phái “duy tự nhiên luận” hay là những trường phái “lạc quan”; còn những trường phái phản đối việc áp dụng này thì ta gọi là những trường phái “phản tự nhiên luận” hay là những trường phái “bi quan”. Người chuyên nghiên cứu về phương pháp có thể hoặc tán thành cách nhìn “duy tự nhiên luận” hoặc tán thành cách nhìn “phản tự nhiên luận”, mà cũng có thể chấp nhận một học thuyết nào đó kết hợp cả hai cách nhìn; việc này phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm của anh ta về đặc tính của lĩnh vực đề tài anh ta đang nghiên cứu. Không những thế, lập trường của anh ta lại còn tùy thuộc vào việc anh ta hiểu các phương pháp được sử dụng trong vật lý học như thế nào. Tôi cho rằng điểm sau cùng này quan trọng hơn cả. Tôi cũng tin rằng những sai lầm có tính then chốt trong hầu hết các cuộc tranh cãi về phương pháp đều xuất phát từ những sự ngộ nhận rất phổ biến đối với các phương pháp vật lý học. Đặc biệt tôi đồ rằng chúng xuất phát từ sự ngộ giải đối với dạng thức logic của lý thuyết vật lý, đối với những phương pháp trắc nghiệm các lý thuyết đó và đối với chức năng logic của quan sát và của thực nghiệm. Theo quan điểm của tôi, những sự ngộ nhận như vậy sẽ chắc chắn dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng; và tôi sẽ cố biện minh cho quan điểm này ở phần III và IV của cuốn sách. Tôi sẽ cố chứng minh rằng những luận cứ và những luận điểm đa dạng và đôi khi đối lập nhau, dù là duy tự nhiên luận hay phản tự nhiên luận, đều thực ra xuất phát từ việc hiểu sai các phương pháp được vật lý học sử dụng. Tuy nhiên, trong phần I và phần II, tôi chỉ giới hạn vào việc giải thích một số luận điểm duy tự nhiên luận và một số luận điểm phản tự nhiên luận có liên quan đến một cách tiếp cận rất đặc biệt mà trong đó ta thấy có sự kết hợp của cả hai luận điểm trên. Tôi gọi cách tiếp cận đặc biệt đó là thuyết sử luận, và việc đầu tiên tôi muốn làm là cắt nghĩa nó, rồi sau đó mới phê phán nó. Cách tiếp cận này rất hay được đề cập trong các cuộc thảo luận về phương pháp của các bộ môn khoa học xã hội, mặc dù nó cũng rất hay được vận dụng một cách thiếu phê phán, hoặc thậmchí được xem như một cách tiếp cận dĩ nhiên. Thế nào là “sử luận”? Điều đó sẽ được cắt nghĩa đầy đủ trong toàn bộ công trình khảo cứu này. Ở đây tôi chỉ tạm vắn tắt như sau: “sử luận” theo tôi là một cách tiếp cận đối với các bộ môn khoa học xã hội mà với cách tiếp cận đó người ta khẳng định rằng nhiệm vụ chủ yếu của các bộ môn khoa học xã hội là tiên đoán lịch sử, và người ta còn khẳng định rằng mục đích này hẳn sẽ được đạt tới thông qua việc phát hiện ra những “nhịp độ” hoặc những “khuôn mẫu”, những “quy luật” hoặc những “xu hướng” được coi là nền tảng của quá trình tiến hóa lịch sử. Do tôi hoàn toàn tin rằng những luận điểm sử luận về phương pháp như vậy là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng không thỏa đáng của các bộ môn khoa học lý thuyết về xã hội (ngoại trừ kinh tế học), cho nên cách diễn giải của tôi về các luận điểm ấy hẳn sẽ không tránh khỏi những thiên kiến. Thế nhưng tôi đã cố hết sức tìm ra những lý do để bênh vực cho thuyết sử luận để làm hậu thuẫn cho những lý do nhằm bênh vực cho thuyết sử luận để làm hậu thuẫn cho những phê phán của tôi sau này. Tôi đã cố thử trình bày thuyết sử luận như một thứ triết lí đã được cân nhắc kỹ lưỡng và bao gồmnhững luận cứ chặt chẽ. Và rồi tôi đã không ngần ngại đưa ra những luận cứ nhằm bênh vực cho chủ thuyết ấy, mà theo tôi biết thì bản thân các nhà sử luận cũng chưa từng có được những luận cứ như vậy. Bằng cách ấy, tôi hy vọng mình đã tiếp tục tạo được cho thuyết sử luận một thế đứng đáng bỏ công sức để công kích. Nói cách khác, tôi đã cố hoàn thiện một lý thuyết thường xuyên được áp dụng, nhưng có lẽ chưa bao giờ được triển khai đầy đủ. Đó là lý do vì sao tôi đã rất thận trọng trong việc chọn dùng một cái nhãn có phần không thuận tai lắmlà thuyết sử luận. Với việc đưa ra khái niệm này, tôi chỉ hy vọng tránh được những ý kiến chỉ trích vụn vặt về mặt câu chữ mà thôi, bởi lẽ tôi hy vọng rằng sẽ không có ai mất công nêu ra câu hỏi xemliệu có luận cứ nào được nêu ra trong cuộc thảo luận này thực sự là, hoặc chính xác là, hoặc về cơ bản là, một luận cứ theo lối của thuyết sử luận hay không, hay sẽ không có ai mất công thắc mắc xem cụm từ thuyết sử luận thực sự muốn nói, hoặc chính xác muốn nói, hoặc về cơ bản muốn nói lên điều gì. PHẦN I: NHỮNG LUẬN THUYẾT PHẢN TỰ NHIÊN LUẬN CỦA THUYẾT SỬ LUẬN Ngược hẳn với chủ thuyết duy tự nhiên phương pháp luận trong địa hạt xã hội học, thuyết sử luận khẳng định rằng do những khác biệt sâu sắc giữa xã hội học và vật lý học, nên không thể đem áp dụng một số phương pháp đặc trưng cho vật lý học vào các bộ môn khoa học xã hội được. Thuyết này nói với ta rằng, những định luật vật lý, hay những “định luật của giới tự nhiên” lúc nào cũng có giá trị hiệu lực ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào; bởi vì thế giới vật chất bị chi phối bởi một hệ thống những tính chất bất biến về mặt vật lý, dàn trải trong toàn bộ không gian và thời gian. Ngược lại, những định luật xã hội học, hay những định luật của đời sống xã hội, lại khác nhau tùy theo địa điểm và tùy theo từng giai đoạn. Mặc dù vẫn công nhận là có thể quan sát thấy rất nhiều những điều kiện xã hội điển hình tái diễn một cách đều đặc, thuyết sử luận vẫn không cho rằng những sự lặp đi lặp lại đều đặn theo trình tự nhận thấy được trong đời sống xã hội đó có cùng một đặc tính như những sự lặp đi lặp lại đều đặn mang tính bất biến của thế giới vật chất. Do chúng còn phải tùy thuộc vào lịch sử và vào những dị biệt về văn hoá. Chúng phụ thuộc vào từng tình huống lịch sử đặc thù. Chẳng hạn, người ta không thể nói về những định luật kinh tế một cách chung chung, mà bất quá chỉ có thể nói về những định luật kinh tế của thời kỳ phong kiến, hoặc của giai đoạn sớm của thời đại công nghiệp,.v..v.; luôn luôn phải xác định rõ giai đoạn lịch sử trong đó các định luật được nói đến đang chiếm ưu thế. Thuyết sử luận khẳng định rằng tính tương đối về mặt lịch sử của các định luật xã hội khiến hầu hết những phương pháp của vật lý học không thể áp dụng cho xã hội học. Những luận cứ điển hình mà quan niệm ấy dựa vào luôn liên quan đ ế n phép khái quát hóa, đến thực nghiệm, đến tính phức hợp của các hiện tượng xã hội, đến những trở ngại trong việc đưa ra lời tiên đoán chính xác, và đến ý nghĩa của chủ thuyết duy bản chất phương pháp luận. Tôi sẽ lần lượt phân tích những luận cứ này. 1. KHÁI QUÁT HÓA Theo thuyết sử luận, khả năng khái quát hóa và sự thành công của phép khái quát hóa trong lĩnh vực các khoa học vật lý là dựa vào tính chất chung bất biến của giới tự nhiên: dựa vào việc quan sát thấy rằng - có lẽ nên gọi là “dựa trên giả định rằng” thì hay hơn - trong những hoàn cảnh tương tự thì hẳn những điều tương tự sẽ phải xảy ra. Nguyên lý này được cho là đúng trong toàn bộ không gian cũng như thời gian, và được coi là nền tảng phương pháp luận của vật lý học. Thuyết sử luận nhấn mạnh rằng nguyên lý đó rõ ràng là không áp dụng được đối với xã hội học. Những hoàn cảnh giống nhau chỉ có thể xuất hiện trong cùng một giai đoạn lịch sử nhất định. Chúng không bao giờ tồn tại kéo dài từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Do đó, không có những tính chất bất biến và kéo dài trong xã hội để làm chỗ dựa cho những phép khái quát hóa bền vững - nói như vậy tất nhiên là không tính đến những sự lặp đi lặp lại đều đặn thông thường, chẳng hạn như việc loài người, hoặc nguồn cung cấp một số thứ luôn có hạn còn những thứ như không khí thì vô hạn, và rồi chỉ có những thứ trước mới có thể gắn với thị trường hoặc có giá trị trao đội. Theo thuyết sử luận, một phương pháp không tính đến sự hạn chế như nói trên và cố gắng tìm cách khái quát hóa những tính chất bất biến về mặt xã hội sẽ vô hình trung dẫn đến sự khẳng định rằng những sự lặp đi lặp lại đều đặn theo trình tự đó sẽ kéo dài mãi mãi; một quan niệmngây thơ về mặt phương pháp luận - quan niệm cho rằng các bộ môn khoa học xã hội hoàn toàn có thể tiếp nhận phương pháp khái quát hóa của vật lý học - do đó chắc chắn sẽ sản sinh ra một thứ lý thuyết xã hội học sai lầm và lệch lạc một cách nguy hiểm. Đó sẽ là một lý thuyết phủ nhận sự phát triển xã hội; hoặc phủ nhận việc xã hội luôn có những thay đổi đáng kể; hoặc phủ nhận việc xã hội phát triển, nếu có, có thể tác động đến những sự lặp đi lặp lại đều đặn thông thường của đời sống xã hội. Các nhà sử luận hay nhấn mạnh rằng ẩn sau những lý thuyết sai lầm như vậy thường là một chủ định cần được thông cảm và trên thực tế, việc mặc định là có những định luật xã hội bất biến có thể dễ dàng được lạm dụng vì những mục đích như thế. Trước hết, hoàn toàn có khả năng xuất hiện một luận cứ cho rằng có những cái không dễ chịu chút nào hoặc không hề được trông đợi nhưng ta vẫn phải chấp nhận, vì chúng đã được những định luật bất biến của tự nhiên quy định. Chẳng hạn, người ta có lúc đã phải viện đến những “định luật vô cảm” của tính tự nhiên của con người, nhưng như vậy cũng là do bởi bản tính tự nhiên của con người có sức mạnh sửa đổi chúng hoặc, hơn thế nữa, có thể kiểm soát chúng. Mọi cái vẫn có thể được cải thiện cho tốt hơn hoặc bị làm cho xấu đi; do đó, sự cách tân tích cực không phải là một việc làm vô ích. Những hướng suy xét đó của thuyết sử luận trở nên hấp dẫn đối với những ai bị thôi thúc muốn có những hành động tích cực, những ai muốn góp sức cải tạo hiện trạng, không muốn chấp nhận nó như một tình trạng không ai cưỡng lại được. Xu hướng muốn hành động và chống lại bất cứ sự an bài nào ấy có thể được gọi là thuyết hành động. Tôi sẽ còn bàn thêmvề những mối liên quan giữa thuyết sử luận và thuyết hành động trong mục 17 và 18. Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại khẩu hiệu quen thuộc của Marx, một nhà sử luận và là người đã thể hiện thái độ “duy hành động” một cách đầy ấn tượng: “Các triết gia xưa này chỉ biết tìm mọi cách diễn giải [giải thích] thế giới, trong khi cái chính là phải cải tạo nó” (xem Luận cương về Feuerbach, 1845, của Marx, luận cương thứ bảy; xem thêm mục 17 dưới đây). 2. THỰC NGHIỆM Vật lý học sử dụng phương pháp thực nghiệm; tức là nó áp dụng những phép kiểm soát nhân tạo và một sự cách li nhân tạo, rồi thông qua đó bảo đảm chắc chắn việc tái hiện những điều kiện tương tự và bảo đảm chắc chắn việc sau đó tạo ra một số hiệu ứng tất yếu. Cơ sở của phương pháp này không gì ngoài ý niệmcho rằng những điều tương tự sẽ phải xảy ra trong những hoàn cảnh tương tự. Nhà sử luận tuyên bố không thể áp dụng phương pháp ấy cho xã hội học. Giả như có áp dụng được, anh ta còn lập luận tiếp, thì cũng không có ích gì. Bởi vì, do những điều kiện tương tự chỉ xảy ra trong giới hạn của một giai đoạn duy nhất, cho nên kết quả của mọi thực nghiệm hẳn sẽ chỉ mang ý nghĩa hết sức hạn chế. Hơn nữa, sự cách li nhân tạo chắc chắn buộc ta phải loại trừ một số nhân tố quan trọng hàng đầu đối với xã hội học. Với hoàn cảnh kinh tế cá thể bị cách li của mình, Robinson Crusoe không thể được coi như mẫu hình dùng để đánh giá một nền kinh tế mà các vấn đề của nó chắc chắn phải nổi lên từ mối tương giao kinh tế giữa các cá nhân và các nhóm. Người ta còn lập luận tiếp rằng không có một thí nghiệm nào thực sự được coi là có giá trị. Những thí nghiệm trong lĩnh vực xã hội học hầu hết không phải là những thí nghiệm hiểu theo nghĩa vật lý. Chúng không diễn ra trong một phòng thí nghiệm tách biệt với thế giới bên ngoài, và do đó việc tiến hành thí nghiệm luôn khiến cho điều kiện xã hội bị thay đổi. Không bao giờ có thể lặp lại chúng trong những điều kiện hoàn toàn tương tự, bởi vì ngay từ lần tiến hành đầu tiên chúng đã làm cho những điều kiện ấy thay đổi. 3. TÍNH MỚI LẠ Luận điểm vừa nêu trên cần được xemxét thật kỹ lưỡng. Như tôi đã nêu, thuyết sử luận phủ nhận khả năng lặp lại của hầu hết các thí nghiệm xã hội trong những điều kiện hoàn toàn giống nhau, vì những điều kiện của lần tiến hành thứ hai chắc chắn đã bị ảnh hưởng bởi lần tiến hành thí nghiệm trước đó. Luận cứ này được đưa ra trên cơ sở ý niệm cho rằng cũng giống với một cơ thể, xã hội sở hữu một loại bộ nhớ mà ta thường gọi là lịch sử. Ta có thể nói đến một tiến trình lịch sử sinh động đang diễn ra trong sinh học, vì cơ thể luôn có một phần bị những sự kiện của quá khứ chế ước. Đối với một cơ thể đang rút tỉa kinh nghiệm, những sự kiện lặp đi lặp lại sẽ mất đi tính mới mẻ và trở thành cái gì đó có vẻ như thuộc về thói quen, tập quán. Song chính điều đó cũng cắt nghĩa vì sao kinh nghiệm về sự kiện tái diễn lại không giống với kinh nghiệm về sự kiện khi nó xảy ra lần đầu - vì sao kinh nghiệm về một sự kiện tái diễn lại là một kinh nghiệm mới. Sự lặp đi lặp lại của những sự kiện đã được chứng kiến do vậy mà tương đương với sự nổi hiện những kinh nghiệm mới nơi người quan sát. Bởi vậy cho nên, nếu tính tổng tất cả các điều kiện - cả bên trong lẫn bên ngoài - trong đó chúng ta tiến hành một thí nghiệm nhất định đối với một và chỉ duy nhất một cơ thể, thì mức độ giống nhau sẽ không đủ để ta có quyền nói về một sự kiện lặp đi lặp lại đích thực. Kể cả nếu có lặp lại thật chính xác những điều kiện bên ngoài thì chúng vẫn phải có sự kết nối với những điều kiện mới bên trong của cơ thể: thông qua kinh nghiệm mà cơ thể rút ra những bài học. Theo thuyết sử luận thì điều đó cũng đúng đối với xã hội, vì xã hội cũng rút tỉa kinh nghiệm: xã hội cũng có lịch sử của nó. Từ (một phần) những sự lặp đi lặp lại lịch sử của mình, xã hội chỉ có thể rút ra những bài học một cách chậmchạp, dù luôn chắc chắn là mình đã học hỏi được điều gì, trong khi phần nào luôn bị quá khứ của mình chế ước. Nếu không vậy thì những truyền thống cũng như những thái độ trung nghĩa và oán hận mang tính truyền thống, những niềm tin và sự ngờ vực, tất cả đâu còn có ý nghĩa gì đối với đời sống xã hội. Do đó, trong lịch sử xã hội không thể có sự lặp lại đích thực; và cũng do đó người ta phải biết rằng những sự kiện nổi hiện trong tương lai sẽ là những sự kiện mới mẻ về bản chất. Lịch sử có quyền tự lặp lại - nhưng không bao giờ trên cùng một cấp độ, nhất là khi những sự kiện được bàn đến có một tầm quan trọng mang tính lịch sử, và khi mà chúng có khả năng gây một ảnh hưởng lâu dài đến xã hội. Trong thế giới được vật lý học mô tả, những điều xảy ra không bao giờ là thực sự mới và mới xét về bản chất cả. Ta có thể phát minh ra một cỗ máy mới, nhưng ta vẫn luôn có thể phân tích cỗ máy đó như một sự sắp xếp lại của những thành phần không có gì mới. Sự mới mẻ trong vật lý học chỉ là sự mới mẻ trong cách sắp xếp hoặc cách kết hợp. Ngược hẳn lại, cái mới về mặt xã hội, cũng giống với cái mới về mặt sinh học, là một loại cái mới từ trong bản chất, điều này đã được thuyết sử luận nhấn mạnh. Đó là cái mới đích thực, không thể chỉ coi như một sự sắp xếp mới. Bởi trong đời sống xã hội, những nhân tố cũ một khi nằmtrong sự sắp đặt mới thì không bao giờ còn là những nhân tố cũ nữa. Nơi không thứ gì có thể tự lặp lại một chính xác thì cái mới sẽ luôn nổi hiện. Đây là điều rất cần được lưu ý khi xem xét sự phát triển của những giai đoạn hay những thời kỳ lịch sử mới, khác về bản chất so với những thời kỳ hay giai đoạn khác. Thuyết sử luận tuyên bố rằng không có gì trọng đại hơn là sự ra đời của một giai đoạn lịch sử thực sự mới. Ta không được phép nghiên cứu khía cạnh vô cùng quan trọng này của đời sống xã hội theo cách vẫn quen làm khi cắt nghĩa những cái mới trong lĩnh vực vật lý học bằng việc xem chúng như sự sắp xếp lại của những yếu tố quen thuộc. Thậm chí nếu những phương pháp thông thường của vật lý học có áp dụng được cho xã hội đi chăng nữa thì cũng không bao giờ áp dụng được cho những đặc tính nổi bật nhất của xã hội, đó là: sự phân chia giai đoạn, và sự nổi hiện cái mới. Một khi đã nắm bắt được ý nghĩa của cái mới về mặt xã hội, ta buộc phải từ bỏ suy nghĩ cho rằng việc áp dụng những phương pháp vật lý thông thường vào nghiên cứu các vấn đề xã hội học có thể giúp ta tìmhiểu thấu đáo những vấn đề về sự phát triển xã hội. Đối với cái mới về mặt xã hội, còn có một khía cạnh khác nữa cần lưu tâm. Như ta thấy, mỗi biến cố xã hội riêng biệt, mỗi sự kiện đơn lẻ trong đời sống xã hội, đều có thể được coi là mới theo nghĩa nào đó. Nó có thể được xếp cùng loại với những sự kiện khác; nó có thể giống những sự kiện khác ở vài khía cạnh; nhưng nó luôn là đơn nhất hiểu theo nghĩa tuyệt đối. Trong phép kiến giải xã hội học, điều này luôn dẫn đến một nét khác biệt rõ rệt so với những gì xảy ra trong thế giới vật chất. Một điều dễ nhận thấy là, qua phân tích đời sống xã hội, chúng ta có khả năng bằng trực giác phát hiện và hiểu được vì sao và bằng cách nào một sự kiện có thể xảy ra; chúng ta có thể biết rõ nguyên nhân và kết quả của nó - tức là những động lực nào đã khiến nó xuất hiện và nó đã ảnh hưởng tới những sự kiện khác như thế nào. Tuy nghiên, chúng ta có vẻ như không thể phát biểu được những định luật chung nhằm mô tả những mối quan hệ nhân quả ấy một cách khái quát. Bởi vì những động lực riêng biệt được chúng ta phát hiện hình như chỉ có thể dùng để giải thích một tình huống xã hội học riêng biệt nào đó mà thôi, chứ không dùng để giải thích những tình huống khác. Và những động lực này rất có thể là duy nhất: chúng chỉ xuất hiện một lần trong tình huống xã hội riêng biệt ấy và không bao giờ xuất hiện lại. 4. TÍNH PHỨC HỢP Tình huống phương pháp luận như vừa được phác họa còn có một số khía cạnh khác. Một trong những khía cạnh đó đã được đề cập khá nhiều trong các cuộc tranh luận (và sẽ không được bàn đến ở đây), đó là vai trò xã hội của một số nhân cách cá biệt. Một khía cạnh khác là tính phức hợp của các hiện tượng xã hội. Trong vật lý học chúng ta thường làm việc với những đối tượng ít phức hợp hơn nhiều; thêm vào đó, ta lại thường dùng phương pháp thí nghiệm cách li để đơn giản hóa đối tượng nghiên cứu nghiên cứu một cách nhân tạo. Bởi lẽ không áp dụng được phương pháp này cho xã hội học nên ta phải đối mặt với một sự phức hợp kép - tính phức hợp xuất phát từ việc không có khả năng cách li nhân tạo, và tính phức hợp xuất phát từ việc đời sống xã hội vốn là một hiện tượng tự nhiên, một hiện tượng đòi hỏi phải có sự tham gia của đời sống tinh thần của các cá nhân, tức là tâm lý học, mà nói tới tâm lý học là phải nói tới sinh học và nói tới sinh học là phải nói tới hóa học và vật lý học. Việc xã hội học ra đời muộn hơn, tính theo trật tự thời gian, so với các ngành khoa học khác đã chứng tỏ cho ta thấy một cách đầy đủ tính cùng phức hợp của các nhân tố tham gia vào đời sống xã hội. Do tính phức hợp kép đó mà giá như thực sự có những tính chất bất biến về mặt xã hội giống như những tính chất bất biến trong địa hạt vật lý học thì chắc chắn ta cũng không phát hiện được chúng. Nhưng dù không phát hiện được thì cũng chẳng có mấy lý do để cho rằng chúng không tồn tại. 5. SỰ THIẾU CHÍNH XÁC TRONG TIÊN ĐOÁN Thông qua những cuộc tranh luận về các luận điểm duy tự nhiên luận giữa các nhà sử luận với nhau ta sẽ thấy thuyết sử luận có khuynh hướng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiên đoán, coi tiên đoán là một trong những nhiệm vụ của khoa học (ở góc độ này, tôi gần như hoàn toàn nhất trí với thuyết sử luận, mặc dù tôi tin rằng tiên tri lịch sử là một trong những nhiệmvụ của tất cả các bộ môn khoa học xã hội). Song thuyết sử luận lại lập luận tiếp rằng tiên đoán xã hội ắt là một việc làmvô cùng khó khăn, không những chỉ do tính phức hợp của các cấu trúc xã hội mà còn do cả tính phức hợp đặc thù nảy sinh từ mối quan hệ tương tác giữa những lời tiên đoán và những sự kiện đã được tiên đoán. Ý niệm cho rằng việc tiên đoán hẳn phải có ảnh hưởng tới sự kiện được tiên đoán là một ý niệm đã có từ xa xưa. Theo truyền thuyết, Oedipus đã giết chết người cha mà chàng chưa hề một lần gặp mặt; và đó là kết quả của lời tiên tri xưa kia khiến cha chàng ruồng bỏ chàng. Đó là nguyên nhân vì sao tôi muốn gọi sự ảnh hưởng của việc tiên đoán đến sự kiện được tiên đoán (hay khái quát hơn là ảnh hưởng của một đơn vị thông tin đến tình huống mà thông tin đó nói tới) là “hiệu ứng Oedipus”, dù sự ảnh hưởng này có chiều hướng hỗ trợ sự kiện được tiên đoán hay có chiều hướng ngăn ngừa sự kiện đó. Các nhà sử luận gần đây đã chứng minh rằng ảnh hưởng loại này có khả năng liên quan trực tiếp tới khoa học xã hội; họ cho rằng nó có thể gây thêm nhiều trở ngại cho việc đưa ra những tiên đoán chính xác và phương hại đến tính khách quan của chúng. Việc cho rằng khoa học xã hội xưa nay phát triển được là nhờ có những dự đoán chính xác mang tính khoa học về mọi loại thực kiện và sự kiện xã hội theo họ, sẽ dẫn đến những hệ quả phi lý, và do đó, ta có thể dựa trên những cơ sở thuần túy logic để bác bỏ một giả định như vậy. Bởi vì, nếu có một thứ “lịch tử vi” xã hội được xây dựng một cách khoa học và được phổ biến rộng rãi (không thể giữ bí mật lâu về thứ lịch này vì về nguyên tắc bất cứ ai cũng có thể tái phát hiện ra nó), thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến những hành động có khả năng làm đảo lộn những tiên đoán mà nó đưa ra. Chẳng hạn, giả sử ta tiên đoán được rằng giá cổ phiếu sẽ tăng trong vòng ba ngày rồi sau đó sẽ rớt. Một điều chắc chắn là tất cả những ai tham gia thị trường chứng khoán đều sẽ bán ra vào ngày thứ ba, làm giá cổ phiếu tụt ngay trong ngày đó, vậy là lời tiên đoán đã không còn chính xác. Tóm lại, ý tưởng về một lịch trình các sự kiện xã hội chính xác và chi tiết đã tự mâu thuẫn với chính nó; và do đó việc đưa ra những tiên đoán xã hội chính xác và chi tiết một cách khoa học là một việc làm bất khả. 6. TÍNH KHÁCH QUAN VÀ CÁCH ĐÁNH GIÁ Như chúng ta vừa thấy, với việc nhấn mạnh đến những khó khăn của tiên đoán trong các bộ môn khoa học xã hội, thuyết sử luận đã đưa ra những luận cứ dựa trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của những tiên đoán tới những sự kiện được tiên đoán. Nhưng cũng theo thuyết này thì trong một số hoàn cảnh nhất định, sự ảnh hưởng đó có thể có những tác động ngược lại đáng kể đối với người quan sát đưa ra tiên đoán. Ngay trong vật lý học cũng có những nhận định tương tự cho rằng mọi phép quan sát đều được tiến hành dựa trên cơ sở trao đổi năng lượng giữa người quan sát và đối tượng được quan sát. Điều đó đã dẫn đến tính bất định thường không được tính đến của các tiên đoán và nó được mô tả bằng một nguyên lý gọi là “nguyên lý bất định”. Có thể cho rằng tính bất định này là kết quả của mối tương tác giữa đối tượng được quan sát và chủ thể quan sát và cả hai lại thuộc cùng một thế giới vật lý như nhau của hành động và của tương tác. Như Bohr đã chứng minh, trong các bộ môn khoa học khác, nhất là trong sinh học và tâm lý học, cũng có những tình huống tương tự. Nhưng không đâu việc nhà khoa học với đối tượng của mình thuộc cùng một thế giới lại có tầm quan trọng lớn như trong các bộ môn khoa học xã hội. Điều đó đưa đến (như ta đã thấy) một sự bấp bênh, thiếu chắc chắn trong việc tiên đoán, và đôi khi trong thực tiễn, nó mang một ý nghĩa rất lớn. Trong các bộ môn khoa học xã hội, ta phải đối mặt với một sự tương tác toàn diện và phức tạp giữa người quan sát với cái được quan sát, giữa chủ thể và đối tượng. Việc ý thức được sự tồn tại của những xu hướng có khả năng tạo ra một sự kiện trong tương lai, và hơn nữa, việc ý thức được bản thân lời tiên đoán có thể tác động đến những sự kiện được tiên đoán dường như có những tác động ngược lại với nội dung của tiên đoán; và rồi những tác động ngược lại lại có thể làm suy yếu một cách trầm trọng tính khách quan của những tiên đoán và của những kết quả nghiên cứu khác trong các bộ môn khoa học xã hội. Một tiên đoán cũng là một biến cố xã hội, và do đó nó có thể tương tác với những biến cố xã hội khác, trong đó có biến cố đã được tiên đoán. Điều đó có thể (như ta thường thấy) khiến cho sự kiện xảy ra sớm hơn; nhưng cũng dễ thấy rằng nó có thể ảnh hưởng theo chiều ngược lại. Trong trường hợp hãn hữu nó có thể là nguyên nhân của biến cố: biến cố có thể hoàn toàn không xảy ra nếu không được tiên đoán. Trong trường hợp hãn hữu ngược lại, lời tiên đoán về một sự kiện mang tính đe dọa có thể dẫn đến thái độ phòng ngừa (do đó, với sự cẩn trọng hay bất cẩn khi đưa ra lời tiên đoán, nhà khoa học xã hội dường như có thể gây ra biến cố hay dập tắt biến cố). Hiển nhiên là còn nhiều trường hợp trung gian nằm giữa hai trường hợp tới hạn nói trên. Cả hành động tiên đoán điều gì đó lẫn hành động dè dặt trong việc tiên đoán điều gì đó đều có thể dẫn đến hàng loạt hệ quả khác nhau. Vậy là rõ ràng các nhà khoa học xã hội phải kịp thời ý thức được những khả năng nói trên. Một nhà khoa học xã hội, chẳng hạn, có quyền tiên đoán một điều gì đó và có thể thấy trước việc tiên đoán của mình sẽ khiến điều đó xảy ra. Hoặc giả người đó có quyền cho rằng một sự kiện nào đó là một sự kiện không đáng trông đợi, và do đó anh ta tìm cách ngăn ngừa nó. Và trong cả hai trường hợp, nhà khoa học đều có vẻ như vẫn tôn trọng một nguyên tắc được coi là nguyên tắc về tính khách quan khoa học: nói ra sự thật và chỉ sự thật. Nhưng mặc dù nhà khoa học có nói lên sự thật chăng nữa thì chúng ta vẫn không thể bảo rằng anh ta đã tuân thủ tính khách quan khoa học; bởi vì trong khi đưa ra những dự báo (về những biến cố sắp xảy ra) anh ta vẫn có thể tác động đến những biến cố theo chiều hướng mà cá nhân anh ta mong muốn. Tuy có thể thừa nhận bức tranh trên đây đã phần nào khái quát được vấn đề, nhưng nhà sử luận sẽ còn đòi hỏi phải làm thật rõ một điểm mà ta dễ nhận ra ở hầu hết mọi đề tài nghiên cứu của các bộ môn khoa học xã hội. Sự tương tác giữa những lời công bố của nhà khoa học xã hội gần như luôn tạo ra những tình huống trong đó ta không những cần cân nhắc lại chân lý của những lời công bố đó mà còn phải luôn xem xét đến ảnh hưởng thực tế của chúng đến sự phát triển tương lai. Nhà khoa học xã hội có quyền dồn hết nỗ lực cho chân lý; nhưng đồng thời anh ta còn có nhiệm vụ tác động vào xã hội. Chính việc những công bố của nhà khoa học phải mang lại ảnh hưởng cho xã hội đã phá hỏng tính khách quan của chúng. Đến giờ chúng ta vẫn giả định rằng nhà khoa học xã hội dồn hết nỗ lực cho chân lý, và không gì ngoài chân lý; nhưng nhà sử luận sẽ vạch cho ta thấy những gì được mô tả đã gây khó khăn như thế nào cho lời giả định của chúng ta. Bởi vì một khi những sự ưu tiên lựa chọn và những quyền lợi còn ảnh hưởng đến các lý thuyết khoa học và các tiên đoán thì ta rất khó mong đợi sẽ xác định hay né tránh được thái độ thiên vị. Do đó ta không nên ngạc nhiên về việc ở các bộ môn khoa học xã hội hầu như không có gì giống với sự truy tìm chân lý mang tính khách quan và lý tưởng thấy được ở vật lý học. Chúng ta nên trông đợi tìm thấy ở các bộ môn khoa học xã hội tính đa xu hướng mà chúng ta thấy được trong đời sống xã hội, ở đó các quan điểm cũng nhiều như các quyền lợi. Một câu hỏi được đặt ra là liệu có phải luận cứ mang tính sử luận nói trên sẽ dẫn đến một dạng tương đối luận cực đoan cho rằng tính khách quan, và cả lý tưởng về chân lý, đều hoàn toàn không thể áp dụng được trong các bộ môn khoa học xã hội hay không, nơi chỉ có những thành công - những thành công về mặt chính trị - là mang tính quyết định. Để minh họa cho những luận cứ như vậy, nhà sử luận tất sẽ chỉ ra rằng bất cứ khi nào thấy có một xu hướng cố hữu nhất định trong một giai đoạn phát triển của xã hội, ta đều có thể hy vọng tìm ra những lý thuyết xã hội học ảnh hưởng đến sự phát triển đó. Có thể coi khoa học xã hội như một bà đỡ giúp sức cho sự ra đời của những giai đoạn xã hội mới; nhưng khi nằm trong tay của những quyền lợi bảo thủ, nó lại cũng có thể được sử dụng để trì hoãn những biến đổi đang sắp xảy ra. Một quan niệm như vậy có thể giúp mở ra khả năng phân tích và cắt nghĩa những khác biệt giữa nhiều học thuyết và trường phái xã hội học khác nhau, hoặc bằng việc xem xét chúng trong mối tương quan với những ưu tiên lựa chọn và những quyền lợi đang chiếm ưu thế trong một giai đoạn lịch sử nhất định (một cách tiếp cận đôi khi được gọi là cách tiếp cận theo “thuyết sử quan” [historism], và không nên nhầm lẫn nó với cái tôi gọi là “thuyết sử luận” [historicism]), hoặc bằng việc xem xét chúng trong mối tương quan với những quyền lợi chính trị, kinh tế hay giai cấp (một cách tiếp cận đôi khi còn được gọi là “xã hội học tri thức”). 7. THUYẾT CHỦ TOÀN Hầu hết các nhà sử luận đều tin chắc rằng còn phải có một lý do sâu sắc nào đó nữa khiến những phương pháp của vật lý học không áp dụng được cho các bộ môn khoa học xã hội. Họ lập luận rằng, cũng giống như đối với mọi khoa học “sinh học” khác, tức là mọi khoa học liên quan đến những vật thể sống, phải xem xét xã hội học trên quan điểm “chủ toàn” (holism) chứ không phải trên quan điểm nguyên tử luận; bởi vì không bao giờ được nhìn những đối tượng của xã hội học, tức là những nhóm xã hội, chỉ đơn giản như những cá nhân gộp lại. Nhóm xã hội không chỉ là toàn bộ các thành viên của nó, và cũng không chỉ là tổng của các mối quan hệ cá nhân tồn tại trong bất kỳ thời điểm nào giữa các thành viên của nó. Người ta nhận thấy điều đó ngay cả ở một nhóm chỉ gồm ba thành viên. Một nhóm do A và B thành lập sẽ khác về đặc tính so với một nhóm có cùng những thành viên như nhau nhưng do B và C thành lập. Qua đó có thể hiểu được vì sao người ta nói mỗi nhóm đều có một lịch sử riêng của mình, và vì sao người ta nói cấu trúc của nó phụ thuộc rất lớn vào lịch sử của chính nó (xem thêm mục 3 - Tính mới lạ ở trên). Một nhóm có thể vẫn lưu giữ được tính chất nguyên vẹn của mình nếu bị thiếu đi một vài thành viên không mấy quan trọng. Thậm chí vẫn có thể hình dung được rằng một nhóm có thể giữ được phần lớn bản sắc của mình ngay cả khi tất cả những thành viên ban đầu của nó được thay thế bằng những thành viên khác. Trong khi cùng những thành viên của một nhómtrước đó cũng vẫn có cơ tạo dựng một nhóm hoàn toàn khác hẳn, nếu thay vì lần lượt từng người tham gia vào nhóm ban đầu, họ lại cùng nhau thành lập một nhómmới. Nhân cách của từng thành viên có thể ảnh hưởng lớn đến lịch sử và cấu trúc của nhóm, nhưng điều đó không ngăn được nhóm có một lịch sử và một cấu trúc riêng; điều đó cũng không ngăn được sự tác động mạnh mẽ của nhóm đến từng thành viên. Mọi nhóm xã hội đều có những truyền thống, những thiết chế, những nghi lễ riêng. Thuyết sử luận tuyên bố rằng nếu muốn hiểu và cắt nghĩa được nhóm như nó đang tồn tại hiện nay, cũng như nếu muốn nắm bắt hay thậm chí đoán trước được sự phát triển tương lai của nó, ta cần phải thấu hiểu lịch sử cũng như những truyền thống và những thiết chế của nó. Đặc tính chủ toàn của các nhóm xã hội - việc không thể cắt nghĩa những nhóm như vậy hoàn toàn chỉ bằng sự cộng gộp của các thành viên - đã khiến những nhà sử luận phân biệt rành mạch một bên là cái mới trong vật lí học, tức là cái mới chỉ bao hàm trong nó những cách kết hợp hay cách sắp đặt mới các yếu tố cấu thành cũ, và một bên là cái mới trong đời sống xã hội, là cái mới thực sự và không thể chỉ quy giản về thành cái mới trong cách sắp xếp. Bởi nhìn chung không thể giải thích cấu trúc xã hội như những sự kết hợp đơn giản các bộ phận hay các thành viên của chúng được, cho nên cũng không thể bằng phương cách đó mà cắt nghĩa những cấu trúc mới của xã hội. Ngược lại, thuyết sử luận nhấn mạnh rằng các cấu trúc vật lí có thể được giải thích chỉ như những “chòm cụm” tựa như chòm sao, hoặc chỉ như sự tổng hợp các thành phần với nhau kèm với hình thể hình học mà chúng có. Như Hệ Mặt Trời chẳng hạn; nghiên cứu lịch sử của Hệ Mặt Trời tuy cũng là điều hay, và tuy cũng làm sáng tỏ được phần nào hiện trạng của nó, nhưng theo một nghĩa nào đó, chúng ta đều biết rằng trạng thái này hoàn toàn độc lập với lịch sử của hệ thống. Cấu trúc của hệ cũng như sự vận động và phát triển tương lai của nó được xác định hoàn toàn bởi cấu hình hiện tại của các thành viên của nó. Nếu biết được vị trí, khối lượng và vận tốc tương đối của những thành viên vào một thời điểmbất kì thì ta lập tức có thể xác định chính xác những vận động trong tương lai của toàn hệ. chúng ta khỏi cần phải có thêmdữ kiện nào về tuổi tác các hành tinh hay về việc cái gì từ xưa đã thâm nhập vào hệ thống từ bên ngoài: mặc dù cũng đáng để quan tâm, nhưng lịch sử cấu trúc không đóng góp gì vào việc tìm hiểu hành trạng, cơ cấu và sự phát triển tương lai của hệ thống cũ. Rõ ràng là ở khía cạnh này thì cấu trúc vật lí khác một cách đáng kể so với cấu trúc xã hội; không thể hiểu cũng như không thể tiên đoán cấu trúc tương lai của xã hội nếu không nghiên cứu tỉ mỉ lịch sử của nó, kể cả khi đã hiểu toàn bộ “cấu hình” của nó trong một thời điểm nhất định. Những nhận định trên chỉ ra một cách rõ ràng sự liên kết mật thiết giữa thuyết sử luận với lí thuyết duy sinh học hay duy hữu cơ về cấu trúc xã hội - tức là lí thuyết tìm cách diễn giải các nhóm xã hội như những cơ thể hữu cơ. Trên thực tế, quan điểm chủ toàn được coi như đặc trưng cho các hiện tượng sinh học nói chung, và cách tiếp cận chủ toàn được xem như cách tiếp cận không thể thiếu khi xét thấy lịch sử của nhiều cơ thể hữu cơ khác nhau đã ảnh hưởng ra sao đến hành trạng của chúng. Những luận cứ chủ toàn của thuyết sử luận do đó nghiêng về việc nhấn mạnh sự giống nhau giữa các nhóm xã hội và các cơ thể, mặc dù chúng không nhất thiết dẫn đến việc buộc phải chấp nhận một lí thuyết duy sinh học về cấu trúc xã hội. Cũng như vậy, lí thuyết quen thuộc về sự tồn tại một tinh thần nhóm với tư cách bệ đỡ của những truyền thống nhóm, mặc dù bản thân nó không nhất thiết phải là một bộ phận của luận cứ duy lịch sử, nhưng lại liên quan mật thiết với quan điểm chủ toàn. 8. NHẬN THỨC TRỰC GIÁC Trên đây ta đã chủ yếu bàn về một số nét đặc tính của đời sống xã hội, như tính mới mẻ, tính phức hợp, tính tổ chức, quan điểm chủ toàn và cách mà lịch sử đời sống xã hội được chia ra thành từng giai đoạn. Đó là những đặc trưng mà thuyết sử luận cho rằng đã khiến một số phương pháp điển hình của vật lí học không thể đem áp dụng được cho các bộ môn khoa học xã hội. Do đó, đối với nghiên cứu xã hội, người ta thấy cần có một phương pháp tiếp cận mang nhiều tính lịch sử hơn. Phần nào đó từ cách nghĩ phản khoa học luận của thuyết sử luận, ta cần cố gắng bằng trực giác tìmhiểu lịch sử của các nhóm xã hội khác nhau. Cách suy nghĩ này đôi lúc được phát triển thành một luận thuyết phương pháp luận rất gần gũi với thuyết sử luận, mặc dù nó không hẳn lúc nào cũng gắn liền với thuyết ấy. Đó là luận thuyết cho rằng, trái với phương pháp của các bộ môn khoa học tự nhiên, phương pháp đặc thù của các bộ môn khoa học xã hội là phương pháp được đề ra dựa trên cơ sở một sự nhận thức gần gũi và thiết thực về các hiện tượng xã hội. Liên quan tới quan điểmnày, người ta thường nhấn mạnh đến những nét đối lập và những sự tương phản sau đây. Vật lí học hướng đến một lời kiến giải mang tính nhân quả, còn xã hội học lại hướng đến sự nhận thức về mục đích và ý nghĩa. Trong vật lí học, các sự kiện được cắt nghĩa một cách chặt chẽ và mang tính định lượng với sự trợ giúp của những công thức toán học. Xã hội học thì tìm cách nắm hiểu các quá trình phát triển lịch sử dưới dạng định tính nhiều hơn, chẳng hạn dưới dạng những mục đích và khuynh hướng đối nghịch, hoặc dưới dạng “đặc điểm dân tộc” hay “tinh thần thời đại”. Do vậy mà tại sao trong khi vật lí học sử dụng những phép khái quát hóa mang tính diễn dịch thì nghiên cứu xã hội học chỉ có thể được tiến hành với sự trợ giúp của đầu óc tưởng tượng mang tính đồng cảm. Và đó cũng là lí do vì sao vật lí học có thể đạt