🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Minh Định Của Địa Lý - Robert Kaplan
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI DẪN
C
uốn sách Sự minh định của địa lý của tác giả người Mỹ Robert D. Kaplan được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2012 (New York, Random House, 2012) với phụ đề đầy đủ là Bản đồ nói với chúng ta điều gì về những cuộc xung đột sắp tới và cuộc chiến đấu chống lại số phận, tái bản vào năm 2013 có bổ sung thêm một Lời bạt quan trọng với tiêu đề Biên giới thay thế cho ranh giới. Trong khi dịch, chúng tôi sử dụng bản dịch tiếng Pháp của Anais Goacolon, NXB. Toucan, Paris, 2014 - La Révanche do la Gesographie, với phụ đề Ce que les Cartes nous disent des Conflits à venir; đồng thời, luôn đối chiếu so sánh với bản gốc tiếng Anh năm 2013.
Là giáo sư tại Học viện Hải quân Annapolis, R. Kaplan cũng là thành viên của Hội đồng Quốc phòng Hoa Kỳ từ 2009 đến 2011. Sự trải nghiệm và kinh nghiệm của ông với tư cách một nhà báo trên khắp các nẻo đường thế giới cùng những hiểu biết trong lĩnh vực Khoa học Chính trị đã giúp ông trở thành một chuyên gia về địa chính trị thường xuyên được Lầu Năm góc tham khảo ý kiến.
Cuốn sách có phần Mở đầu dài 10 trang [Số trang của bản gốc tiếng Anh. (BT) (Tất cả các chú thích chân trang của người biên tập trong cuốn sách này đều được đánh dấu (BT); tất cả các chú thích chân trang còn lại là của người dịch.)], mang tiêu đề “Những đường biên giới” với nội dung khá phong phú. Tiếp theo là ba phần với khối lượng không đồng đều: Phần I - “Những người nhìn xa trông rộng” dài 101 trang, Phần II - “Bản đồ thời kỳ đầu thế kỷ XXI” dài 244
trang, và Phần III - “Châu Mỹ đối mặt với vận mệnh của mình”, với một chương duy nhất dài 36 trang.
Lời nói đầu được viết theo kiểu dẫn dắt người đọc ra thực địa để chiêm nghiệm sức ép của hoàn cảnh địa lý đối với con người, qua đó tác giả định ra khuôn khổ, theo đó địa lý đã từng gắn với chủ nghĩa định mệnh nên đã bị lên án rằng tư duy theo kiểu địa lý đồng nghĩa với việc giới hạn những sự lựa chọn của con người. Tuy nhiên, không cần phải là người theo Quyết định luận cũng có thể nhận ra rằng điều kiện địa lý luôn có tầm quan trọng sống còn. Nói cách khác, trong mớ bòng bong của những diễn biến đảo lộn xã hội và của một thế giới dường như ngày càng khó quản lý, địa lý cho ta vũ khí để định ra một hướng đi.
Trong Phần I - “Những người nhìn xa trông rộng”, tác giả điểm lại lý thuyết địa chính trị của Alfred Thayer Mahan, Halford J. Mackinder và Nicholas J. Spykman. Nhân việc đó ông nêu ý kiến: ngày nay người ta không còn có thể khẳng định rằng chiều kích địa lý đã không còn ý nghĩa, như có người đã từng khẳng định sau sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ. Theo ông, thực ra địa lý chưa từng bị bỏ qua, nhưng dường như nó đã bị lãng quên và ai đó đã đưa ra định đề, theo đó việc cho rằng công nghệ đã xóa bỏ địa lý chỉ là một ý kiến mơ hồ. Tuy nhiên, tác giả cũng cảnh báo về mối nguy của việc suy tôn quá mức vai trò của địa lý, bởi vì tuy nó có ảnh hưởng đến các sự kiện, nhưng theo cách xác suất, tức là không hoàn toàn quyết định được chúng. Tác giả đã viện đến trường hợp mà Raymond Aron rất tâm đắc về dân tộc Do Thái. Đó là một trường hợp thách thức thực sự đối với Quyết định luận địa lý: lịch sử của dân tộc này đã diễn ra trái với tính liên tục cục bộ mà ta thấy trong
phần lớn những tôn giáo lớn khác (cụ thể là Đạo Phật và Đạo Hindu). Lịch sử ấy đã kéo dài suốt 2.000 năm nay và tỏ ra trái ngược với mọi mệnh lệnh hay sự áp đặt của địa lý, đồng thời cho thấy rằng những tư tưởng và hành động của con người cũng không kém phần quan trọng so với môi trường tự nhiên.
Trong Phần II - “Bản đồ thời kỳ đầu thế kỷ XXI”, R. Kaplan nhấn mạnh một nội dung mang tính luận giải độc đáo những đặc điểm của nước Nga và người Nga. Theo ông, do không có những đường biên giới biển ấm và ổn định, nên nước này rơi vào tình thế không yên ổn với các nước láng giềng. Đã mấy trăm năm nay, nước Nga mơ ước sở hữu những cảng biển nước ấm, không bị đóng băng về mùa đông…, mà có lẽ quân cảng Sevastopol cũng nằm trong số những giấc mơ ấy. Một nhận xét mang tính Quyết định luận khác, nhưng cũng đáng được suy ngẫm, là ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu lục địa khắc nghiệt và hình thể của lãnh thổ đối với tính khí người Nga và lịch sử nước Nga. Do tính bằng phẳng của những đồng bằng thảo nguyên mênh mông không đủ sức ngăn chặn những cuộc xâm lấn của kẻ thù, nhất là trong thời Trung cổ, nên người Nga luôn mang tâm lý lo ngại những cuộc tấn công từ bên ngoài, trong khi khí hậu khắc nghiệt lại trui rèn cho họ sức chịu đựng phi thường. Tóm lại, hoàn cảnh địa lý là nhân tố trội trong tâm thức người Nga… Cũng trong chương này, tác giả còn đưa ra nhiều ví dụ để chứng minh cho vai trò quyết định của điều kiện địa lý: đó là nhận định rằng logic về mặt địa lý của Pakistan và Afghanistan thể hiện một sự rời rạc cao độ…, khiến cho hai nước này trở thành một thứ bung xung về địa chính trị, còn Iraq vốn là một sản phẩm dàn dựng gượng gạo của người Anh nên chưa bao giờ có được cơ hội tồn tại như một thực thể hằng mong muốn, trong khi Iran lại có nhiều lợi thế về kết
cấu địa lý, và lịch sử của nó cho thấy người Iran rất biết thể hiện vị thế có lợi của mình ở tâm điểm Rimland (Miền duyên hải phía nam đại lục Á-Âu) theo sơ đồ Spykman.
Trong Phần III - “Châu Mỹ đối mặt với vận mệnh của mình”, cuốn sách trình bày một vấn đề nóng hổi của thời đại, được nhìn từ cách tiếp cận theo dài hạn, dồn nén trong một chương duy nhất dài 36 trang: “Braudel, Mexico và tầm nhìn chiến lược”. Theo quan điểm này, các lực gây tác động của địa lý hợp sức tạo ra những khuynh hướng lớn trong lịch sử đôi khi diễn ra suốt nhiều thế kỷ. Như vậy là tác giả đang nhắc tới khái niệm dài hạn được nhà địa lý nổi tiếng người Pháp thời những năm 1930 Fernand Braudel phát triển (Chương XV), nghĩa là khoảng thời gian địa lý, trong đó diễn ra những biến động nho nhỏ, khó nắm bắt được một cách trực tiếp, nhưng dần dần tích tụ lại để tạo ra những khung cảnh tự nhiên thích hợp hoặc gây bức xúc cho hoạt động của con người. Vận dụng luận thuyết này, tác giả tìm cách giải thích rằng Hoa Kỳ đang bị đe dọa bởi Mexico và 111 triệu cư dân của nó. Mexico là một quốc gia có sự gắn kết nội tại yếu, chủ yếu bởi nguyên nhân địa lý tự nhiên và địa lý dân cư, dường như đang chia tách thành 2 bộ phận, trong đó miền Bắc phát triển tốt hơn miền Nam, Các bang phía nam Hoa Kỳ tiếp giáp với Mexico là những bang dễ bị tổn thương nhất bởi đường biên giới lỏng lẻo và hiện tượng di dân bất hợp pháp từ Trung Mỹ và từ chính Mexico. Mặt khác, do lịch sử để lại, những bang phía nam này sau khi bị Hoa Kỳ sáp nhập sau hai cuộc chiến tranh Hoa Kỳ Mexico những năm 1830-1840 (các bang Texas, New-Mexico, Arizona, California, Nevada, Utah) nơi những người Mexico vẫn giữ nguyên văn hóa bản địa Tây Ban Nha và đến nay vẫn chủ yếu nói bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, lại thêm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên
cao của nhóm cư dân này, nên về lâu dài, nước Mỹ có thể sẽ bị Tây Ban Nha hóa (đến năm 2050 số dân Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha có thể chiếm tới 1/3)… Tác giả coi hiện tượng ấy như một dạng xâm lược bằng dân số học, hiện cũng đang là mối lo lớn của nhiều quốc gia khác trên thế giới, kể cả Đông Nam Á và nhất là châu Âu. Rất có thể những gì Donald Trump - tổng thống mới đắc cử của Hoa Kỳ - đang làm cũng có cơ sở từ nỗi lo này… Giờ đây có lẽ họ đang theo kế sách “lui về giữ gìn phên giậu quốc gia”.
Cuốn sách này đã tạo cớ để mở ra một cánh cửa cho sự phê phán. Phần cuối công trình có nội dung gây tranh cãi nhiều nhất, rất điển hình cho một dạng suy lý về địa chính trị. Nó được đón nhận rất khác nhau. Henry Kissinger thì coi đây là “một cuốn sách kỳ diệu”, trong khi các tác giả trường phái Pháp thì có khuynh hướng phê phán, chê bai, thậm chí có người không ngần ngại cho rằng đây là một mớ những điều mâu thuẫn! Đánh giá sau cùng thế nào xin dành quyền phán xét cho bạn đọc!
Đọc và nhận thức sách là niềm vui và trách nhiệm của mỗi bạn dọc, do vậy người dịch và cũng là bạn đọc xin tranh thủ đưa ra đây một số điều gợi mở, với hy vọng góp thêm một tiếng nói để giúp bạn đọc suy ngẫm về cả những điều rộng lớn cũng như đối với vận mệnh của đất nước chúng ta: hiểu rõ vị trí và điều kiện địa lý của nước ta, suy nghĩ về những tình thế địa chính trị mà dân tộc ta đã, đang và sẽ phải đối diện (xem Chương XI). Xem ra, không một ai có thể đứng ngoài cuộc chơi: “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”… Từ cuốn sách này, bạn đọc có thể dễ dàng chiêm nghiệm theo hậu nghiệm về mọi việc từng chứng kiến hoặc từng được ghi chép trong sử sách.
Xuyên suốt cả công trình này, R. Kaplan nhắc nhớ không ngừng và tuyên truyền cho một khái niệm rất kinh điển về địa lý và hoàn cảnh địa lý, bao gồm những sự kết hợp khác nhau của mấy yếu tố chủ chốt là không gian, hình thể địa hình, vị trí theo vĩ độ, và trùm lên tất cả là khung cảnh tự nhiên được thể hiện qua các bản đồ tự nhiên. Điều đó thậm chí đã được nói rõ trong phụ đề sách - Bản đồ nói với chúng ta điều gì về những cuộc xung đột sắp tới và cuộc chiến đấu chống lại số phận. Những tương quan được đưa vào phép phân tích hầu như chủ yếu dựa trên các lý thuyết địa chính trị được phát triển bởi các chuyên gia kinh điển Mackinder, Spykman và Mahan. Tóm lại, đó là hai khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau: vai trò của hoàn cảnh địa lý theo hướng Quyết định luận địa lý và vấn đề địa chính trị thể hiện qua cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các quốc gia, các cường quốc và các vùng địa chính trị. Dường như tác giả muốn cố kiểm tra xem liệu các thuyết về Vùng đất Trái tim Đại lục Á-Âu (Heartland trong sơ đồ Mackinder), về Miền Duyên hải phía nam Đại lục Á-Âu (Rimland trong sơ đồ Spykman) * [Các thuật ngữ Heartland và Rimland sẽ được dùng trong toàn bộ bản dịch Việt này] và về Sức mạnh Biển trong sơ đồ Mahan có còn phù hợp để vận dụng cho những vùng miền địa chính trị chủ chốt của hành tinh chúng ta trong thế kỷ XXI, nhất là gắn với vòng cung nóng bỏng vì khủng hoảng từ vùng đất Maghreb tới tiểu lục địa Ấn Độ và châu Á nói chung.
Trước hết xin nói về địa chính trị. Điều đầu tiên cuốn sách thu hút sự chú ý của người dịch là vấn đề địa chính trị. Mục đích sau cùng của nó là phân tích, phán đoán tình hình thế giới trên quan điểm địa chính trị. Nhưng đối với bạn đọc Việt Nam ta, khái niệm này còn khá xa xôi, bởi một lẽ là chúng ta không có nhiều sách để
đọc về chủ đề này. Mặt khác, rất nhiều người trong chúng ta được đào tạo ở Liên Xô cũ, nơi các nhà khoa học bậc thầy từng giảng giải rằng địa chính trị (геополитика) là một khoa học phản động, cần lên án, và còn cho rằng có người đang cố gắng làm nó sống dậy dưới “chiêu bài” địa chính trị!!! Không có chức năng và cũng không có thì giờ để tranh luận về điều này, nên xin bạn đọc tham khảo Mục từ геополитика của tác giả П. м. Алампиев trong tập I, trang 438-439, Кра́ткая географи́ческая энциклопе́дия (Bách khoa Toàn thư Địa lý Giản lược) của Liên Xô, Moskva, 1960. Người ta chủ yếu nhìn vào những nhà địa chính trị Đức Quốc xã, như Haushofer, Ratzel, và Kjelen (người Thụy Điển) với quan điểm về “Không gian sinh tồn” (Lebensraum) cho dân tộc Đức (Chương V), trong khi những người này thực ra đã xuyên tạc ý tưởng ban đầu nhìn chung hợp logic của nhà địa lý người Anh H. J. Mackinder (1861-1947) được trình bày trong bài báo nổi tiếng của ông Democratic Ideals and Reality (Những Ý tưởng Dân chủ và Thực tế) (1919) (Chương IV, V). Vì lẽ đó, cho đến thời gian gần đây, nhiều người trong chúng ta còn lúng túng khi sử dụng thuật ngữ “địa chính trị”, kể cả một số nhà địa lý! Trong vấn đề này, cũng nên nhắc lại quan niệm của Napoleon (Chương IV) về Chiến lược, bởi vì nó là một nội hàm chủ chốt của địa chính trị. Theo ông, đó là nghệ thuật sử dụng thời gian và không gian theo cách thức ngoại giao và quân sự. Từ đó, có thể nói: Địa chính trị có đối tượng là nghiên cứu môi trường đối ngoại mà mọi quốc gia phải đối mặt trong khi xác định chiến lược của riêng mình: môi trường ấy chính là sự hiện diện của những quốc gia khác cũng đang tranh đấu cho sự sống còn và lợi thế của mình (Chương IV). Nói cách khác, địa chính trị là nghệ thuật xử lý những mối quan hệ đối ngoại trên những không gian lãnh thổ cụ thể tại những thời điểm
cụ thể nhằm đảm bảo cho quốc gia-dân tộc mình được an toàn và phát triển thuận lợi.
Các quốc gia và các chuyên gia địa chính trị tiếp cận nghiên cứu quan hệ giữa các quốc gia và quốc tế tùy thuộc vào vị thế và vị trí địa lý ở những cấp độ khác nhau. Từ xa xưa ông cha ta đã nêu những tấm gương sáng trong việc xử lý mối quan hệ đối ngoại của đất nước sau mỗi lần chiến thắng giặc ngoại xâm. Hãy nhớ lại cách xử lý của các vị anh hùng dân tộc, như Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Huệ,…, và cách xử sự của Hồ Chí Minh! Nhưng khó khăn tương tự thì không bao giờ hết được! Một biểu hiện cụ thể cho nội dung này là phương châm mà Hồ Chí Minh từng chỉ ra: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (cái bất biến ở đây là Độc lập, Tự do của dân tộc, cách xử lý thì “Tùy cơ ứng biến”).
Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ đều phải có quan hệ với nhau, có mối quan hệ tốt, nhưng cũng có những mối quan hệ khó xử, theo nguyên lý chung mà người Ấn Độ đã phát hiện ra từ thời Cổ đại (kế sách “Cận công, viễn giao”, Chương 13, Kautilya: “Sách về Nhà nước”), trong đó chỉ ra cách làm thế nào để một kẻ chinh phục có thể tạo ra một đế chế bằng việc khai thác những mối quan hệ giữa các Thành phố Nhà nước (Thành quốc) khác nhau: bất kỳ Thành quốc nào nằm tiếp giáp với mình đều phải đối xử như kẻ thù, bởi vì chúng sẽ phải bị chinh phục trong quá trình xây dựng đế chế; nhưng một Thành quốc nằm cách xa mà tiếp giáp với kẻ thù lại nên được coi là bạn…. Quan hệ ấy chính là một trong những biểu hiện quan trọng của địa chính trị.
Như vậy cũng có thể nói: Địa chính trị là sự ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý tới những cuộc đấu tranh của loài người. Do vậy mà
Napoleon đã nói rằng khi biết được địa lý của một quốc gia, người ta đã biết được tất cả về chính sách đối ngoại của nó. Ý tưởng này đã được R. Kaplan phân tích và minh họa trong nhiều chương của cuốn sách, như một sợi chỉ xuyên suốt cả công trình nghiên cứu của mình. Điều đó tỏ ra có sức thuyết phục, khi tác giả vận dụng để phân tích tình thế địa chính trị của rất nhiều quốc gia (nội dung của các chương thuộc Phần II và Phần III), cho dù đó là những nước lớn, như Hoa Kỳ, Liên Xô cũ, Liên minh châu Âu (EU), nước Nga xưa và nay, Đức, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, hay những nước bậc trung, như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Việt Nam, hoặc những quốc gia có kết cấu địa lý không thuận lợi, như Yemen, Israel, Iraq và Afganistan, v.v..
Như vậy, biết được tình thế địa chính trị thế giới và của chính đất nước mình là điều vô cùng quan trọng đối với sự ổn định và vận mệnh của mỗi quốc gia. Chỉ trong điều kiện ấy, người ta mới có thể hành động đúng, không bỏ lỡ thời cơ và được an toàn. Nhưng tình hình hay là các mối quan hệ đối ngoại lại liên tục phát triển, bởi vì mọi quốc gia liên quan đều liên tục tranh đấu cho sự sống còn và lợi thế của mình (Chương IV), vì thế người thắng sẽ là kẻ biết nắm lấy thời cơ, đón trước và làm chủ được các tình huống. Trái lại, những quốc gia chỉ biết an hưởng thanh bình đều đi đến thất bại (Chương VIII). Những ví dụ minh họa cho kết luận này nhiều vô kể, ngay trong những thập niên đầu thế kỷ XXI này.
Về Quyết định luận địa lý, tác giả một mặt liên tục đánh giá cao tầm quan trọng của điều kiện địa lý (trong tất cả các chương của cuốn sách), nhất là vị trí và kết cấu địa lý, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh mối nguy của việc suy tôn quá mức vai trò của địa lý, bởi
vì tuy nó có ảnh hưởng đến các sự kiện, nhưng theo cách xác suất, tức là không hoàn toàn quyết định được chúng… ông đưa ra nhiều ví dụ làm bằng chứng cho vai trò của địa lý đối với các sự kiện và đời sống con người. Những bằng chứng ấy đôi khi rất lý thú và thuyết phục, nhưng cũng có những trường hợp còn mang tính vũ đoán, áp đặt. Một trong những nhận xét sắc sảo là ý kiến cho rằng “Vị trí của một quốc gia trên bản đồ là điều đầu tiên quyết định nó, thậm chí còn hơn cả triết lý dùng để quản lý nó” (Chương II, V). Mackinder cho rằng chính hình thể đất nước dường như đã góp phần vào sự ổn định phi thường của các Vương quốc trên đất Ai Cập: nền văn minh thung lũng sông Nile đã được bảo vệ từ cả hai phía đông và tây bởi sa mạc, và chưa bao giờ bị những tên cướp biển Địa Trung Hải quấy nhiễu chỉ là nhờ có các đầm lầy vùng châu thổ ở phía Bắc. Vai trò của địa lý cũng là câu hỏi vì sao quân Mông Cổ chỉ tiến được tới Lưỡng Hà về phía Trung Đông và tới Vienna về phía châu Âu. Sách cho biết, đó là vì sự câu thúc của địa lý: quân Mông Cổ là đội quân của vùng thảo nguyên, đi tới đâu cũng cần có cỏ cho cừu và ngựa ăn, do vậy không thể tới được vùng sa mạc Arab, mặt khác, cũng không thể đi quá được Vienna là do sự hạn chế khả năng di chuyển quân đội trong một mùa hành quân…
Tuy nhiên, địa lý thông báo nhiều hơn là quyết định, do đó nó không đồng nghĩa với Quyết định luận (Chương II). Có lẽ chỉ nên nói tới vai trò quyết định theo nghĩa tương đối, hoặc xác suất của địa lý. Ngay cả Mackinder, người đánh giá rất cao vai trò quyết định của địa lý, nhưng cũng không phải là người theo Thuyết Định mệnh đơn thuần. Ông tin rằng hoàn cảnh địa lý và môi trường có thể khắc phục được, nhưng đó là khi người ta xử lý chúng với sự tôn trọng và sự
hiểu biết sâu sắc nhất (các Quy luật Địa lý), đặc biệt là nhờ sự đổi mới công nghệ (Chương IV, chú thích 20).
Cũng có những yếu tố địa lý được con người tạo ra và đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Đó là trường hợp kênh đào Đại Vận Hà (Chương XI, chú thích 5) ở Trung Quốc: con kênh từng giữ vai trò chìa khóa cho sự thống nhất đất nước này, bởi vì nó tạo dễ dàng cho công cuộc chinh phục của miền Bắc đối với miền Nam thời nhà Đường và nhà Tống, giúp cho việc củng cố địa lý nông nghiệp Trung Quốc. Như vậy, một hành động riêng lẻ của con người - đào một con kênh - cũng tỏ ra có ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng. Chính vì thế, địa lý chỉ có ý nghĩa tương đối, hay là Quyết định mang tính xác suất, và “nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Có người lại hoàn toàn không chấp nhận Quyết định luận địa lý. Ví dụ như Isaiah Berlin (Chương I, chú thích 5), người luôn bảo vệ chủ nghĩa thực dụng tư sản và những thỏa hiệp theo kiểu “chờ đợi và xem” trước sự thử nghiệm chính trị, là người ghét Quyết định luận địa lý, văn hóa và mọi dạng Quyết định luận khác, không chấp nhận để bất kỳ ai tự phó thác đời mình cho số phận. Nhưng theo A.L. Sanguin (một tác giả người Pháp), việc coi thường địa lý sẽ chỉ tạo cơ hội sinh ra những tai họa, những thứ đến lượt mình lại biến chúng ta thành nạn nhân của chính địa lý (tức là phải gánh chịu sự trả thù của địa lý). Ngày nay, trên quan điểm môi trường, những ví dụ tương tự cũng nhiều vô kể.
Nicholas J. Spykman, giáo sư Đại học Yale, chiến lược gia lớn người Mỹ gốc Hà Lan thời kỳ đầu Thế chiến II, cũng đánh giá rất cao vai trò của địa lý, khi ông viết vào năm 1942 rằng “Địa lý không tranh luận. Nó chỉ đơn giản là nó.” Địa lý giúp ta nhìn nhận tình hình
và các sự kiện theo dài hạn. Địa lý là yếu tố cơ bản nhất trong chính sách đối ngoại của các quốc gia, bởi vì nó là cố định nhất (Chương II).
Vậy chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này thế nào? Một thời gian dài, chúng ta cũng đã quá quen với những khẩu hiệu “làm chủ thiên nhiên”, “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, “có sức người, sỏi đá cũng thành cơm”,… nên thật khó chấp nhận thuyết Quyết định luận địa lý. Từ ngàn đời, ông cha ta đã thực hành triết lý sống “hòa hợp với thiên nhiên” và đã gặt hái được những thành công nhất định. Điều đó cho thấy ông cha ta rất coi trọng vai trò của hoàn cảnh địa lý và cũng đã khai thác thành công những lợi thế địa lý của đất nước mình với những chiến tích chói lọi nơi Ải Chi Lăng, sông Bạch Đằng, kiến lập nên nền văn minh lúa nước trên châu thổ sông Hồng, tìm đường mưu sinh và mở mang bờ cõi… Giờ đây chúng ta đang cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam giàu và mạnh bằng những phép quy hoạch ngày càng có sự hiểu biết và tôn trọng các quy luật địa lý hơn. Trong xã hội ta đang chín dần một ý thức dành cho địa lý chỗ đứng cao quý trong những sơ đồ quy hoạnh phát triển, mà biểu hiện rõ nhất và gần đây nhất là trường hợp Khu du lịch Tràng An-Bái Đính [!], hoặc sự lên tiếng của công luận về địa điểm không thích hợp của Formosa (nhân đây xin nói thêm rằng việc dự án này mang tên cũ của đảo Đài Loan - Formosa - mà không kèm theo một định ngữ nào cả là không hợp lý). Đánh giá cao điều kiện địa lý, nhưng không thể chấp nhận Quyết định luận địa lý theo kiểu: người xứ ôn đới thì thông minh, sáng tạo hơn và thống trị người xứ nóng, hoặc khí hậu khắc nghiệt thì tính khí cục cằn, nóng nảy, v.v..
Điều tâm đắc tiếp theo là cách tác giả đọc tình thế chính trị của thế giới dựa trên ý tưởng của các nhà địa chính trị kinh điển: thuyết Heartland của Halford J. Mackinder và thuyết Rimland của Nicholas Spykman. Trên quan điểm địa chính trị, Mackinder khái quát thế giới thành “Hòn đảo-Thế giới” nằm trong Đại dương Thế giới bao gồm đại lục Á-Âu và châu Phi nối liền với nhau qua Địa Trung Hải với cái bướu lớn ở phía tây bắc có dạng một bán đảo ứng với châu Âu. Hòn đảo-Thế giới có đối trọng là châu Mỹ, riêng châu Đại Dương không được nhắc đến. Trong phạm vi đại lục Á-Âu, ông tách ra hai bộ phận đối lập nhau suốt nhiều thế kỷ là Heartland và châu Âu cận biển ứng với Tây Âu, đồng thời cho rằng “ai kiểm soát được Heartland kẻ đó sẽ kiểm soát được thế giới”. Nicholas Spykman thì nhấn mạnh Rimland, hay là không gian bao gồm những Vùng đất duyên hải ven rìa đại lục Á-Âu. Với những thuyết này, người ta hiểu được dễ dàng hơn đường lối đối ngoại cả của người Nga cũng như người Mỹ nhằm duy trì vị thế chiến lược của mình tại Heartland, mặc dù giữa họ giờ đây không còn sự đối đầu ý thức hệ như thời Liên Xô cũ. Mackinder nhận xét rằng Heartland đại diện cho quyền lực lục địa, còn châu Âu cận biển hay là Tây Âu - đại diện cho quyền lực biển, liên tục tranh giành quyền lực với nhau và đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh lớn, trong đó có hai cuộc thế chiến. Trong số những quốc gia quyền lực lục địa, đáng kể nhất là nước Nga, sau này là Liên Xô, hiện nay lại là nước Nga, và nước Đức Bismark, cách nhau bằng một dải Trung Âu (chỉ mang tính lý thuyết hoặc ý tưởng). Các nhà địa chính trị kinh điển cho rằng để cho thế giới được yên ổn cần thiết lập một dải đệm gồm những quốc gia độc lập gọi là Đông Âu chạy từ Ba Lan xuống các quốc gia Balkan, rồi tiếp tục qua Đại Trung Đông. Dải đệm Đông Âu và Balkan này giờ đây đã thuộc về
phương Tây - thiên về đại dương - nên thế giới khó mà yên ổn. Trong số các nước Heartland, nước Đức đặc biệt là mang cả hai thuộc tính: phần Tây Đức có đầy đủ tính cận biển, còn phần Đông Đức từ xa xưa đã mang đặc tính quyền lực lục địa. Đặc điểm này khiến cho nước Đức có một vị thế địa chính trị khá là mâu thuẫn…
Nicholas J. Spykman thuộc thế hệ các nhà tư tưởng trẻ hơn Halford J. Mackinder, được nuôi dưỡng bằng những ý tưởng của nhà địa lý người Anh này, nhưng ông đặc biệt quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các sức mạnh của Heartland với các sức mạnh trên biển trong cuộc tranh giành ảnh hưởng đối với các Rimland. Spykman mô tả Heartland tương ứng một cách mơ hồ với Liên Xô: phía bắc là những biển đóng băng từ Na Uy đến Kamtchatka, phía tây bắc và nam là các dãy núi, từ Karpat đến Anatolia, Iran và Afghanistan, tiếp tục qua chùm núi Pamir, Altai, cao nguyên Mông Cổ, qua Mãn Châu và Triều Tiên. Nằm về phía nam là những khu vực dân số lớn - châu Âu, Nam Á, Đông Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản, cũng như vùng Trung Đông giàu dầu mỏ - tức là vùng rìa Á-Âu được Spykman gọi là Rimland.
Nếu Mackinder phân tích thế giới trong một “hệ thống khép kín” (Heartland - châu Âu cận biển), thì Spykman lại cho rằng sẽ có một sự “phân cấp sức mạnh mang tính khu vực”, ông đã dự cảm thấy một thế giới nhiều bá quyền: tương tự như cục diện đa cực mà bây giờ chúng ta luôn nói tới (tác giả liệt kê những bá quyền khu vực: Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Ấn Độ và Nga cùng những quốc gia trung bình như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Indonesia, Việt Nam, Brazil - Chương VI).
Việc nhấn mạnh về Rimland đã dẫn đến những hệ quả quan trọng sau Thế chiến II. Để đối phó với một Liên Xô khi đó đã trở lại thành sức mạnh to lớn của Heartland và đang gây ảnh hưởng tới Rimland, phương Tây với sức mạnh biển ngoại vi đã đưa ra chiến lược ngăn chặn hay là sự bao vây. Đó cũng chính là nội dung của thời kỳ Chiến tranh Lạnh kéo dài tới tận đầu những năm 1990, khi Liên Xô sụp đổ. Khi đó, nhà ngoại giao trẻ Henry Kissinger đã viết rằng chiến tranh hạn chế là phương tiện duy nhất để ngăn chặn - với một chi phí chấp nhận được - Khối Soviet lan tràn ra các khu vực ngoại vi đại lục Á-Âu. Chính học thuyết này đã làm nảy sinh những cuộc xung đột ở Ba Lan, Iran, chiến tranh ở Afghanistan và Việt Nam (tất cả đều ở ngoại vi Liên Xô và Trung Quốc cộng sản). Học thuyết này xét cho cùng chỉ là sự vận dụng một cách logic những công trình của Mackinder và một số nhận định tinh tế của Spykman. Để nhấn mạnh, Spykman còn nói về tham vọng biển ấm của nước Nga trước thời Soviet: “Suốt 200 năm, kể từ thời Pyotr Đại đế, nước Nga không có điều ám ảnh nào khác hơn là thoát khỏi sự cô lập lục địa của mình và tìm một lối ra đại dương, nhưng vị trí địa lý không thuận lợi của nó và những kháng lực từ phía các cường quốc hàng hải khác đã luôn cản trở sự thành công của nó”. Đến đây, người ta đã hiểu được tham vọng thu hồi bán đảo Crimea là một tất yếu, những sự kiện Afghanistan và Syria cũng tương tự.
Một hệ quả ấn tượng khác là khái niệm về các Địa Trung Hải. Từ góc nhìn sức mạnh biển, Spykman đã nhấn mạnh ý nghĩa địa chính trị của ba vùng biển được gọi chung là Địa Trung Hải: Địa Trung Hải đích thực của châu Âu cùng hai biển khác gần giống với nó là Biển Đại Caribe và Biển Đông mà Trung Quốc gọi là Nam Hải. Về mặt địa lý, Địa Trung Hải châu Âu và Biển Đại Caribe có ý nghĩa liên kết hơn
là chia cách phía bắc với phía nam: đại lục Bắc Mỹ liên kết chặt chẽ với phần nằm về phía bắc rừng rậm Amazon. Đới rừng rậm Amazon khổng lồ không thể đi xuyên qua có tác dụng “tách” Colombia, Venezuela và Guyana khỏi phần lục địa hình nón phía nam châu lục, và xét về mặt chức năng chúng dường như là một phần Bắc Mỹ, còn bờ biển phía bắc Nam Mỹ cũng thuộc về không gian địa chính trị vùng Caribe và bị cắt đứt khỏi chính Nam Mỹ. Tương tự như vậy, Địa Trung Hải châu Âu biến Bắc Phi thành một phần không gian địa chính trị Địa Trung Hải, mặc dù nó là một phần lục địa châu Phi, nhưng bị ngăn cách với phần phía nam bởi sa mạc Sahara. Nói cách khác, trên quan điểm địa chính trị, châu Âu có lẽ bao gồm cả Bắc Phi, còn châu Bắc Mỹ bao gồm cả không gian Nam Mỹ ở phía bắc vùng rừng rậm Amazon.
Lịch sử cho thấy, Athens đã nắm quyền kiểm soát thực tế quần đảo Hy Lạp bằng cách thống trị Biển Aegea, Roma [Trong tiếng Việt, Roma đã từng được dịch là La Mã. (BT)] đã nắm được quyền chỉ huy thế giới phương Tây bằng cách thống trị Địa Trung Hải châu Âu, còn Mỹ đã trở thành bá quyền Tây Bán cầu và một cường quốc thế giới khi nó đã nắm được quyền kiểm soát biển Đại Caribe từ tay các quốc gia thuộc địa châu Âu trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898, và từ đó đã có thể xây dựng kênh đào Panama thông sang Thái Bình Dương. Do vậy mà Spykman gọi “Địa Trung Hải châu Mỹ” (tức là biển Đại Caribe, bao gồm cả Vịnh Mexico) là trái tim chiến lược và địa lý Tân Thế Giới.
Tác giả đề cập tới Biển Đông với một dự báo đáng lo ngại. “Một Trung Quốc tương lai hiện đại, năng động và quân sự hóa” sẽ là mối đe dọa không chỉ với Nhật Bản, mà còn cả với vị thế các cường
quốc phương Tây trong “Địa Trung Hải châu Á”. Trung Quốc sẽ là một sức mạnh lục địa với kích cỡ khổng lồ trong việc kiểm soát một bộ phận rộng lớn duyên hải của biển kín này. Vị thế địa lý của nó sẽ giống như của Hoa Kỳ đối với “Địa Trung Hải châu Mỹ”. Khi Trung Quốc trở nên mạnh, sự thâm nhập kinh tế hiện nay của nó vào khu vực này chắc chắn sẽ đảm nhận thêm những ngụ ý về chính trị. Hoàn toàn có thể mường tượng ra cái ngày khi vùng nước này sẽ được kiểm soát không phải bởi người Anh, Mỹ, hay sức mạnh trên biển của Nhật Bản, mà là bởi sức mạnh không quân Trung Quốc (Chương XI). Điều đó sẽ gây cho các quốc gia vây quanh vùng biển này những mối lo thường trực. Tuy nhiên, thời đại cũng đã khác xưa, thế giới ngày càng toàn cầu hóa sâu sắc hơn, nghĩa là có sự ràng buộc nhau nhiều hơn, đặc biệt là đã có Luật Biển năm 1982 để điều chỉnh các mối quan hệ.
Một điều đặc biệt là địa lý giúp người ta nhìn nhận tình hình và các sự kiện theo dài hạn, nên có thể đưa ra những tiên đoán tài tình và những quyết định địa chính trị đôi khi khá bất ngờ.
Chẳng hạn, ngay vào năm 1942, khi mà quân Đồng minh đang thua và sức hủy diệt cỗ máy chiến tranh của Hitler đang chiếm ưu thế tuyệt đối, Spykman (Chương VI) đã lo lắng về những hệ lụy của một sự phi quân sự hóa nước Đức. Vì vậy, ông cho rằng các nước Đồng minh cần phải cố sức tạo ra một “nước Đức hùng mạnh sau Hitler để làm thành lũy chống lại Liên Xô.” Tương tự như vậy, trong khi Hoa Kỳ đang tiến hành một cuộc chiến khốc liệt chống lại Nhật Bản, Spykman đã đề nghị một liên minh thời hậu chiến với chính nước Nhật ấy để chống lại những sức mạnh lục địa của Nga và đặc biệt là Trung Quốc đang lên. Là một đảo quốc lớn, ngoài khơi Đông
Á, Nhật có thể thực hiện chức năng giúp Hoa Kỳ tại Viễn Đông giống như Anh tại châu Âu. Một ví dụ khác: Theo Mackinder, do vị trí địa lý, Ấn Độ và Trung Quốc ít bị ảnh hưởng bởi Heartland, lại có kích thước rất rộng lớn và thật đông dân đang sống theo kiểu tự lập, và vì vậy có thể phát triển một cách hòa bình. Điều đó dẫn ông đến dự đoán rằng tương lai nằm phần lớn trong tay những vùng đất “Ấn Độ và Trung Quốc Gió mùa” (Chương IV). Thực tế cho thấy, những điều tiên đoán trên đây và nhiều trường hợp khác nữa đều đúng, rất phù hợp với ý tưởng cuốn sách về sự đáp trả, hay là sự trả thù của địa lý! Trong chương 7, khi nói về sự trị với nền tảng là địa lý theo sơ đồ thế giới của Mackinder và Spykman. Qua nghiên cứu này, R. Kaplan mong muốn đưa ra một cẩm nang mới về địa chính trị cho lãnh đạo các cấp của chính quyền Mỹ. Dưới con mắt của ông, thế giới được phân chia thành những không gian ảnh hưởng không ngừng chen lấn xô đẩy lẫn nhau, lấn sân nhau. Sách gợi mở những đường đi nước bước nhằm giúp cho nước Mỹ không bị thua thiệt trong những cuộc đấu này: ưu tiên sử dụng quyền lực mềm và sức mạnh thông minh, làm dịu quan hệ với Iran, duy trì một sự kiểm soát hàng hải chiến lược trên phạm vi toàn cầu.
*
Tuy dùng phụ đề Bản đồ nói với chúng ta điều gì về những cuộc xung đột sắp tới và cuộc chiến đấu chống lại số phận, nhưng tác giả đã không đưa ra một bảng kê đầy đủ những cuộc chiến tranh trong tương lai, cũng như không vẽ ra đầy đủ một nền địa chính trị hòa bình. Mặc dù vậy, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, tư liệu phong phú, trích dẫn đầy đủ, chứa đựng nhiều nhận xét mới mẻ, đôi khi gây ngạc nhiên cho người đọc. Là một người làm việc trong lĩnh vực địa lý học, người dịch đánh giá cao cuốn sách này và rất vui
khi được đọc một cuốn sách trong đó địa lý học được đánh giá cao một cách hợp lý.
Xin trân trọng gửi tới bạn đọc bản dịch cuốn sách thuộc dạng “địa chính trị ứng dụng” này. Mong rằng, biết được vị thế địa chính trị của đất nước mình, chúng ta luôn hành động đúng theo logic địa lý để không bị bất ngờ trước những diễn biến thời cuộc, không bị lừa phỉnh hay thậm chí bị lừa gạt bởi những cám dỗ nhất thời và quên mất tính dài hạn và gần như không thể thay đổi của địa lý.
Hà Nội, tháng Mười năm 2017
ĐÀO ĐÌNH BẮC
LỜI NÓI ĐẦU
NHỮNG ĐƯỜNG BIÊN GIỚI
Đ
ể hiểu hiện tại, và hơn thế nữa còn đưa ra được những câu hỏi về tương lai, giải pháp tốt nhất là có mặt trên thực địa và cố gắng khảo sát nó càng chậm càng tốt.
Vừa lúc dãy đồi bát úp đầu tiên hiện ra phía chân trời, nhấp nhô gợn sóng trên nền sa mạc phía bắc Iraq, chuyển tiếp vào miền đất cao cỡ chừng 3.000 m phủ trên mình những đám sồi và cây tần bì núi, anh lái xe người Kurd của tôi ngoái lại phía sau liếc nhìn vùng đồng bằng có lớp rám màu bánh nướng, chép miệng rồi nói “Arabistan”. Lát sau, nhìn về phía những ngọn đồi, anh ta lẩm bẩm “Kurdistan”, vẻ mặt rạng ngời lên. Đó là vào năm 1986, không khí ngột ngạt tới đỉnh điểm thời Saddam Hussein đang ngự trị, khi chúng tôi càng đi sâu vào những thung lũng tựa như nhà tù và những khe hẻm đáng sợ, thì những bảng quảng cáo của Saddam vốn hiện diện khắp mọi nơi bỗng dưng biến hết. Những người lính Iraq đã làm như vậy. Thay cho họ, giờ đây là những chiến binh người Kurd gốc Iraq mang dây đeo súng có ổ gài đạn, đầu đội khăn xếp Hồi giáo, vận những chiếc quần ống phồng ra thùng thình, lưng buộc khăn thắt lưng. Theo bản đồ chính trị, chúng tôi chưa hề rời khỏi Iraq, nhưng chính núi non đã vạch một đường giới hạn quyền lực của Saddam - một đường giới hạn chịu đựng mọi biện pháp cực đoan nhất.
Trong những năm cuối thập kỷ 1980, phát khùng vì nền tự do mà những vùng núi này từng có được qua nhiều thập kỷ và thế kỷ rốt cuộc vào tay người Kurd, Saddam đã tung ra một cuộc tấn công toàn diện vào vùng đất Kurdistan thuộc Iraq - chiến dịch Anfal khét tiếng - từng giết hại đến 100.000 thường dân. Các vùng núi này dù không được khoanh định rõ ràng, nhưng chúng từng được sử dụng như bối cảnh cho tấn thảm kịch ấy - một nhân tố mang tính nguồn cội. Chính là nhờ núi-đồi mà xứ Kurdistan giờ đây có được một vùng đất rộng lớn đã thực sự tách khỏi nhà nước Iraq. [Đồng cỏ khô, mặn, cằn cỗi.??]
Miền núi vốn là một sức mạnh bảo thủ, thường che chở cho những nếp văn hóa bản địa trong các lũng sâu của mình chống lại những hệ tư tưởng hiện đại hóa mạnh mẽ đang hoành hành trên các vùng đồng bằng; núi non cũng đã từng cung cấp nơi ẩn náu cho những chiến binh Marxist và cả những cartel ma túy ở những miền đất của chính chúng ta. Nhà nhân học [Đại học] Yale James C. Scott viết, “mọi người đều biết rõ rằng dân miền núi là những cộng đồng người da sạm đen luôn lẩn lút và trốn chạy, những tộc người trong tiến trình suốt hai thiên niên kỷ đã phải chạy trốn khỏi sức ép của những dự án tạo lập nhà nước trong các thung lũng.” Bởi vì chính đồng bằng [Romania] là nơi tư tưởng chuyên chế do Nicolae Ceaușescu thực thi đã cắm ngập hàm răng của mình vào dân chúng. Trong mấy lần lên núi Karpat vào những năm 1980, tôi đã nhận ra một vài dấu vết của công cuộc hợp tác hóa. Vùng núi non này vốn được xem như cửa sau của Trung Âu, được đặc trưng bởi những ngôi nhà gỗ và đá tự nhiên nhiều hơn là bê tông và sắt, những thứ vật liệu vốn được yêu thích của nước Romania cộng sản.
Dãy Karpat bao quanh đất nước Romania cũng đóng vai trò một đường ranh giới không kém gì vùng núi Kurdistan. Đi vào Karpat từ phía tây, qua miền Puszta [Thành phố lớn thứ năm của Bulgaria, nằm ở phía đông-bắc nước này, trên bờ phải sông Danube.] Hungary xơ xác, vắng vẻ mà uy nghi trên nền đất màu than đen và những biển cỏ xanh pha màu vàng chanh, thế là tôi đã rời khỏi thế giới Trời Âu của đế quốc Áo-Hung xưa và bước dần từng bước vào miền đất nghèo khó hơn của đế quốc Ottoman Turk [Turk: các dân tộc nói các ngôn ngữ Turk, thuộc hệ dân Á Âu, định cư ở miền Bắc, Trung và Tây lục địa Á-Âu; bao gồm người Kazakh, Uzbek, Kyrgyz, Uyghur, Azerbaijan, Turkmen, Tatar, Qashkai, Bashkir, Chuvash, Afshar và người Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như các dân tộc từng tồn tại trong lịch sử như Bulgar, Kuman, Avar, Seljuk, Khazar, Ottoman, Mamluk và có thể cả Hung Nô.] thuở trước. Chế độ chuyên quyền phương Đông của Ceausescu vốn ngột ngạt hơn nhiều so với chế độ cộng sản hỗn tạp không hoạch định của Hungary rốt cuộc cũng được tạo dựng nhờ có những thành lũy ấy của miền núi Karpat.
Và dù sao vùng núi Karpat cũng không phải là không thể thâm nhập. Suốt nhiều thế kỷ, các nhà buôn từng làm ăn phát đạt trong vô số những đường đèo của nó, đóng vai những người chuyển tải hàng hóa và văn hóa, khiến cho vẻ tương đồng sâu sắc của Trung Âu dường như đã bắt rễ cả từ phía bên kia dãy núi, trong những thành phố đại loại như Bucharest và Ruse. Tuy nhiên, núi non đã gây ra một sự chuyển hóa từ từ không thể phủ nhận: điểm khởi đầu trong chuỗi ấy nằm ở một nơi nào đó mãi ở phương Đông, có lẽ là ở các sa mạc Arab và Kara Kum (Cát Đen).
Năm 1999, tôi đã đi một chuyến tàu chở hàng qua đêm từ thủ đô Baku của Azerbaijan, trên bờ tây biển Caspi, tới Krasnovodsk thuộc Turkmenistan phía bờ đông của biển này mà điểm đầu của nó là Sassanid, thuộc Ba Tư vào thế kỷ III, nay gọi là Turkestan. Tôi tỉnh dậy ở một bến dự phòng, trên đường bờ quy ước: những nhà tạm tềnh toàng bằng gỗ màu trăng trắng áp vào vách dốc đất sét màu chết chóc. Tất cả hành khách được lệnh xếp hàng trong cái nóng cả trăm độ (°F) trước một cái cổng bong tróc, một viên cảnh sát đơn độc kiểm tra hộ chiếu của chúng tôi. Sau đó chúng tôi đi qua một cái nhà kho trơ trụi nóng hừng hực, nơi một viên cảnh sát khác, sau khi tìm thấy những viên thuốc Pepto-Bismol của tôi đã kết tội tôi là buôn lậu ma túy. Anh ta cầm chiếc đèn pin của tôi rồi dốc những cục pin 1,5 V xuống mặt sàn bụi bặm. Vẻ mặt anh ta lạnh tanh và hoang dã như phong cảnh ở nơi ấy. Thị trấn tiền đồn lấp ló phía sau căn nhà kho này không có bóng mát và bằng phẳng một cách buồn tẻ, chỉ có chút đỉnh kiến trúc văn hóa vật chất. Tôi bỗng thấy buồn nhớ Baku với những bức tường Ba Tư thời thế kỷ XII và những lâu đài mơ ước của nó được những ông hoàng dầu lửa đầu tiên xây dựng và tô điểm thêm bằng những trang trí dọc trên tường dưới trần nhà cùng những máng xối kiểu Gothic, một thứ mã ngoài của phương Tây, khiến cho nó không cam chịu lỗi thời hoàn toàn, bất chấp cả Karpat, Biển Đen và Caucasus hùng vĩ. Đi dần về hướng đông, châu Âu từng bước nhạt dần trước mắt tôi, và đường ranh giới tự nhiên của Caspi đã chỉ rõ giai đoạn cuối cùng, báo hiệu là đã tới sa mạc Kara Kum.
Dĩ nhiên là khung cảnh địa lý không chứng minh cho tình trạng vô vọng của Turkmenistan. Hơn thế nữa, nó chỉ báo hiệu điểm khởi đầu trong cuộc tìm kiếm những hình mẫu lịch sử: những cuộc xâm
nhập lặp đi lặp lại bởi những người Parthia xưa [Đế quốc Parthia cổ, nằm ở phần đông bắc Iran, còn gọi là Vương quốc Arsaces, do đế quốc Parthia cai quản (247 TCN-224).], Mông Cổ, Ba Tư, Nga Sa hoàng, Liên Xô, cùng vô số lần nữa của những bộ tộc Turk trước một không gian địa lý trơ trụi và không có gì bảo vệ. Nơi ấy từng có sự tồn tại một nền văn minh tối thiểu, bởi lẽ không một ai có đủ thời gian để cắm rễ dài lâu ở đấy, và điều đó đã giúp giải thích những ấn tượng ban đầu của tôi về nơi chốn này.
Mặt đất trồi lên, và có những thời điểm mà trước đó tưởng giống như một khối sa thạch duy nhất nay đã bị cắt xẻ thành mạng lưới mê cung những đáy sông rỗng tuếch và những khe núi tỏa ánh màu xám và xám vàng kaki. Có thể thấy trên đỉnh mỗi quả núi những vết chia cắt xâm thực màu đỏ và nâu vàng nhạt được ánh mặt trời đang lên dọi chiếu. Những đợt khí lạnh bốc lên, tràn vào ô tô - đó là cảm giác dễ chịu đầu tiên của tôi về núi non sau màn mây mù nóng và hơi nước ngột ngạt của Peshawar tại tỉnh biên giới phía tây-bắc Pakistan. Bản thân con đèo Khyber không có gì là ấn tượng. Điểm cao nhất của nó cũng chỉ gần 2.000 m và lối lên đèo cũng hiếm khi nào quá dốc. Tuy vậy, trong vòng gần một giờ đồng hồ vào năm 1987, người ta đã chở tôi vượt qua một thế giới tựa cõi âm mang nguồn gốc núi lửa, chật hẹp, đầy những vách đá dốc lởm chởm và những hẻm núi dạng canyon lộng gió, từ miền nhiệt đới sum xuê của tiểu lục địa Ấn Độ sang xứ giá lạnh hoang vắng, trơ trụi và buồn tẻ vùng Trung Á, từ một thế giới đất đen, vải vóc trang trí lòe loẹt và một nền ẩm thực phong phú với nhiều gia vị bước vào thế giới cát, len sợi thô và thịt dê.
Tuy nhiên, giống như Karpat, nơi những con đèo từng được các nhà buôn chinh phục, khung cảnh địa lý vùng biên giới Afghanistan - Pakistan cũng cho ta những bài học khác nhau: cái mà người Anh là những người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Biên giới Tây Bắc”, theo Sugata Bose - giáo sư Harvard, “về mặt lịch sử lại hoàn toàn không phải là đường biên giới nào cả”, “mà là phần trái tim” của một thể liên tục mang tên “Ấn Độ-Ba Tư” hoặc “Ấn Độ-Hồi giáo”, tức cũng chính là nguyên nhân vì sao Afghanistan và Pakistan tạo thành một thể tổng hợp hữu cơ, do đó nhấn mạnh thêm tính chất rời rạc về mặt địa lý của chúng với tư cách là những quốc gia riêng rẽ.
Vậy mà còn có những đường biên giới nhân tạo hơn thế nữa:
Tôi đã vượt qua Bức tường Berlin tới Đông Berlin hai lần vào các năm 1973 và 1981. Bức tường bê tông cao 3,6 m, đỉnh có hình ống rộng cắt vào phong cảnh màu đen-và-trắng dạng bức màn mỏng của vùng lân cận nghèo khổ phía Tây Đức, nơi có những người nhập cư Thổ và Nam Tư sinh sống, cùng với những cao ốc hoang vắng và nham nhở đầy sẹo thời Thế chiến II bên phía Đông Đức. Bạn có thể bước lại gần và chạm tay vào Bức tường ấy hầu như ở mọi vị trí phía Tây, nơi trên tường có những chữ viết và graffiti; còn những bãi mìn và những tháp canh tất cả đều nằm ở phía Đông.
Dù là phi thực tế đến mức một dãy sân nhà tù như thế đã xuất hiện trong không gian đô thị thời ấy, người ta cũng không tự vấn về nó, ngoại trừ những khía cạnh đạo đức, bởi lẽ điều giả định trước có ý nghĩa căn bản khi đó là cho rằng Chiến tranh Lạnh sẽ không có hồi kết. Đặc biệt là đối với những người giống như tôi, những người đã lớn lên trong thời Chiến tranh Lạnh nhưng lại không có chút kí ức nào về bất cứ thứ gì của Thế chiến II, Bức tường ấy dường như
vĩnh cửu tựa như một dãy núi, cho dù nó thể hiện biết bao sự đau đớn. Sự thật chỉ hiện lên từ những cuốn sách và những bản đồ lịch sử về nước Đức mà tôi bắt đầu tra cứu, hoàn toàn do sự trùng hợp, vào tháng đầu tiên của năm 1989, khi tôi được cử tới Bonn vì một nhiệm vụ báo chí. Những cuốn sách và bản đồ ấy đã tiết lộ một câu chuyện:
Nằm ở trái tim châu Âu, trên phần đất kẹp giữa Biển Bắc, biển Baltic và miền núi Alps, người Đức, theo nhà sử học Golo Mann, đã luôn là một sức mạnh năng động bị nhốt trong “một trại tù lớn”, đau đáu tìm cách xé rào. Nhưng do bị nước và núi vây bọc từ phía bắc và phía nam, nên việc mở rộng ra ngoài đồng nghĩa với hai hướng đông và tây, nơi không có những mối ngăn trở về địa lý. “Điều tiêu biểu cho bản chất Đức suốt 100 năm qua (1860-1960) chính là sự thiếu thể thức và thiếu khả năng vận hành tốt của nó,” Mann viết như vậy khi xem xét giai đoạn nhiễu loạn và hai cuộc Thế chiến từ những năm 1860 đến những năm 1960 gây nên do tham vọng bành trướng của Otto von Bismarck. Tuy nhiên, cũng có thể nói điều tương tự về kích thước và hình dáng nước Đức trên bản đồ trong suốt chiều dài lịch sử của nó!
Thực vậy, Đế chế được Charlemagne Đệ nhất xây dựng vào năm 800, đã là một cuộc thay đổi vĩ đại hình dạng vốn không xác định về lãnh thổ dưới dạng một không gian khổng lồ luôn động mà lúc này hay khi khác từng bao gồm cả nước Áo, một số bộ phận của Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Ba Lan, Italia và Nam Tư. Châu Âu dường như được dành riêng để chịu sự điều hành của thế lực mà ngày nay tương ứng với nước Đức. Nhưng sau đó, Martin Luther đã xuất hiện, người đã chia tách đạo Thiên Chúa Phương Tây với Trào
lưu Cải cách tôn giáo (ra đời Đạo Tin Lành), rồi Trào lưu Cải cách ấy lần lượt đã làm bùng nổ Chiến tranh 30 năm, chủ yếu diễn ra trên đất Đức. Rồi sau đó Trung Âu đã bị tàn phá. Càng đọc nhiều hơn - về tính nhị nguyên thời thế kỷ XVIII giữa nước Phổ với Habsburg Áo, về liên minh thuế quan thời kỳ đầu thế kỷ XIX giữa những bang khác nhau của Đức và sau đó là về sự thống nhất dựa vào nước Phổ thời Bismarck nửa sau thế kỷ XIX - tôi càng thấy rõ ràng rằng Bức tường Berlin cũng chỉ là một giai đoạn khác tiếp theo quá trình biến đổi lãnh thổ liên tục này.
Những chế độ đã sớm bị sụp đổ sau khi Bức tường Berlin sụp đổ - tại Tiệp Khắc, Hungary, Romania, Bulgaria, và một vài nơi khác nữa - là những nhà nước mà tôi được biết tường tận nhờ đi du lịch và qua công việc. Khi nhìn gần, những quốc gia này tưởng như không gì lay chuyển được và do đó gây nên một sự sợ hãi. Sự gỡ rối bất ngờ của họ đã là một bài học quan trọng đối với tôi, không chỉ về sự bất ổn định trong nền tảng tất cả những nhà nước độc tài, mà cả về sự không vĩnh cửu của hiện tại, dù cho nó ngột ngạt đến thế nào. Điều duy nhất bền vững là vị trí một dân tộc trên bản đồ. Thực vậy, vào những thời kỳ biến động có tính đảo lộn, bản đồ tăng thêm tầm quan trọng của mình. Với địa bàn chính trị đang tiến hóa nhanh chóng dưới gót chân con người, cho dù không mang tính quyết định nhưng bản đồ chính là điểm khởi đầu để nắm bắt được logic lịch sử về cái gì sẽ xảy đến tiếp sau.
Bạo lực là ấn tượng thường trực về khu phi quân sự giữa hai nhà nước Triều Tiên. Năm 2006, tôi nhìn thấy những người lính Hàn Quốc đứng nghiêm trang như tượng trong tư thế võ taekwondo, cẳng tay gồng cứng nắm tay thật chặt, mắt nhìn chằm chằm vào mặt
những người đồng cấp Bắc Triều Tiên. Mỗi bên đều chọn những người lính tầm vóc cao nhất, có dáng vẻ hăm dọa nhất để làm nhiệm vụ này. Nhưng, sự hận thù đã hình tượng hóa được trưng ra giữa những bãi mìn và bãi dây thép gai chắc sẽ chỉ còn là kí ức trong một tương lai khá gần. Khi bạn nhìn vào những kịch bản khác về những đất nước bị chia cắt trong thế kỷ XX, như Đức, Việt Nam, Yemen - một điều thấy rõ là dù sự chia cắt kéo dài dai dẳng, nhưng sức mạnh tái thống nhất cuối cùng đã chiến thắng, theo cách không thể biết trước, đôi khi mang tính bạo lực hoặc diễn ra chóng vánh. Khu phi quân sự, ví dụ như Bức tường Berlin, là một đường biên giới mang tính áp đặt theo một logic phi địa lý, từng chia cắt một dân tộc tại địa điểm mà hai đội quân thù địch được tạo ra để đến ngồi chốt giữ. Cũng giống như nước Đức đã tái thống nhất, chúng ta có thể chờ đợi, hoặc chí ít cũng phải dự kiến một kế hoạch, về một nước Đại Triều Tiên thống nhất. Thêm một lần nữa, những sức mạnh của nền văn hóa và địa lý dường như đã thắng thế tại một thời điểm nào đó. Một đường biên giới do con người áp đặt, không ăn khớp với vùng biên giới tự nhiên, đặc biệt dễ bị tổn thương.
Tôi cũng đã vượt qua đường biên giới trên đất liền từ Jordan sang Israel và từ Mexico sang Hoa Kỳ; còn thêm nhiều lần nữa trên biên giới này và những đường biên giới khác. Bây giờ tôi muốn làm một hành trình kiểu khác, một lựa chọn hoàn toàn khác, thông qua các trang được tuyển lựa của lịch sử, còn được giữ lại qua hố ngăn cách của những thập kỷ, đôi khi cả những thế kỷ, và nhờ giá trị nặng về địa lý, chúng giúp ta đọc bản đồ địa hình tốt hơn, qua đó hé mở cho chúng ta, dù chỉ là mờ nhạt, những đường nét chính trị trong tương lai. Bởi vậy, đây chính là việc vượt qua biết bao đường biên
giới từng khiến tôi vô cùng tò mò về số phận những nơi chốn mà tôi đã đi qua.
Những điều ghi chép được trong mấy chục năm qua đã thuyết phục tôi rằng tất cả chúng ta cần phải khôi phục lại một cảm giác về thời gian và không gian đã bị mất đi trong những chuyến bay của máy bay phản lực, của việc đưa tin tức thời đại, khi những người tạo dư luận xã hội hàng đầu tung chúng qua các châu lục và đại dương chỉ trong vài giờ, khiến họ có thể nói năng một cách tự do, tự tại về những gì mà Thomas L. Friedman - bình luận viên nổi tiếng của New York Times đã dán nhãn là thế giới phẳng. Thay cho điều đó, tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc một nhóm các nhà tư tưởng đã hoàn toàn lỗi thời, những người chống lại tới mức cực đoan quan niệm rằng hoàn cảnh địa lý không còn có gì là quan trọng nữa.
Tôi sẽ trình bày suy nghĩ của họ ở một chiều sâu nhất định trong nửa đầu cuộc hành trình này, rồi sẽ áp dụng sự khôn ngoan của họ trong nửa thứ hai, với những gì đã xảy ra và cả những gì có thể xảy ra trên đại lục Á-Âu - từ châu Âu đến Trung Quốc, bao gồm cả Đại Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ. Để tìm hiểu cái gì chắc chắn đã mất đi trong con mắt của chúng ta đối với hiện thực vật lý, để xem ta đã mất chúng như thế nào và sau đó khôi phục lại chúng bằng cách giảm nhịp độ du khảo cũng như của chính sự quan sát - bằng sự uyên bác có thừa của các nhà thông thái nay đã khuất: đó chính là mục tiêu của chuyến du khảo này.
Địa lý, một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp chủ yếu ám chỉ sự “mô tả về trái đất”, trước đây thường được liên kết với thuyết định mệnh và do vậy bị kỳ thị: bởi lẽ, người ta nói rằng, suy nghĩ theo cách địa lý có nghĩa là hạn chế sự lựa chọn của con người.
Nhưng khi bắt đầu làm việc với những công cụ, như bản đồ địa hình nổi và các nghiên cứu về dân số, tôi chỉ muốn đưa thêm một lớp dữ liệu phức tạp nữa vào phép phân tích chính sách đối ngoại thông thường, từ đó tìm ra một phương cách mạnh mẽ và sâu sắc hơn để nhìn thế giới. Bạn không cần phải là một người theo Quyết định luận địa lý để nhận ra rằng địa lý là cực kỳ quan trọng. Càng chú ý nhiều hơn tới những sự kiện đương thời, ta càng thấy các cá nhân và những lựa chọn của họ là quan trọng: song càng nhìn lâu hơn vào chiều dài những thế kỷ, ta càng thấy rõ hơn vai trò của điều kiện địa lý.
Trung Đông là một trường hợp điển hình.
Vào thời điểm tôi viết những dòng này, khu vực từ Morocco đến Afghanistan đang nằm ở trung tâm cuộc khủng hoảng của chính quyền trung ương. Trật tự xưa của chế độ chuyên quyền đã trở nên không thể chấp nhận, trong khi chính con đường dẫn tới dân chủ ổn định lại quanh co. Giai đoạn đầu tiên của biến động lớn này đã thể hiện sự thất bại của điều kiện địa lý bởi sức mạnh của công nghệ truyền thông mới. Truyền hình vệ tinh và các trang web thuộc mạng xã hội trên Internet đã tạo ra một cộng đồng duy nhất của những người biểu tình trên khắp thế giới Arab: mục đích là sao cho những người ủng hộ dân chủ ở những nơi vốn khác xa nhau như Ai Cập, Yemen và Bahrain cùng lấy được cảm hứng từ những gì đã bắt đầu ở Tunisia. Thế là đã có một điểm chung trong tình hình chính trị của tất cả các quốc gia này. Nhưng khi những cuộc nổi dậy đã hoàn tất, người ta lại thấy mỗi quốc gia ấy đều có câu chuyện riêng được dẫn dắt bởi ảnh hưởng của lịch sử lâu đời và hoàn cảnh địa lý của chính mình. Vì thế, khi càng biết nhiều hơn về lịch sử và địa lý của một
quốc gia Trung Đông nào đó, người ta càng ít bị ngạc nhiên hơn bởi những sự kiện của nó.
Chính vì thế mà có lẽ cuộc biến động đã được khơi mào tại Tunisia chỉ phần nào mang tính ngẫu nhiên. Một bản đồ thời cổ đại kinh điển cho thấy có sự tập trung các khu định cư tại nơi mà ngày nay là Tunisia, liền kề và tương phản với sự trống vắng tương đối đặc trưng cho Algeria và Libya thời hiện đại. Nhô sâu vào Địa Trung Hải gần đảo Sicily, Tunisia là trung tâm dân số của Bắc Phi không chỉ trong thời đại người Carthage và Roma mà cả dưới thời người Vandal, Byzantine, Arab Trung cổ và Turk. Trong khi Algeria ở phía tây và Libya ở phía đông chỉ là những biểu trưng địa lý mờ nhạt, thì Tunisia đã từng là một cái nôi cổ của nền văn minh. (Ví dụ, với Libya, khu vực nằm về phía tây Tripolitania trong suốt chiều dài lịch sử luôn hướng về Tunisia, trong khi khu vực ở phía đông Cyrenaica - Benghazi - lại luôn luôn hướng về phía Ai Cập).
2.000 năm qua, những địa bàn càng gần Carthage (về đại thể tương ứng với địa bàn Tunisia hiện nay), thì cấp độ phát triển càng cao hơn. Vì quá trình đô thị hóa ở Tunisia đã bắt đầu từ hai thiên niên kỷ trước, nên bản sắc văn hóa bộ tộc dựa trên lối sinh hoạt du mục - điều mà nhà sử học Trung cổ Ibn Khaldun gọi là sự ổn định chính trị bị gián đoạn - thuộc loại lỏng lẻo một cách tương ứng. Thật vậy, sau khi vị tướng Roma Scipio đánh bại Hannibal năm 202 TCN tại vòng ngoài Tunis, ông đã cho đào hào phân giới, còn gọi là hố đặc quyền nhà vua, làm mốc đánh dấu lãnh thổ văn minh. Hố này hiện giờ vẫn còn liên quan đến cuộc khủng hoảng Trung Đông ngày nay. Vẫn còn nhìn thấy được trên thực địa, nó chạy từ Tabarka trên bờ biển tây-bắc Tunisia về phía nam rồi rẽ ngoặt về phía đông,
chuyển trực tiếp vào Sfax, một cảng khác trên bờ Địa Trung Hải. Các thị trấn nằm ngoài đường hào phân giới này thường có ít di tích Roma hơn, ngày nay đều có xu hướng nghèo và kém phát triển hơn, tỷ lệ thất nghiệp vốn xưa nay vẫn cao hơn. Thị trấn Sidi Bouzid, nơi các cuộc nổi dậy Arab bắt đầu vào tháng 12 năm 2010, khi một nhà cung cấp trái cây và rau quả tự thiêu để thể hiện sự phản kháng, nằm ngay phía bên kia đường Scipio.
Đây không phải là định mệnh. Tôi chỉ đơn giản là cung cấp bối cảnh địa lý và lịch sử các sự kiện thời sự hiện nay: những cuộc nổi dậy của người Arab vì dân chủ bắt đầu tại nơi mà về mặt lịch sử từng là một xã hội tiên tiến nhất thế giới Arab - một xã hội nằm trên mảnh đất gần châu Âu hơn cả - nhưng nó còn có nét đặc thù là đã khởi phát tại một bộ phận của chính đất nước mà từ thời cổ đại đã không được biết đến, và phải chịu cảnh kém phát triển như là hệ quả của sự lãng quên ấy.
Kiến thức này có thể giúp tăng thêm chiều sâu cho những gì đã từng hé lộ ở nơi khác: cho dù đó là ở Ai Cập, một cái nôi cổ kính khác của nền văn minh có lịch sử lâu dài với tư cách một quốc gia giống như Tunisia; hay Yemen, một hạt nhân về mặt dân số của bán đảo Arab, mà những nỗ lực nhằm thống nhất xứ sở đã trải nhiều rắc rối bởi một hình thế địa hình núi non và phân bố vụn vặt, một đặc điểm từng làm suy yếu chính quyền trung ương mà hệ quả là tăng vai trò của cấu trúc bộ lạc và các nhóm ly khai; hay là với hình dạng bị cắt cụt trên bản đồ, Syria tiềm ẩn nguy cơ bị chia cắt trên cơ sở sắc tộc và bản sắc giáo phái. Kết cấu địa lý chứng minh rằng Tunisia và Ai Cập là những đất nước gắn kết một cách tự nhiên, còn Libya, Yemen và Syria thì ở mức độ thấp hơn. Do vậy, suy ra rằng Tunisia
và Ai Cập chỉ đòi hỏi những dạng thức chuyên quyền ở mức độ tương đối ôn hòa để duy trì sự gắn bó, trong khi Libya và Syria lại yêu cầu những dạng thức cực đoan hơn. Trong khi đó, bối cảnh địa lý đã luôn luôn khiến cho Yemen khó điều hành hơn cả. Yemen đã từng được những học giả châu Âu thế kỷ XX là Ernest Gellner và Robert Montagne gọi bằng cái tên “một xã hội phân khúc”, như là hệ quả sau cùng của một cảnh quan vùng Trung Đông bị chia cắt vụn vặt bởi những núi non và sa mạc. Lơ lửng giữa tập quyền và tình trạng vô chính phủ, một xã hội như vậy trong ngôn từ của Montagne được điển hình bởi một chế độ từng “rút hết sự sống khỏi một khu vực”, thậm chí “do sự dễ đổ vỡ của chính mình”, một chế độ không thành lập nổi những thể chế ổn định dài lâu. Đây là nơi các bộ tộc mạnh mẽ, còn chính quyền trung ương thì tương đối yếu. Cuộc đấu tranh để xây dựng trật tự tự do ở những nơi như vậy không thể không tính đến các thực tế này.
Khi những biến động chính trị dồn dập xảy ra, và thế giới dường như trở nên khó quản lý hơn, đồng thời luôn thường trực những câu hỏi về cách mà Hoa Kỳ và các đồng minh của mình phải đối phó, địa lý học có thể cung cấp một phương tiện hành động, chí ít là theo một ý nghĩa nào đó của vấn đề này. Bắt tay vào nghiên cứu những bản đồ cổ, và cùng với các nhà địa lý và các nhà tư tưởng địa chính trị của những thời đại trước, tôi có ý định đặt trái đất đối diện với hiện thực trên thực địa, như tôi đang làm đối với những đường biên giới, bắt đầu từ cuối thế kỷ XX. Cho dù chúng ta có thể phóng các vệ tinh đến phần ngoài rìa Hệ Mặt trời - thậm chí các thị trường tài chính và không gian điều khiển hoàn toàn không biết đến những đường biên giới - thì dãy Hindu Kush vẫn sẽ là một rào cản đáng gờm.
I
NHỮNG NGƯỜI NHÌN XA TRÔNG RỘNG (NHỮNG NGƯỜI MƠ MỘNG)
CHƯƠNG I
TỪ BOSNIA ĐẾN BAGHDAD
Đ
ể khôi phục lại ý nghĩa mà chúng ta gửi gắm trong thuật ngữ “địa lý”, đầu tiên phải xác định thời điểm trong lịch sử gần đây khi chúng ta hầu như quên khuấy thuật ngữ này, giải thích tại sao chúng ta đã quên nó, và làm sáng tỏ tác hại của điều đó đối với những giả định của chúng ta về thế giới. Tất nhiên, sự lãng quên hay đánh mất đó đã diễn ra từ từ. Nhưng cái thời điểm mà tôi khu biệt là lúc mà dường như sự đánh mất ấy đã trở nên sâu sắc nhất, chính là thời khắc ngay sát sau sự sụp đổ Bức tường Berlin. Sự sụp đổ của đường biên giới tùy tiện này lẽ ra đã phải kích thích mối quan tâm của chúng ta đối với cả địa chính trị lẫn tự nhiên - điều lẽ ra đã có thể hé mở cho chúng ta nhìn thấy những đảo lộn sẽ xảy đến trên vùng đất Balkan kế bên và trên đất Trung Đông - nhưng nó lại chỉ làm cho chúng ta mù mờ hơn về vai trò thực sự của những trở ngại địa lý trong các cuộc xung đột đã qua và sắp đến.
Bởi lẽ, đột nhiên chúng ta rơi vào một thế giới, trong đó việc phá bỏ đường biên giới nhân tạo ở nước Đức đã dẫn đến giả thiết rằng mọi sự bất đồng chia rẽ con người đều có thể vượt qua được, rằng nền dân chủ sẽ chinh phục được châu Phi và Trung Đông cũng dễ
dàng như từng chinh phục Đông Âu, rằng toàn cầu hóa - sớm trở thành một từ thông dụng - không có gì khác hơn là một hướng đạo đức của lịch sử và một hệ thống an ninh quốc tế, chứ không phải là những gì đang hiện hữu, chỉ đơn giản là một vũ đài kinh tế và văn hóa của tiến trình phát triển. Hãy xem: một ý thức hệ chuyên chế vừa bị sụp đổ, trong khi nền an ninh nội địa của Hoa Kỳ và Tây Âu được xem là điều dĩ nhiên. Một không khí hòa bình dường như đang ngự trị khắp nơi. Nắm bắt được theo cách tiên tri bối cảnh chính trị của thời đại, một cựu phó giám đốc ban Hoạch định Chính sách của Bộ Ngoại giao Mỹ, Francis Fukuyama, vài tháng trước khi Bức tường Berlin sụp đổ đã đăng bài báo “Sự cáo chung của lịch sử”, trong đó tuyên bố rằng mọi kiểu chiến tranh và những cuộc nổi dậy sẽ tiếp tục, lịch sử theo một nghĩa trong cách hiểu của Hegel giờ đây đã cáo chung, kể từ khi sự thành công của các nền dân chủ tự do tư bản chủ nghĩa đã kết thúc cuộc tranh cãi, theo đó hệ thống quản lý của nó là tốt nhất cho nhân loại. Như vậy, có lẽ chúng ta chỉ còn phải định hình thế giới gần hơn với hình ảnh của chúng ta, đôi khi phải triển khai quân đội Mỹ, chủ yếu theo sứ mệnh duy trì trật tự; những cuộc triển khai mà trong năm 1990 có lẽ đã thực sự là tương đối ít phải trả giá. Đó là một thời kỳ của những ảo tưởng, là chu kỳ trí tuệ đầu tiên của thời Hậu Chiến tranh Lạnh. Đó là một thời kỳ mà những từ ngữ “người theo chủ nghĩa hiện thực” và “người theo chủ nghĩa thực dụng” bị coi như có ý miệt thị, ám chỉ một ác cảm đối với sự can thiệp nhân đạo ở những nơi mà lợi ích dân tộc, cả theo định nghĩa thông thường cũng như theo nghĩa hẹp, dường như là khó hiểu. Trong những ngày đó, tốt hơn cả là làm một người theo chủ nghĩa quốc tế Bảo thủ Mới hay Tự do, những người vẫn từng được
cho là tốt, thông minh, những người chỉ đơn giản là muốn dừng cuộc diệt chủng ở khu vực Balkan.
Sự bùng nổ chủ nghĩa Lý tưởng tại Hoa Kỳ không phải là không có tiền lệ. Chiến thắng trong Thế chiến I đã làm nổi lên biểu ngữ “Chủ nghĩa Lý tưởng Wilson”, một khái niệm gắn với Tổng thống Woodrow Wilson, mà dựa theo những gì nó diễn đạt thì người ta còn ít tính tới những mục tiêu thực tế từ phía các đồng minh châu Âu của Mỹ và càng ít hơn nữa đối với tình hình thực tế của vùng Balkan và Cận Đông, những khu vực mà các sự kiện trong năm 1920 cho thấy một khi được giải phóng khỏi ách Ottoman sẽ trở thành sân khấu của những cuộc nổi dậy mang bản sắc thiển cận. Một hiện tượng tương tự là sau khi phương Tây giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh, nhiều người tin rằng đã mở ra một thời đại tự do và thịnh vượng phổ cập dưới sự bảo trợ của “dân chủ” và “thị trường tự do”. Nhiều ý kiến cho rằng ngay cả châu Phi, châu lục nghèo nhất và kém ổn định nhất, lại thêm gánh nặng của những đường biên giới nhân tạo và phi logic nhất trên thế giới, cũng có thể cận kề một cuộc cách mạng dân chủ; như thể là sự sụp đổ đế chế Soviet ở trung tâm châu Âu đã đem lại một cơ hội tối thượng cho các nước kém phát triển nhất trên thế giới vốn bị biển và sa mạc phân cách hàng ngàn dặm, nhưng được vô tuyến truyền hình kết nối. Trên thực tế, cũng giống như sau hai cuộc Thế chiến I và II, những ước muốn dân chủ và hòa bình nơi nơi sau Chiến tranh Lạnh không khiến ta mệt mỏi quá mức như phải đối mặt với cuộc đấu tranh hằng ngày cho sự sống còn, trong đó cái ác không ngừng đeo mặt nạ mới. Thực thế, dân chủ và sự quản lý tốt hơn sẽ có thể bắt đầu xuất hiện tại khắp mọi nơi ở châu Phi, nhưng với cái giá phải trả là thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi những cuộc chiến khủng khiếp, lâu
dài và khó khăn, dẫn đến những tình trạng hỗn loạn (trường hợp một số quốc gia Tây Phi), phong trào bạo động, và sự tàn ác trắng trợn (trường hợp Rwanda), sự diệt chủng đẫm máu. Châu Phi sẽ đi qua một chặng đường dài hướng tới sự minh định trong thập kỷ kéo dài từ ngày 9 tháng 11 năm 1989 đến ngày 11 tháng 9 năm 2001, tức là thời kỳ giữa sự sụp đổ Bức tường Berlin và các cuộc tấn công của al-Qaeda vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc: thời đoạn dài 12 năm ấy đã chứng kiến sự giết chóc hàng loạt và những cuộc can thiệp nhân đạo muộn màng làm thất vọng những nhà trí thức không thực tế, mặc dù sự thành công cuối cùng của những cuộc can thiệp ấy đã nâng thái độ hân hoan chiến thắng có tính lý tưởng hóa tới những tầm cao, nhưng rồi sẽ phải hóa thành thảm họa trong thập kỷ tiếp theo sau sự kiện ngày 11 tháng 9.
Trong thập kỷ mới sau ngày 11 tháng 9, khung cảnh địa lý, chắc chắn từng là một nhân tố có ý nghĩa ở Balkan và châu Phi trong những năm 1990, sẽ tiếp tục tạo ra những thiệt hại không thể giảm nhẹ đối với những ý định tốt của Mỹ ở vùng Cận Đông. Cuộc du khảo từ Bosnia đến Baghdad, từ một không gian hạn chế và chiến dịch trên bộ ở phía Tây - không gian phát triển nhất của đế quốc Ottoman xưa ở Balkan, đến một cuộc xâm nhập ồ ạt bằng bộ binh ở phía Đông - một không gian kém phát triển nhất ở Lưỡng Hà của cùng đế chế ấy, sẽ có thể phơi bày những giới hạn của thuyết phổ quát tự do, và cũng nằm trong quá trình thừa nhận một sự tôn trọng mới đối với địa hình.
Thời Hậu Chiến tranh Lạnh thực sự bắt đầu vào những năm 1980, trước khi xảy ra sự sụp đổ Bức tường Berlin, với sự hồi sinh thuật ngữ Trung Âu, sau này được nhà báo và học giả Oxford
Timothy Garton Ash định nghĩa như “một sự khác biệt chính trị-văn hóa đối lại với ‘Phương Đông’ Soviet, hay là Đông Âu, thể hiện sự phân hóa lưỡng cực của châu Âu.” Trung Âu, hay là Mitteleuropa, từng là một ý niệm nhiều hơn là một thực thể địa lý. Nó tạo ra một tuyên ngôn của ký ức: ký ức về một nền văn minh châu Âu mạnh mẽ, huyên náo một cách thú vị và lãng mạn, khơi gợi về những con đường lát sỏi và những mái nhà có đầu hồi mái dốc nhọn, rượu vang phong phú, các quán cà phê Vienna và âm nhạc cổ điển, về một truyền thống nhân văn nhẹ nhàng hòa quyện với một nền nghệ thuật và tư tưởng hiện đại, sắc sảo và gây lo lắng. Nó đã gợi nhớ đến đế quốc Áo-Hung và những tên tuổi như Gustav Mahler, Gustav Klimt và Sigmund Freud, làm sống động với sự đánh giá sâu sắc những tên tuổi lớn như Immanuel Kant và triết gia Do Thái-Hà Lan - Baruch Spinoza. Thật vậy, bên cạnh vô số những khía cạnh khác, khái niệm Trung Âu ám chỉ một thế giới trí thức của cộng đồng Do Thái đang bị hiểm nguy trước sự truy sát của Chủ nghĩa Quốc xã và Chủ nghĩa bài ngoại độc đoán; nó cũng ám chỉ một sự phát triển kinh tế, với sự nhắc nhớ kiên định về xứ Bohemia, nơi trước Thế chiến II đã đạt đến độ công nghiệp hóa cao hơn nước Bỉ. Với tất cả sự suy đồi và tính không hoàn hảo về đạo đức của mình, nó còn là một vùng khoan dung tương đối đa sắc tộc dưới sự bảo trợ của một đế chế gồm những Habsburg [^Những thành viên thuộc dòng dõi hoàng tộc Đức từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XX đã thống trị đế quốc Roma thần thánh, Tây Ban Nha và Áo-Hung.] ôn hòa, nhưng ngày càng vận hành kém ổn định hơn. Trong pha cuối của Chiến tranh Lạnh, Trung Âu đã được giáo sư Đại học Princeton Carl E. Schorske tóm lược cô đọng trong cuốn sách gây lo lắng, qua-cái-nhìn-lạnh lùng từ Vienna kinh điển cuối thế kỷ: Chính trị và văn hóa, và tương
tự, bởi nhà văn Ý Claudio Magris trong cuốn phim hào nhoáng về du lịch Sông Danube.
Đối với Magris, Trung Âu là một cái gì nhạy cảm “ám chỉ sự bảo vệ cái cá thể chống lại mọi chương trình độc tài”. Đối với nhà văn Hungary Gyorgy Konrad và nhà văn Czech Milan Kundera, Trung Âu là một cái gì đó “cao quý”, một “kiệt tác” cho sự giải phóng những cảm hứng chính trị.
Nói về Trung Âu trong những năm 1980 và 1990 có lẽ phải nói rằng văn hóa trong nó và từ bản thân nó đã bao gồm một hoàn cảnh địa lý toàn diện chẳng khác nào một dãy núi tự kể về mình, hoặc về mọi mặt như những cỗ xe tăng Soviet đã thể hiện. Vì thế, ý tưởng về Trung Âu từng là một lời phê phán rõ ràng đối với địa lý lưỡng cực được thiết lập sau Hội nghị Yalta, theo đó xuất hiện tên gọi “Đông Âu” để ám chỉ một nửa châu Âu theo chế độ cộng sản và do Moskva kiểm soát. Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, và Hungary tất cả đều thuộc về Trung Âu. Vài năm sau đó, trớ trêu thay, khi cuộc chiến tranh sắc tộc nổ ra ở Nam Tư, Trung Âu cũng được nhắc đến không phải với tư cách một thuật ngữ thống nhất hóa, mà có thể đã là một đơn vị phân chia: “xứ Balkan” đã được tách ra khỏi Trung Âu trong tâm trí người dân, và thực tế đã trở thành một phần Cận Đông mới và cũ.
Xứ Balkan từng đồng nghĩa với tên gọi các đế quốc Turk và Byzantine xưa, với những dãy núi chia cắt hiểm trở đã từng kìm hãm sự phát triển, có mức sống nói chung thấp hơn trong suốt hàng thập kỷ và hàng thế kỷ so với các vùng đất Habsburg xưa và đế quốc Phổ tại khu vực trái tim châu Âu. Trong những thập niên đơn điệu, các nước vùng Balkan như Romania và Bulgaria từng phải
nếm trải mức độ nghèo khó và phải chịu đựng sự đàn áp chưa từng thấy trên phần phía Bắc, tức là nửa Trung Âu. Nhưng dĩ nhiên cũng phải xem xét tình hình với sự phân hóa tinh tế hơn: Nước Đức đã thật sự bị chiếm đóng ở mức độ cao nhất trong số các quốc gia vệ tinh, trong khi Nam Tư, do không chính thức là thành viên Hiệp ước Warszawa, nên được chút tự do hơn, nhất là ở các thành phố, điều không thể có được, chẳng hạn, ở Tiệp Khắc. Tuy nhiên, nhìn chung, các quốc gia đông nam Âu thuộc Turk và Byzantine xưa đã phải khổ sở không khác mấy so với một chế độ chuyên chế phương Đông, được ví như một cuộc xâm chiếm lần thứ hai của Mông Cổ, trong khi những quốc gia châu Âu thuộc đế chế Habsburg Công giáo xưa chủ yếu chỉ phải chịu đựng một sự pha trộn buồn tẻ với mức độ khác nhau của chủ nghĩa dân túy xã hội chủ nghĩa cấp tiến, nhìn chung ít độc hại hơn. Có thể thấy rõ sự khác biệt như thế qua một chuyến du khảo từ xứ sở Hungary tương đối tự do thời Janos Kadar đến Romania thời chế độ độc tài Ceaușescu. Tôi đã thường xuyên thực hiện các chuyến đi như thế trong những năm 1980: khi chuyến tàu chở tôi từ Hungary vào đất Romania, tôi thấy ngay chất lượng vật liệu xây dựng đột nhiên trở nên xấu xí; người ta nặng tay với hành lý của tôi và còn yêu cầu tôi đưa tiền hối lộ vì chiếc máy chữ của mình; trong nhà vệ sinh đèn thì mờ, giấy vệ sinh thì không có. Đúng là Balkan đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Âu, nhưng họ cũng chịu ảnh hưởng không kém bởi Trung Đông. Thảo nguyên bụi bặm với những không gian công cộng hầu như không có chiếu sáng của Kosovo và Macedonia là những thứ gợi nhớ đến Anatolia nhiều hơn là Praha và Budapest. Như vậy, không hoàn toàn ngẫu nhiên, cũng không hoàn toàn do bàn tay của những cá nhân ác ý mà bạo lực đã nổ ra trong các cộng đồng pha trộn tộc người ở Nam Tư, điều
không xảy ra tại các quốc gia Trung Âu với sự đồng nhất sắc tộc, như Hungary và Ba Lan. Lịch sử và địa lý chắc đã có sự liên đới thế nào đó với câu chuyện này.
Tuy nhiên, các trí thức tự do như Garton Ash - một trong những cây viết hùng hồn nhất thập kỉ ấy - đã lấy trường hợp Trung Âu làm một mẫu điển hình về đạo đức và chính trị, nhưng lại bỏ qua những đặc điểm riêng về địa lý. Họ đã biện hộ cho một cái nhìn thống nhất nhiều hơn là xung đột đối với châu Âu và thế giới, trong đó không một khu vực nào có thể bị bỏ mặc cho tình trạng kém phát triển và man rợ, dù đó là Balkan hay châu Phi. Đối với họ, sự sụp đổ Bức tường Berlin sẽ không chỉ ảnh hưởng đến số phận của chính Trung Âu mà còn mang lại lợi ích cho toàn thế giới. Trong những năm 1990, tiếp cận nhân văn này đã là nền tảng cho một chủ nghĩa thế giới từng nhận được sự đồng tình cả của những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do cũng như của những người Bảo thủ Mới. Điều này làm ta nhớ lại rằng trước khi trở thành nổi tiếng vì ủng hộ cho cuộc chiến tranh Iraq, Paul Wolfowitz đã ủng hộ sự can thiệp quân sự ở Bosnia và Kosovo, và thực tế là đã bắt tay với những người theo chủ nghĩa tự do như Garton Ash ở tạp chí The New York Review of Books (Điểm Sách New York) có khuynh hướng theo cánh tả. Con đường đến Baghdad có nguồn cội từ cuộc can thiệp vào Balkan trong những năm 1990, khi đó từng bị những người thực tế và thực dụng phản đối, mặc dù việc triển khai quân sự tại Nam Tư cũ đã chứng minh là sẽ chắc chắn thành công. Sự khát khao cứu vãn những người Hồi giáo Bosnia và Kosovo không thể tách rời khỏi khát vọng phục hồi Trung Âu với tư cách một nơi chốn vừa là hiện thực vừa là tưởng tượng một cách đau xót - một sự hồi sinh, mà theo những người biện hộ của nó, có thể chứng minh rằng sự hài
hòa chỉ có thể nảy sinh từ những khát vọng đạo đức và nhân đạo. Chính Garton Ash, tuy từng là người hoài nghi về sự lý tưởng hóa Trung Âu, rốt cuộc đã tán thành với lợi ích của nó trên phương diện đạo đức.
Những bài viết mang tính nhân văn của Isaiah Berlin đều thấm nhuần trạng thái tinh thần của những năm 1990. “Tôi thường nói ‘tôi là một người Berlin’ với ngụ ý một người Berlin theo cách hiểu của Isaiah,” - Garton Ash đã viết như vậy trong một cuốn hồi ký đầy ám ảnh bởi thời gian ông sống ở Đông Đức. Giờ đây, khi những điều không tưởng đã bị coi là lạc điệu, Isaiah Berlin là liều thuốc hoàn hảo đối với những lý thuyết nhất nguyên luận từng được nâng niu trong đời sống học thuật suốt bốn thập kỷ trước đó. Isaiah Berlin, người từng giảng dạy tại Oxford và đồng hành cùng thế kỷ XX, đã luôn bảo vệ chủ nghĩa thực dụng tư sản và “những thỏa hiệp theo kiểu chờ đợi và xem” trước sự thử nghiệm chính trị. Ông ghét Quyết định luận địa lý, Văn hóa và mọi dạng Quyết định luận khác, không chấp nhận để bất kỳ ai tự phó thác đời mình cho số phận. Các tư tưởng của ông được thể hiện nhất quán qua những bài báo và bài giảng suốt cuộc đời, chứa đựng một phép tổng hợp hoàn hảo chủ nghĩa Lý tưởng ôn hòa vốn được sử dụng đồng thời chống lại cả chủ nghĩa cộng sản lẫn quan điểm cho rằng tự do và an ninh là những gì chỉ dành cho một số dân tộc mà thôi. Chính theo cách nhìn đó, triết lý của ông và lý tưởng Trung Âu đã phù hợp nhau một cách hoàn hảo.
Nhưng dù cho Trung Âu theo nghĩa rộng, như từng được các nhà trí thức thông thái và hùng biện dẫn giải, đã thực sự là một sự nghiệp cao quý và nên thường xuyên được có tiếng nói trong mọi
chính sách ngoại giao của tất cả các quốc gia phương Tây (điều mà tôi sẽ chứng minh), nó vẫn phải đối mặt với một rào cản mà tôi cũng buộc phải đề cập.
Như nó từng được thuyết trình và bảo vệ trong những công trình của các nhà trí thức thông thái và hùng biện, ý tưởng Trung Âu theo nghĩa rộng đã thực sự là một sự nghiệp cao quý và một kiểu mẫu cho chính sách đối ngoại, một hình mẫu mà các quốc gia phương Tây cần theo (điều mà tôi sẽ chứng minh), nhưng nó vẫn chứa đựng một vấn đề cơ bản mà dưới đây tôi cũng buộc phải xem xét.
Bởi lẽ vẫn có một vướng mắc liên quan với ý niệm cao quý này, đó là một thực tế đáng buồn thường biến ý tưởng Trung Âu thành một cái gì đó bi thảm trong suốt chiều dài lịch sử: ý tưởng Trung Âu không được biện luận trên cơ sở của bất cứ một đường biên giới cụ thể nào, nói cách khác, không gian này không được phân định theo một địa hình tự nhiên nào. Trung Âu đơn giản là không tồn tại như một thực thể xác định trên bản đồ tự nhiên. (Garton Ash đã thể hiện khả năng trực giác này trong nhan đề bài báo của mình: “Liệu Trung Âu có thực sự tồn tại?”). Bây giờ chúng ta hãy nhường lời cho các nhà Quyết định luận địa lý (những người có giọng điệu khá gay gắt và khinh thường so với giọng điệu nhẹ nhàng của Isaiah Berlin): đặc biệt là giọng điệu thời vua Edward của Ngài Halford Mackinder J. và đệ tử của ông là James Fairgrieve, những người cho rằng với họ ý tưởng Trung Âu có một “khiếm khuyết địa lý chết người”. Theo họ, không gian mà người ta gọi là Trung Âu ăn khớp với khu vực cọ xát và bùng nổ giữa những sức mạnh cận biển vốn hướng về những “lợi ích đại dương” và “những sức mạnh lục địa vốn định vị ở Heartland”. Tóm lại, Trung Âu khi thì rơi vào vùng ảnh hưởng của
phía này, khi thì của phía kia trong hai sức mạnh kể trên, nên về mặt chiến lược, trong quan niệm của Mackinder và Fairgrieve “không có không gian” cho Trung Âu. Việc tán dương Trung Âu, niềm đam mê chính đáng đối với nó từ phía các trí thức cánh tả, theo ý kiến từ những tác phẩm của Mackinder và Fairgrieve, không thể hiện điều gì khác hơn là một sự hòa hoãn trong địa chính trị - hoặc ít ra là sự mong muốn cho điều đó. Tuy nhiên, sự sụp đổ Bức tường Berlin đã không thể - hay dường như không thể - kết thúc được Khoa học địa chính trị, mà chỉ đơn thuần là chuyển nó vào một pha mới. Bạn không thể rũ bỏ hay tống khứ những cuộc đấu tranh giữa các quốc gia và các đế chế một cách giản đơn trên bản đồ.
Tôi sẽ tìm hiểu những công trình của Mackinder, đặc biệt là luận điểm của ông về Heartland, một thời gian dài về sau. Trước hết cần nói rằng luận điểm này được đưa ra từ hơn một trăm năm trước, nhưng nó tỏ ra rất khớp với những động thái của Thế chiến I, Thế chiến II và Chiến tranh Lạnh. Sau khi cái logic trần trụi nhất của chúng bị bóc lộ, cả hai cuộc thế chiến đều là đáp án cho câu hỏi liệu nước Đức có thể hay không thể thống trị Heartland nằm về phía Đông của nó, còn cuộc Chiến tranh Lạnh lại chủ yếu hướng vào sự thống trị của Liên Xô đối với Đông Âu, tức là phần rìa Tây Heartland trong quan niệm của Mackinder. Nhân tiện nói thêm rằng, phần Đông Âu mang màu sắc Soviet này cũng bao gồm cả Đông Đức - phần nước Phổ trong lịch sử từng có thiên hướng hướng Đông theo truyền thống và theo lãnh thổ - tức là hướng về Heartland; còn phần Tây Đức thì nằm trong liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) với truyền thống lịch sử Công giáo, mang bản sắc công nghiệp và thương mại hướng về phía Biển Bắc và Đại Tây Dương. Một nhà địa lý Mỹ nổi tiếng thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Saul B. Cohen, lập luận
rằng “dải đất phân chia ranh giới Đông Đức và Tây Đức… là một trong những đường biên giới lâu đời nhất trong lịch sử,” bởi vì từ thời Trung cổ nó đã phân cách những bộ lạc Frank và Slav. Nói cách khác, có đôi chút gượng gạo trong việc phân định đường biên giữa Đông Đức và Tây Đức. Tây Đức, theo Cohen, là một “sự phản ánh nổi bật của châu Âu cận biển”, trong khi Đông Đức rõ ràng thuộc về “lãnh địa quyền lực mang thiên hướng lục địa.” Cohen đã ủng hộ một nước Đức bị chia cắt như là “tiếng nói của địa chính trị và sự cần thiết về chiến lược”, bởi vì nó đã vật chất hóa sự đối đầu liên miên giữa phần châu Âu cận biển với phần châu Âu Heartland. Cũng chính Mackinder đã viết một cách tiên tri vào năm 1919 rằng “tuyến đường xuyên qua Đức… chính là tuyến đường mà chúng ta có căn cứ khác để chọn làm giới tuyến mang ý nghĩa chiến lược giữa Heartland và châu Âu cận biển”. Như vậy, trong khi sự chia cắt Berlin mang tính nhân tạo, thì việc chia cắt nước Đức lại ít nhân tạo hơn.
Cohen gọi Trung Âu “là một biểu hiện đơn thuần địa lý thiếu nền tảng địa chính trị”. Theo logic này, thì việc thống nhất nước Đức, thay vì dẫn đến sự tái sinh Trung Âu, sẽ chỉ đơn giản dẫn đến một cuộc chiến mới vì châu Âu và cũng là vì Heartland. Chọn con đường nào, hay nói cách khác, nước Đức sẽ phải xoay xở thế nào: hướng Đông, hướng nước Nga với những hậu quả to lớn nhãn tiền đối với Ba Lan, Hungary và các nước khác từng là vệ tinh; hay hướng Tây, hướng về phía Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, đồng nghĩa với việc đem lại một chiến thắng cho Không gian cận biển? Chúng ta vẫn chưa biết được câu trả lời cho điều này, bởi vì thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh đang còn ở những bước đi mò mẫm ban đầu. Cohen và những người khác có thể đã không biết trước một cách chính xác
bản chất “dường như phi quân sự hóa” nước Đức tái thống nhất ngày nay, với sự “ác cảm của nó đối với những giải pháp quân sự” hiện hữu ở một tầm văn hóa sâu sắc, một cái gì đó mà trong tương lai có thể giúp ổn định hoặc làm mất ổn định châu lục này, tùy thuộc vào các trạng huống. Vị trí nằm ở trung tâm châu Âu trong suốt thời gian dài đã thổi vào người Đức một lòng tin mạnh mẽ về giá trị chiến lược của hoàn cảnh địa lý. Có thể họ vẫn còn tìm lại nó và thoát ra khỏi chủ nghĩa hòa bình hiện nay. Thật vậy, liệu một nước Đức tái thống nhất và tự do có thể trở thành một quyền lực dùng quyền chủ động của chính mình để tạo cân bằng giữa Đại Tây Dương và Heartland - để từ đó sẽ nảy sinh một cách giải thích mới và táo bạo đối với nền văn hóa Trung Âu, tạo ra học thuyết về Trung Âu với tư cách một nhân tố giữ thăng bằng địa chính trị? Điều đó hẳn có thể được tạo ra từ những thứ tương tự như lòng tin của Garton Ash đối lại với Mackinder và Cohen.
Tóm lại, liệu Trung Âu với một lý tưởng khoan dung và nền văn minh phát triển vẫn sẽ tồn tại được trước sự tấn công dữ dội của cuộc đấu tranh vĩ đại mới vì quyền lực? Bởi lẽ những cuộc đấu tranh như vậy sẽ diễn ra ở khu vực Trái tim châu Âu. Nền văn hóa sôi nổi đầy khí lực của Trung Âu hồi cuối thế kỷ XIX, dường như có sức cám dỗ cao từ điểm nhìn lợi thế của những năm cuối thế kỷ XX, bản thân nó là thành quả của một thực tiễn đặc trưng và đầy uy quyền, không mang tính tình cảm ủy mị và của tương quan địa chính trị, cụ thể là Habsburg Áo. Chủ nghĩa tự do rốt cuộc là dựa trên sức mạnh: một sức mạnh có thể là ôn hòa, nhưng dù sao cũng vẫn là sức mạnh. Nhưng những người theo chủ nghĩa can thiệp nhân đạo trong những năm 1990 đều không phải là những kẻ mù trước những cuộc chiến vì quyền lực; cũng không phải trong con mắt của họ, Trung Âu
đã trở thành một ảo ảnh không tưởng. Trái lại, sự phục hồi Trung Âu thông qua việc ngừng giết người hàng loạt ở Balkan là một lời kêu gọi tập hợp không ồn ào và thông thái về việc sử dụng đúng đắn lực lượng quân sự phương Tây, nhằm bảo vệ ý nghĩa của chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Sau tất cả, những gì từng là Chiến tranh Lạnh rốt cuộc là vì điều gì, ngoại trừ việc làm cho thế giới an toàn vì quyền tự do cá nhân? “Đối với những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do, Bosnia đã trở thành cuộc Nội chiến Tây Ban Nha của thời đại chúng ta,” đó là điều mà nhà sử học đầy trí tuệ và là người viết tiểu sử Isaiah Berlin - Michael Ignatiev - đã viết qua tham khảo niềm dam mê mà những trí thức giống như ông đã tiếp cận vấn đề Balkan.
Việc kêu gọi hành động của con người - và đồng nghĩa với sự chiến thắng chủ nghĩa định mệnh - từng là những điều hối thúc trong tâm trí của họ. Người ta nhớ lại đoạn văn từ Ulysses của Joyce, trong đó Leopold Bloom than vãn về “những điều kiện chung do luật của tự nhiên áp đặt”: các “dịch bệnh gây chết chóc hàng loạt”, các “tai biến có tính thảm họa” và những “đổ nát do địa chấn.” Về những điều đó, Stephen Dedalus phản ứng bằng một sự khẳng định đơn giản và chua xót “ý nghĩa về loài người như là một động vật ý thức được mình có lý trí”. Vâng, thế giới là vậy, đầy rẫy những hành động tàn ác, nhưng chúng ta không nhất thiết phải chấp nhận là không có sự thay đổi nào. Bởi vì con người có lý trí, nên con người cuối cùng có năng lực đấu tranh chống lại nỗi khổ đau và sự bất công. Và như vậy, với Trung Âu như là ngôi sao dẫn con đường hướng về phía đông nam, đầu tiên là Bosnia, sau đó đến Kosovo, và xa hơn nữa là Baghdad.
Tất nhiên, nhiều người trong số các nhà trí thức vốn ủng hộ sự can thiệp vào Bosnia sẽ phản đối nó đối với Iraq - hoặc ít ra là hoài nghi nó; nhưng những người thuộc trường phái Bảo thủ Mới và những người khác sẽ không bị cản trở theo đuổi đến cùng ý tưởng của mình. Bởi lẽ, như chúng ta sẽ thấy, vùng Balkan đã cho thấy một hình ảnh chủ nghĩa can thiệp, có bị trì hoãn, mặc dù vẫn xảy ra, số lượng binh sĩ bị thiệt mạng nhỏ, khiến nhiều người ảo tưởng rằng chiến thắng từng không gây đau đớn giờ đây sẽ là tương lai chiến tranh. Những năm 1990, với sự can thiệp muộn màng của họ, như Garton Ash đã viết một cách đau buồn, đã gợi nhớ về ấn tượng “thập niên thấp hèn, bất lương” của W. H. Auden thời những năm 1930. Mặc dù vậy, tôi không thể ngăn mình đưa ra nhận xét rằng, về tổng thể đó là một thời kỳ mà mọi chuyện có vẻ đều khá đơn giản.
Vào thời kỳ đó - trong những năm 1990, các nhân tố lịch sử và địa lý không còn có vẻ gì là không thể vượt qua. Chưa đầy hai năm sau sự sụp đổ Bức tường Berlin, với tất cả những kích động phi lịch sử và phổ quát diễn ra sau sự kiện đó, truyền thông thế giới đột nhiên đắm chìm trong những đống đổ nát đầy khói bụi, những núi gạch đá, những khối kim loại xoắn vặn của những thị trấn với tên gọi thật khó phát âm tại những vùng biên giữa các cựu đế quốc Áo và Thổ, cụ thể là Slavonia và Krajina, những xứ sở vừa chứng kiến sự tàn ác mà châu Âu chưa từng trải nghiệm kể từ thời Đức Quốc xã. Lặng nhìn từ không trung tính thống nhất của thế giới, người ta nhận ra rằng câu chuyện trong tầng lớp tinh hoa giờ đây xoay sang hướng làm sáng tỏ lịch sử phức tạp của địa phương chỉ với vài giờ lái xe từ Vienna băng qua đồng bằng Pannonia, vốn rất nhiều bên trong đất Trung Âu. Bản đồ tự nhiên chỉ rõ miền Nam và miền Đông Croatia, gần sông Sava, như là phần rìa phía nam vùng đất bằng
phẳng rộng lớn của châu Âu, là dấu hiệu báo trước rằng phía bên kia bờ sông Sava sẽ là mớ rối quấn quyện vào nhau của các mạch núi với tên gọi gộp chung là vùng Balkan: bản đồ tự nhiên thể hiện một mảng rộng lốm đốm có màu xanh lá cây chạy một mạch từ Pháp tới Nga (từ Pyrenees đến Ural), đồng thời trên bờ phía nam sông Sava lại đột ngột chuyển sang màu vàng và sau đó là màu nâu - nghĩa là địa hình cao dần, gồ ghề hơn, rồi cứ tiếp tục như vậy chuyển theo hướng đông nam vào Tiểu Á. Khu vực này, gần điểm bắt đầu những mạch núi, là nơi có sự chồng phủ vùng giáp ranh tiến và lùi của các đạo quân Habsburg Áo và Ottoman Thổ: tới đây đạo Kitô phương Tây kết thúc và bắt đầu thế giới của đạo [Kitô] Chính thống phương Đông và Hồi giáo; chính đây là nơi đã hình thành khu vực cọ xát chủ yếu giữa Croatia và Serbia.
Krajina, có nghĩa là “biên giới” trong tiếng Serbo-Croatia, là một khu quân sự do người Áo lập ra vào cuối thế kỷ XVI để chống lại sự bành trướng Thổ, thu hút về vùng biên phía mình cả người Croat lẫn người Serb với tư cách là người tị nạn khỏi chế độ chuyên quyền của vương quốc Ottoman Hồi giáo. Do đó, vùng này đã trở thành một khu vực đa sắc tộc, rồi khi đế quốc Áo vốn ôm ấp dải đất biên giới này biến mất sau Thế chiến I, nó đã tiếp tục trải qua sự tiến hóa sắc tộc đa bản sắc. Mặc dù người Serb và Croatia đã được thống nhất trong những năm giữa hai cuộc Thế chiến trong khuôn khổ một vương quốc chung của người Serb, Croat, và Slovenia, nhưng họ đã bị chia tách ra rồi lại cưỡng bức nhau trong thời gian chiếm đóng của Đức Quốc xã, khi một nhà nước bù nhìn phát xít Croatia theo bọn Quốc xã đã giết hại hàng chục ngàn người Serb trong các trại giết chóc. Được hợp nhất thêm một lần nữa dưới vỏ bọc của chế độ độc tài Tito, nhưng sự sụp đổ vào năm 1991 của Nam Tư đã chứng
kiến quân đội Serb tấn công qua biên giới Serbia vào Slavonia và Krajina, đồng thời thanh lọc sắc tộc đối với người Croat tại vùng này. Sau đó, khi người Croat tái chiếm khu vực này, người Serb thiểu số ở đây có thể đã bỏ chạy về Serbia. Từ vùng đất biên giới Croatia với Serbia, cuộc chiến sau đó đã có thể lan sang Bosnia, nơi hàng trăm ngàn người có thể đã mất mạng một cách rùng rợn.
Trong cuộc xung đột này đã từng có những khía cạnh lịch sử và địa lý phong phú, nhưng các nhà báo tận tụy và các nhà trí thức có thể đã quan tâm về chúng tương đối ít. Tuy nhiên, họ chắc chắn đã có một điểm chung, mà có lẽ nhiều hơn cả một điểm. Đầu tiên là sự ghê tởm tuyệt đối và sự khiếp sợ. Một lần nữa, ta lại nhường lời cho Timothy Garton Ash:
Chúng ta đã học được gì từ thập kỷ khủng khiếp này ở Nam Tư cũ? Chúng ta đã học được rằng bản chất con người không thay đổi. Rằng châu Âu vào cuối thế kỷ XX cũng hoàn toàn có thể man rợ như trong thời kỳ Đức Quốc xã tàn sát người Do Thái hồi giữa thế kỷ.
… Thần chú chính trị phương Tây của chúng ta vào cuối thế kỷ XX đã từng là “hội nhập”, “chủ nghĩa đa văn hóa”, hoặc, nếu chúng ta lùi xa hơn một chút, “nơi di dân từ nhiều nơi kéo về tụ lại.” Nam Tư cũ đã là điều ngược lại. Nó đã như một phiên bản cỗ máy khổng lồ với tên gọi là “bộ máy phân tách”: một cỗ máy li tâm đang quay hết tốc độ để chia tách các sắc tộc.
Từ sự ghê tởm này đã tiếp nối việc buộc tội sự “xoa dịu” của phương Tây, sự nhượng bộ của Slobodan Milosevic: một chính trị gia cộng sản, người mà để cho bản thân và đảng của mình tồn tại được về mặt chính trị sau sự sụp đổ Bức tường Berlin, để giữ lại
được những biệt thự và nhà nghỉ và vùng săn bắn của mình cùng những đặc quyền đặc lợi khác do chức vụ mang lại, đã đánh tráo khái niệm, biến mình thành một người dân tộc chủ nghĩa Serbia cuồng tín, và châm ngòi cho một cuộc diệt chủng thứ hai. Sự nhân nhượng Hitler tại München vào năm 1938 đã nhanh chóng trở thành một hình mẫu tương tự thịnh hành những năm 1990.
Trong thực tế, nỗi sợ hãi về một München khác không phải là hoàn toàn mới. Nó đã là một yếu tố cơ bản trong quyết định tiến hành giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của Saddam Hussein vào năm 1991. Nếu chúng ta không chặn đứng Saddam ở Kuwait, ông ta có thể sẽ tiếp bước xâm chiếm Arab Saudi, qua đó kiểm soát nguồn cung dầu mỏ của thế giới và đưa quyền con người trong khu vực đến một cấp độ tối tăm không thể diễn tả bằng lời. Nhưng đó là sự tấn công dữ dội của người Serb vào Croatia và sau đó vào Bosnia, giữa những năm 1991 và 1993 - và phương Tây đã thất bại trong việc đáp trả - một thực tế, qua phép loại suy hay là sự tương đồng, đã làm cho München thực sự trở thành một từ mang ý nghĩa địa chính trị trong từ vựng quốc tế.
Những vụ tương tự như München có xu hướng phát triển sau khi đã có một nền hòa bình lâu dài và sự thịnh vượng, khi những gánh nặng chiến tranh đã lùi đủ xa để làm xuất hiện ý niệm trừu tượng: trường hợp những năm 1990 là khi mà ký ức của nước Mỹ về một cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở châu Á đã qua đi hơn hai chục năm, nên đã đủ để bị che mờ. Còn München lại liên quan đến cái phổ quát – về việc phải chăm lo cho thế giới và cho cuộc sống của mọi người. Phép loại suy với München sẽ một lần nữa đóng vai trò quan trọng trong những cuộc tranh luận xung quanh sự bất lực của phương Tây
đối với việc ngăn chặn cuộc diệt chủng Rwanda năm 1994; nhưng chính khi NATO can thiệp quân sự, tuy chậm trễ nhưng hiệu quả, vào Bosnia năm 1995 và Kosovo năm 1999, là lúc nó đạt tới giá trị cực điểm của mình. Những người phản đối sự can thiệp của chúng ta vào Balkan đã cố gắng đẩy cao sự tương tự của trường hợp Việt Nam để đối lại với phép loại suy München. Nhưng vì các chiến dịch tại Nam Tư cũ đã không gây ra bất cứ sự sa lầy nào, nên người ta cho là đã trừ khử được triệt để bóng ma một Việt Nam mới.
Chủ nghĩa can thiệp quân sự từng bị căm ghét đến thế trong những năm chiến tranh Việt Nam, giờ đây lại trở nên đồng nghĩa với chính chủ nghĩa nhân đạo, để cứu vớt các dân tộc đang trong cơn nguy khốn. “Một cuộc chiến chống lại nạn diệt chủng phải được tiến hành với sức mạnh dữ dội và cuồng nộ, bởi vì cuộc chiến ấy cũng đang nhằm chống lại chính sự cuồng nộ.” - đó là đoạn văn do Leon Wieseltier, biên tập viên văn học của The New Republic viết. “Với mục đích ngăn chặn nạn diệt chủng, sử dụng vũ lực không nên coi là phương sách cuối cùng, mà là một hành động đầu tiên để giải thoát.” Wieseltier đã viết tiếp để cười nhạo ý tưởng cho rằng trong các cuộc can thiệp nhân đạo cần phải có những chiến lược rút lui:
Năm 1996, Anthony Lake, vị cố vấn an ninh quốc gia - vừa bị giày vò, vừa quá thận trọng của ông ta [Tổng thống Bill Clinton] - đã đi xa tới mức hệ thống hóa thành một “học thuyết về chiến lược rút lui”: “Trước khi chúng ta gửi quân đội của mình vào một quốc gia khác, chúng ta nên biết làm thế nào và khi nào sẽ rút được quân ra.” Lake khi ấy làm như là có thể hiểu biết mọi mặt về vấn đề chiến tranh. Học thuyết “chiến lược rút lui” hiểu sai về cơ bản bản chất của chiến tranh, và nói chung là hiểu sai
bản chất của hành động lịch sử. Nhân danh sự thận trọng, ông ta phủ nhận sự bất ngờ trong các vấn đề con người, nhưng chính ở đây ông ta đã cố tình không biết điều hiển nhiên này: kết cục mà chúng ta biết không thể có được vào lúc khởi đầu.
Wieseltier đã dẫn ra Rwanda làm ví dụ, nơi một triệu người Tutsi thiệt mạng trong cuộc diệt chủng vào năm 1994: một vũng lầy về quân sự của phương Tây. “Giá như chúng ta can thiệp để ngăn chặn sự giết chóc,” ông đã viết, “thì chắc chắn sẽ là thích hợp hơn so với những gì đã xảy ra”. Cũng giống như Garton Ash, Wieseltier là một trong những người có tiếng nói mạnh mẽ và giàu sức thuyết phục nhất về mặt đạo đức của thập kỷ ấy, khi đó đã viết về những gì liên quan đến tâm trạng thất vọng mà ông cảm thấy được trong cuộc chiến trên không của NATO ở mức hạn chế và muộn màng nhằm giải phóng những người Albania Hồi giáo ở Kosovo khỏi chính sách trục xuất và tiêu diệt của Milosevic. Cuộc không kích nhắm mục tiêu là các thị trấn và thành phố Serbia, nơi mà theo yêu cầu của việc can thiệp nhân đạo, cần phải dùng quân bộ để giải phóng những thị trấn của Kosovo. Cách thức do dự của Clinton trong việc tiến hành chiến tranh đã biến thành sự đồng lõa gây nên nỗi đau khổ quy mô lớn. “Công việc của chủ nghĩa Lý tưởng,” Wieseltier viết, “đã được rút lại thành cứu trợ và cứu hộ, dọn dẹp những hậu quả của thảm họa. Thay vì gửi đến đây súng đạn một cách vội vã để ngăn ngừa thảm họa, bây giờ chúng ta đang gấp rút gửi đến những chiếc chăn để phủ ấm cho người tị nạn.” Clinton, ông cho biết, đã phát hiện ra một loại chiến tranh “mà trong đó người Mỹ không chết,… loại chiến tranh hèn nhát với công nghệ chính xác, giữ cho những lá phiếu và lương tâm không bị xáo trộn.” Ông đã dự báo rằng ‘‘thời đại miễn dịch sẽ không kéo dài mãi mãi. Sớm hay muộn Hoa Kỳ cũng sẽ phải
gửi binh sĩ… của mình đến một nơi mà họ sẽ phải chịu chấn thương hoặc tử vong. Điều quan trọng là nguyên nhân có chính đáng hay không, chứ không phải là có nguy hiểm hay không”.
Ít người biết điều này, nhưng chính là trong những năm 1990 đã làm nảy sinh ý tưởng xâm lược Iraq, khi mà các nhân tố lịch sử và địa lý dường như đã không có cách gì ngăn cản được sức mạnh quân sự Mỹ. Dự án ấy dường như là đáng tin cậy, chỉ có điều là nó phải được tung ra đúng lúc và với sức mạnh đầy đủ, nghĩa là bao gồm cả việc đặt chân vào đất đối phương. Đã có những người duy tâm từng say sưa và lớn tiếng cổ vũ cho hành động can thiệp quân sự ở Somalia, Haiti, Rwanda, Bosnia, Kosovo, trong khi những người thực tế như Brent Scowcroft và Henry Kissinger khi đó từng kêu gọi kiềm chế, lại bị coi là nhẫn tâm và phải hứng chịu những lời phê phán nghiêm khắc.
Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc can thiệp quân sự trong những năm 1990 không phải là những chiến dịch quân sự đầy đủ theo nghĩa tổng thể mà chủ yếu là những chiến dịch không kích hạn chế. Sức mạnh không quân đã giữ vai trò chủ lực trong việc đánh bật lực lượng Iraq khỏi Kuwait vào năm 1991: mặc dù, trong trường hợp này, hoàn cảnh địa lý đã tạo điều kiện dễ dàng cho chiến tranh công nghệ cao, vì các hoạt động được tiến hành trên một sa mạc phẳng lì và hiếm khi có mưa. Với tất cả những mặt hạn chế đã thể hiện của mình, không lực cũng đã là một nhân tố để chấm dứt chiến tranh ở Bosnia-Herzegovina bốn năm sau (năm 1995) và cả trong những chiến dịch ở Kosovo năm 1999. Những người tị nạn thiểu số Albani cuối cùng đã trở về nhà họ, trong khi Milosevic đã suy yếu đến mức phải rời bỏ quyền lực và sụp đổ vào năm 2000. “Núi non à,
đó không phải việc của chúng tôi!” đó là câu nói được lan truyền khi đó nhằm tổng quát sự phản kháng ban đầu của quân đội Mỹ đối với việc gửi bộ binh tới Bosnia và Kosovo. Nhưng hóa ra là khi chúng ta đã thống lĩnh bầu trời, quân đội đã làm việc đó khá tốt. Hoàn cảnh địa lý ở Balkan đã tỏ rõ là những chướng ngại lớn, nhưng sức mạnh không quân đã nhanh chóng khắc phục được nó. Giống hệt như khi những máy bay chiến đấu phản lực của Không quân và Hải quân Mỹ tuần tra trên không phận các khu vực cấm bay tại Iraq, giữ chân Saddam trong hang ổ của ông ta trong suốt hơn một thập kỷ. Do đó, một bộ phận trong tầng lớp tinh hoa, choáng ngợp trước sức mạnh của quân đội Mỹ, đã chất chứa một cảm giác phẫn nộ về mặt đạo đức đối với chính quyền George H. W. Bush và Clinton bởi vì họ đã không sử dụng quân đội đúng lúc để cứu 1/4 triệu người khỏi nạn diệt chủng tại khu vực Balkan (chưa kể cả triệu người ở Rwanda). Những người khác lại nghĩ rằng một trạng thái tinh thần như thế có thể dẫn đến chủ nghĩa phiêu lưu tai hại, và thực tế đã đúng như vậy. Trong những năm 1990, địa lý đã bị mất một phần tầm quan trọng của mình, và bản đồ học dường như thu lại còn hai chiều, nhưng tiếp theo sau cuộc trình diễn hiệu quả của sức mạnh không lực, nó đã khôi phục lại được một sự quan tâm: các vùng núi non Afganistan và những con đường gài bẫy của Iraq đã đặt dấu chấm hết cho sự xem thường đối với nó.
Vào năm 1999, để làm rõ thêm một quan điểm ngày càng phổ biến trong giới trí thức tự do, Wieseltier đã viết:
Điều thực sự đáng chú ý trong việc Clinton từ chối đưa vấn đề loại bỏ nhân vật độc ác này [Slobodan Milosevic] vào số những mục tiêu chiến tranh của mình là ở chỗ, chính ông ấy đã
thừa hưởng một tình thế bị làm phức tạp thêm vì hành vi khước từ của người tiền nhiệm đưa việc loại bỏ một nhân vật độc tài khác [Saddam Hussein] vào những mục tiêu chiến tranh của mình. Năm 1991, nửa triệu binh sĩ Mỹ chỉ còn cách Baghdad vài trăm kilomet, vậy mà George Bush (Bush cha) đã không ra lệnh cho họ vào Baghdad. Lý do là các tướng lĩnh của ông ta sợ phải chịu những thương vong nặng nề, sau khi họ vừa kết thúc một cuộc chiến tranh hoàn hảo (zero-defect war) của riêng mình. Để biện giải cho sự thiếu tham vọng của mình, họ đã đưa ra chuyện “toàn vẹn lãnh thổ” của Iraq, như thể là cảnh khổ cực có thể nảy sinh từ sự sụp đổ của Nhà nước này cũng sẽ tương đương với đời sống khổ cực đã nảy sinh từ sự tồn tại của chính Nhà nước ấy, đối với người Kurd ở phía bắc và người Shia ở phía nam.
Đó là nếu như biên giới tưởng tượng của Trung Âu đã từng là vô hạn, mở rộng đến tận Lưỡng Hà, nhưng mọi chuyện sẽ sớm xoay chuyển theo kiểu khác. Năm 2006, trong thời khắc tồi tệ nhất của cuộc chém giết giáo phái ở Iraq diễn ra sau sự sụp đổ của nhà nước, một tình trạng đã có thể sánh ngang với mức độ bạo lực mà Saddam trước đó từng bắt cả nước phải chịu, Wieseltier cũng biết điều để thừa nhận rằng ông ta đã có “những nghi ngờ về sự ngạo nghễ” mà chúng ta từng phô trương. Mặc dù đã ủng hộ cuộc chiến tranh này, nhưng ông thú nhận rằng không còn điều gì là hữu ích để nói, khi phải đối mặt với một thảm họa như thế: ông đã từ chối đứng trong đám người ủng hộ cuộc xâm lược này, những người đã nhọc nhằn tìm cách tự bào chữa.
Chính tôi cũng đã ủng hộ cuộc chiến tranh Iraq qua những bài báo và với tư cách là thành viên nhóm người từng hối thúc chính quyền Bush tiến hành cuộc xâm lược. Tôi đã từng rất ấn tượng với sức mạnh của quân đội Mỹ tại Balkan, và dựa vào nhận định rằng Saddam đã trực tiếp hoặc gián tiếp giết nhiều người hơn Milosevic và là một mối đe dọa chiến lược do bị cho là có sở hữu vũ khí giết người hàng loạt, tôi thấy dường như một cuộc can thiệp vào lúc đó là chắc chắn và đúng đắn. Tôi cũng từng là một nhà báo, một nghề có liên quan thật chặt chẽ với câu chuyện của tôi: khi làm tường thuật từ Iraq trong những năm 1980, tôi đã quan sát thấy Iraq của Saddam bị đàn áp, ngột ngạt hơn nhiều so với Syria của Hafez al Assad, và vì thế đã ủng hộ mạnh mẽ việc loại bỏ Saddam. Về sau người ta sẽ khẳng định rằng sự lo lắng cho Israel và sự bênh vực cho việc mở rộng thêm lãnh thổ của quốc gia này, tức là những tham vọng thực dân, đã là động cơ thúc đẩy nhiều người ủng hộ cuộc chiến tranh ấy. Nhưng kinh nghiệm tôi có được từ tiếp cận những người Bảo thủ Mới và một số người cánh tả trong khoảng thời gian này đã cho thấy, trong tư duy của họ, Bosnia và Kosovo quan trọng hơn nhiều so với Israel? Sự thành công của những cuộc can thiệp vào Balkan dường như đã biện minh cho một cách tiếp cận duy ý chí đối với vấn đề chính sách đối ngoại. Cuộc can thiệp năm 1995 vào Bosnia dà làm thay đổi cuộc tranh luận từ “NATO có nên tồn tại?” thành “NATO có nên mở rộng?” Việc sáp nhập một số quốc gia bên bờ Biển Đen vào NATO là hệ quả của sự thành công trong cuộc can thiệp vào Kosovo nhiều hơn là của cú sốc từ sự kiện ngày 11 tháng 9.
Đối với khá nhiều người duy tâm, không thực tế, Iraq là một sự tiếp nối đam mê thời những năm 1990. Nó tượng trưng, một cách vô
thức, hoặc là cho sự thất bại của hoàn cảnh địa lý hoặc là sự coi thường hoàn toàn đối với nó, do bị lóa mắt như nhiều người từng bị lóa mắt bởi sức mạnh của quân đội Mỹ. Những năm 1990 là thời gian mà các nước Tây Phi như Liberia và Sierra Leone, bất chấp tình trạng bạo lực của họ, và mặc dù về mặt thể chế kém phát triển hơn nhiều so với Iraq, họ đã được coi là những ứng viên đáng tin cậy cho chế độ dân chủ. Nhưng ở đây chính là sức mạnh của quân đội, đặc biệt là của không quân, giống như bàn tay kín đáo là yếu tố đã cho phép các tư tưởng phổ quát có được tầm quan trọng vượt trội hơn nhiều so với thực địa và so với kinh nghiệm lịch sử của cư dân sống tại đó.
Cũng chính là München đang phát huy tác dụng trong việc tiếp cận tình trạng tiến thoái lưỡng nan của Saddam Hussein sau sự kiện 11 tháng 9. Mặc dù Hoa Kỳ vừa mới phải chịu một cuộc tấn công trên lãnh thổ của mình với tầm cỡ sánh ngang trận Trân Châu Cảng, sự thử thách của đất nước này với chiến tranh mặt đất trong 1/4 thế kỷ chỉ ở mức tối thiểu, hoặc ít ra là không khó chịu. Hơn nữa, Saddam không phải một nhà độc tài như những kẻ khác: ông ta không chỉ giống như một bạo chúa đến trực tiếp từ Lưỡng Hà cổ đại, mà về nhiều mặt có thể so với Hitler hay một vài kẻ độc tài khác, và là người bị cho là che giấu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Sự kiện 11 tháng 9 và kí ức về München đã ép chúng ta phải hành động, hoặc sẽ không bao giờ được lịch sử tha thứ.
Nhưng sau khi nỗi sợ hãi về một München mới đã đưa chúng ta đi quá xa, một bóng ma khác, mà chúng ta từng nghĩ là đã rũ bỏ được, lại xuất hiện: đó là bóng ma Việt Nam. Như thế là đã bắt đầu chu kỳ trí tuệ tiếp theo của Hậu Chiến tranh Lạnh.
Trong chu kỳ đại thể tương ứng với thập kỷ đầu thế kỷ XXI này đã xảy ra một sự đổi hướng trong tư duy địa chính trị mà nguyên nhân chủ yếu là bởi các cuộc chiến tranh khó khăn ở Iraq và Afghanistan. Bằng chứng là những thuật ngữ “hiện thực” và “thực dụng” trước đây vốn hàm ý một chút coi thường thì nay đã trở thành dấu mốc về sự tôn trọng, ám chỉ những người từng hoài nghi ngay từ đầu cuộc phiêu lưu của Mỹ ở vùng Lưỡng Hà, trong khi những người thuộc phái Bảo thủ Mới trở thành một mục tiêu của sự chế nhạo.
Trong khi vào những năm 1990, sự khác biệt về sắc tộc và phe phái tại những góc trời xa xôi của thế giới được coi là những trở ngại mà những người có thiện chí đều muốn cố gắng vượt qua - hoặc coi là mối nguy được dán nhãn “định mệnh” hoặc “tất định” - thì trong thập kỷ tiếp sau, những hận thù như vậy đã được nhìn nhận như những nhân tố có thể đã cảnh báo chúng ta phải cân nhắc tránh xa (hoặc tiến hành) hành động can thiệp quân sự. Nếu phải chọn ra một thời điểm khi đã không còn phủ nhận được rằng phép loại suy (hay là phép tương tự) Việt Nam đã thế chỗ cho phép loại suy München, thì đó là ngày 22 tháng 2 năm 2006, nhà thờ Hồi giáo al Askariyah của người Shia tại Samarra đã bị những kẻ khủng bố Sunni cực đoan của al-Qaeda thổi bay, gây ra một cao trào những hành động tàn bạo giữa các cộng đồng ở Iraq mà quân đội Mỹ đã không thể chặn lại. Đột nhiên, lực lượng trên bộ của chúng ta bị xem là bất lực giữa những lực lượng ngùn ngụt sự hận thù ban sơ và hỗn loạn. Huyền thoại về lực lượng quân đội Hoa Kỳ mới và toàn năng, ra đời ở Panama và Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần I, bị méo mó đôi chút ở Somalia, rồi sau đó được chấn chỉnh và đánh bóng ở
Haiti, Bosnia và Kosovo, đã bị tan nát một thời gian, cùng chủ nghĩa duy tâm đồng hành với nó.
Trong khi München là biểu trưng cho tính phổ quát, về việc chăm lo cho thế giới và cho cuộc sống của người khác ở những nơi xa xôi khác, thì Việt Nam là chuyện nội bộ, chuyện nhà trong ý nghĩ của người Mỹ. Đó dường như là sự lo toan cho chính mình, sau câu chuyện 58.000 người đã chết trong cuộc chiến tranh. Việt Nam khuyên ta rằng chúng ta chỉ tránh được tấn thảm kịch bằng cách suy nghĩ theo kiểu bi kịch. Nó dập bớt đi sự nhiệt tình không dứt, bởi lẽ nó gợi ý cho biết những điều sai trái có thể diễn ra thế nào. Thật vậy, đã từng có một cảm giác duy tâm về sứ mệnh khiến Hoa Kỳ bị lôi kéo vào cuộc xung đột với quốc gia ở Đông Nam Á này… Trước đây đã từng có cuộc chiến tranh nào đúng đắn hơn? Ai là người khi đó đã nghĩ về những nhân tố địa lý, về khoảng cách xa xôi hoặc về những trải nghiệm khủng khiếp của chiến tranh không chính quy sáu thập kỷ trước ở thời điểm chuyển sang thế kỷ XX trong rừng rậm Philippines bởi những người lính trẻ khác của Mỹ?
Nước Mỹ chỉ hồi nhớ về thảm họa Việt Nam vào những thời kỳ đất nước bị sốc, bị chấn thương. Chủ nghĩa hiện thực không có sức quyến rũ vào những thời kỳ hòa bình và hạnh phúc, bởi vì nó không có thứ gì mang tính gây kích động. Người ta chỉ tôn trọng nó sau khi hiểu ra rằng sự vắng mặt của nó đã làm cho một tình thế nào đó xấu đi rõ ràng. Thật vậy, chỉ cần nhìn vào Iraq, với gần năm ngàn người Mỹ chết (và với hơn ba mươi ngàn người bị thương nặng) và có lẽ với hàng trăm ngàn người Iraq thiệt mạng, cùng thiệt hại kinh tế với giá hơn 1.000 tỷ đô la Mỹ. Thậm chí là nếu Iraq phát triển dần thành một nước dân chủ bán ổn định và một đồng minh tiềm ẩn của Hoa
Kỳ, thì khoản chi phí quá mức như thế, như có người đã nhận xét, cũng khiến người ta thật khó mà nhìn thấy giá trị đạo đức trong thành tựu ấy. Iraq đã làm xói mòn dần một yếu tố then chốt trong kí ức của một số người: rằng sự triển khai và duy trì của sức mạnh Mỹ đã luôn luôn có một kết quả về đạo đức. Nhưng những người khác lại hiểu rằng việc sử dụng cách thức không chế ngự sức mạnh bởi bất kỳ nhà nước nào, dù đó là một quốc gia dân chủ yêu tự do như nước Mỹ, không nhất thiết là hợp đạo đức.
Sự trở lại vị trí hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực làm dấy lên làn sóng quan tâm đã được làm mới đối với nhà triết học thế kỷ XVII - Thomas Hobbes, người đề cao lợi ích về mặt đạo đức của sự sợ hãi và nhìn nhận tình trạng hỗn loạn bạo lực là mối nguy hại lớn đối với xã hội. Đối với Hobbes, sự sợ hãi cái chết bạo lực là hòn đá tảng của mối quan tâm cá nhân đã được khai sáng. Với việc thiết lập một nhà nước, người ta thay thế nỗi sợ hãi đối với cái chết bạo lực (một nỗi sợ hãi bao trùm tất cả, và sự sợ hãi lẫn nhau) bằng sự sợ hãi mà chỉ những người phạm pháp phải đối mặt. Những khái niệm như vậy thật là khó nắm bắt đối với tầng lớp trung lưu ở những đô thị lớn phương Tây vốn từ lâu đã mất mọi sự tiếp xúc với điều kiện tự nhiên của con người. Nhưng bạo lực khủng khiếp ở một Iraq đang tan rã - trong đó có vài chi tiết không giống như Rwanda và Bosnia - không phải là sản phẩm của một cỗ máy chết chóc được tổ chức khác thường, mà là bởi chính sự sụp đổ của trật tự, và điều đó đã giúp nhiều người trong chúng ta hình dung ra tình trạng ban sơ của con người. Hobbes do đó đã trở thành triết gia chu kỳ thứ hai này của thời Hậu Chiến tranh Lạnh, cũng giống như vai trò của Isaiah Berlin đối với chu kỳ thứ nhất.
Và như vậy, tình trạng Hậu Chiến tranh Lạnh đã đưa chúng ta tới nhận thức rằng: chính chế độ độc tài mà chúng ta đã chiến đấu chống lại trong những thập kỷ sau Thế chiến II, trong một số tình huống, có thể còn thích hợp hơn so với tình huống mà trong đó không có ai chịu trách nhiệm và quản lý. Có những điều còn tệ hơn so với chế độ chuyên quyền, và ở Iraq, hóa ra, chính chúng ta đã mang đến một tình trạng như vậy. Tôi nói điều này với tư cách một người đã ủng hộ việc thay đổi chế độ.
Vào tháng 3 năm 2004, tôi có mặt trong trại Udari ở giữa sa mạc Kuwait. Tôi đã tới đó cùng một tiểu đoàn Lính thủy Đánh bộ, đơn vị đang cùng với phần còn lại của sư đoàn Lính thủy Đánh bộ số 1 sắp bắt đầu cuộc hành trình trên bộ đến Baghdad và miền Tây Iraq để thay thế cho sư đoàn Không vận 82 đang ở đó. Đó là một thế giới lều bạt, khay chuyển hàng, container tàu biển và những căng tin. Những dãy lớn xe tải bảy tấn và xe Jeep trải dài trên đường chân trời, tất cả đều quay đầu về hướng bắc. Quy mô sử thi trong sự dính líu của Mỹ ở Iraq nhanh chóng trở nên rõ ràng. Một cơn bão cát xảy ra. Đã thấy một cơn gió lạnh giá. Trời dọa mưa. Xe cộ bị hỏng. Và đó mới chỉ là đoạn đầu cuộc hành trình vài trăm kilomet hướng đến Baghdad, mà một vài năm ngắn ngủi trước đây những người từng nghĩ về việc lật đổ Saddam Hussein chỉ đơn thuần cho đó là bước dấn thêm việc lật đổ Slobodan Milosevic, đã không thừa nhận là dễ thực hiện. Một mê lộ rộng lớn rải sỏi, sặc mùi dầu xăng, bảo vệ trạm tiếp tế đầu tiên, đã được các nhà thầu dựng nên. Trên suốt dọc đường có hàng chục trạm tương tự, một số trong đó được dùng để bảo dưỡng xe cộ, số khác là để phục vụ ăn uống cho hàng chục ngàn Lính thủy Đánh bộ. Máy phát điện rên rỉ trong bóng tối. Chuyến đi của chúng tôi kéo dài nhiều ngày liên tục, được tạo nhịp bằng một
hệ thống hậu cần phức tạp nhất - kho lưu giữ và vận chuyển mọi thứ, từ chai nước khoáng đến những Bữa-ăn-chuẩn-bị-sẵn, đến cả những bộ đồ nghề - để vượt qua được sa mạc đầy thù địch tới khi chúng tôi đến được Fallujah ở phía tây Baghdad. Mà chỉ có vài trăm kilomet thôi. Đó là phần dễ dàng và không bạo lực của một cuộc chiếm đóng của quân đội Mỹ trên khắp đất nước này. Rơi vào một tình thế như vậy, người ta không thể tiếp tục khẳng định, như đã có một số người từng làm sau sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ, rằng chiều kích địa lý đã không còn được tính đến nữa.
CHƯƠNG II
SỰ TRẢ THÙ CỦA ĐỊA LÝ
T
hất bại của những năm đầu ở Iraq đã củng cố thêm lời nhận xét hiện thực từng bị những người duy tâm gièm pha, miệt thị trong những năm 1990, đó là việc những di sản về địa lý, lịch sử và văn hóa thực sự tạo ra những giới hạn xác định cho những gì có thể được thực hiện ở bất kỳ địa điểm cụ thể nào. Tuy nhiên, những người phản đối Iraq cũng nên thận trọng trong việc vận dụng hiện tượng tương tự Việt Nam quá xa. Bởi vì hiện tượng tương tự này có thể hấp dẫn, đưa tới chủ nghĩa biệt lập, cũng như vì nó đang được xoa dịu, và theo cách diễn đạt của nhà nghiên cứu Trung Đông Fouad Ajami, đang ở phía thiên kiến dễ dàng với những kỳ vọng thấp, nghĩa là cứ để cho thế giới vận hành bình thường, thay vì cố gắng làm nó thay đổi. Hãy nhớ rằng hội nghị München đã diễn ra chỉ 20 năm sau việc giết người hàng loạt trong Thế chiến I, nên có thể thông cảm được việc những chính khách hiện thực như Neville Chamberlain đã mong muốn tránh một cuộc xung đột tương tự bằng mọi giá. Kiểu tình huống như vậy thực sự là lý tưởng cho những mưu đồ của những nhà nước độc tài không biết đến những nỗi sợ hãi như thế: Đức Quốc xã và đế quốc Nhật.
Tấm gương Việt Nam là câu chuyện về những giới hạn; còn München thì nói về sự vượt quá chúng. Mỗi sự loại suy từ những tấm gương này nếu đứng tách riêng đều có thể là nguy hiểm. Chỉ khi ta gán cho chúng một tầm quan trọng tương đương, mới có cơ hội cho một chủ trương đúng đắn xuất hiện. Đối với những nhà hoạch định chính sách khôn ngoan, khi đã ý thức được những hạn chế của dân tộc mình, thì tài nghệ quản lý nhà nước là ở chỗ hành động sao cho càng sát với đường biên càng tốt, mà không bước qua bờ vực.
Nói cách khác, chủ nghĩa hiện thực chân chính là một nghệ thuật hơn là một khoa học, trong đó tính khí của vị chính khách giữ vai trò không kém so với trí tuệ của ông ta. Trong khi cội nguồn của chủ nghĩa hiện thực đã có từ 2.400 năm trước, gắn với sự hiểu biết sâu sắc và không ảo tưởng của Thucydides về hành vi con người trong cuốn sách Lịch sử Chiến tranh Peloponnese [^Cuốn sách Lịch sử Chiến tranh Peloponnese đã được Công ty Sách Omega Việt Nam xuất bản vào tháng 3 năm 2017. (BT)], chủ nghĩa hiện thực hiện đại có lẽ đã được Hans J. Morgenthau tổng kết toàn diện nhất vào năm 1948 trong cuốn Chính trị giữa các quốc gia: Cuộc đấu tranh vì quyền lực và hòa bình. Cho phép tôi dừng lại một chút với cuốn sách này − công trình thể hiện sự nỗ lực của một người tị nạn Đức từng dạy Đại học Chicago − để chuẩn bị cho việc thảo luận rộng hơn của tôi về địa lý: bởi vì chủ nghĩa hiện thực là điều then chốt giúp ta đánh giá đúng về bản đồ cùng những thông tin mà ta có thể rút ra từ việc nghiên cứu chúng.
Morgenthau bắt đầu lập luận của mình bằng sự ghi nhận rằng thế giới “là sản phẩm chung của các lực lượng gắn liền với bản chất
con người.” Và, bản chất con người, như Thucydides đã nêu, có động cơ thúc đẩy là sự sợ hãi (phobos), lợi ích riêng (kerdos), và danh dự (doxa). “Để cải thiện thế giới”, Morgenthau viết, “người ta phải hành động cùng với các lực lượng ấy, chứ không đối lập lại chúng.” Như vậy, chủ nghĩa hiện thực chấp nhận những con người như họ hiện hữu, với mọi sự không hoàn thiện vốn có của họ. “Nó cần đến tiền lệ lịch sử nhiều hơn là những nguyên tắc trừu tượng và nhắm tới đích thực hiện cái ít tệ hại hơn là cái tốt tuyệt đối.” Ví dụ, để xét đoán xem tương lai nào sẽ chờ đón Iraq vào thời điểm ngay sau khi lật đổ chế độ độc tài toàn trị, một người theo chủ nghĩa hiện thực sẽ xem xét lịch sử của chính Iraq được luận giải qua bản đồ và quan hệ giữa các nhóm sắc tộc, chứ không phải là căn cứ vào những quy tắc đạo đức dân chủ phương Tây. Xét cho cùng, theo Morgenthau, những ý định tốt không đủ để đưa đến những kết quả tích cực. Ông giải thích rằng, Chamberlain được dẫn dắt bởi những cân nhắc về quyền lực cá nhân ít hơn so với hầu hết các chính trị gia người Anh khác, và ông đã thực sự cố gắng tìm cách đảm bảo hòa bình và hạnh phúc cho tất cả các bên liên quan. Nhưng các chính sách của ông đã mang lại nỗi đau vô kể cho hàng triệu người. Trong khi đó, Winston Churchill trên thực tế đã được thúc đẩy bởi những cân nhắc trần trụi về quyền lực cá nhân và quốc gia, nhưng các chính sách của ông đã có một hiệu ứng tinh thần vô song. Về sau, Paul Wolfowitz, cựu thứ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã được thúc đẩy bởi những ý định tốt nhất khi biện luận cho cuộc tiến quân vào Iraq, với niềm tin rằng nó sẽ cải thiện tình hình nhân quyền ở đó rất nhiều, nhưng hành động của ông ta đã dẫn đến điều ngược lại với những gì chính ông từng dự kiến. Mở rộng thêm điểm này ta thấy điều đơn giản là một quốc gia theo con đường dân chủ không có
nghĩa là chính sách đối ngoại của nó nhất thiết sẽ phát huy được tốt hơn hoặc sáng tỏ hơn so với những gì tương ứng của một nhà nước chuyên chế. Bởi lẽ “nhu cầu phải làm vừa lòng những cảm xúc của công chúng,” Morgenthau viết, “không thể không gây ảnh hưởng xấu đến tính hợp lý của bản thân chính sách đối ngoại.” Đơn giản là, dân chủ và đạo lý là những thứ không đồng nghĩa với nhau. Tất cả các quốc gia đều bị cám dỗ − tuy cũng có một số ít từ lâu từng cố gắng để chống lại sự cám dỗ ấy – tìm cách che đậy những hành động và khát vọng riêng của mình trong những chủ định đạo đức của thế giới. “Việc biết rằng các quốc gia phải tuân theo luật luân lý”, ông viết tiếp, “là một chuyện, còn nếu giả bộ như biết chắc chắn cái gì là tốt và cái gì là xấu trong quan hệ giữa các quốc gia lại chuyện hoàn toàn khác.”
Hơn nữa, các nhà nước phải hoạt động trong một thế giới đạo đức bị hạn chế hơn nhiều so với không gian hoạt động của các cá nhân. “Cá nhân,” Morgenthau viết, “có thể tự nói với mình… ‘Hãy để cho công lý được thực thi, ngay cả khi thế giới bị lụi tàn’, nhưng nhà nước thì không có quyền nói như vậy nhân danh những người dưới quyền bảo trợ của mình.” Một cá nhân chỉ có trách nhiệm đối với những người thân yêu của mình, những người sẽ tha thứ cho những sai lầm của anh ta, miễn là anh ta có ý tốt. Nhưng một nhà nước thì phải bảo vệ sinh kế của hàng triệu con người không quen biết bên trong biên giới của nó, những người mà trong trường hợp có một chính sách thất bại sẽ không thông cảm được như vậy. Do đó, nhà nước phải có nhiều mưu mẹo hơn so với các cá thể.
Bản chất con người, theo Thucydides, được xác lập trên cơ sở của sự sợ hãi, của lợi ích riêng và mối bận tâm về dư luận từ phía
những người khác, khiến cho thế giới có tình trạng áp bức và xung đột không ngừng. Bởi vì những người theo chủ nghĩa hiện thực như Morgenthau thì chờ đợi sự xung đột và nhận ra rằng nó không thể tránh được, nên họ ít có khả năng hơn so với những người duy tâm phản ứng lại nó một cách thái quá. Họ hiểu rằng xu hướng đi tới thống trị là một yếu tố tự nhiên trong mọi tương tác của con người, đặc biệt là giữa các quốc gia. Morgenthau trích dẫn John Randolph của Roanoke để nói rằng “chỉ có sức mạnh mới có thể hạn chế được quyền lực.” Do đó, những người theo chủ nghĩa hiện thực không tin rằng các tổ chức quốc tế tự thân chúng có thể đóng vai trò chủ chốt đối với hòa bình, bởi lẽ các tổ chức này chỉ đơn thuần là phản ánh sự thỏa hiệp giữa các quốc gia thành viên, những quốc gia, xét cho cùng, quyết định vấn đề hòa bình và chiến tranh. Và, trong quan niệm của Morgenthau, sự cân bằng ấy của hệ thống quyền lực bản thân nó theo định nghĩa đã là không ổn định: bởi vì mỗi quốc gia thành viên, khi nó có sự lo lắng do một toan tính sai của mình đối với cán cân quyền lực đều phải không ngừng tìm giải pháp bù đắp lại bằng cách chiếm lĩnh một vị trí vượt trội hơn trong cán cân. Đây chính xác là những gì đã mở đường dẫn tới Thế chiến I, khi nước Áo Habsburg, nước Đức Wilhelmine và nước Nga Sa hoàng cùng tìm cách điều chỉnh cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho mình, và đã tính nhầm nghiêm trọng. Morgenthau viết rằng, xét cho cùng, duy chỉ có sự hiện hữu một lương tâm luân lý phổ quát là nhân tố hạn chế được sự xuất hiện của chiến tranh, theo đó chiến tranh được xem như là một “thảm họa tự nhiên”, chứ không phải là một hệ quả tự nhiên của chính sách đối ngoại của một ai đó.
Sau thời kỳ bạo lực ở Iraq từ 2003 đến 2007, tất cả chúng ta đều tuyên bố là trong một thời gian ngắn mình đã trở nên có óc thực tế,
hoặc chúng ta đã tự trấn an mình như vậy. Nhưng giả như chấp nhận cái cách mà Morgenthau định nghĩa chủ nghĩa hiện thực, thì liệu điều đó có thực sự đúng? Ví dụ, phải chăng hầu hết những người phản đối chiến tranh Iraq trên cơ sở chủ nghĩa hiện thực cũng cảm thấy rằng không nhất thiết phải có sự kết nối giữa dân chủ và đạo đức? Và, hãy nhớ, Morgenthau là người phản đối Chiến tranh Việt Nam trên cơ sở cả đạo đức lẫn lợi ích quốc gia, là người theo chủ nghĩa hiện thực mà với ông tất cả chúng ta có thể cảm thấy thoải mái nhất. Là một trí thức dành cả cuộc đời mình cho việc giảng dạy đại học, ông không bao giờ khát khao quyền lực và vị thế mà những người theo chủ nghĩa hiện thực khác như Kissinger và Scowcroft đã thể hiện. Hơn nữa, văn phong dè dặt, hầu như bằng lặng của ông làm thiếu đi sự bực dọc của một Kissinger hay một Samuel Huntington. Nhưng sự thật vẫn ở chỗ là, mọi dạng chủ nghĩa hiện thực, kể cả trường hợp Morgenthau, đều khiến ta không thoải mái. Những người theo chủ nghĩa hiện thực hiểu rằng quan hệ quốc tế được điều hành bởi một trật tự buồn hơn và hạn chế hơn so với thực tế điều hành những quan hệ trong nước. Bởi lẽ trong khi nội vụ nhà nước chúng ta được quy định bởi luật pháp, nơi một chính phủ hợp pháp có độc quyền sử dụng vũ lực, thì thế giới với tư cách một tổng thể lại nằm ở trạng thái của tự nhiên, trong đó không có thủy quái Leviathan nào (như trong truyện của Hobbes) để trừng phạt những sai trái, bất công. Thật vậy, ngay dưới lớp vỏ bề ngoài văn minh đã là những lực lượng đen tối của lòng đam mê của con người, và do vậy câu hỏi chủ yếu trong công việc đối ngoại đối với những người theo chủ nghĩa hiện thực là: Ai có đủ sức để làm được gì, và cho ai?
Ashley Tellis, tổng thư ký Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế ở Washington, có lần đã nói với tôi: “Truyền thống Mỹ xa lạ với chủ nghĩa hiện thực.” Điều đó là phi luân lý một cách cố ý, tập trung vào những lợi ích nhiều hơn là các giá trị trong một thế giới đã bị mất phẩm giá. Nhưng chủ nghĩa hiện thực không bao giờ chết, vì nó phản ánh chính xác cách mà các nhà nước đang cư xử trên thực tế, đằng sau bề mặt khoa trương dựa trên những giá trị của họ.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực đánh giá trật tự cao hơn tự do: đối với họ, tự do trở nên quan trọng hơn chỉ sau khi trật tự đã được thiết lập. Tại Iraq, trật tự, thậm chí theo những tham chiếu của chế độ độc tài toàn trị, hóa ra vẫn nhân văn hơn tình trạng thiếu trật tự sau khi chế độ ấy sụp đổ. Và bởi lẽ một chính phủ thế giới mãi mãi vẫn sẽ là một thứ gì đó không thể với tới được, vì sẽ không bao giờ có được sự thỏa thuận căn bản về những phương tiện để cải thiện điều kiện xã hội, do vậy, thế giới theo định mệnh buộc phải chịu sự cai trị của những kiểu thể chế khác nhau, ở đôi nơi còn là những chế độ bộ tộc và sắc tộc. Những người theo chủ nghĩa hiện thực, kể từ người Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại cho đến triết gia Pháp Raymond Aron hồi giữa thế kỷ XX và người đương thời theo chủ thuyết của ông ở Tây Ban Nha, José Ortega y Gasset, đều từng tin rằng chiến tranh là hiện tượng tự nhiên gắn liền một cách cố hữu với sự phân chia nhân loại thành các quốc gia và những tập hợp khác của con người. Thật vậy, không có chuyện chủ quyền, cũng không có chuyện những liên minh nổi lên mà không có lí do: chúng đều có cơ sở là những sự khác biệt và chênh lệch. Trong khi các tín đồ toàn cầu hóa nhấn mạnh những gì liên kết nhân loại, thì những người theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống lại nhấn mạnh những gì chia rẽ chúng ta.
Và bây giờ chúng ta quay lại với bản đồ, một công cụ phản ánh sự phân chia không gian nhân loại – đối tượng ưa thích đặc biệt của những mô tả hiện thực. Bản đồ không phải luôn luôn nói lên sự thật. Chúng thường mang tính chủ quan, như bất cứ đoạn văn xuôi nào. Những tên gọi kiểu châu Âu đặt cho những mảng lớn của châu Phi cho thấy, nói theo ngôn từ của nhà địa lý học quá cố người Anh John Brian Harley, bản đồ có thể trở thành một công cụ lợi hại biết chừng nào trong mưu đồ thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Phép chiếu hình Mercator có khuynh hướng thể hiện châu Âu lớn hơn chính nó trên thực tế. Việc tô màu rất đậm cho các nước khác nhau trên bản đồ này hàm ý một sự quản lý thống nhất đối với những vùng liên quan, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng vậy. Bản đồ là thứ mang tính vật chất, và do vậy trung tính về mặt đạo đức. Về mặt lịch sử, chúng thuộc về một nền giáo dục Phổ nhiều hơn so với một nền giáo dục Anh. Bản đồ, nói cách khác, có thể là những công cụ nguy hiểm, tuy nhiên chúng lại rất quan trọng để hiểu được sự vận hành nền chính trị thế giới. Morgenthau viết: “Kim tự tháp cơ cấu quyền lực quốc gia, để có thể cơi lên được, cần có những nền móng địa lý ổn định tương đối”. Bởi vì, từ gốc rễ, chủ nghĩa hiện thực là để nói ra những chân lý không úp mở nhất, gây khó chịu nhất, và mang tính Quyết định luận nhất: tức là những Chân lý Địa lý.
Bối cảnh địa lý là phông nền cho chính lịch sử nhân loại. Bất chấp những biến dạng do chiếu hình bản đồ, nó có thể là yếu tố tiết lộ những ý định dài hạn của một nhà nước, giống như nếu ta biết được khi có mặt tại một trong những cuộc họp bí mật của nó. Vị trí một quốc gia trên bản đồ là điều đầu tiên quyết định nó, thậm chí còn hơn cả triết lý dùng để quản lý nó. Một tờ bản đồ, Halford
Mackinder giải thích, truyền đạt “chỉ trong nháy mắt cả một loạt những điều khái quát hóa.”
Địa lý, ông nói tiếp, là cây cầu bắc qua khoảng trống giữa nghệ thuật và khoa học, kết nối các nghiên cứu lịch sử và văn hóa với những yếu tố môi trường mà chuyên gia trong các khoa học nhân văn đôi khi không chú ý. Mặc dù việc nghiên cứu một bản đồ có thể có sức hấp dẫn và thú vị bất tận, nhưng các sự thật của địa lý, cũng giống như của chủ nghĩa hiện thực, đều là khó chấp nhận. Bởi vì bản đồ là một lời quở trách đối với chính những khái niệm về bình đẳng và tính thống nhất của nhân loại, vì chúng nhắc nhở người ta về tất cả những môi trường khác nhau của Trái Đất, những thứ khiến cho người ta bị bất bình đẳng sâu sắc, bị chia rẽ và bất hòa theo nhiều cách, dẫn tới xung đột, tức là những thứ được coi là đá thử vàng của chủ nghĩa hiện thực.
Vào thế kỷ XVIII và XIX, trước khi khoa học chính trị xuất hiện như một chuyên ngành mang tính hàn lâm, địa lý đã từng là một bộ môn khoa học được tôn vinh, nếu không phải là luôn luôn được chính thức hóa, trong đó chính trị, văn hóa và kinh tế thường được xây dựng qua việc tham khảo các bản đồ tự nhiên. Theo logic duy vật này, núi non và các bộ tộc có ý nghĩa quan trọng hơn thế giới những ý tưởng lý thuyết. Hay nói đúng hơn, núi non và những con người lớn lên từ đó là cấp thứ nhất của thực tại; còn tư tưởng, tuy vậy, là những gì nâng cao và củng cố nó, nên chỉ thuộc cấp thứ hai.
Tôi cho rằng, trong khi cải theo chủ nghĩa hiện thực ở thời điểm giữa cuộc chiến tranh Iraq, đôi khi không thuận theo trái tim mình (và cũng chỉ trong một thời gian ngắn), chúng ta cùng lúc đã cải theo địa lý mà không nhận thức rằng đó là địa lý, nếu không theo ngữ nghĩa
không úp mở của từ này – tức là theo hàm ý của đế quốc Phổ, thì cũng theo nghĩa ít khó nghe hơn, ôn hòa hơn của thời Victoria hoặc Edward. Sự trả thù của địa lý là yếu tố đã đánh dấu đỉnh điểm chu kỳ thứ hai trong thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh, tiếp theo sau sự thất bại của điều kiện địa lý trước sức mạnh không quân và thắng lợi của chủ nghĩa can thiệp nhân đạo, điều đã đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ thứ nhất.
Như thế là chúng ta đã bị đưa trở lại với những điều kiện tồn tại đang ngày càng kém cỏi của con người, nơi thay vì sự cải thiện không ngừng của thế giới như trước đó chúng ta từng hình dung, chúng ta đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh tiếp theo cho sự sống còn, và gắn với nó là những sự hạn chế gay gắt mà điều kiện địa lý chất nặng lên vai chúng ta ở những nơi như Lưỡng Hà và Afghanistan.
Nhưng ngay bên trong sự chấp nhận buồn bã này còn có cả niềm hy vọng: bởi vì khi trở nên chuyên nghiệp hơn trong việc đọc hiểu bản đồ, với sự trợ giúp của những công nghệ mới, như sự kiện Mùa xuân Arab đã chứng thực, chúng ta có thể vượt ra khỏi một số giới hạn mà các bản đồ áp đặt. Đó chính là mục đích nghiên cứu của tôi: để có một sự đánh giá các bản đồ khả dĩ giúp ta thoát khỏi những gò bó mà ta luôn luôn bị nó giới hạn. Bởi vì không chỉ tính hẹp hòi là thứ dẫn tới chủ nghĩa biệt lập, mà sự ngạo mạn cũng gây ra phản ứng mạnh theo chủ nghĩa biệt lập.
Nhưng điều đầu tiên chúng ta cần nhận thức được đó là vai trò trung tâm của bộ môn Địa lý học. “Thiên nhiên áp đặt; con người sắp đặt”, nhà địa lý người Anh W. Gordon East đã viết. Chắc chắn là mọi hành động của con người đều bị hạn chế bởi những thông số
vật lý mà hoàn cảnh địa lý áp đặt. Nhưng những đường biên này lại vô cùng uyển chuyển, do đó các hành động của con người vẫn có thừa không gian để triển khai. Các dân tộc Arab cũng có khả năng thực hành dân chủ giống như những dân tộc khác, dẫu rằng sự phân bố không gian của các bộ tộc Libya và của các dãy núi ở Yemen vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển chính trị của những quốc gia ấy. Địa lý thông báo nhiều hơn là quyết định. Do đó, địa lý không đồng nghĩa với thuyết định mệnh. Nhưng, giống như sự phân bố của chính những sức mạnh kinh tế và quân sự, nó có thể là một trở ngại lớn, nhưng cũng có thể là động lực lớn đối với hoạt động của các quốc gia.
Nicholas J. Spykman, giáo sư Đại học Yale, chiến lược gia lớn người Mỹ gốc Hà Lan thời kỳ đầu Thế chiến II, đã viết vào năm 1942 rằng “địa lý không tranh luận. Nó chỉ đơn giản là nó.” Ông nói tiếp:
Địa lý là yếu tố cơ bản nhất trong chính sách đối ngoại của các quốc gia, bởi vì nó là cố định nhất. Các bộ trưởng đến rồi đi, thậm chí những kẻ độc tài cũng chết đi, nhưng những dãy núi thì vẫn mãi đứng đó một cách bình thản. George
Washington, người bảo vệ 13 tiểu bang bằng một đội quân rách rưới, rồi đã được Franklin D. Roosevelt kế tục với những nguồn lực của cả một lục địa dưới quyền chỉ huy của mình, nhưng Đại
Tây Dương vẫn tiếp tục chia tách châu Âu với Hoa Kỳ và các cảng trên sông St. Lawrence đến nay vẫn bị băng đóng chặt trong những mùa đông. Alexander Đệ nhất, Sa hoàng Nga, để lại cho Joseph Stalin – đơn giản là một đảng viên Cộng sản, không chỉ sức mạnh của mình, mà còn cả cuộc đấu tranh bất tận của ông vì con đường tiếp cận ra biển, còn Maginot và
Clemenceau đã được thừa kế từ Caesar và Louis XIV sự lo lắng về đường biên giới mở của Đức.
Và người ta có thể bổ sung thêm, rằng bất chấp sự kiện 11 tháng 9, Đại Tây Dương vẫn còn quan trọng, và, trên thực tế, chính Đại Tây Dương là yếu tố dẫn đến một chính sách ngoại giao và quân sự của Hoa Kỳ khác với của châu Âu. Cũng theo dòng suy nghĩ ấy, chúng ta có thể nói rằng nước Nga, cho đến tận ngày nay, là một cường quốc lục địa không an toàn, nằm trải rộng ra tứ phía, là nạn nhân của những cuộc xâm lăng từ thời trước cả những cuộc xâm nhập của các bộ lạc du mục Mông Cổ trong thế kỷ XIII, duy chỉ có thời gian, khoảng cách và thời tiết là những ưu thế địa chính trị vốn có của mình, vẫn luôn thèm khát có nhiều lối vươn ra biển hơn. Và bởi vì không tồn tại một trở ngại địa lý nào đáng kể giữa châu Âu và Ural, nên Đông Âu, bất chấp sự sụp đổ Bức tường Berlin, vẫn đang chịu sự đe dọa từ phía nước Nga, như nó đã từng phải chịu suốt hàng thế kỷ. Có một điều khác cũng đúng, đó là sự lo lắng về đường biên giới Đức từng đeo đẳng nước Pháp – giống như trong thời đại Louis XIV − cho tới tận cuối Thế chiến II, khi Hoa Kỳ rốt cuộc đã đảm bảo hòa bình của châu Âu.
Trên thực tế, vị trí địa lý là lời mở đầu cho chính việc phân tích lần theo những sự kiện của con người. Không phải ngẫu nhiên mà nền văn minh châu Âu có cội nguồn cơ bản từ vùng đảo Crete và các đảo Cyclade của Hy Lạp, đó là vì đảo Crete là “một mảng châu Âu trôi dạt” cổ xưa nằm gần nhất với nền văn minh Ai Cập, còn các đảo Cyclade thì nằm sát với vùng Tiểu Á. Cả hai, nhờ có địa thế biển đảo, đã được bảo vệ suốt hàng thế kỷ trước sự tàn phá của những đội quân xâm lược, và nhờ thế phát triển thịnh vượng. Địa lý
chính là những bằng chứng nói về các vấn đề quốc tế, có ý nghĩa cơ bản đến mức chúng ta chấp nhận như là lẽ đương nhiên.
Còn có điều gì căn bản hơn trong lịch sử châu Âu so với sự khác biệt về vị trí địa lý giữa nước Đức và nước Anh, nghĩa là một nước biển đảo, còn nước kia là một cường quốc lục địa? Nước Đức với cả hai mặt đông và tây đều không có những dãy núi che chở, một tình trạng dẫn đến những thái độ ít nhiều bệnh hoạn của nó, từ chủ nghĩa quân phiệt đến chủ nghĩa hòa bình hiện nay, nghĩa là một cách đối phó với vị trí nguy hiểm của nó. Về phần mình, nước Anh được bảo vệ bởi những đường biên giới biển, với định hướng vươn ra đại dương, và nhờ vậy đã có thể phát triển một hệ thống dân chủ sớm hơn nhiều so với các nước láng giềng và gây dựng mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương đặc biệt với Hoa Kỳ, quốc gia sử dụng cùng ngôn ngữ.
Alexander Hamilton cho rằng nếu nước Anh không phải là một hòn đảo, thì cơ sở quân sự của nó cũng đã có thể có tính năng tấn công như những cơ sở tương ứng của châu Âu lục địa, và nước Anh đã “hoàn toàn có thể” trở thành “một nạn nhân của sự chuyên quyền của một con người duy nhất”. Và thêm nữa, nước Anh là một hòn đảo nằm gần lục địa châu Âu, nên luôn phải chịu nguy cơ xâm lấn trong phần lớn chiều dài lịch sử của mình, khiến nó trở thành một quốc gia cảnh giác, liên tục phải quan tâm đến những sự cố chính trị của nước Pháp và các quốc gia Vùng Đất Thấp tây bắc châu Âu [Bỉ và Hà Lan] trên bờ đối diện eo biển Manche và Biển Bắc.
Tại sao Trung Quốc rốt cuộc lại quan trọng hơn Brazil? Là bởi vị trí địa lý: thậm chí giả như có cùng mức độ tăng trưởng kinh tế như
Trung Quốc và cùng cỡ về dân số, Brazil không bao quát những tuyến giao thông chủ chốt trên biển nối các đại dương và các châu lục như Trung Quốc; Brazil cũng không nằm chủ yếu ở ôn đới như Trung Quốc, với một khí hậu ít bệnh tật hơn và có tác dụng tiếp sinh lực hơn. Trung Quốc quay mặt ra tây Thái Bình Dương và ăn sâu trên đất liền tới tận vùng Trung Á giàu có về dầu mỏ và khí tự nhiên. Brazil tạo ra ít lợi thế so sánh hơn. Nó nằm cô lập ở Nam Mỹ, về mặt địa lý bị đẩy xa khỏi những khối lục địa khác, cũng như xa những cường quốc lớn khác.
Tại sao châu Phi lại quá nghèo? Mặc dù châu Phi là lục địa lớn thứ hai, với diện tích gấp năm lần so với châu Âu, bờ biển của nó về phía nam sa mạc Sahara dài hơn 1/4 chiều dài châu lục một chút. Hơn nữa, bờ biển này rất hiếm những cảng tự nhiên tốt, ngoại trừ các hải cảng ở Đông Phi dùng cho những giao dịch thương mại sôi nổi với Arab Saudi và Ấn Độ. Rất ít dòng sông trong số những con sông nhiệt đới châu Phi có thể dùng cho giao thông thủy hướng từ biển vào, vì chúng tạo ra những bậc chênh cao đột ngột dạng thác và ghềnh từ cao nguyên dạng mặt bàn xuống đồng bằng duyên hải, khiến cho phần nội địa châu Phi bị cô lập một cách đặc biệt với vùng duyên hải. Mặt khác, sa mạc Sahara trong suốt nhiều thế kỷ đã gây cản trở cho sự tiếp xúc của con người từ phía Bắc xuống, khiến cho châu Phi ít được tiếp xúc với các nền văn minh Địa Trung Hải tuyệt vời thời cổ đại và cả sau đó nữa. Cuối cùng, lượng mưa lớn và nhiệt độ cao đã tạo ra những khu rừng rậm rộng lớn ở cả hai phía đường xích đạo, từ Vịnh Guinea đến lưu vực sông Congo. Những khu rừng này không thân thiện với nền văn minh, cũng không có lợi cho những đường biên giới tự nhiên, và do đó, các đường biên giới được dựng lên bởi chính quyền thực dân tới từ châu Âu đương
nhiên là gượng gạo, nhân tạo. Thế giới tự nhiên đã cho châu Phi nhiều thứ để lao động theo cách ngược dòng trên con đường của nó đi tới hiện đại.
Hãy điểm qua danh sách những nền kinh tế yếu kém nhất thế giới và chú ý rằng tỷ lệ cao thuộc về những đất nước bị đất liền bao bọc. Hãy để ý là các quốc gia nhiệt đới (nằm giữa các vĩ tuyến 23,45 vĩ độ Bắc và Nam) nói chung là nghèo, trong khi hầu hết những nước có thu nhập cao đều nằm ở các vĩ độ trung bình và cao. Chú ý là lục địa Á-Âu trong dải ôn đới định hướng theo chiều đông-tây sung túc hơn hẳn so với châu Phi cận Sahara định hướng theo chiều bắc-nam, bởi vì việc phổ biến công nghệ diễn ra tốt hơn nhiều trên cùng vĩ độ, nơi điều kiện khí hậu tương tự nhau, do đó cho phép lan truyền nhanh chóng những đổi mới trong việc chăm sóc cây trồng, thuần dưỡng động vật. Không phải ngẫu nhiên mà các khu vực nghèo nhất thế giới có xu hướng hiện diện tại những nơi mà điều kiện địa lý nhờ tính thích hợp của thổ nhưỡng có thể chấp nhận được mật độ dân số cao, chứ không phải là vào sự tăng trưởng kinh tế nhờ khoảng cách thuận lợi tới các hải cảng và các đầu mối đường sắt. Vùng trung tâm Ấn Độ và vùng nội địa châu Phi là những ví dụ tuyệt vời thể hiện điều này.
Trong một bản tổng kết gây ấn tượng nhất về Quyết định luận địa lý, nhà Địa lý học cận đại Paul Wheatley đã đưa ra nhận xét rằng “ở độ cao lớn hơn 500 m, người ta không còn nghe thấy ai nói bằng tiếng Phạn nữa”, nghĩa là văn hóa Ấn Độ từng là một hiện tượng đặc sắc chỉ gắn liền với các miền đồng bằng. Những ví dụ khác về ảnh hưởng của địa lý đối với số phận các dân tộc theo cách vừa tinh