🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Khủng Hoảng Của Hồi Giáo
 Ebooks
Nhóm Zalo
Sự Khủng Hoảng Của Hồi Giáo © Bernard Lewis | Võ Văn Lượng dịch 
Nguyên tác tiếng Anh: The Crisis of Islam 
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com 
Hoàn thành ngày: 05.03.2018 
Nguồn: tve-4u.org 
Chỉnh sửa lần ba: tna 
Bìa: @Ebolic
Thời đại các Caliphs
Trung Đông ngày nay
Mục Lục 
Dẫn nhập 
Chương 1: Định nghĩa Hồi giáo 
Chương 2: Nhà chiến tranh 
Chương 3: Từ quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc chủ nghĩa Chương 4: Phát Hiện Nước Mỹ 
Chương 5: Satan Và Liên Xô 
Chương 6: Tiêu Chuẩn Nước Đôi 
Chương 7: Sự thất bại của phong trào Cách tân 
Chương 8: Cuộc hôn nhân giữa quyền lực nhà Saudi và lời giảng của Wahhabi 
Chương 9: Sự ra đời của chính sách khủng bố 
Lời bạt
DẪN NHẬP 
Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia là cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố − chứ không phải là chống người Ả Rập, hoặc nói rộng hơn là chống lại người Hồi giáo, là những người được khuyến khích cùng chung sức với chúng ta trong cuộc chiến chống kẻ thù chung. Nhưng thông điệp của Usama bin Ladin thì khác hẳn. Đối với bin Ladin và những người theo ông ta đây là một cuộc chiến tôn giáo, một cuộc chiến của người Hồi giáo chống lại những kẻ vô đạo, và vì thế đương nhiên là chống lại nước Mỹ, cường quốc lớn nhất trong thế giới của những kẻ vô đạo. 
Trong các tuyên bố của mình, bin Ladin luôn luôn dẫn chứng lịch sử. Một trong những dẫn chứng gây ấn tượng nhất được nêu trong cuốn băng video ngày 7 tháng Mười năm 2001, về “sự ô nhục và tủi hổ mà đạo Hồi đã phải gánh chịu trong hơn 80 năm qua”. Đối với bối cảnh Trung Đông, đa số các nhà quan sát người Mỹ − và đương nhiên, có người Âu − bối rối bắt đầu tìm hiểu cái gì đã xảy ra “trong hơn 80 năm trước” và cuối cùng đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau. Chúng ta có thể tin phần nào là những đối tượng của bin Ladin hiểu rõ ngay ý nghĩa những lời nói bóng gió này. 
Vào năm 1918, đế quốc Ottoman, là đế quốc cuối cùng của các đế quốc Hồi giáo hùng mạnh bị đánh bại − thủ đô Constantinople bị chiếm đóng, quốc vương bị bắt giữ và phần lớn lãnh thổ bị các đế quốc thắng trận (Anh và Pháp) xâu xé. Các tỉnh nói tiếng Ả Rập thuộc đế quốc Ottoman trước kia ở vùng Lưỡi liềm phì nhiêu bị phân chia ra thành các thực thể mới, với tên gọi và biên giới mới. Hai trong số những tỉnh này, Iraq và Palestine, được đặt dưới quyền ủy trị của Anh, còn tỉnh thứ ba − Syria, thì giao cho Pháp. Sau này, nước Pháp lại chia nhỏ Syria ra làm hai phần, một phần gọi là Liban, còn phần kia vẫn giữ tên Syria. Người Anh cũng chia Palestine ra làm hai vùng nằm vắt hai bên bờ sông Jordan; bờ tây thì vẫn giữ lại tên Palestine, còn phần bên kia mang tên Cisjordan. 
Bán đảo Ả Rập, chủ yếu toàn núi và các vùng sa mạc khô cằn và hiểm
trở, lúc đó được coi như chẳng bỏ công chiếm đóng, cho nên được phép giữ lại nền độc lập bấp bênh và chẳng nhiều nhặn gì. Người Thổ (Turkey) cuối cùng cũng giải phóng được quê hương của họ tại cao nguyên Anatolia, không phải bằng ảnh hưởng Hồi giáo mà do phong trào quốc gia thế tục do Mustafa Kemal, một tướng lãnh Ottoman được biết nhiều hơn dưới tên Kemal Atatürk. Ngay cả khi viên tướng này chiến đấu thành công để giải phóng Thổ Nhĩ Kỳ khỏi sự thống trị của phương Tây, ông ta cũng bước đầu chấp nhận các đường lối Tây phương, hoặc theo đường lối cách tân của ông ta. Một trong những đạo luật đầu tiên ông ban hành vào tháng Mười một năm 1922, là bãi bỏ nhà nước Sultan. 
Quốc vương Ottoman không những chỉ là một Sultan, người cai trị của một đất nước cụ thể, mà còn được rộng rãi thừa nhận là Caliph, tức là người đứng đầu của tất cả người Hồi giáo Sunni, và là người cuối cùng của một dòng dõi quân vương được hình thành sau khi Tiên tri Muhammad chết vào năm 632, và việc bổ nhiệm người kế vị Ngài, không những chỉ là người đứng đầu về tinh thần mà còn là người đứng đầu về tôn giáo và chính trị của một nhà nước và của cộng đồng Hồi giáo. Sau một thời gian ngắn thực hiện việc chế độ Caliph tách biệt với nhà nước, cuối cùng vào tháng Ba năm 1924 người Thổ bãi bỏ hẳn chế độ Caliph. 
Trong suốt 13 thế kỷ, chế độ Caliph đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng nó vẫn còn là một biểu tượng mạnh mẽ cho sự thống nhất, thậm chí là một bản sắc Hồi giáo; toàn thể thế giới Hồi giáo cảm nhận sự biến mất của nó dưới hai mặt tấn công của đế quốc ngoại bang cùng với những kẻ cách tân trong nước. Nhiều quốc vương và lãnh đạo Hồi giáo có đưa ra một số cố gắng cầm chừng để giành cái tước hiệu bỏ trống đó, nhưng chẳng được ủng hộ bao nhiêu. Nhiều người Hồi giáo vẫn còn trăn trở về sự thiếu vắng này, và có người cho rằng chính Usama bin Ladin − đã − hoặc đang − có ước vọng muốn giành chức Caliph. 
Danh từ Caliph đi từ tiếng Ả Rập khalifa, có ý nghĩa vừa là “người thừa kế” vừa là “người phụ tá”. Lúc đầu, người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo là “khalifa của Đấng Tiên Tri của Thượng đế”. Một số người có nhiều tham vọng hơn, đã rút ngắn tên gọi thành “Khalifa của Thượng đế”. Luận điệu đòi
uy quyền tinh thần này đã bị chỉ trích nhiều và dần dần bị bỏ đi, và các nhà lãnh đạo Hồi giáo lại sử dụng rộng rãi một danh xưng tuy vẫn như cũ nhưng ý nghĩa có phần nhẹ hơn là “Cái bóng của Thượng đế trên mặt đất”. Trong phần lớn lịch sử của định chế này, những người nắm quyền Caliph thỏa mãn với một danh xưng khiêm tốn hơn, Almir al-Mu’mmin, thường được dịch là “Đấng Thống lãnh của các tín đồ”. 
Những ẩn dụ lịch sử do bin Ladin nêu ra, có thể là khó hiểu đối với nhiều người Mỹ, lại khá phổ biến đối với người Hồi giáo, và chỉ có thể hiểu đúng trong khuôn khổ các nhận thức về bản sắc (identity) của vùng Trung Đông, và đặt trong khung cảnh lịch sử của vùng Trung Đông. Ngay cả cái quan niệm về lịch sử và bản sắc cũng cần phải được định nghĩa lại để cho người phương Tây muốn hiểu rõ vùng Trung Đông hiện tại. Theo kiểu nói tiếng Mỹ hiện nay, thì câu “đó là lịch sử” được sử dụng rộng rãi để gạt bỏ những cái gì không quan trọng, không liên quan đến những điều quan tâm hiện tại, và trong tình hình hiện nay, mặc dù việc dạy sử và viết sử đã được đầu tư khá nhiều, nhưng mức kiến thức chung về lịch sử của xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp. Trong khi đó, các dân tộc Hồi giáo, cũng giống như mọi người khác trên thế giới, đều được lịch sử nhào nặn, nhưng không như những người khác, họ lại có ý thức sắc sảo về lịch sử. Tuy nhiên, ý thức của họ bắt nguồn từ lúc đạo Hồi mới khởi phát, có lẽ có chút ít liên quan đến các thời kỳ trước Hồi giáo, cần thiết để giải thích những ẩn dụ lịch sử trong kinh Qu’ran và trong các truyền thuyết và biên niên Hồi giáo sơ kỳ. Đối với người Hồi giáo, thì lịch sử Hồi giáo có ý nghĩa quan trọng về mặt tôn giáo và về luật pháp nữa, bởi vì nó phản ánh ý đồ của Thượng đế cho cộng đồng của Người − là những ai chấp nhận lời giáo huấn Hồi giáo và tuân thủ các luật lệ của đạo này. Lịch sử của các nước và các dân tộc không phải − Hồi giáo không có nội dung này và vì thế đối với người Hồi giáo, không hề có chút giá trị hoặc điều gì đáng chú ý gì cả. Ngay cả đến các quốc gia có những nền văn minh cổ đại giống như thế tại vùng Trung Đông, sự hiểu biết về lịch sử của kẻ khác đạo (pagan history) − về tổ tiên của họ những người đã lưu truyền đền đài và chữ viết khắp nơi − cũng chỉ là phần rất nhỏ. Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại đều bị quên lãng, các tài liệu cổ xưa bị chôn vùi cho tới khi chúng được các nhà khảo cổ và ngữ học phương Tây có óc tìm tòi phát
hiện và giải mã gần đây. Nhưng từ khi Hồi giáo xuất hiện, các dân tộc Hồi giáo đã hình thành một nền văn chương lịch sử phong phú và dồi dào − thật vậy, tại nhiều nơi, ngay cả tại các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ấn Độ, thì những trang lịch sử nghiêm túc chỉ ra đời sau khi đạo Hồi du nhập. 
Nhưng lịch sử về cái gì? Trong thế giới phương Tây, đơn vị cơ bản của một tổ chức con người là quốc gia (nation), mà theo thông lệ ở Mỹ chứ không phải theo châu Âu, thì hầu như đồng nghĩa với một đất nước (country). Quốc gia sau đó được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu, trong đó có kiểu chia nhỏ theo tôn giáo. Tuy nhiên, theo tín đồ Hồi giáo, lại cho rằng không phải từ một quốc gia chia nhỏ ra theo từng nhóm tôn giáo mà chính là một tôn giáo chia nhỏ ra thành nhiều quốc gia. Điều này hiển nhiên một phần là do phần lớn các quốc gia-nhà nước (nation-states) hình thành tại miền trung đông hiện nay là những nước được thành lập tương đối mới, dư vị của thời đại thống trị đế quốc Anh-Mỹ tiếp sau sự thất bại của đế quốc Ottoman, và những quốc gia-nhà nước này vẫn duy trì cái khung nhà nước (state building) và đường biên giới do những ông chủ đế quốc cũ vạch ra. Ngay cả tên gọi cũng phản ánh tính giả tạo này: Iraq là một tỉnh thời trung cổ với biên giới khác rất nhiều so với biên giới của nước cộng hòa hiện nay (bỏ đi vùng Lưỡng hà ở phía bắc và lấy thêm một mảnh đất nhỏ của miền tây Iran); tên các nước Syria, Palestine và Libya có từ cổ đại nhưng lại không được sử dụng tại vùng này trong một ngàn năm hay nhiều hơn nữa trước khi được đế quốc châu Âu vào thế kỷ 20 phục hồi và gán cho những đường biên giới mới và thường là khác hẳn, Algeria và Tunisia thậm chí chưa hề có trong ngôn ngữ Ả Rập − cùng một từ để chỉ một thành phố và một đất nước. Điều đáng chú ý nhất là trong ngôn ngữ Ả Rập không có từ để chỉ Arabia và đất nước Saudia Arabia được gọi là “vương quốc Ả Rập Saudi” hoặc “bán đảo của người Ả Rập” tùy theo tình huống. Thực ra không phải do tiếng Ả Rập là một ngôn ngữ nghèo nàn − mà ngược lại mới đúng − nhưng bởi vì người Ả Rập không hề nghĩ đến việc kết hợp giữa bản sắc dân tộc và lãnh thổ. Thật vậy, trích lời Caliph ‘Umar nói với người Ả Rập: “Hãy nghiên cứu dòng dõi của mình, và đừng có giống như mấy kẻ nông phu khi được hỏi đến nguồn gốc thì lại trả lời: ‘Tôi là người từ nơi này nơi nọ’”. 
Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi giáo, cộng đồng Hồi giáo là
một đất nước dưới quyền cai trị của một người. Ngay cả khi cộng đồng này tách ra làm nhiều nước, thì lý tưởng một thể chế nhà nước duy nhất vẫn tồn tại. Các nhà nước hầu như chỉ có tính triều đại, với biên giới có dịch chuyển, và nắm chắc một điều là, trong việc ghi chép lịch sử cực kỳ phong phú của thế giới Hồi giáo bằng tiếng Ả Rập, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, lịch sử của các triều đại, các thành phố chủ yếu chỉ là lịch sử của nhà nước và cộng đồng Hồi giáo chứ không hề là lịch sử của nước Ba Tư hay Thổ Nhĩ Kỳ. Những tên gọi này, không giống như Syria hoặc Palestine hoặc Iraq, dành cho những thực thể chính trị cũ hoàn toàn đã có độc lập chủ quyền nhiều thế kỷ chứ không phải là quốc gia mới thành lập. Nhưng mãi cho tới thời hiện đại, những tên gọi này không hề có trong tiếng Ả Rập, Ba Tư hay Thổ. 
Cái tên Thổ Nhĩ Kỳ, để chỉ một quốc gia có người Thổ sinh sống và nói một ngôn ngữ là tiếng Thổ, dường như phù hợp với kiểu thức châu Âu bình thường khi gọi tên một đất nước theo tên sắc dân. Nhưng cái tên này, thông dụng tại châu Âu từ thời trung cổ, chỉ mới được chấp nhận tại Thổ Nhĩ Kỳ khi tuyên cáo thành lập nước cộng hòa vào năm 1923. 
Ba Tư (Persia) vốn có gốc châu Âu, đầu tiên là do người Hy Lạp phỏng theo từ Pars, sau đó là Fars, là tên một tỉnh thuộc miền tây Iran. Sau khi bị người Ả Rập chinh phục, do tiếng Ả Rập không có chữ P nên mới trở thành Fars. Giống như tiếng Castillian trở thành tiếng Tây ban nha và tiếng Tuscan trở thành tiếng Ý, cho nên Fars, vốn là phương ngữ của Fars, trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia, nhưng trong tiếng Ba Tư, tên của một tỉnh không bao giờ được dùng chung cho cả một đất nước. 
Cả người Ả Rập lẫn người Thổ đều sản sinh ra một nền văn học phong phú mô tả những cố gắng của họ chống lại châu Âu Cơ Đốc, kể từ những đợt thâm nhập đầu tiên của người Ả Rập vào thế kỷ thứ 8 cho đến cuộc thoái trận cuối cùng của người Thổ vào thế kỷ 20. Nhưng cho tới giai đoạn cận đại, khi các khái niệm và phạm trù châu Âu trở nên nổi trội, thì các chiến binh, viên chức và sử gia Hồi giáo hầu như lúc nào cũng đề cập đến kẻ đối nghịch với mình không theo các thuật ngữ về quốc gia và lãnh thổ mà vỏn vẹn chỉ là những kẻ vô đạo (infidels = kafir), hoặc đôi khi bằng những từ mơ hồ như người Franks hoặc người Romans. Tương tự như thế, họ không bao
giờ gọi những người thuộc phe mình là người Ả Rập, người Ba Tư hoặc người Thổ; họ chỉ xem mình là người Hồi giáo. Viễn cảnh này giúp ta hiểu được vì sao Pakistan quan tâm đến Taliban và những người kế tục của phe này tại Afghanistan. Cái tên Pakistan, là một sáng chế của thế kỷ 20, để chỉ một đất nước được hình thành trên cơ sở tôn giáo và bổn phận đối với Hồi giáo. Còn về mặt khác, đất nước và con người Pakistan − như đã từng có hàng ngàn năm qua − là một phần của Ấn Độ. Một nước Afghanistan có bản sắc Hồi giáo sẽ là một đồng minh tự nhiên, thậm chí là một chư hầu, của Pakistan. Một Afghanistan dưới bản sắc chủng tộc, ngược lại, sẽ là một nước láng giềng nguy hiểm, sẽ nung nấu chủ trương đòi lại vùng đất nằm phía tây bắc Pakistan có nhóm người nói tiếng Pashto và có lẽ còn liên kết với Ấn Độ nữa. 
Việc tham khảo những tài liệu lịch sử sơ kỳ, thậm chí thời cổ đại là điều thường gặp trong các phát biểu trước công chúng. Lấy ví dụ, vào những năm 1980, trong chiến tranh Iran − Iraq, cả hai bên đều phát động những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ thường xuyên nhắc tới các biến cố và nhân vật xa xưa ở thế kỷ thứ 7, nhắc tới các trận đánh tại Qadisiyya (637 C.E.) và Karbala (689 C.E.). Trận Qadisiyya là do người Hồi giáo Ả Rập tấn công và đánh thắng quân đội của vua Ba Tư, lúc đó chưa theo Hồi giáo và như thế, dưới mắt người Hồi giáo vẫn là kẻ vô đạo và tà giáo. Cả hai bên đều cho mình là thắng trận − đối với Saddam Hussein, là người Ả Rập thắng người Ba Tư, còn với Ayatollah Khomeini, là người Hồi giáo thắng kẻ không tín ngưỡng. Việc đề cập đến các trận đánh không được mô tả hoặc kể ra chi tiết, nhưng chỉ là những lời bóng gió ngắn gọn, không đầy đủ, mà cả hai phe sử dụng để sao cho người nghe hai bên chộp lấy, hiểu lấy, dù rằng phần lớn những người nghe của cả hai phía đều mù chữ. Thật khó mà tưởng tượng rằng bộ máy tuyên truyền cho quần chúng ở châu Âu lại đưa ra những ẩn dụ có từ thời xa lắc xa lơ như thế, từ thời có chế độ thất hùng (heptarchy) cai trị tại nước Anh hoặc vua chúa dòng Carolingien tại Pháp. Cũng theo luận điệu ấy, Usama bin Ladin lăng mạ khi ví Tổng thống Bush với Pharaoh, và tố cáo Phó Tổng thống Cheney và Bộ trưởng Powell là đã gây nhiều tang tóc cho Iraq trong chiến tranh vùng vịnh năm 1991 và những năm sau đó còn nhiều hơn so với thời các Hãn Mông cổ chinh phục Baghdad và phá nát vương
triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13. Nhận thức về lịch sử của người dân Trung Đông được nuôi dưỡng từ những lời giảng kinh sách, từ nhà trường và từ các phương tiện truyền thông, và dù rằng những nhận thức này lắm khi thiên lệch và thiếu chính xác, nhưng lại đầy sinh động và gây cộng hưởng lớn. 
Vào ngày 23 tháng Hai năm 1998, tờ báo tiếng Ả Rập Al-Quds al-‘Arabi, xuất bản tại London, có in toàn văn “Tuyên bố của Mặt trận Hồi giáo thế giới kêu gọi thánh chiến chống lại bọn Do Thái và Thập tự chinh”. Theo như tờ báo cho biết, thì tuyên bố này được gởi đến bằng fax, có chữ ký của Usama bin Ladin và các nhà lãnh đạo các nhóm thánh chiến (Jihad) ở Ai Cập, Pakistan và Bangladesh. Bảng tuyên bố bằng tiếng Ả Rập − với lời văn hùng hồn, có chỗ giống như thơ − đưa ra một lối giải thích lịch sử khác mà đa số người châu Âu chưa gặp bao giờ. Những bất bình của bin Ladin được nêu trong tuyên bố không hề giống với những gì mà nhiều người mong đợi. Tuyên bố mở đầu bằng những đoạn văn trích dẫn sặc mùi hiếu chiến trong kinh Qur’an kèm theo những lời dạy của Tiên tri Muhammad, và tiếp đến là: “Kể từ khi Thượng đế dựng nên bán đảo Ả Rập, có sa mạc, có biển bao quanh, thì chưa hề có tai họa nào giáng xuống cho đến khi bọn Thập tự chinh ào đến như châu chấu, nhung nhúc trên mặt đất, ăn sạch hoa màu, phá hủy màu xanh; và đây là lúc mà các nước chống lại người Hồi giáo như bọn đói ăn xâu xé giành nhau một bát cơm”.
Từ điểm này tuyên bố kêu gọi cần phải hiểu rõ để chấn chỉnh tình hình. Theo tuyên bố này, các thực trạng mà ai cũng rõ được xếp theo ba đề mục: 
Một là − từ bảy năm qua, nước Mỹ đã xâm chiếm phần đất đai linh thiêng nhất của người Hồi giáo, đó là Arabia, đã tước đoạt của cải khống chế các nhà cầm quyền lăng nhục nhân dân, uy hiếp các nước láng giềng và sử dụng những căn cứ trên bán đảo Ả Rập làm đầu cầu để chống lại nhân dân Hồi giáo các nước lân cận. 
Mặc dù trong quá khứ đã có nhiều tranh cãi về bản chất thực sự của sự chiếm đóng này, nhưng toàn thể nhân dân Arabia giờ đây đều đã biết rõ. 
Bằng chứng hiển nhiên là nước Mỹ lấy Arabia làm căn cứ để tiếp tục xâm lược chống nhân dân Iraq, dù rằng các nhà lãnh đạo Arabia có phản đối nhưng đều bị khống chế để cho Mỹ sử dụng lãnh thổ của mình vào mục đích xâm lược. 
Hai là − mặc dù liên minh Thập tự chinh-Do Thái gây ra sự tàn phá to lớn cho người dân Iraq, và mặc dù con số người chết đã lên đến mức kinh hoàng vượt quá một triệu người, bọn Mỹ tuy thế vẫn còn cố lập lại hành động đồ tể đáng kinh sợ đó. Dường như đối với chúng sau một cuộc chiến khốc liệt, việc phong tỏa kéo dài, sự băm xé và hủy diệt vẫn còn chưa đủ. Bây giờ chúng lại tiến công để hủy diệt những gì còn sót lại của dân tộc này và để hạ nhục các nước Hồi giáo láng giềng. 
Ba là − Trong khi bọn Mỹ nhắm vào các mục đích tôn giáo và kinh tế trong các cuộc chiến này, bọn chúng cũng đồng thời phục vụ cho miếng đất cỏn con của bọn Do Thái, nhằm đánh lạc hướng việc chiếm đóng Jerusalem và giết chóc tín đồ Hồi giáo tại đó. 
Không có bằng chứng nào rõ hơn về vấn đề này là ý muốn tiêu diệt nước Iraq của bọn chúng, là nước mạnh nhất trong các nước láng giềng Ả Rập, và ý đồ của chúng là băm nát tất cả các quốc gia trong vùng như Iraq và Saudi Arabia, Ai Cập và Sudan thành các nước cỏn con, để làm suy yếu các nước này, để cho nước Israel tồn tại và tiếp tục giúp cho bọn Thập tự chinh chiếm đóng và gây ra nhiều tai họa trên bán đảo Ả Rập. 
Những tội ác này, bản tuyên bố tiếp tục, đã trở thành một lời “tuyên chiến rành rành của bọn Mỹ chống lại Thượng đế, chống lại Đấng Tiên Tri của người và tín đồ Hồi giáo. Về mặt này, ý kiến thống nhất của các bậc trí giả (ulema) qua bao thế kỷ là khi có kẻ thù tấn công đất đai của người Hồi giáo, thì thánh chiến là bổn phận của mỗi tín đồ. 
Những người ra tuyên cáo trích dẫn nhiều căn cứ trong kinh sách Hồi
giáo và sau đó đi đến phần chót và quan trọng nhất của tuyên bố, phần sắc lệnh (fatwa), tóm gọn như sau: “giết bọn Mỹ và đồng minh của chúng, dân sự và quân sự, là nhiệm vụ của mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe mạnh, ở mọi nơi mọi chốn, cho tới khi nào giải phóng được đền Aqsa [tại Jerusalem] và đền Haram [tại Mecca] ra khỏi ách kìm kẹp của chúng và cho tới khi quân đội của chúng bị đánh tơi tả và gảy cánh, rút lui khỏi mọi phần đất của người Hồi giáo, không còn đủ sức đe dọa bất cứ tín đồ nào”. 
Sau khi nêu thêm một vài đoạn có liên quan trong kinh Qur’an, tài liệu viết tiếp: “Được phép của Thượng đế, chúng tôi kêu gọi mọi tín đồ Hồi giáo những ai tin vào Thượng đế và mong được tưởng thưởng vì vâng lời Thượng đế đi giết bọn Mỹ và tước đoạt tài sản của chúng bất cứ khi nào nơi nào có thể làm được. Vì thế chúng tôi kêu gọi mọi thầy cả ulema và các nhà lãnh đạo Hồi giáo, các thanh niên và chiến sĩ nhất tề tấn công chống lại quân đội của bọn quỷ Mỹ và chống lại những ai là đồng minh của chúng trong hàng ngũ của bọn tiếp tay cho quỷ Satan”. Tuyên bố và sắc chỉ kết thúc bằng một số lời trích trong kinh sách Hồi giáo. 
Theo nhận thức thông thường của phương Tây, chiến tranh vùng vịnh năm 1991, là do Mỹ, liên minh Ả Rập và các đồng minh khác phát động để giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của Iraq và nhằm bảo vệ Saudi Arabia chống lại sự tiến công của Iraq. Cho rằng cuộc chiến này là một sự tiến công của Mỹ chống lại Iraq xem ra có vẻ hơi kỳ cục nhưng viễn cảnh này được thế giới Hồi giáo chấp nhận rộng rãi. Khi vụ việc Saddam Hussein tấn công Kuwait đi vào quên lãng, thì người ta lại quan tâm đến việc Iraq bị cấm vận, máy bay của Anh và Mỹ từ các căn cứ ở Arabia tuần tra không phận Iraq, nỗi thống khổ của nhân dân Iraq và sự thiên vị của Mỹ đối với Israel được cảm nhận càng ngày càng tăng. 
Ba khu vực gây bất bình được nêu trong tuyên bố − đó là Arabia, Iraq và Israel − tất cả đều quen thuộc đối với những ai quan sát tình hình vùng Trung Đông. Cái có lẽ ít quen thuộc là trình tự và tầm quan trọng khi trình bày ba khu vực này. Điều này sẽ không gây ngạc nhiên cho bất cứ ai thông thạo lịch sử và văn học Hồi giáo. Đối với người Hồi giáo, do chúng ta ở phương Tây thường hay quên, đất thánh đúng nghĩa là ở Arabia và đặc biệt
là Hijaz và hai thành phố thánh − Mecca, nơi Đấng Tiên Tri chào đời, và Medina, nơi ngài thiết lập đất nước Hồi giáo đầu tiên; đất nước mà dân chúng là người đầu tiên tập hợp quanh một đức tin mới và là những người tiên phong. Đấng Tiên Tri sống và tạ thế tại Arabia cũng như những người kế nhiệm trực tiếp, là các Caliph, những người đứng đầu của cộng đồng. Tiếp sau đó, trừ một thời gian ngắn ở Syria, trung tâm thế giới Hồi giáo và nơi đạt được những thành tựu chính của Hồi giáo là Iraq, có thủ đô là Baghdad, là nơi các Caliph đóng đô trong nửa thiên niên kỷ. Đối với người Hồi giáo, không có mảnh đất nào một khi đã nhập vào cương vực Hồi giáo lại vuột ra được, cũng như không có nơi nào có thể sánh được với Arabia và Iraq. 
Và trong hai địa danh đó, Arabia có tầm quan trọng vượt xa hơn nhiều. Các sử gia Ả Rập kinh điển cho ta biết rằng vào năm 20 kỷ Hồi giáo, tương ứng với năm 641 CE., Caliph ‘Umar ra sắc lệnh đuổi người Do Thái và Cơ Đốc ra khỏi các vùng biên phía nam và phía đông của Arabia, theo đúng huấn thị của Đấng Tiên Tri thốt ra khi lâm chung: “hai đạo đó không được có mặt tại Arabia”. 
Dân tộc đang đề cập là những người Do Thái tại ốc đảo Khaybar, ở phía bắc và người Cơ Đốc Najran, ở phía nam. Cả hai đều là những cộng đồng đã có mặt ở đây từ xa xưa, tiếng nói, văn hóa và cách sống đều rặc Ả Rập, chỉ khác với người láng giềng ở phần đức tin. 
Một số kinh sách Hồi giáo sơ kỳ đặt nghi vấn về việc gán ghép câu nói này cho Đấng Tiên Tri. Nhưng nó được nhiều người chấp nhận và thực hiện. Việc trục xuất các nhóm thiểu số tôn giáo là việc cực kỳ hiếm trong lịch sử Hồi giáo − không giống như đạo Cơ Đốc thời trung cổ, việc trục xuất người Do Thái, và sau thời kỳ Tái chinh phục, là người Hồi giáo, là việc bình thường và thường xuyên. So với việc trục xuất ở châu Âu, thì sắc lệnh của ‘Umar vừa có tính chừng mực và còn có chút trắc ẩn. Sắc lệnh này không bao gồm miền nam và đông nam bán đảo Ả Rập, vốn không được coi là nằm trong vùng đất thánh Hồi giáo. Và không giống như người Do Thái và tín đồ Hồi giáo khi bị đuổi khỏi đất Tây ban nha và những quốc gia châu Âu khác, hễ tìm được chỗ nào trụ được thì cứ ở; người Do Thái và Cơ Đốc tại bán đảo
Ả Rập được tái định cư tại những vùng đất dành riêng cho họ, dân Do Thái ở Syria và Palestine, dân Cơ Đốc tại Iraq. Tiến trình này cũng khá chậm rãi, không hề gấp gáp, và có những tờ trình cho biết dân Do Thái và Cơ Đốc vẫn còn ở lại Khaybar và Najrab một thời gian sau khi sắc lệnh ban hành. 
Việc trục xuất được tiến hành đúng hạn, và từ đó cho đến nay, đất thánh Hijaz là vùng đất cấm đối với dân không theo Hồi giáo. Theo trường phái giáo luật Hồi giáo được nhà nước Ả Rập Saudi và Usama bin Ladin cùng phe đảng công nhận, thì ngay cả việc đặt chân lên đất thánh đối với người không theo Hồi giáo là một sự vi phạm nặng. Tại những nơi còn lại trong vương quốc, người không theo Hồi giáo, tuy được phép đến như du khách tạm thời, cũng không được phép thường trú hoặc thực hành tôn giáo của mình. Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu được coi như là một vùng cô lập về mặt tôn giáo, tại đây các phái đoàn ngoại giao, lãnh sự và thương mại chỉ được phép lưu trú ngắn hạn. 
Từ 1930 trở đi, dầu mỏ được phát hiện và khai thác và tiếp đến là sự phát triển của Riyadh, thủ đô Saudi, từ một ốc đảo nhỏ trở thành một thủ phủ lớn, đã mang lại nhiều thay đổi, người nước ngoài ồ ạt tràn đến, chủ yếu là người Mỹ, đã tác động lên mọi mặt của cuộc sống tại vùng bán đảo này. Sự hiện diện của người nước ngoài, vẫn bị nhiều người coi như là một sự báng bổ thần thánh, góp phần giải thích thái độ bực tức ngày càng dâng cao ở đây. 
Bán đảo Ả Rập chỉ bị Thập tự chinh đe dọa một thời gian ngắn vào thế kỷ thứ 12. Sau khi Thập tự chinh bị thua trận và bỏ chạy, mối đe dọa về kẻ vô đạo được cảm nhận kế tiếp đối với Arabia bắt đầu vào thế kỷ thứ 18 khi quyền lực châu Âu được củng cố tại vùng nam Á và sự xuất hiện của các chiến thuyền châu Âu, đúng ra là của dân Cơ Đốc, ở ngoài khơi các bờ biển Ả Rập. Cái ý thức bị lăng nhục ít nhất cũng là một trong những yếu tố của cuộc trổi dậy tôn giáo bùng lên tại Arabia do phong trào Wahhabi, được dòng họ Saud, những người khai lập ra nhà nước Saudi ủng hộ. Trong suốt thời gian chịu ảnh hưởng Anh–Pháp và sau đó là sự thống trị tại vùng Trung Đông vào thế kỷ 19 và 20, các thế lực đế quốc đã cai trị Ai Cập, Sudan, Iraq, Syria và Palestine. Các cường quốc tuy chỉ mới đã gặm những phần đất ngoài rìa bán đảo Ả Rập, tại Aden và vịnh Ba Tư, nhưng cũng đủ để đặt căn
cứ quân sự và can thiệp chính trị tối thiểu vào tình hình nội bộ của vùng này. 
Khi nào mà sự can thiệp của ngoại bang chỉ khu trú về mặt kinh tế, và cũng chỉ khi nào mà những đền bù vật chất thừa thải, xoa dịu được những nổi bất bình, thì tín đồ Hồi giáo mới chịu đựng được sự hiện diện của những người không cùng tôn giáo. Nhưng trong những năm gần đây, các điều kiện cam kết đã thay đổi. Khi giá dầu giảm và dân số tăng, chi tiêu tăng, phần bù đắp (rewards) không còn đầy đủ, thì những mối bất bình ngày càng trở nên nổi trội hơn, ồn ào hơn. Và nước ngoài không chỉ nhúng tay vào các hoạt động kinh tế. Cách mạng tại Iran, các tham vọng của Saddam Hussein, và tất cả các vấn đề tại khu vực càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, nhất là cuộc xung đột Israel-Palestine, đã làm cho nước ngoài can thiệp sâu hơn về mặt chính trị và quân sự, và như thế những tiếng kêu gào “chủ nghĩa đế quốc” càng được nhiều người nghe cho là có lý hơn. Khi có vấn đề liên quan đến đất thánh, dân Hồi giáo có khuynh hướng nhìn cuộc chiến, và đôi khi với cả kẻ thù nữa, dưới khía cạnh tôn giáo và cho rằng quân đội Mỹ chỉ là quân vô đạo và xâm lăng khi được gởi tới để giải phóng Kuwait và bảo vệ Saudi Arabia khỏi bị Saddam Hussein tấn công. Nhận thức này càng rõ hơn khi nước Mỹ là nước đầu tiên rành rành trong số các cường quốc thuộc thế giới vô đạo. 
Đối với đa số người Mỹ, tuyên bố của bin Ladin là một sự đùa cợt, một sự bóp méo trắng trợn về bản chất và mục đích sự hiện diện của Mỹ tại bán đảo Ả Rập. Họ cũng nên biết là đối với nhiều người, có lẽ là đa số dân Hồi giáo, tuyên bố này cũng là một sự đùa cợt trắng trợn về bản chất của Hồi giáo, ngay cả đối với học thuyết về thánh chiến Jihad. Kinh Qur’an đề cập đến chiến tranh cũng như hòa bình. Trong số hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời dạy ít nhiều được gán cho Đấng Tiên Tri và được diễn giải đôi khi theo rất nhiều cách, dẫn tới nhiều chỉ dạy khác nhau, trong số đó sự diễn giải tôn giáo dưới khía cạnh bạo lực và vũ lực chỉ là một. 
Trong lúc đó, có một số đáng kể các tín đồ Hồi giáo sẵn sàng đồng ý, và một số ít đem ra áp dụng, cách thể hiện tôn giáo của họ theo kiểu này. Chủ nghĩa khủng bố chỉ cần đến một số ít người. Hiển nhiên là phương Tây phải tự vệ bằng bất cứ phương tiện nào có được. Nhưng trong khi nghĩ ra cách để
chốnglạibọnkhủngbố,rõrànglàcũngcầnhiểurõđộnglựcnàođãthúc đẩychúng.
1 
ĐỊNH NGHĨA HỒI GIÁO 
Khó mà khái quát hóa về Hồi giáo. Trước hết, bản thân của từ này thường được sử dụng với hai nghĩa khác nhau nhưng lại liên quan với nhau, tương đương với đạo Cơ Đốc (Christianity) và thế giới Cơ Đốc (Christendom). Một nghĩa để biểu thị một tôn giáo, một hệ thống niềm tin và thờ phượng; một nghĩa khác, đó là một nền văn minh được sản sinh và nẩy nở dưới sự bảo trợ của tôn giáo đó. Bản thân từ Hồi giáo (Islam) đã là một lịch sử trên 14 thế kỷ, với một tỷ 300 triệu tín đồ và một truyền thống tôn giáo và văn hóa cực kỳ đa dạng. Đạo Cơ Đốc và thế giới Cơ Đốc đại diện cho một thời kỳ dài hơn và giáo đồ lớn hơn − trên hai tỉ tín đồ, trên 20 thế kỷ và tính đa dạng thậm chí còn lớn hơn. Tuy nhiên, một số khái quát hóa có thể đưa ra và đã được đưa ra về cái gọi là nền văn minh Cơ Đốc, Do Thái– Cơ Đốc, hậu Cơ Đốc và − đơn giản hơn − phương Tây. Trong khi việc khái quát hóa nền văn minh Hồi giáo có thể khó khăn hơn và có lúc nguy hiểm, nhưng lại là việc không thể không làm và lắm khi cũng có phần hữu dụng. 
Về mặt không gian, cương vực Hồi giáo trải dài từ Morocco tới Indonesia, từ Kazakhstan đến Senegal. Về mặt thời gian, đạo này đã có hơn 14 thế kỷ, tính từ lúc Đấng Tiên Tri bắt đầu giảng đạo tại bán đảo Ả Rập vào thế kỷ thứ 7 và ngài đã chủ trì dựng ra một cộng đồng và một đất nước Hồi giáo. Trong giai đoạn mà các sử gia châu Âu gọi là thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn của nền văn minh cổ đại − Hy lạp và La mã − và sự trổi dậy của văn minh cận đại − châu Âu, thì Hồi giáo là một nền văn minh chủ đạo trên thế giới, được đánh dấu bởi các vương quốc to lớn và hùng mạnh, có nền kỹ nghệ và thương mại phong phú và đa dạng, nền khoa học và văn chương độc đáo và sáng tạo. Hồi giáo, vượt xa hơn Cơ Đốc giáo nhiều mặt, là giai đoạn trung gian giữa Đông phương cổ đại và Tây phương cận đại trong đó có phần đóng góp đáng kể của tôn giáo này. Tuy nhiên trong ba thế kỷ vừa qua, thế giới Hồi giáo đã đánh mất thế thống trị và vai trò lãnh đạo, và đã tụt hậu
sau cả phương Tây hiện đại lẫn phương Đông cách tân một cách nhanh chóng. Cái hố ngăn cách ngày càng rộng này đã đặt ra những vấn đề cấp bách, cả về mặt thực tiễn lẫn tình cảm, mà cho tới nay các nhà lãnh đạo, nhà tư tưởng và kẻ nổi loạn của Hồi giáo vẫn chưa tìm ra được câu trả lời phù hợp. 
Với tính cách là một tôn giáo, Hồi giáo về mọi mặt đều rất gần gũi với truyền thống Do Thái-Cơ Đốc hơn bất cứ tôn giáo lớn nào tại châu Á như đạo Hindu, đạo Phật hoặc đạo Khổng. Đạo Do Thái và đạo Hồi có chung một niềm tin về một quy luật thần thánh chi phối mọi mặt của sinh hoạt con người, bao gồm cả đồ ăn thức uống. Tín đồ đạo Cơ Đốc và đạo Hồi đều có chung tinh thần hiếu thắng (triumphalism). Ngược lại với các tôn giáo khác của nhân loại, kể cả đạo Do Thái, hai tôn giáo trên tin rằng chỉ có họ là những người may mắn tiếp thu và gìn giữ thông điệp cuối cùng của Thượng đế đối với con người, và họ có nhiệm vụ truyền lại cho phần còn lại của thế giới. So sánh với những tôn giáo xa hơn ở phương Đông, tất cả ba tôn giáo ở vùng Cận đông − đạo Do Thái, đạo Cơ Đốc và đạo Hồi − đều có liên hệ chặt chẽ với nhau và đúng ra chỉ là các biến thể của cùng một truyền thống tôn giáo. 
Thế giới Cơ Đốc (Christendom) và Hồi giáo về nhiều mặt là những nền văn minh anh em, cả hai đều bắt nguồn từ di sản chung về sự mặc khải và tiên tri của người Do Thái và khoa học, triết học của người Hy lạp, và cả hai đều được nuôi dưỡng bởi các truyền thống xa xưa của vùng Trung Đông cổ đại. Trong phần lớn lịch sử chung của họ, họ đã từng sát phạt nhau, nhưng ngay cả trong chiến đấu và tranh luận, họ đều có những nét giống nhau cơ bản và những đặc trưng chung đã nối kết họ với nhau, và làm cho họ xa cách với những nền văn minh xa xôi hơn ở châu Á. 
Nhưng dù có những nét tương đồng, vẫn có những cách biệt sâu sắc giữa hai tôn giáo này, đưa tới những khác biệt hiển nhiên về giáo lý và cách thờ phượng. Không có nơi nào mà những sự khác biệt trở nên sâu sắc − và hiển nhiên − hơn là ở thái độ của hai tôn giáo này, và ở các điểm dẫn giải có thẩm quyền, đối với các mối quan hệ giữa nhà nước, tôn giáo và xã hội. Người sáng lập ra đạo Cơ Đốc truyền dạy cho các tông đồ “hãy trả cho Caesar
những gì của Caesar, và trả cho Chúa những gì của Chúa” (Matt. XXII: 20) − và trong nhiều thế kỷ, đạo Cơ Đốc đã ra đời và lớn mạnh như là một tôn giáo của những con người bị áp bức, cho tới khi hoàng đế Constantine cải giáo, thì chính Hoàng đế La mã (Caesar) mới trở thành một người Cơ Đốc và đưa ra một loạt những thay đổi đưa đế quốc La mã theo một tín ngưỡng mới và làm chuyển đổi thế giới. Người sáng lập đạo Hồi chính là vua, đã sáng lập ra nhà nước và đế quốc cho chính mình. Như thế Ngài không tạo ra − hoặc cần phải tạo ra − một giáo hội. Sự phân tách giữa nhà nước (regnum) và giáo hội (sacerdotium), rất là quan trọng đối với đạo Cơ Đốc phương Tây, nhưng không hề có tương đương trong đạo Hồi. Khi Muhammad còn sống, đạo Hồi lập tức trở thành một cộng đồng chính trị và tôn giáo, với Đấng Tiên Tri là người đứng đầu nhà nước. Với vai trò này, Ngài cai quản một vùng lãnh thổ và một dân tộc, đứng ra xử kiện, thu thuế, chỉ huy quân đội, phát động chiến tranh và đem lại hòa bình. Đối với thế hệ khai sáng đầu tiên của người Hồi giáo, những người đã làm nên những cuộc phiêu lưu trong lịch sử thần thánh của Hồi giáo, không hề bị thử thách bằng sự ngược đãi, không có truyền thống chống đối thù nghịch của quyền lực nhà nước. Ngược lại, nhà nước cai trị họ là một nhà nước Hồi giáo, và Thượng đế chuẩn y chính nghĩa của họ qua việc ban cho họ sự chiến thắng và một đế quốc dưới cỏi thế gian trần tục này. 
Vào thời La mã dị giáo, Caesar là Chúa. Đối với người Cơ Đốc, có sự lựa chọn giữa Thượng đế và Caesar, và có biết bao thế hệ người Cơ Đốc đã bị trói buộc vào sự lựa chọn này. Với Hồi giáo, không hề có sự lựa chọn đau đớn đó. Theo cái tổ chức xã hội phổ quát dưới mắt người Hồi giáo, không hề có Caesar nào cả mà chỉ có một Thượng đế là đấng cai trị duy nhất và đưa ra luật lệ duy nhất. Muhammad là Tiên tri của Thượng đế, khi còn sống là người giảng đạo và cai trị dưới danh Thượng đế. Khi Muhammad chết vào năm 632 CN, ngài đã hoàn thành sứ mạng tiên tri và tinh thần là đưa Thiên kinh Qur’an đến với loài người. Phần còn lại là sứ mạng tôn giáo nhằm quảng bá sự mặc khải của Thượng đế cho đến khi toàn thế giới hết thảy đều chấp nhận đạo Hồi. Có được điều này thì phải mở rộng thẩm quyền và gia tăng số lượng tín đồ trong cộng đồng là những người gìn giữ một tín ngưỡng chân chính và tuân thủ luật của Thượng đế. Nhằm tạo ra một sự gắn bó và
lãnh đạo cần thiết, cần phải có một người kế nghiệp cho Đấng Tiên Tri. Theo tiếng Ả Rập, Khalifa là tước hiệu dành cho Abu Bakr, là cha vợ của Tiên tri, là người kế tục đầu tiên, đứng lên nắm lấy vai trò người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo đã tạo ra được nền móng cho một định chế Caliphate to lớn trong lịch sử. 
Dưới sự lãnh đạo của Caliph, cộng đồng Hồi giáo tại Medina, nơi mà Đấng Tiên Tri thống trị, chỉ trong vòng một thế kỷ đã lớn mạnh thành một đế quốc rộng lớn, và Hồi giáo đã trở thành một tôn giáo thế giới. Theo trải nghiệm của những tín đồ Hồi giáo đầu tiên, đã được ghi chép và lưu truyền cho các thế hệ sau, thì chân lý tôn giáo và quyền lực chính trị có liên quan không thể tách rời được: cái trước biện hộ cho cái sau, cái sau làm cho cái trước bền vững. Ayatolla Khomeini có lần đã đưa ra ý kiến “Hồi giáo là chính trị hoặc không là gì hết”. Không phải mọi tín đồ Hồi giáo đều cực đoan đến thế, nhưng đa số đều nhất trí rằng Thượng đế có tham gia vào chính trị, và niềm tin này được luật Shari’a xác nhận và duy trì, cho rằng Luật Hồi giáo liên quan rất nhiều đến tính hợp pháp và thẩm quyền, các nghĩa vụ của người cai trị và thần dân, nói vắn tắt, đó là những điều mà phương Tây gọi là luật hiến pháp và triết lý chính trị. 
Mối liên hệ lâu đời qua lại giữa đạo Hồi và đạo Cơ Đốc và chính những sự tương đồng và những ảnh hưởng qua lại giữa hai tôn giáo đôi khi làm cho các nhà quan sát bỏ qua những dị biệt quan trọng. Mọi người cho rằng, Qur’an là kinh thánh của Hồi giáo, đền thờ là nhà thờ Hồi giáo, và ulema là tăng sĩ Hồi giáo. Ba điều này đều đúng, nhưng lại là những điều sai lệch nghiêm trọng. Cựu ước và Tân ước gồm có nhiều quyển khác nhau, trải qua một thời gian dài và được các tín đồ coi là sự thể hiện sự mặc khải của các thánh. Còn Qur’an, đối với người đạo Hồi, là một quyển kinh duy nhất được một người là Tiên tri Muhammad đưa ra trong đời ngài. Sau những cuộc tranh luận rộng rãi vào những thế kỷ đầu tiên của Hồi giáo, học thuyết được chấp nhận là Kinh Qur’an tự nó không hề được ai viết ra, có tính vĩnh viễn, thần thánh và bất di bất dịch. Điều này đã trở thành một giáo lý trung tâm của tín ngưỡng. 
Đền thờ Mosque quả thật là một giáo đường Hồi giáo theo nghĩa là một
chỗ để thờ phụng chung cho cộng đồng. Nhưng ta không thể nói đến Mosque như một nhà thờ Cơ Đốc được − như là một định chế có ngôi thứ và luật lệ riêng, đối nghịch với nhà nước. Còn ulema (tại Iran và những nước Hồi giáo chịu ảnh hưởng văn hóa Ba tư thì gọi là mollah) có thể coi như là những chức sắc tôn giáo theo nghĩa xã hội học, tức là những người làm tôn giáo chuyên nghiệp được chứng nhận đã qua đào tạo. Nhưng trong Hồi giáo lại không có giới tu sĩ − giữa Thượng đế và tín đồ không có tu sĩ làm trung gian, không có sự thụ phong, không ban phước, không có quy định là tu sĩ mới được hành lễ. Ta cũng có thể bổ sung là trong quá khứ, không hề có cộng đồng hoặc hội nghị tôn giáo, không có linh mục hoặc phán quan để buộc mọi người phải theo giáo lý chính thống. Nhưng tại Iran, những điều này không hoàn toàn đúng như vậy. 
Chức năng chính của ulema − theo tiếng Ả Rập có nghĩa là kiến thức − là người gìn giữ và diễn giải Luật thánh. Vào cuối thời trung cổ, xuất hiện một hình thức giống như giáo khu, để chăm sóc các nhu cầu của thường dân tại các đô thị và làng mạc, nhưng những tổ chức này có tính thần bí hơn là theo đúng giáo lý Hồi giáo nên thường tách rời và các ulema cũng không mấy thích thú. Tại các vương triều Hồi giáo sau này, như Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, một hình thức thứ bậc tu sĩ xuất hiện, nhưng lại không ăn nhập gì đến truyền thống Hồi giáo cổ điển, và các thành viên của những đẳng cấp tôn giáo này không hề, cho đến nay vẫn thế, đòi hỏi có được quyền lực của các giám mục Cơ Đốc. Vào thời cận đại, sau bao biến đổi, chủ yếu là do ảnh hưởng của phương Tây, đã hình thành các định chế và nghề nghiệp có nét hơi giống đáng ngờ với các giáo hội và tu sĩ của đạo Cơ Đốc. Nhưng đây là những điểm xa rời chứ không phải là quay về với đạo Hồi cổ điển. 
Nếu ta có thể nói một chút gì về chức sắc tôn giáo theo cái nghĩa hạn hẹp về xã hội học trong thế giới Hồi giáo, thì lại không hề có ý nghĩa gì nếu ta nói đến con người thế tục. Chính cái ý niệm về một cái gì đó tách rời hoặc thậm chí có thể phân tách được khỏi thẩm quyền tôn giáo, theo các ngôn ngữ Cơ Đốc thì những từ như không thuộc giáo hội, trần gian hoặc thế tục, quả là hoàn toàn xa lạ với tư tưởng và thực hành đạo Hồi. Chỉ mới đến thời cận đại tương đối gần đây mới có những chữ tương đương trong tiếng Ả Rập. Đó là những từ do những người Cơ Đốc nói tiếng Ả Rập vay mượn hoặc đặt
mới. 
Thuở sinh thời Đấng Tiên Tri, xã hội Hồi giáo có hai bản chất. Một mặt, đó là một tổ chức nhà nước − mà vai trò thủ lãnh lần lượt đi từ một quốc gia đến một đế quốc. Đồng thời, mặt khác, đó là một cộng đồng tôn giáo, do Đấng Tiên Tri sáng lập, được các đại diện cũng là những người kế vị của Ngài cai trị. Jesus bị đóng đinh trên thập giá, Moses chết khi chưa đến được miền đất hứa; cho nên niềm tin cũng như thái độ của tín đồ các đạo Do Thái và Cơ Đốc vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu đậm khi nhớ lại những sự kiện đó. Muhammad đã chiến thắng trong đời của Người, và khi chết là một người chiến thắng và một quân vương. Lịch sử về tôn giáo của họ sau này có thể khẳng định cho các thái độ xuất phát từ đó của người đạo Hồi. Tại Tây Âu, những kẻ xâm lược là bán khai nhưng dễ dạy khi tiếp xúc với một nhà nước và một tôn giáo có sẵn, như đế quốc La mã và Giáo hội Cơ Đốc. Kẻ xâm lược chấp nhận cả hai, và cố gắng phục vụ các nhu cầu và mục đích của họ trong khuôn khổ hiện có của thể chế xã hội La mã và Giáo hội Cơ Đốc có sẵn, cả hai đều sử dụng tiếng Latin. Người Hồi giáo Ả Rập khi xâm lược vùng Trung Đông và Bắc Phi đã mang theo tín ngưỡng, chữ viết riêng của họ bằng chính ngôn ngữ của họ; họ tạo ra một xã hội có tổ chức riêng, có một bộ luật mới, một ngôn ngữ đế quốc mới và một cơ cấu đế quốc mới, với Caliph là người đứng đầu. Nhà nước và tổ chức xã hội này được Hồi giáo quy định và quyền tham gia đầy đủ chỉ dành cho những ai biểu lộ lòng tin nổi trội. 
Sự nghiệp của Đấng Tiên Tri Muhammad, về mặt này cũng như trên tất cả các mặt khác mà mọi tín đồ tốt phải noi theo, chia ra làm hai phần. Trong phần đầu, trong những năm tại quê hương, Mecca (?570-622), ngài là người đối đầu với chế độ tà giáo đầu sỏ. Trong phần hai, sau khi chuyển từ Mecca đến Medina (622-632), ngài là người đứng đầu nhà nước. Hai thời kỳ trong sự nghiệp của Đấng Tiên Tri, một là của sự phản kháng, một là của luật lệ, cả hai đều được phản ánh trong kinh Qur’an, từng chương một, tín đồ buộc phải tuân phục người đại diện cho Thượng đế, và không được nghe theo Pharaoh, tức là kẻ cai trị độc tài và bất chính. Hai khía cạnh này trong cuộc đời và sự nghiệp của Đấng Tiên Tri gợi nên hai truyền thống trong đạo Hồi, một là độc đoán và thanh tịnh, còn mặt kia là cấp tiến và hành động. Cả hai
mặt đều được phản ánh rộng rãi, một mặt là ở sự phát triển của truyền thống, mặt kia khi các biến cố xảy ra. Không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định ai là đại diện cho Thượng đế và ai là Pharaoh; đã có biết bao nhiêu sách được viết ra và nhiều trận chiến nổ ra nhằm làm rõ điều này. Vấn đề vẫn còn mãi mãi và cả hai truyền thống đều có thể thấy rất rõ trong những trận luận chiến và trong thời đại chúng ta vấn đề được giải quyết bằng vũ lực. 
Ở giữa hai thái cực là thanh tịnh và cấp tiến, phần lớn đều bày tỏ một thái độ thận trọng, thậm chí là ngờ vực đối với chính quyền. Một ví dụ là sự khác biệt sắc nét về thái độ của người dân vào thời trung cổ đối với qadi (quan tòa), và với mufti (cố vấn pháp lý).Theo Luật thánh, Qadi, do nhà vua bổ nhiệm, mà trong văn học và truyền thống dân gian là một khuôn mặt dễ mua chuộc, thậm chí còn lố bịch nữa; còn mufti, chỉ đến thời trung cổ Hồi giáo mới có, lại được các đồng nghiệp và nhân dân thừa nhận, là người được kính trọng và mến mộ. Một chủ đề truyền thống (topos) trong tiểu sử những con người ngoan đạo − mà chúng ta có đến hàng trăm ngàn người như thế − là một đấng anh hùng được nhà nước tặng cho chức tước nhưng lại từ chối. Ban tặng chức tước vì có học vấn và danh tiếng, còn từ chối là vì lòng chính trực. 
Vào thời đế chế Ottoman đã xảy ra một sự thay đổi quan trọng. Vị qadi chiếm được nhiều quyền lực, và ngay cả vị Mufti cũng bị lôi kéo vào hệ thống công quyền. Nhưng thái độ nghi ngờ xưa cũ đối với chính quyền vẫn còn, và lại thường được giải bày qua các châm ngôn, chuyện kể dân gian và ngay cả trong văn học nữa. 
Qua hơn một ngàn năm, đạo Hồi chỉ đưa ra một bộ luật và các nguyên tắc được nhiều người chấp nhận để quản lý đời sống xã hội và công cộng. Ngay cả trong thời kỳ ảnh hưởng châu Âu cực thịnh, tại các quốc gia được các cường quốc đế quốc châu Âu cai trị hoặc thống trị cũng như tại các nước vẫn còn độc lập, thì các khái niệm và thái độ chính trị Hồi giáo vẫn còn có ảnh hưởng sâu đậm. Trong những năm gần đây, có nhiều dấu hiệu cho thấy những khái niệm và thái độ này có thể phục hồi mạnh mẽ như xưa, dù hình thức có thay đổi. 
• • •
Chính trong lãnh vực chính trị − đối nội, trong vùng cũng như quốc tế − mà chính ta thấy sự khác biệt rõ rệt nhất giữa đạo Hồi và phần còn lại của thế giới. Các nhà lãnh đạo hoặc bộ trưởng ngoại giao của các nước Bắc Âu và Anh quốc, chưa bao giờ tụ tập tham dự các hội nghị thượng đỉnh Tin lành, hoặc chưa bao giờ người đứng đầu của Hy lạp, Nam tư, Bulgaria và Liên Xô, tạm thời bỏ qua những khác biệt chính trị và ý thức hệ, để tham gia các hội nghị thường xuyên dựa trên cơ sở là hiện nay hoặc trước kia đó là các nước theo Chính thống giáo. Tương tự như vậy, các nước theo đạo Phật tại Đông Á và Đông nam Á không lập ra một khối Phật giáo tại Liên hợp quốc hoặc trong các sinh hoạt chính trị khác của họ. Ý tưởng dựa vào một tôn giáo, trong thế giới hiện nay xem ra có vẻ lỗi thời và thậm chí còn vô lý nữa. Nhưng với đạo Hồi thì không hề lỗi thời và vô lý chút nào. Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh căng thẳng và sau đó, có hơn 50 chính phủ Hồi giáo − bao gồm các nước quân chủ và cộng hòa, bảo thủ và cấp tiến, theo chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, ủng hộ phương Tây, phương đông và cả một loạt các kiểu trung lập − đã dựng nên một bộ máy phức tạp dành cho việc tham khảo, và hợp tác nhiều mặt giữa các nước với nhau. 
Vào tháng Mười một năm 1969, một hội nghị thượng đỉnh Hồi giáo họp tại Rabat, Maroc, quyết định thành lập một cơ quan gọi là Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (Organization of Islamic Conference = OIC), với ban thư ký thường trực đóng tại Jedda, Saudi Arabia. Cơ quan này ra đời ngay, và phát triển nhanh trong thập niên 1970. OIC chú trọng nhiều đến việc giúp đỡ các nước Hồi giáo nghèo, hỗ trợ cho các nhóm thiểu số Hồi giáo tại các quốc gia không Hồi giáo và vị thế quốc tế của đạo Hồi và của tín đồ đạo Hồi − theo lời của một quan sát viên, là quyền con người theo Hồi giáo. 
Tổ chức này hiện nay có 57 thành viên, cộng với ba quan sát viên. Hai trong ba nước này là Albani và Thổ Nhĩ Kỳ, là những nước châu Âu hoặc thiết tha muốn thuộc về châu Âu (Bosnia chỉ được quy chế quan sát viên); hai nước khác, Surinam (gia nhập năm 1996) và Guyana (năm 1998), nằm ở tây bán cầu. Phần còn lại đều nằm ở châu Á và châu Phi, trừ một vài ngoại lệ, đều là những nước mới giành được độc lập vào cuối thế kỷ 20 từ các nước Tây Âu, hoặc gần đây hơn là từ Liên xô. Đa số đều là các nước có dân cư phần lớn theo đạo Hồi, mặc dù có một số ít nước được gia nhập vì sức
mạnh của thiểu số Hồi giáo. Bên cạnh những nước này, có một số thiểu số Hồi giáo quan trọng tại các quốc gia khác − một số cũng na ná như nhóm đa số, như tại Ấn Độ; một số thì về mặt chủng tộc và tôn giáo lại khác hẳn, như người Chechen và Tatar thuộc Liên bang Nga. Một số quốc gia như Trung Quốc, cũng có thiểu số Hồi giáo nằm trong hai tình huống trên. Hiện nay còn có nhiều nước có thiểu số Hồi giáo do di dân. 
Đã và đang có những hạn chế quan trọng về tính hữu hiệu của OIC với tính cách là một yếu tố trên trường chính trị quốc tế. Khi Liên xô xâm chiếm Afghanistan vào năm 1979, hành động xâm lược trắng trợn đối với một quốc gia Hồi giáo có chủ quyền, đã không tạo nên sự phản kháng nghiêm túc nào, thậm chí còn được một số thành viên bảo vệ nữa. Gần đây hơn, cơ quan này cũng không quan tâm mấy đến những cuộc nội chiến tại các nước thành viên như Sudan và Somalia. Thành tích của OIC đối với các vấn đề trong vùng cũng không có gì nổi bật. Từ năm 1980 đến 1988, hai nước Hồi giáo là Iran và Iraq, đã đánh nhau chí tử với tổn thất rất nặng nề cho cả hai bên. OIC chẳng hề làm gì để ngăn ngừa hoặc kết thúc cuộc chiến này. Nói chung, OIC, không giống như tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Thống nhất châu Phi, không hề quan tâm đến sự vi phạm nhân quyền và các vấn đề nội bộ của các nước thành viên, mối quan tâm về nhân quyền của OIC đối với các tín đồ đạo Hồi sống tại các nước không − Hồi giáo, trước hết là tại Palestine, cũng không nhiều. Tuy nhiên, không nên xem nhẹ tổ chức OIC. Các hoạt động văn hóa và xã hội của tổ chức này ngày càng trở nên quan trọng, và bộ máy giúp cho công tác tham khảo thường xuyên giữa các nước thành viên có thể đóng vai trò quan trọng hơn một khi chiến tranh lạnh cùng các tác động xâu xé của nó lùi vào quá khứ. 
Đi từ các vấn đề chính trị quốc tế và khu vực sang nội bộ, thì sự khác biệt giữa Hồi giáo và phần còn lại của thế giới, dù ít nổi bật hơn, nhưng vẫn khá quan trọng. Tại một số các quốc gia đang thực hiện dân chủ đa đảng, có những chính đảng theo chủ trương tôn giáo − đạo Cơ Đốc tại phương Tây, đạo Hindu tại Ấn Độ, đạo Phật tại phương Đông. Nhưng những đảng này tương đối không nhiều, và những đảng đóng vai trò chính lại còn ít hơn. Nhưng ngay cả đối với những đảng này, thì chủ đề tôn giáo thường không quan trọng mấy trong chương trình hành động của họ cũng như sức lôi cuốn
của chủ đề này đối với cử tri. Tuy nhiên tại nhiều nước, đúng ra là đa số, các nước Hồi giáo, tôn giáo vẫn là một yếu tố chính trị chính − các vấn đề đối nội còn quan trọng hơn quốc tế hoặc trong vùng. Tại sao có sự khác biệt này? 
Một câu trả lời rất rõ ràng; phần lớn các nước đạo Hồi vẫn còn mang ảnh hưởng Hồi giáo rất nặng, nếu xét theo nghĩa này thì đa số các nước đạo Cơ Đốc không còn mang tính Cơ Đốc nữa. Phải thừa nhận rằng, nhiều nước trong nhóm các nước này, niềm tin Cơ Đốc và giới tăng lữ duy trì niềm tin này vẫn còn là lực lượng có thế lực, và mặc dù vai trò của họ tuy không còn được như trong các thế kỷ trước, nhưng không hề giảm ý nghĩa. Nhưng hiện nay, không có quốc gia Cơ Đốc nào mà các nhà lãnh đạo tôn giáo lại trông chờ vào mức độ tin tưởng và tham gia vào tôn giáo như vẫn xảy ra bình thường tại các lãnh thổ đạo Hồi. Ít quốc gia Cơ Đốc nào, nếu có, lại coi tính thiêng liêng Cơ Đốc là điều cấm kỵ, không được đem ra bình phẩm hoặc thảo luận thấu đáo. Còn tại các nước đạo Hồi tính cấm kỵ này là đương nhiên ngay cả ở các xã hội thế tục và dân chủ về hình thức. Thực vậy, tính cấm kỵ theo đặc quyền này đã được mở rộng, trên thực tế, đến những quốc gia châu Âu nơi có các cộng đồng Hồi giáo đến sinh sống và nơi mà tín ngưỡng và thực hành đạo Hồi được hưởng một mức độ miễn trừ không bị phê phán mà đa số người Cơ Đốc đã đánh mất và người Do Thái chưa bao giờ có được. Điều quan trọng nhất là, với rất ít ngoại lệ, giới tăng lữ Cơ Đốc không hành xử hoặc thậm chí đòi phải có cái thẩm quyền công khai vẫn được coi là bình thường và được chấp nhận tại phần lớn các quốc gia Hồi giáo. 
Mức độ tin tưởng và thực hành tôn giáo cao hơn ở tín đồ đạo Hồi khi so sánh với những người theo tôn giáo khác chỉ giải thích một phần, chứ không phải là toàn thể, cái thái độ Hồi giáo độc đáo đối với chính trị bởi vì ta cũng có thể gặp thái độ này ở các cá nhân và thậm chí những nhóm người mà sự sốt sắng với niềm tin và thực hành tôn giáo chỉ có tính chiếu lệ. Hồi giáo không những chỉ là niềm tin và thực hành, mà còn là một bản sắc và sự trung thành − mà đối với nhiều người, không có gì vượt qua được bản sắc và sự trung thành.
Nhìn bề ngoài, thì việc du nhập các ý niệm phương Tây về lòng ái quốc và chủ nghĩa quốc gia đã thay đổi mọi thứ và đưa tới sự thành lập một loạt các nhà nước cận đại, đã mở rộng thế giới Hồi giáo từ Morocco tới Indonesia. Nhưng những cái lộ ra bề mặt không phải là tất cả. Kể ra hai ví dụ cũng đủ. Năm 1923, sau chiến tranh lần chót giữa Hy Lạp − Thổ, hai chính phủ đồng ý giải quyết các vấn đề về nhóm dân thiểu số bằng cách trao đổi cho nhau − người Hy Lạp được chuyển từ Thổ sang Hy Lạp, người Thổ từ Hy Lạp sang Thổ. Ít nhất thì đó cũng là những gì mà các sách lịch sử thuật lại. Nhưng thực tế lại có phần khác hẳn. Trong nghị định thư mà hai nước ký tại Lausanne năm 1923, chỉ nêu ra thỏa thuận trao đổi, không hề nói đến “người Hy Lạp” và “người Thổ”. Nghị định thư nêu rõ những người được trao đổi là “công dân Thổ theo đạo Chính thống Hy Lạp đang sống tại Thổ Nhĩ Kỳ” và “công dân Hy Lạp theo đạo Hồi đang sống tại Hy Lạp”. Như vậy nghị định thư chỉ thừa nhận có hai loại bản sắc − một là xác định theo công dân của một quốc gia, còn cái kia là tín đồ của một tôn giáo. Nghị định thư không hề nhắc đến tính chất dân tộc về mặt chủng tộc hoặc ngôn ngữ. Tính chính xác của tài liệu này nhằm nêu rõ ý đồ của các bên tham gia ký kết đã được xác định bằng việc trao đổi trên thực tế. Nhiều người trong số những người gọi là người Hy Lạp từ tỉnh Karaman thuộc vùng Anatolia (Thổ) nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Thổ nhưng viết theo mẫu tự Hy Lạp và theo đạo Chính thống. Nhiều người trong số những người tạm gọi là người Thổ sống tại Hy Lạp chỉ biết chút ít hoặc không biết tiếng Thổ và thường nói tiếng Hy Lạp − nhưng lại viết bằng mẫu tự Thổ − Ả Rập. Một quan sát viên Tây phương, quen theo hệ thống phân loại phương Tây, có thể kết luận rằng những gì mà các chính phủ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ thỏa thuận và đạt được không phải là sự trao đổi và hồi hương của các nhóm thiểu số Hy Lạp và Thổ mà đúng ra là vừa trục xuất và vừa lưu đày − người Hy Lạp Hồi giáo về Thổ Nhĩ Kỳ, và người Thổ Cơ Đốc về Hy Lạp. Cho đến mãi gần đây, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, cả hai đều là các nước dân chủ theo phương Tây, một nước đã là thành viên, nước kia đang làm đơn xin gia nhập Liên hiệp châu Âu (EU), đã nêu ra vấn đề tôn giáo trong các văn kiện nhà nước. 
Ví dụ thứ hai là Ai Cập. Có ít quốc gia nào đúng nghĩa hơn − một quốc gia được định nghĩa sắc nét với lịch sử và địa lý, có một lịch sử văn minh
liên tục từ 5000 năm trước đó. Nhưng Ai Cập lại có nhiều bản sắc, và trong 14 thế kỷ gần đây, tức là từ khi Hồi giáo Ả Rập chinh phục Ai Cập vào thế kỷ thứ 7 và sau đó bị Hồi giáo hóa và Ả Rập hóa đất nước này, thì bản sắc Ai Cập ít khi nào được nổi trội, nhường lại cái tự hào cho bản sắc văn hóa và ngôn ngữ Ả Rập và, trong phần lớn lịch sử của nước này, đã nhường chỗ cho bản sắc tôn giáo đạo Hồi. Với tính cách quốc gia, Ai Cập là một trong những quốc gia cổ xưa nhất trên thế giới. Còn Ai Cập là nhà nước-quốc gia − một sự sáng tạo cận đại, và vẫn còn phải đối đầu với nhiều thách thức từ trong nước. Hiện nay, thách thức lớn nhất tại Ai Cập cũng như tại một số nước Hồi giáo khác là do các nhóm Hồi giáo cấp tiến, thường được gọi sai lệch là nhóm “chính thống”. 
• • • 
Kể từ thời của Người khai đạo, và vì thế trong các kinh thánh, trong tâm trí và kí ức của người Hồi giáo, đạo Hồi dính liền với sự hành xử quyền lực chính trị và quân sự. Đạo Hồi kinh điển thừa nhận rạch ròi giữa những việc của thế giới này và những việc của thế giới sau, giữa những điều quan tâm sùng đạo và trần tục. Đạo Hồi không thừa nhận một thể chế riêng rẽ, có tôn ti trật tự và luật pháp riêng, để điều phối những vấn đề tôn giáo. 
Liệu điều này có nghĩa là Hồi giáo là một nền chính trị thần quyền? Theo chiều hướng Thượng đế được xem như là đấng cai trị tối cao, thì câu trả lời quả là đúng như thế. Theo chiều hướng một chính phủ cai trị bởi giới tăng lữ, thì hầu như chắc chắn là không phải. Sự xuất hiện của một hệ thống thứ bậc giới tăng lữ và việc nắm lấy quyền uy lớn nhất trong một nhà nước là một sự cải tiến hiện đại và là sự đóng góp độc đáo của cố giáo chủ Khomeini của Iran vào tư tưởng và thực hành Hồi giáo. 
Cuộc cách mạng Hồi giáo tại Iran, giống như các cuộc cách mạng Pháp và Nga ở nhiều mặt, đã tạo nên một tác động to lớn không những chỉ ở trong nước và đối với dân chúng nước đó mà còn đối với các quốc gia và dân tộc có chung một thế giới quan. Cũng giống như cách mạng Nga và Pháp vào thời điểm nổ ra, cách mạng Hồi giáo cũng khơi dậy biết bao hy vọng và nhiệt tình. Giống như những cuộc cách mạng đó, nó đã dùng đến khủng bố rồi chiến tranh can thiệp; cũng có các phái Jacobin và Bolshevik, quyết tâm
đè bẹp bất cứ dấu hiệu nào của chủ nghĩa thực dụng hoặc ôn hòa. Và cũng giống như các cuộc cách mạng trước, nhất là cách mạng Nga, cách mạng Hồi giáo có cả một hệ thống các điệp viên và đặc sứ bằng đủ các cách cố đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng hoặc ít nhất thì cũng củng cố cái chế độ được coi như là đại diện cho cuộc cách mạng đó. 
Từ cách mạng bị sử dụng sai nhiều tại vùng Trung Đông cận đại, được dùng cho − hoặc gán cho − nhiều biến cố mà đúng ra theo tiếng Pháp, đó là đảo chánh (tiếng Pháp coup d’état, tiếng Đức putsh, tiếng Tây ban nha pronunciamiento). Điều thú vị là, theo kinh nghiệm chính trị của những dân tộc nói tiếng Anh lại không có thuật ngữ tương đương. Biến cố đang xảy ra tại Iran không giống chút nào những điều đã đề cập nhưng theo nguồn gốc thì đó là một cuộc vận động thay đổi có tính thực sự cách mạng. Giống như những cách mạng trước, có nhiều lúc lại bị sai lệch quá đà, đưa tới chế độ chuyên chế trong nước, khủng bố và lật đổ ở nước ngoài. Không giống như nước Pháp và nước Nga cách mạng, nước Iran cách mạng không hề có các phương tiện, nguồn lực, và kĩ năng để trở thành cường quốc cũng như một mối đe dọa tầm cỡ thế giới. Mối đe dọa của cách mạng này chủ yếu và trước tiên chỉ nhằm tới tín đồ và đạo Hồi mà thôi. 
Làn sóng cách mạng trong Hồi giáo có nhiều thành phần. Một trong những thành phần này là cái cảm giác bị lăng nhục: cảm nghĩ của một cộng đồng dân tộc quen xem mình là những người gìn giữ duy nhất chân lý của Thượng đế, được Người giao cho nhiệm vụ mang chân lý này đến những kẻ vô đạo, đột nhiên lại thấy mình bị cai trị và bị bóc lột bởi những kẻ vô đạo đó và, ngay cả khi không còn bị cai trị, vẫn còn tiếp tục chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi những phương cách đã làm thay đổi cuộc sống của họ, đẩy họ vào những con đường khác xa rời Hồi giáo chân thực. Thêm vào tủi nhục là sự nản lòng khi đưa ra nhiều biện pháp sửa chữa − đa số đều nhập từ phương Tây về − để rồi lần lượt đều thất bại. 
Sau sự tủi nhục và nản lòng là một thành tố thứ ba, cần thiết cho sự nổi loạn − đó là sự tin tưởng và ý thức về quyền lực mới. Yếu tố này xuất hiện từ vụ khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, khi ủng hộ cuộc chiến của Ai Cập chống lại Israel, các nước Ả Rập sản xuất dầu mỏ sử dụng việc cung cấp dầu và
nâng giá dầu thành một vũ khí rất hiệu quả. Sự giàu có, hãnh diện và tự tin được củng cố thêm bởi một yếu tố mới − đó là sự khinh bỉ. Khi tiếp xúc gần gũi với châu Âu và Mỹ, các du khách đạo Hồi bắt đầu nhận xét và xem những gì họ thấy được như là sự suy đồi đạo đức và coi đó là sự yếu đuối của nền văn minh phương Tây. 
Trong một thời đại đầy rẩy những cung bậc cường điệu, các ý thức hệ chao đảo, lòng trung thành nhàm chán, và các định chế rệu rã, thì một ý thức hệ được diễn đạt bằng thuật ngữ đạo Hồi đã đưa ra được nhiều ưu điểm: là một cơ sở hết sức quen thuộc về bản sắc riêng của từng nhóm người, là tình đoàn kết và chỉ dành cho người trong nhóm; một cơ sở chấp nhận được về tính chính đáng và thẩm quyền; một cách phát biểu dễ hiểu ngay về các nguyên tắc phê bình của hiện tại và một chương trình hành động trong tương lai. Qua đó, Hồi giáo có thể đưa ra các biểu tượng và khẩu hiệu hữu hiệu nhất để huy động nhằm ủng hộ hay chống lại một sự nghiệp hoặc một chế độ. 
Các phong trào Hồi giáo cũng có một lợi thế cực kỳ khác không hề giống với tất cả các phong trào khác. Tại các đền thờ Mosque, họ đều xây dựng một hệ thống liên kết và thông tin mà ngay cả các chính phủ độc tài nhất cũng không thể nào kiểm soát hết được. Thật vậy, các nhà độc tài tàn bạo giúp sức cho họ, dù không cố ý, bằng cách loại trừ các nhóm đối lập cạnh tranh. 
Chủ nghĩa Hồi giáo cấp tiến (Radical Islamism), mà ta thường gọi là Hồi giáo chính thống (fundamentalism), thật ra không phải là một phong trào đồng nhất đơn độc. Có nhiều kiểu chính thống Hồi giáo tại nhiều nước khác nhau và đôi khi thậm chí chỉ trong cùng một nước. Một số được nhà nước bảo trợ − được chính phủ này hay chính phủ Hồi giáo khác công nhận, sử dụng và tích cực vận động vào các mục tiêu riêng của họ; một số là các phong trào quần chúng đích thực do nhân dân lập ra. Trong số các phong trào Hồi giáo do nhà nước bảo trợ lại có nhiều loại, cấp tiến và bảo thủ, có tính lật đổ và ngăn chặn (preemptive). Các phong trào bảo thủ và ngăn chặn là do các chính phủ đang cầm quyền xướng ra, nhằm để tự bảo vệ họ khỏi làn sóng cách mạng. Đó là các phong trào nhiều lần được các chính phủ Ai
Cập, Pakistan và nhất là Saudi Arabia khuyến khích. Còn loại kia, có tầm quan trọng hơn nhiều, từ cơ sở đi lên, có nền tảng bình dân thực sự. Phong trào đầu tiên trong loại này chiếm được quyền lực và thành công nhất trong sử dụng quyền lực là cách mạng Hồi giáo tại Iran. Các chế độ Hồi giáo cấp tiến hiện đang cầm quyền tại Sudan, và có lúc tại Afghanistan, và các phong trào Hồi giáo đang tạo ra các mối đe dọa chính cho cái trật tự từng bị lâm nguy ở những nước khác, nhất là Algeria và Ai Cập. 
Các nhóm Hồi giáo chính thống, không giống như các nhóm Tin lành (Protestant) − chính tên gọi chính thống vốn là của Tin lành, không đưa ra những khác biệt nào so với cái chung về các vấn đề thần học hoặc cách diễn giải kinh thánh. Phê phán của họ nằm ở chiều hướng rộng hơn, thuộc về xã hội. Theo cách nhìn của họ, thì thế giới Hồi giáo đã đi sai đường. Các nhà lãnh đạo của họ tự gọi mình là tín đồ đạo Hồi, giả vờ là người đạo Hồi, nhưng thực ra đó là những kẻ bỏ đạo đã chiếm đoạt đất Thánh và chấp nhận các luật lệ, phong tục của kẻ vô đạo xa lạ. Giải pháp duy nhất, theo họ, là quay về lối sống Hồi giáo đích thực, và vì thế việc loại bỏ các chính quyền phản đạo là bước cơ bản đầu tiên. Theo hướng này, thì các nhóm chính thống đều chống phương Tây bởi vì họ xem phương Tây như là nguồn gốc của tội lỗi đã làm xói mòn xã hội Hồi giáo, nhưng mũi tấn công đầu tiên của họ là nhắm vào các nhà lãnh đạo và cai trị của họ. Đó là các phong trào lật đổ vua Shah tại Iran năm 1979 và ám sát Tổng thống Sadat của Ai Cập hai năm sau đó. Cả hai phong trào đều được coi như là triệu chứng của một tai hoạ sâu xa hơn cần phải chữa trị bằng cách thanh trừng nội bộ. Tại Ai Cập, họ đã giết nhà cai trị nhưng không chiếm được nhà nước; tại Iran họ phá huỷ một chế độ rồi dựng nên một chế độ của chính họ. 
• • • 
Hồi giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới. Hồi giáo đã đem lại phẩm giá và ý nghĩa cho biết bao cuộc đời nghèo khó và buồn tẻ. Hồi giáo đã dạy nhiều người thuộc các chủng tộc khác nhau sống như huynh đệ và dạy các dân tộc có tín ngưỡng khác nhau cùng sống bên nhau khoan dung hợp lẽ. Hồi giáo là nguồn cảm hứng cho một nền văn minh lớn trong đó cùng với tín đồ Hồi giáo, những tín đồ tôn giáo khác đã cùng chia sẻ cuộc sống sáng tạo
và hữu ích và những thành tựu của nền văn minh này đã tạo sự phồn vinh cho toàn thế giới. Nhưng cũng giống như mọi tôn giáo khác, Hồi giáo đã trải qua những giai đoạn mà qua đó làm cho một số tín đồ chỉ nhìn thấy sự thù hận và bạo lực. Quả là chúng ta không may mắn khi phải đối đầu với một phần thế giới Hồi giáo đang trải qua một giai đoạn như thế và khi phần lớn − dù rằng không phải tất cả − của những sự thù hận đó lại hướng về phía chúng ta. 
Tại sao như vậy? Ta không nên thổi phồng tầm vóc vấn đề. Thế giới Hồi giáo không hề nhất trí về mặt từ bỏ phương Tây cũng như thái độ thù nghịch không chỉ có ở những khu vực Hồi giáo thuộc Thế giới thứ ba. Vẫn còn có một số đáng kể, trong một số khu vực lại là đa số, những tín đồ Hồi giáo cùng chia sẻ với chúng ta một số khát vọng và tín niệm cơ bản về văn hoá, đạo đức, chính trị và xã hội; vẫn còn sự hiện diện đáng kể của phương Tây − văn hoá, kinh tế, ngoại giao − tại các vùng đất Hồi giáo, trong số đó có một số là đồng minh của phương Tây. Nhưng cũng có một làn sóng thù hận khiến ta phải lo âu, hoảng hốt và nhất là làm rối trí người Mỹ. 
Thường thì sự căm ghét này vượt quá mức độ thù địch đối với một số quyền lợi hoặc hành động hoặc các chính sách hoặc thậm chí đối với các quốc gia và trở thành sự chối bỏ nền văn minh tây phương nói chung, cũng không nhiều hơn đối với mức hiện có, và đối với các nguyên tắc và giá trị mà nền văn minh này đang thực hiện và rao giảng. Những đặc trưng của nền văn minh phương Tây bị người Hồi giáo coi như là xấu xa từ cốt tuỷ, cho nên kẻ nào xiển dương hoặc chấp nhận đều bị coi như là “kẻ thù của thượng đế”. 
Nhóm từ này, vốn được các nhà lãnh đạo Iran tuyên bố lặp đi lặp lại thường xuyên, trong các biên bản toà án và cả trong các tuyên ngôn chính trị, đối với một người hiện đại ngoài cuộc phải nói là rất lạ lẫm, dù về mặt tôn giáo hay thế tục. Ý tưởng cho rằng Thượng đế có kẻ thù, và cần có sự giúp đỡ của con người để lật mặt và xử lý kẻ thù, quả là hơi khó nuốt. Tuy nhiên, điều này chẳng hề trái ngược chút nào. Cái quan niệm về kẻ thù của Thượng đế đều thường gặp ở thời cổ đại cổ điển và tiền cổ điển, có trong Cựu ước, Tân ước cũng như trong kinh Qur’an.
Theo Hồi giáo, thì cuộc chiến giữa thiện và ác, ngay từ đầu, được xét trên bình diện chính trị và cả quân sự nữa. Ta nhớ rằng, Muhammad không những chỉ là một nhà tiên tri và người giảng đạo giống như các đấng lập đạo, ngài cũng là một chiến sĩ và là nhà cai trị. Vì thế, cuộc chiến của ngài liên quan đến một nhà nước và lực lượng quân đội. Trong cuộc chiến bảo vệ Hồi giáo − thánh chiến “theo con đường của Thượng đế vạch ra” − nếu các chiến sĩ chiến đấu cho Thượng đế, thì đối phương là kẻ chống lại Thượng đế. Và do Thượng đế trên nguyên tắc là đấng cai trị, người đứng đầu tối cao của nhà nước Hồi giáo, cùng với Đấng Tiên Tri và sau Đấng Tiên Tri là Caliph, với vai trò phó vương, thế thì Thượng đế sẽ là người cầm đầu quân đội. Quân đội là quân đội của Thượng đế và kẻ thù là kẻ thù của Thượng đế. Nhiệm vụ của những người lính của Thượng đế là đưa kẻ thù của Thượng đế đến nơi để cho Người trừng trị càng nhanh càng tốt, tức là sau khi chết. 
Vấn đề cốt lõi làm bận tâm các nhà làm chính trị phương Tây hiện nay chỉ là thế này: Có phải Hồi giáo, dù là theo phái chính thống hoặc phái khác, là một đe dọa cho phương Tây? Đối với câu hỏi đơn giản này, có nhiều câu trả lời đơn giản, và do câu trả lời đơn giản, cho nên phần lớn đều lạc hướng. Theo ý kiến của một trường phái, thì sau khi Liên xô và phong trào cộng sản sụp đổ, Hồi giáo và chủ nghĩa chính thống Hồi giáo đã thay chỗ cho hai chủ thể kia với tính cách là một mối đe dọa cho phương Tây và lối sống phương Tây. Theo ý kiến của một trường phái khác, thì người Hồi giáo, kể cả những người theo chủ nghĩa chính thống cấp tiến, về cơ bản, đều là những người tử tế, yêu hòa bình, ngoan đạo, một số trong nhóm này đã bị những sự việc tồi tệ mà phương Tây đem đến cho họ, làm cho họ không thể chịu đựng được thêm. Chúng ta coi họ là kẻ thù bởi vì chúng ta cần có một kẻ thù về mặt tâm lý để thay thế cho Liên xô không còn tồn tại. 
Cả hai quan điểm đều có chứa sự thật; cả hai đều sai lầm cực kỳ nguy hiểm. Hồi giáo đúng ra không phải là kẻ thù của phương Tây, và ngày càng có nhiều người Hồi giáo ở nơi này nơi khác, không mong muốn gì khác hơn là có mối liên hệ gần gũi và thân thiện với phương Tây và xây dựng được những định chế dân chủ tại nước của họ. Nhưng cũng có một số đáng kể tín đồ đạo Hồi − nhiều nhưng không phải tất cả những người theo phái chính thống − có thái độ thù nghịch và nguy hiểm, không phải vì chúng ta cần có
một kẻ thù mà chính họ mới cần. 
Trong những năm gần đây, có một số thay đổi về mặt nhận thức, và tiếp đến là chiến thuật giữa các người Hồi giáo. Một số vẫn coi phương Tây nói chung và nước Mỹ đầu tiên hiện nay là kẻ thù cố cựu và không khoan nhượng của đạo Hồi, là trở ngại đáng gờm đối với việc phục hồi niềm tin và luật pháp của Thượng đế ở trong nước và chiến thắng cuối cùng của đạo Hồi trên toàn thế giới. Đối với nhóm này, không có con đường nào ngoài chiến tranh quyết tử, để hoàn thành những điều mà họ coi là mệnh lệnh của đức tin. Cũng có những người khác, vẫn là tín đồ tận tụy và cũng biết rõ về các khuyết tật của xã hội phương Tây hiện đại, tuy nhiên cũng thấy được những đóng góp của phương Tây − như tinh thần tìm tòi học hỏi là nguồn gốc của khoa học và kỹ thuật hiện đại; sự quan tâm về vấn đề tự do dẫn đến chính quyền dân chủ hiện đại. Những người này, trong khi vẫn giữ đức tin và văn hóa của mình, lại cùng chúng ta cố tìm cách đi đến một thế giới tự do và tươi sáng hơn. Lại cũng có những người, trong khi vẫn coi phương Tây là kẻ thù lớn nhất và là nơi sinh ra mọi điều xấu xa, tuy nhiên cũng ý thức được sức mạnh của phương Tây cho nên cố tìm một sự thích nghi tạm thời để có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng. Chúng ta đừng nên lẫn lộn giữa nhóm thứ hai với nhóm thứ ba.
2 
NHÀ CHIẾN TRANH 
Trong suốt lịch sử nhân loại, có nhiều nền văn minh xuất hiện rồi lụi tàn − Trung Quốc, Ấn Độ, La mã, và trước đó là nền văn minh cổ đại ở Trung Đông. Trong những thế kỷ mà lịch sử châu Âu gọi là thời trung cổ, thì nền văn minh tiến bộ nhất trên thế giới chắc hẳn là văn minh Hồi giáo. Hồi giáo có thể ngang bằng − hoặc thậm chí trên một số lãnh vực, vượt xa − Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng cả hai nền văn minh này chủ yếu chỉ khu trú tại một vùng và trong một nhóm dân tộc, cho nên tác động đối với phần còn lại của thế giới vì thế cũng bị giới hạn. Ngược lại, nền văn minh Hồi giáo, lại có tầm nhìn toàn thế giới, và ước vọng cũng rõ ràng như thế. 
Một trong những nhiệm vụ chính mà Đấng Tiên Tri giao cho tín đồ Hồi giáo phải làm là thánh chiến (jihad). Chữ này đi từ gốc Ả Rập j-b-d với nghĩa chính là cố gắng hoặc phấn đấu. Trong các văn bản cổ điển, nó được dùng sát với nghĩa đấu tranh, và từ đó cũng có nghĩa là chiến đấu. Chữ này thường được nêu trong câu “phấn đấu theo con đường của Thượng đế” trong kinh Qur’an (IX,24, LX,1 và v.v…) và được diễn giải theo nhiều cách có nghĩa là sự phấn đấu về đạo đức hoặc chiến đấu bằng vũ lực. Cũng dễ hiểu là chữ này có ý nghĩa gì tùy theo tình huống mà người ta cố ý gán ý nghĩa cho nó. Trong kinh Qur’an, từ này xuất hiện nhiều lần, với hai ý nghĩa phân biệt nhưng có liên quan với nhau như trên. Trong những chương đầu, viết trong giai đoạn ở Mecca, khi Đấng Tiên Tri còn là thủ lãnh của một nhóm nhỏ cố chống lại nhóm đa số cầm quyền, thì từ này thường có ý nghĩa là sự phấn đấu đạo đức, theo kiến giải của một số học giả hiện nay. Trong những chương sau, được truyền bá tại Medina, là nơi mà Đấng Tiên Tri lãnh đạo một nhà nước và chỉ huy quân đội, thì từ này lại có ý nghĩa thực tiễn rõ rệt hơn. Trong số đó thì ý nghĩa quân sự là thẳng thừng nhất. Lấy một ví dụ để làm rõ: “Những tín đồ nào ở nhà, nếu không bị đau ốm, thì không sánh được với những người đem tài sản và bản thân tham gia chiến đấu theo con đường
của Thượng đế. Thượng đế đặt để những ai đem tài sản và thân mình tham gia chiến đấu cao hơn những ai ngồi ở nhà. Thượng đế hứa sẽ thưởng cho tất cả những ai tin, nhưng Ngài ưu ái hậu thưởng những người đi chiến đấu, trên những người ở nhà”. Những tình cảm tương tự cũng gặp trong các chương VIII,72; IX,41,81,88; LXXVI,9 và v.v… 
Một số người Hồi giáo hiện đại, nhất là khi giao tiếp với thế giới bên ngoài, giải thích nhiệm vụ của jihad theo nghĩa tinh thần và đạo đức. Đại đa số những người có thẩm quyền của Hồi giáo vào giai đoạn đầu, lại giải thích jihad theo những thuật ngữ quân sự bằng cách trích dẫn các đoạn liên quan trong kinh Qur’an, với những lời bình, và các truyền khẩu của Đấng Tiên Tri. Luật Hồi giáo cho phép tiến hành chiến tranh chống lại bốn loại kẻ thù: kẻ vô đạo, kẻ bỏ đạo, quân phiến loạn và kẻ cướp. Mặc dù tất cả bốn loại chiến tranh trên hợp pháp, nhưng chỉ có hai loại đầu mới được coi là jihad. Như vậy jihad là một nghĩa vụ tôn giáo. Khi bàn về nghĩa vụ của một thánh chiến, các luận sư (jurist) Hồi giáo cổ điển phân biệt giữa chiến tranh tấn công và bảo vệ. Trong chiến tranh tấn công, jihad là một nghĩa vụ cho toàn thể mọi tín đồ Hồi giáo nói chung, và như thế có thể chỉ do những người tình nguyện và chuyên nghiệp đảm trách. Trong chiến tranh phòng vệ, đó là một nghĩa vụ cho mọi người còn khoẻ mạnh. Chính Usama bin Ladin dựa vào điểm này để kêu gọi chiến tranh chống lại nước Mỹ. 
Hầu như trong lịch sử Hồi giáo được ghi chép qua 14 thế kỷ, jihad thường được diễn giải là cuộc chiến đấu vũ trang để bảo vệ hoặc tiến công của quyền lực Hồi giáo. Theo truyền thống Hồi giáo, thế giới được chia ra làm hai nhà: Nhà của người Hồi giáo (Dar al-Islam), là nơi có chính quyền và luật pháp Hồi giáo cai trị, và Nhà của chiến tranh (Dar al-Harb), là phần còn lại của thế giới, là nơi sinh sống và quan trọng hơn, là được cai trị bởi những kẻ vô đạo. Đây là cơ sở để nói rằng jihad vẫn còn tiếp tục, chỉ bị gián đoạn bởi những đợt hưu chiến, cho tới khi toàn bộ thế giới hoặc chấp nhận đức tin Hồi giáo hoặc chịu sự cai trị của Hồi giáo. Những ai chiến đấu cho jihad sẽ được tưởng thưởng ở cả hai thế giới − chiến lợi phẩm ở đời này, và kiếp sau sẽ lên Thiên đàng. 
Ở đây cũng giống như trong nhiều vấn đề khác, những lời dạy trong
Qur’an được giải thích cặn kẻ hơn trong các hadith, tức là những truyền thống liên quan đến lời nói và việc làm của Đấng Tiên Tri. Nhiều hadith đề cập tới thánh chiến. Dưới đây chỉ nêu vài ví dụ: 
Jihad là nhiệm vụ do thủ lãnh giao cho ngươi, dù ông ta thánh thiện hay độc ác. Một ngày, một đêm chiến đấu ngoài biên ải còn có giá trị cao hơn một tháng nhịn ăn và cầu nguyện. 
Đối với kẻ tử vì đạo, vết cắn của con kiến còn đau hơn là nhát kiếm đâm, nhát đâm đối với anh ta còn dễ chịu hơn là dòng nước mát ngọt ngào trong ngày hè nóng bức. Cái chết của kẻ không qua trận mạc chỉ là cái chết của kẻ vô đạo. 
Thượng đế đẹp lòng khi có chiến tù [những kẻ bị Hồi giáo chinh phục] bị lôi lên Thiên đàng trong xiềng xích. 
Hãy học cách bắn cung, bởi vì khoảng cách giữa đích bắn và người bắn cung chỉ bằng chiều rộng của một trong những khu vườn trên Thiên đàng. 
Thiên đàng nằm dưới bóng lưỡi gươm. 
Truyền thống cũng đưa ra một số quy luật về chiến tranh khi tiến hành jihad: 
Nên đối xử tốt với tù binh. 
Việc cướp bóc là điều xấu xa kinh tởm. 
Thượng đế cấm không cho giết phụ nữ và trẻ em. 
Người Hồi giáo tôn trọng các cam kết, miễn là những cam kết này hợp pháp. 
Những văn bản pháp lý chuẩn về shari’a thường có một chương về jihad, theo nghĩa quân sự là một cuộc chiến quy ước chống lại kẻ vô đạo và bỏ đạo. Nhưng những văn bản này cũng chỉ ra hành vi đúng và tôn trọng các quy luật chiến tranh đối với các vấn đề như khơi mào và chấm dứt các cuộc xung đột và cách đối xử với thường dân và tù binh, đó là chưa nói đến các sứ giả ngoại giao. 
Trong phần lớn lịch sử Hồi giáo được ghi chép, kể từ khi có Đấng Tiên Tri trở về sau, từ jihād được dùng chủ yếu theo nghĩa quân sự. Muhammad bắt đầu sứ mạng tiên tri tại quê nhà, Mecca, nhưng do đám cầm quyền ngoại đạo cai trị thành phố truy bức cho nên ngài và các giáo đồ dời sang Medina, nơi đây các bộ lạc bản địa chào đón họ và đưa Đấng Tiên Tri lên vị trí nhà hòa giải, sau đó là thủ lãnh. Chuyến di hành này theo tiếng Ả Rập là Hijra, đôi khi bị gọi trệch đi thành Hegira và dịch sai thành “sự tháo chạy”. Kỷ
nguyên Hồi giáo lấy Hijra làm mốc tính bắt đầu năm Ả Rập. Jihad đầu tiên do chính Đấng Tiên Tri ra tay chống lại các nhà cầm quyền tại sinh quán của ngài và kết thúc bằng việc chinh phục Mecca vào tháng chay Ramadan vào năm thứ 8 sau Hijra, tương ứng với tháng giêng năm 630 Tây lịch. Giới lãnh đạo Mecca đầu hàng mà không hề chống cự, và người ở Mecca, trừ những ai xúc phạm đến Đấng Tiên Tri hoặc một người Hồi giáo, đều được bảo đảm an toàn sinh mạng và tài sản, miễn là họ ứng xử phù hợp với các cam kết. Nhiệm vụ tiếp theo là nới rộng quyền lực Hồi giáo đến các vùng khác thuộc bán đảo Ả Rập, và đến phần còn lại của thế giới, do các Caliph là những người kế tục của Đấng Tiên Tri. 
Trong những năm đầu của kỷ nguyên Hồi giáo, điều này dường như khả dĩ, có khả năng thực hiện được. Chỉ trong một thời gian ngắn, các đội quân bách thắng đã xóa sổ đế quốc Ba tư cổ đại và sáp nhập tất cả lãnh thổ của đế quốc này vào cương thổ dưới quyền Caliph, mở lối xâm lăng vào Trung Á và Ấn Độ. Về phía tây, Đế quốc Byzantine tuy chưa bị đánh bại, nhưng phần lớn lãnh thổ cũng đã bị tước mất. Rồi các tỉnh theo Cơ Đốc giáo tại Syria, Palestine, Ai Cập và Bắc Phi cũng bị thâu tóm và sau đó trở thành các địa phương bị Hồi giáo hóa và Ả Rập hóa và đây là bàn đạp để tiến công sâu hơn vào châu Âu, chinh phục Tây ban nha, và Bồ đào nha và phần lớn miền nam nước Ý. Vào đầu thế kỷ thứ 8, đội quân Ả Rập còn vượt qua cả dãy Pyrenées để sang nước Pháp. 
Sau nhiều thế kỷ dường như lúc nào cũng chiến thắng, jihad của người Ả Rập cuối cùng bị châu Âu Cơ Đốc giáo chặn đứng và đẩy lùi về phía đông, người Byzantines giữ vững thành phố Constantinople theo Cơ Đốc giáo, đẩy lùi nhiều loạt tấn công của người Ả Rập. Về phía tây, người Cơ Đốc giáo bắt đầu một tiến trình dai dẳng, dài hơi mà trong lịch sử Tây ban nha gọi là Reconquista, hoặc là Cuộc tái chinh phục, dần dần hất cẳng người Hồi giáo ra khỏi những lãnh thổ bị chiếm ở Ý và bán đảo Iberia. Họ cũng cố thử đưa công cuộc tái chinh phục sang miền Trung Đông, và nhằm lấy lại đất Chúa, đã bị người Hồi giáo chiếm hồi thế kỷ thứ 7. Cố gắng này được gọi là Thập tự chinh đã bị thất bại hoàn toàn và các Thập tự binh đã tháo lui trong hỗn loạn.
Nhưng jihad không dừng ở đó. Một giai đoạn mới lại mở màn, lần này không phải do người Ả Rập mà do những kẻ tân tòng, đó là người Thổ và người Tatar. Họ chiếm lấy vùng Anatolia vốn của người Cơ Đốc giáo, và vào tháng Năm năm 1453 họ chiếm lấy Constantinople, đô thị này từ đó trở về sau trở thành kinh đô của các sultan đế quốc Ottoman, là những người kế nghiệp các Caliph lãnh đạo các jihad. Những người Ottoman tại bán đảo Balkan và những người Tatar cải đạo Hồi tại Nga quay lại cố chinh phục châu Âu, lần này đi từ hướng đông, và có lúc dường như cầm chắc phần thắng. 
Nhưng một lần nữa châu Âu Cơ Đốc giáo lại đủ sức trục xuất các kẻ xâm lược và lần này lại thành công hơn, chống lại được thế lực Hồi giáo. Vào lúc này jihad đã hầu như chuyển sang thế phòng vệ, chống lại cuộc tái chinh phục tại Tây ban nha và tại Nga, chống chọi với các phong trào tự giải phóng dân tộc của các thần dân Cơ Đốc giáo trong đế quốc Ottoman, và cuối cùng là, như người Hồi giáo nhìn nhận, là để bảo vệ ngay chính trung tâm Hồi giáo khỏi những cuộc tấn công của kẻ vô đạo. Giai đoạn này được gọi là chủ nghĩa đế quốc. 
Ngay cả trong giai đoạn thoái lui này, hình thức tấn công của thánh chiến jihad cũng không hề bị từ bỏ. Cho mãi đến năm 1896, người Afghan xâm lăng vùng Hindu Kush đầy núi non hiện nay là vùng đông bắc Afghanistan. Cho tới thời điểm đó, dân cư ở đây không phải là người Hồi giáo, và vì thế vùng đất này đối với người Hồi giáo là Kafiristan, tức là “đất của những người không tín ngưỡng”. Sau khi bị người Afgan chinh phục, vùng đất này được đặt tên lại là Nuristan “vùng đất của ánh sáng”. Trong cùng thời gian, jihad dưới nhiều hình thức đã được tiến hành tại châu Phi để chống lại những người không theo Hồi giáo. Nhưng trong phần lớn các trường hợp, quan niệm, thực hành và kinh nghiệm của jihad trong thế giới Hồi giáo hiện đại chủ yếu mang tính tự vệ. 
Từ này được sử dụng nhiều trong quân sự còn tiếp tục đến thời kỳ cận đại. Trong đế quốc Ottoman, thành phố Belgrade, một tiền đồn trong cuộc chiến chống lại người Áo, được đặt cho một cái tên có vần điệu là Dar al– Jihad (Nhà của Jihad). Vào đầu thế kỷ 19, khi Muhammad ‘Ali Pasha, nhà
lãnh đạo chủ trương canh tân của Ai Cập, tiến hành cải cách và quản lý quân đội theo kiểu Anh và Pháp, đã đặt ra “một bộ chiến tranh” để điều hành quân đội. Theo tiếng Ả Rập thì bộ này có tên là Bộ các vấn đề thánh chiến (Diwan al–Jihadiyya) và đứng đầu là Quan giám sát các vấn đề thánh chiến (Nazir al–Jihadiyya). Cũng có thể nêu ra một số ví dụ khác cho thấy từ jihad không còn ý nghĩa thánh thần nữa mà chỉ còn giữ hàm ý quân sự. Vào thời cận đại người ta sử dụng lại cả hai ý nghĩa quân sự và đạo đức, nhưng cách hiểu lại khác nhau và mỗi người áp dụng mỗi cách. Các tổ chức lớn tiếng xưng danh Jihad hiện nay, tại Kashmir, Chechnya, Palestine và những chỗ khác rõ ràng là không hề sử dụng từ này theo nghĩa phấn đấu về mặt đạo đức. 
Đôi khi Jihad được xem như là Thập tự chinh của Hồi giáo, và hai hình thức này được coi như ít nhiều tương đương với nhau. Trong một chừng mực nào đó, điều này đúng − cả hai đều được công bố và phát động dưới dạng thánh chiến của đức tin chân chính chống lại kẻ thù vô đạo. Nhưng ở đây có sự khác biệt. Thập tự chinh là một hình thức phát triển mới trong lịch sử Cơ Đốc giáo và trong một chừng mực là một sự tách rời căn bản (radical) ra khỏi những giá trị Cơ Đốc giáo cơ bản được rao giảng trong Thánh kinh. Thế giới Cơ Đốc giáo luôn bị tấn công từ thế kỷ thứ 7, và đã bị người Hồi chiếm nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn; quan niệm về một cuộc chiến thần thánh, hoặc thông thường hơn, là một cuộc chiến có chính nghĩa cũng đã có từ xa xưa. Tuy nhiên trong cuộc chiến dai dẳng giữa đạo Hồi và đạo Cơ Đốc, thì thập tự chinh chỉ mới gần đây, quy mô hạn chế và thời gian xảy ra tương đối ngắn. Jihad xuất hiện từ lúc có lịch sử đạo Hồi − trong kinh sách, trong cuộc đời của Đấng Tiên Tri, và trong hành động của các giáo đồ cũng như những người kế tục sau ngài. Jihad đã liên tục hiện diện trong lịch sử đạo Hồi và vẫn còn giữ nguyên tính cách cho đến ngày nay. Dĩ nhiên là từ thập tự chinh đi từ gốc là thập ác và nguyên thuỷ chỉ dành cho cuộc thánh chiến đối với người theo đạo Cơ Đốc. Nhưng trong thế giới Cơ Đốc giáo ý nghĩa này đã mất từ lâu và ngày nay thường được dùng với nghĩa là một nỗ lực đạo đức dành cho một thiện ý. Ta có thể phát động một cuộc thập tự chinh vì môi trường, vì nước sạch, vì các dịch vụ xã hội tốt hơn, vì nữ quyền và cho nhiều ý đồ khác. Điểm chính là ngày nay từ thập tự chinh không được dùng đúng theo ý nghĩa tôn giáo ban đầu. Jihad cũng được dùng theo nhiều nghĩa khác
nhau, nhưng không giống như từ thập tự chinh, nó vẫn giữ được ý nghĩa gốc ban đầu. 
Những ai bị giết trong Jihad được gọi là tử vì đạo (martyr), theo tiếng Ả Rập và các ngôn ngữ Hồi giáo khác là shahid. Tiếng Anh martyr đi từ tiếng Hy Lạp martys có nghĩa là “nhân chứng” và theo tập quán Cơ Đốc − Do Thái dùng để chỉ những ai sẵn sàng chịu tra tấn và chết thay vì từ bỏ đức tin. Như vậy hành động tử vì đạo của người này là một sự chứng kiến hoặc sự chứng thực đối với đức tin đó, và sẵn lòng chịu chết vì đức tin này. Trong tiếng Ả Rập, shahid cũng có ý nghĩa “chứng kiến” và thường được dịch thành “martyr”, nhưng từ này lại có một hàm ý khá khác biệt. Theo thông lệ đạo Hồi, thì từ tử vì đạo (martyrdom) thường để chỉ cái chết vì jihad và phần thưởng được sung sướng bất diệt trên thiên đàng, được mô tả chi tiết trong những kinh sách tôn giáo sơ kỳ. Ngược lại, tự sát, là một trọng tội và đời đời bị nguyền rủa ngay đối với những người đáng lẽ được lên thiên đàng. Các luật gia cổ điển phân biệt rất rõ giữa cái chết do kẻ thù gây ra và cái chết do tự tử. Chết do kẻ thù giết sẽ lên trời, còn tự tử sẽ xuống địa ngục. Một số luật gia phe chính thống gần đây cùng một số người khác đã cố ý đánh đồng và thậm chí bỏ qua sự khác biệt này, nhưng quan điểm của họ không hề được chấp nhận rộng rãi. Kẻ đánh bom liều chết như thế đã vi phạm đáng kể vào điều cốt lõi về mặt thần học. 
Vì lẽ thánh chiến là một nghĩa vụ đối với đức tin, cho nên được quy định cặn kẻ trong shari’a. Các chiến binh jihad không được giết phụ nữ, trẻ em và người già nếu không bị tấn công trước, không được hành hạ tra tấn tù nhân, không được tấn công mà không báo trước sau hưu chiến và phải tôn trọng các cam kết. Các luật gia và thần học thời trung cổ đã thảo luận khá nhiều về các quy luật chiến tranh, có cả những vấn đề như vũ khí nào được phép và không được phép sử dụng. Thậm chí trong các văn bản thời trung cổ lại bàn đến tính hợp lệ của chiến tranh hoả tiễn và hoá học, hoả tiễn tức là các máy bắn đá (mangonel) và máy lăng đá (catapult), còn hoá học là tên có tẩm thuốc độc và bỏ thuốc độc vào các nguồn nước uống của kẻ thù. Về những điểm này có sự sai biệt đáng kể. Các luật gia, có người cho phép, có người hạn chế, có người không nhất trí về việc sử dụng những vũ khí này. Lý do đưa ra là những vũ khí trên gây ra số thương vong bừa bãi. Trong các kinh
sách chính của Hồi giáo không có đoạn nào cho phép khủng bố và ám sát. Trong kinh sách thậm chí không có điểm nào − theo tôi biết cho đến nay (tác giả − Bernard Lewis) − bàn tới việc tàn sát bừa bãi những người vô tội. 
Các luật gia cũng nhấn mạnh là chiến lợi phẩm phải được coi là một nguồn lợi phụ, không phải là mục tiêu chính. Một số người còn đi xa hơn nữa khi cho rằng nếu coi chiến lợi phẩm là mục đích chính thì sẽ làm giảm ý nghĩa và tước đi những lợi ích do Jihad mang lại hoặc trước mắt hoặc về sau này. Jihad, nếu muốn hợp lệ, phải được tiến hành “theo con đường của Thượng đế”, và không được vì quyền lợi vật chất. Tuy nhiên, có nhiều tiếng than phiền về việc sử dụng từ Jihad đáng tôn kính cho những mục đích đáng hỗ thẹn. Đặc biệt là các luật gia người Phi phàn nàn về việc các tay buôn nô lệ sử dụng từ Jihad để biện minh cho sự cướp bóc và đòi quyền làm chủ nô đối với các nạn nhân. Luật thánh đòi hỏi phải đối xử tốt với những người không tham gia chiến đấu nhưng lại cho phép kẻ chiến thắng nhiều quyền rộng rãi đối với tài sản và cả đối với nhân thân và gia đình của kẻ chiến bại. Theo những tập tục chung thời cổ đại, kẻ thù bị bắt trong chiến trận và cùng với gia đình sẽ trở thành nô lệ, người chiến thắng có thể đem bán hoặc giữ lại để sử dụng. Hồi giáo thay đổi luật này chút ít bằng cách hạn chế quyền bắt làm nô lệ này đối với những ai bị bắt trong jihad nhưng đối với các hình thức chiến tranh khác thì không có. 
Các luật lệ chiến tranh đối với kẻ bội giáo có phần nào khác và nghiêm khắc hơn đối với các luật về chiến tranh đối với kẻ vô đạo. Kẻ bội giáo dưới mắt người Hồi giáo còn tệ hơn là kẻ vô đạo. Kẻ vô đạo là người chưa từng thấy được ánh sáng, và luôn hy vọng rằng một ngày nào đó họ sẽ nhìn thấy. Chừng nào mà họ còn tuân thủ một số điều kiện, thì họ vẫn còn nhận được sự khoan dung của nhà nước Hồi giáo và cho phép họ tiếp tục giữ đạo, thậm chí việc tuân thủ các luật lệ tôn giáo của mình. Kẻ bội giáo là người đã biết được đức tin chân chính, dù là ngắn ngủi, rồi lại từ bỏ. Tội này con người không thể tha thứ được, và theo đại đa số các luật gia, kẻ phản bội phải chết − nếu là đàn ông. Đối với đàn bà, do trách nhiệm được coi là ít hơn, chỉ cần đánh roi và bỏ tù là đủ. Thượng đế nhân từ có thể tha thứ cho kẻ phản bội vào kiếp sau, nếu Ngài muốn. Còn con người thì không có thẩm quyền như thế. Sự phân biệt này hiện nay có phần quan trọng, khi các nhà lãnh đạo hiếu
chiến kêu gọi một jihad hai mặt − chống lại kẻ vô đạo bên ngoài và chống lại kẻ bội giáo bên trong. Phần lớn, nếu không phải là tất cả các nhà lãnh đạo Hồi giáo mà phương Tây chúng ta coi như là bạn và đồng minh thì lại bị đa số dân chúng của họ coi như là kẻ phản bội, và tệ hơn nữa là kẻ bội giáo. 
Từ thời xa xưa, có sự phân biệt về luật pháp giữa những lãnh thổ chiếm được bằng vũ lực (tiếng Ả Rập là ‘anwatan, tương đương với vi et armis của các luật gia La mã) và sulban những lãnh thổ có được qua hình thức hưu chiến hoặc đầu hàng hoà bình. Qui định về của cải cướp được, và khái quát hơn, là cách đối xử với dân chúng tại các vùng đất mới chiếm có khác nhau ở nhiều mặt. Theo truyền thống, sự khác biệt được hình tượng hoá tại nhà thờ vào mỗi ngày thứ Sáu. Tại các vùng đất chiếm được, ‘anwatan, giáo sĩ mang một cây gươm, tại vùng đất quy phục sulban, giáo sĩ cầm một cây gậy gỗ. Hình ảnh lưỡi gươm vẫn còn đóng vai trò quan trọng. Cho tới ngày nay, quốc kì của Arabia Saudi có hai biểu hiện trên nền xanh lá cây. Một là dòng chữ Ả Rập nêu rõ niềm tin Hồi giáo “Thượng đế chỉ có một, Muhammad là Tiên tri của Người”. Biểu tượng kia − hình ảnh cây gươm không lẫn vào đâu được. 
Có một số thời kỳ, các luật gia thừa nhận một tình trạng trung gian giữa nhà Chiến tranh và Nhà của Islam, đó là nhà Hưu chiến (Dar al-Sulh) hoặc Nhà của giao ước (Dar al-‘Ahd). Nhà này bao gồm những quốc gia không theo Hồi giáo, thường là Cơ Đốc giáo, khi các lãnh đạo những nơi này có ký kết với các nhà lãnh đạo Islam để nộp thuế hoặc cống vật, coi như là tương đương với jizya hoặc thuế thân để được phép tự chủ đối với các vấn đề nội trị. Ví dụ đầu tiên là cam kết giữa Caliph Umayyad ký vào thế kỷ thứ 7 với các ông hoàng theo đạo Cơ Đốc tại Armenia. Ví dụ cổ điển của Nhà Hưu chiến là hiệp định cam kết vào năm 652 với các nhà cai trị Cơ Đốc tại xứ Nubia, theo đó xứ này không phải nộp thuế thân, nhưng hàng năm phải tiến cống một số nô lệ nhất định. Qua cách coi quà tặng như là một hình thức tiến cống, các nhà lãnh đạo Hồi giáo và các cố vấn pháp lý có thể điều chỉnh luật pháp xử lý nhiều mối quan hệ chính trị, quân sự và thương mại với các cường quốc không phải Hồi giáo. Phương thức này không hẳn hoàn toàn biến mất.
• • • 
Ngay từ đầu, người Hồi giáo đã biết rằng có sự khác biệt giữa các dân tộc trong Nhà chiến tranh. Phần lớn các dân tộc này thờ nhiều thần và thờ ngẫu tượng, là người không hề gây nguy cơ nghiêm trọng nào đối với đạo Hồi và là đối tượng có khả năng cải đạo. Những dân tộc này chủ yếu sống ở châu Á và châu Phi. Ngoại lệ chính là các tín đồ Cơ Đốc giáo, được người Hồi giáo thừa nhận là có một tôn giáo giống như họ, và như thế chính là kẻ kình địch số một trong việc thống trị thế giới − hoặc nói theo cách của họ, là sự giác ngộ thế giới (enlightenment). Đạo Cơ Đốc và đạo Hồi là hai nền văn minh được xây dựng trên cơ sở tôn giáo cho nên xung đột với nhau không phải vì sự khác biệt mà chính do sự giống nhau. 
Công trình Hồi giáo xưa nhất còn sót lại nằm ngoài bán đảo Ả Rập là Nhà thờ Đá tại Jerusalem, hoàn tất vào năm 691 hoặc 692 C.E. Công trình này được xây trên nền một đền thờ Do Thái cổ, theo một phong cách riêng và nằm gần các nhà thờ Cơ Đốc giáo như Mộ thánh và Nhà thờ Chúa lên trời, là một thông điệp rõ ràng cho người Do Thái, và quan trọng hơn, người theo đạo Cơ Đốc. Đó là: những mặc khải của họ, tuy rằng có lúc xác thực, nhưng sau đó bị những kẻ thủ tự thiếu tư cách làm hư hỏng đi cho nên được thay thế bằng sự mặc khải cuối cùng, toàn bích hơn nằm trong giáo lý Hồi giáo. Cũng như người Do Thái bị người Cơ Đốc khuất phục và thay thế, thì cái trật tự thế giới Cơ Đốc ngày nay phải được thay thế bằng tín ngưỡng Hồi giáo và các Caliph đạo Hồi. Để nhấn mạnh điểm này, tại nhà thờ Đá có trích những dòng từ kinh Qur’an nêu rõ cái mà người Hồi giáo coi là sai lầm của đạo Cơ Đốc “Vinh danh thay Thượng đế, không ai là con, là bạn của người” và “Người là Thượng đế, chỉ có một, đời đời. Người không sinh, không ai sinh ra Người và không ai sánh bằng Người” (Qur’an CXII). Điều này quả là một sự thách đố đối với đạo Cơ Đốc ngay tại nơi phát sinh. Một thiên niên kỷ sau việc đồn trú của lính Mỹ tại Arabia được nhiều tín đồ Hồi giáo và nhất là Usama bin Ladin coi như là một thách đố tương tự, lần này là đạo Cơ Đốc đối với đạo Hồi. 
Để làm rõ thêm sự thách thức đầu tiên này đối với đạo Cơ Đốc, lần đầu tiên, vị Caliph cho đúc đồng tiền vàng, mà từ trước đến nay chỉ có người La
mã độc quyền. Điểm đáng nói là đồng tiền vàng Hồi giáo đầu tiên, đồng dinar, lại mượn từ chữ La mã denarius. Một số đồng tiền có tên vị Caliph, danh hiệu là Thống lãnh các tín đồ, và một số câu thơ đầy tính luận chiến. Thông điệp rất rõ ràng. Theo cách nghĩ của Hồi giáo, thì người Do Thái, và sau đó là người Cơ Đốc đã lầm lạc đi theo những tín điều giả dối. Vì thế, cả hai đạo đều bị loại bỏ, và thay thế bằng đạo Hồi, là sự mặc khải cuối cùng và hoàn hảo của Thượng đế theo thứ tự. Những câu thơ trong kinh Qur’an được viết tại Nhà thờ Đá và trên các đồng tiền vàng quy tội cái mà theo người Hồi giáo là những điều sai lạc tệ hại nhất của đức tin chân thực. Dĩ nhiên còn có thêm một thông điệp nữa của Caliph gởi cho Hoàng đế Cơ Đốc “Đức tin của ngươi đã bị băng hoại, ngươi đã hết thời rồi. Ta đây mới là người cai trị của đế quốc của Chúa trên trần gian này”. 
Thông điệp được hiểu rõ, và Hoàng đế coi việc đúc tiền vàng như là lý do tuyên chiến (casus belli). Trong hơn một ngàn năm, cuộc chiến được các Caliph Hồi giáo phát động từ nhiều kinh đô khác nhau ở Medina, Damascus, Baghdad, Cairo chống lại các Hoàng đế Cơ Đốc giáo tại Constantinople, Vienna và các danh xưng khác sau này, tại các quốc gia phương Tây xa xôi hơn. Mỗi vị vua, trong đời của mình, đều là đối tượng chính của Jihad. 
Dĩ nhiên, trong thực tế, việc áp dụng học thuyết về jihad không phải lúc nào cũng bạo lực hoặc khắc nghiệt. Tình trạng chiến tranh đúng theo quy tắc có thể tạm ngưng theo hình thức được luật pháp quy định như hưu chiến, nhưng hưu chiến này lại khác ít nhiều với cái gọi là hiệp ước hoà bình do các cường quốc phương Tây ký với nhau. Đó là những cuộc hưu chiến do Đấng Tiên Tri ký với các kẻ thù vô thần của mình, và đã trở thành cơ sở cho những gì mà ta gọi là luật quốc tế của Hồi giáo. Theo Shari’a, “phải có nhiệm vụ khoan dung đối với các tôn giáo đã có từ trước do mặc khải thần linh” (Qur’an II,256: Không được ép buộc trong tôn giáo). Tại các vùng đất do Hồi giáo cai trị, luật Hồi giáo cho phép người Do Thái và Cơ Đốc được giữ đạo và quán xuyến công việc của mình, nhưng phải chịu một số bó buộc, quan trọng nhất là thuế thân đánh vào nam giới trưởng thành. Thuế này, được gọi là jizya, được nói rõ trong Qur’an: IX,29: “Hãy đánh lại những kẻ nào không tin vào Thượng đế hoặc không tin vào ngày phán xét, những kẻ nào không cấm những điều mà Thượng đế và các sứ đồ của Người đã tuyên
bố cấm, những kẻ không theo tôn giáo của chân lý, dù rằng chúng có là dân có tên trong Sách thánh [tức là người Do Thái và Cơ Đốc], cho tới khi chính bản thân chúng khúm núm chịu nộp thuế jizya”. Những dòng sau đã được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, về mặt văn chương cũng như trên thực tiễn. 
Những hạn chế khác như không được mặc quần áo hoặc dấu hiệu nổi bật, cấm không được mang vũ khí, cởi ngựa, mua nô lệ Hồi giáo hoặc xây nhà cao hơn nhà người Hồi giáo. Trừ hai điều sau và thuế thân jizya, còn những cấm đoán trên không phải lúc nào cũng phải tuân thủ chặt chẽ. Bù lại, những thần dân không theo Hồi giáo trong một nhà nước Hồi giáo lại được hưởng quyền tự quản rất lớn khi xử lý những vấn đề thuộc nội bộ cộng đồng bao gồm giáo dục, đánh thuế và thực thi luật của riêng họ liên quan đến nhân thân, nhất là trong hôn nhân, li dị và thừa kế. Thoả ước hoặc hợp đồng giữa nhà nước Hồi giáo và một cộng đồng dân cư không − Hồi giáo được gọi là dhimma, và người trong cộng đồng được nhà nước Hồi giáo bao dung được gọi là dhimmi. Theo ngôn ngữ hiện đại, người Do Thái và Cơ Đốc trong một nhà nước Hồi giáo cổ điển là các công dân hạng hai, nhưng quyền của công dân hạng hai, được xác định bởi luật pháp và mặc khải và được công luận thừa nhận, lại còn tốt hơn nhiều so với việc hoàn toàn không có quyền công dân dành cho những người không theo Cơ Đốc giáo và ngay cả đối với một số người Cơ Đốc lệch lạc tại phương Tây. 
Jihad cũng không ngăn cản các chính phủ Hồi giáo tìm kiếm đồng minh Cơ Đốc để chống lại các kình địch là Hồi giáo khác, ngay cả trong thời gian xảy ra Thập tự chinh.
3 
TỪ QUÂN THẬP TỰ CHINH ĐẾN QUÂN ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA 
Các cuộc Thập tự chinh hiển hiện rất rõ trong tâm thức và ngôn từ vùng Trung Đông hiện đại, đối với cả những người theo chủ nghĩa quốc gia Ả Rập và tín đồ chính thống Hồi giáo, nhất là Usama bin Ladin. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. 
Việc các chiến binh Thập tự chinh chiếm đóng Jerusalem vào năm 1099 CE là một chiến thắng của đạo Cơ Đốc, nhưng lại là một tai họa cho người Hồi giáo và cho cả người Do Thái sống trong thành phố. Căn cứ theo tài liệu lịch sử thời kỳ này, thì việc chiếm đóng này không được quan tâm mấy trong khu vực. Những lời kêu cứu cầu viện của dân Hồi giáo bản địa không được Damascus và Baghdad trả lời, và các lãnh địa mới do Thập tự chinh thành lập chẳng bao lâu lại chui vào cuộc đỏ đen chính trị của vùng đất mặt trời mọc (Levantine), gồm các liên minh giữa các tôn giáo để giải quyết những tranh giành quyền lực giữa các ông hoàng đạo Hồi và Cơ Đốc. 
Cuộc chiến tranh chống Thập tự chinh cuối cùng đánh bại và đuổi được quân Thập tự chỉ xảy ra sau đó một thế kỷ. Nguyên do trực tiếp là các hoạt động cướp bóc tràn lan của một lãnh tụ quân Thập tự, Reynald od Châtillon, người vây hãm pháo đài Kerak, hiện nay là nam Jordan, trong thời gian từ 1176 và 1187 CE, và từ đó tung ra một loạt các cuộc tấn công vào các thương đoàn Hồi giáo tại các vùng phụ cận, kể cả Hijaz. Các sử gia chuyên về Thập tự chinh có lẽ đã đúng khi nói rằng động cơ của Reynald chủ yếu là kinh tế, nói cách khác, là ý đồ cướp bóc. Nhưng người đạo Hồi lại cho rằng những chiến dịch của ông ta có tính khiêu khích và thách thức nhằm tấn công các vùng đất thánh của đạo Hồi. Vào năm 1182, bằng cách vi phạm cam kết giữa vua của quân Thập tự tại Jerusalem và vua Hồi giáo là Saladin, Reynald đã tấn công và đánh cướp các thương đoàn Hồi giáo, kể cả một đoàn hành hương đi Mecca. Lại càng xấc xược hơn theo quan điểm đạo Hồi,
khi ông ta đe dọa Arabia, nhất là cuộc hành quân cướp bóc tại Biển Đỏ, khi tấn công vào các thuyền bè Hồi giáo và tại các cảng Hijaz phục vụ cho Medina và Mecca. Chính do những biến cố này dẫn tới việc Saladin đích thân tuyên bố Jihad chống lại quân Thập tự chinh − đây là một minh chứng hùng hồn về vai trò trung tâm của bán đảo Ả Rập trong nhận thức của người theo đạo Hồi. 
Những chiến thắng do Saladin đạt được và sau đó chiếm lại được Jerusalem từ quân Thập tự chinh năm 1187 từ đó cho đến ngày nay luôn là nguồn hứng khởi đối với các nhà lãnh đạo Ả Rập. Saddam Hussein thường nhắc đến hai nhà lãnh đạo xa xưa trong lịch sử Iraq mà ông ta coi như người đi trước làm gương cho mình − đó là Saladin đã chấm dứt được mối đe đọa phương Tây thời đó khi đánh bại và hất cẳng quân Thập tự, và Nebuchadnezzar, người đã giải quyết chóng vánh và dứt điểm các vấn đề thuộc chủ nghĩa Zion. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002, thủ tướng Pháp, Jean Pierre Raffarin, trong một diễn văn tại Quốc hội Pháp, đã cho biết bằng cách nào mà Saladin “có thể đánh bại được quân Thập tự và giải phóng Jerusalem”. Việc sử dụng từ “giải phóng” một cách thú vị này của một Thủ tướng Pháp để mô tả việc Saladin chiếm được Jerusalem từ quân Thập tự có thể coi như là sự phản ánh tình trạng dàn trận hiện nay, hoặc nói cách khác, đó là một trường hợp ăn nói đúng về mặt chính trị một cách quá đáng. Ở những nước khác thì cách xếp đặt này có thể coi như là do dốt nát về lịch sử, nhưng đối với nước Pháp, điều này chắc chắn là không phải như thế. 
Ngay cả tại châu Âu Cơ Đốc giáo, Saladin cũng được tán dương và ca tụng vì đã đối xử rộng rãi và hào hiệp đối với các kẻ thù bại trận. Tuy nhiên, Roger of Chatillon không được hưởng sự rộng rãi này. Sử gia Ả Rập vĩ đại Ibn al-Athir đã giải thích tình huống này như sau: “Saladin nói, ta đã hai lần thề sẽ giết hắn nếu tận tay bắt được; một lần khi hắn cả gan dẫn quân đến Mecca và Medina, và khi hắn đã quỷ quyệt tấn công thương đoàn trên đường đi đến Hijaz”. Sau chiến thắng vẻ vang, Saladin cho thả các ông hoàng và tù trưởng tham gia Thập tự chinh bị bắt, nhưng tách riêng Roger of Chatillon ra rồi tự tay Saladin giết và cắt đầu Roger. 
Sau khi jihad thành công và chiếm lại Jerusalem, Saladin và các người kế
tục dường như không còn quan tâm đến thành phố này nữa, và vào năm 1229, họ nhường Jerusalem cho Hoàng đế Frederick III căn cứ theo cam kết thỏa thuận giữa nhà lãnh đạo Hồi giáo và các Thập tự binh. Thành phố này bị tái chiếm vào năm 1244, khi các Thập tự binh cố biến đổi thành một thành phố hoàn toàn Cơ Đốc. Sau một thời gian dài ít được nhắc tới, đến thế kỷ 19 mới khơi dậy mối quan tâm về thành phố. trước tiên là những tranh chấp giữa các cường quốc châu Âu về việc cai quản các nơi thiêng liêng của đạo Cơ Đốc và sau đó là các đợt di dân Do Thái mới. 
Chính trong giai đoạn này, người Hồi giáo bắt đầu quan tâm đến những đợt Thập tự chinh, mà lúc mới xảy ra quả tình ít được lưu ý. Sử Ả Rập chép đầy đủ và phong phú về các chiến binh Thập tự, lúc họ đến, những chiến trận và các quốc gia mà họ thành lập nhưng lại không nêu được bản chất và mục đích cuộc phiêu lưu của những chiến binh này. Những từ ngữ Thập tự chinh và quân Thập tự thậm chí không hề có trong lịch sử Ả Rập vào thời ấy, mà bản thân các Thập tự quân chỉ được coi là những kẻ vô đạo, người Cơ Đốc, hoặc thường gặp hơn, người Frank, là một từ chung cho người châu Âu Cơ Đốc − và sau này còn có Tin lành − theo Thiên chúa giáo, để phân biệt với những tín đồ Chính thống giáo và các đồng đạo phương đông của họ. Sự nhận biết các đợt Thập tự chinh như là một hiện tượng lịch sử riêng biệt chỉ mới có từ thế kỷ 19 và qua các bản dịch sách vở châu Âu về lịch sử. Kể từ đó, các đợt Thập tự chinh được ghi nhận như là hình mẫu sơ khai của sự bành trướng chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế giới Hồi giáo. Nếu mô tả chính xác hơn thì các đợt Thập tự chinh này chỉ là một sự chống trả lại jihad kéo dài nhiều năm, rất hạn hẹp và cuối cùng không đạt hiệu quả gì. Các đợt Thập tự chinh kết thúc bằng thất bại, và sau đó tại các nước Hồi giáo chẳng còn mấy ai nhớ đến, nhưng các nổ lực của châu Âu gần đây nhằm chống trả và đảo ngược sự tiến công Hồi giáo vào lãnh thổ Cơ Đốc giáo lại thành công nhiều hơn và mở đầu cho một loạt những thất bại đau đớn tại các vùng biên giới thế giới Hồi giáo. 
• • • 
Dưới sự cai trị của các Caliph Ả Rập thời trung cổ và một lần nữa, dưới các triều đại Ba tư và Thổ Nhĩ Kỳ, đế quốc Hồi giáo là một vùng giàu có
nhất, hùng mạnh nhất, sáng tạo nhất và khai sáng nhất trên thế giới, và trong suốt thời Trung cổ, thế giới Cơ Đốc luôn luôn ở thế thủ. Vào thế kỷ 15, người Cơ Đốc mở rộng các cuộc phản công. Người Tatars bị hất ra khỏi nước Nga, người Moors ra khỏi nước Tây ban nha. Nhưng tại vùng đông nam châu Âu, nơi các sultan Ottoman đối đầu trước tiên với hoàng đế Byzantine và sau đó là Hoàng đế La mã thần thánh, thế lực Hồi giáo còn thắng thế và các phản công nói ở trên chỉ là những bước lùi ở ngoài rìa và không đáng kể. Cho đến thế kỷ 17, các pasha Thổ vẫn còn cai trị Budapest và Belgrade, quân đội Thổ còn đang bao vây Vienna, và bọn cướp biển vẫn còn tấn công thuyền bè và các bờ biển đến tận nước Anh, Ireland và đôi khi, đến tận Madeira và đảo Iceland. Bọn cướp biển này nhận được nhiều sự giúp đỡ của người châu Âu, những người vì lý do này hay lý do khác, đã định cư tại Bắc Phi và chỉ cho họ cách đóng, lèo lái những con tàu vượt đại dương ở biển Bắc và thậm chí ở Đại tây dương. Giai đoạn này kéo dài không lâu. 
Thế rồi có sự thay đổi lớn. Lần bao vây thứ hai thành Vienna của người Thổ, vào năm 1683, đã thất bại hoàn toàn, dẫn đến một cuộc thoái lui thiếu suy nghĩ − một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với quân đội Ottoman. Sự thất bại này, lại xảy ra cho chính một thế lực quân sự hùng mạnh trong thế giới Hồi giáo, đã làm phát sinh một cuộc tranh luận mới, mà trong một nghĩa nào đó cho đến bây giờ vẫn còn tiếp tục. Bắt đầu trong tầng lớp ưu tú về quân sự, chính trị và sau đó là trí thức Ottoman tranh luận về hai vấn đề: Tại sao những đội quân Ottoman bách thắng lại bị kẻ địch Cơ Đốc đáng khinh kia đánh bại tan tác? Và làm cách nào phục hồi được vị thế thống trị trước kia? Có lúc cuộc tranh luận đi từ tầng lớp ưu tú sang các thành phần khác, từ nước Thổ sang nhiều nước khác và các chủ đề càng lúc càng mở rộng. 
Có nhiều lý do để lo ngại. Bị thất bại liên tiếp, trong khi đó các lực lượng châu Âu Cơ Đốc, sau khi giải phóng đất đai của họ, lại tiếp tục truy đuổi những kẻ xâm lược trước kia cho đến tận nơi xuất phát ở châu Á và châu Phi. Ngay cả những nước nhỏ như Hà lan và Bồ đào nha cũng tạo dựng được những đế quốc rộng lớn tại phương Đông và đóng vai trò nổi trội trong buôn bán. Vào năm 1593, Selaniki Mustafa Efendi, một viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi chép các biến cố xảy ra, ghi lại hình ảnh đến Istanbul của viên đại sứ nước Anh. Viên chức này không chú ý nhiều đến viên đại sứ, nhưng
lại rất kinh ngạc khi nhìn thấy chiếc tàu chở viên đại sứ đến. Ông ta viết: “Một con tàu chưa thấy bao giờ cập bến Istanbul. Nó đã vượt 3700 dặm trên biển và ngoài các khí giới khác, còn mang 83 khẩu súng lớn… Đúng là một kỳ quan của thời đại, chưa bao giờ thấy hoặc ghi nhận một chiếc nào tương tự”. Một sự ngạc nhiên khác đó là đấng quân vương đã gởi sứ giả đến “Người Cai trị đảo quốc Anh là một phụ nữ được thừa kế vương quyền… có đầy đủ quyền lực”. 
Một chi tiết kỷ hơn, không được nhà chép sử Ottoman nhắc đến, cũng có đôi phần quan trọng. Vị Đại sứ nước Anh đang nói ở đây quả thật được Nữ hoàng Elizabeth chính thức bổ nhiệm, nhưng lại không do chính quyền nước Anh mà do một công ty thương mại tuyển chọn và trả lương − là một sự sắp xếp có ích vào thời điểm mà sự quan tâm chính của thế giới phương Tây đối với vùng Trung Đông chỉ là việc kinh doanh. Thật vậy, chính sự mở mang kinh tế và kỹ thuật đầy sáng tạo và nhanh chóng của phương Tây − nào là các nhà máy, tàu chở hàng vượt đại dương, công ty cổ phần − đã mở màn cho một thời đại mới. Các con tàu châu Âu, được đóng để vượt Đại tây dương, dĩ nhiên sẽ vượt hẳn những con tàu chỉ quanh quẩn trong vùng Địa trung hải, Biển Đỏ, và biển Ấn Độ, trong chiến tranh và trong thương mại, và thương mại lại được củng cố thêm nhờ hai thói quen của người phương Tây − đó là hợp tác và cạnh tranh. Vào thế kỷ 18, những sản phẩm truyền thống của vùng Trung Đông như cà phê và đường lại được trồng tại các thuộc địa mới của phương Tây tại châu Á và châu Mỹ và được các lái buôn và công ty châu Âu đem xuất khẩu sang Trung Đông. Ngay cả các khách hành hương Hồi giáo đi từ Đông nam Á và Nam Á sang những đô thị thần thánh tại bán đảo Ả Rập đôi khi cũng nhờ đến tàu châu Âu, bởi vì nhanh hơn, rẻ hơn, an toàn hơn và tiện nghi hơn. 
• • • 
Đối với phần lớn các sử gia Trung Đông cũng như Tây phương, thì thời điểm khởi đầu theo quy ước của lịch sử hiện đại tại vùng Trung Đông bắt đầu từ năm 1798, khi cách mạng Pháp, qua hình ảnh của một viên tướng trẻ tên là Napoleon Bonaparte đổ bộ lên đất Ai Cập. Chỉ trong một thời gian khá ngắn, tướng Bonaparte và đạo quân viễn chinh nhỏ bé của mình đã chinh
phục, chiếm đóng và cai trị đất nước này. Trước khi việc này xảy ra, đã từng có những đợt tấn công, thoái lui và mất mát đất đai tại những vùng biên thuỳ xa xôi, nơi người Thổ và người Ba tư đối đầu với nước Áo và nước Nga. Nhưng khi một lực lượng phương Tây nhỏ bé tấn công một trong những vùng trọng tâm của đạo Hồi quả là một cú sốc nặng nề. Sự tháo lui của quân Pháp, trong chừng mực thậm chí lại là một cú sốc lớn hơn. Quân Pháp bị buộc phải rời Ai Cập không phải do người Ai Cập, cũng không phải do người Thổ, nhưng lại do một đội quân nhỏ thuộc hải quân Hoàng gia Anh, dưới sự chỉ huy của một đô đốc trẻ tên là Horatio Nelson. Đây là một bài học cay đắng mà người Hồi giáo phải học: không những một cường quốc châu Âu có thể đến, xâm lăng, cai trị tuỳ ý rồi chỉ có một cường quốc châu Âu mới đẩy họ đi mà thôi. 
Chủ nghĩa đế quốc là một chủ đề đặc biệt quan trọng đối với Trung Đông và đặc biệt hơn, là Hồi giáo chống lại phương Tây. Đối với họ, từ chủ nghĩa đế quốc có một ý nghĩa quan trọng. Lấy một ví dụ, người Hồi giáo không bao giờ dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi giáo − đế quốc đầu tiên do người Ả Rập dựng nên, những đế quốc sau do người Thổ, những người chinh phục nhiều vùng đất và dân cư rộng lớn, đem sáp nhập vào Nhà Hồi giáo. Theo người Hồi giáo thì thật là hoàn toàn chính đáng khi chinh phục và cai trị châu Âu và người Âu và như thế là giúp cho họ − nhưng không phải bó buộc − tiếp thu đức tin chân chính. Còn ngược lại là một trọng tội và là tội ác khi người Âu chinh phục và cai trị người theo đạo Hồi, và tệ hơn nữa là đưa họ vào con đường lầm lạc. Theo nhận thức Hồi giáo, thì sự trở lại đạo Hồi là một điều ích lợi cho người được cải đạo và là một công đức đối với người giúp họ cải đạo. Theo luật Hồi giáo, từ đạo Hồi chuyển sang một đạo khác là phản đạo − đây là một tội vô cùng nghiêm trọng cho cả người bị lầm lạc và người làm cho người kia lầm lạc. Về vấn đề này, luật rất rõ ràng và dứt khoát. Nếu một người Hồi giáo từ bỏ đạo Hồi, ngay cả đối với một kẻ tân tòng quay trở lại đạo cũ, hình phạt là tội chết. Trong thời đại ngày nay, quan niệm và thực hiện takfir, tức là nhận biết và tố cáo hành vi phản đạo đã được mở rộng rất nhiều. Không phải là hiếm khi các nhóm cực đoan và chính thống cho rằng một số chính sách, hành động hoặc thậm chí chỉ là ý kiến của người rao giảng đạo Hồi cũng được coi là hành vi phản đạo, và án cho kẻ
phạm tội là tử hình. Đây là nguyên tắc được nêu trong fatwa đối với Salman Rushdie, việc ám sát Tổng thống Sadat và nhiều người khác. 
Các hoạt động của người Âu tại các nước Hồi giáo trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu là sự bành trướng thương mại và, theo cách nhìn của người đạo Hồi, đã bóc lột họ và đất nước của họ, trên hai mặt thương trường cũng như nguồn nguyên liệu. Sau đó là những đợt xâm lăng và chinh phục bằng vũ lực, nhờ đó mà các cường quốc châu Âu mới xây dựng được sự thống trị trên nhiều vùng đất quan trọng thuộc thế giới Hồi giáo − người Nga tại vùng Caucasus và vùng Transcaucasus và sau đó là vùng Trung Á; người Anh tại Ấn Độ, người Anh và người Hà lan tại Malaysia và Indonesia, và giai đoạn chót là người Pháp và người Anh tại vùng Trung Đông và Bắc phi. Tại những nơi này chủ nghĩa đế quốc đã cai trị trong nhiều thời kỳ dài ngắn khác nhau − tại một số nơi trong hàng thế kỷ như tại Đông nam Á và Ấn Độ; ở nơi khác, như tại vùng đất người Ả Rập tại Trung Đông, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn. 
Trong mỗi trường hợp, chủ nghĩa đế quốc đều để lại dấu ấn. Trong thế giới Ả Rập, thời kỳ cai trị của đế quốc Anh Pháp bắt đầu bằng sự đô hộ của người Pháp tại Algeria (1830), người Anh tại Aden (1839), tiếp tục với sự chiến đóng của người Anh tại Ai Cập (1882), người Pháp mở rộng kiểm soát tại Tunisia (1881) và Morocco (1911) và ảnh hưởng của người Anh tại vùng vịnh Ba tư và cuối cùng là sự phân chia các tỉnh thuộc đế quốc Ottoman Ả Rập tại vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu giữa hai đế quốc Tây Âu chính. Lần này các lãnh thổ mới bị chiếm đóng không những chỉ sáp nhập đơn thuần, theo kiểu truyền thống, thành các thuộc địa hoặc vùng lệ thuộc. Các lãnh thổ này được Hội quốc liên giao cho Anh và Pháp cai trị với nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho họ tiến đến độc lập. Giai đoạn này rất ngắn, từ sau thế chiến thứ nhất đến sau thế chiến thứ hai, khi quyền uỷ trị chấm dứt và các lãnh thổ bị ủy trị giành độc lập. Phần lớn bán đảo Ả Rập vẫn nằm ngoài tầm của đế quốc. 
Tuy nhiên, tác động của chủ nghĩa đế quốc được coi là rất lớn, và dưới con mắt của số đông dân cư trong khu vực, quả là cực kỳ độc hại. Tác động và sự thiệt hại chắc chắn là rất đáng kể, nhưng có lẽ ít được quan tâm và
không có tầm vóc như là các huyền thoại liên quan đến chủ nghĩa đế quốc từng được rêu rao. Dù sao thì chủ nghĩa đế quốc cũng đem lại một số lợi lộc − xây dựng hạ tầng, các dịch vụ công cộng, hệ thống giáo dục, cũng như một số thay đổi xã hội, nhất là sự xóa bỏ chế độ nô lệ và sự giảm bớt đáng kể tình trạng đa thê, tuy không loại bỏ được hoàn toàn. Sự tương phản có thể nhận thấy rất rõ khi so sánh tình hình giữa những nước từng bị đế quốc đô hộ, như Ai Cập và Algeria, với những nước vẫn còn giữ được độc lập, như Arabia và Afghanistan. Tại Arabia, các trường đại học hình thành muộn và cũng không nhiều. Hiện nay, với một dân số ước tính 21 triệu, chỉ có tám trường đại học − tức là chỉ nhiều hơn một so với bảy cơ sở giáo dục đại học được thành lập tại Palestine kể từ khi vùng đất này bị Israel chiếm đóng năm 1967. Chế độ nô lệ đến năm 1962 mới được luật pháp bãi bỏ tại Arabia Saudi, và sự áp bức phụ nữ vẫn còn nguyên vẹn. 
Nhưng chắc chắn cũng có những hậu quả tiêu cực lớn của chủ nghĩa đế quốc và nói rộng ra là ảnh hưởng của phương Tây hoặc châu Âu, thậm chí tại các quốc gia vẫn còn giữ được sự độc lập chính trị, như tại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Trong số những tác động canh tân hóa nổi bật là việc tăng cường quyền lực nhà nước thông qua việc củng cố bộ máy giám sát, đàn áp, và nhồi sọ, và cùng lúc làm suy yếu đi hoặc loại trừ các thế lực trung gian làm hạn chế quyền lực của các nhà cai trị chuyên chế. Sự thay đổi về xã hội, và sự đổ vỡ các mối quan hệ và ràng buộc xã hội xưa cũ, đã đem lại nhiều mối nguy hại lớn cho xã hội và tạo ra những tương phản mới càng ngày càng rộng, mà các phương tiện truyền thông hiện đại lại càng làm rõ thêm mồn một. Ngay từ năm 1832, một quan sát viên sắc sảo người Anh, Aldophus Slade, vốn là một sĩ quan hải quân trẻ đã nhận ra được sự khác biệt giữa giới quý tộc cũ và giới quý tộc mới. Giới quý tộc cũ sống bằng tài sản. Giới quý tộc mới thì lấy nhà nước làm tài sản của họ. Điều này cho đến nay vẫn còn đúng tại phần lớn các vùng đất Hồi giáo. 
Vào đầu thế kỷ 20 − mặc dù nền độc lập mong manh vẫn còn được duy trì tại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran và tại một số quốc gia xa xôi như Afghanistan, vào lúc đó việc xâm lăng cũng chẳng bỏ bèn gì − thì hầu như toàn bộ thế giới Hồi giáo đã được sáp nhập vào 4 đế quốc châu Âu là Anh, Pháp, Nga và Hà Lan. Các chính quyền và phe nhóm Trung Đông buộc phải học cách chọc
cho các kẻ kình địch hùng mạnh kể trên quay lại chống nhau. Có lúc, họ thắng cuộc chơi ít nhiều. Kể từ lúc các đồng minh phương Tây − Anh, Pháp và sau đó là Mỹ − đô hộ toàn bộ khu vực, các kẻ kháng cự Trung Đông theo tự nhiên là quay sang tìm sự giúp đỡ từ phía kẻ thù của đồng minh. Trong thế chiến thứ hai, họ quay sang Đức; trong thời chiến tranh lạnh, đó là Liên Xô. 
Ngay từ năm 1914, nước Đức lúc đó liên kết với đế quốc Ottoman, cố gắng huy động tình cảm tôn giáo ở người dân đạo Hồi thuộc các đế quốc Anh, Pháp và Nga để họ chống lại các ông chủ đế quốc và giúp nước Đức thủ lợi. Nổ lực này chỉ đem lại kết quả quá ít, cho nên bị một nhà nghiên cứu Đông phương học người Hà lan tên là Snouck Hurgronje chế nhạo trong một bài báo danh tiếng nhan đề: “Thánh chiến: chế tạo tại Đức”. 
Nơi mà Kaiser thất bại, thì có lúc Hitler lại đạt được thành công đáng kể. Vào cuối tháng Ba năm 1933, ngay sau khi Hitler lên cầm quyền vài tuần, vị Mufti tại Jerusalem, Hajj Amin al-Husseini, đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich Wolff, Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem, và đề nghị được cộng tác. Viên lãnh sự, sau khi báo cáo đề nghị này về Berlin, góp ý rằng nên từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua. Khi không còn hy vọng đứng về phía đế quốc Anh vì đã là đồng minh của Đức, không còn cách nào khác để chống lại Anh bằng cách bắt tay với phong trào chủ yếu chống Anh lúc đó. Ngay sau hiệp ước Munich 1938, khi Hitler rốt cuộc từ bỏ hy vọng lôi kéo Anh vào liên minh chủng tộc Aryan cùng với Đức, thì các đề nghị của giới lãnh đạo Palestine mới được chấp nhận. Từ đó trở đi và trong suốt những năm chiến tranh, mối liên kết của họ rất chặt chẽ và vị Mufti, khi thì ở Jerusalem, lúc ở Beirut, Baghdad, và cuối cùng từ văn phòng tại ngoại ô Berlin, đã đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị giữa các nước Ả Rập. Năm 1941, nhờ sự giúp đỡ của Đức thông qua Syria do chính phủ Vichy cai quản, Rashid ‘Ali có lúc đã thành công dựng lên một chế độ thân phe trục tại Iraq. Ông này bị quân Đồng minh đánh bại và chạy trốn sang Đức. Ngay cả Anwar Sadat, cũng tự thừa nhận là đã làm gián điệp cho Đức tại Ai Cập khi Anh còn cai trị. 
Sự thất bại và sụp đổ của Đế chế thứ ba cùng bộ máy của nó đã để lại một khoảng trống nhức nhối. Như nhiều người thấy được, chính trong giai
đoạn giao thời này mà vào năm 1948 người Do Thái đã dựng nên một nhà nước và làm cho quân đội các nước Ả Rập bị thua trận nhục nhã khi ồ ạt tấn công ngăn không cho người Do Thái thành lập nhà nước. Vì thế, cần phải tìm một ông chủ và người bảo vệ mới để thay thế cho Đế chế thứ ba, đó là Liên Xô. 
Rồi đến phiên Liên xô sụp đổ, chỉ còn lại Mỹ là siêu cường duy nhất. Như vậy kỷ nguyên của lịch sử vùng Trung Đông được mở màn với Bonaparte và Nelson và kết thúc với Mikhail Gorbachev và George Bush cha. Thoạt đầu, dường như kỷ nguyên cạnh tranh giữa các đế quốc đã chấm dứt với sự rút lui của hai kình địch − Liên xô do không làm được, còn nước Mỹ thì không muốn đóng vai trò đế quốc. Nhưng trước những biến cố dài hơi, nhất là Cách mạng Iran và chiến tranh do nhà độc tài Iraq, Saddam Hussein, đã buộc nước Mỹ phải tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các vụ việc của khu vực. Người dân Trung Đông xem đây là một giai đoạn mới của ván bài đế quốc cũ. Người Mỹ chưa hề có khả năng hoặc ý muốn đóng vai trò đế quốc. 
Các nhà lãnh đạo Hồi giáo, cả hai phe chính phủ và đối lập, phản ứng với tình hình mới này không giống nhau. Đối với một số người, đáp ứng tự nhiên là tìm một người bảo trợ mới − người kế tục Đế chế thứ ba và Liên xô, người mà họ có thể tìm được sự khích lệ, ủng hộ và giúp đỡ khi có chiến tranh chống lại phương Tây. Trong khi đó, phương Tây với tính cách là một khối quyền lực càng ngày càng lùi xa về phía tây hơn nữa và hiện nay chủ yếu chính là nước Mỹ, đã tạo ra một khả năng thú vị mới là châu Âu lục địa đóng vai trò đối nghịch. Một số nước châu Âu, vì lý do riêng, lại chia sẻ có mối hiềm thù và ác ý của vùng Trung Đông đối với nước Mỹ, bày tỏ ý muốn sẵn lòng chấp nhận vai trò này. Nhưng đó chỉ là ý muốn, mà không có phương tiện. 
Việc Liên xô sụp đổ, và thảm bại sau đó của Saddam Hussein trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, là một cú đấm tai hại cho các phong trào quốc gia chủ nghĩa thế tục, nhất là đối với người Palestine, thêm một lần nữa, cũng như năm 1945, thấy mình bơ vơ không có cường quốc nào bảo trợ và giúp đỡ cho chính nghĩa của mình. Người bảo trợ Liên xô không còn nữa.
Thậm chí những nước Ả Rập ủng hộ tài chính cho họ là Kuwait và Saudi Arabia, tức giận vì Palestine ủng hộ nhiệt tình Saddam Hussein, có lúc cũng ngưng không trợ cấp, lại càng làm cho người Palestine thêm cô lập, nghèo đói và yếu hẳn đi. Chính bởi tình hình đó buộc họ phải nghĩ đến điều không thể nghĩ đến là chịu ký thoả hiệp hoà bình với Israel. Dưới con mắt của nhóm chính thống, thì việc tổ chức PLO được Mỹ và Israel cứu sống và bị đưa vào tròng khi hạ mình đối thoại với Israel là hành động đáng bị khinh bỉ. 
Tất cả những điều này càng làm cho nhóm chính thống thấy quan điểm về thế giới của mình có lý hơn, và lý lẽ của họ thôi thúc hơn. Họ − đúng ra là với Usama bin Ladin − diễn giải sự sụp đổ của Liên xô theo một cách khác. Theo nhận thức của họ, thì chính họ, chứ không phải là Mỹ đã chiến thắng chiến tranh lạnh. Dưới mắt họ, Liên xô không phải là người giúp đỡ tốt bụng trong cuộc chiến chung chống lại người Do Thái và các đế quốc phương Tây nhưng lại là nơi xuất phát của chủ nghĩa vô thần và không tín ngưỡng, là nước đã áp bức hàng triệu người Hồi giáo, đã xâm lược Afghanistan. Họ cho rằng, không phải là không có lý, chính sự chiến đấu của họ tại Afghanistan đã đánh bại Hồng quân hùng mạnh và đưa Liên xô đến chỗ thất bại và sụp đổ. Sau khi thanh toán xong một kẻ địch nguy hiểm và hung tàn trong nhóm hai siêu cường vô đạo, nhiệm vụ kế tiếp của họ là đối phó với kẻ địch còn lại, đó là nước Mỹ, và trong trận chiến này, ai mà thoả hiệp sẽ được coi là công cụ và tay sai cho kẻ địch vô đạo. Dựa trên nhiều lý do, nhóm chủ trương chính thống Hồi giáo cho rằng việc đánh nước Mỹ sẽ đơn giản và dễ dàng hơn. Theo họ, nước Mỹ hiện nay thối nát về đạo đức, xã hội suy đồi, và hệ quả là nền chính trị và khả năng quân sự đều suy yếu. Nhận thức này có một lai lịch khá thú vị.
4 
PHÁT HIỆN NƯỚC MỸ 
Trong một thời gian dài, tại các vùng đất Hồi giáo, nước Mỹ hầu như không hề được biết đến. Thoạt đầu, các chuyến du hành khám phá không được quan tâm mấy − chỉ có một bản sao còn sót lại bản đồ châu Mỹ do Christopher Columbus vẽ, được dịch ra tiếng Thổ, và lưu giữ tại bảo tàng Topkapi, Istanbul. Tài liệu về sự khám phá ra Tân thế giới của một nhà địa lý người Thổ vào thế kỷ 16, có tiêu đề Lịch sử vùng Tây Ấn là một trong những quyển sách đầu tiên in tại Thổ Nhĩ Kỳ − vào thế kỷ 18. Nhưng sự quan tâm cũng rất ít, và không có mấy tài liệu về nước Mỹ bằng tiếng Thổ, tiếng Ả Rập hoặc bằng các ngôn ngữ Hồi giáo khác cho tới mãi gần đây. Khác với Cách mạng Pháp xảy ra vài năm sau đó, chẳng mấy ai biết đến Cách mạng Mỹ, và được coi, nếu có, chỉ là một hình thức nổi dậy quen thuộc. Những điều ghi nhận của viên đại sứ Morocco tại Tây ban nha chắc chắn là tài liệu đầu tiên bằng tiếng Ả Rập về Cách mạng Mỹ vào thời điểm đó: 
Đại sứ Anh đã rời khỏi Tây Ban Nha vì cuộc chiến nổ ra giữa người Tây Ban Nha và nước Anh. Nguyên nhân của việc này là vì người dân Mỹ là đối tượng của vị vua Anh và nhờ thu nhập mà ông thu được từ họ, ông mạnh hơn tất cả các dân tộc Kitô khác. Người ta nói rằng ông ta đã tăng gánh nặng thuế má và gài bẫy họ, gởi cho họ một chiếc tàu chở đầy trà và buộc họ phải trả giá cao hơn thường lệ. Họ đã từ chối và yêu cầu ông chấp nhận số tiền mà họ trả cho số trà đó, nhưng không áp đặt thuế quá mức. Ông từ chối và họ nổi dậy chống lại ông, tìm kiếm sự độc lập. Người Pháp đã giúp họ trong cuộc nổi dậy chống lại người Anh, hy vọng theo cách này để làm suy yếu người Anh vì họ đang là thế lực mạnh nhất trong số những người Kitô trên biển. 
Sultan của xứ Morocco ký một hiệp ước hữu nghị với nước Mỹ vào năm 1787, và sau đó nước cộng hoà non trẻ này có một số mối quan hệ, khi thì thân thiện, khi thì thù nghịch, chủ yếu là thương mại, nhưng tất cả đều hạn hẹp với các nước Hồi giáo khác. 
Tài liệu được ghi chép đầu tiên có nhắc tới nước Mỹ như là một biểu
tượng đối với thế giới Hồi giáo xảy ra tại Istanbul ngày 14 tháng Bảy năm 1793, khi viên đại sứ Pháp mới đến nhận công tác đã tổ chức một buổi ra mắt trước công chúng mà điểm đỉnh là một loạt phát súng chào mừng bắn từ hai chiến hạm Pháp đậu tại mũi Seraglio. Theo báo cáo của viên đại sứ, họ đã kéo cờ đế quốc Ottoman, cờ của cộng hòa Pháp và Mỹ, và “cờ của những cường quốc khác đã không làm bẩn súng khi đứng chung hàng ngũ với những bạo chúa nghịch đạo”. Một đại sứ Pháp kế nhiệm, là tướng Aubert du Bayet (sau này là Dubayet), đến Istanbul vào năm 1796, cũng có nguồn gốc Mỹ do vì sinh ra tại New Orleans và đã chiến đấu trong quân đội Mỹ. Ông này cố tâm truyền bá các tư tưởng cách mạng tại Thổ Nhĩ Kỳ. 
Nhưng đây là những người Pháp, không phải là các doanh nghiệp của Mỹ và trong khi tư tưởng cách mạng Pháp gây ảnh hưởng đến tư tưởng và văn học của người Thổ, người Ả Rập và những người khác trong suốt thế kỷ 19, thì Cách mạng Mỹ, và Cộng hòa Mỹ sinh ra từ cuộc cách mạng này, trong một thời gian dài lại không hề được nhắc tới và thậm chí cũng không mấy ai biết. Ngay cả sự hiện diện của nước Mỹ càng ngày càng nhiều thêm − nào là nhà buôn, lãnh sự, nhà truyền giáo và thầy giáo − cũng không gây được sự hiếu kỳ, và hầu như cũng không hề được văn chương và báo chí thời ấy nhắc đến. Các sách giáo khoa về địa lý, phần lớn được dịch hoặc dựa theo nguyên bản châu Âu, chỉ nêu vắn tắt một vài sự kiện về Tây bán cầu, còn trên báo chí thì rãi rác có một số tài liệu nhắc đến các biến cố xảy ra tại Mỹ, thường được nhắc tới dưới hình thức tiếng Pháp, États Unis, chuyển sang tiếng Ả Rập là Itāzūnī, hoặc một dạng tương tự. Một quyển sách giáo khoa được xuất bản tại Ai Cập vào năm 1833, được nhà văn và dịch giả nổi tiếng Sheikh Rifa’a Rafi’al − Tahtawi (1801-1873) phỏng dịch từ tiếng Pháp có bổ sung một đoạn ngắn mô tả: “Itāzūnī là một quốc gia (dawla) gồm có nhiều vùng (iqlīm), hợp lại thành một nước cộng hòa tại vùng đất Bắc Mỹ. Dân chúng gồm các bộ lạc từ nước Anh sang và chiếm cứ vùng đất này. Sau đó họ đứng lên tự giải phóng khỏi sự kiểm soát của người Anh và giành được tự do độc lập. Đây là một trong những nước văn minh lớn nhất tại châu Mỹ, và tại đây mọi tín ngưỡng và cộng đồng tôn giáo đều được phép. Chính phủ đóng tại một thị trấn tên là Washington”. Nhưng câu kết luận đáng cho ta chú ý.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một mặt trên sách vở và các bách khoa thư và mặt khác trên báo chí có chú ý nhiều hơn về nước Mỹ, nhưng vẫn còn rất hạn chế, và dường như chỉ khu trú vào các nhóm thiểu số không theo Hồi giáo. Các tài liệu tham khảo liên quan đến nước Mỹ trong lãnh vực văn chương nói chung có tính không tích cực hoặc tiêu cực nhưng chỉ đơn thuần là mô tả. Các nhà truyền giáo dĩ nhiên không được ưa chuộng trong các cộng đồng Hồi giáo, nhưng dường như cũng không hề có sự ngờ vực, còn sự căm ghét thì lại càng ít hơn. Sau nội chiến Mỹ, một số sĩ quan Mỹ thất nghiệp chạy sang phục vụ cho các nhà cầm quyền Hồi giáo, giúp họ canh tân quân đội. Các nhà truyền giáo người Mỹ, dù bị cấm không cho cải đạo đối với tín đồ đạo Hồi, nhưng có thể cải đạo cho một số người Cơ Đốc chính thống sang các hệ phái Tin lành khác nhau, và điều quan trọng hơn là, cung cấp nền giáo dục trung học và cao đẳng cho số học sinh càng ngày càng đông, đầu tiên là nam, sau tới nữ, trước hết cho các nhóm thiểu số, sau mới sang cộng đồng Hồi giáo. Một số học sinh tốt nghiệp từ những trường này thậm chí còn sang Mỹ du học tại các trường Cao đẳng và Đại học. Lúc đầu, chỉ có du học sinh từ các cộng đồng thiểu số Cơ Đốc, sau đó có thêm nhiều học sinh đạo Hồi tham gia, một số trong nhóm này thậm chí còn được nhà nước xuất tiền cử đi học. 
Thế chiến lần thứ hai, kỹ nghệ dầu mỏ, và những phát triển hậu chiến đã đưa nhiều người Mỹ đến các vùng đất Hồi giáo; thì cũng có nhiều người Hồi giáo đến nước Mỹ ngày càng đông, thoạt đầu là học sinh, sau đó là thầy giáo, doanh nhân, hoặc du khách, và cuối cùng là dân di cư. Phim ảnh và sau đó là truyền hình đã du nhập lối sống Mỹ, hoặc ít nhất cũng một dạng của lối sống này, vào hàng triệu người mà trước đó chưa hề nghe hoặc biết đến ngay cả tên nước Mỹ. Nhiều hàng hóa Mỹ, nhất là những năm ngay sau chiến tranh, khi các đối thủ cạnh tranh châu Âu hầu như không còn và sự cạnh tranh Nhật bản chưa có, đã len lõi vào đến những chợ búa hẻo lánh nhất thuộc thế giới Hồi giáo, đã chiếm được nhiều khách hàng mới và có lẽ điều quan trọng hơn cả, là đã tạo ra được những thị hiếu và tham vọng mới. Với một số người, nước Mỹ đại diện cho tự do, công bằng và cơ hội. Đối với nhiều người khác, nước Mỹ tượng trưng cho giàu có, quyền lực và thành công, vào thời điểm này, những tính chất trên chưa được coi là tội lỗi hoặc tội ác.
Và rồi có sự thay đổi lớn, khi các nhà lãnh đạo của một phong trào phục hưng rộng khắp và ngày càng mở rộng cố công tìm kiếm và cho rằng kẻ thù của mình là kẻ thù của Thượng đế và xác định “nơi ở và một tên gọi” ở Tây bán cầu. Đột nhiên, hoặc dường như thế, nước Mỹ bỗng trở thành kẻ thù không đội trời chung, là hiện thân của cái ác, và là kẻ thù hiểm ác của tất cả những gì được coi là tốt đẹp đối với Hồi giáo, và nhất là với tín đồ đạo Hồi. Tại sao như thế? 
• • • 
Trong số những yếu tố gây nên tâm trạng chống Mỹ có một số ảnh hưởng của giới trí thức châu Âu. Một trong những ảnh hưởng đó là từ nước Đức, nơi mà cái nhìn tiêu cực về nước Mỹ hình thành một trường phái tư tưởng, trong số đó có những nhà văn thuộc các trường phái rất khác nhau như Rainer Maria Rilke, Oswald Spengler, Ernest Junger và Martin Heidegger. Theo nhận thức của những tác giả này thì nước Mỹ là một ví dụ tột cùng về một nền văn minh không có văn hóa; giàu có và tiện nghi, rất phát triển về mặt vật chất nhưng giả tạo và vô tri; chỉ có tính lắp ráp hoặc quá lắm cũng chỉ là được dựng lên, không hề trưởng thành; có tính máy móc không chút hữu cơ, chỉ là một phức hợp hoàn toàn kỹ thuật nhưng không hề có chút gì là tinh thần và sức sống của các nền văn hóa nhân bản, quốc gia, có cội rễ của nước Đức và những dân tộc “chân chính” khác. Nền triết học Đức và nhất là triết học về giáo dục được giới trí thức tại Ả Rập và một số nước Hồi giáo khác hâm mộ nhiều vào những năm thuộc thập kỷ 1930 và đầu 1940 mang thông điệp chủ nghĩa chống Mỹ về mặt triết học. Lối giải thích theo chủ nghĩa quốc xã của ý thức hệ Đức rất có ảnh hưởng trong các nhóm theo chủ nghĩa quốc gia, nhất là đối với những người sáng lập và đảng viên đảng Ba’th ở Syria và Iraq. Sau khi Pháp đầu hàng Đức vào tháng Sáu năm 1940, các lãnh thổ ủy trị của Pháp là Syria và Liban vẫn còn đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ Vichy và vì thế khá dễ cho người Đức tiếp cận, và sử dụng như là các căn cứ hoạt động của họ trong thế giới Ả Rập. Nổi bật nhất là cố gắng − có lúc đã thành công − hình thành một chế độ thân Quốc xã tại Iraq. Đảng Ba’th được thành lập trong thời kỳ này. Các hoạt động trên chấm dứt khi người Anh (và nước Pháp tự do) chiếm lại Syria − Liban vào tháng Bảy năm 1941, nhưng đảng Ba’th và các ý thức hệ đặc thù của nó vẫn
tồn tại. 
Chủ đề về tính nhân tạo và thiếu một bản sắc dân tộc đích thực của Mỹ cũng giống như các nước Ả Rập đã xuất hiện thường xuyên trên các bài viết của đảng Ba’th và thỉnh thoảng lại được Saddam Hussein khơi dậy, như trong một diễn văn đọc hồi tháng giêng năm 2002. Khi các cuộc chiến − thế chiến thứ hai, rồi sau đó chiến tranh lạnh − còn tiếp tục, vai trò của Mỹ lãnh đạo phương Tây ngày càng trở nên nổi bật, cho nên cái phần thù ghét dành cho nước Mỹ lại càng đáng chú ý hơn. 
Sau khi Đế chế thứ ba sụp đổ, và ảnh hưởng của Đức không còn, thì một thế lực khác và một triết lý khác, thậm chí còn chống Mỹ dữ dội hơn, thế chân − đó là chủ nghĩa Marxit kiểu Liên xô đứng lên tố cáo chủ nghĩa tư bản phương Tây và nước Mỹ là đại diện nguy hiểm và tiên tiến nhất của nó. Dù thực tế là việc người Nga không hề nhẹ tay khi thống trị phần lớn đế quốc châu Á mênh mông do Sa hoàng chinh phục và sau đó bị Liên xô tái chinh phục nhưng ít nhiều cũng không ngăn được việc họ tự cho mình là chiến sĩ và là người bảo trợ cho các phong trào chống chủ nghĩa đế quốc lan tràn trên khắp thế giới sau thế chiến thứ hai, không chỉ duy nhất tại vùng Trung Đông. Vào năm 1945, dường như chủ nghĩa xã hội sẽ là làn sóng của tương lai. Tại Đông Âu, Liên xô đã hoàn toàn thắng trận. Tại Tây Âu, đảng Lao động Anh đã đánh bại ngay cả Winston Churchill vĩ đại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945. Trên toàn thế giới Ả Rập các chính phủ và phong trào hăng hái tiếp thu các hình thức của chủ nghĩa xã hội. 
Nhưng dù rằng các nhà bảo trợ và các chủ nghĩa ngoại nhập có mang lại giúp đỡ vật chất và cách diễn đạt trí thức chống phương Tây và chống Mỹ, thì họ cũng không đề ra, và chắc chắn là không giải thích được vì sao phong trào bài xích phương Tây lại làm cho nhiều nước Trung Đông và đâu đó trong thế giới Hồi giáo, tiếp thu những tư tưởng như thế. Ta phải nói cho rõ là tạo điều kiện thuận lợi cho các học thuyết cực kỳ khác nhau như thế không phải là lý thuyết chủng tộc của bọn quốc xã Nazi, lý thuyết này không mấy lôi cuốn đối với người Ả Rập, hoặc chủ nghĩa Cộng sản vô thần, lại càng không hấp dẫn được tín đồ đạo Hồi, nhưng chính là ở cái gốc bài phương Tây. Chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng sản là những lực lượng chính
chống lại phương Tây, cả về lối sống lẫn vai trò cường quốc trên thế giới, và có như thế, hai chủ nghĩa đó mới tranh thủ được cảm tình hoặc thậm chí sự cộng tác của những ai xem phương Tây là kẻ thù chính của mình. 
Nhưng tại sao lại như thế? Nếu ta đi từ cái chung đến cái riêng, thì không hề thiếu các hành động hoặc chính sách riêng lẽ, được các chính quyền phương Tây đưa ra hoặc theo đuổi, đã làm khơi dậy tại Trung Đông và các dân tộc đạo Hồi khác lòng căm giận sâu sắc diễn ra dưới nhiều hình thức chiến đấu − để giành độc lập khỏi sự cai trị hoặc đô hộ của ngoại bang; để giải phóng tài nguyên khỏi sự bóc lột của nước ngoài, chủ yếu là dầu mỏ; để lật đổ những kẻ cầm quyền và chế độ tay sai và theo đuôi của phương Tây. Nhưng cái cảnh thường xuyên là khi tất cả những chính sách trên bị hủy bỏ và các vấn đề đã giải quyết xong, tình hình chỉ dịu đi tạm thời và khu trú. Khi người Anh bỏ Ai Cập, người Pháp bỏ Algeria, bỏ hết tài sản tại các nước Ả Rập khác, thì các chế độ quân chủ bị lật đổ tại Iraq và Ai Cập, vua Shah chủ trương cải cách theo phương Tây bỏ chạy khỏi Iran, các công ty dầu mỏ từ bỏ quyền kiểm soát các giếng dầu mà họ đã bỏ công phát hiện và xây dựng, và tự hài lòng với những thỏa thuận có được với các chính phủ của những nước này − tuy vậy sự phẫn uất tràn lan của những người theo phe chính thống và cực đoan chống lại phương Tây vẫn không hề suy giảm. 
• • • 
Có lẽ ví dụ thường được nêu ra nhất về sự can thiệp của phương Tây cùng với những hệ quả của nó là việc lật đổ chính phủ Mosaddeq tại Iran năm 1953. Cuộc khủng hoảng bắt đầu khi Mosaddeq, nhà lãnh đạo bình dân theo chủ nghĩa dân tộc, được nhân dân ủng hộ, quyết định quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ, đặc biệt là công ty Anh-Iran, công ty quan trọng nhất. Chắc chắn là, những điều kiện theo đó công ty này và những công ty dầu mỏ nhượng quyền khác hoạt động thực ra đều không bình đẳng và phù hợp. Lấy ví dụ, công ty dầu mỏ Anh–Iran trả thuế cho chính phủ Anh nhiều hơn là tiền thuê mỏ cho chính phủ Iran. Nước Mỹ lúc đầu liên đới vì là đồng minh của Anh, rồi sau đó, dần dà, do sợ Liên xô nhảy vào ủng hộ chính phủ Mosaddeg. Vì thế, Anh và Mỹ quyết định, dĩ nhiên là có sự đồng ý của vua Shah, tống khứ Mosaddeg bằng một cuộc đảo chính. Lúc đầu, cuộc đảo
chính không suôn sẻ mấy. Mossadeg chỉ bắt giữ phái viên của vua Shah và ra lệnh bắt tướng Zahedi, đầu sỏ nhóm đảo chính và dự tính sẽ cầm đầu chính phủ mới thân vua Shah. Có lúc những người ủng hộ Mosaddeg và các đảng viên đảng Tudeh Cộng sản tổ chức biểu tình rộng rãi trên đường phố, đả đảo cả vua Shah và thân phụ ông ta, hô to “Đế quốc Mỹ cút về nước”. Vua Shah cùng với vợ bỏ trốn sang Iraq, tại đây ông ta bí mật gặp Đại sứ Mỹ, và sau đó bay sang Rome. 
Trong khi đó, các cuộc biểu tình tại Tehran thay đổi tính chất. Lúc trước họ chống vua Shah, bây giờ họ lại quay sang ủng hộ, và nhất là quân đội xuống đường ủng hộ nhà vua. Sau nhiều đợt biểu tình, Mosaddeg bị lật đổ và Zahedi đứng ra làm Thủ tướng. Vào ngày 19 tháng Tám năm 1953, vua Shah nhận được tin qua một bức điện do AP đánh đi: “Tehran: Mosaddeq đã bị lật đổ. Quân đội nhà vua kiểm soát Tehran. Zahedi làm Thủ tướng”. Ngay sau đó, vua Shah quay về Tehran và chiếm lại ngai vàng. 
Kết cuộc, theo tiêu chuẩn trong vùng, là khá nhẹ nhàng. Bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ Mosaddeg bị xử tử và một số khác ủng hộ ông này bị bỏ tù. Còn chính Mosaddeq thì bị đưa ra tòa và bị án ba năm quản thúc tại nhà. Sau khi được thả vào tháng Tám năm 1956, ông ta sống tại điền trang dưới sự giám sát cho đến năm 1967. Do sự can thiệp tích cực của CIA Mỹ và MI6 Anh trong vụ lật đổ chế độ và giúp vua Shah quay lại cầm quyền, cho nên vua Shah bị đại đa số thần dân coi như là bù nhìn của Anh, sau đó là của Mỹ. 
Nếu đúng vậy, thì bù nhìn vừa không đắc lực vừa không đáng tin cậy. Khi cách mạng Iran xảy ra năm 1979, cả Anh lẫn Mỹ không hề ra tay để cứu vua Shah khỏi bị lật đổ. Chính quyền Mỹ lúc đó đã không ra tay giúp đỡ mà còn nói rõ là họ không có ý định làm gì cả. Thậm chí còn cường điệu hơn nữa khi họ từ chối không cho vua Shah và gia đình tị nạn tại Mỹ. Vua Shah trốn khỏi Tehran vào giữa tháng Giêng năm 1979 và bay qua ngã Ai Cập đến Morocco, nơi đây ông làm khách của nhà vua vài ngày. Nhưng vua Morocco lại có những nổi lo khác, nhất là dự họp Tổ chức Hội nghị Hồi giáo mà ngài đứng ra tổ chức tại Rabat vào đầu tháng Tư. Vì thế vua Hassan yêu cầu vua Shah ra đi trước ngày 30 tháng Ba. Vua Shah thông báo cho đại sứ Mỹ ý
muốn chấp thuận lời đề nghị cho tị nạn của Tổng thống Carter, nhưng hóa ra là đề nghị này đã bị hủy bỏ, rõ ràng là đặt ưu tiên việc thiết lập quan hệ tốt với các nhà lãnh đạo mới của Iran trên việc cho phép vua Shah và gia đình tị nạn. Người Mỹ chỉ động lòng khi vua Shah bệnh nặng gần chết và cần được chăm sóc y tế gấp. Vào ngày 22 tháng Mười, vua Shah được thông báo là có thể chuẩn bị đến Mỹ. Ngài đến New York vào sáng sớm hôm sau và được đưa thẳng vào bệnh viện. Biết rằng sự có mặt của mình sẽ gây khó cho nước Mỹ, cho nên mặc dù còn đang bệnh nặng, ông ta cũng rời nước Mỹ và đến Panama, chật vật mới khỏi bị trục xuất về Iran và từ Panama, ông ta quay về Ai Cập, sống ở đó cho đến khi chết vào năm 1980. 
Các nhóm khác nhau trong vùng rút ra được hai bài học từ những sự kiện này − một là, người Mỹ sẵn sàng vừa sử dụng vũ lực và âm mưu để sắp đặt hay duy trì các nhà cầm quyền bù nhìn tại các nước Trung Đông; hai là, người Mỹ không phải là kẻ bảo trợ đáng tin cậy khi những bù nhìn bị dân chúng tấn công mạnh mẽ, lúc đó họ sẽ sẵn sàng bỏ rơi. Một bài học gây nên sự oán hận, còn bài học kia là sự khinh bỉ − quả là một sự kết hợp nguy hiểm. 
Rõ ràng là có cái gì đó liên quan nhiều hơn là những mối bất bình cụ thể này, có thể là rất nhiều và quan trọng, là một cái gì đó sâu sắc hơn đã chuyển mỗi sự bất hoà thành một vấn đề và làm cho vấn đề này trở nên không thể nào giải quyết được. Cái mà ta phải đối đầu hiện nay không chỉ là một lời oán trách về một chính sách nào đó của Mỹ mà đúng là một sự từ chối và kết tội, chứa đầy giận dữ và khinh miệt tất cả những gì mà nước Mỹ được coi là đại diện trên thế giới hiện nay. 
• • • 
Một khuôn mặt chủ chốt trong quá trình hình thành những thái độ mới đó là Sayyid Auth, người gốc Ai Cập đã trở thành một nhà tư tưởng chủ đạo của phong trào chính thống Hồi giáo và là một thành viên tích cực của tổ chức chính thống là Các huynh đệ Hồi giáo. Sinh ra tại một làng vùng Thượng Ai Cập năm 1906, ông này học tại Cairo, rồi đi dạy học vài năm và sau đó làm công chức tại bộ Giáo dục Ai Cập. Nhờ có khả năng, ông ta được gởi đi dự một khoá học đặc biệt tại Mỹ từ tháng Mười một năm 1948 đến tháng Tám
năm 1950. Tính cực đoan về chủ nghĩa chính thống và khả năng viết lách của ông phát triển ngay sau khi từ Mỹ trở về nước. Sau vụ đảo chánh quân sự tháng Bảy năm 1952, lúc đầu ông ta liên hệ chặt chẽ với nhóm được gọi là Sĩ quan tự do, nhưng sau đó không theo họ nữa khi những bài giảng về Hồi giáo của ông va chạm với các chính sách của phe theo đường lối thế tục. Sau nhiều lần đụng độ với nhà cầm quyền, vào năm 1955 ông ta bị kết án mười lăm năm tù. Nhờ sự can thiệp của Tổng thống Arif của Iraq, ông được thả vào năm 1964, và vào cuối năm này ông xuất bản một trong những tác phẩm chính của mình, Ma’alim fil-Tariq (Những chỉ báo trên đường Đạo). Vào ngày 9 tháng Tám, 1965, ông ta bị bắt trở lại, và lần này bị kết tội là phản bội và, cụ thể là có âm mưu ám sát Tổng thống Nasser. Sau một phiên xử bỏ qua những thủ tục, ông ta bị kết án tử hình vào ngày 21 tháng Tám năm 1966. Án lệnh được thi hành tám ngày sau đó. 
Thời gian lưu trú tại Mỹ của Sayyid Quth dường như là giai đoạn quyết định trong sự hình thành các tư tưởng của ông ta về các mối liên hệ giữa đạo Hồi với thế giới bên ngoài, và nhất là, chính bên trong thế giới Hồi giáo. Nhà nước Israel mới vừa được thành lập và tồn tại được nhờ đánh thắng trận đầu trong một loạt các cuộc chiến giữa khối Ả Rập và Israel. Chính đây là thời điểm thế giới mới biết được sự huỷ diệt gần như toàn bộ người Do Thái tại các nước châu Âu do Quốc xã chiếm đóng, và công luận tại Mỹ, cũng như tại nhiều nơi trên thế giới, đa số đều đứng về phía Israel. Mối liên hệ thời chiến giữa Đệ tam Đế chế và các nhà lãnh đạo Ả Rập nổi tiếng như Mufti tại Jerusalem và Rashid ‘Ali của Iraq cũng được đưa lên báo, và như thế cảm tình của quần chúng đương nhiên là dồn cho phía được coi là nạn nhân của Hitler trong nổ lực đấu tranh thoát khỏi sự tàn sát của các đồng phạm của Hitler. Sayyid Quth bị choáng khi thấy mức độ ủng hộ tại Mỹ đối với những gì mà ông ta coi như sự tàn sát của người Do Thái đối với đạo Hồi với sự đồng lõa của người Cơ Đốc. 
Càng rõ hơn nữa là cái phản ứng choáng váng của ông ta đối với lối sống Mỹ − chỉ toàn là tội lỗi và sa đọa, thói ham mê những điều mà ông ta gọi là sự chung chạ xác thịt. Sayyid Quth nhận ra được sự đối nghịch giữa phương Đông tâm linh và phương Tây với chủ nghĩa ưa vật chất, và coi nước Mỹ là một hình thái tận cùng của chủ nghĩa này. Ông ta viết rằng, ở Mỹ, mọi thứ,
thậm chí cả tôn giáo cũng được đo bằng những lời lẽ vật chất. Ông ta nhận thấy ở Mỹ có nhiều nhà thờ nhưng lại cảnh báo người đọc là không nên hiểu rằng cứ nhiều nhà thờ là tình cảm tôn giáo và tâm linh cũng nhiều. Theo ông, nhà thờ ở Mỹ hoạt động như kinh doanh, tranh nhau khách hàng và quảng cáo, và sử dụng các phương pháp như ở cửa hàng và nhà hát để thu hút khách hàng và người xem. Mục sư nhà thờ, cũng giống như người quản lý một doanh nghiệp hoặc một nhà hát, thành công là tất cả, và thành công được đo bằng kích thước − mức độ to lớn, bằng con số. Để chiêu dụ khách hàng, nhà thờ còn trơ trẽn đứng ra quảng cáo và chào mời cái mà người Mỹ tìm kiếm nhiều nhất − thoải mái hoặc vui vẻ (ông ta ghi tiếng Anh − a good time và fun trong bản tiếng Ả Rập). Kết quả đưa đến là các sảnh sinh hoạt của nhà thờ, nơi mà các giáo sĩ làm ban phép lành, trở thành nơi nhảy nhót, nơi đàn ông đàn bà gặp nhau, buông tuồng, sàm sỡ. Các mục sư thậm chí còn đi đến mức để đèn mờ nhằm làm cho cuộc khiêu vũ cuồng nhiệt hơn. Ông ta viết một cách kinh tởm “Tiếng nhạc từ máy hát làm điệu nhảy khích động hơn, sàn nhảy trở thành nơi quay cuồng giữa gót chân, và đùi, tay quấn lấy hông, môi vú kề nhau, bầu không khí đầy vẻ dâm dật”. Ông ta cũng trích dẫn bản báo cáo Kinsey về hành vi tình dục để làm căn cứ cho phần mô tả và kết tội tính sa đọa của xã hội người Mỹ. Qua nhận thức này về phương Tây và lối sống của nó có thể giải thích tại sao các tên khủng bố sùng đạo lại coi các vũ sảnh, hộp đêm và những nơi khác có thanh niên nam nữ tụ tập là các mục tiêu hợp logic. Những lời tố cáo chống lối sống Mỹ của Sayyid Quth quá dữ dội cho nên ông ta phải rời bỏ vị trí công tác tại Bộ giáo dục vào năm 1952. Hiển nhiên là sau đó ông ta gia nhập tổ chức Huynh đệ Hồi giáo. 
Công kích chính trong các bài viết và bài giảng của Sayyid Quth nhắm vào kẻ thù nội bộ − vào cái mà ông ta gọi là kỷ nguyên mới của sự ngu dốt, theo tiếng Ả Rập là jahiliyya, là một từ cổ điển Hồi giáo để chỉ thời kỳ đầy rẫy bọn ngoại đạo tại đất Ả Rập trước khi có Đấng Tiên Tri và đạo Hồi xuất hiện. Theo Sayyid Quth, đợt jahiliyya mới này đã nuốt chửng các dân tộc Hồi giáo và những tên bạo chúa Pharaoh mới − ám chỉ các chế độ cầm quyền hiện hữu − đang cai trị họ. Nhưng mối đe dọa của kẻ thù bên ngoài càng ngày càng lớn mạnh. Có ý cho rằng thái độ chống Mỹ của Sayyid Quth
chỉ là kết quả của cái thực tế mà ông ta gặp khi sang Mỹ, nếu ông ta được cử sang bất cứ nước nào ở châu Âu thì ông ta cũng có thái độ tương tự. Nhưng vào thời điểm đó, người ta chỉ nhắc đến nước Mỹ, và vai trò lãnh đạo của nước này, từ xấu đến tốt, đối với các nước không − Hồi giáo được thừa nhận và bàn cãi ngày càng nhiều. Chính bộ mặt tội lỗi và cả sự suy đồi của nước Mỹ và sự đe dọa nhiên hậu đối với đạo Hồi và tín đồ đạo Hồi đã trở thành chủ đề về đức tin trong các nhóm Hồi giáo chính thống. 
Hiện nay, tại các nước Hồi giáo, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, truyền đơn, bài giảng và trong các bài phát biểu trước công chúng, ra rã một bài tụng dường như dập khuôn về các tội lỗi của Mỹ. Lấy một ví dụ là trong một bài phát biểu của một giáo sư người Ai Cập tại buổi họp chung giữa EU và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo tổ chức tại Istanbul vào tháng Ba năm 2002. Danh sách tội ác được tính ngược đến thời mới định cư sơ khai tại Bắc Mỹ bao gồm việc tước đoạt tài sản và tiêu diệt dân bản địa và sau đó là ngược đãi những người còn sống sót. Tiếp đến là việc bắt làm nô lệ, bóc lột người da đen (lời tố cáo kỳ quặc từ nguồn tin đặc biệt này) và người nhập cư tại Mỹ. Lời tố cáo cũng bao gồm những tội ác chiến tranh chống Nhật bản tại Hiroshima và Nagasaki cũng như tại Triều tiên, Việt Nam, Somalia và các nơi khác. Đáng chú ý trong những tội ác của hành động xâm lăng đế quốc là việc làm của Mỹ tại Liban, Khartoum, Libya, Iraq và dĩ nhiên có việc Mỹ giúp Israel chống lại người Palestine. Nói rộng ra, danh sách buộc tội còn nêu ra sự ủng hộ của Mỹ tại Trung Đông và sự ủng hộ dành cho một số nhà cầm quyền chuyên chế khác, như vua Shah tại Iran và Haile Selassie tại Ethiopia, cũng như một danh sách (được điều chỉnh tùy theo tình huống) các nhà độc tài Ả Rập, chống lại nhân dân của họ. 
Tuy nhiên lời cáo buộc mạnh mẽ nhất trong tất cả là sự suy đồi và trụy lạc của lối sống Mỹ, và mối đe dọa của lối sống này đối với đạo Hồi. Mối đe dọa này, thoạt đầu là do Sayyid Quth nêu ra, ngày nay đã trở thành một thành phần thường trực trong vốn từ vựng và ý thức hệ của nhóm Hồi giáo chính thống, và rõ nhất là trong ngôn ngữ của Cách Mạng Iran. Chính đây là ý nghĩa của từ Satan đầu sỏ do cố giáo sĩ Ayatollah Khomeni gán cho nước Mỹ. Theo kinh Qur’an mô tả thì Satan cũng chẳng phải là bọn đế quốc hoặc kẻ bóc lột. Hắn chính là tên dụ dỗ, “là tên ma vương quỷ quyệt nhỏ to vào
lòng người” (Qur’an CXIV,4,5).
5 
SATAN VÀ LIÊN XÔ 
Vai trò mới của nước Mỹ − theo nhận thức của vùng Trung Đông về vai trò này − được minh hoạ đầy sinh động bằng sự cố xảy ra tại Pakistan vào năm 1979. Vào ngày 20 tháng Mười một, một nhóm hàng ngàn người Hồi giáo cấp tiến chiếm giữ Nhà thờ lớn tại Mecca chống lại lực lượng an ninh một thời gian. Mục đích của họ là để “làm thanh sạch đạo Hồi” và để giải phóng đất thánh Ả Rập khỏi “bè lủ những tên vô đạo hoàng gia” và các lãnh đạo tôn giáo thối nát đang ủng hộ chúng. Qua loa phóng thanh, các nhà lãnh đạo sự cố này tố cáo phương Tây là kẻ phá hoại các giá trị cơ bản của Hồi giáo và chính quyền Saudi là những kẻ đồng phạm. Kẻ cầm đầu kêu gọi nên quay về những truyền thống xa xưa “bình đẳng và công bằng” của Hồi giáo. Sau một hồi giao tranh dữ dội, quân khởi loạn bị đè bẹp. Người cầm đầu bị xử tử vào ngày 9 tháng Giêng, 1980 cùng với 62 tòng đảng, trong đó có người Ai Cập, Kuwait, Yemen và công dân của các nước Ả Rập khác. 
Trong khi đó, tại Islamabad, Pakistan nổ ra một cuộc biểu tình ủng hộ quân khởi loạn. Một tin đồn lan truyền − được Ayatollah Khomeni, lúc này đang cố đóng vai là nhà cách mạng tại Iran, đồng tình − là quân Mỹ có tham gia vào những vụ đụng độ tại Mecca. Đám biểu tình Hồi giáo tấn công sứ quán Mỹ, làm chết hai người Mỹ và hai viên chức Pakistan. Tại sao Khomeni lại đưa ra một báo cáo không những là giả mạo và không thể nào xảy ra được? 
Những biến cố này xảy ra trong bối cảnh Cách mạng Hồi giáo năm 1979. Vào ngày 4 tháng Mười một, sứ quán Mỹ tại Tehran bị chiếm, và 62 người Mỹ bị bắt làm con tin. Mười người trong bọn họ, là phụ nữ và người Mỹ da đen, được thả ra ngay; các con tin còn lại bị giữ 444 ngày, cho đến khi được thả ra vào ngày 20 tháng Giêng 1981. Cho đến lúc này mới rõ động cơ của việc bắt giữ, thông qua lời khai và phát hiện sau đó của người bắt con tin và
một số nguồn tin khác. Khi ấy người ta mới biết là vụ khủng hoảng con tin xảy ra không phải vì mối quan hệ giữa Mỹ và Iran xấu đi nhưng chính là do được cải thiện. Vào mùa thu năm 1979, Mehdi Bazargan, là thủ tướng Iran chủ trương tương đối ôn hoà, nhờ sự giúp đỡ của chính phủ Algeria, đã thu xếp để gặp cố vấn an ninh quốc gia Mỹ là Zbigniew Brezinski. Hai vị này đã gặp nhau vào ngày 01 tháng Mười một và theo báo cáo là có chụp ảnh bắt tay nhau. Một khả năng có thể trở thành hiện thực − dưới mắt của những người cấp tiến, một mối nguy hiểm thực sự − có thể có sự thoả hiệp nào đó giữa hai quốc gia. Đám phản đối chiếm lấy sứ quán và bắt các nhà ngoại giao Mỹ làm con tin để bóp dí hy vọng đối thoại xa hơn. Về việc này, họ đã thành công hoàn toàn, ít nhất cũng vào lúc ấy. 
Theo Khomeni, thì nước Mỹ là kẻ thù chính mà ông ta phải phát động thánh chiến để chống lại. Thế thì, cũng như trong quá khứ, cái thế giới của những kẻ không có đức tin này được coi như là một thế lực đáng gờm đang cạnh tranh và ngăn không cho đạo Hồi chiến thắng và truyền bá theo sứ mạng được thánh thần giao cho. Trong tác phẩm trước đó của Khomeni và nhất là quyển “Chính quyền Hồi giáo” viết năm 1970, nước Mỹ đôi khi được nhắc, và sau đó được nhắc tới khi nói về chủ nghĩa đế quốc − ban đầu chỉ đóng vai trò hỗ trợ, dần dần với tính cách là người thay thế cho Đế quốc Anh quen thuộc nhiều hơn. Vào thời điểm cách mạng xảy ra, và khi sự đối đầu trực tiếp ngày càng tăng, thì nước Mỹ theo ông ta, đã trở thành kẻ thù chính, và là mục tiêu trung tâm của sự giận dữ và sự khinh miệt của tín đồ Hồi giáo. 
Mối thù địch đặc biệt của Khomeini đối với nước Mỹ dường như bắt đầu từ tháng Mười năm 1964, trong bài phát biểu trước tư dinh tại Qum, ông ta kịch liệt tố cáo điều luật trình Quốc hội Iran về đặc quyền ngoại giao dành cho phái bộ quân sự Mỹ, cùng với gia đình, nhân viên, cố vấn, người giúp việc của họ được miễn trừ theo luật pháp Iran. Rõ ràng là ông ta không biết rằng quyền miễn trừ tương tự cũng đã được đề nghị và đương nhiên được chấp thuận cho các lực lượng Mỹ đóng tại Anh trong thế chiến thứ hai. Nhưng vấn đề về cái gọi là nhượng bộ, đặc quyền miễn trừ ngoại giao trong quá khứ dành cho các thương gia người Âu và du khách khác đến xứ Hồi giáo là một vấn đề tế nhị, nhưng Khomeini lại vận dụng một cách khéo léo:
“Họ đã đẩy người Iran xuống vị trí thấp hơn con chó của người Mỹ. Nếu có ai chẹn phải con chó của người Mỹ, người đó sẽ bị trừng trị. Ngay cả vua Shah, nếu ngài chẹn chết một con chó của người Mỹ, ngài cũng sẽ bị trừng trị. Nhưng nếu một đứa nấu bếp người Mỹ đụng phải vua Shah, là nguyên thủ quốc gia, thì không ai có quyền xâm phạm tên nấu bếp đó”. Do đã đụng chạm với nhà cầm quyền, sau bài phát biểu này, Khomeini bị trục xuất khỏi Iran vào ngày 4 tháng Mười một. Ông ta trở lại chủ đề này nhiều lần trong các bài phát biểu và bài viết sau đó, mạt sát người Mỹ là miệng thì cam kết tôn trọng nhân quyền, nhưng lại không hề đếm xỉa đến những quyền này đối với Iran và một số nước khác, trong số đó có các nước thuộc châu Mỹ Latin tại sân nhà của họ. Những lời kết tội khác gồm có tước đoạt sự phồn vinh của Iran, và ủng hộ chế độ quân chủ Iran. 
Trong những bài phát biểu sau khi trở lại Iran, danh mục những nỗi bất bình và danh sách các kẻ thù ngày càng dài thêm, nhưng bao giờ nước Mỹ cũng đứng đầu bảng. Và không chỉ duy nhất tại Iran. Trong bài phát biểu vào tháng Chín năm 1979 tại Qum, ông ta than phiền rằng toàn bộ thế giới Hồi giáo đều nằm trong nanh vuốt của người Mỹ và kêu gọi toàn thể người Hồi giáo trên thế giới đứng lên chống lại kẻ thù. Chính vào thời điểm này, ông ta bắt đầu gọi nước Mỹ là tên “Satan đầu sỏ”. Cũng vào thời điểm này, ông ta tố cáo Anwar Sadat của Ai Cập và Saddam Hussein của Iraq là đầy tớ và tay sai của Mỹ. Sadat phục vụ người Mỹ khi ký kết hoà bình với Israel; Saddam Hussein phục vụ Mỹ vì đã gây chiến với Iran. Sự đối đầu với Mỹ trong vụ khủng hoảng con tin, trong cuộc xâm lăng của Iraq, và trong nhiều trận chiến về kinh tế và ngoại giao đã chứng minh nhận định của Khomeini về vai trò chính của Mỹ trong cuộc chiến giữa Hồi giáo và phương Tây. Từ đó trở đi, nước Mỹ là “tên Satan đầu sỏ”, Israel là tay sai của Mỹ, là “tên Satan con”, nhật lệnh là “nước Mỹ phải chết”. Đó là khẩu hiệu được hô to và giương lên trong các cuộc tuần hành chống Mỹ năm 1979. Về sau, khẩu hiệu này được tô vẻ thêm trịnh trọng, đầy nghi thức tôn giáo cho nên không còn ý nghĩa thực sự của nó nữa. 
Các nhà quan sát người Mỹ, bừng tỉnh vì bị Cách mạng Iran lớn tiếng xỉ vả là tên Satan đầu sỏ, cố gắng tìm hiểu vì sao tình cảm chống Mỹ lại trỗi dậy mạnh mẽ trong thế giới Hồi giáo vào thời điểm đó. Một cách giải thích
có lúc được nhiều người chấp nhận, nhất là trong giới đối ngoại Mỹ, là hình ảnh nước Mỹ bị hoen ố trong thời chiến và do tiếp tục liên kết với các cường quốc thuộc địa châu Âu. Để biện hộ cho đất nước mình, một số nhà bình luận Mỹ cho rằng, khác với các đế quốc Tây Âu, bản thân nước Mỹ cũng là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc địa, nước Mỹ là quốc gia đầu tiên giành được độc lập thoát khỏi sự cai trị của nước Anh. Nhưng các tác giả Ả Rập đã nhanh chóng chỉ ra rằng đó chỉ là viễn vông khi hy vọng rằng dân bị trị của các đế quốc Anh và Pháp tại vùng Trung Đông sẽ coi cách mạng Mỹ là tấm gương trong cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc của họ. Cuộc cách mạng Mỹ như họ thường lưu ý, không phải do người Mỹ bản xứ, mà lại do dân lập nghiệp người Anh đứng lên chiến đấu, như thế hoàn toàn không phải là chiến thắng chống lại chủ nghĩa thực dân, mà đó là cuộc chiến chung quyết của chủ nghĩa thực dân, là người Anh tại Bắc Mỹ đã thành công trong việc thực dân hoá vùng đất này một cách trọn vẹn đến mức họ không cần đến sự hỗ trợ của mẫu quốc để chống lại dân bản địa. 
Không mấy ngạc nhiên khi thấy dân bị trị của các nước thực dân cũ tại vùng Trung Đông coi nước Mỹ cũng mang tính đế quốc chủ nghĩa như các nước Tây Âu. Nhưng sự uất hận của nhân dân vùng Trung Đông đối với các cường quốc đế quốc không phải lúc nào cũng nhất quán. Liên xô, nước đã duy trì và nới rộng các phần lãnh thổ do Sa hoàng chinh phục, cai trị hà khắc hàng chục triệu người Hồi giáo tại các nước cộng hoà Trung Á và vùng Caucasus. Nhưng Liên xô lại không hề bị những cộng đồng Ả Rập thù hận và căm ghét đến thế. 
Mối quan tâm của Nga tại vùng Trung Đông có từ lâu. Qua nhiều thế kỷ các Sa hoàng đã mở rộng xuống phía nam và phía đông, và đã sáp nhập nhiều vùng đất Hồi giáo rộng lớn vào đế quốc Nga, chỉ trừ Thổ Nhĩ Kỳ và Ba tư và các nước Hồi giáo đã độc lập tại Trung Á. Việc thất trận của phe trục năm 1945 đã làm nẩy sinh mối đe dọa mới từ Liên xô. Liên xô lúc này đang nắm chắc vùng Balkan và có thể đe dọa Thổ Nhĩ Kỳ cả hai mặt biên giới đông và tây. Họ đã thọc sâu vào Iran khi chiếm vùng Azerbaijan. Mối đe dọa đối với Iran đã có từ lâu. Trong các cuộc chiến tranh Nga-Iran năm 1804-1813 và 1826-1828, người Nga đã chiếm phía bắc Azerbaijan, biến vùng này thành một tỉnh của đế quốc của Sa hoàng và sau đó trở thành một
nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết. Trong thế chiến thứ hai, cùng với người Anh, Liên xô chiếm lấy Iran để bảo đảm phòng tuyến liên lạc cho cả hai nước. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh rút quân; Liên xô vẫn ở lại, rõ ràng là có ý định sáp nhập phần còn lại của Azerbaijan vào Liên xô. 
Lần đó họ bị chặn lại. Nhờ sự giúp đỡ chủ yếu từ phía Mỹ, người Thổ gạt phắt yêu cầu của Liên xô đòi xây dựng căn cứ tại vùng eo biển Dardanelles, còn Iran thì lật đổ chính phủ cộng sản bù nhìn mà quân Xô viết chiếm đóng dựng lên tại vùng Azerbaijan Ba tư và tái xác lập chủ quyền quốc gia của chính phủ Iran trên toàn bộ lãnh thổ của mình. 
Trong một thời gian, ý đồ thực hiện giấc mộng nhiều năm của Sa hoàng của Liên xô bị dội ngược, và cả Thổ Nhĩ Kỳ lẫn Iran đều gia nhập liên minh châu Âu. Nhưng hiệp ước khí giới Nga-Ai Cập năm 1955 đã đưa Nga trở lại chơi ván bài Trung Đông, lần này đóng vai trò chủ đạo. Người Thổ và người Iran đã có nhiều kinh nghiệm với chủ nghĩa đế quốc của Nga cho nên rất dè chừng. Còn các nước Ả Rập chỉ quen với chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây, cho nên hồ hỡi chờ đón Liên xô. Bằng cách vượt qua rào cản phía bắc và tiếp xúc trực tiếp với các nước Ả Rập mới độc lập, trong một thời gian ngắn, người Nga đã tạo dựng được một vị trí rất vững vàng. 
Lúc đầu họ đi những bước cũng giống như những người Tây Âu tiền nhiệm − đặt căn cứ quân sự, cung cấp vũ khí, “hướng dẫn” quân sự, rồi xâm nhập kinh tế và văn hoá. Nhưng với Liên xô, các mối quan hệ kiểu này chỉ mới là bước đầu, ý đồ của họ rõ ràng là càng tiến xa càng tốt. Không mấy nghi ngờ là, nếu không có sự chống đối của Mỹ, chiến tranh lạnh, và sau đó là sự sụp đổ của Liên xô, thì thế giới Ả Rập trước sau gì rồi cũng rơi vào số phận của Ba lan và Hungary, chắc chắn hơn nữa sẽ là Uzbekistan. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong khi cố đặt ách bảo hộ lên các đồng minh Trung Đông, Liên xô lại tỏ ra không xứng với vai trò bảo hộ chút nào. Trong chiến tranh Israel-Ả Rập năm 1967 và sau đó năm 1973, họ đã không muốn hoặc không thể cứu người được bảo trợ khỏi bị thất bại và nhục nhả. Tất cả cái mà họ làm được chỉ là cùng với Mỹ kêu gọi Israel ngừng tiến công. 
Đến đầu thập niên 1970, thì sự hiện diện của Liên xô không những không hữu hiệu mà lại còn gây lắm phiền toái. Giống như các đế quốc châu
Âu đi trước, Liên xô xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên đất Ai Cập mà không người Ai Cập nào được phép bén mảng đến và tiến sang giai đoạn cổ điển mới là ký kết các hiệp ước bất bình đẳng. 
Có một số lãnh đạo Trung Đông thấm thía bài học và với ít nhiều miễn cưỡng, quay sang phương Tây. Rõ nhất là Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập, vốn từng thừa hưởng mối liên hệ với Liên xô từ người tiền nhiệm là Tổng thống Nasser. Vào tháng Năm năm 1971, ông ta buộc phải ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác rất không bình đẳng với Liên xô; đến tháng Bảy năm 1972, ông ta ra lệnh buộc tất cả các cố vấn quân sự Liên xô phải rời Ai Cập và bắt đầu tiếp cận với Mỹ và tìm kiếm hoà bình với Israel. Tuy nhiên, dường như Tổng thống Sadat hoàn toàn đơn độc khi đưa ra đường lối và chính sách như thế, và nhìn chung thì những sự cố trên không làm sứt mẻ thiện chí của Liên xô cũng như tăng thêm thiện chí đối với Mỹ. Liên xô không hề sây sứt hoặc thậm chí không hề bị trách cứ gì vì hành động đàn áp Hồi giáo tại các nước cộng hoà Trung Á và vùng Caucasus, nơi có đến 50 triệu người theo đạo Hồi. Về mặt này, người Trung Quốc cũng không bị tố cáo vì đã từng đàn áp người Hồi giáo tại Tân cương. Người Mỹ cũng không hề nhận được bất cứ sự tri ân nào khi ra sức cứu người Hồi giáo tại Bosnia, Kosovo và tại Albania. Rõ ràng là ở đây có những chuẩn mực khác. 
Có lẽ thí dụ minh hoạ sâu sắc nhất cho sự thiên lệch này là vụ Liên xô xâm lăng Afghanistan vào cuối tháng chạp năm 1979 và dựng lên một chính phủ bù nhìn tại đây. Thật là khó mà tìm được một ví dụ nào rõ ràng, hiển nhiên hơn về sự xâm lăng, chinh phục và thống trị của đế quốc bằng trường hợp này. Tuy thế, hầu như không hề có phản ứng từ khối Ả Rập, và của thế giới Hồi giáo nói chung. Vào ngày 14 tháng Giêng 1980, sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Đại hội đồng Liên hiệp quốc cũng thông qua một nghị quyết về biến cố này, không phải để tố cáo Liên xô xâm lăng nhưng “rất lấy làm tiếc về sự can thiệp bằng vũ lực tại Afghanistan”. Ở đây không dùng từ “xâm lăng”, cụm từ “kẻ can thiệp” cũng không hề được nhắc tới. Kết quả bỏ phiếu biểu quyết là 104/18. Trong số những nước khối Ả Rập, Syria và Algeria bỏ phiếu trắng, nam Yemen bỏ phiếu chống, còn Libya thì vắng mặt. PLO là quan sát viên, không có quyền bỏ phiếu nhưng lại đọc một diễn văn biện hộ mạnh mẽ cho hành động của Liên xô. Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) cũng
không xử sự khá hơn. Ngày 27 tháng Giêng, sau nhiều lần vận động và thương thuyết, OIC cũng tổ chức được một cuộc họp tại Islamabad để thảo luận về vấn đề Liên xô-Afghanistan. Hai nước thành viên, Nam Yemen và Syria tẩy chay cuộc họp. Đại biểu của Libya công kích kịch liệt nước Mỹ, còn PLO, là thành viên chính thức của OIC, lại từ chối bỏ phiếu về nghị quyết chống Liên xô, thay vào đó, trình ra một văn bản bảo lưu. 
Cũng có một vài đáp ứng từ thế giới Hồi giáo đối với sự xâm lăng của Liên xô-Saudi Arabia cho một ít tiền, Ai Cập cho một ít khí giới, và nhiều quân tình nguyện Ả Rập. Nhưng chính Mỹ là nước đứng ra tổ chức mặt trận phản công của Hồi giáo chống lại chủ nghĩa đế quốc Liên xô tại Afghanistan có phần nào thành công. OIC giúp người Afghan không nhiều, muốn tập trung sức lực vào những vấn đề khác − hướng về một số cộng đồng Hồi giáo nhỏ tại các khu vực chưa thoát khỏi ách thực dân, và dĩ nhiên là bao gồm cuộc xung đột Israel-Palestine. 
Israel là một trong số nhiều điểm (gồm Nigeria, Sudan, Bosnia, Kosovo, Chechnya, Tân Cương, Kashmir, Timor, Mindanao, và v.v…) mà thế giới Hồi giáo và không-Hồi giáo gặp nhau. Mỗi nơi trong những điểm này là một chủ đề trung tâm cho những phe tham gia, và nhưng lại là lý do né tránh khó chịu cho nhóm khác. Ngược lại, phương Tây thường cố hết sức giải quyết những nỗi bất bình của người này với cái giá là gây bất bình cho người khác. Cuộc xung đột Israel-Palestine chắc chắn là đã gây nhiều chú ý hơn bất cứ cuộc xung đột nào khác, vì nhiều lý do. Một là, vì Israel là một quốc gia dân chủ và là một xã hội cởi mở, cho nên sẽ dễ dàng hơn khi báo cáo − và báo cáo sai − về những gì xảy ra ở đó. Hai là, vì có liên quan đến người Do Thái, cho nên điều này bảo đảm sẽ được nhiều người nghe, trong số đó có người vì lý do này hay lý do khác ủng hộ hay là chống đối họ. Một ví dụ tiêu biểu cho sự khác biệt này là chiến tranh Iran-Iraq kéo dài tám năm từ 1980 đến 1988. Cuộc chiến này đã gây ra nhiều thương vong và huỷ hoại nhiều hơn tất cả các trận chiến Israel-Ả Rập cộng lại nhưng lại không được mấy ai chú ý. Bởi vì một lý do là, cả Iraq lẫn Iran đều không có dân chủ, và có nhiều khó khăn và nguy hiểm hơn trong việc tường trình. Mặt khác, do không liên quan đến người Do Thái, với tư cách là nạn nhân hoặc kẻ thủ ác, cho nên không có gì thú vị khi tường thuật cả.
Lý do thứ 3, chủ yếu quan trọng nhất khi đặt vấn đề Palestine lên hàng đầu là vì, cứ cho là thế, nỗi bất bình được cho phép − nỗi bất bình duy nhất được phát biểu tự do và an toàn tại những nước Hồi giáo nói trên, nơi mà báo chí chỉ do nhà nước làm chủ hoặc bị theo dõi gắt gao. Thật vậy, Israel là chỗ để trút mọi lời oán trách về sự thiếu thốn kinh tế và áp bức chính trị mà đại đa số người Hồi giáo hứng chịu, và được sử dụng như một phương tiện để làm chệch hướng nỗi căm giận đó. Phương pháp này rất có ích khi xảy ra trùng hợp với hoàn cảnh nội tại của Israel, khi có bất cứ sự sai sót nào của chính phủ, quân đội, của người lập nghiệp hoặc bất cứ người nào bị phát hiện hoặc bất cứ sự dối trá nào tại Israel vừa bị bóc trần, từ phía người Do Thái lẫn người Ả Rập, trên báo chí và nghị viện Israel. Đa số những nước thù nghịch với Israel đều không bị những khó khăn này trong quan hệ ngoại giao của họ. 
Khi các đế quốc Tây Âu suy tàn, thì tính chống Mỹ tại vùng Trung Đông lại được gán cho những nguyên nhân khác, đặc thù hơn: sự bóc lột kinh tế thường được mô tả như là sự cướp bóc các tài nguyên của người Hồi giáo; sự giúp đỡ cho các nhà độc tài thối nát địa phương phục vụ cho các mục tiêu của nước Mỹ khi áp bức và cướp đoạt tài sản của chính nhân dân mình, và còn nhiều, nhiều hơn nữa là một nguyên nhân khác: người Mỹ ủng hộ cho Israel, lúc đầu trong vụ xung đột của người Palestine gốc Ả Rập, sau đó là xung đột với các nước Ả Rập láng giềng và cuối cùng là thế giới Hồi giáo. Trên báo chí bằng tiếng Ả Rập và Ba tư chắc chắn có người ủng hộ giả thiết này, nhưng sẽ không phù hợp mấy nếu cho rằng không có những trở ngại này thì các chính sách của Mỹ tại Trung Đông sẽ thuận lợi hơn. Vấn đề Palestine chắc chắn đang gây nỗi căm giận ngày càng lớn, đôi khi được hâm nóng và trở nên nghiêm trọng hơn vì các chính sách và hành động của chính phủ hoặc các đảng phái Israel. Nhưng thực sự đó có phải là lý do chính để gây nên tình cảm chống Mỹ, như một số người lập luận? 
Lịch sử cứ diễn lại một số oái ăm. Vào những năm 1930, các chính sách của Đức quốc xã là nguyên nhân khiến người Do Thái di cư sang Palestine, lúc đó dưới quyền ủy trị của Anh, và kết cuộc là làm tăng số dân Do Thái ở đây. Bọn Quốc xã không những chỉ cho phép di cư, mà họ còn tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đến khi chiến tranh nổ ra, còn người Anh, với hy vọng