🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sói già Phố Wall (Phần 1) - Jordan Belfort
Ebooks
Nhóm Zalo
JORDAN BELFORT
Hiện là chuyên gia tư vấn cho hơn năm mươi công ty và viết bài cho nhiều báo, tạp chí uy tín trên thế giới, trong đó có The New York Times, The Wall Street Journal, The Los Angeles Times, The London Times, The Herald Tribune, Le Monde, Corriere della Serra, Forbes, BusinessWeek, Paris Match và Rolling Stone. Cuốn tự truyện best-selling của Belfort -
Sói Già Phố Wall - đã được xuất bản tại hơn bốn mươi quốc gia và dịch ra mười tám ngôn ngữ khác nhau. Ông là khách mời thường xuyên trên các đài CNN, CNBC, Sky News và BBC. Câu chuyện
cuộc đời ông đã được đạo diễn Scorsese chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi từ cuối năm 2013. Bộ phim có sự tham gia của tài tử Leonardo Dicaprio trong vai Jordan Belfort.
Nhận Định
“Một cuốn hồi ký thấm đẫm chất tiểu thuyết... [bao quát] những vấn đề về sex, thuốc phiện và các quyết định mang tính mạo hiểm cực độ mà Belfort đã xoay xở và sống sót ở Phố Wall.”
Publishers Weekly
“Một tên bất lương tự phụ vênh váo trên vũ đài tài chính... Đó chính là hình ảnh của Jordan Belfort khi còn là Chủ nhân trẻ của vũ trụ phố Wall... Sói già Phố Wall là cuốn hồi ký không nên đọc ngắt quãng.”
Kirkus Reviews
Tác Phẩm
Được mọi người gọi với nhiều biệt danh, trong đó, cái tên Sói già Phố Wall là hợp với Jordan hơn cả - một con sói tối thượng đội lốt cừu non. Anh ta trông giống như một đứa trẻ và hành xử như một đứa trẻ, nhưng anh ta đâu có trẻ con. Anh ta là một thằng đàn ông ba mươi mốt tuổi nhưng già đời như một lão sáu mươi, sống theo thang tuổi của loài chó - một năm bằng bảy năm tuổi người. Với rất nhiều mánh lới trong kinh doanh, Sói già đã trở thành triệu phú thị trường chứng khoán ở tuổi hai mươi sáu, bị kết án ở cấp liên bang
năm ba mươi sáu tuổi. Anh ta tiệc tùng như một ngôi sao nhạc rock, sống như một ông hoàng và bước qua mọi thăng trầm của đời mình như một biểu tượng của các doanh nhân nước Mỹ.
Lời giới thiệu
Jordan Belfort sinh ngày 9 tháng 7 năm 1962 tại thành phố New York, Mỹ. Ông hiện là chuyên gia tư vấn cho hơn năm mươi công ty và viết bài cho nhiều báo, tạp chí uy tín trên thế giới. Ông cũng là khách mời thường xuyên của các đài CNN, CNBC, Headlines News và BBC. Belfort được biết đến như một trong những tỷ phú giàu có nhất Phố Wall.
Jordan Belfort trở thành nhân vật chủ chốt của công ty môi giới chứng khoán khét tiếng Stratton Oakmont từ những năm 1990 khi xây dựng thành công một trong những hệ thống bán hàng siêu khủng nhất Phố Wall. Vào thời gian đó, ông đã vi vu trên đỉnh cao tài chính và kiếm được hơn 50 triệu đô la mỗi năm - một kỳ tích khiến ông được mệnh danh là “Sói Già Phố Wall”. Ông cũng là một trong những cái tên bị lên án nhiều nhất trong ngành tài chính Mỹ: Một tay trùm cổ phiếu thông minh và ranh mãnh đã dẫn đầu đám đông hỗn loạn đầy kiêu hãnh vượt qua các luật lệ của Phố Wall, đưa họ đến với một văn phòng khổng lồ ở Long Island - khu vực vốn chỉ dành cho những kẻ thượng lưu.
Trên con đường sự nghiệp của mình, Belfort đã trải qua một lối sống xa hoa và hết sức trụy lạc để rồi bị chính những cạm bẫy ấy đẩy xuống từ đỉnh vinh quang. Công ty của ông đóng cửa vào năm 1998 và ông bị kết tội thao túng thị trường chứng khoán cũng như điều hành một trung tâm chuyên lừa đảo cổ phiếu. Nhờ hợp tác với FBI, Belfort chỉ phải chịu mức án hai mươi hai tháng trong nhà tù
liên bang và bị buộc phải trả lại 110,4 triệu đô la ông đã gian lận từ những người mua chứng khoán.
Sau khi ra tù, ông đã đứng dậy và khẳng định mình bằng những thành công vượt trội trong kinh doanh trên khắp toàn cầu. Bí mật thực sự đằng sau sự thành công của Sói Già Phố Wall chính là kỹ thuật bán hàng đã được phát triển thành hệ thống mang tên “Straight Line Persuasion”. Ngày nay, với hệ thống độc quyền này, Jordan Belfort đã giúp cho bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tạo ra của cải khổng lồ từ việc kinh doanh có đạo đức.
Belfort từng chia sẻ trong một buổi diễn thuyết tại Dubai vào tháng 5 năm 2014 như sau: “Tôi từng rất tham lam... Nhưng tham lam là không tốt. Còn tham vọng và đam mê thì hoàn toàn ngược lại. Niềm đam mê tạo nên thịnh vượng. Mục tiêu của tôi là cho nhiều hơn nhận - đó là một loại thành công bền vững”. Trong năm 2014, ông cũng sẽ thực hiện hơn bốn mươi lăm buổi diễn thuyết khác ở Mỹ, Úc, châu Á và cả Việt Nam.
Jordan Belfort đã tái hiện cuộc đời của chính mình trong hai cuốn hồi ký vô cùng ăn khách: “Sói Già Phố Wall” và “Tóm Gọn Sói Già Phố Wall”. Hai tác phẩm này đã được xuất bản ở trên bốn mươi quốc gia và được dịch ra mười tám ngôn ngữ khác nhau. Cuộc đời đầy biến cố ấy cũng đã tạo cảm hứng cho đạo diễn Martin Scorsese làm nên bộ phim bom tấn được đề cử giải Oscar. Bộ phim do tài tử điện ảnh lừng danh Leonardo DiCaprio thủ vai chính và được công chiếu rộng rãi từ cuối năm 2013.
Câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Jordan Belfort luôn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều người đang bước trên con đường
kinh doanh đầy khó khăn cũng như đem lại cho họ những bài học hết sức giá trị.
BachvietBooks
Dành tặng hai con tuyệt vời của tôi, Chandler và Carter Belfort
Lời tác giả
Cuốn sách này là một hồi ký; đây là câu chuyện có thật dựa trên những hồi tưởng của tôi về nhiều sự kiện trong cuộc đời mình. Ở những chỗ được chỉ rõ, tên gọi và đặc điểm nhận diện của một số người có đề cập trong cuốn sách này được thay đổi để bảo vệ quyền riêng tư của họ. Trong một số trường hợp, tôi sắp xếp lại và/hoặc dồn nén các sự kiện cùng quãng thời gian dưới dạng tường thuật, đồng thời tôi có sáng tạo lại phần hội thoại cho phù hợp với hồi tưởng của mình về những cuộc trao đổi này.
Phần mở đầu
Một gã khờ
NGÀY 1 THÁNG 5 NĂM 1987
“Anh còn thấp kém hơn cả đám cặn bã”, sếp mới của tôi bảo trong lần đầu tiên dẫn tôi qua phòng họp của Ban Giám đốc Công ty LF Rothschild. “Anh thấy có vấn đề với chuyện đó phải không, Jordan?”
“Không ạ”, tôi trả lời, “không có vấn đề gì ạ”.
“Tốt lắm”, sếp tôi ngắt lời và giành lấy chỗ bên phải lối đi.
Chúng tôi đang đi qua một mê cung những chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ màu nâu cùng dây nhợ điện thoại màu đen trên tầng 23 của một tòa tháp toàn kính và nhôm cao tới 41 tầng ở Đại lộ số 5 huyền thoại thuộc khu Manhattan. Phòng họp của Ban Giám đốc là một không gian rộng rãi, có lẽ đến 15x20 mét. Đó là một không gian ngột ngạt, đầy bàn làm việc, điện thoại, màn hình máy tính và những gã rất đáng ghét đầy tham vọng, với quân số tổng cộng đến 70 người. Bọn họ đều cởi bỏ áo khoác, và vào giờ này - 9 giờ 20 phút sáng - bọn họ đang ngả người trên ghế, đọc tờ Wall Street Journal và tự chúc mừng mình là những Chủ nhân trẻ của cả Vũ trụ.
Là Chủ nhân của Vũ trụ; điều này có vẻ là một mục tiêu cao quý, và khi tôi, trong bộ đồ màu lam rẻ tiền cùng đôi giày thô kệch của
mình, bước ngang qua các vị Chủ nhân, tôi nhận thấy mình ao ước được là một người trong số họ. Nhưng sếp mới của tôi nhanh chóng nhắc tôi nhớ rằng không phải vậy. “Công việc của anh”, gã nhìn tấm biển tên bằng nhựa trên ve áo màu lam rẻ tiền của tôi, “Jordan Belfort, là một nhân viên nối máy, có nghĩa là anh sẽ bấm điện thoại 500 lần một ngày, cố gắng liên lạc với các thư ký. Anh không phải tìm cách bán, gợi ý hay sáng tạo bất kỳ cái gì. Anh chỉ cần cố gắng tiếp cận được với các chủ doanh nghiệp trên điện thoại mà thôi”. Gã dừng lại một lát rồi tiếp tục phun thêm nọc độc. “Và khi anh tiếp cận được với một người trên điện thoại, tất cả những gì anh cần nói là: “Xin chào, ông X, ngài Scott đang đợi ông!” rồi chuyển điện thoại cho tôi và bắt đầu bấm số lại. Thử nghĩ xem anh có làm được như vậy không, hay việc đó quá phức tạp với anh?”
“Thưa có, tôi làm được”, tôi nói một cách tự tin, vì có một cơn hoảng loạn phủ tràn đến tôi như một trận sóng thần mang tính hủy diệt. Chương trình đào tạo của LF Rothschild kéo dài 6 tháng. Đó sẽ là những tháng nghiệt ngã, một tháng mệt nhoài, mà suốt thời gian ấy tôi sẽ phải phó mặc cho những con lừa như Scott, một thằng khốn đầy tham vọng dường như vừa ngoi lên từ sâu thẳm chốn địa ngục của những gã tham vọng.
Chẳng để gã vào mắt mình, tôi nhanh chóng đi đến kết luận rằng Scott giống như một con cá vàng. Gã vừa hói vừa xanh xao, cái đầu lơ thơ vài sợi tóc của gã đúng là một trái cam ủng. Gã mới chỉ ngoài 30, cao lêu nghêu và có một cái sọ hẹp cùng đôi môi dày. Gã đeo một chiếc nơ bướm, thứ làm cho gã trông rất kỳ khôi. Trên đôi con ngươi ốc nhồi màu nâu, gã đeo một cặp kính gọng dây thép, nó khiến gã trông chẳng khác gì cá - theo đúng nghĩa của từ cá vàng.
“Tốt”, con cá vàng khốn kiếp nói. “Bây giờ, đây là những quy tắc cơ bản: Không giải lao, không điện thoại riêng, không nghỉ ốm, không đi muộn và tiêu phí thời gian. Anh có 30 phút để ăn trưa” - gã ngừng lại để gây ấn tượng, “và anh nên trở lại làm việc đúng giờ, bởi vì có đến 50 người đang chờ thế chỗ anh nếu anh làm ăn lươn khươn”.
Gã tiếp tục đi và nói trong khi tôi theo sát sau gã một bước, ngơ ngẩn vì hàng nghìn sao kê cổ phiếu màu cam lướt nhanh qua những màn hình máy tính xám xịt. Mặt trước căn phòng là một bức tường bằng kim loại tấm nhìn ra trung tâm khu Manhattan. Phía trước, tôi có thể nhìn thấy tòa nhà Empire State. Nó cao vượt hẳn mọi thứ, dường như vươn lên đến thiên đường và xé rách bầu trời. Nó là địa điểm đáng để ngắm nhìn, một nơi xứng đáng với một Chủ nhân trẻ của Vũ trụ. Và lúc này đây, có vẻ như mục tiêu ấy càng lúc càng xa vời.
“Nói thật nhé”, Scott lắp bắp, “tôi không nghĩ anh hợp với công việc này. Trông anh chẳng khác nào một thằng nhóc, mà Phố Wall không có chỗ cho bọn nhóc. Đây là chốn của những sát thủ. Một nơi của những đao phủ. Vì thế, theo nghĩa đó, may cho anh vì tôi không phải là người làm công việc thuê nhân công ở đây”. Gã phát ra mấy tiếng cười khùng khục đầy mỉa mai.
Tôi cắn môi và chẳng nói gì. Năm đó là năm 1987 và những con lừa tham vọng như Scott dường như thống trị toàn thế giới. Phố Wall như một con bò đang lên cơn điên, và đám triệu phú mới nổi thì chỉ việc bỏ ra một hào là mua được cả tá. Tiền rất rẻ mạt, và một gã tên Michael Milken đã sáng chế ra thứ gọi là “trái phiếu giấy lộn” làm thay đổi cách giới kinh doanh nước Mỹ xoay xở mọi việc của mình.
Đó là thời kỳ của thói tham lam không kiềm chế nổi, thời kỳ của sự thừa mứa vô độ. Đó là kỷ nguyên của bọn hãnh tiến.
Khi gần đến bàn làm việc của mình, gã ôn thần hãnh tiến quay sang tôi, nói: “Tôi nói lại lần nữa nhé Jordan: Anh là hạng thấp kém nhất trong đám cặn bã. Thậm chí anh còn chưa được là nhân viên giao dịch điện thoại, anh chỉ là thằng nối máy thôi.” Vẻ khinh bỉ thể hiện rõ trong từng lời nói. “Và việc nối máy sẽ là toàn bộ vũ trụ của anh tới khi nào anh qua được Series Seven. Và đó là lý do tại sao anh thấp kém hơn cả đám cặn bã. Anh có ý kiến gì với chuyện đó không?”
“Tuyệt đối không ạ”, tôi đáp. “Đó là công việc quá tốt với tôi, bởi vì tôi còn thấp kém hơn cả đám cặn bã.” Tôi nhún vai vẻ ngây ngô.
Khác với Scott, tôi không giống lũ cá vàng, điều đó làm tôi thấy tự hào khi gã nhìn tôi chòng chọc, cố tìm vẻ châm biếm trên mặt tôi. Tôi thuộc loại thấp bé, và ở tuổi 24, tôi vẫn còn những nét trẻ con của một cậu bé vị thành niên. Gương mặt tôi thuộc loại khiến tôi khó lòng được bước vào một quán rượu nếu như không có bằng chứng. Tôi có mái tóc nâu nhạt rất dày, nước da màu ô liu nhẵn nhụi và một đôi mắt biêng biếc to tròn. Nhìn tổng thể quả là không đến nỗi xấu trai.
Nhưng, Chúa ơi, tôi không hề nói dối Scott khi bảo gã rằng tôi còn thấp kém hơn cả đám cặn bã. Nói thật, đúng là như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi vừa làm cho dự án kinh doanh đầu tiên của mình khánh kiệt, và tinh thần tự tôn của tôi cũng cạn kiệt theo nó. Đó là một dự án kinh doanh thịt và hải sản được hình thành rất sai lầm, và vào thời điểm cáo chung, tôi thấy mình ở tình thế khốn nạn là phải xử lý
26 hợp đồng thuê xe tải - tất cả đều tự cá nhân tôi bảo lãnh, và hiện giờ đều đang trong tình trạng vỡ nợ. Cho nên các nhà băng đang bám sát tôi, lại thêm một con mẹ nào đó đến từ American Express - một cái cối thịt “có sừng có mỏ” nặng hơn tạ theo lời của chính mụ - đang dọa sẽ đích thân cho con lừa tôi đây biết tay nếu tôi không chịu trả nợ. Tôi đã phải tính đến bài đổi số điện thoại, nhưng lại nợ cả đống hóa đơn điện thoại nên NYNEX* cũng đang lùng tìm tôi.
Một công ty dịch vụ điện thoại ở Mỹ. (Trừ những chỗ đánh dấu * biểu thị lưu ý của tác giả, tất cả các chú thích trong cuốn sách này đều của dịch giả)
Chúng tôi tới bàn của Scott và gã chỉ cho tôi chỗ ngồi cạnh mình, cùng mấy lời động viên. “Cứ lạc quan lên”, gã châm chọc. “Nếu có phép màu, anh sẽ không bị đuổi vì tội lười biếng, ngu ngốc, xấc láo hoặc chậm trễ, như thế rồi sẽ có ngày anh trở thành một chuyên gia môi giới chứng khoán.” Gã cười tán thưởng câu hài hước của mình. “Và nói cho anh biết, năm ngoái, tôi kiếm được hơn 300.000 đô la, còn một người nữa mà anh sẽ phục vụ kiếm được hơn 1 triệu đô la.”
Hơn 1 triệu đô la? Tôi chỉ có thể hình dung cái người nữa kia là một thằng khốn như thế nào. Với con tim nặng trĩu, tôi hỏi: “Người nữa là ai ạ?”.
“Sao cơ?”, gã ôn thần của tôi hỏi. “Việc gì đến anh chứ?”
Lạy Chúa lòng lành! Tôi nghĩ bụng. Chỉ nói khi nào người ta bảo mày nói thôi, mày khờ quá! Giống như đang ở trong lực lượng thủy quân lục chiến vậy. Trên thực tế, tôi có ấn tượng rất rõ rằng bộ phim ưa thích của thằng cha khốn kiếp này là Sĩ quan và Quý ông, và gã đang diễn một khúc phóng túng Lou Gossett cho tôi nghe - cứ giả
định rằng gã là trung úy huấn luyện chịu trách nhiệm về một anh chàng lính thủy đánh bộ không đạt yêu cầu. Nhưng tôi chỉ giữ ý nghĩ đó cho riêng mình, và tất cả những gì tôi nói ra là: “À, không có gì, tôi chỉ, ừm, hơi tò mò.”
“Tên người ấy là Mark Hanna, và anh sẽ gặp hắn ngay thôi.” Nói xong, gã trao cho tôi một tập phiếu cỡ 3x5 centimet ghi tên và số điện thoại của những thương nhân giàu có. “Cười lên và quay số đi”, gã hướng dẫn, “và chớ ngẩng cái mặt chết tiệt của anh lên trước 12 giờ đấy”. Sau đó gã ngồi xuống bàn của mình, vớ lấy một tờ Wall Street Journal, gác đôi giày da cá sấu đen bóng lên bàn rồi bắt đầu đọc.
Tôi vừa định nhấc máy điện thoại thì cảm thấy một bàn tay rắn chắc đặt lên vai mình. Tôi nhìn lên, và chỉ cần liếc mắt tôi cũng biết đó là Mark Hanna. Ở cậu ấy toát lên sự thành đạt, như một Chủ nhân thật sự của Vũ trụ. Cậu ấy cao to - gần 1,9 mét, cơ bắp cuồn cuộn. Cậu ấy có mái tóc đen nhánh, ánh mắt dữ dội, nét mặt đầy đặn và lốm đốm những sẹo trứng cá. Cậu ấy điển trai, theo kiểu của dân buôn bán, toát ra phong thái tân thời của Greenwich Village. Tôi cảm nhận được sức cuốn hút tỏa ra từ cậu ấy.
“Jordan phải không?”, cậu ấy lên tiếng, với ngữ điệu thành thật thấy rõ.
“Ừ, tớ đây”, tôi đáp, giọng đầy bi đát. “Cặn bã hạng nhất, để phục vụ cậu!”
Cậu ấy cười thân thiện, những miếng lót vai trên bộ cánh sọc nhỏ màu ghi trị giá 2.000 đô la nhấp nhô theo tiếng cười. Rồi, bằng cái giọng to hơn mức cần thiết, cậu ấy nói: “À, tớ hiểu là cậu vừa
được nếm mùi vị đầu tiên của cái làng chó chết này!”. Cậu ấy hất đầu về phía Scott.
Tôi gật đầu thừa nhận. Cậu ấy nháy mắt. “Đừng lo! Ở đây tớ là tay tổ; còn hắn chỉ là con bạc quèn. Vì thế, kệ mẹ mọi điều hắn nói và bất kỳ điều gì hắn có thể phun ra sắp tới.”
Dù gắng hết sức nhưng tôi cũng không thể không liếc nhìn Scott, giờ đang lẩm bẩm mấy từ: “Tiên sư nhà anh, Hanna!”.
Mặc dù vậy, Mark không thèm trả đũa. Cậu ấy chỉ nhún vai và bước vòng qua bàn tôi, chen thân hình vạm vỡ của cậu ấy vào giữa Scott và tôi, rồi nói: “Đừng để hắn làm cậu khó chịu. Tớ nghe nói cậu là tay buôn hạng nhất. Chỉ một năm nữa thôi, cái thằng đần ấy sẽ phải liếm gót cậu thôi”.
Tôi mỉm cười, cảm thấy vừa tự hào vừa ngượng nghịu. “Ai nói với cậu tớ là một doanh nhân đẳng cấp chứ?”
“Steven Schwartz, người đã thuê cậu. Anh ấy bảo cậu làm anh ấy mát mặt ngay trong buổi phỏng vấn xin việc.” Mark cười khùng khục với câu nói đó. “Anh ấy rất ấn tượng với cậu, lại còn bảo tớ dè chừng cậu.”
“Ờ, tớ cứ lo anh ấy sẽ không thuê tớ. Có đến 20 người xếp hàng xin phỏng vấn, vì thế tớ nghĩ tốt hơn mình nên thể hiện một thứ gì đó quyết liệt - cậu biết đấy, gây ấn tượng ấy mà”. Tôi nhún vai. “Nhưng mà anh ấy bảo tớ cần dịu xuống một chút.”
Mark cười khà khà. “Ờ, đừng dịu xuống quá. Trong nghề này, áp lực là chuyện bắt buộc. Mọi người có mua cổ phiếu đâu; người ta đem chúng bán cho họ đấy chứ. Đừng bao giờ quên điều đó.” Cậu
ấy ngừng lời, để cho người nghe thẩm thấu những gì mình nói. “Dù sao đi nữa thì Quý ông đốn mạt đằng kia cũng nói đúng một điều: Nối máy là công việc chán phèo. Tớ phải làm công việc đó 7 tháng trời, và hằng ngày tớ muốn giết chính mình. Vì thế, tớ sẽ cho cậu biết một bí mật nho nhỏ”, rồi cậu ấy hạ thấp giọng đầy vẻ bí mật, “cậu chỉ nên giả vờ nối máy thôi. Cậu hãy nẫng lấy mọi cơ hội.” Cậu ấy mỉm cười và nháy mắt, rồi lại cao giọng như bình thường. “Đừng làm tớ mất tín nhiệm; tớ muốn cậu nối máy cho tớ càng nhiều càng tốt, bởi vì tớ hái ra tiền từ những thứ ấy. Nhưng tớ không muốn cậu rách cổ tay vì chuyện đó, bởi tớ rất ghét nhìn thấy máu me.” Cậu ấy lại nháy mắt. “Vì thế cứ giải lao thoải mái. Cứ vào phòng tắm mà thủ dâm nếu thấy cần. Tớ cũng làm thế mãi rồi, và lại đam mê chuyện đó. Tớ cho rằng rồi cậu cũng thích thủ dâm, đúng không?”
Tôi hơi sửng sốt trước câu hỏi đó, nhưng như sau này tôi hiểu ra, một Ban Giám đốc ở Phố Wall không có chỗ cho những ngôn từ lịch sự kiểu cách. Những từ như đéo mẹ, mẹ kiếp, chó đẻ và con c. phổ biến chẳng khác gì vâng, không, có lẽ và xin mời cả. Tôi nói: “À, tớ, ờ, thích thủ dâm. Ý tớ là, những gì mà mọi người không làm, phải không?”.
Cậu ấy gật đầu, gần như thở phào. “Tốt, rất tốt. Thủ dâm chính là chìa khóa đấy. Và tớ cũng đặc biệt khuyến nghị việc dùng ma túy, đặc biệt là cocaine, bởi vì nó làm cho cậu quay máy nhanh hơn, điều đó rất tốt cho tớ.” Cậu ấy ngừng lại như để tìm kiếm thêm những từ ngữ khôn ngoan, nhưng rõ ràng là rất bí. “Chà, chỉ có vậy thôi”, cậu ấy nói. “Đó là tất cả những kiến thức tớ có thể truyền đạt cho cậu lúc này. Cậu sẽ làm tốt, lính mới ạ. Rồi sẽ có ngày cậu
ngẫm lại lúc này và cười; tớ hứa với cậu điều đó.” Cậu ấy lại mỉm cười lần nữa rồi ngồi xuống trước máy điện thoại của mình.
Một lát sau, có tiếng ồn ào vang lên, thông báo rằng thị trường vừa mở cửa. Tôi nhìn chiếc đồng hồ hiệu Timex mới mua tại JCPenney với giá 14 đô la tuần trước. Lúc này là 9 giờ 30 phút đúng. Hôm đó là mùng 4 tháng 5 năm 1987, ngày đầu tiên của tôi ở Phố Wall.
Ngay sau đó, qua hệ thống loa, tiếng Giám đốc bán hàng của LF Rothschild là Steven Schawartz vang lên. “Được rồi, thưa quý vị. Sáng nay hàng giao sau có vẻ rất mạnh và có sức mua đáng kể từ Tokyo.” Steven mới chỉ 31 tuổi, nhưng năm ngoái anh ấy kiếm được hơn 2 triệu đô la (Một Chủ nhân nữa của Vũ trụ). “Chúng ta đang thấy mức tăng 10 điểm trong phiên mở cửa”, anh ấy nói thêm, “vì thế hãy vồ lấy điện thoại và nhảy nhót đi!”.
Vậy là cả căn phòng ầm ầm huyên náo. Những bàn chân nhảy cả lên bàn; mấy tờ Wall Street Journal bị quăng vào thùng rác; tay áo được xắn lên tận khuỷu, lần lượt từng nhân viên giao dịch vồ lấy điện thoại của mình và bắt đầu quay số. Tôi cũng nhấc điện thoại lên rồi bắt đầu bấm.
Chỉ trong vài phút, tất cả mọi người đều chạy nháo nhào như phát rồ, khoa tay múa chân loạn xạ và hét ầm ầm vào những chiếc điện thoại đen sì của họ, tạo nên một không gian ồn ào kinh khủng. Đó là lần đầu tiên tôi nghe được cái không gian ồn ào ấy trong một phòng họp của Ban Giám đốc ở Phố Wall, chẳng khác gì một đám đông hỗn tạp. Đó là thứ âm thanh tôi sẽ chẳng bao giờ quên, một thứ âm thanh sẽ làm thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Đó là thứ âm
thanh của những gã trai bị nhấn chìm bởi lòng tham và tham vọng, sẵn sàng móc cả trái tim và linh hồn mình dâng cho những ông chủ giàu có trên khắp nước Mỹ.
“Thằng Miniscribe đang rớt giá con mẹ nó rồi đây này”, một gã có gương mặt bầu bĩnh hét vào máy điện thoại. Gã mới chỉ khoảng 28 tuổi, nghiện cocaine nặng và có tổng thu nhập 600.000 đô la. “Tay môi giới của anh ở West Virginia hả? Trời ạ! Có khi thằng cha rất giỏi chọn cổ phiếu khai thác than, nhưng giờ mới chỉ được 80 thôi. Tên của trò chơi này là công nghệ cao!”
“Tôi vớ được 50.000 July Fifties rồi!”, một tay môi giới cách đó hai bàn gào lên.
“Đều hết giá trị rồi!”, một tay khác hét lên.
“Tôi đâu chỉ làm giàu với mỗi một nghề”, một tay môi giới thề thốt với khách hàng của mình.
“Anh đùa chắc?”, Scott quát vào ống nghe. “Sau khi tách phần hoa hồng của tôi với công ty và chính phủ, tôi không đủ tiền mua thức ăn cho chó!”
Thường thì một tay môi giới sẽ dập mạnh điện thoại xuống đầy thắng lợi, sau đó viết phiếu mua rồi bước lại gần một hệ thống ống khí được gắn với trụ đỡ. Gã sẽ dán tấm vé vào một trụ thủy tinh và nhìn nó bị hút lên trần nhà. Từ đó, tấm vé chạy tới bàn mua bán ở phía bên kia tòa nhà, nơi nó được đẩy trở lại Sàn giao dịch chứng khoán New York để xử lý. Vì thế, phần trần nhà được hạ thấp để có chỗ cho ống khí, và có cảm giác là nó sắp đổ ụp xuống đầu tôi.
Lúc 10 giờ, Mark Hanna đã ba lần chạy tới trụ đỡ và cậu ấy sắp chạy tới đó lần nữa. Cậu ấy nói chuyện trên điện thoại nhẹ nhàng đến mức việc đó khiến tôi cũng thấy do dự. Cứ như thể cậu ấy đang xin lỗi khách hàng của mình vì đã móc mắt họ ra vậy. “Thưa ngài, cho phép tôi nói câu này”, Mark nói với chủ tịch một công ty có tên trong danh sách bình chọn của Fortune 500*, “Tự bản thân tôi thấy tự hào vì đã tìm ra gốc rễ của những vấn đề này. Và mục tiêu của tôi không chỉ là hướng dẫn ngài tham gia vào các tình huống mà còn hướng dẫn ngài thoát ra nữa.” Giọng cậu ấy nhẹ nhàng và êm dịu đến mức như đang thôi miên. “Tôi sẽ thuộc quyền sở hữu của ngài lâu dài; thuộc quyền sở hữu của công ty ngài... và cả gia đình ngài nữa.”
Bản danh sách của tạp chí Fortune được cập nhật và xuất bản hằng năm, xếp hạng 500 công ty, tập đoàn lớn ở Mỹ thông qua tổng lợi nhuận và mức thuế đóng góp.
Hai phút sau, Mark đã ở bên hệ thống ống với lệnh đặt mua trị giá 250.000 đô la cho một cổ phiếu của Microsoft. Tôi chưa bao giờ nghe nói đến Microsoft, nhưng có vẻ như đó là một công ty tử tế. Dù sao thì Mark cũng kiếm được 3.000 đô la tiền hoa hồng cho thương vụ này. Còn tôi có 7 đô la trong túi.
Lúc 12 giờ, tôi thấy chóng mặt và đói cồn cào. Thực tế, tôi rất chóng mặt, đói và vã mồ hôi. Nhưng quan trọng hơn cả, tôi bị mắc kẹt. Không khí ồn ào xoáy qua lục phủ ngũ tạng và âm vang trong từng thớ thịt của tôi. Tôi biết mình có thể làm được công việc này. Tôi biết mình làm được đúng như Mark Hanna đã làm, thậm chí có khi còn tốt hơn. Tôi biết mình có thể dịu dàng như lụa.
Tôi rất ngạc nhiên thấy rằng, thay vì dùng thang máy của tòa nhà để xuống sảnh và chi số tiền mình có mua hai cái xúc xích Đức cùng một lon Coke, tôi lại leo lên tầng mái cùng với Mark Hanna đứng bên cạnh. Đích đến của chúng tôi là một nhà hàng hạng 5 sao gọi là Top of the Sixes, nằm trên tầng 41 của tòa nhà văn phòng. Đó là nơi đội ngũ tinh túy gặp nhau để cùng ăn uống, nơi mà các Chủ nhân của vũ trụ có thể tranh thủ làm vài ly rượu martini và trao đổi những câu chuyện chiến tranh.
Lúc chúng tôi bước vào nhà hàng, Luis, chủ nhà hàng, lao bổ tới chỗ Mark, vồn vã bắt tay cậu ấy và liến thoắng rằng thật tuyệt vì được gặp mặt cậu ấy vào một buổi chiều thứ Hai tuyệt vời thế này. Mark nhét vào tay lão tờ 50 đô la, một hành động khiến tôi gần như nuốt chửng cả lưỡi mình, và Luis dẫn chúng tôi tới một chiếc bàn trong góc có thể nhìn thấy toàn bộ khu Upper West Side của Manhattan và cầu George Washington.
Mark mỉm cười với Luis và nói: “Luis à, cho tụi này hai ly Absolut martini, mang ra ngay nhé. Sau đó mang thêm hai ly nữa trong vòng”, cậu ấy nhìn chiếc đồng hồ Rolex mạ vàng dày bự của mình, “chính xác là bảy phút rưỡi, rồi cứ đều đặn 5 phút lại mang thêm cho tới khi một trong hai chúng tôi gục”.
Luis gật đầu. “Dĩ nhiên, thưa ông Hanna. Quả là một chiến lược tuyệt vời.”
Tôi mỉm cười với Mark và nói bằng một giọng đầy hối tiếc: “Rất xin lỗi, nhưng tớ, ờ, không biết uống.” Rồi tôi quay sang Luis. “Ông chỉ cần mang cho tôi một lon Coke. Thế là đủ.”
Luis và Mark trao nhau một cái nhìn như thể tôi vừa phạm tội gì đó vậy. Nhưng rồi Mark chỉ nói: “Hôm nay là ngày đầu tiên thằng cha này đến Phố Wall; cứ cho hắn thêm thời gian”.
Luis nhìn tôi, mím môi và gật đầu lia lịa. “Hiểu quá đi chứ. Không việc gì phải sợ; rồi anh sẽ nghiện rượu ngay thôi.”
Mark gật đầu tán thưởng. “Nói hay đấy, Luis, nhưng cứ mang cho hắn một ly martini, phòng khi hắn đổi ý. Trường hợp xấu nhất thì tôi sẽ uống hết.”
“Tuyệt vời, ông Hanna. Hôm nay ông và bạn ông có ăn gì không, hay chỉ uống thôi?”
Cái tay Luis này nói cái mẹ gì thế không biết? Tôi tự hỏi. Đúng là một câu hỏi ngớ ngẩn vì giờ đã là bữa trưa rồi! Nhưng trước sự ngạc nhiên của tôi, Mark lại bảo Luis rằng hôm nay cậu ấy sẽ không ăn, chỉ có tôi thôi. Khi đó, Luis bèn đưa cho tôi một bảng thực đơn và đi lấy đồ uống cho chúng tôi. Một lát sau, tôi hiểu ra tại sao Mark lại không ăn, khi cậu ấy thò tay vào túi áo vest, móc ra một cái lọ, mở nút và nhúng một cái thìa tý xíu vào. Cậu ấy múc ra một chút thứ chất kìm chế nhục dục mạnh nhất của tự nhiên - tức là cocaine - và đưa lên lỗ mũi phải hít thật mạnh. Rồi cậu ấy lặp lại động tác ấy và hít mạnh bằng lỗ mũi trái.
Tôi vô cùng kinh ngạc. Không thể nào tin được! Ngay trong nhà hàng này! Giữa những Chủ nhân của Vũ trụ! Tôi liếc xung quanh nhà hàng xem có ai để ý không. Rõ ràng chẳng có ai cả, mà ngẫm lại, tôi tin chắc rằng họ chẳng hề để tâm một tý nào. Hơn nữa, họ quá bận rộn nốc lấy nốc để các thứ vodka, scotch, gin hoặc bourbon
hay bất kỳ loại dược chất nguy hiểm nào họ có thể kiếm được với những tập ngân phiếu dày cộp của mình.
“Đến lượt cậu”, Mark nói, đưa cho tôi lọ thuốc. “Tấm vé thực sự ở Phố Wall; thứ này và nhà thổ.”
Nhà thổ à? Từ đó khiến tôi thộn ra. Ý tôi là tôi chưa bao giờ tới đó cả! Hơn nữa, tôi đang yêu một cô gái mà tôi định cưới làm vợ. Tên nàng là Denise, nàng thật tuyệt vời - đẹp cả tâm hồn lẫn hình thức bên ngoài. Đã bao giờ tôi lừa dối nàng đâu. Còn về chuyện dính tới cocaine, chà, thì tôi đã từng có lần biết đến hồi học đại học, nhưng đó là chuyện cách đây vài năm, và tôi cũng chỉ mới chạm tay mà thôi. “Không, cảm ơn”, tôi nói, cảm thấy có phần lúng túng. “Thứ này thực sự không hợp với tớ. Nó làm cho tớ... ờ... dở hơi. Ví như tớ không tài nào ngủ hoặc ăn được, và tớ... ờ... ôi giời, tớ bắt đầu thấy lo lắng về mọi chuyện. Thật sự không tốt cho tớ. Thật sự kinh khủng.”
“Không sao”, cậu ấy nói, lại tiếp thêm một liều nữa. “Nhưng tớ cam đoan rằng cocaine có thể giúp cậu trụ được qua ngày ở cái chốn này!” Cậu ấy lắc đầu và nhún vai. “Bê tha thấy mẹ, làm một thằng môi giới chứng khoán ấy. Ý tớ là, đừng hiểu lầm tớ: Tiền rất tuyệt và là tất cả, nhưng cậu sẽ chẳng tạo ra hay xây dựng được cái gì cả. Vì thế, sau một thời gian, mọi thứ trở nên đơn điệu.” Cậu ấy ngừng lời, cứ như thể đang tìm kiếm từ ngữ thích hợp. “Thật sự thì chúng ta chẳng hơn gì những con buôn nhơ nhớp. Chẳng thằng nào trong số chúng ta có được ý tưởng gì về loại cổ phiếu sẽ tăng giá! Tất cả chúng ta chỉ đang làm cái việc là ném phi tiêu vào một tấm bia, và cậu biết đấy, mọi thứ nháo nhào cả lên. Dù sao đi nữa thì cậu cũng sẽ sớm hiểu ra tất cả mọi chuyện thôi.”
Chúng tôi dành vài phút tiếp theo để chia sẻ lai lịch của mình. Mark lớn lên ở Brooklyn, tại thành phố Bay Ridge - một nơi, theo tôi biết, khá nghiệt ngã. “Cho dù cậu làm gì”, cậu ấy nói vẻ chua chát, “thì cũng đừng hò hẹn với con nào ở Bay Ridge cả. Chúng nó điên phải biết!”. Rồi cậu ấy lại hít thêm một liều nữa và nói thêm: “Con chó đẻ cuối cùng cặp kè với tớ đã đâm tớ bằng một cái bút chì trong lúc tớ đang ngủ! Cậu có tưởng tượng nổi không?”.
Lúc đó, một tay bồi bàn mặc lễ phục bước tới và đặt đồ uống của chúng tôi lên bàn. Mark nâng ly martini giá 20 đô la của cậu ấy lên còn tôi nâng lon Coke giá 8 đô la của mình. Mark nói: “Ly này là để chỉ số Dow Jones tăng vọt lên 5.000!”. Chúng tôi cụng ly. “Còn ly này là để mừng sự nghiệp của cậu ở Phố Wall!”, cậu ấy tiếp. “Biết đâu cậu lại ăn nên làm ra ở cái chốn điên đảo này mà vẫn giữ được một phần linh hồn mình!” Cả hai chúng tôi cùng cười và lại cụng ly.
Vào đúng cái thời điểm ấy, nếu có ai đó bảo tôi rằng chỉ vài năm ngắn ngủi nữa, tôi sẽ làm chủ cái nhà hàng tôi đang ngồi đây, còn Mark Hanna cùng một nửa đám môi giới chứng khoán nữa ở LF Rothschild sẽ làm việc cho tôi, tôi sẽ bảo rằng thằng đó bị điên. Và nếu có ai đó bảo tôi rằng tôi cũng sẽ hít cocaine bên quầy rượu của nhà hàng này trong khi cả tá gái gọi cao cấp nhìn tôi đầy ngưỡng mộ thì tôi sẽ chửi vào mặt gã mất trí ấy.
Nhưng giờ mới chỉ là lúc khởi đầu. Quý vị biết không, vào cái thời điểm ấy, có những việc đang diễn ra mà tôi không biết - những việc chẳng có gì liên quan tới tôi cả - bắt đầu từ một thứ nhỏ bé gọi là bảo hiểm danh mục đầu tư. Đó là một chiến lược đóng băng chứng khoán chạy bằng máy tính, thứ rốt cuộc sẽ đặt dấu chấm hết cho cái thị trường điên loạn này và làm cho chỉ số Dow Jones tụt
xuống 508 điểm chỉ trong một ngày. Và từ đó, cả chuỗi sự kiện sắp xảy ra đều hầu như không thể tưởng tượng nổi. Phố Wall sẽ có lúc phải ngừng hoạt động, hãng đầu tư-ngân hàng LF Rothschild sẽ buộc phải đóng cửa. Và rồi tình trạng điên rồ sẽ chiếm thế thượng phong.
Những gì tôi có thể cho quý vị biết lúc này là một bản tái hiện tình trạng điên rồ ấy - sự tái hiện đầy châm biếm - cho những gì hóa ra sẽ là một trong những biến động dữ dội nhất trong lịch sử Phố Wall. Và tôi kể cho quý vị nghe về chuyện đó bằng một giọng nói đang vang lên trong đầu tôi lúc ấy. Đó là một giọng nói đầy mỉa mai, nhẹ nhàng, tự phục vụ, và có nhiều lúc là ti tiện. Đó là giọng nói cho phép tôi biện minh cho bất kỳ chuyện gì xuất hiện trong việc tôi chọn sống một cuộc đời trụy lạc, buông thả. Đó là một giọng nói giúp tôi mua chuộc những người khác, thao túng họ, và đem sự hỗn loạn cũng như điên cuồng đến cho cả một thế hệ thanh niên Mỹ.
Tôi lớn lên trong một gia đình trung lưu ở Bayside, Queens, nơi những từ ngữ như mọi đen, Tây Bán Nhà, Ý-ới và Tàu khừ* được coi là những từ đáng khinh miệt nhất - những từ tuyệt đối không được thốt ra trong bất kỳ trường hợp nào. Trong căn nhà của cha mẹ tôi, bất kỳ dạng thành kiến nào cũng bị phản đối cật lực; chúng được coi là các quy trình tâm lý của những kẻ kém cỏi, ngu dốt. Tôi luôn phải nhìn nhận mọi thứ theo cách này: Lúc còn nhỏ, ở tuổi mới lớn và thậm chí ngay cả lúc cao trào của cơn điên loạn. Tuy nhiên, những từ ngữ tởm lợm đó sẽ rất dễ dàng tuôn ra từ miệng tôi, đặc biệt là khi cơn điên loạn thắng thế. Dĩ nhiên, tôi cũng sẽ biện minh cho điều đó, tự nhủ mình rằng đây là Phố Wall và ở Phố Wall thì
không có thời gian cho những nhận xét lịch sự hay những cách hành xử xã hội tế nhị.
Nguyên văn: nigger, spick, wop và chink là những từ lóng mang nghĩa miệt thị, tương ứng để chỉ người Mỹ da đen, người Mỹ gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Italia và người Mỹ gốc Hoa.
Tại sao tôi lại kể những chuyện này với quý vị chứ? Tôi kể bởi vì muốn quý vị biết tôi thực sự là người thế nào và, quan trọng hơn cả, tôi không phải là người thế nào. Tôi kể những điều này vì tôi có hai đứa con, và một ngày nào đó sẽ có rất nhiều điều phải giải thích với chúng. Tôi sẽ phải giải thích xem người cha đáng yêu, lúc này vẫn lái xe đưa chúng đi xem bóng đá, tới dự những cuộc họp phụ huynh của chúng, ở nhà vào tối thứ Sáu và làm cho chúng món rau trộn hổ lốn Caesar, lại có thể từng là một gã đáng khinh như thế nào.
Nhưng những gì tôi thật lòng mong muốn là cuộc đời mình sẽ trở thành câu chuyện cảnh báo cho cả những người giàu có và nghèo hèn; cho bất kỳ ai đang sống trong cảnh cơm bưng nước rót; hoặc cho bất kỳ người nào đang tính chuyện chớp lấy vận may và bạc đãi món quà ấy của Chúa; cho bất kỳ ai quyết định đi vào ngõ tối của quyền lực và sống một cuộc sống trụy lạc sa đọa. Và cho bất kỳ ai nghĩ rằng chẳng có gì đáng nói khi bị xem là Sói già Phố Wall.
Quyển I
1Chương
Sói đội lốt cừu
SÁU NĂM SAU
Tình trạng cuồng loạn nhanh chóng nổ ra, và vào mùa đông năm 1993, tôi có cảm nhận kỳ lạ rằng mình đã giành được vai chính của một trong những chương trình truyền hình đời thực đó, trước khi chúng trở thành mốt. Tên chương trình của tôi là Lối sống của những người giàu có buông thả, và mỗi ngày qua đi dường như lại càng buông thả hơn so với ngày hôm trước.
Tôi khởi nghiệp với một công ty môi giới có tên Stratton Oakmont, hiện là một trong những công ty môi giới lớn nhất và cho đến giờ vẫn là công ty mạnh bạo nhất trong lịch sử Phố Wall. Theo ngôn từ của Phố Wall thì có lẽ tôi là thằng muốn chết trẻ và chắc chắn sẽ tự chui xuống mồ trước tuổi 30. Nhưng tôi biết, đó chỉ là điều vớ vẩn bởi vì tôi đã bước sang tuổi 31 và vẫn còn sống khỏe mạnh.
Lúc này đây, một sáng thứ Tư giữa tháng 12, tôi đang ngồi sau bộ phận điều khiển trong chiếc trực thăng động cơ đôi Bell Jet của mình trên đường từ bãi đỗ trực thăng Phố 30 ở trung tâm Manhattan đến điền trang ở Old Brookville, Long Island, với lượng thuốc phiện chạy qua hệ tuần hoàn đủ để làm dịu cả đất nước Guatemala*.
Guatemala là đất nước trồng và buôn bán thuốc phiện thuộc dạng đáng báo động.
Mới chỉ hơn 3 giờ sáng một chút và chúng tôi đang bay với tốc độ 120 hải lý một giờ ở đâu đó trên triền phía tây của vịnh Little Neck thuộc Long Island. Tôi nhớ mình đang nghĩ rằng thật tuyệt vời khi có thể bay một đường thẳng trong khi ngắm nhìn mọi thứ rõ mồn một thì đột nhiên bắt đầu cảm thấy chóng mặt. Rồi ngay lập tức chiếc trực thăng đâm bổ xuống và tôi có thể nhìn thấy những vùng nước đen thẫm trong vịnh đang lao vùn vụt về phía mình. Động cơ chính của trực thăng rung bần bật. Tôi nghe rõ tiếng kêu hãi hùng của phi công phụ truyền qua tai nghe: “Lạy Chúa tôi, ông chủ! Bay lên đi! Bay lên đi! Chúng ta sắp nổ tung rồi! Cha mẹ ơi!”.
Rồi chúng tôi thăng bằng trở lại.
Viên phi công phụ trung thành và đáng tin cậy của tôi, Đại úy Marc Elliot, vận đồ trắng và cũng đang ngồi trước bộ điều khiển của mình. Nhưng anh ta phải giữ nghiêm lệnh tuyệt đối không chạm vào các nút điều khiển trừ phi tôi bất tỉnh hoặc máy bay có nguy cơ rơi xuống mặt đất. Giờ thì anh ta đang điều khiển máy bay, có lẽ như thế tốt hơn.
Đại úy Marc là một cơ trưởng có gương mặt chữ điền, tuýp người khiến bạn thấy tin tưởng ngay khi mới gặp. Và không chỉ cằm anh ta vuông; cả người cũng vậy, dường như nó được khớp lại từ những bộ phận vuông vức, cái nọ chồng lên cái kia. Thậm chí bộ ria đen nhánh của anh ta cũng là một hình chữ nhật hoàn hảo, và nó “ngự” ngay bên trên cái môi trên cứng đơ của anh ta, hệt như một cái chổi công nghiệp.
Chúng tôi cất cánh từ Manhattan khoảng 10 phút trước, sau một buổi tối thứ Ba kéo dài hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát. Mặc dù
vậy, buổi đêm lại bắt đầu khá yên ả tại một nhà hàng thời thượng mang tên Canastel’s trên Đại lộ Park, nơi tôi ăn tối cùng một số nhân viên giao dịch trẻ của mình. Cuối cùng, chúng tôi kết thúc ở phòng Tổng thống tại cung Helmsley, nơi một ả gái gọi rất cao giá có tên Venice, với đôi môi mọng đỏ chót và “thửa ruộng ba bờ” hấp dẫn, cố gắng dùng một cây nến để giúp tôi đạt đến trạng thái cương cứng, nhưng thất bại vẫn hoàn thất bại. Và đó là lý do tại sao tôi lại đi trễ thế này (chính xác khoảng năm tiếng rưỡi). Chuyện này chắc chắn sẽ khiến tôi lại gặp rắc rối to với Nadine - cô vợ hai chung thủy và đáng yêu của tôi.
Có lẽ quý vị đã từng nhìn thấy Nadine trên truyền hình; chính là cô gái tóc vàng quyến rũ mời mọc quý vị mua bia Miller Lite* trong chương trình Bóng đá tối thứ Hai, nàng vẫn thường đi bộ qua công viên với một chú chó và chiếc đĩa lia bằng nhựa Frisbee. Trong các chương trình quảng cáo, nàng không nói gì nhiều, nhưng dường như chẳng ai bận tâm đến chuyện đó hết. Nàng nhận được công việc ấy là nhờ đôi chân của mình; cộng thêm cặp mông còn tròn trịa hơn cả mông của một cô ả người Puerto Rico và đủ rắn chắc để làm một đồng 25 xu nảy bật lên. Dù thế nào thì lúc này tôi cũng đã cảm nhận được cơn giận dữ chính đáng của nàng rồi.
Miller Lite: Loại bia rất thịnh hành ở Mỹ, từng giành huy chương vàng tại Giải vô địch Bia Thế giới dành cho loại bia nhẹ kiểu Mỹ ngon nhất vào các năm 1996, 1998, 2002, 2006. Lite cũng giành được huy chương bạc tại Liên hoan Bia Mỹ năm 2003 dành cho nhóm sản phẩm tương tự. Đội ngũ tiếp thị bia này thường là những thiếu nữ trẻ mặc trang phục “mát mẻ”.
Tôi hít một hơi thật sâu và cố gắng ngồi lại ngay ngắn. Giờ thì tôi cảm thấy khá ổn, vì thế tôi nắm chắc cần điều khiển, ra hiệu cho tay Đại úy SpongeBob SquarePants* rằng mình đã sẵn sàng bay tiếp. Trông anh ta có vẻ hơi lo lắng, vì thế tôi mỉm cười ấm áp, thân mật và nói vài lời động viên qua chiếc microphone kích hoạt bằng giọng nói. “Anh sẽ nhận được khoản tiền thưởng công tác nguy hiểm cho chuyện này, anh bạn ạ.”
SpongeBob SquarePants là tên gọi một con hải miên hình hộp sống trong một quả dứa dưới biển, nhân vật chính trong loạt phim hoạt hình cùng tên của hãng Nickelodeon từng được đề cử giải Emmy. Tác giả dùng tên gọi này để chơi chữ square (vuông).
“Ồ, quá tuyệt”, Marc trả lời, nhường quyền điều khiển lại cho tôi. “Nhớ nhắc tôi đến lĩnh, nếu chúng ta còn sống khi về đến nhà.” Anh ta lắc lắc cái đầu vuông vẻ cam chịu và ngạc nhiên, sau đó tiếp lời: “Và đừng quên nhắm mắt trái của anh lại trước khi bắt đầu hạ thấp độ cao. Như thế sẽ đỡ bị hoa mắt.”
Anh chàng cơ trưởng vuông vức này của tôi quả là ranh mãnh và chuyên nghiệp; thực tế, anh ta có vẻ rất giống một gã “chim mồi” trong các bữa tiệc. Và anh ta không chỉ là viên phi công có bằng cấp duy nhất trong khoang lái này mà còn là thuyền trưởng chiếc du thuyền Nadine gắn động cơ, dài hơn 50 mét, được đặt theo tên cô vợ vừa được nhắc đến ở trên của tôi. Tôi giơ ngón tay cái ra dấu với cơ trưởng của mình. Sau đó, tôi chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ buồng lái và cố gắng xác định phương hướng.
Phía trước mặt, tôi nhìn thấy những chiếc ống khói kẻ sọc đỏ trắng vươn lên từ khu ngoại ô Roslyn giàu có của dân Do Thái. Những chiếc ống khói chính là một dấu hiệu tác động vào thị giác
cho biết rằng tôi sắp vào trung tâm Bờ biển Vàng của Long Island, nơi mà khu Old Brookville tọa lạc. Bờ biển Vàng là một nơi “hết sảy” nếu sống ở đó, đặc biệt khi bạn thích đám dân Tin Lành WASP* dòng dõi quý phái và những con ngựa giá cao. Cá nhân tôi xem thường cả hai thứ ấy, nhưng thế nào mà rốt cuộc tôi lại sở hữu cả một lũ ngựa giá cao và giao du với khá nhiều dân WASP quý phái - những người, theo tôi đoán, xem tôi là một anh chàng Do Thái trẻ tuổi quyến rũ.
WASP (viết tắt của White Anglo-Saxon Protestant) là thuật ngữ dân tộc học xuất phát từ Mỹ, để chỉ những người Mỹ da trắng theo đạo Tin Lành có gốc chủng tộc Anglo-Saxon. Ban đầu, nó được dùng để chỉ những người thuộc tầng lớp thượng lưu đến lập nghiệp ở vùng Đông Bắc. Hiện nay, WASP dùng để chỉ những người da trắng Tin Lành không thuộc các nhóm thiểu số.
Tôi nhìn đồng hồ đo độ cao. Kim chỉ vạch 90 mét và đang từ từ hạ xuống dần. Tôi đảo đầu theo vòng tròn giống như một võ sĩ quyền Anh thi đấu ăn tiền vừa bước vào vòng đấu, và bắt đầu hạ thấp độ cao ở góc 30°, bay qua phía trên cầu thang xoáy của câu lạc bộ Brookville Country rồi nới cần bánh lái sang phải và lướt qua những ngọn cây xum xuê ở một bên hẻm Hegemans, nơi tôi bắt đầu thực hiện thao tác hạ thấp độ cao cuối cùng để đáp xuống sân tập golf ở phía sau dinh cơ của mình.
Sử dụng các bàn đạp, tôi để cho trực thăng ở trạng thái treo lơ lửng một chỗ cách mặt đất khoảng 6 mét rồi tìm cách đáp xuống. Chỉnh một chút bằng chân trái, một chút bằng chân phải, giảm bớt một chút lực lên cần điều khiển độ cao, hơi đẩy cần bánh lái về phía
sau. Lập tức, chiếc trực thăng đáp phịch xuống đất rồi hơi nhấc bổng lên lần nữa.
“Mẹ kiếp!”, tôi lầm bầm trong lúc bay lên. Hoảng hốt, tôi ấn mạnh cần điều khiển độ cao, chiếc trực thăng bắt đầu rơi thẳng xuống như một hòn đá. Và lập tức - RẦM! - chúng tôi tiếp đất với cú xóc nảy người.
Tôi lắc đầu vẻ kinh ngạc. Sao lại hấp tấp đến thế nhỉ! Không phải là một pha hạ cánh hoàn hảo, nhưng ai hơi đâu mà bận tâm? Tôi quay sang phía anh chàng cơ trưởng đáng yêu của mình, và đầy vẻ tự hào, tôi líu nhíu: “Cừ hông, anh bạn, tôi có cừ hông!”.
Marc hất cái đầu vuông vức của mình sang bên và nhướng cao cặp lông mày hình chữ nhật ngự trên vầng trán vuông vức, như thể nói: “Ông mất bố trí não rồi thì phải?”. Nhưng rồi anh ta bắt đầu gật đầu chậm rãi, khuôn mặt cố nặn ra một nụ cười nhăn nhở. “Cừ lắm, bạn của tôi ạ. Tôi phải thừa nhận điều đó. Anh có nhắm mắt trái không đấy?”
Tôi gật đầu. “Dất hiệu quả”, tôi bệu bạo nói. “Anh bạn cừ tật!”
“Tốt. Tôi mừng vì anh nghĩ như thế.” Anh ta khẽ cười. “Dù sao đi nữa, tôi phải chuồn khỏi chỗ này trước khi chúng ta gặp rắc rối. Có cần tôi gọi cho bộ phận bảo vệ tới đón anh không?”
“Không, tôi ổn mà, anh bạn. Tôi ổn.” Nói xong, tôi cởi đai an toàn, chào Marc với vẻ chế nhạo rồi mở cửa khoang lái và trèo ra ngoài. Sau đó, tôi đi vòng quanh và đóng cửa buồng lái, đập mạnh tay lên cửa sổ hai lần, ra ý rằng tôi vẫn còn đủ minh mẫn để đóng cửa, điều này cho tôi cảm giác hài lòng, bởi vì bất kỳ người đàn ông
nào ở vào hoàn cảnh tôi cũng đủ tỉnh táo để làm việc đó. Rồi tôi lại đi một vòng lần nữa và tiến về phía căn nhà chính, thẳng vào tâm Cơn bão Nadine.
Ngoài trời thật lộng lẫy. Bầu trời đầy những vì sao lấp lánh. Nhiệt độ tháng 12 mà ấm áp đến lạ. Không có lấy một chút gió, khiến không khí đậm mùi đất và gỗ làm tôi nhớ tới thời thơ ấu của mình. Tôi nghĩ đến những đêm hè đi cắm trại xa nhà. Tôi nghĩ đến anh trai Robert của mình, người mà gần đây tôi đã mất liên lạc sau khi bà chị dâu dọa kiện một trong những công ty của tôi về tội quấy rối tình dục. Chuyện là thế này, tôi mời anh ấy ra ngoài ăn tối, rồi say khướt và trót lỡ lời gọi bà chị mình là “mông đít”. Nhưng cả hai người đều nhớ rất dai, nhớ cả những việc chẳng cần phải nhớ.
Còn khoảng 200 thước nữa thì tới nhà chính. Tôi hít một hơi thật sâu và tận hưởng mùi hương tỏa ra từ cơ ngơi của mình. Thơm tho làm sao! Nào là mùi cỏ Bermuda! Mùi hăng hăng của gỗ thông! Và biết bao nhiêu thứ âm thanh dễ chịu nữa! Tiếng gáy réc réc bất tận của bọn dế mèn này! Tiếng rúc bí hiểm của đám cú mèo! Tiếng nước róc rách từ hồ nước có hệ thống thác ở phía trước nữa chứ!
Tôi đã mua cơ ngơi này từ tay Dick Grasso, Chủ tịch Trung tâm Giao dịch Chứng khoán New York, người có vẻ ngoài giống cái gã bán gà Frank Perdue* đến kỳ lạ. Tôi còn chi ra vài triệu để cải tạo nhiều chỗ, chủ yếu đổ vào cái hồ cùng hệ thống thác nước kỳ cục, số còn lại thì dành cho tòa nhà bảo vệ đầy nghệ thuật cùng hệ thống an ninh. Nhà bảo vệ luôn có hai vệ sĩ có vũ trang cùng có tên là Rocco túc trực 24/24h. Bên trong tòa nhà là hàng dãy màn hình ti vi nhận hình ảnh từ 22 chiếc máy quay an ninh bố trí khắp cơ ngơi.
Mỗi máy quay được nối với một bộ cảm biến chuyển động và đèn pha, tạo thành một hàng rào an ninh bất khả xâm phạm.
Franklin Parsons Perdue (1920 - 2005), sinh ở Salisbury, Maryland, nhiều năm liền là Chủ tịch và là Tổng Giám đốc của Perdue Farms - công ty sản xuất gà lớn nhất ở Mỹ với tổng doanh số hằng năm trên 4,1 tỷ đô la.
Lúc ấy, cảm thấy một luồng không khí khác thường, vì thế tôi nghển cổ để nhìn chiếc trực thăng đang chìm dần vào bóng tối. Tôi thấy mình bước lùi lại vài bước ngắn, sau đó những bước ngắn ấy trở thành những bước dài hơn và rồi... Mẹ kiếp! Rắc rối rồi! Nhục mặt đến nơi rồi! Tôi đi lòng vòng và sải hai bước về phía trước, dang rộng hai cánh tay như đôi cánh. Như một tay trượt ván trên tuyết bị mất kiểm soát, tôi cứ lảo đảo hết lối này sang lối khác, như cố gắng tìm tâm trọng lực của mình. Và rồi, đột nhiên... một quầng sáng chói mắt!
“Cái đéo gì thế?”, tôi đưa tay lên mắt, cố che thân mình khỏi ánh sáng chói lòa của những chiếc đèn rọi. Tôi vừa vấp phải một thiết bị cảm biến chuyển động và giờ trở thành nạn nhân của hệ thống an ninh của chính mình. Ánh sáng chói thật kinh khủng. Mắt tôi như giãn ra còn hai con ngươi chắc bằng cái đĩa.
Tiếp đến mới là cú chấn thương cuối cùng: Tôi vướng phải chính đôi giày da cá sấu rất bảnh của mình và ngã bổ nhào ra sau, nện cả tấm lưng xuống đất. Sau vài giây, đèn rọi tắt, tôi từ từ buông tay xuống. Tôi ấn hai bàn tay xuống cỏ mềm. Sao mình chọn ngã đúng chỗ thế không biết! Tôi quả là một chuyên gia về ngã, biết chính xác cần ngã thế nào mà không làm mình đau. Bí quyết là chỉ cần theo đà ngã, giống như một diễn viên đóng thế ở Hollywood. Thậm chí còn
tốt hơn thế, cái thứ thuốc tôi ưa thích - Quaalude - có hiệu ứng tuyệt vời biến cơ thể tôi thành cao su, do đó càng giúp bảo vệ tôi khỏi bị chấn thương.
Tôi khăng khăng tin rằng chính Quaalude đã giúp tôi ngã đúng chỗ. Sau cùng, sử dụng thứ thuốc đó có nhiều lợi thế đến mức tôi cho rằng mình đã rất may mắn khi nghiện nó. Ý tôi là, có bao nhiêu loại thuốc làm bạn “phê” nhưng lại không hề khiến bạn khó chịu vào ngày hôm sau nào? Và một thằng đàn ông ở địa vị tôi - một thằng gánh vác quá nhiều trách nhiệm nặng nề - không thể bị khó chịu vì thuốc được, giờ cũng vậy!
Và vợ tôi... chà, tôi đoán nàng đã quen cảnh sống với tôi; thật sự thì liệu nàng có đủ lý do để nổi giận đến vậy không nào? Ý tôi là, khi cưới tôi, nàng đã thừa biết mình sẽ nếm trải những gì, phải không nào? Nàng từng là nhân tình của tôi, ôi lạy Chúa! Chi tiết đó nói lên nhiều điều một cách hùng hồn, phải không? Và tối nay thực sự tôi đã làm gì cơ chứ? Chẳng có gì quá kinh khủng, hay ít nhất nàng cũng chẳng chứng minh được gì!
Những ý nghĩ ấy cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi, tìm lý do hợp lý hóa, biện bạch, rồi phủ nhận, và lại tìm lý do hợp lý hóa thêm chút nữa, cho tới khi tôi có thể hiểu rõ nguyên cớ chính đáng cho cơn giận của vợ. Phải, tôi nghĩ, chắc chắn là từ thời thượng cổ, hoặc chí ít cũng từ thời Vanderbilt và Astor, giữa những người giàu có và vợ của họ đã luôn có chuyện rồi. Có những quyền tự do, nếu nói như vậy, những quyền tự do nhất định mà những người đàn ông có thế lực được hưởng, những quyền họ đã giành được! Dĩ nhiên tôi không thể chỉ việc tuyên bố với Nadine như vậy được. Nàng có xu
hướng ưa bạo lực và lại to con hơn tôi, hay ít nhất cũng ngang ngửa, và đó cũng là một lý do nữa khiến nàng khó chịu.
Đúng lúc ấy thì tôi nghe thấy tiếng ro ro của xe chơi golf. Chắc là Rocco đêm, hoặc có lẽ Rocco ngày, gọi thế nào là tùy vào thời điểm hai anh chàng đổi ca. Dù sao thì vẫn là có một anh chàng Rocco nào đó đang tới đón tôi. Thật lạ là dường như mọi thứ lúc nào cũng đâu vào đấy. Khi tôi ngã, luôn có ai đó đỡ tôi dậy; khi tôi bị cảnh sát bắt vì lái xe trong tình trạng phê phê, luôn có ai đó bác bỏ quan tòa hoặc hối lộ cảnh sát để dàn xếp mọi chuyện; rồi khi tôi bất tỉnh bên bàn tiệc và vục cả mặt vào nồi súp thì luôn có vợ tôi, hoặc nếu không phải nàng thì là một cô gái gọi tốt bụng nào đó, xuất hiện để giúp tôi tỉnh lại bằng cách hô hấp nhân tạo.
Cứ như thể tôi là người đạn bắn không thủng hay gì gì đó vậy. Đã bao nhiêu lần tôi qua mặt Thần Chết nhỉ? Không thể nhớ nổi. Nhưng tôi có thật sự muốn chết không? Tội lỗi và tâm trạng ăn năn đang gặm nhấm tôi đến mức - trên thực tế, tôi đang cố gắng định đoạt lấy cuộc đời mình? Ý tôi là, thật ớn, giờ tôi mới nghĩ đến điều ấy! Tôi đã mạo hiểm mạng sống của mình cả nghìn lần nhưng lại chưa hề bị gì hơn là một vết trầy xước. Tôi đã từng lái xe trong tình trạng say xỉn, từng say thuốc đứ đừ, từng đi sát mép một tòa nhà, từng lặn với bình thở trong khi bị mất tín hiệu liên lạc, từng thua hàng triệu đô la tại các sòng bạc trên khắp thế giới, và trông tôi vẫn chẳng khác gì một gã trai mới bước qua tuổi 21.
Tôi có rất nhiều biệt danh: Gordon Gekko, Don Corleone, Kaiser Soze; người ta thậm chí còn gọi tôi là Vua. Nhưng biệt danh tôi thích nhất là Sói già Phố Wall, bởi vì như thế mới đúng là tôi chứ. Tôi là con sói tối thượng đội lốt cừu: Tôi trông giống như một đứa trẻ và
hành xử như một đứa trẻ, nhưng tôi đâu có trẻ con. Tôi là một thằng đàn ông 31 tuổi nhưng già đời như một lão 60, sống theo thang tuổi của loài chó - một năm bằng bảy năm tuổi người. Nhưng tôi giàu có và quyền thế, lại có một cô vợ tuyệt vời và một bé gái thiên thần bốn tháng tuổi.
Như người ta vẫn nói, mọi chuyện đều tốt và dường như tất cả đều ổn thỏa. Dù sao đi nữa, và tôi không biết chắc là bằng cách nào, thì tôi cũng sẽ kết thúc mọi chuyện dưới một cái chăn lụa trị giá 12.000 đô la, ngủ khì khì trong một phòng ngủ vương giả che kín bằng lụa Trung Hoa trắng tinh đủ để làm dù lụa cho cả một phi đội lính nhảy dù. Và vợ tôi... chà, nàng sẽ tha thứ cho tôi. Nàng luôn tha thứ cho tôi mà.
Với ý nghĩ đó, tôi lăn ra bất tỉnh.
2Chương
Nữ công tước khu Bay Ridge
NGÀY 18 THÁNG 12 NĂM 1993
Sáng hôm sau, hoặc nếu quý vị muốn biết chính xác, thì chỉ vài tiếng sau, tôi gặp một giấc mơ kinh khủng. Đó là một giấc mơ mà mọi gã trai đều ao ước và cầu lấy được, vì thế tôi quyết định cứ thả hồn theo nó. Tôi đang nằm trên giường một mình thì cô em Venice đến chỗ tôi. Nàng quỳ xuống bên mép chiếc giường rộng thênh thang lộng lẫy của tôi, chập chờn như chỉ chực thoát ra khỏi tầm với - quả là một ảo ảnh hoàn hảo. Giờ thì tôi có thể nhìn rõ nàng... cái bờm tóc màu hạt dẻ đó... những nét thanh tú trên gương mặt nàng... hai bầu ngực trẻ trung căng tròn... cái eo thon thả, đầy tham lam và dục vọng.
“Đến với anh nào, Venice. Đến với anh nào, Venice!”, tôi nói.
Venice nhích lại phía tôi bằng hai đầu gối. Làn da của nàng trắng trẻo và lung linh trong lớp lụa... toàn lụa... lụa ở khắp nơi. Một tấm trướng khổng lồ bằng lụa Trung Hoa trắng tinh buông từ trên cao xuống. Những đợt sóng lụa bung ra ở bốn góc giường. Nhiều lụa trắng Trung Hoa quá... Tôi đang chết chìm trong thứ lụa trắng khốn kiếp. Đúng lúc này, những con số lố bịch nảy lên trong tâm trí tôi: Lụa trị giá 250 đô la một thước, và ở đây có đến 200 thước lụa. Vị chi là tốn đến 50.000 đô la tiền lụa trắng Trung Hoa. Sao nhiều cái thứ lụa trắng khốn kiếp đến thế chứ.
Nhưng đó là việc của vợ tôi, chuyên gia trang trí nội thất đầy hoài bão của tôi. Ồ, đợi chút, đó là ý muốn tháng trước phải không nhỉ? Giờ đây có lẽ nàng biến thành một đầu bếp đầy hoài bão chăng? Hay nàng là một kiến trúc sư cảnh quan đầy hoài bão? Hay một người sành rượu vang? Hoặc một người thiết kế trang phục? Ai đáp ứng được hết những ý muốn chết tiệt của nàng chứ? Sao mà mệt mỏi quá đi... mệt mỏi khi phải kết hôn với Martha Steward* còn trong trứng nước.
Martha Steward (sinh năm 1941) là một nữ doanh nhân giàu có người Mỹ, chủ sở hữu Công ty Truyền thông Martha Stewart Living Omnimedia (MSLO), với 638 triệu đô la. Dưới quyền Martha là một loạt chương trình truyền hình, một tạp chí, nhà xuất bản và kênh radio vệ tinh Sirius. Bà cũng từng là một nhân viên giao dịch chứng khoán và là người mẫu. Hai thập kỷ qua, bà có vị trí nổi bật trong ngành xuất bản Mỹ, tác giả của vài cuốn sách, hàng trăm bài viết về nghệ thuật gia đình. Năm 2001 bà được tạp chí Ladies Home Journal bình chọn là người phụ nữ quyền lực thứ ba tại Hoa Kỳ.
Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy có một giọt nước. Tôi nhìn lên. Cái quái quỷ gì thế không biết? Mây dông à? Làm sao lại có mây dông trong phòng ngủ vương giả này chứ? Vợ tôi đâu rồi? Mẹ kiếp! Con vợ tôi! Con vợ tôi! Cơn bão Nadine!
RÀO!
Tôi choàng dậy nhìn gương mặt kiều diễm nhưng đầy giận dữ của Nadine, cô vợ thứ hai của mình. Tay phải nàng vẫn cầm ly nước to tổ chảng đã vơi; còn tay trái là bàn tay đã nắm sẵn thành quả đấm, được điểm xuyết bởi một viên kim cương bảy carat màu hoàng yến nằm gọn trong chiếc vành bằng bạch kim. Nàng còn cách một
quãng chưa đầy 1,5 mét, hai chân nhún nhảy như một võ sĩ quyền Anh. Tôi nhanh chóng để ý đến chiếc nhẫn.
“Sao em lại làm cái việc quái quỷ này?”, tôi miễn cưỡng kêu lên. Tôi lấy mu bàn tay dụi mắt và mất một lúc để hiểu câu “Nhất vợ, nhì Trời”. Chúa ơi, cô ả đúng là một con lừa, vợ với chả con! Thậm chí lúc bấy giờ tôi cũng không dám bực với nàng. Nàng đang mặc một chiếc áo lót màu hồng nhỏ xíu, ngắn và cổ khoét thấp đến mức khiến nàng trông còn lõa lồ hơn là khi chẳng mặc gì. Còn cặp giò của nàng kìa! Chúa ơi, trông thật ngon mắt. Nhưng điều đó không quan trọng. Tôi cần phải rắn mặt với nàng và cho nàng biết ở đây ai là ông chủ. Tôi rít qua hai hàm răng nghiến chặt: “Thề có Chúa, Nadine, tôi sẽ giết con mẹ...”
“Ôi, sợ đếch chịu được”, quả pháo tóc vàng ấy cắt lời. Nàng lắc đầu vẻ phẫn nộ, và hai đầu vú hồng hồng xinh xinh của nàng lộ ra khỏi bộ trang phục gần như chẳng còn gì. Tôi cố gắng không trố mắt nhìn, nhưng khó quá đi. “Có lẽ tôi phải chạy đi trốn mất”, nàng châm chọc. “Hay tôi sẽ ở đây và đá văng cái con tườu nhà anh!” Mấy từ cuối cùng, nàng hét toáng lên.
Chà, có lẽ nàng mới là chủ. Dù thế nào thì chắc chắn nàng cũng đã quen cái cảnh sống với tôi, không có gì để phủ nhận điều đó. Và nữ công tước khu Bay Ridge này thật nóng nảy. Đúng, nàng là một nữ công tước, chính xác - một người gốc Anh và vẫn còn mang hộ chiếu Anh quốc. Đó là một sự thật tuyệt vời mà nàng không bao giờ quên nhắc tôi nhớ. Nhưng cũng thật nực cười vì thực tế nàng chưa bao giờ sống ở Anh cả. Trên thực tế, nàng đã chuyển tới Bay Ridge, Brooklyn khi vẫn còn là một đứa con nít, và đó chính là nơi nàng khôn lớn, trên mảnh đất của những người khi nói thì nuốt phụ âm
còn nguyên âm lại méo xẹo. Bay Ridge, chính cái phần nhỏ bé của quả đất này là nơi những từ ngữ như đéo mẹ, mẹ kiếp, chó đẻ và con c. cứ ào ào tuôn ra đầu lưỡi của những cư dân trẻ tuổi luôn tự hào với tên tuổi những thi sĩ như T.S. Eliot và Walt Whitman. Và đó chính là nơi Nadine Caridi - nữ công tước lai dòng máu Anh, Ireland, Scot, Đức, Na Uy và Italia của tôi - học được cách kết hợp những câu chửi rủa với nhau, chẳng khác gì học cách tết các dải đăng ten trên những chiếc ván trượt patanh của mình vậy.
Quả là một trò bỡn cợt ác nghiệt, tôi nghĩ bụng, khi nhớ rằng mấy năm về trước, Mark Hanna đã từng cảnh báo tôi về chuyện cặp kè với một cô gái ở Bay Ridge. Á bạn gái của cậu ấy, theo tôi nhớ, đã dùng bút chì đâm cậu ấy trong lúc cậu ấy đang ngủ; còn nữ công tước lại thích hắt nước. Như thế, tôi vẫn dẫn trước trong cuộc chơi này.
Dù sao đi nữa, khi nữ công tước nổi khùng thì có vẻ ngôn từ của nàng tuôn ra từ một miệng cống hôi thối trong hệ thống rãnh nước thải ở Brooklyn vậy. Và không ai có thể làm nàng nổi điên hơn tôi, người chồng chung thủy và đáng tin cậy của nàng, con Sói già Phố Wall, người mà chưa đầy năm tiếng trước vẫn còn ở phòng Tổng thống của Cung Helmsley với một cây nến cắm ở hậu môn.
“Nói cho tôi xem, đồ khốn nạn”, nữ công tước cắn cảu, “Venice là con khốn nào, hả?” Nàng ngừng lại, tiến một bước rồi lập tức giữ thế, với phần hông chành ra xấc xược, một bên chân trần xoạc sang bên, và hai cánh tay khoanh lại dưới ngực làm hai đầu vú lộ hẳn ra. Nàng nói: “Tôi dám cá cô ả là một con điếm nào đó”. Nàng nheo đôi mắt to màu xanh biếc lại đầy vẻ kết tội. “Anh đừng tưởng tôi không biết anh làm gì ở đó? Sao nào, tôi đến phải bằm nát cái mặt chó của
anh ra, đồ... đồ khốn... ugghhhh!” Đó là một tiếng rít đầy giận dữ, đến lúc nàng ngừng rít, nàng đổi tư thế và bắt đầu lao qua phòng ngủ, chạy trên tấm thảm hiệu Edward Fields bằng vải len màu nâu sẫm được may đo theo yêu cầu trị giá 120.000 đô la. Và nàng chạy nhanh như chớp, lao thẳng tới phòng tắm lớn, cách đó khoảng 9 mét. Nàng mở vòi nước, hứng đầy cốc nước, khóa vòi và lao trở lại, trông còn tức khí gấp đôi lúc nãy. Răng nàng nghiến chặt vẻ giận dữ vô cùng, khiến cái cằm vuông vức như người mẫu bạnh ra. Trông nàng chẳng khác gì nữ công tước đến từ địa ngục.
Trong khi đó, tôi cố gắng lượm lặt mấy mẩu trí nhớ, nhưng nàng di chuyển quá nhanh. Tôi không có thời gian để nghĩ. Chắc lại do mấy viên Quaalude chết tiệt đó rồi! Chúng khiến tôi nói mê trong lúc ngủ. Ôi, mẹ kiếp! Mình đã nói gì nhỉ? Trong đầu tôi lướt nhanh các khả năng có thể có: Chiếc limousine... khách sạn... những viên thuốc... cô điếm Venice... Venice với cây nến. Ôi, lạy Chúa, cây nến chó đẻ! Tôi cố xua mọi ý nghĩ ra khỏi đầu mình.
Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ số đặt trên bàn ngủ: Đã 7 giờ 16 rồi, Chúa ạ! Mình về nhà lúc mấy giờ nhỉ? Tôi lắc đầu, cố gắng thoát khỏi tình trạng rối như tơ vò. Tôi lùa những ngón tay lên tóc. Chúa ơi, tôi ướt sũng! Chắc chắn con vợ tôi đã đổ thẳng nước lên đầu tôi rồi. Con vợ tôi đấy! Và nó còn gọi tôi là quân... quân khốn nạn! Sao nó lại gọi tôi như thế chứ? Tôi không phải là thứ khốn nạn, đúng không nào? Nó thật độc ác, con mụ Công tước kia.
Giờ nàng đã trở lại, cách tôi chưa đầy 1,5 mét, chìa ly nước ra trước mặt, khuỷu tay khuỳnh sang một bên: Tư thế hắt của nàng đấy! Còn trên mặt nàng: Chỉ toàn vẻ căm ghét. Nhưng vẫn... đẹp hết sảy! Không chỉ bờm tóc vàng óng ả tuyệt vời của nàng mà cả đôi
mắt xanh biếc long lanh, hai gò má kiêu kỳ, cái mũi xinh xinh, cái cằm với một đường chẻ nhỏ nhắn, bộ ngực thanh tân mịn màng nữa - dù có hơi xuống sắc sau thời gian cho Chandler bú, nhưng có hề gì nếu chi ra 10.000 đô la và một con dao mổ thật sắc. Và còn đôi chân kia nữa chứ... Lạy Thượng Đế Toàn năng, đôi chân trần dài miên man kia của nàng quả là khó gì sánh kịp! Chúng hoàn hảo làm sao, đôi chân ấy thon thả dần về phía mắt cá nhưng vẫn đầy khêu gợi phía trên đầu gối. Chắc chắn đó là tài sản quý giá nhất của nàng, cùng với “cái ấy”.
Thực ra, chỉ mới ba năm trước, lần đầu tiên tôi để mắt đến nữ công tước này. Một cái nhìn quyến rũ đến mức tôi quyết định rời bỏ người vợ đầu tốt bụng của mình là Denise, trả luôn cho cô ấy một cục vài triệu cộng thêm mỗi tháng 50.000 đô la trợ cấp không phải khấu trừ thuế má, để cô ấy lặng lẽ ra đi mà không đòi làm um lên chuyện lằng nhằng của tôi.
Vậy mà hãy nhìn xem mọi việc xuống dốc mới nhanh làm sao! Thật sự thì tôi đã làm gì chứ? Thốt ra vài từ trong lúc đang ngủ ư? Thế là phạm tội gì nào? Rõ ràng, nữ công tước đã phản ứng hơi quá lố rồi. Thực ra, đến lúc này, tôi có đủ lý do để nổi điên lên với nàng. Có lẽ tôi có thể nhanh chóng lái toàn bộ chuyện này sang vấn đề tình dục, thứ tình dục tuyệt vời nhất. Tôi hít một hơi thật sâu và lên tiếng với vẻ hoàn toàn vô tội: “Làm gì mà em cáu với anh thế? Ý anh là, em... em làm anh chẳng hiểu ra sao cả.”
Nữ công tước phản ứng lại bằng cách hất cái đầu có mái tóc vàng óng của nàng sang bên, cái động tác ai đó vẫn thường làm sau khi nghe thấy điều gì đó hoàn toàn phi lý. “Anh chẳng hiểu ra sao à?”, nàng ngắt lời. “Anh không hiểu chuyện đéo gì à? Tại sao...
anh... đồ... khốn nạn!” Lại đồ gì đó! Không thể tin nổi! “Anh muốn tôi bắt đầu từ đâu đây? Vì sao anh bay về đây bằng cái trực thăng chết tiệt của anh vào lúc 3 giờ sáng mà đéo có lấy một cú điện báo rằng sẽ về muộn. Như thế có phải là cách ứng xử bình thường của một thằng đã có vợ không?”
“Nhưng, anh...”
“Và một thằng bố nữa! Giờ anh đã là ba của Chandler rồi! Nhưng anh vẫn hành xử như một thằng trẻ ranh! Thậm chí anh còn không biết rằng tôi vừa mới hoàn thành cái sân tập golf trồng cỏ Bermuda à? Có lẽ anh làm hỏng con mẹ nó rồi!”, nàng lắc đầu đầy giận dữ rồi tiếp tục: “Nhưng tại sao anh lại không để ý? Anh đâu phải là hạng biết dành thời gian để nghiền ngẫm mọi thứ và làm việc với các chuyên gia thiết kế cảnh quan cũng như sân golf. Anh có biết tôi mất bao nhiêu thời gian với cái dự án chó đẻ ngu ngốc ấy của anh không? Anh có biết không hả đồ khốn hậu đậu kia?”.
À, ra tháng này nàng là một kiến trúc sư thiết kế cảnh quan đầy hoài bão! Nhưng đúng là một kiến trúc sư gợi tình! Vậy là có cách để lái mọi chuyện rồi. Chỉ vài từ đầy ma lực thôi mà. “Xin cưng, anh...”
Một lời cảnh cáo rít lên qua kẽ răng: “Không được gọi tôi là cưng! Anh đừng bao giờ gọi tôi là cưng nữa!”
“Nhưng, cưng...”
RÀO!
Vừa nhìn thấy thế, tôi kịp kéo tấm chăn lụa trị giá 12.000 đô la qua đầu và che được hầu hết cơn cuồng nộ chính đáng của nàng.
Thực ra, vẫn có một giọt nước bắn vào tôi. Nhưng, lạy Chúa, chiến thắng của tôi không được lâu vì lúc tôi bỏ chăn xuống thì nàng đang lao trở lại phòng tắm để hứng nước.
Giờ thì nàng đang quay trở lại. Ly nước lại đầy đến miệng; đôi mắt biếc của nàng ánh lên những tia chết chóc; cái hàm như của người mẫu bạnh ra đến cả dặm; và đôi chân của nàng... Chúa ơi! Tôi không tài nào rời mắt khỏi chúng. Nhưng, giờ không còn thời gian để ngắm nhìn. Giờ là lúc Sói già tỏ thái độ. Giờ là lúc Sói già nhe nanh.
Tôi rút tay từ dưới cái chăn lụa trắng tinh ra, cẩn thận không để móc phải hàng nghìn hạt ngọc nhỏ xíu đã được đính bằng tay trên mặt vải. Sau đó tôi vung hai khuỷu tay, giống như hai cái cánh gà, để cho nữ công tước đang giận dữ kia nhìn thấy hai bắp tay rắn chắc của mình. Tôi nói bằng giọng to, quả quyết: “Thách em dám hắt chỗ nước đó vào anh đấy, Nadine. Anh nói nghiêm túc đấy! Anh chấp nhận hai ly nước đầu tiên của em là vì em nóng giận, nhưng cứ làm thế mãi... ờ, giống như đâm dao vào một xác chết đã cứng đờ trên sàn trong một vũng máu vậy! Như thế thật tởm lợm!”
Câu đó dường như có làm nàng chậm lại, nhưng chỉ một giây thôi. Nàng cất giọng mỉa mai: “Xin anh thôi lên bắp tay đi được rồi đấy. Trông anh chẳng khác gì một thằng đần mạt kiếp cả!”.
“Anh không lên bắp tay”, tôi nói, chùng hai tay xuống. “Em quá may mắn lấy được người chồng có phom ngon thế này. Đúng không, em yêu?” Tôi nở nụ cười ấm áp nhất của mình. “Giờ hãy đến ngay đây và hôn anh một cái nào!” Khi những lời ấy vọt ra khỏi miệng tôi mới biết mình đã mắc sai lầm.
“Hôn anh một cái à?”, nữ công tước lắp bắp. “Anh đang trêu tôi đấy à?” Vẻ giận dữ thấm đẫm trong lời nói của nàng. “Tôi sắp xẻo hai hòn ngọc của anh rồi đính vào một hộp giày nào đó của tôi đấy. Để cho anh không bao giờ còn thấy chúng nữa!”
Lạy Chúa tôi, nàng nói rất nghiêm túc đấy! Cái tủ giày của nàng cực lớn, và hai quả cà của tôi sẽ biến mất mãi mãi. Bằng thái độ nhún nhường nhất, tôi nói: “Thì em cũng phải cho anh một cơ hội giải thích chứ, cưn...g... à quên, em yêu. Kìa, anh van em đấy!”.
Lập tức gương mặt nàng dịu lại. “Tôi không tin anh được!”, nàng nói, giọng hơi nghèn nghẹt. “Tôi đã làm gì để phải chịu cảnh thế này? Tôi là một người vợ ngoan. Một người vợ đẹp. Nhưng tôi lại có một thằng chồng luôn về nhà vào lúc khuya khoắt và gọi tên một con khác trong lúc ngủ!” Nàng bắt đầu than vãn kèm theo những lời khinh miệt: “Ư hư hư ư ư... Venice... Đến với anh nào, Venice.”
Lạy Chúa tôi! Nhiều khi những viên Quaalude đó đúng là thứ giết người. Và giờ thì nàng khóc. Đúng là một thảm họa. Thế này thì tôi làm sao có cơ hội để đỡ nàng trở lại giường trong khi nàng đang khóc chứ? Lúc này tôi cần thay đổi, chuyển sang một chiến thuật mới. Bằng thứ giọng thường chỉ dành cho ai đó đang đứng cheo leo bên vách đá và dọa nhảy xuống, tôi nói: “Bỏ ly nước xuống đi, em yêu, và đừng khóc nữa nào. Anh xin. Anh có thể giải thích tất cả mọi chuyện mà!”
Rất từ từ, rất miễn cưỡng, nàng hạ ly nước xuống ngang hông. “Nào nói đi”, nàng nói với giọng đầy vẻ hoài nghi. “Hãy cho tôi nghe thêm một câu dối trá nữa của một thằng chuyên nói dối để kiếm sống nào.”
Đúng là như vậy. Sói già luôn nói dối để kiếm sống, mặc dù đó là bản chất của Phố Wall nếu quý vị muốn làm một chuyên gia môi giới thành đạt đích thực. Tất cả mọi người đều biết điều đó, đặc biệt là nữ công tước nhà tôi, vì thế thật sự nàng không có quyền nổi giận với chuyện đó. Tuy nhiên, tôi dễ dàng phớt lờ lời châm chọc của nàng, dừng lại một chút để có thêm thời gian sắp xếp lại câu chuyện nhảm nhí của mình, và tôi kể: “Trước hết, em nghĩ về mọi việc u ám quá. Lý do duy nhất anh không gọi cho em đêm qua là bởi vì mãi đến lúc 11 giờ anh mới biết là mình sẽ về nhà muộn. Anh biết em rất muốn được ngủ ngon, và anh đoán giờ đó em đã ngủ rồi, vậy thì còn gọi điện làm gì?”
Phản ứng độc địa của nữ công tước: “Ối giời, anh lại chu đáo thế cơ à. Để tôi cảm tạ số phận may mắn đã cho tôi có một người chồng chu đáo như thế”. Lời lẽ của nàng lại đầy vẻ châm chọc.
Tôi phớt lờ thái độ mỉa mai và quyết định tiến tới. “Dù sao đi nữa thì em cũng hiểu sai chuyện Venice này rồi. Đêm qua, anh đã trò chuyện với Marc Packer về việc mở một tiệm Canastel’s ở Venice, Calif...”
RÀO!
“Anh đúng là đồ dối trá khốn nạn!”, nàng gào lên, giật tung một chiếc áo choàng lụa vắt ở lưng một chiếc ghế bọc vải trắng rất đắt tiền. “Đồ dối trá khốn nạn!”
Tôi thở dài. “Được rồi, Nadine, giải trí buổi sáng thế là đủ rồi. Giờ lên giường và hôn anh một cái nào. Anh vẫn yêu em mà, mặc dù em làm anh ướt hết rồi đây này.”
Nàng ném cho tôi cái nhìn thế này đây! “Bây giờ anh lại muốn ngủ với tôi à?”
Tôi nhướng cao mày và gật đầu đầy háo hức. Giống như một đứa trẻ bảy tuổi trả lời mẹ nó khi nghe câu hỏi: “Con có muốn một cây kem ốc quế không?”
“Được lắm”, nữ công tước rít lên. “Xin cứ tự nhiên!”
Nói xong, nữ công tước quyến rũ khu Bay Ridge mở cửa - cánh cửa gỗ gụ đặc, nặng ngót 350 kilogram, cao 6 mét, đủ vững chắc để chịu được một quả bom nguyên tử 12 kiloton, và ra khỏi phòng, nhẹ nhàng khép cửa lại. Tiếng đóng sầm cửa sẽ khiến bầy thú xiếc trong nhà tôi hiểu nhầm là cần có sự giúp đỡ.
Bầy thú xiếc trong nhà tôi gồm: Năm người hầu béo tốt nói tiếng Tây Ban Nha, hai trong số đó là vợ chồng; một hộ lý chăm sóc trẻ người Jamaica nói luôn miệng, lúc này đang cộng tờ hóa đơn điện thoại hết cả nghìn đô la một tháng vì gọi về cho gia đình mình ở Jamaica; một kỹ sư điện người Israel, luôn theo sát nữ công tước như một chú cún si tình; một anh chàng da trắng để sai vặt rất có động lực trở thành một con hải sâm nghiện heroin; người hầu của riêng tôi, Gwynne, người đoán trước được mọi nhu cầu của tôi bất kể điều đó có thể kỳ quái đến thế nào; Rocco và Rocco, hai gã vệ sĩ có vũ trang chuyên ngăn chặn các âm mưu trộm cướp, mặc dù thực tế vụ cướp cuối cùng ở Old Brookville xảy ra từ năm 1643, khi những người định cư da trắng cướp đất đai từ những người da đỏ Mattinecock; năm chuyên gia chăm sóc cảnh quan làm việc toàn thời gian, ba trong số đó mới đây đã bị Sally - con chó giống Labrador màu nâu sô cô la của tôi sẵn sàng cắn bất kỳ kẻ nào dám
tiến đến nôi của Chandler trong vòng 30 mét, đặc biệt nếu màu da kẻ đó còn sẫm hơn màu một cái túi giấy màu nâu - cắn một trận; và thành viên mới gia nhập đội ngũ gia nhân này - hai nhà sinh vật học đại dương làm việc toàn thời gian, cũng là vợ chồng, được trả lương 90.000 đô la một năm, chuyên duy trì cho cái hồ nước khủng khiếp trong nhà tôi luôn được cân bằng sinh thái. Và dĩ nhiên, còn có cả George Campbell, anh chàng lái xe đen như cột nhà cháy căm ghét tất cả những người da trắng, kể cả tôi.
Nhưng, với ngần ấy con người phục vụ ở tư gia Ngài Belfort, điều đó cũng không thay đổi được thực tế rằng, ngay lúc này đây, tôi đang trơ trọi một mình, người ướt sũng, và hưng phấn kinh khủng vì cô vợ hai tóc vàng của mình. Tôi nhìn quanh quẩn xem có thứ gì để lau khô người. Tôi vớ lấy một tấm màn ren bằng lụa Trung Hoa trắng và cố lau người. Chúa ơi! Chẳng có tác dụng gì. Rõ ràng thứ lụa này đã được xử lý với một chất kháng nước nào đó, và nó chỉ càng làm cho nước dây từ chỗ này sang chỗ khác mà thôi. Tôi ngoái nhìn phía sau một cái vỏ gối! Nó làm bằng vải bông Ai Cập; có lẽ tổng cộng đến ba triệu sợi. May thế chứ, cũng đáng đồng tiền! Tôi lột cái vỏ gối khỏi chiếc gối nhồi chặt lông ngỗng bên trong và bắt đầu lau người. À há, vải bông Ai Cập thật tuyệt và mềm. Lại còn thấm nước cực kỳ! Tinh thần tôi phấn chấn hẳn.
Tôi nhích sang mé giường vợ tôi vẫn nằm để tránh chỗ ướt. Tôi sẽ lại trùm chăn kín đầu và quay về tổ ấm giấc mơ của mình. Tôi sẽ trở lại với Venice. Tôi hít một hơi thật sâu... Mẹ kiếp! Đâu đâu cũng thấy mùi nữ công tước! Lập tức tôi thấy máu trong người dồn hết xuống chỗ ấy. Chúa ơi, nàng đúng là một con thú nhỏ tinh nghịch, nữ công tước của tôi ấy, với một thứ mùi cũng rất tinh quái! Chẳng
còn cách nào khác, đành phải thủ dâm thôi. Dù sao thì đó cũng là cách tốt nhất. Uy lực của nữ công tước đối với tôi đều bắt đầu và kết thúc bên dưới phần thắt lưng cả.
Tôi đang định tự mình giải tỏa một chút thì nghe thấy có tiếng gõ cửa. “Ai thế?”, tôi hỏi, giọng đủ lớn để có thể xuyên qua cánh cửa tránh bom kia.
“Nà Gwaayne”, Gwynne đáp.
Á à, Gwynne - với cái giọng lè nhè rất đặc trưng của dân miền Nam! Sao mà dễ chịu thế. Trên thực tế, mọi điều liên quan đến Gwynne đều dễ chịu cả. Cái cách bà ấy đoán được mọi nhu cầu của tôi, cái cách bà ấy cưng chiều tôi chẳng khác gì con của bà ấy và chồng mình, ông Willie, đúng là không bao giờ có thể tưởng tượng được. “Vào đi”, tôi trả lời thật ngọt ngào.
Cánh cửa tránh bom mở ra kèm theo một tiếng kẹt nhỏ. “Chục một buội sạng tốt nành!”, Gwynne nói. Bà ấy bưng theo một cái khay bằng bạc sáng bóng. Có một ly bự chảng đựng cà phê đá nhạt và một chai aspirin Bayer trên khay. Bên nách trái bà ấy kẹp một chiếc khăn tắm màu trắng.
“Chào chị, Gwynne. Sáng nay chị thấy thế nào?”, tôi hỏi với vẻ trịnh trọng đầy châm chọc.
“Ồ, tôi khỏe... tôi khỏe!” Tôi họẹ... tôi họe! “Dạ, tôi thấy ông chủ nằm ở phần giường của bà nhà, vì thế tôi xin phép tới đó mang cho ông chủ cà phê đá. Tôi cũng có mang theo một chiếc khăn tắm mềm để ông chủ nau người. Bà Belfort bảo tôi ông chủ nàm sánh một ít nước ra người.”
Đéo tin nổi! Lại là đòn của Martha Steward! Lập tức tôi nhận ra tình trạng cương cứng của mình đã khiến cho chiếc chăn lụa trắng trông như một cái lều của gánh xiếc, chó chết! Tôi chống hai đầu gối lên với tốc độ của một con thỏ rừng.
Gwynne bước lại và đặt cái khay lên chiếc bàn ngủ cổ ở mé giường phía nữ công tước. “Nào, để tôi nau khô cho ông chủ!”, Gwynne nói, và bà ấy khom người bắt đầu nhẹ nhàng dùng chiếc khăn trắng thấm thấm lên trán tôi, cứ như thể tôi là một đứa trẻ ẵm ngửa.
Lạy Chúa lòng lành! Cái nhà này đúng là một gánh xiếc buồn cười! Ý tôi là, tôi đang ở đây, nằm ngửa tơ hơ, trong trạng thái cực kỳ hưng phấn, trong khi bà người hầu da đen mũm mĩm 55 tuổi của mình, một sinh linh từ thời cổ tỷ âm ty, đang khom người khiến cho bộ ngực thõng thượt của bà chỉ cách mặt tôi chưa đầy một gang tay và lau khô cho tôi bằng một cái khăn tắm Pratesi trị giá 500 đô la. Dĩ nhiên, trông Gwynne cũng không đến nỗi đen lắm. Ồ, không! Chuyện đó quá bình thường với cái gia đình này. Thực ra, Gwynne còn trắng hơn cả tôi. Theo tôi đoán, trong phả hệ gia đình bà ấy, có lẽ 150 năm trước, khi dân miền Nam vẫn là dân miền Nam, bà cao tằng tổ tỷ của bà ấy từng là một nô lệ nhân tình bí mật của một ông chủ trang trại giàu có nào đó ở bang Georgia miền Nam.
Dù thế nào đi nữa thì bộ ngực thõng thượt của Gwynne ở trong tình trạng cực kỳ gần như thế này cũng khiến cho máu tôi rút hết khỏi chỗ ấy và quay trở về đúng chỗ của nó, tức là gan và tuyến bạch huyết của tôi, nơi chúng sẽ được giải độc. Tuy nhiên, cái cảnh bà ấy cứ lởn vởn ngay trước mặt như thế này khiến tôi hết chịu nổi,
vì thế tôi nhẹ nhàng giải thích với bà ấy rằng tôi có thể tự mình lau trán.
Dường như bà ấy có hơi buồn về chuyện đó, nhưng chỉ nói: “Vâng”, mà thực ra là Dzânggg. “Ông chủ có cần uống chút asprin không?” Ông chụ cọ cần uộng chụt asprin khônggg?
Tôi lắc đầu. “Không, tôi khỏe, chị Gwynne ạ. Dù sao cũng cảm ơn chị.”
“Dzânggg, thế còn một ít thuốc màu trắng cho nưng ông chụ thì sao ạ?”, bà ấy hỏi vẻ ngây ngô. “Ông chụ có cần tôi nấy một ít không?”
Chúa ạ! Người hầu của riêng tôi đang đề nghị cho tôi dùng Quaalude vào lúc 7 giờ 30 sáng! Tôi biết làm sao để làm người đứng đắn đây? Cho dù tôi ở đâu thì cũng có thuốc phiện theo sát sau lưng, đuổi theo tôi, gọi tên tôi. Và không ở đâu tồi tệ hơn tại chính công ty môi giới của tôi, nơi mọi thứ ma túy có thể tưởng tượng đều nằm đầy trong túi những nhân viên môi giới trẻ tuổi của tôi.
Nhưng đúng là tôi đang rất đau lưng. Tôi bị đau lưng kinh niên do một vết thương quái quỷ ngay sau lần đầu tiên gặp nữ công tước. Chính con chó của nàng đã gây ra vết thương ấy - cái con chó khốn kiếp giống Maltese tên là Rocky lúc nào cũng sủa ông ổng và chẳng thể dùng vào mục đích hữu ích nào hơn là làm phiền mọi con người có can hệ với nó. Tôi đang tìm cách lôi cái con súc sinh đó từ bãi biển về vào một buổi chiều hè ở Hamptons nhưng nó không chịu tuân lệnh tôi. Khi tôi cố tóm lấy nó thì nó chạy vòng quanh tôi, buộc tôi phải xông tới để tìm cách chụp cổ nó. Tình thế đó gợi lại cảnh
Rocky Balboa đuổi theo chú gà béo ngậy trong phim Rocky II trước trận đấu thứ hai với Apollo Creed. Nhưng Rocky Balboa thì nhanh như chớp và cuối cùng thắng trong hiệp đấu thứ hai, còn tôi thì làm vỡ một đĩa đệm lưng và nằm bẹp hai tuần liền. Sau đó tôi phải qua hai lần phẫu thuật lưng nhưng chỉ càng khiến tình hình thêm tồi tệ.
Vì thế chính Quaalude giúp làm dịu cơn đau. Thậm chí nếu không có tác dụng đó thì vẫn còn một lý do rất chính đáng để duy trì việc sử dụng thứ thuốc ấy.
Mà tôi đâu phải là người duy nhất căm ghét cái con chó súc sinh ấy. Tất cả mọi người đều ghét nó, trừ nữ công tước, người duy nhất bảo vệ nó, người vẫn cho phép con chó lai ấy ngủ dưới chân giường và nhai quần lót của mình. Vì một lý do nào đó không thể giải thích nổi, việc này khiến tôi phát ghen. Dù sao đi nữa thì Rocky sẽ vẫn luẩn quẩn quanh nàng trong thời gian tới cho tới khi tôi có thể nghĩ ra một cách nào đó để loại bỏ nó mà nữ công tước không thể bắt bẻ tôi được.
Nhân tiện, tôi cảm ơn Gwynne nhưng bảo bà ấy đừng lấy Quaalude, và một lần nữa, có vẻ như bà ấy hơi buồn về chuyện đó. Như thế là bà ấy đã thất bại trong việc đoán biết mọi nhu cầu của tôi. Nhưng bà ấy chỉ nói: “Dzânggg, tôi đã hẹn giờ ở phòng tắm hơi và giờ chắc ông chụ dùng được rồi” - ngay núc này - “và tôi đã để sẵn quần áo cho ông chụ từ đêm qua. Có phải nà bộ compnê xám sọc nhỏ và chiếc cà vạt màu nam hoa văn cá không ạ?”.
Lạy Chúa, nói về chuyện phục vụ! Tại sao nữ công tước lại không thể làm như thế nhỉ? Phải, tôi trả cho Gwynne 70.000 đô la một năm, còn cao hơn hai lần tỷ giá, nhưng... Hãy xem đổi lại tôi
được gì nhé: Sự phụng sự cùng với một nụ cười! Còn vợ tôi tiêu đến 70.000 đô la một tháng, đấy là còn ít đấy! Thực ra, với tất cả những ham muốn trời đánh của nàng, có khi nàng còn tiêu gấp đôi con số đó. Và chuyện đó với tôi chẳng hề gì, nhưng phải có sự trao đi đổi lại chứ. Ý tôi là, nếu tôi cần ra ngoài một lát và láng cháng chỗ này hay chỗ kia thì nàng cũng nên châm chước cho tôi một chút, phải không nào? Đúng, chắc chắn là như vậy, trên thực tế, quá đúng đến mức tôi bắt đầu gật gù tán thưởng những ý nghĩ của mình.
Hiển nhiên, Gwynne hiểu cái gật đầu của tôi là một câu trả lời xác nhận cho câu hỏi của bà ấy, và bà ấy nói: “Dzânggg, tôi xin phép đi chăm sóc Chandler để cô bé nuôn sạch sẽ, tinh tươm. Chúc ông chụ tắm rửa thoải mái!”. Vui vẻ, vui vẻ, vui vẻ!
Nói xong, Gwynne rời khỏi phòng. Chà, tôi nghĩ bụng, ít nhất bà ấy cũng làm dịu cơn dục vọng của mình, như thế mình sẽ khá hơn cho cuộc diện kiến. Mỗi khi nữ công tước tỏ ra phiền muộn, tôi đều chẳng bận tâm nhiều. Nàng là một người ruột để ngoài da, mà những người như thế thì đều nổi tiếng là dễ tha thứ.
Suy nghĩ những chuyện này trong đầu, tôi nốc cạn ly cà phê đá, lấy sáu viên aspirin, tung chăn ra khỏi giường và đi về phía phòng tắm hơi. Tại đó, tôi sẽ ra mồ hôi cho hết 5 viên Quaalude, 2 gram cocaine và 3 miligram Xanax mà tôi đã tọng vào người đêm hôm trước - một lượng ma túy tương đối vừa phải, nếu căn cứ theo sức vóc thực sự của tôi.
Khác với phòng ngủ chính chẳng khác gì một kho lụa trắng Trung Hoa, phòng tắm chính là một kho đá cẩm thạch Italia màu xám. Nó được bài trí theo kiểu lát ván rất tinh tế, kiểu cách mà chỉ
những thằng khốn Italia mới biết cách làm. Và chắc chắn là bọn chúng không ngại làm tiền tôi! Tuy nhiên, tôi vẫn thanh toán cho bọn Italia móc túi ấy sòng phẳng. Sau hết, bản chất của Chủ nghĩa tư bản thế kỷ XX là ai cũng tìm cách chơi người khác, và kẻ nào chơi được người khác cuối cùng sẽ chiến thắng trong cuộc chơi. Trên nguyên tắc ấy, tôi là nhà vô địch thế giới bất khả chiến bại.
Tôi nhìn vào gương và dành một lúc ngắm nghía mình. Chúa ơi, trông tôi mới giống một thằng mạt hạng hom hem làm sao! Nhưng tôi vẫn rất vạm vỡ... Tôi phải chạy vòng quanh phòng tắm cho ướt mồ hôi! Không lẽ do ma túy? Tôi tự hỏi. Chà, có lẽ; nhưng dù sao thì với tôi trông thế cũng khá bảnh. Tôi chỉ cao gần 1,7 mét, thân hình cũng khá đầy đặn. Tôi mở tủ thuốc và lấy ra một lọ tăng cường thị lực Visine. Tôi ngửa cổ ra sau và nhỏ vào mỗi bên mắt 6 giọt, gấp ba lần liều dùng theo chỉ định.
Đúng lúc đó, một ý nghĩ kỳ quặc nảy ra trong óc tôi: Loại người nào lạm dụng Visine nhỉ? Và tại sao tôi lại uống sáu viên aspirin Bayer? Chẳng có tác dụng gì cả. Hơn nữa, không như Lude, cocaine và Xanax, lợi ích của việc tăng liều dùng đã rõ như ban ngày, hoàn toàn không có lý do đáng giá nào để sử dụng Visine và aspirin vượt liều quy định cả.
Nhưng, nực cười thay, chính xác thì cuộc đời tôi lại là kết quả của những thứ ấy. Cái gì cũng vượt quá cả: vượt qua những giới hạn bị cấm, làm những việc mà quý vị nghĩ rằng quý vị không bao giờ làm, và giao du với những kẻ thậm chí còn rồ dại hơn cả bản thân quý vị, để quý vị cảm thấy cuộc đời mình còn bình thường hơn rất nhiều.
Tức thì tôi cảm thấy mình đang trở nên chán nản. Tôi sẽ làm gì với vợ mình đây? Lạy Chúa, lần này tôi đã thật sự làm được chưa? Sáng nay, nàng có vẻ vô cùng giận dữ! Lúc này đây nàng đang làm gì? Tôi tự hỏi. Nếu cho tôi đoán thì có lẽ nàng đang chuyện phiếm trên điện thoại với một người bạn hoặc môn đệ hay bất kỳ hạng chết tiệt nào đó. Nàng ở đâu đó dưới nhà, đang phun châu nhả ngọc với đám bạn kém hoàn hảo của mình, cùng hy vọng rất chân thật rằng bằng sự giáo huấn của mình, nàng có thể làm cho họ hoàn hảo như bản thân nàng. À, đó là vợ tôi đấy - nữ công tước khu Bay Ridge chó chết! Nữ công tước và tất cả đám thần dân trung thành của nàng, những con vợ còn trẻ ranh ở cái công ty Stratton nịnh bợ nàng cứ như thể nàng là Nữ hoàng Elizabeth hay gì gì đó. Thật tởm lợm.
Nhưng, theo cách biện hộ của nàng, nữ công tước có vai trò của mình và nàng đảm nhận nó rất thành công. Nàng hiểu rõ lòng trung thành mà tất cả mọi người có liên hệ với công ty Stratton Oakmont đều cảm nhận được, và nàng vun đắp mối quan hệ với vợ của những nhân viên chủ chốt, làm cho mọi thứ càng vững chắc thêm. Phải, nữ công tước là một phụ nữ cực kỳ hấp dẫn.
Thường thì buổi sáng nàng sẽ chui vào phòng tắm trong khi tôi đã sẵn sàng đi làm. Nàng là người rất hay chuyện, khi nàng không bận rộn với việc bảo tôi tự sướng một mình. Nhưng thường thì tôi vẫn như vậy, nên tôi thật sự không trách móc gì nàng chuyện đó cả. Mà thực tế, tôi thật sự không thể trách móc nàng bất kỳ điều gì cả, phải không nào? Dường như nàng là một cô vợ tuyệt vời chết mẹ, bất kể tất cả những chuyện tào lao Martha Stewart đó. Nàng vẫn thốt ra câu: “Em yêu mình” cả trăm lần mỗi ngày. Và trong ngày,
nàng còn gia giảm thêm những từ nhấn mạnh tuyệt vời này nữa chứ. Em yêu mình cuồng nhiệt! Em yêu mình vô điều kiện!... và, dĩ nhiên là câu tôi ưa thích: Em yêu mình đến phát điên!... Tôi cho rằng đó là câu thích hợp nhất.
Nhưng, bất chấp tất cả những lời nói ngọt ngào này của nàng, tôi vẫn không dám chắc mình có thể tin tưởng nàng không. Nàng là vợ hai của tôi và hơn nữa, lời nói đâu có mất tiền mua. Liệu nàng có thật sự bên tôi để đồng cam cộng khổ không? Xét bề ngoài, nàng luôn chứng tỏ rằng nàng yêu tôi thật lòng - liên tục hôn tôi tới tấp, và bất cứ khi nào chúng tôi xuất hiện nơi đông người, nàng đều nắm tay tôi, quàng tay qua người tôi hay lùa những ngón tay của nàng qua tóc tôi.
Thật rắc rối quá đi. Khi cưới Denise, tôi không bao giờ băn khoăn về những chuyện này. Cô ấy cưới tôi khi tôi chỉ là thằng khố rách áo ôm, vì thế sự chung thủy của cô ấy không có gì phải nghi ngờ. Nhưng sau khi tôi kiếm được 1 triệu đô la đầu tiên, cô ấy đã có linh cảm không hay, và hỏi tôi tại sao tôi không kiếm một công việc bình thường kiếm được 1 triệu đô la mỗi năm? Lúc đó, câu hỏi ấy có vẻ thật ngớ ngẩn, nhưng giờ ngẫm lại, vào cái ngày đặc biệt ấy, cả hai chúng tôi đều không biết rằng chỉ chưa đầy một năm sau, tôi sẽ kiếm được 1 triệu đô la mỗi tuần. Và cả hai chúng tôi đều không biết rằng chỉ không đầy hai năm nữa, Nadine Cardini, cô nàng bia Miller Lite, sẽ phóng vọt lên trên quãng đường tới ngôi nhà ở bãi biển Westhampton của tôi vào ngày nghỉ cuối tuần mùng 4 tháng 7 và bước ra từ chiếc Ferrari màu vàng chanh, trên người mặc một chiếc váy ngắn cũn cỡn cùng một đôi giày cao gót màu trắng.
Tôi chưa bao giờ có ý định làm tổn thương Denise. Thực tế, đó là điều xa vời nhất trong tâm trí tôi. Nhưng Nadine đã đốn ngã tôi, và tôi cũng đốn ngã nàng. Quý vị không lựa chọn được người mình sẽ phải lòng, phải không nào? Và một khi quý vị đã phải lòng ai đó - cái dạng tình yêu ám ảnh, cái thứ tình yêu nuốt chửng tất cả, khiến hai người không thể tách rời nhau dù chỉ một giây - thì làm sao quý vị có thể để một thứ tình yêu như thế đi lướt qua mình?
Tôi hít một hơi thật sâu và từ từ thở ra, cố gắng nén vấn đề của Denise xuống. Nói cho cùng, tội lỗi và hối hận là những thứ tình cảm vô giá trị, phải không? Chà, tôi biết không phải như vậy, nhưng tôi chẳng có thời gian dành cho chúng. Luôn tiến tới; đó là chìa khóa. Hãy chạy thật nhanh và đừng nhìn lại. Và chừng nào vợ tôi còn... tử tế, tôi cũng sẽ khắc phục được mọi chuyện cùng nàng.
Nghĩ thông suốt mọi chuyện trong đầu lần thứ hai chỉ trong chưa đầy năm phút, tôi gắng nhoẻn một nụ cười với cái bóng của mình và chui vào buồng tắm hơi. Ở đó, một lần nữa, tôi sẽ vã mồ hôi cho ra hết những tâm trạng càn quấy và bắt đầu một ngày của mình.
3
Chương
Máy quay không thiên vị
30
phút sau khi bắt đầu việc giải độc buổi sớm, tôi phấn chấn chui ra khỏi phòng ngủ chính. Tôi mặc bộ com lê kẻ sọc nhỏ
màu xám mà Gwynne đã chuẩn bị sẵn. Trên cổ tay trái tôi là chiếc đồng hồ Bulgari trị giá 18.000 đô la rất mỏng. Ngày xưa, trước khi nữ công tước đến thành phố này, tôi đã đeo một chiếc Rolex vàng dày bự và chắc nịch. Nhưng nữ công tước, người nắm toàn quyền
quyết định mọi thị hiếu, phong thái và thẩm mỹ, đã lập tức vứt bỏ nó với lời giải thích rằng trông nó rất thô kệch. Làm sao nàng biết rõ một chuyện như thế thì đến giờ tôi vẫn chịu không đoán được, nhất là khi xét đến thực tế rằng chiếc đồng hồ đẹp nhất nàng từng nhìn thấy khi lớn lên ở Brooklyn có lẽ có in hình một nhân vật Disney bên trên. Tuy nhiên, dường như nàng có sở trường về những việc thế này, vì thế tôi thường nghe theo nàng.
Mặc dù vậy, chẳng sao cả. Tôi vẫn giữ được niềm tự hào đàn ông về một việc dứt khoát không nhân nhượng: Một đôi giày cao cổ của dân cao bồi bằng da cá sấu màu đen làm bằng tay trông rất khủng. Mỗi chiếc giày được cắt từ một tấm da cá sấu riêng biệt, nên hoàn toàn không có vết nối. Đôi giày ngốn của tôi 2.400 đô la và tôi cực kỳ mê chúng. Dĩ nhiên, nữ công tước rất khinh thường chúng. Hôm nay, tôi đi đôi giày ấy với vẻ đầy tự hào, hy vọng gửi cho vợ tôi một tín hiệu rõ ràng rằng tôi không bị khuất phục, bất chấp thực tế là nàng đã khuất phục được tôi.
Tôi đang trên đường đến phòng ngủ của Chandler để nựng nịu con bé vào buổi sáng, một việc tôi rất ưa thích mỗi ngày. Chandler là thứ duy nhất hoàn toàn tinh khiết trong cuộc đời tôi. Mỗi lần tôi ẵm con bé trên tay, dường như tất cả những đảo điên quay cuồng đều lắng xuống.
Trong lúc tiến tới phòng con bé, tôi cảm thấy tinh thần mình lâng lâng. Con bé sắp được năm tháng tuổi và thật hoàn hảo. Nhưng khi tôi mở cửa phòng Channy thì... Một cú sốc mới kinh khủng làm sao? Không phải là Channy mà chính là mẹ nó! Nàng đã nấp sẵn trong phòng Channy để đợi tôi bước vào!
Họ đang ngồi kia, ngay giữa phòng, trên tấm thảm hồng rực rỡ và êm ái nhất. Lại là một khả năng đặc biệt cực kỳ đắt tiền của nàng, chuyên gia trang trí đầy hoài bão. Trông nàng lúc này thật xinh đẹp, Chúa ơi!, Chandler đang ngồi giữa đôi chân hơi giạng ra của mẹ nó - đôi chân hơi giạng ra! - cái lưng nhỏ nhắn xinh xinh của nó tựa vào bụng mẹ và nàng vòng hai tay quanh bụng con bé để đỡ thêm. Cả hai mẹ con trông thật tuyệt vời. Channy đúng là một bản sao y chang mẹ nó, được thừa hưởng đôi mắt biếc nhanh nhẹn và đôi gò má kiêu sa.
Tôi hít một hơi thật sâu để tận hưởng trọn vẹn mùi hương trong phòng cô con gái của mình. Ái chà chà, mùi phấn trẻ con, dầu gội đầu trẻ con, khăn tay trẻ con! Rồi lại hít một hơi thật sâu nữa để tận hưởng mùi của mẹ nó. Ái chà chà, mùi dầu gội đầu trị giá 400 đô la của nàng và mùi dầu dưỡng tóc mà chỉ có Chúa mới biết ở đâu ra! Mùi dầu dưỡng da hiệu Kiehl chế xuất theo ý khách hàng của nàng; mùi nước hoa Coco thoang thoảng của nàng, ôi sao mà vô tình thế!
Tôi cảm thấy một cảm giác râm ran dễ chịu lan khắp hệ thần kinh trung ương và chạy thẳng xuống dưới thắt lưng.
Căn phòng cũng thật hoàn hảo, một xứ sở thần tiên màu hồng xinh xắn. Vô số thú bông được bài trí khắp nơi. Bên phải là một cái cũi màu trắng và xe đẩy có mui, do đích thân Bellini ở Đại lộ Madison làm theo thiết kế riêng, với giá thỏa thuận là 60.000 đô la (Lại là chiêu của bà mẹ kia đấy!). Bên trên treo một chiếc điện thoại di động màu hồng và trắng có thể chơi được 12 bài hát của Disney, trong khi các nhân vật Disney trông như thật chạy vòng quanh rất sinh động. Đó cũng là một kỹ năng đặc biệt được làm theo ý của chuyên gia trang trí đầy hoài bão của tôi, nhưng thứ này chỉ mất có 9.000 đô la (cho một cái điện thoại di động?). Nhưng ai bận tâm làm gì? Đây là phòng của Chandler, căn phòng được ưu ái nhất trong nhà.
Tôi ngắm nhìn vợ và con gái một lúc. Lập tức trong đầu tôi xuất hiện từ hấp dẫn. Chandler trần như nhộng. Nước da bánh mật của con bé trông mịn màng và cực kỳ hoàn hảo.
Và còn một bà mẹ ăn mặc như để giết, hoặc trong trường hợp của tôi đây, để trêu tức. Người mẹ mặc một chiếc váy ngắn cũn cỡn không tay màu hồng cam có cổ khoét rất sâu. Đường rãnh giữa hai bầu vú nàng thật hết chỗ chê! Bờm tóc vàng óng của nàng ánh lên trong ánh mặt trời buổi sáng. Chiếc váy bị kéo xếch cao lên trên hông nàng, và tôi có thể nhìn thấy tất tần tật đến tận eo nàng. Trong bức tranh này vẫn còn thiếu vắng thứ gì đó... nhưng là gì nhỉ? Tôi dường như không thể nghĩ ra, vì thế tôi xua ý nghĩ đó đi và tiếp tục nhìn đăm đăm. Đầu gối nàng hơi cong lại, và tôi để hai mắt mình trượt dọc hết chiều dài đôi chân nàng. Đôi giày của nàng thật hợp
với chiếc váy, cả về màu lẫn sắc độ. Đôi giày hiệu Manolo Blahnik, có lẽ cũng tốn đến cả nghìn đô la, nhưng thật đáng đồng tiền bát gạo, nếu như quý vị muốn biết những gì tôi đang nghĩ vào cái khoảnh khắc đặc biệt đó.
Quá nhiều ý nghĩ trào lên trong đầu tôi khiến không sao bắt kịp tất cả. Tôi muốn vợ mình hơn lúc nào hết... nhưng con gái tôi cũng ở đó... song con bé còn quá nhỏ nên thật sự không thành vấn đề! Nhưng còn nữ công tước thì sao? Nàng đã tha thứ cho tôi chưa? Tôi muốn nói gì đó mà không thể tìm được lời nào. Tôi yêu vợ tôi... tôi yêu vợ tôi... tôi yêu con gái tôi. Tôi không muốn để mất họ. Vì thế tôi có quyết định ngay tại đây, ngay lúc này: Tôi phải làm được. Phải! Không gái gú gì thêm nữa! Không có những chuyến phi trực thăng về nhà lúc nửa đêm gà gáy nữa! Không ma túy nữa, hoặc ít nhất cũng là không dùng quá nhiều.
Tôi định cất lời, định đặt mình trước sự khoan dung của tòa án, nhưng tôi chẳng bao giờ có cơ hội cả. Chandler đã lên tiếng trước. Con gái tôi, thiên thần bé nhỏ! Con bé toét miệng cười và cất giọng líu ríu gọi: “Bạ-bạ-bạ-bạ-bạ-bạ-bạ... Bạ-bạ-bạ-bạ-bạ-bạ-bạ”.
“Chào Ba!”, mẹ con bé lên tiếng, bắt chước giọng trẻ con. Thật ngọt ngào! Thật quyến rũ! “Ba không định thơm con một cái vào buổi sáng à, Bạ bạ? Con rất rất muốn đấy!”
Hảaaa? Chẳng lẽ mọi việc lại dễ dàng đến thế? Tôi đan các ngón tay và bẻ răng rắc. “Ba sẽ thơm cả hai mẹ con nhé?”, tôi chẩu môi và khoe ra bộ mặt chó con đáng yêu nhất của mình. Rồi tôi cầu nguyện Đấng Toàn năng.
“Ồ, không được!”, Mẹ lên tiếng, làm vỡ tan ảo tưởng của Ba. “Ba sẽ còn rất lâu nữa mới được thơm Mẹ. Nhưng con gái ba thì đang rất muốn được thơm đây. Phải không nào, Channy?”
Lạy Chúa lòng lành, nàng chẳng chơi đẹp tý nào, đúng là vợ tôi!
Mẹ lại ra lệnh bằng giọng trẻ con: “Nào, Channy, giờ con bò ra chỗ ba con nhé. Nào, Ba cúi xuống để Channy có thể bò vào lòng nào. Được không, Ba?”.
Tôi bước lên một bước...
“Thế được rồi”, Mẹ ra hiệu, giơ tay phải lên. “Giờ cúi thấp xuống như Mẹ nói đi.”
Tôi làm như lời nàng bảo. Sau rốt, tôi là ai mà đòi tranh cãi với nữ công tước đầy gợi cảm kia chứ?
Mẹ đặt Chandler xuống thật nhẹ nhàng và hơi đẩy con bé về phía trước. Chandler bắt đầu bò về phía tôi thật chậm, luôn miệng: "Bạbạbạbạbạbạbạ... Bạbạbạbạbạbạbạ”.
Ái chà, thật hạnh phúc làm sao! Đúng là niềm vui sống! Tôi là người đàn ông may mắn nhất trên đời phải không nào? “Lại đây”, tôi gọi Chandler. “Đến với Ba, cục vàng.” Tôi ngước nhìn lên Mẹ, rồi từ từ hạ thấp dần ánh mắt... và... “Quái quỷ! Nadine, chuyện... chuyện quái gì với em vậy! Em có bị...”
“Sao nào, Ba? Em hy vọng anh không nhìn thấy bất cứ thứ gì anh muốn, bởi vì anh không thể có được nó nữa”, Mẹ nói. Nàng quả một cao thủ làm cho người khác hứng tình, với đôi chân tuyệt diệu dang rộng và chiếc váy vén cao trên hông nhưng không hề nhìn thấy
quần lót đâu cả. “Cái ấy” hồng hồng xinh xắn của nàng đập thẳng vào mắt tôi, đầy ham muốn. Tất cả những gì Mẹ có chỉ là một đám lông tơ màu vàng mềm mại gọn gàng và chỉ có vậy.
Tôi làm cái việc duy nhất mà bất kỳ anh chồng có lý trí nào cũng làm được: Tôi phục xuống như một con chó. “Anh xin, em yêu, em biết là anh ân hận chuyện đêm qua biết nhường nào. Anh thề có Chúa sẽ không bao giờ...”
“Ôi, hãy giữ lấy lời thề cho đến sang năm”, Mẹ nói, ngửa bàn tay vẫy vẫy trong không khí. “Mẹ biết Ba rất thích thề có Chúa về chuyện này chuyện kia cũng như tất cả mọi thứ khác mỗi khi Ba sắp vỡ tung ra. Nhưng đừng phí thời gian của Ba nữa, bởi vì Mẹ chỉ mới bắt đầu với Ba thôi. Từ nay trở đi sẽ không có gì khác ngoài những chiếc váy rất, rất ngắn ở trong nhà này! Được chứ, Ba? Không có gì ngoài váy ngắn, không đồ lót, và cái này nữa...”, nàng nói đầy tự hào, đồng thời đặt tay ra phía sau, khuỵu hai khuỷu tay và ngã người ra sau. Sau đó, dùng mũi đôi giày cao gót Manolo Blahnik của mình theo một cách mà đám thiết kế giày chẳng bao giờ tưởng tượng nổi, nàng biến chúng thành những cái trục gợi tình và đu đưa cặp chân tuyệt mỹ của mình mở ra khép lại, mở ra khép lại cho đến lượt thứ ba thì mở rộng đến mức hai đầu gối nàng gần như chạm xuống tấm thảm hồng rực rỡ. Nàng nói: “Sao nào, Ba? Ba không trông rõ ư?”.
Chà, không hẳn tôi chưa từng nhìn thấy cảnh này trước đó. Thực ra, đây không phải là lần đầu nàng thành công trong việc làm tôi chưng hửng. Đã từng có những lần trong thang máy, sân tennis, bãi đỗ xe công cộng, thậm chí cả Nhà Trắng. Chẳng có nơi nào tuyệt đối an toàn trước nàng cả. Quả là một cú sốc chết tiệt! Tôi cảm
thấy mình như một võ sĩ quyền Anh chưa bao giờ nhìn thấy cú đấm lao đến, kết quả là bị đo ván ngay lập tức, và vĩnh viễn!
Tình hình càng thêm khó chịu khi Chandler bò nửa chừng thì dừng lại và quyết định khám phá tấm thảm hồng rực rỡ. Con bé kéo những sợi thảm cứ như thể vừa phát hiện ra cái gì đó thật sự thú vị, hoàn toàn quên bẵng những gì đang diễn ra quanh nó.
Tôi cố gắng xin lỗi một lần nữa, nhưng phản ứng của nàng là đưa ngón trỏ vào miệng và bắt đầu mút. Ngay lập tức tôi không còn khả năng nói nữa. Dường như nàng biết mình vừa tung ra một cú đấm nốc ao, vì thế nàng từ từ rút ngón tay ra khỏi miệng và tiếp tục cất lên cái giọng trẻ thơ: “Ôi, Bạbạ thật thội nghiệp. Ba rất thích nói rằng mình biết lỗi rồi mỗi khi ba thấy rạo rực đến phát cuồng lên, có phải không nào. Bạbạ?”
Tôi trố mắt đầy vẻ hoài nghi và tự hỏi có cặp vợ chồng nào khác làm những việc như thế này không.
“Chà, Ba à, giờ xin lỗi thì đã quá muộn rồi.” Nàng dẩu đôi môi quyến rũ ra và chậm rãi gật đầu, đúng kiểu người ta thường làm khi họ cảm thấy vừa đưa bạn vào một chân lý vĩ đại nào đó. “Thật là xấu hổ vì Ba thích bay lượn khắp thành phố trong chiếc trực thăng của mình vào ban đêm sau khi đã làm những việc chỉ có Chúa mới biết là gì, bởi vì Mẹ rất, rất yêu Ba và ngay lúc này Mẹ chẳng muốn làm gì khác hơn là ân ái với Ba suốt ngày! Và tâm trạng thật sự lúc này của Mẹ là muốn Ba hôn Mẹ vào chỗ Ba thích, đúng chỗ Ba đang nhìn thấy lúc này.”
Giờ nàng lại dẩu môi ra và vờ bĩu môi. “Nhưng, ôiiii... Tội nghiệp Ba! Giờ không có cơ hội cho chuyện đó rồi, cho dù Ba có là gã đàn
ông cuối cùng trên trái đất này. Nói thật, Mẹ đã quyết định sẽ hành động như Liên Hợp Quốc và áp đặt một trong những lệnh cấm vận tình dục nổi tiếng của Mẹ. Ba không được ngủ với Mẹ cho tới đêm giao thừa” - Hả? Tại sao chứ, thật vô liêm sỉ! - “và chỉ khi Ba là một người đàn ông tốt từ nay đến ngày đó thôi. Nếu Ba phạm một lỗi nữa thôi thì thời hạn sẽ lùi tới Ngày Chuột chũi!*” Cái đéo gì vậy không biết? Nàng đúng là điên rồi!
Ngày 2 tháng 2
Tôi sắp quỳ mọp hẳn xuống thì chợt có gì đó nảy ra trong tôi. Ôi, lạy Chúa! Mình có nên nói với nàng không đây? Mẹ kiếp, buổi diễn quá hay!
Lại tiếng Mẹ bắt chước giọng trẻ con: “Còn bây giờ Mẹ đang nghĩ đây, Ba ạ. Mẹ nghĩ đến lúc Mẹ lấy đôi tất lụa dài đến đùi của Mẹ và mặc để đi lại trong nhà này, và chúng ta đều biết Ba mê tất lụa của Mẹ đến thế nào, phải không, Ba!”.
Tôi háo hức gật đầu.
Mẹ lại tiếp tục: “Ồ, phải rồi, chúng ta đều biết rõ! Và Mẹ chán ngấy việc phải mặc đồ lót... ừ hừ! Thật ra, Mẹ đã quyết định vứt tất cả những thứ ấy đi! Nhìn cho đã mắt, Bạbạ nhé” - đã đến lúc bắt nàng im được chưa nhỉ? Ù hừ, chưa! - “bởi vì Ba sắp được nhìn thỏa thích thứ đó trong nhà này! Nhưng dĩ nhiên, theo quy định cấm vận, nghiêm cấm sờ vào. Cũng không được phép thủ dâm, Ba nhé. Cho tới khi Mẹ cho phép thì Ba mới có quyền. Ba đã hiểu chưa?”.
Tôi hỏi lại với vẻ tự tin vừa mới phục hồi: “Thế còn Mẹ? Mẹ sẽ làm gì?”
“Ồ, Mẹ biết cách làm khuây khỏa mình. Ừ hừ... ừ hừ... ừ hừ”, người mẫu rên lên. “Thật ra, chỉ nghĩ đến nó thôi, Mẹ cũng đã thấy vui lắm rồi. Ba không ghét trực thăng à?”
Tôi tấn công vào điểm yếu của nàng: “Anh không biết, em ạ, anh nghĩ em chỉ nói thôi chứ không hành động đâu. Tự khuây khỏa ư? Anh không tin.”
Mẹ mím đôi môi quyến rũ và chậm rãi lắc đầu, rồi nói: “Được, em đoán đã đến lúc cần dạy cho Ba bài học đầu tiên” - á à, thế mới hay chứ! Và Chandler, vẫn đang khám phá tấm thảm, không hề bận tâm - “vì thế Mẹ muốn Ba dán mắt vào tay Mẹ đây và nhìn cho thật kỹ hoặc là Ngày Chuột chũi sẽ biến thành Chủ nhật Phục sinh còn nhanh hơn việc Ba kịp nói: “Tức hết cả cà!” đấy. Ba có hiểu ai là chỉ huy ở đây không hả Ba?”.
Tôi và hợp tác nhưng thực ra là sẵn sàng thả quả bom của mình. “Hiểu chứ, em yêu, nhưng em định làm gì với bàn tay của mình nào?”
“Xì!”, Mẹ nói, và sau đó nàng đưa ngón tay của mình vào miệng và mút cho tới khi nước miếng dính trên ngón tay ánh lên trong nắng sớm, rồi rất từ từ, rất duyên dáng, rất dâm đãng hạ xuống... đến đường viền cổ áo khoét rõ sâu... qua đường rãnh giữa hai bầu vú... qua rốn... và thẳng xuống đến chỗ...
“Dừng lại đó đi!”, tôi nói, giơ tay phải của mình lên. “Anh sẽ không làm thế nếu anh là em!”
Câu này có vẻ khiến Mẹ ngỡ ngàng. Và cũng làm nàng tức tối nữa! Rõ ràng nàng đang rất mong đợi thời khắc ma quái này chẳng
kém gì tôi. Nhưng mọi việc đi xa thế là đủ rồi. Đã đến lúc thả quả bom lên nàng. Nhưng tôi chưa kịp có cơ hội thì nàng bắt đầu gắt tôi: “Cứ thế đấy! Anh làm đi xem nào! Sẽ không có chuyện hôn hít hay ân ái cho tới tận mùng 4 tháng 7 đâu!”
“Nhưng, kìa Mẹ, còn Rocco và Rocco thì sao?”
Nàng đờ ra kinh hãi. “Hả?”
Tôi cúi xuống và bế Chandler khỏi tấm thảm hồng rực rỡ, ôm con bé vào ngực mình và hôn mạnh lên má nó. Sau đó, bằng chính cái kiểu cách xem ra hoàn toàn vô hại của nàng, tôi nói: “Ba muốn kể cho Mẹ một câu chuyện, và nếu sau khi Ba kể xong, Mẹ sẽ mừng vì Ba kịp ngăn Mẹ lại trước khi Mẹ làm việc Mẹ định làm, rồi Mẹ sẽ phải tha thứ cho Ba về tất cả mọi chuyện Ba đã làm, được không?”
Không có phản ứng gì. “Được thôi”, tôi nói “đây là câu chuyện về một căn phòng ngủ màu hồng xinh xắn ở Old Brookville, Long Island. Mẹ có muốn nghe không nào?”
Mẹ gật đầu, trên gương mặt người mẫu xinh xắn hoàn hảo của nàng đầy vẻ bối rối.
“Mẹ có hứa giữ nguyên hai chân dang rộng như thế trong khi Ba kể câu chuyện không?”
Nàng từ từ gật đầu, vẻ mơ màng.
“Tốt, bởi đó là cảnh Ba thích nhìn nhất trên thế giới này, và nó sẽ truyền cảm hứng cho Ba kể câu chuyện ngay bây giờ! Được rồi, giờ, có một phòng ngủ màu hồng xinh xắn trên tầng hai một lâu đài đá đồ sộ tại một khu đất hoàn hảo ở vị trí đẹp nhất Long Island, và những
người sống tại đó có rất, rất nhiều tiền. Nhưng - đây là điểm rất quan trọng với câu chuyện, Mẹ ạ - trong số toàn bộ tài sản họ có, trong số tất cả mọi thứ họ nắm giữ, có một thứ còn giá trị hơn rất nhiều so với tất cả những thứ khác cộng lại, đó chính là cô con gái bé bỏng của họ.”
“Bây giờ, nhân vật Ba trong câu chuyện có rất nhiều người làm công cho mình, hầu hết bọn họ đều rất, rất trẻ và đôi lúc để kẻ trộm đột nhập vào nhà, vì thế Mẹ và Ba quyết định lắp những cái cổng sắt thật lớn xung quanh toàn bộ cơ ngơi để những con người trẻ trung này không bị phiền phức với bất kỳ kẻ không mời nào. Nhưng, dù có tin hay không, Mẹ ạ, họ vẫn tìm cách đột nhập!” Tôi dừng lại và thăm dò nét mặt nàng đang dần dần biến sắc. Sau đó tôi lại tiếp: “Rốt cuộc, sau một thời gian, Mẹ và Ba phát mệt đến mức họ thuê hai vệ sĩ làm việc toàn thời gian. Mà thật buồn cười, Mẹ ạ, cả hai tình cờ đều có tên là Rocco!”. Tôi lại dừng lại và thăm dò gương mặt xinh xắn của Mẹ. Nàng xanh mét như tàu lá.
Tôi tiếp tục: “Rocco và Rocco chủ yếu trực trong một tòa nhà bảo vệ xinh xinh ở ngay sân sau trong câu chuyện này. Và vì nhân vật Mẹ trong câu chuyện luôn thích làm những việc đúng đắn nên nàng quyết tìm cho được thiết bị giám sát tốt nhất. Cuối cùng, nàng quyết định mua những chiếc máy quay truyền hình hiện đại nhất cho ra những hình ảnh chi tiết nhất, rõ nét nhất và sáng nhất có thể dùng tiền mua được. Và điểm hay nhất, Mẹ ạ, là hình ảnh có màu sắc cực kỳ sống động! Phải rồi!”
Đôi chân nàng vẫn dang rộng, đầy kiêu hãnh trong khi tôi nói: “Tuy nhiên, khoảng hai tháng trước, vào một buổi sáng Chủ nhật mưa gió, Mẹ và Ba đang nằm trên giường thì Mẹ kể cho Ba nghe về
một bài viết mà Mẹ đọc được nói về chuyện một vài cô bảo mẫu và hộ lý chăm sóc trẻ đã ngược đãi những đứa trẻ mà họ trông nom. Việc này khiến Ba vô cùng sợ hãi, cho nên Ba gợi ý với Mẹ rằng cần bố trí hai máy quay bí mật và một microphone kích hoạt bằng giọng nói trong căn phòng ngủ màu hồng mà Ba vừa nói đến ở phần đầu câu chuyện!”
“Và một trong hai máy quay giấu kín này ở ngay phía trên vai Ba” - tôi chỉ vào một cái lỗ nhỏ xíu tít trên tường - “và có thể rất tình cờ, Mẹ ạ, nó sẽ tập trung vào đúng cái phần tuyệt vời nhất trên cơ thể diễm lệ của em đấy” - tôi nói đến đó thì đôi chân khép nhanh lại - “và vì chúng ta rất, rất yêu Channy cho nên đây là căn phòng được họ theo dõi trên chiếc màn hình TV 32 inch ở ngay chính giữa phòng bảo vệ!”
“Cho nên hãy mỉm cười đi nào, Mẹ! Em đang trong tầm ngắm của cái máy quay không thiên vị đấy!”
Nàng không cử động nổi, trong khoảng 1/8 giây. Sau đó, như thể có ai đó cho một dòng điện 10.000 volt chạy qua tấm thảm hồng rực rỡ, nàng nhảy dựng lên và thét: “Chết cha tôi rồi! Khốn kiếp thật! Ôi, lạy Chúa tôi! Thật đếch tin được! Ối ông bà ông vải ơi!”. Nàng lao bổ tới cửa sổ và nhìn về phía nhà bảo vệ... rồi nàng chạy luýnh quýnh chỗ này sang chỗ kia và... HỤYCH!... nàng ngã bổ chửng vì một cái trục quay của đôi giày cao gót khốn khổ của nàng gãy gục.
Nhưng nàng chỉ nằm đúng một giây. Nàng nhanh chóng lật người sang tư thế bò bốn chân với tốc độ và sự khéo léo của một đô vật tầm cỡ thế giới rồi đứng bật dậy ngay. Trước vẻ ngỡ ngàng của tôi, nàng mở cửa, chạy ra ngoài, và đóng sầm cánh cửa sau lưng,
hoàn toàn không quan tâm đến việc bầy thú xiếc có thể nghĩ gì về thứ âm thanh ầm ầm đó. Và rồi nàng biến mất.
“Chà”, tôi nói với Channy, “cô nàng Martha Stewart thật sự hoàn toàn không chấp nhận chuyện đóng cửa rầm rầm, còn bây giờ cô ấy sẽ chấp nhận, cục cưng ạ!”. Sau đó tôi thầm cầu nguyện Đấng Toàn năng, cầu xin Người - không, van nài Người mới đúng - đừng bao giờ để Channy kết hôn với một gã trai như tôi. Chính xác thì tôi không phải là mẫu hình người chồng của năm. Sau đó, tôi bế con bé xuống nhà và trao nó cho Marcie - cô hộ lý người Jamaica nói luôn mồm - rồi đi tắt nhanh tới nhà bảo vệ, không muốn để cuốn băng video của Mẹ kết thúc ở Hollywood như là một bản thử nghiệm của chương trình Lối sống của những người giàu có buông thả.
4Chương
Thiên đường của dân WASP
Như một con chó phát rồ, tôi lùng sục Mẹ khắp toàn bộ 24 căn phòng trong lâu đài. Trên thực tế, tôi sục tìm khắp mọi ngóc ngách của cả cái cơ ngơi rộng 6 mẫu này cho tới khi rốt cục, với tâm trạng rất buồn chán, tôi miễn cưỡng ngừng việc tìm kiếm. Lúc đó đã gần 9 giờ, và tôi phải đi làm. Tôi không tài nào đoán ra cao thủ làm người khác hứng tình đáng yêu của tôi trốn ở đâu. Vì thế tôi bỏ không cố tìm nữa.
Chúng tôi rời khỏi cơ nghiệp của tôi ở Old Brookville sau 9 giờ. Tôi ngồi ở hàng ghế sau trong chiếc limousine hiệu Lincoln màu lam sậm, còn anh chàng lái xe riêng George Campbell căm ghét tất thảy mọi người da trắng thì ngồi sau vô lăng. Trong suốt bốn năm làm việc cho tôi, George chỉ cất lời nói vài từ. Có nhiều buổi sáng, tôi thấy cái kiểu câm như hến của anh ta thật khó chịu, nhưng vào cái thời điểm đặc biệt này, như thế lại ổn. Trên thực tế, sau cuộc cãi lộn vừa xong gần đây của tôi với nữ công tước kiều diễm, thật là tuyệt vời nếu có một chút bình yên và tĩnh lặng.
Tuy nhiên, như một phần nghi thức buổi sớm của mình, tôi luôn chào George bằng giọng điệu nồng nhiệt thái quá và cố gắng làm cho anh ta phải đáp lại bằng hình thức nào đó. Bất kỳ hình thức nào. Vì thế tôi cho rằng mình cần ra thêm một roi nữa, chỉ để đùa cợt cho vui.
Tôi nói: “Này, George! Hôm nay cậu thế nào?”.
George xoay đầu gần 4,5° sang phải, vì thế tôi có thể nhìn thấy phần tròng mắt trong con mắt trắng dã của anh ta, rồi anh ta gật đầu, đúng một cái.
Không bao giờ sai, mẹ kiếp! Thằng này đúng là một thằng câm khốn kiếp!
Thực ra, điều đó không đúng: Khoảng 6 tháng trước, George đã từng hỏi tôi liệu tôi có cho anh ta vay (mà dĩ nhiên là tặng cho anh ta) 5.000 đô la để anh ta đi thay bộ răng giả mới. Tôi vui vẻ đáp ứng việc này ngay, nhưng phải mãi cho đến khi tôi hành anh ta đến 15 phút, bắt anh ta phải kể cho tôi mọi thứ - bộ răng ấy trắng đến mức nào, có bao nhiêu chiếc, sẽ dùng được bao lâu và có chuyện gì không ổn với bộ răng hiện tại của anh ta. Lúc George trả lời, những giọt mồ hôi chảy dài trên cái trán đen như cột nhà cháy của anh ta, và tôi thấy áy náy vì đã căn vặn anh ta như thế.
Hôm nay, cũng như mọi ngày, George mặc một bộ đồng phục màu xanh thủy thủ và có vẻ mặt cau có, vẻ cau có nhất mà mức lương được tăng lên 60.000 đô la một năm của anh ta cho phép. Tôi không hề có ý nghi ngờ rằng George ghét tôi hay ít nhất là bực dọc với tôi, giống như cách anh ta ghét và bực bội với tất cả những người da trắng. Ngoại lệ duy nhất là vợ anh ta, một người biết làm vừa lòng mọi người, người mà George rất tôn sùng.
Lái chiếc limo là một trong những công việc yêu cầu cực cao, với một quầy rượu luôn trữ sẵn đủ mọi thứ, một chiếc ti vi và hệ thống VHS, một tủ lạnh, một hệ thống âm thanh hết sảy và một hàng ghế sau có thể biến thành một chiếc giường cỡ vừa chỉ với một động tác
gảy công tắc. Chiếc giường là một thiết kế thêm để giúp tôi đỡ đau lưng, nhưng nó còn có tác dụng ngoài dự tính là biến chiếc xe sang trọng của tôi thành một nhà chứa bốn bánh trị giá 96.000 đô la. Hãy hình dung xem. Sáng nay, đích đến của tôi không đâu khác hơn là Lake Success, Long Island, cái khu trung lưu từng rất yên tĩnh nơi công ty Stratton Oakmont tọa lạc.
Giờ đây, thị trấn chẳng khác gì Tombstone, Arizona - trước khi gia đình nhà Earps* đến thị trấn. Tất cả những nghề thủ công nho nhỏ là lạ này đã biến thành dịch vụ phục vụ cho nhu cầu, ý thích và ham muốn của đám nhân viên giao dịch chứng khoán trẻ tuổi quay quắt làm thuê cho tôi. Có cả những nhà chứa, phòng đánh bạc bất hợp pháp, câu lạc bộ ngoài giờ làm và tất cả các hình thức giải trí khác. Thậm chí có hẳn một nhóm mại dâm nhỏ hoạt động ngầm ở tầng dưới của nhà để xe, với giá 200 đô la một lần đi khách.
Một nhóm gia đình cao bồi rất nổi tiếng trong lịch sử nước Mỹ, cầm đầu là Wyatt Berry Stapp Earp (1848-1929).
Những năm đầu, đám thương nhân địa phương kịch liệt phản đối cung cách khiếm nhã thấy rõ ở đội ngũ môi giới chứng khoán vui vẻ, trong đó có nhiều tay dường như được nuôi dạy ở đầu đường xó chợ, của tôi. Nhưng chẳng mấy lúc chính đám thương nhân này lại nhận ra rằng các chuyên gia môi giới của Stratton không hề kiểm tra bảng giá của bất kỳ mặt hàng nào. Vì thế đám thương nhân tha hồ tăng giá, và tất cả mọi người đều sống trong hòa bình, chẳng khác gì miền Tây hoang dã ngày xưa.
Lúc này, chiếc limo đang chạy về phía tây, xuống đường Thung lũng Gà con, một trong những cung đường đẹp nhất ở vùng Bờ biển Vàng này. Tôi hạ kính cửa sổ để lấy một ít không khí trong lành. Tôi
ngắm nhìn những lối đi lại đông đúc của câu lạc bộ Brookville Country, nơi tôi đã tiến hành tiếp xúc có ma túy hỗ trợ trong sáng sớm nay. Trên thực tế, câu lạc bộ rất gần cơ ngơi của tôi, gần đến mức tôi có thể đánh một trái bóng golf từ bãi cỏ trước nhà mình tới giữa lối đi số 7 chỉ với một cú giao bóng bằng gậy sắt số 7, Nhưng dĩ nhiên, tôi chẳng bao giờ thèm xin làm hội viên cả, địa vị tôi chỉ là một thằng Do Thái quèn mà lại dám xâm phạm vào thiên đường của dân WASP à.
Và không phải chỉ có câu lạc bộ Brookville Country mới nghiêm cấm người Do Thái. Không, không, không! Tất cả những câu lạc bộ quanh đó đều cấm người Do Thái hoặc bất kỳ ai không phải là một đứa WASP dòng dõi quý phái chết tiệt. (Trên thực tế, câu lạc bộ Brookville Country nhận tín đồ Công giáo và không tồi tệ như một số câu lạc bộ khác.) Khi nữ công tước và tôi lần đầu chuyển từ Manhattan đến đây, tất cả những chuyện liên quan đến dân WASP làm tôi phát ngán. Nó giống như một câu lạc bộ hoặc hội kín, nhưng sau đó tôi nhận ra rằng đám dân WASP là “chuyện xưa như trái đất”, một giống loài bị đe dọa nghiêm trọng chẳng khác gì loài chim dodo hay cú hoa. Và trong khi quả thật vẫn có những câu lạc bộ golf và lều đi săn như những thành lũy cuối cùng chống lại bầy người xâm lăng shtetl, họ chẳng khác gì những kỵ sĩ tham gia trận Little Big Horn* của thế kỷ XX sắp bị giày xéo bởi những cư dân Do Thái man di mọi rợ như tôi đây, kẻ đã ăn nên làm ra tại Phố Wall và sẵn sàng chi ra bất cứ thứ gì cần để sống tại nơi Gatsby* sống.
Little Big Horn là trận chiến giữa lực lượng kết hợp của hai nhóm thổ dân da đỏ Lakota và Northern Cheyenne với Trung đoàn Kỵ binh số 7 của Quân đội Hoa Kỳ, nổ ra trong hai ngày 25 và 26 tháng 6 năm
1876, gần sông Little Bighorn. Kết quả, Trung đoàn Kỵ binh, với 700 quân do tướng George Armstrong Custer chỉ huy, bị đánh bại; 5 đại đội bị xóa sổ và tướng Custer tử trận.
Tên nhân vật chính trong tiểu thuyết Gatsby Vĩ đại, kiệt tác của nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald (1896-1940), xuất bản lần đầu vào tháng 4 năm 1925. Tác phẩm lấy bối cảnh vùng Long Island mùa hè năm 1922. Tiểu thuyết kể về cuộc đời vinh quang và tủi nhục của Gatsby, một người bình dị, xuất thân trong một gia đình nghèo, yêu say đắm Daisy Buchanan, một phụ nữ giàu có và xinh đẹp. Gatsby đã bất chấp những thủ đoạn mờ ám để chiếm lấy một tài sản lớn nhằm chinh phục người đẹp. Thế nhưng, khi bước chân vào thế giới thượng lưu Mỹ ở Long Island, anh chỉ thấy những trò giải trí vô bổ, những thói lẳng lơ của người đẹp. Xã hội đó lợi dụng và hắt hủi anh, Daisy cũng rũ bỏ anh, khiến Gatsby thất vọng đi đến một kết cục kinh hoàng.
Chiếc limo nhẹ nhàng rẽ sang trái và giờ chúng tôi đã vào hẻm Hegemans. Phía trước bên tay trái là chuồng ngựa Bờ biển Vàng, nhưng các ông chủ thích gọi nó là “Trung tâm Cưỡi ngựa Bờ biển Vàng”, nghe cực kỳ WASP.
Khi chúng tôi chạy qua, tôi có thể nhìn rõ những chuồng ngựa kẻ sọc xanh lục xen trắng, nơi nữ công tước nhốt ngựa của nàng. Từ đầu tới cuối, toàn bộ chuyện cưỡi ngựa đúng là một cơn ác mộng kinh khủng. Bắt đầu với tay chủ chuồng ngựa, một gã Do Thái man di mọi rợ bụng phệ, nghiện Quaalude, với một nụ cười xã giao 1.000 watt và một sứ mệnh bí mật là bị nhầm là dân WASP. Lão ta cùng mụ vợ WASP giả hiệu tóc vàng bị tẩy trắng của mình nhìn thấy nữ công tước cùng tôi đang đến gần từ cách xa một dặm đường và quyết định đẩy hết đàn ngựa vứt đi của họ cho chúng tôi, với số tiền
cộng vào giá vốn là 300%. Và như thế vẫn chưa đủ đau, vì ngay khi chúng tôi mua lũ ngựa, chúng bị những trận ốm kỳ quái hành hạ. Nào là hóa đơn thú y, hóa đơn thức ăn, tiền chi phí trả cho đám nhân viên chuồng ngựa để họ cưỡi ngựa nhằm giữ phom cho chúng, tất cả mọi thứ biến thành một cái lỗ đen khổng lồ.
Tuy nhiên, nữ công tước kiều diễm của tôi, chuyên gia cưỡi ngựa đầy hoài bão của tôi, lại đến chỗ đó mỗi ngày, để cho đàn ngựa của nàng ăn những cục đường và cà rốt rồi tập cưỡi ngựa, bất chấp thực tế là nàng đã bị chứng dị ứng ngựa rất khó trị nên thường trở về nhà với những tràng hắt hơi, thở khò khè, ngứa ngáy và ho. Nhưng này, khi sống giữa thiên đường của dân WASP, quý vị cần làm như dân WASP làm, và phải vờ thích ngựa.
Khi chiếc limo vượt qua Đại lộ Northern, tôi cảm thấy cơn đau phần dưới lưng lan đến tận bề mặt. Lại đến lúc rồi đây, nơi mà phần lớn hỗn hợp thuốc giải khuây đêm qua đã hết tác dụng với hệ thần kinh trung ương của tôi và tích tụ cả vào gan cũng như các tuyến bạch huyết, đúng nơi đúng chốn của nó. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là giờ đây cơn đau đang trở lại. Có cảm giác như một con rồng phun ra lửa, hung dữ, cáu kỉnh đang từ từ thức giấc. Cơn đau bắt đầu từ chỗ eo lưng, phía bên trái, rồi lan thẳng xuống phần bụng bên chân trái tôi. Cứ như thể có ai đó đang xoáy một cây thép nóng đỏ vào phần sau bắp đùi tôi. Vô cùng đau đớn. Nếu tôi cố gắng xoa chỗ đau, nó sẽ chuyển sang một vị trí khác.
Tôi hít một hơi thật sâu và cố nén ham muốn vồ lấy ba viên Quaalude rồi nuốt chửng chúng. Đó là cách hành xử hoàn toàn không thể chấp nhận được. Tôi đang đi làm, và mặc dù là ông chủ, tôi cũng không thể để sơ sẩy như một thằng đần mũi dãi lòng thòng.
Việc đó chỉ chấp nhận được vào buổi tối. Thay vào đó, tôi lẩm nhẩm cầu nguyện sẽ có một lưỡi tầm sét từ bầu trời trong xanh giáng xuống và giết chết luôn con chó trung thành của vợ tôi đi.
Ở mé bên này Đại lộ Northern, mọi thứ đều có giá thuê rất thấp, cụ thể là một căn nhà trung bình chỉ mất có hơn 1,2 triệu đô là một chút. Có phần mỉa mai là thằng nhóc sinh ra trong một gia đình nghèo hèn lại có thể trở nên chai cứng trước sự tiêu pha phung phí tài sản đến mức những căn nhà giá cả triệu đô la giờ dường như cũng chỉ là những túp lều mà thôi. Nhưng đó không phải là điều xấu, phải không? Chà, ai biết gì hơn chứ.
Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy tấm biển xanh lá cây-trắng treo ngay dốc vào xa lộ Long Island. Chỉ chốc nữa, tôi sẽ bước vào khu văn phòng của công ty Stratton Oakmont - ngôi nhà bên ngoài tư gia của tôi - nơi không khí ồn ào kinh khủng của cái phòng họp cuồng loạn nhất nước Mỹ sẽ khiến cho cơn điên loạn dường như là điều hoàn toàn ổn thỏa.
5Chương
Thứ ma túy mạnh nhất
Công ty ngân hàng - đầu tư Stratton Oakmont chiếm trọn lầu một của một tòa nhà văn phòng lắp kính đen vươn cao 4 tầng từ đống bùn lầy của một vùng đầm phá mốc xì ở Long Island. Thực ra, cũng không đến nỗi tệ lắm. Phần lớn cái đầm cũ đã được cải tạo từ đầu những năm 1980, và đến nay nó hãnh diện với một quần thể văn phòng hạng nhất có bãi đỗ xe rộng mênh mông và nhà chứa xe ba tầng dưới lòng đất, nơi các nhân viên giao dịch của Stratton nghỉ giải lao giữa buổi chiều và thư giãn với một tiểu đội gái bán hoa.
Hôm nay, cũng như mọi ngày, khi chúng tôi dừng lại trước tòa nhà văn phòng, tôi thấy mình tỏ ra rất hãnh diện. Lớp kính đen có thể soi gương được lấp lánh sáng trong ánh nắng buổi sớm, nhắc cho tôi nhớ xem mình đã tiến xa đến đâu trong 5 năm qua. Thật khó tưởng tượng được rằng trên thực tế, tôi đã gây dựng nên Stratton từ buồng điện của một công ty chuyên buôn bán xe hơi đã qua sử dụng. Và giờ đây là... thứ này!
Ở mé phía tây của tòa nhà có một lối vào rất lớn đủ làm choáng ngợp tất cả những người đi bộ qua đó. Nhưng chẳng có ma nào của Stratton từng làm việc này cả. Đi lối đó quá xa trong khi thời gian là tiền bạc. Thay vào đấy, tất cả mọi người, kể cả tôi, đều sử dụng một cái dốc bê tông ở mé phía nam của tòa nhà, dẫn thẳng tới phòng họp của Ban Giám đốc.