🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sau Cành Violet
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin sách gốc
SAU CÀNH VI Ô LÉT
Tác giả: Ngô Tất Thắng
Nhà xuất bản: Hà Nội
Nguồn: TVE-4U
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Mục Lục
CHƯƠNG MỘT: RỒNG LỬA CHƯƠNG HAI: CHÚ BÉ
CHƯƠNG BA: VIÊN SỸ QUAN CHƯƠNG BỐN: DÀN THẾ TRẬN CHƯƠNG NĂM: KẺ GIẤU MẶT CHƯƠNG 6: ĐẠI ÚY THIÊN NGA CHƯƠNG BẨY: TÊN PHẢN BỘI CHƯƠNG TÁM: HÀNH ĐỘNG CHƯƠNG CHÍN: SAU CÀNH VIÔLÉT
CHƯƠNG MỘT: RỒNG LỬA
MỘT chiều Đà lạt.
Sau một ngày ngao du trên khắp cao nguyên, mặt trời mệt mỏi lấp ló sau ngọn Lang-bi-an, rọi những tia nắng dài và mảnh như tơ xuống hai bên cánh rừng thông, nhuộm vàng xanh mấy triền đồi óng ả. Phấn thông bay nhè nhẹ trong nắng, lấp lánh như những hạt bạc, hạt vàng. Dưới chân đồi, mặt hồ đang thẫm dần lại, phẳng lặng đến yên tĩnh. Toàn cảnh nhìn qua có dáng của một người già đang ngồi suy ngẫm lại những tháng năm sôi nổi đã trôi qua trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Uyliam nghĩ thầm và mở tung cánh cửa sổ. Một luồng không khí mát dịu ùa vào căn phòng ấm áp nồng nặc mùi rượu uýt-xki và xì-gà. Uyliam nghiêng nửa người ra phía cửa sổ, nở căng lồng ngực hít mạnh hương vị của trăm ngàn bông hoa đang đua nở dưới vườn. Ôi xứ sở này! Chẳng kém gì thành phố Giơ-ne-vơ... Giá như gã đến đây với một chiếc cặp da căng chặt những hợp đồng buôn bán. Gã sẽ xây ngay một biệt thự gần thác Pren, sẽ trồng trước nhà vài héc-ta hoa các loại. Chà, sau một chuyến công cán, gã sẽ ngả người trên bộ sa-lông kê giữa vườn, rít một hơi xì-gà La Habana và thả mắt trong những sắc màu rực rỡ. Thú vị biết chừng nào... Những chiếc cặp da dày cộm kia, hiện đang nằm nguyên trong két sắt đâu phải là những hợp đồng lời lãi. Sau chuvến công du Ha-oai, gã về đây với một kế hoạch tối mật. Uyliam thở dài. Thôi, biết làm sao được. Quân cộng sản ngày một lấn tới. Quân đội viễn chinh Hoa kỳ đã dính líu tới trên bốn mươi vạn mà vẫn không xoay chuyển được tình hình, vẫn che đầu hở đuôi. Lúc này buôn cũng lỗ.
Một hồi chuông ngân vang. Không quay lại, Uyliam nói cộc lốc:
- Mời vào! - Giọng nói trầm và nhẹ, lành lạnh như có chất thép.
Cửa mở. Một viên đại úy người Việt bước nhanh vào, rập gót giầy, giơ tay chào:
- Thưa ngài trung tá, có điện khẩn của trung tâm, đánh từ Sài Gòn.
Uyliam như vẫn mải mê ngắm hoa. Gã đưa mấy ngón tay dài và trắng như bàn tay học trò, vuốt nhẹ cánh hồng nhung vàng phơn phớt tơ. Một lát sau, gã từ từ quay lại, nheo mắt nhìn viên đại úy từ nãy tới giờ vẫn đứng nghiêm như một khúc gỗ. Gã nói bằng một thứ tiếng Việt rất sõi:
- Thứ nhất, tôi không phải là trung tá. Tôi là Uyliam, chủ công ty thép Rôbớc Uyliam và con trai. Lần cuối cùng tôi nhắc anh điều đó. Thứ hai, để điện trên bàn. Đã vào sổ rồi chứ?
- Thưa trung... À, xin ngài tha lỗi, thưa ngài, bà thư ký đã… - Thôi đủ rồi. Uyliam đột ngột ngắt lời.
Gã cáu kỉnh sải những bước dài trong căn phòng, đi đi lại lại. Đứng chờ một lúc không thấy Uyliam ra lệnh gì, viên đại úy ấp úng rồi hỏi nho nhỏ:
- Dạ, thưa ngài... còn gì...
Lúc ấy, Uyliam mới nhớ ra gã kia còn ở trong phòng. Không hiểu vì lý do gì, Uyliam nhếch mép:
- Anh còn đứng đây làm gì hả?
Viên đại úy vội rập gót, quay lưng bước nhanh ra cửa. Nhìn trước nhìn sau không thấy gì, hắn rút khăn mùi xoa lau vội mồ hôi túa đầm đìa trên cái trán thấp lè tè. Hắn biết, một khi Uyliam đã nói với giọng như vậy, nghĩa là gã đang bực mình. Thành - tên viên đại úy - không còn lạ gì tính khí gã trung tá đóng vai nhà tư bản này. Hơn một năm nhận nhiệm vụ tháp tùng kiêm bảo vệ trung tá tình báo Hoa Kỳ Giêm Uyliam, Thành thừa hiểu phong cách của những đồng minh đàn anh, song hắn vẫn cho Uyliam là một người Mỹ lịch sự và thân thiện. Ngoại trừ những khi ngài có công việc đi Ha oai hay đâu đó, còn thì bình thường, Thành là người tin cậy,
được lui tới chăm sóc bảo vệ gã. Chưa bao giờ Uyliam lại cáu giận vừa lạnh lùng vừa lỗ mãng như vậy.
Đại úy Thành sẽ còn hú vía hơn nếu biết rằng chỉ chậm chân chút nữa, gã sẽ là nạn nhân của cơn thịnh nộ đang hoành hành trong cái phòng ấy.
Sau khi liếc qua bức điện, Uyliam quay mặt đi rồi đột ngột vồ lấy tờ giấy trắng mỏng manh, nhìn như muốn nuốt sống nó. Gã ôm chặt hai bên thái dương như cố quên đi điều khủng khiếp vừa nhận dược, nhưng những dòng chữ như những chiếc gai nhọn chọc vào mắt hắn “Rồng lửa đổ xuống chỗ trống. Bị thiệt hại nặng. Kiểm tra khẩn cấp nội bộ. Đưa Viôlét về trung tâm ngay – Hây-Gơ”
Chợt Uyliam đứng bật dậy, rút súng, trợn mắt nhìn từng đồ vật trong phòng. Chiếc tủ sắt có bộ phận bảo hiểm báo động chế tạo tại Caliphoócnia kia có vẻ thảm hại làm sao. Bất cứ một tên Việt cộng nào cũng có thể luồn tay vào đó như luồn tay vào đầu gã lấy đi những điều tuyệt mật. Cái máy điều hòa không khí kia, liệu có gắn máy ghi âm? Tấm bản đồ to tướng choán gần hết bức tường kia, liệu đã có kẻ nào biết cách sử dụng nó? Và cả bức ảnh bố mẹ gã đang cúi xuống nhìn gã cười âu yếm kia nữa, biết đâu... Tay lăm lăm khẩu côn, Uyliam gườm gườm nhìn bốn chung quanh. Không, không thể tin được. Kế hoạch Rồng lửa tuyệt mật là thế, chỉ có Hâygơ, Sácli, gã và một vài tướng lĩnh chóp bu trong Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa được biết, tại Sao Việt cộng lại biết mà tránh? Gã không lạ gì kết quả của một chiến dịch, một khi đối phương đã nắm trước mọi bí mật trong tay. Kệ nó, kệ thằng tướng Hâygơ loại “cầy cuốc” dơ đầu ra mà chịu. Gã không quan tâm đến điều đó. Cái chính là, chắc chắn trong nội bộ có quân cộng sản. Đây chính là mối lo nghĩ của Uyliam, kẻ thù dấu mặt ấy, biết đâu chẳng cắt ngang cuộc đời đầy hứa hẹn của gã bằng một thủ đoạn nào đó. Thiếu tướng Sơn Hồng, chuẩn tướng Đan, chuẩn tướng Vinh, đại tá Hưu… gã nhẩm nhanh mấy cái tên nhưng rồi lại gạt đi ngay. Không, không thể là số này. Vậy thì kẻ nào. Kẻ nào đã tiết lộ bí mật?
Có tiếng gõ cửa bên ngoài, Uyliam quăng khẩu súng lên mặt bàn dằn giọng nói:
- Cứ vào.
Khi quay lại, thấy một cô gái Việt dáng thon thả, đẹp như người trong họa báo bước ra, giọng Uyliam dịu xuống:
- Ồ Hoài Phương,, cô vẫn chưa nghỉ kia à?
- Thưa ngài, tôi chờ gặp ngài vì một công việc cần thiết. Hoài Phương vừa nói vừa bước nhanh lại bên bàn. Nụ cười trên khuôn mặt cô như chiếu sáng căn phòng. Uyliam đon đả mời cô ngồi:
- Ồ, đại úy Hoài Phương... cô thật là một tấm gương sáng về tinh thần hăng say vì công ích chung. Nếu ở miền Nam này viên chức nào cũng được như cô thì người Mỹ chúng tôi...
- Thưa ngài, tôi muốn được thưa với ngài về công việc của cá nhân tôi.
Hoài Phương dịu dàng ngắt lời Uyliam. Đôi lông mày kẻ nhỏ nhưng rất đậm nổi bật trên làn da trắng hồng được phủ một lớp phấn mỏng khẽ nhíu lại như để tăng thêm phần nghiêm chỉnh cho lời nói:
- Tôi muốn thưa với ngài cho tôi được chuyển về làm một công việc gì đó gần với chiến trường hơn. Tôi còn trẻ, cần phải làm việc nhiều hơn để phụng sự cho đất nước tôi.
“Ồ ồ ồ ồ” Uyliam ngạc nhiên kêu lên, hai cánh tay dài ngoẵng dơ lên trời như thán phục. Hoài Phương thản nhiên nói tiếp với nụ cười mê hoặc lòng người của cô:
- Đà lạt chỉ thần tiên đối với những người muốn nghỉ ngơi, họ cần sự yên tĩnh để trốn tránh cuộc đời, nhưng còn tôi...
Uyliam khẽ vỗ hai bàn tay vào nhau:
- Thật là tuyệt diệu: Rất tiếc là tôi không kịp mở máy ghi âm. Tuy nhiên tôi vẫn phải nói thật là yêu cầu của cô hơi đột ngột. Xin cô vui lòng cho tôi được suy nghĩ thêm.
- Tôi mong rằng ngài sẽ chấp nhận yêu cầu của tôi cũng như từ trước đến nay ngài luôn giành cho tôi sự quan tâm đặc biệt. Xin cảm ơn ngài Uyliam.
Hoài Phương nói và đứng dậy, Uyliam niềm nở tiễn chân cô:
- Được thôi, cô cứ yên tâm ra về. Xin chúc cô mọi sự tốt lành.
Hoài Phương đi rồi Uyliam còn đứng bên cửa suy nghĩ với nụ cười trên môi. Chợt hắn khẽ lắc đầu rồi bước nhanh đến bên bàn, cầm ống điện thoại. Lúc này giọng nói của hắn lại trầm và nhẹ lạnh lùng như có chất thép:
- A lô! Đại úy Thành hả? Anh chuẩn bị xe cho tôi... cái gì? Thôi, không cần. Hai người là đủ. Gọi điện cho phi trường và quân cảnh.
Đặt điện thoại xuống Uyliam lại kéo rèm che cửa sổ và khóa trái cửa ra vào. Gã đến gần tấm bản đồ Đông Dương trải rộng trên tường. Sau khi ngắm nghía cẩn thận như một khách hàng lựa chọn vật định mua, gã lấy cây gậy dựng cạnh đấy ấn vào ngôi sao đen chỉ Sài Gòn. Tấm bản đồ tự động tách làm đôi, mở ra một ngăn tủ bí mật, chìm trong tường. Uyliam xoay đi xoay lại nắm đấm mấy vòng gì đó, rồi rút ra chiếc ngăn kéo có đính con diều hâu trên quả địa cầu. Tần ngần, gã lấy tấm phiếu đề trên góc trái dòng chữ số USV-N4513, nhìn kỹ. Bên cạnh tấm ảnh cô gái, mấy dòng chữ ghi rõ: “Đại úy thiên nga phòng 2 - Tên Lê Hoài Phương tức Giên Rixta – tốt nghiệp trung tâm an ninh Đài Bắc 1958 – trung tâm tình báo phương Đông Caliphoócnia 1963 – thụ huấn 6 tháng tại biệt khu Ha-oai. Tính ít nói thông minh, sắc sảo, kiên quyết, hơi bướng bỉnh, kiêu kỳ, khả năng: nhận diện. Chú ý: quan hệ. Đã thử thách. Quê: Thanh Trì, Hà Nội. Ông: tri phủ Lê Hoài Trung. Bố: đại tá chánh văn phòng
B.T.T.M quân đội liên hiệp Pháp Lê Hoài Nam. Bị cộng sản xử tử năm 1953 tại nhà riêng.”
Uyliam rút tiếp ngăn kéo phía trên đính nổi hình quả đấm thép, tìm tấm phiếu kí hiệu US - AVN 1851. Tấm ảnh một viên sĩ quan trẻ lung lay trên góc phiếu như muốn rơi. Gã lấy cả hai tấm phiếu ra sắp các ngăn kéo lại, vặn theo chiều ngược mũi tên ba vòng, ấn tụt vào, rồi xoay lại một vòng. Kiểm tra lại hệ thống báo động và bộ phận tự hủy đâu đó xong xuôi, gã lui ra, lấy đầu gậy ấn mạnh vào đầu đỉnh trên cao phía trái. Hai nửa tấm bản đồ từ từ liền lại, không còn một dấu vết gì ngoài đường vĩ tuyến 17 như in đậm hơn mọi đường vĩ tuyến khác.
Uyliam trở lại bàn, ngồi phịch xuống chiếc ghế bành bọc da. Đưa hai tấm phiếu vào gáy cuốn “Chiến lược ngoại giao ngày nay” của H. Kít xinh-giơ, giáo sư tiến sĩ trường đại học Havớt, gã trầm ngâm ngắm hai khuôn mặt… phải, đến lúc cho thiên nga vỗ cánh rồi.
***
Vì thời tiết xấu, chiếc Booing 707 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất chậm nửa giờ. Uyliam sửa lại chiếc ca-ra-vát màu đỏ tươi, ôm cặp bước xuống sau cùng. Vừa ra tới cửa, gã trông thấy chiếc Phi-át từ ga hành khách bon tới, nhẹ nhàng dừng lại bên chân cầu thang máy bay. Sác-li, trợ lý đặc biệt của Hâygơ vươn tay mở cửa xe cho Uyliam. Vừa ngắm bộ com-lê màu vàng may đo tại Pari rất khít người của Uyliam, Sác-li vừa rú ga nhẹ, nói nhỏ:
- Tuyệt, rất đúng mốt. Tôi đợi anh đã hai tiếng rồi. Hây gơ nói phải đón, còn Viôlét đâu?
Uyliam vỗ nhẹ vào chiếc cặp căng phồng. Gã nới cổ áo, thầm tiếc nuối tiết trời cao nguyên. Nhìn sang chiếc áo cộc tay bằng lụa tơ tằm màu bơ, gã nhủ thầm: “nó sang sau mình mà khôn gớm”
Ra khỏi cổng phi trường, Sác-li tăng tốc độ cho xe lao
nhanh. Vẫn nhìn sang bên đường, Uyliam hỏi:
- Có gì mới không?
- Hâygơ đang cáu. Vụ Rồng lửa mà.
- Bây giờ đi đâu ?
- Về trung tâm. Mọi người đang chờ anh. Gấp lắm rồi Intopraido cùng hầu hết hạm đội 7 đã tăng cường về đây. Toàn bộ binh đoàn đặc nhiệm đã báo động cấp một.
Xe đang lao nhanh, đột nhiên Sác-li nhả ga cắt ly hợp nhấn mạnh bàn phanh. Hai người bị dúi mạnh về phía trước. Tiếng máy rồ lên. Uyliam vừa định hỏi điều gì đang xảy ra thì ngay lúc đó, bốn mũi súng AR.15 đen ngòm đã chĩa thẳng vào xe. Năm viên quân cảnh chặn đường. Không tắt máy, Sác-li hất hàm:
- Các anh cần gì?
- Đề nghị hai người cho coi giấy. Viên thiếu úy trẻ măng, quân phục là thẳng nếp, mép còn nguyên hàng ria tơ nói nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
- Các anh mù hay sao mà không thấy biển số xe? Đây là xe của tòa đại sứ Hoa kỳ.
- Đề nghị hai ngài cho coi giấy ! - Viên thiếu úy vẫn dứt khoát, mắt gườm gườm.
Sác-li cáu thật sự. Hai tai gã ửng đỏ, máu chảy giần giật. Tay phải vẫn để nguyên trên vô-lăng, tay trái gã mở cốp xe, đồng thời kín đáo dùng ngón tay cái ấn nút máy phô-ni. Gần như cùng lúc viên thiếu úy đỡ lấy tấm các trong tay Sác-li, cái loa đen gắn chặt vào thành xe vang lên một giọng rè rè như người ngạt mũi.
- Đại bàng đây! Đại bàng đây!
- Trung tá Sác-li đây. Các ông làm gì mà rải lính đầy đường vậy? Lính tráng của các ông toàn giỏi chặn đường Sài gòn thôi.
- A, xin chào ngài trung tá, Lính của tôi chặn xe ngài hẳn? Cảm phiền chút nghen. Mấy bữa rày, cộng sản làm tàng quá trời, chặn không thấu. Chắc tụi nó nghe Rồng lửa của các ngài...
Sác-li cau mặt tắt phô-ni, cắt ngang giọng anh chị cỡ bự của Đại bàng. Hắn không lạ gì gã kia. Giọng lưỡi mỉa mai, phân trần mà ngạo mạn. chia buồn nhưng nghe như cười cợt ấy nhiều phen làm cho Sác-li tức điên người.
Ngồi bên cạnh, Uyliam bắt đầu sốt ruột. Nhất là nhìn mấy họng súng đen ngòm cứ chĩa thẳng vào xe, vào mắt gã. Uyliam bỗng dưng thấy lạnh xương sống. Nghe nói dạo này ở Sài gòn, Việt cộng cải trang dữ lẵm. Biết đâu...
Quay sang nhìn Sac-li bực tức mà phải cắn răng chịu, gã vừa tức vừa buồn cười cho người bạn từ thuở thiếu thời. Ấy, cái thằng này vẫn thế. Thích quát nạt người ta, nhưng khi gặp đối thủ mạnh hơn thì co vòi lại. Có thể mấy tên quân cảnh kia chỉ cần hét thêm vài câu nữa. Sác-li vãi đái ra quần mà quỳ xuống lạy cũng nên. Uyliam thích thú với suy nghĩ của mình, và để tự ban thưởng cho cái vốn quý báu chưa bao giờ mất đi trong người, kể cả những khi nguy cấp nhất, gã nhếch mép cười một mình, và cho phép rời mắt khỏi mấy họng thép đen ngòm kia. Chợt gã cảm thấy có một tia mắt nào đang nhìn gã như soi mói, như dò hỏi, như chờ đợi một điều gì đó ở gã. Linh tính nhạy bén của một con cáo đã thầm mách bảo như vậy. Gã ngẩng lên, nhìn kỹ. Vẫn chỉ có năm người lính không mấy thiện cảm đang vây quanh xe. Chẳng lẽ đó lại là cái nhìn của bốn khẩu súng dài và một khẩu súng ngắn? Chếch phía trước mặt là chiếc Jeep quân cảnh. Xung quanh, đường vắng teo. Mấy ngôi lầu bốn tầng cửa đóng im ỉm, nặng nề… Xa xa, bóng hai chiếc xe tăng đen trũi, nòng pháo hạ ngang mặt đường như chờ đợi. Lẽ nào cảm giác sai. Đúng là có một người thứ sáu nào đó đang quan sát gã.
Quan sát gã, chính gã chứ không phải Sác-li, và điều đáng sợ hơn, hình như con người bí mật đó quan sát chiếc cặp đen gã đang ôm khư khư trong lòng. Gã giật mình, ôm chặt lấy chiếc cặp chứa đựng cả số phận cuộc đời gã.
Viên thiếu úy đã trả lại tấm các và sự vụ lệnh. Bốn người lính đứng dạt ra bên cạnh, ưỡn thẳng lưng, nòng súng chĩa xuống đất. Sác-li lẩm bẩm, sang số, rú ga. Chiếc xe lao vút đi. Ngang chiếc xe Jeep, Uyliam thấy một viên thượng sĩ đứng tuổi gục đầu vào vô lăng, chỉ để lộ mái tóc đã ngả màu và nước da hắn hơi ngăm ngăm. Chợt Uyliam kêu thành tiếng: đúng rồi. Ánh mắt lúc nãy, chắc chắn là của viên thượng sĩ lái xe chứ không phải của ai khác. Hắn đã quan sát gã qua gương chiếu hậu ở thành xe. Hắn là ai? Liệu có liên quan gì đến Uyliam không? Mọi việc tự nó trở nên rối rắm đáng ngờ. Tiếc rằng chưa trông thấy mặt tên thượng sĩ.
Vỗ vai Sácli, Uyliam nói nhẹ:
- Quay xe lại.
Đang cáu vì bị chặn giữa đường, Sácli ngơ ngác không hiểu: - Quay lại đâu? Sao quay lại?
- Anh cứ cho xe quay lại. Chỗ vừa rồi.
Hầu như không giảm ga. Sácli quặt mạnh tay lái. Chiếc xe cua gấp lượn sát vỉa hè. Cả người Uyliam nhào mạnh ra cửa. Sácli cười hô hố khi thấy hai thanh niên đi một chiếc honda phải phanh tránh đột ngột bật tung lên hè. Uyliam khẽ nhếch mép. Hơn hai mươi năm trong nghề tình báo, chưa bao giờ gã đau đầu như khi đặt chân tới xứ sở rực rỡ ánh mặt trời này. Cả thiên nhiên, cả các cô gái đều đẹp một cách duyên dáng lạ thường càng ngắm càng lộng lẫy. Nhưng phải chăng nguời Đức nói đúng: “hoa hồng càng đẹp càng nhiều gai”. Mà gã chỉ thích những bông hoa đẹp...
Hai nguời lao tới nơi thì toán quân cảnh đã biến mất cùng chiếc xe Jeep, chỉ để lại vệt hằn của chiếc lốp in trên cát lẫn
đá dăm. Uyliam đấm mạnh vào đùi. Sự việc này càng làm gã ngờ rằng câu chuyện chặn xe xét giấy tờ và ánh mắt viên thượng sĩ giấu mặt kia liên quan đến gã. Chậm mất rồi. Nếu đó là con mồi, thì hẳn phải là con mồi bự. Nhưng nếu không phải thì sao? Uyliam mở cửa xe, bước xuống. Gã vừa vươn vai, vừa chậm rãi bước đến bên chiếc xe Jeep đỗ lúc nãy. Một đầu mẩu thuốc lá. Không hiểu sao gã lại chú ý đến nó. Gã nhặt lên, tung nhẹ trên bàn tay trắng trẻo, thon dài. Mẩu thuốc khá dài, đủ để Uyliam đọc rõ mác thuốc : Craven “A”. Bước vài bước, gã lại trông thấy một mẩu nữa. Một mẩu nữa. Rồi lại một mẩu nữa. Đôi mắt Uyliam chợt sáng lên. Gã nhặt lấy tất cả, xếp đều trong lòng bàn tay. Năm cái đều trằn trặn. Như vậy là một người hút. Lúc nãy gã có để ý viên thiếu úy. Hình như tên này không hút thuốc, vì những ngón tay không một chút xám vàng. Bốn tên lính kia hẳn là không rồi Lính tráng làm sao đủ “đôn” để hút loại thượng hảo hạng này. Vậy thì chỉ có người thứ sáu: tên thượng sĩ lái xe. Có phải chiếc xe Jeep đỗ ở đây cốt để đợi gã? Nếu không thế thì sao chỉ vài phút sau gã quay lại,“nó” đã biến mất? Và nếu đợi gã, hẳn tên thượng sĩ lái xe đã sốt ruột lắm bởi vì trong thời gian ngắn (nhất định là ngắn thôi), hắn đã hút tới năm điếu. Mà điếu nào cùng vứt giữa chừng... Tung nhẹ mấy đầu mẩu thuốc trên tay, gã cay đắng thừa nhận đã bỏ lỡ một cơ hội hiếm có. Nhất định là liên quan đến gã. Phải chăng bóng dáng của tên địch thủ vô hình đáng gờm dưới cái lon thượng sĩ lái xe? Dù sao thì cũng chậm rồi, gã quay lại.
Từ nãy tới giờ vẫn cho xe chầm chậm đi theo Uyliam, lúc này Sác-li dừng lại, vươn người mở cửa xe, hỏi nhỏ:
- Có chuyện gì vậy? Anh cầm cái gì trong tay đấy? - Anh có nhớ số chiếc xe lúc nãy không?
- Không. Mà sao ?
- Không. Không có gì cả. Thôi đi đi. Muộn rồi - Uyliam nói gọn lỏn. Gã chán ngán. Đầu óc gã quay cuồng với những suy đoán, những dự tính. Không! Uyliam này chưa biết đến chữ
thua. Quả đất tròn, thế nào cũng còn có dịp thử sức.
Biết tính Uyliam. Sácli lẳng lặng dấn ga. Chiếc xe lao nhanh, để lại một chút khói xanh vương nhè nhẹ trên mặt đường chỗ chạm trán.
***
Chiếc xe như muốn lao thẳng vào một biệt thự sang trọng mà kín đáo. Đó là một tòa nhà đồ sộ: Trung tâm giao dịch thương mại Hoa kỳ. Cũng như tất cả các tấm biển khác, tấm biển mạ vàng gắn trước ngôi nhà chỉ là một cái vỏ ngụy trang sơ sài. Trước cổng, hai tên lính thủy đánh bộ Mỹ đội mũ sắt súng đạn nai nịt đầy người, giầy da bó chặt lấy quần. Như những con hổ ngủ, chúng đứng lặng, phớt lờ mọi hoạt động náo nhiệt của xe nhà binh, xe gắn máy, phớt lờ cả những chiếc xe du lịch đủ các kiểu Tây Đức, Anh, Pháp, Nhật ra vào tòa nhà. Đã quá quen với cảnh ấy, người Sài gòn không ai chú ý đến sự hoạt động đột nhiên tấp nập khác thường trong tòa nhà sang trọng và bệ vệ như một tòa lâu đài hiện đại này. Dân chúng đã tập thói quen bất đắc dĩ: ai biết người ấy, nhìn ngang ngó ngửa, sức mấy mà chịu dăm cây dùi cui Tây Đức hoặc vài loạt AR. 15 cho thấu.
Tình hình căng lắm rồi, Uyliam nhận ra điều đó khi thấy chỗ đứng của hai người lính đã thay bằng hai ụ súng sơn trắng xanh vằn vện, thò ra tám lỗ châu mai đen kịt một mầu chết chóc. Sácli đạp nhẹ phanh sát cổng sắt, bấm hai hồi còi ngắn, một hồi nữa, rồi hai hồi và lại một hồi còi ngắn. Hai cánh cổng sắt tự động mở ra, khép lại ngay sau khi đuôi chiếc xe lọt hẳn vào trong.
Sácli chưa kịp quay xe về ga-ra bên trái tòa nhà đã thấy viên bí thư thứ nhất của Hâygơ hấp tấp bước ra, vừa đi vừa nói:
- Xin chào. Lưu ý hai ngài, bây giờ là 17 giờ 05. Hai ngài về muộn 45 phút theo dự tính. Ngài Hâygơ mời các ngài lên thẳng phòng họp.
Gã nói liến thoắng, đồng thời đưa tay ra đỡ chiếc cặp da
Uyliam đang ôm khư khư.
- Cảm ơn. Xin lỗi, tôi cầm được.
Uyliam nói lịch sự và cương quyết gạt viên bí thư thứ nhất sang một bên, sửa lại cổ áo. Hai người ưỡn thẳng ngực bước lên thềm nhà mặc cho viên bí thư ngơ ngác bên chiếc Phi-át vẫn còn nổ máy nhè nhẹ.
- Tụi này muốn mình làm tài xế chắc? – Rồi gã tặc lưỡi, so so cái cổ tròn lẳn - Thôi đành. Qua mặt mấy thằng sĩ quan CIA này, chỉ có dại.
Gã lẩm bẩm chui vào xe, đánh về phía ga-ra.
Phòng họp là một gian rộng nằm trên tầng thứ năm của tòa nhà. Quanh chiếc bàn hình bầu dục lát đá hoa cương viền gỗ mun đen bóng, có mười chiếc ghế mặt đá vuông, chạm chìm cảnh sinh hoạt của vua chúa phong kiến. Trên tường, chính giữa phòng treo tấm ảnh của Lin-đơn Giôn –xơn và dòng chữ mạ vàng nổi bật phía dưới: Chân lý thuộc về kẻ mạnh. Bên trái là tấm bản đồ thế giới, bên phải là tấm bản đồ Đông dương. Cả hai đều lắp kính chống đạn xuyên.
Trong phòng, ba viên tướng người Việt đã ngồi chờ sẵn. Sơn Hồng thiếu tướng cục trưởng tác chiến Bộ tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa ngả hẳn người ra phía sau, nét mặt căng thẳng. Gã biết rằng cuộc họp này không báo trước điều gì vui, một khi ngài Hâygơ trong cú điện triệu tập đã nhắc tới Rồng lửa. Hai viên chuẩn tướng ngồi bên cạnh đang ghé đầu vào nhau, thì thào một điều gì đó. Đó là Quang Đán, cục trưởng tình báo và Huỳnh Vĩnh, tư lệnh cảnh sát. Hai viên tướng này thực ra đang đổ lỗi cho nhau và đoán già đoán non về thái độ của Hâygơ. Tuy bộ dạng bên ngoài khác nhau, song mỗi khi có tiếng động ở cửa lớn, cả ba lại ngồi thẳng lưng, bất giác cũng đưa tay sửa lại ve áo, quân hàm. Không thấy gì, chúng lại trở lại tư thế cũ, chửi thầm thái độ nịnh bợ của các chiến hữu ngồi kề. Đến khi Hâygơ, Uyliam và Sacli bước vào thì Hồng đã ngủ gà ngủ gật, còn Đán và
Vĩnh đang trợn mắt gân cổ cãi nhau.
Giật mình, cả ba tên cùng đột ngột chồm dậy như một cái máy, sáu chiếc giầy rập vào nhau nghe đánh cộp. Ngay khi đó, một tiếng cạch thứ hai vang lên. Thì ra Sơn Hồng vì vội vàng đã để rơi chiếc can bịt bạc, kỉ niệm của lần thụ huấn tại Niu Yoóc.
- Ấy, các ngài cứ tự nhiên. Người Mỹ chúng tôi vốn rất coi trọng các chiến hữu đồng minh. Mời các ngài.
Hâygơ vừa đi vào vừa chỉ tay xuống ghế. Uyliam và Sacli lầm lì bước theo. Đợi cả ba người vừa đến đã ngồi vào chỗ, mấy viên tướng Sài gòn mới ngồi xuống. Đưa mắt nhìn lướt qua mặt mấy viên tướng ngụy quyền, Hâygơ bắt đầu nói:
- Như vậy là Rồng lửa đã thất bại. Vì sao Việt cộng lại tránh được đòn? Vì sao các phi đội UH.1 của Hoa kỳ trọng thương nhiều như vậy? Vì sao bom và lửa lại trút vào chỗ trống? Vì sao? Vì sao? Giọng Hâygơ rít lên vì không giữ nổi bình tĩnh. Trông hắn đứng dậy thật dễ sợ. Đôi mắt quắc lên, vằn đỏ những tia máu. Ngực áo hắn phanh ra, để lộ những túm lông đen sì, xoăn tít. Cả bộ ria cũng vểnh lên. Hắn nói nhanh bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ, nhấn trọng âm theo lối phát âm tiếng Anh. Sơn Hồng cúi gằm mặt khẽ mân mê vạt áo. Có lẽ cái cổ quá nhỏ để chứa một bộ mặt phì phị những thịt và lời quát mắng như búa bổ của quan thầy nên Hâygơ càng nói, hắn càng cúi thấp hơn. Thỉnh thoảng lại khẽ ngọ ngoạy. Huỳnh Vĩnh nhìn chằm chằm vào chiếc cặp tám ngăn để trước mặt, chốc chốc lại hếch sang Quang Đán. Gã này đang ngẩng mặt nhìn Hâygơ, hay chính xác hơn. đang nhìn mồm Hâygơ. Nét mặt gã chỉ hơi nhăn nhăn khi thấy từ cái lỗ to đen như một cái loa với hai hàm răng khập khễnh, nước bọt phun ra quá nhiều so với những câu nói cục súc của một viên tiểu chủ bang Vớc-gi-ni-a, nơi gã đã có hân hạnh theo học tại học viện an ninh quốc gia.
Sau một hồi ngắc ngứ, cái yết hầu Hâygơ dướn lên, rồi tụt xuống như vừa nuốt tuột cục giận nghẹn mãi nơi cổ vào
trong bụng. Gã hắng giọng kết thúc bài diễn văn “nẩy lửa”:
- Các ông phải hiểu rằng hàng tỉ đô-la, hàng vạn binh lính của chúng tôi đến đây không phải để chết thay cho các ông. Trong vài ngày nữa, các ông phải tìm ra thủ phạm của vụ này. Phải tìm bằng được trước khi kế hoạch mới bắt đầu. Nếu không, chúng tôi sẽ tìm và tìm ngay trong đầu các ông.
Rồi gã ngồi phịch xuống, vuốt vuốt cái cổ họng bị buộc làm việc quá nhiều so với thường ngày. Sau khi tu một hồi hết chai bia La-rue Sacli vừa mở đặt trên bàn, gã rút khăn tay, xì mũi ầm ĩ. Sơn Hồng vừa nhấp nhổm định đứng dậy thì Uyliam giơ tay nhẹ nhàng chặn lại. Hắn đứng lên, nở một nụ cười (dịu dàng đến nỗi Sơn Hồng lấy lại được nghị lực nâng cái đầu nặng chịch lên, còn Quang Đán thì rùng mình). Nhìn cả ba tên trong cặp mắt xanh hơi nheo nheo, gã nói:
- Thưa các ngài, có lẽ tướng Hâygơ - gã nghiêng người về phía viên tướng Mỹ- vì tình hình chung nên đã hơi nặng lời. Mong các ngài thông cảm, vì Rồng lửa là nỗi lo của tất cả chúng ta, và chắc chắn là các ngài lo hơn. Uyliam dừng lại một lát, dường như để cho bốn người ngồi trước mặt hiểu hết ý tứ của câu nói. Rồi hắn tiếp:
- Các ngài thừa hiểu rằng, trong chúng ta ngồi đây, hẳn có kẻ phản bội. À, tôi xin lỗi. Ý tôi muốn nói là có kẻ, vô tình hoặc hữu ý tiếp tay cho tên phản bội. Muốn biết tên phản bội đó là ai, ta phải tìm xem kẻ tiếp tay là ai. Tôi không muốn nói nhiều. Chỉ xin nhấn mạnh với các ngài rằng, nếu như vụ này không đưa ra ánh sáng trong vài ba ngày tới, thì không những kế hoạch mới bị đe dọa, mà chính tính mạng của chúng ta cũng cùng chung số phận ấy. Chắc chắn quốc hội Mỹ sẽ xem lại số viện trợ đã quá nhiều cho các ngài. Khi đó, tổng thống Giôn-xơn không còn cách nào khác phải tìm những người làm được việc hơn.
Uyliam nheo mắt, hơi nhún vai như muốn nói biết làm thế nào khác được. Hắn đổi giọng:
- Bây giờ đi vào cụ thể vấn đề. Hẳn các ngài cũng đã biết kế hoạch Viôlét, mật danh cuộc hành quân Gianxơn Xiti (cả bọn tướng Sài gòn ngơ ngác). Trước khi trao đổi, chỉ lưu ý các ngài một điều, mỗi vấn đề trong đó được vạch ra cách ta một đại dương, là kết quả của những bộ óc tài giỏi nhất trong lầu Năm góc. Vì vậy, các ngài phải lấy tính mạng của mình ra để đảm bảo cho sự toàn vẹn của nó. Còn bây giờ, ngài Sơn Hồng sẽ làm việc cụ thể với ông Hâygơ. Còn hai ngài – Uyliam quay về phía Quang Đán và Huỳnh Vĩnh – hai ngài sẽ đưa toàn bộ danh sách các nhân viên dưới quyền cho tôi. Chúng tôi sẽ giúp các ngài tìm ra sự thật. Các ngài nhớ rằng: phải đưa chính xác và đầy đủ. Có lẽ các ngài đã hiểu ý tôi? Chúc cho tình hữu hảo Việt – Mỹ!
Uyliam nâng cốc. Cả bọn đứng dậy. Hâygơ quay sang chạm cốc với Uyliam, mạnh đến nỗi ly rượu của tên trùm CIA sóng sánh, chỉ trực trào ra ngoài. Rồi mặc cho ba cái li của bọn tướng ngụy cùng lao tới, Hâygơ ngửa cổ, nốc một hơi. Đặt mạnh li xuống bàn, hắn lầm bầm:
- Bọn “guk”[1] ăn hại
Đột ngột, hệ thống loa gắn kín trong tường ở một nơi nào đó vang lên tiếng nói:
- Xin phép được vào báo cáo.
Hâygơ chợt cười, nhìn cả bọn, rồi nói to:
- Mời vào.
Một người Mỹ trẻ tuổi, cao dong dỏng, đeo kính trắng mở nhanh cửa, bước vào. Chợt trông thấy đông người, người Mỹ đó định thụt lại. Hâygơ cười khuyến khích, vẫy tay:
- Vào trong này, Chiến hữu cả mà - Quay lại gõ gõ mấy đầu ngón tay xuống bàn, nói với cả bọn vẻ đắc chí. Đây là sĩ quan phản gián. Chắc chắn anh ta sẽ mang đến nhiều tin thú vị… Ồ, anh bạn, nói đi xem nào? Anh mang đến cho chúng tôi một tin vui gì đấy?
- Thưa ngài, ả gián điệp chúng ta bắt được hôm qua, nay đã xác định được tên là Hoàng Lan, một giao thông viên của cộng sản. A.7 đã nhận ra nó.
Nghe đến hai tên Hoàng Lan, trừ Sơn Hồng vẫn đang tu nốt chai bia thứ tư, còn hai viên tướng ngụy kia đều tròn mắt, dỏng tai nghe. Đó là cái tên quen thuộc mà cơ sở nằm vùng trong cứ của Việt cộng đã báo ra từ lâu, nhưng cho đến nay, cả bộ tư lệnh cảnh sát và phủ đặc ủy trung ương (cục tình báo) vẫn chưa nắm được dấu vết.
Thấy tên nhân viên phản gián ngừng lại không nói nữa, Hâygơ giục:
- Thế nào? Nói tiếp đi chứ?
- Thưa ngài, chỉ có thế thôi ạ. Cho đến giờ phút này, sau những trận đòn liên tục, ả vẫn không khai. Tôi trực tiếp theo dõi, thấy ả nói mê, tôi nghĩ đó 1à mật hiệu liên lạc của bọn chúng. Nhưng có thể tôi lầm, vì đã là con gái, thì ả nào chẳng thích hoa.
- Cứ loanh quanh mãi. Nói ngay đi, ả nỏi mê những gì? - Thưa ngài, ả chỉ nói mỗi một từ: Viôlét.
Cả bốn tên Mỹ cùng giật nẩy mình như điện giật.
CHƯƠNG HAI: CHÚ BÉ
Đó là một cái hẻm bình thường như trăm ngàn cái hẻm khác của đô thành Sài gòn. Rời khỏi mặt đường nhựa láng bóng, phút đầu tiên con hẻm đón bạn bằng một cái rãnh tối, lõng bõng nước tranh chỗ với giấy loại, vỏ đồ hộp, thùng sắt tây hỏng và trăm thứ nổi lều bều. Nếu bạn đi xe gắn máy chưa quen lái, quen đường, con hẻm sẽ kỉ niệm bằng một mảng da đầu gối bị trầy, một vết sẹo nhỏ cùi tay, trên mặt… Lui vào trong là những chiếc xe lam đỗ im lìm, lẫn giữa những góc, những chái nhà lụp xụp làm bằng tôn, bằng hòm viện trợ Mỹ. Cả hẻm này không có lấy một ngọn điện. Chỉ khi bạn bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại cúi ôm lấy móng chân bật máu, mới biết mình đang bước trên con đường lát sơ sài bằng đá hộc, đã bị tháo đi nhiều chỗ. Vào giữa căn hẻm, nếu đi ban ngày, bạn sẽ thấy một căn nhà nổi bật hơn cả, tuy bức tường trông ra hẻm làm bằng gỗ thông đã mốc thếch, và cái khung cửa quá thấp đến nỗi khi bước vào, bạn phải coi chừng nếu không cúi lom khom thì nó sẽ chào bạn không lấy gì làm lịch sự… căn nhà nổi bật hơn mọi nhà trong hẻm, chính vì đó là một quán sách, quán Thăng Long với hai câu thơ viết bằng mực Tầu trên giấy hồng điều như đôi câu đối Tết “Từ thuở mang gươm đi mở nước. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Tuy chỉ có ba giá sáu tầng, song sách được bầy biện cẩn thận theo trình tự vấn đề: Khoa học tự nhiên xã hội, con người, thanh niên, phụ nữ, đạo đức, tiểu thuyết ái tình, chưởng, trinh thám... có cả.
Chủ quán là một người đàn ông đã ngót nghét năm muơi tuổi, mảnh khảnh, ít nói. Bà con trong hẻm thường gọi ông là ông Hai Bắc kỳ. Mấy cô cậu học trò thường ghé vào mua sách của ông thì gọi ông là bác Hai sách. Không mấy người rõ tên thật của ông, chỉ biết ông di cư vào đây năm năm tư, trước cũng là chủ quán sách ngoài Hà nội. Ông mang theo một đứa con trai, giờ khoảng mười, mười hai tuổi gì đó. Nó không có mẹ. Ông bảo nó thế và nó cũng đi nói lại với bạn bè như vậy. Trong chòm xóm nghèo bên sông Thị Nghè này, ai cũng khen ông lành lành, tốt bụng, tri thức... Riêng việc ông bắt thằng Hải, con ông, đi đánh giầy là không mấy ai
hiểu nổi. Anh Tài xích lô bên cạnh nhà nhiều lần sang thưa chuyện với ông Hai Bắc kỳ, xin cho thằng nhỏ đến trường. Nhưng khi nghe ông bảo: “Tôi cũng muốn vậy, ngặt nỗi túng quá anh ạ”, thì anh Tài ngồi thừ người, hết nói. Anh sang vì thấy thằng nhỏ sáng dạ, lanh lẹn, không được học thì tiếc cho nó quá. Nhưng... anh cũng không thể gửi tiền cho nó được. Và lần nào cũng vậy, khi anh Tài ra về, ông Hai lại tiễn sang tận nhà, rồi vỗ vào vai anh cười lớn:
- Thôi, đâu có đó, chú Tài ạ. Không học ở trường thì học ở nhà. Không có tiền thì đi đánh giày kiếm tiền mua tập vở, cây viết.
Ai cũng bảo tiếng cười đó nghe to nhưng trầm, cười vui nhưng chịu không thấu.
***
Ngày nào cũng vậy, cứ đến lúc ông khệ nệ khiêng chồng cửa gỗ xếp ra ngoài, chuẩn bị đóng quán thì thẳng Hải mới về. Nếu hôm nào có chuyện vui thì nó bô lô ba la từ đầu hẻm, nghe sướng bụng. Có hôm nó về, mặt ỉu xìu như bánh đa nhúng nước, cậy răng chẳng hấm hứ lấy một câu. Cứ thế cho đến lúc chui vào màn, nằm thu lu trong lòng bố nó, nó mới khóc tấm tức kể cho bố nghe chuyện xẩy ra ban ngày. Cái giọng Bắc non nớt thoảng pha chút tiếng trong này cứ nức lên, to hơn tiếng róc rách của con nước Thị Nghè vỗ mãi vào mấy cái cột nhà phía sau, làm mấy lần ông Hai phải xiết chặt đầu nó vào bộ ngực lép kẹp của mình... Nhưng dù vui hay buồn, ngày nào nó cũng về vào lúc xâm xẩm tối, lúc chị Năm sinh tố loẹt quẹt đẩy chiếc xe chở đầy mía, trái cây ra đầu hẻm.
Không biết có phải đã thành quen vậy không mà chiều nay ông Hai cứ thấp thỏm đợi nó. Lúc lúc ông lại kẹp cây viết chì đánh dấu trang sách dọc dở, bước ra cửa ngóng. Quyển này ông ham đọc đến mức nhiều khi quên cả khách hàng, lúc này ông cũng thấy rời rạc, tẻ nhạt làm sao. Ông bồn chồn, hết ra ngõ trước lại quay sau. Dòng Thị Nghè đen như mực
trôi lờ đờ, bốc lên mùi khăn khẳn đến khó chịu. Ông nhớ lại mọi việc xẩy ra hồi sớm, mới hồi sớm chớ có lâu la gì. Vậy mà nhịp điệu cuộc sống của ông, của thằng Hải đảo lộn hẳn. Không biết nó có việc gì không? Thời buổi này “cẩn tắc vô áy náy” nghe con. Cái đồng hồ treo tường cũ mèm của ông nội thằng Hải để lại đang ngân nga tiếng chuông báo bẩy giờ. Tiếng chuông sao mà khó chịu, sao mà day dứt đến thế. Buổi sớm ấy…
***
Buổi sáng. Ông Hai đang ngồi đọc sách. Cái hẻm tăm tối và ẩm ướt chưa một lần được mặt trời ngó ngàng đến. Bóng nắng chạy qua đôi chút buổi trưa không rọi vào trong các gian lều, chỉ đủ làm bốc lên làn hơi nước nặng mùi. Vì thế, ông Hai phải kẹp sát kính vào sống mũi, ngồi thập thò xế cửa cho đủ sáng. Bỗng có một giọng nói hách dịch, phần nào hơi cố ý:
- Chu cha, tiệm này nhiều sách quá ta. Cái hẻm thối tha này cũng có người đọc sách sao?
Ông Hai ngẩng lên. Đó là giọng của một người lính không quân, dáng người to bè, mặt đen, kiếng mắt gọng đại bự đen xì, ngay cả bộ ria con kiến cũng mầu ấy, trông thật dễ sợ. Người lính dậm dậm đôi ủng da vào bậc cửa bằng hai mảnh gỗ thông ghép, đi thẳng vào trong. Ông Hai đứng dậy đi theo, đôi vai so lại thủ thế. Có trời biết bọn đeo phù hiệu thêu cánh chim và lưỡi kiếm này hoạnh họe những gì. Người lính vẫn chăm chú nhìn giá sách, hỏi trống không:
- Có “Mùa thu lá bay” của Quỳnh Dao không?
- Rất tiếc, thưa ông. Cuốn đó vừa hết.
- Vậy thơ Nguyên Sa?
- Cũng vậy, thưa ông - Ông Hai trả lời, hơi ngờ ngợ. Giọng nói quen quen, mà... mà lại đúng in mật khẩu. Ông đi vòng vào trong quầy, ngắm kĩ. Không, ông không quen người lính
dù này. Hay lộ rồi, bọn mật vụ cải trang… Người lính huýt gió vài đoạn trong bài “Tôi đưa em sang sông” rồi hỏi nhỏ:
- Vậy chớ “Cách mạng và đạo đức”, ông cũng không có sao
Vừa nói người lính vừa xoay xoay mặt chiếc đồng hồ Mô-va đô.
Ông Hai giật thót mình, không dám mừng. Trời, người của cấp trên đây rồi sao? Trông đợi mãi. Nhưng có phải người lính đó đã trông thấy cuốn sách của ông? Ông giả bộ xếp lại mấy gáy sách cho ngay ngắn, liếc nhìn mấy cuốn đang đọc dở. Không phải. Vậy là đúng rồi.
- Thưa ông, sách đó chỉ còn một cuốn. Bản quán không bán, nhưng có biếu.
- Cho coi trang cuối – Người lính nói, mắt nhìn quanh. Mấy cô nữ sinh thấy cảnh quát tháo đã lảng hết. Gian nhà vắng teo.
- Tôi để trong buồng. Mời ông - ông Hai bước tới cửa buồng, khẽ lui ra, nghiêng người:
Người lính bước vào, ông Hai bước theo liền, khép ngay cánh cửa đóng sơ sài bằng gỗ thông. Người lính quay đi bỏ kiếng, tháo bộ ria (thì ra đó là bộ ria giả) rút trong túi ngực một chiếc khăn mùi xoa lau mặt. Anh ta quay lại, cười khe khẽ:
- Bác Hai không nhận ra tôi sao?
- Trời, thằng Tư - Ông Hai lao đến ôm chầm lấy người lính, rồi lui lại một bước nhìn kĩ. Đúng rồi, thằng Tư. Ông xúc động, hỏi dồn dập bằng một giọng run dẩy:
- Mày còn sống sao? Mày ở đâu về? Sao mày biết tao ở đây?
- Chuyện dài lắm bác ạ. Tôi chỉ được phép ngồi với bác năm phút nữa thôi. - Người lính có tên là Tư nhìn đăm đăm ra sông, nói nhanh - Liên lạc bị bắt. Hòm thư chết có mật vụ
theo dõi. Trên yêu cầu bác bằng bất cứ giá nào cũng phải chuyển lệnh này cho người của ta. Và không được phép sơ suất một chút gì làm ảnh hưởng tới nhiệm vụ đó. Bác hiểu rồi chứ?
- Được! Ông Hai đáp gọn lỏn.
- Người đó là một viện trung tá đã sấp xỉ bốn mươi, ngồi trong vũ trường “Đêm mầu hồng” từ bốn giờ đến năm giờ chiều, tay trái cầm bông viôlét. Nhưng tuyệt đối bác không được bước vào cửa. Ngày hẹn là hôm qua, nhưng liên lạc bị bắt... Thế nào người của ta chiều nay cũng đến, nhưng đề phòng bọn an ninh bám đuôi. Chưa biết liên lạc có khai báo gì không?
- Được! Ông Hai gật gù, vẻ sốt ruột.
- Đây là cái cần đưa - Người lính bỏ mũ, cậy phía trong đường viền cong, lấy ra một cuộn giấy viền tròn, to gần bằng ruột chiếc bút bi Bic. Anh trao cho ông Hai, rồi dặn kĩ thêm - Bác phải đợi phía ngoài cho người của ta đi ra, lúc nào thuận tiện nhất thì đưa. Đưa thế nào thì tùy bác. Ám hiệu là...
- Được! Ông Hai chăm chú nghe, rồi cúi xuống moi hộp gỗ đựng đồ lề đánh giầy của thằng Hải mở ra đút viên giấy vào phía trong.
- Chiều mai, bác đến tìm tôi chếch phía trái cửa hiệu P.X. đường Nguyễn Tri Phương, hồi năm giờ. Thế cháu Hải đâu?
Ông Hai chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng trẻ con vui vẻ hét lên từ phía trên đầu:
- Cháu đây, chú Tư.
Một chú bé chừng mười hai tuổi nhưng người ốm nhách, nước da xanh mét, đôi mắt lanh lợi lồm cồm bò từ trên xà nhà xuống.
Anh Tư nhìn ông Hai. Ông Hai im lặng, lắc đầu. Cả hai không ngờ câu chuyện đã lọt vào tai một người thứ ba, dù đó là thằng Hải, một cậu bé đánh giầy đã giết được hai tên Mỹ say rượu.
Vốn thông minh, chú bé hiểu ngay vì sao có sự im lặng đột ngột ấy. Chú nói nhỏ, vẻ thanh minh:
- Cháu không cố ý. Cháu đang xem con mèo trắng rình con chuột trên ấy. Hay lắm chứ. Cứ như mấy anh biệt động phục lính Mỹ ấy.
Anh Tư bật cười vì sự so sánh ngây thơ nhưng phần nào đúng đắn ấy. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong anh: tại sao không dùng thằng Hải cho bảo đảm? Đằng nào thì nó cũng nghe rồi. Trong khi đó thằng Hải vẫn hết nhìn chú Tư lại nhìn cái hòm gỗ, gia tài đơn sơ nhưng vô cùng thân thiết của nó. Nó lại hỏi:
- Trời này chú bận bộ đồ đi trận thế kia mà không bức à? Chú giết được mấy thằng Mẽo rồi? Bao giờ cho cháu đi theo chú.
- Hải, sao cứ nói oang oang thế con? – Ông Hai nói nghiêm khắc nhưng vẫn đượm vẻ âu yếm.
- Hải này – Anh Tư tiếp lời ông Hai – Cháu ra ngoài kia ngó chừng cho chú nghe. Bữa nào rảnh chú cháu mình đi oánh một trận rồi thỏa sức tâm tình.
- Dạ, vâng – Nó đáp, tiếng Bắc bị pha trộn nghe vẫn rõ.
Còn lại hai người, anh Tư ghé sát tai ông Hai thì thầm. Không nghe thấy gì ngoài tiếng chít chít hoảng hốt của con chuột đang vùng vẫy trong móng sắc của con mèo trên xà…
***
Nếu không kể đến những chiếc xe nhà binh Mỹ thỉnh thoảng lại rú máy chạy điên cuồng trên các đường phố chở đầy bọn
em-pi, bọn quét chợ thì Sài gòn vẫn náo nhiệt bình thường. Không có vẻ gì là một thành phố đang ở trong tình trạng chiến tranh, mà chỉ mới đây thôi, một khách sạn chứa đầy sĩ quan Mỹ bị nổ tung và hơn chục chiếc máy bay bị đặc công cộng sản phá hủy ngay trong phi trường Tân Sơn Nhất. Các sơ-nách-ba, Lavơlyba, nhà tắm hơi, khách sạn, vũ trường xếch xi, chợ giời… theo bước đội quân viễn chinh mọc lên như nấm. Có đôn (đô-la), đôn đỏ của lính cũng tạm, đôn xanh chánh hiệu càng tốt, miễn vỗ túi cứ đầy căng thì muốn làm gì cũng được. Cả một xã hội náo nhiệt, quay cuồng xung quanh vòng quay và sức hút của đồng tiền ngoại quốc. Trên những con đường rộng bóng loáng nước sau trận mưa chiều rất thường ập đến ở xứ này, những Hon-đa, Su-du-ki, Hác lây, Brigetston… chạy ngoằn ngoèo, chen lấn, chèn ép trước mũi những Ga-đi-ắc, Pơ-giô, Mác-xe-đét, Toyota. Người và xe, xe và người ồn ào chạy đua trong dòng thác sống gấp…
Trong vũ trường “Đêm mầu hồng” lúc chiều tối này, các nữ chiêu đãi viên môi tô đỏ loét, váy ngắn cũn cỡn lượn đi lượn lại. Một viên trung tá ngồi lẫn trong góc phòng mờ mờ ánh đèn, trên mặt bàn đá trước mặt bầy đầy những li cà phê dở dang. Bên cạnh, một chiếc ghế trống không được kéo lấp ló như chờ ai đó. Một cành viôlét nằm kín đáo gần mép bàn, bên cạnh chai uýt-xki chưa mở nút. Khói thuốc lá bay mù mịt. Hình như viên sĩ quan này đang đợi ai. Mặc dù lúc nào khói thuốc cũng phủ mờ trước mặt người ta có thể nhận ngay ra đó là một người cao lớn và khá điển trai. Với chiếc mũ kê-pi đội hơi lệch, hờ hững trên mái tóc uốn sóng to lượn, với bộ quân phục là thẳng li, có thể nói đó là mẫu người điển hình, thời thượng, người hùng trong sự lựa chọn của các cô gái Sài gòn…
Một ả chiêu đãi viên đến bên cạnh, ngồi lên thành ghế của viên sỹ quan. Ả choàng tay qua vai anh ta, vuốt ve mấy bông mai bạc trên ve áo, hỏi giọng nũng nịu:
- Có lẽ ngài buồn?
- Phải!
- Xin ngài trung tá chớ phật ý kẻo em buồn. Hẳn ngài đang đợi…
- Mèo!
- Dạ, có em bên ngài đó.
Trước lời gợi ý quá sỗ sàng của cô ả, viên sĩ quan đành phải cười gượng gạo, rồi dúi vào tay ả một tờ xanh. Ả mừng quýnh, cười tít mắt. Trước khi bỏ đi, ả còn “thanh-kiu” luôn miệng và từ cách đó mấy bàn, ả gửi với sang một cái hôn gió. Việc một nữ chiêu đãi viên vòi tiền khách đàn ông là chuyện thường tình. Nhưng trong cử chỉ kiểu cách, hơi sỗ sàng đến giả tạo của cô ả có điều gì đó không bình thường. Viên sĩ quan từ từ nâng ly cà phê lên miệng, kín đáo quan sát. Mấy cặp thanh niên hip-pi tuổi mới lớn, tóc phủ kín gáy, đang nhún nhầy quay cuồng giữa phòng. Không phải. Một viên tư sản gầy đét như mắm đang huyên thuyên điều gì đó bên cạnh một mụ béo phì, khắp người đầy vàng: hoa tai, dây chuyền, nhẫn, đồng hồ… ba tên sĩ quan dù “anh cả đỏ” ngồi nốc rượu quanh một chiếc bàn gần đó, vẻ phớt đời. Chắc vừa đi đánh trận đâu đó về đây, thành ra những chiếc mũ đỏ không còn vẻ nhâng nháo như mọi ngày. Từ cách tu rượu ừng ực, dáng ngồi cho đến cái nhìn lờ đờ vừa thèm khát, vừa khinh bỉ bọn vũ nữ, và cả ánh mắt ghen tức với hai vợ chồng tư sản giầu sụ (chắc bằng cách áp-phe) ngồi xế đó, tất cả đều toát lên vẻ chán chường, thảm hại. Viên trung tá khẽ nhếch mép, hạ nhẹ chiếc li xuống bàn. Khi rút chiếc khăn mùi xoa thoang thoảng một loại nước hoa ô-đờ-cô-lô nhơ thấm quanh miệng, chợt viên trung tá khẽ rùng mình, bản năng nghề nghiệp đã thầm mách bảo anh ta rằng: “Nó” kia kìa. Nó là một người đàn ông trung niên, nước da trắng nhợt bệnh hoạn, mái tóc để mai lưỡi rìu rất đúng mốt đang ngồi bên hai chiêu đãi, đùa nghịch (hình như ả chiêu đãi lúc nẫy). Không giảm bớt tốc độ hoạt động của hai bàn tay trắng muốt giẫy nẩy theo điệu nhạc Rốc chát chúa, nó vẫn thỉnh thoảng đánh mắt về phía trung tá. Có vẻ nó rất yên tâm, bởi viên trung tá chưa có biểu hiện gì hay biết về sự có mặt của nó.
Trong vũ trường, tiếng nhạc, điệu nhẩy, ánh đèn nhiều màu vẫn đua nhau gào thét, nhấp nháy. Nhưng ngoài trời, bóng tối đã bắt đầu buông xuống tấm khăn voan tím xẫm muôn thuở. Một màu sương nhẹ, bàng bạc đã dăng đầy đường phố. Viên trung tá xô ghế đứng dậy, nhặt cành viôlét bình dị lên, ngắm nghía rồi lại đặt xuống bàn. Đảo mắt qua người đàn ông kia, viên sĩ quan lại nhếch mép gọi người bồi bàn đi ngang trước mặt:
- Ê, bồi!
- Dạ, thưa ngài – người bồi bàn khúm núm chạy đến, tấm lưng cúi gập xuống rất nhanh nhẹn, thành thạo như thể thói quen ẩn trong máu.
Viên sĩ quan rút tiền vừa định trả puốc-boa (lót tay) kèm tiền năm li cà phê thì nhanh như chớp ả thiên nga lúc này đã nhào đến, gạt người bồi sang một bên:
-Ấy chớ. Ngài cứ để em được hầu hạ ngài.
Ả nghiêng đầu cố làm ra vẻ tình tứ, con ngươi đưa đi đưa lại trong hõm mắt quệt đầy một màu xanh xám xịt. Viên trung tá khẽ nhún vai, dúi nắm tiền vào tay ả đã chìa sẵn. Thuận tay anh vỗ nhẹ mấy cái vào mái tóc ngắn ngủn xù lên của ả, rồi rảo bước ra phía cửa gương đang quay tròn chầm chậm. Nghĩ thế nào, ả thiên nga dúi mạnh nắm tiền cho anh bồi lép vế đang đứng ngẩn người, quay ngoắt lại chạy theo viên trung tá, xô cả vào hai vợ chồng người tư sản. Người chồng gầy đét buột miệng văng tục, nhưng mắt vẫn dán chặt vào tấm lưng trắng hở hang nuột nà, thân hình thon thả của ả.
Đuổi kịp gần cửa, ả thiên nga choàng tay khoác ngang lưng viên sĩ quan đẹp trai, hỏi nhấm nhẳng:
- Ngài cho em được đi hầu hạ ngài.
- Rất hân hạnh. Xin mời – Viên sĩ quan mỉm cười, bước lùi lại một bước, hơi khom lưng chìa tay ra phía trước – Địa chỉ: số nhà... đường Võ Tánh, Quận Hai.
Không cần phải là thiên nga, mà mọi người dân bình thường đất Sài-gòn này, cả đến bọn nhỏ đánh giầy, bán báo cũng thừa biết rằng đó là đâu. Trung tâm thẩm vấn khét tiếng của cục tình báo quân đội. Giả bộ suy nghĩ đôi chút, rồi ả nhăn nhó, tìm cách tháo lui:
- Ngài cứ giỡn em hoài. Thôi mà, ngài cảm phiền cho em còn mần ăn kiếm chút puốc boa. Đó, đó, người ta kêu em đó.
Ả kiếm cớ chạy tọt vào phía trong quầy. Viên trung tá nhếch mép khinh bỉ. Thứ mày mà cũng định kiếm đôn bằng mũi! Hừ để xem thằng thầy mày là thằng nào? Ra đến cửa, soi qua tấm gương để sửa lại bộ quân phục, viên trung tá kín đáo liếc bóng gã trung niên đáng ngờ nọ. Vừa lúc cặp mắt gã nhấp nhỏm thoáng qua. Viên sĩ quan bước nhanh ra cửa.
Dưới chân thềm đá ven đường, chiếc xe Jeep đã nổ máy chờ sẵn. Viên thượng sĩ lái xe nhao người sang bên cửa mở cho cấp trên.. Ngần ngừ bên chiếc xe, rồi viên trung tá cúi thấp người, nói nhỏ:
- Anh cho xe đón tôi đầu rạp Mini Rex. Sẵn sàng liên lạc với trung tâm.
- Tuân lệnh, thưa trung tá.
Đợi chiếc xe khuất sau một ngã tư, viên trung tá mới đủng đỉnh bước, hòa vào trong dòng người đã thưa thớt dần. Dẫy đèn cao áp hai bên đường đã bắt sáng, hắt xuống mặt người một thứ ánh sáng xanh nhợt, mờ ảo. Những người đi lại trên đường đều tránh sang một bên nhường lối cho viên sĩ quan. Thời buổi loạn lạc này, tránh xa bọn nhà binh là tiện nhất. Cả những tốp lính tuần tra, quét chợ cũng dạt sang một bên, đừng nghiêm chào viên trung tá đi qua. Một vài cô gái làng chơi thập thò đầu các hẻm định nhào ra mời chào, song nhìn nét mặt tuy bảnh nhưng lạnh như tiền với khẩu oan-te đập nhẹ bên hông của viên sĩ quan, tất cả đều thụt vào, lè lưỡi với nhau.
Viên sĩ quan vẫn lững thững bước đi với cành viôlét trên tay,
dường như không chú ý đến cảnh vật xung quanh. Vài đôi trai gái đèo nhau trên hon-đa đi chậm lướt ngang qua, chạy xa rồi mà nghe như tiếng rúc rích cười còn theo làn gió nhẹ từ sông Sài gòn vẳng lại. Hẳn họ đang thầm thương hại gã sĩ quan bảnh trai nhường kia lại phải đơn côi ngóng bồ lúc màn đêm buông dầy đường phố. Chợt người sĩ quan nhận thấy bên kia đường, từ nẫy giờ có một chú bé đánh giầy đang lẽo dẽo đi theo. Đôi chân nhỏ xíu phải gắng lắm mới kịp. Viên sĩ quan đưa cành hoa lên ngang mặt, dấu nụ cười chợt đến. Có một cái gì đấy khiến viên sĩ quan liên tưởng cậu bé với đời sống trước đây của mình... Không, không chỉ có vậy. Cậu bé ấy, trong cái nhìn vội vã pha chút hoảng hốt, lo âu đôi lần bắt gặp kia, trong dáng đi nửa như muốn đuổi kịp, nửa như không kia, hình như còn liên quan đến mình trong hiện tại nữa…
Đến một ngã ba, viên sĩ quan rẽ ngang đường. Cách đó một quãng không xa, gã trung niên nẫy giờ vẫn lén lút đi theo, vừa giống một con chó lăn theo mồi lại tương tự một thằng bồi bị hắt hủi, lẽo đẽo van xin chủ tha thứ. Hắn là loài chó săn nòi đây. Cứ nhìn cái dáng lén lút. Chốc chốc ngẩng lên nhìn rồi lại cắm cúi đi theo, vai cổ rụt xuống cho thấp hơn, hai con mắt cứ rườn mãi ra đằng trước như mắt ốc nhồi, viên trung tá thừa hiểu cung cách mần ăn của nó. Với loại này cũng chẳng khó, chỉ cần dấn ba bước là đủ cho nó rớt, tìm ba nó suốt một đêm nhịn đói. Nhưng nó là ai? E hèm, gặp nhau một chút cũng hay đấy chứ?
Vừa thoáng nghĩ như vậy đã thấy cậu bé đánh giầy theo sát đằng sau. Viên trung tá hơi ngoảnh lại, quát to:
- Nhỏ. Giầy!
- Dạ, con đây, thưa ông sĩ quan.
Cậu bé đánh giầy chạy ngay lại như sợ đứa khác giành mất. Cậu cúi gập người, hạ chiếc hòm gỗ đeo lủng lẳng trước ngực xuống đất. Viên sĩ quan đặt chân phải lên hòm, đứng chống nạnh.
- Lẹ lên!
- Dạ, ngài dùng kem Hoa kì hay kem Pháp?
- Pháp.
Viên sĩ quan gắt gỏng, liếc đồng hồ vẻ sốt ruột, rồi lui chân phải xuống đặt mạnh chân trái lên hòm. Sau tiếng “cộp” vang lên.
- Thưa ngài, xong ngay giờ đây ạ.
Cái giọng Bắc non nớt có một vẻ gì đó khiến viên sĩ quan cúi xuống nhìn. Vừa lúc cậu ngẩng lên, nhìn thẳng tới mặt viên sĩ quan rồi nhìn cành viôlét đang khẽ rung rung trên tay. Một nét cười thoảng lướt qua trên làn môi khô của cậu bé hơn mười tuổi ấy. Cậu bé lôi ra gần chục hộp kem các loại, trắng, đen, vàng, đỏ, Mỹ có, Pháp, Anh, Hà Lan, thậm chí kem Chợ Lớn cũng có. Quệt ngang quệt dọc kem lên mũi giầy vốn đã rất bóng của viên sĩ quan, cậu đánh lia lịa. Cả thân hình còm cõi nhao đi nhao lại theo chiếc bàn chải lông. Thoáng thấy gã trung niên thập thò trong bóng tối của một cửa tiệm bên kia đường viên sĩ quan không đợi đánh xong giầy trái đã rút ngay về, đặt chiếc bên phải lên mặt hòm, quát khẽ:
- Lẹ lên!
- Dạ, xong ngay đây, thưa ngài.
Cậu bé lại cặm cụi đánh. Rất nhanh, cậu rút mẩu giấy cuộn tròn gắn trong kẽ bàn chải, dúi sâu vào cạnh giầy viên sĩ quan.
- Rồi, thưa ngài.
Cậu bé nói to với vẻ thỏa mãn. Viên sĩ quan cúi xuống nhìn, bàn chân ngúc ngoắc trong chiếc giày nói khẽ:
- Nó sau lưng. Cẩn thận.
Rồi quát ầm ĩ:
- Quét lem nhem thế này hả, thằng nhỏ?
Viên sĩ quan nhếch mép, bực bội cho rằng đánh như thế không đáng tiền, quay lưng định bước. Cậu bé lao người theo, giật lấy vạt áo kêu lên:
- Ông chưa trả tiền con.
- Trả hả? Còn dám mở miệng đòi tiền cơ à? Này thì trả - Viên sĩ quan hơi nghiêng người, đá mạnh, làm cậu bé ngã chúi. Cậu bé oằn người vừa khóc vừa la to:
- Tiền của tôi! Trả tiền tôi đây!
- Tiền này! Cầm về mà xài! – Viên trung tá vứt cành hoa về phía cậu bé. Không hiểu vô tình hay hữu ý cành hoa nằm gọn trong hòm gỗ lăn sâu giữa những hộp kem, báo cũ, bàn chải các loại. Cười ngạo nghễ, viên sĩ quan gằn giọng – Hay muốn về trại đi tàu bay với ba, hả thằng con ba trợn kia?
Cậu bé ôm vội chiếc hòm, dông tuốt ra xa, rồi đứng đó vừa khóc vừa chửi. Ba tên em-pi Mỹ đi ngang qua trông thấy cười sằng sặc. Mấy người đi đường mím môi nén giận. Nét mặt họ như muốn nói: “Ở chỗ khác thì chúng tao sẽ bóp chết mày. Đồ chó!”.
Viên trung tá phớt tất cả đủng đỉnh bước đi, huýt gió nhè nhẹ bài “Chiều mưa cao nguyên”.
***
Mọi sự việc diễn ra đều không qua mắt một người thứ ba. Đó là người đàn ông trung niên mặt nhợt , nẫy giờ vẫn lẩn trong bóng tối của một cửa tiệm. Dõi theo hai bóng người đang đi xa dần về hai phía, gã ngần ngừ không biết nên đi theo hướng nào. Một con chó đi săn trong rừng, đến một ngã ba rơi đầy lá khô, ngẩn ngơ trước những vết chân nai nối dài về hai cánh rừng khác nhau như thế nào, thì gã kia cũng ngẩn
ngơ y như vậy. Gã thấy câu chuyện xảy ra có gì rất đáng ngờ. Theo thằng nhỏ kia ư? Con mồi thường quá, không bõ. Hay chặn đầu viên trung tá? Con mồi bự đó. Nhưng lỡ trật thì sao? Chẳng có gì bảo đảm cho gã là sẽ không phải nhận vài cái đá còn mạnh hơn cú đá vừa rồi... gã cứ lần chần như vậy cho đến lúc bóng cậu bé đánh giầy đã khuất sau một góc phố, còn viên sĩ quan, tuy đi đủng đỉnh nhưng cũng chỉ còn nhận ra bằng cái mũ kê pi đội hơi lệch và dáng dấp cao hơi trội lên so với những người khác. Gã giật mình, tặc lưỡi nghĩ liều: “Được ăn cả, ngã về không”, cần gì. Gã vẫn tin vào mật báo của ả thiên nga cũng như cảm giác của chính gã, nhưng có sao thì cứ chìa “các” ra là huề. Nghĩ vậy, gã bươn bả đuổi theo viên sĩ quan khả nghi.
Trời đã tối hẳn. Gió từ sông Sài gòn thổi về lồng lộng. Tuy vậy, khi theo kịp viên trung tá thì gã kia đã toát mồ hôi, người nóng ran, thở hổn hển. Đó cũng là lúc viên trung tá đã đến bên chiếc xe Jeep. Lách vội qua mấy người đang túm năm tụm ba truyện trò đợi giờ vào rạp, gã vươn lên trước mặt viên trung tá, tròn mắt nhìn, nói như ra lệnh phào phào trong nhịp thở:
- Xin lỗi trung tá, ngài cho coi giấy!
Viên sĩ quan nhìn từ đầu đến chân gã kia một cách xấc xược, không nói không rằng quay lại từ từ bước lên xe. Nhưng mới chỉ đặt một chân lên bậc sắt, viên sĩ quan đã phải rụt ngay lại. Gã đàn ông đã rút súng, chĩa lăm lăm vào người viên sĩ quan, quát lớn:
- Quay lại! Không tao bắn!
Đợi cho viên sĩ quan quay hẳn lại, gã lại quát: - Cấm chống cự. Đưa giấy tờ đây!
Không còn cách nào khác, viên sĩ quan hơi nhún vai, im lặng rút tập giấy trong ngực. Vẫn đứng im, viên sĩ quan hơi cong tay đưa giấy tờ ra phía trước mặt gã mặt nhợt. Người lái xe đờ người trước tay lái định lao xe ra cứu cấp trên, nhưng gã
kia đã gục gạc mũi súng đe dọa. Mặc dù đưa giấy tờ ra phía trước, viên trung tá vẫn đứng im tại chỗ, nét mặt có vẻ khuất phục, mắt nhìn chằm chằm vào mặt gã kia. Gã bước lên một bước, đưa tay trái ra đón lấy tập giấy. Nhưng tay gã vừa kề, đủ nhận ra đó là một xấp báo cũ đã gập lại, thì nhanh như cắt, viên trung tá ném thẳng tập giấy vào mặt gã, tung chân đá trúng cổ tay mang súng. Thuận đà, viên sĩ quan đó quay người nửa vòng, lấy chân phải làm trụ, tung gót trái thẳng giữa ngực gã kia, quay tiếp nửa vòng nữa, rồi nửa vòng nữa. Ba tiếng “ực, ực, ực” liên tiếp phát ra, gần như đồng thời với tiếng khẩu côn rơi xuống mặt đường, nghe tiếng khô khốc. Gã nọ lảo đảo giật lùi, rồi ngã ngửa ra mặt đường, mắt trợn ngược, bọt máu trào ra từ hai lỗ mũi, từ hai bên mép chảy rỉ rỉ xuống cổ. Tất cả chỉ diễn ra trong vòng mấy tích tắc, làm viên thượng sĩ lái xe nín thở, rồi lè lưỡi, thở phào.
- Trời, anh hai sử tam phi cước thiệt số dách!
Không để ý đến lời tán tụng đó, viên trung tá lại đứng im, quát khẽ:
- Đứng lên!
Gã đàn ông mặt nhợt nhỏm dậy, rồi lại lảo đảo gục xuống, ôm ngực ho khù khụ, máu mũi máu miệng lại trào ra. Không quay lại viên sĩ quan khoát tay viên thượng sĩ lái xe nhảy ào xuống, chạy lại xốc nách gã trung niên. Cố ngẩng cái đầu giờ đây nặng chình chịch chỉ chực gục xuống gã, mở to đôi mắt lờ đờ, vằn đỏ những tia máu giận dữ bất lực. Viên sĩ quan khẽ nhếch mép, hỏi giọng không thay đổi:
- Tên?
- Thưa ngài...thưa... tôi nhầm.
- Tên?
- Tôi là... gã ngừng một lát như để lấy sức - Tôi là... mà... Ngài không có quyền thẩm vấn tôi.
- Tên? - Viên sĩ quan gằn giọng, cả người hơi trùng xuống, rung nhẹ khẩu oan-te bên hông. Tiếng quát như nhát dao cuối cùng chém xuống một cây khô sắp đứt. Gã kia quỳ xuống, van xin bằng một giọng Bắc lơ lớ đôi chút tiếng miền trong.
- Lạy ngài… xin ngài tha tội chết. Các của con đây ạ.
Vừa nói, gã vừa run rẩy rút trong túi bên trái ra một tấm giấy bọc plát–tích trong suốt, đưa lên. Viên sĩ quan cầm lấy, liếc qua. Dường như chưa tin, viên sĩ quan lại nhìn kỹ khuôn mặt méo mó nhăn nhúm thấm đầy máu đang sụp dưới đường kia. Không thể nhầm được. Chính hắn đây. Cái thằng bạn năm xưa cùng lớp ở trường Bưởi…
Không nén được thói quen, viên trung tá nhún vai lạnh lùng, nói giọng khinh miệt:
- May mà vào tay tao đấy, con ạ. Thôi – viên trung tá quăng mạnh tấm các do chính tay ngài tổng trưởng chiêu hồi kí vào mặt gã – cút đi nơi khác mà kiếm ăn. Đừng có dàn mặt tao nữa nghe.
- Dạ, đội ơn ngài.
Gã vồ lấy tấm các đầu cúi rạp sát chỗ những giọt máu vừa nhểu xuống, đang thẫm lại dưới ánh đèn, trông không khác bãi nước trầu một bà nào đó đi qua vừa nhổ xuống. Viên trung tá, bước lên xe đóng sập cửa lại..
Gã mặt nhợt cố ngẩng đầu lên nhìn theo. Chiếc xe đã rú ga lao vút đi, khói xăng chưa cháy hết tỏa ra đen kịt. Khi lăn mình vào chiếc cáng cảnh sát vừa mang tới, gã còn kịp tỉnh táo mà cay đắng cho thân phận cáo vuốt râu hùm. Đây là lần đầu tiên gã bị một trận đòn nhừ tử. Mà sao nó “chơi” mình dữ thế. Phải gẫy đến ba cái xương sườn là ít. Trời, ôi đau… cha tổ… gã lịm đi.
***
Thằng Hải chạy ào vào nhà như một cơn gió lốc. Mặt nó tươi roi rói. Ông Hai chỉ vừa kịp đứng dậy thì nó đã đút hộp gỗ đánh giầy vào dưới gầm giường, nhẩy lên ôm chầm lấy cổ bố làm ông Hai loạng choạng lùi lại mấy bước sát tới giá sách.
- Úy trời, chú ấy đá ngon quá – Thằng Hải nó liến thoắng rồi lùi ra xa bố, bắt chước điệu bộ của viên trung tá. Vừa lúc ông Hai cầm cuốn sách giơ ra thế là nó vung chân đá ngay vào cổ tay ông. Cuốn sách rơi soạt xuống nền nhà. Cái chân thằng Hải nhỏ xíu lại phải dơ cao nên vừa quay lại định đá tiếp bằng gót thì mất đà, ngã úp bụng xuống sàn gỗ. Ông Hai đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì cũng bật cười, xoa xoa chỗ cổ tay bị đau:
- Nhóc con cũng đòi đá với đấm.
Thằng Hải đứng bật dậy, nhăn nhó xoa trán, nghĩ bụng trông thế mà đá được cũng khó quá trời. Rồi nó lại cười, kể cho ông Hai nghe chuyện về xô xát xẩy ra vừa rồi. Nó nói luyên thuyên vung chân vung tay diễn tả, cứ huỳnh huỵch không để bố nó chen vào một câu. Nhìn đứa con, ông Hai biết nó đã làm tròn công việc. Ông vui quá. Thế là nó đã lớn, đã khôn, nó đã giúp được người của ta một việc rồi. Tuy ông không giở viên giấy ra xem nội dung, xong hẳn công việc quan trọng lắm. Thế mà nó làm được. Cũng bõ công hơn chục năm trời gà trống nuôi con trong cảnh trên đe dưới búa này.
Ông Hai ra cài lại cửa. Đóng một thanh chốt gỗ ngang, ông lại dướn người cài chốt sắt phía trên. Ông ngắm nghía cái chốt xoa xoa tay vẻ rất yên tâm. Bây giờ, ông mới quay vào giường kéo thằng Hải ngồi gọn trong lòng. Ông vò tóc nó, nắn nắn hai bả vai nó. Lớn rồi đây. Nhỏ nhưng chắc lắm. Ông cúi người xuống sát tai nó, hỏi nhỏ:
- Thế con đưa rồi chứ?
- Dạ, con đưa rồi.
- Có đúng như bố con mình nghĩ không?
- Con đợi lâu quá. Chú ấy không biết con. Nó nói lanh lảnh. Ông Hai vội vàng bịt chặt lấy mồm nó:
- Khẽ chứ, con.
Thằng Hải thì thào kể lại đầu đuôi, chốc chốc cao hứng, nó lại nói tướng lên, làm ông Hai thỉnh thoảng lại phải bịt chặt lấy mồm.
Chợt ông kéo ngửa đầu thằng Hải lên, nhìn thẳng vào mặt nó.
- Con có sợ không?
- Không. Sợ gì hả bố?
- Thế nếu bị bắt thì sao?
- Thì con cắn răng lại. Đau quá thì con chửi.
- Được, biết vậy. Thôi, bây giờ con đi ngủ đi cho bố làm việc. Ông Hai vừa quay ra thì thằng Hải nhổm dậy, nói:
- Tí nữa thì con quên. Bố ơi! Chú ấy đưa cho con cái này.
Thằng Hải lục trong hòm đánh giầy, đưa cho ông Hai cành hoa viôlét. Ông Hai định trách con “Sao con không nói ngay cho bố biết” nhưng sực nhớ lại lời anh Tư “Chiều mai, cửa hiệu PX đường Nguyễn Tri Phương” ông lại thôi. Ông giục con lên giường đi ngủ rồi mang cành hoa viôlét ra phía sau nhà, cất dấu thật kỹ lưỡng. Lúc này ông không biết rằng cành hoa viôlét là ám hiệu báo cho cấp trên biết địch đang triển khai quân sự chuẩn bị một chiến dịch mới. Nhưng niềm vui trong lòng ông bừng lên âm ỉ như những con sóng đêm đang vỗ nhẹ bên bờ sông Thị Nghè.
CHƯƠNG BA: VIÊN SỸ QUAN
Chiếc xe Jeep phóng bạt mạng trên đường. Chưa đến giờ giới nghiêm, nhưng đường phố đã vắng hẳn. Một vài người còn sót lại cứ cúi mặt đi sát vệ đường. Chỉ còn lính Mỹ, những chủ nhân thực sự của dải đất miền nam này, tay đút túi, miệng phì phèo điếu Peo meo hay Xa lem, đi vơ vẩn giải khuây. Thỉnh thoảng, bóng một đội tuần tra, vũ khí Mỹ đầy người, đột ngột ló ra từ một hẻm nào đó, bước lộp cộp trên đường, rồi lại mất hút trong bóng đêm nhầy nhụa nhạc Rốc với những sắc màu lòe loẹt của một thành phố bị chiếm đóng.
Chiếc xe đứng lại trước một ngôi nhà hai tầng. Không đợi còi hiệu, người lính gác đã ra mở cổng. Hai cánh cửa sắt rít lên ken két, rồi mở toang. Tiếng bánh xe nghiến lên lớp sỏi xào xạo trong đêm vắng lặng. Viên trung tá quay sang viên thượng sĩ lái xe, hỏi nhỏ trong tiếng cười:
- Thế nào? Có thăm Thanh Thủy một lát chớ?
- Dạ, thưa trung tá - Viên thượng sĩ ngần ngừ - Nhưng…
- Lại đôn chớ bộ. Đây, cầm lấy. Nhớ nể mặt bọn Mẽo một chút nghe. Sáng mai đợi tôi chỗ cũ.
- Cám ơn ngài - Viên thượng sĩ mắt sáng lên khi nhìn thấy mấy tờ đô la đỏ, dấu hiệu của quân đội chiếm đóng Mỹ. Đợi cho cấp trên đi khuất trong vùng tối của ngôi nhà, anh ta mới dấn nhẹ ga, từ từ lái đi.
Vừa cởi áo đưa cho tên lính hầu, viên trung tá vừa hỏi: - Từ tối tới giờ có ai hỏi tôi không?
- Dạ, chỉ có ngài Uyliam nào đó, hình như là chủ công ty thép Hoa-kỳ vừa gọi điện đến hỏi ngài đi đâu và gửi lời chào ngài.
- A, ngài Uyliam đã về rồi sao? - Viên trung tá reo lên vẻ
mừng rỡ - Mai tôi phải tới thăm ông ta mới được. Rồi còn tình hình an ninh?
- Thưa trung tá, mọi việc đều ổn cả. Tôi đã lịnh cho tụi nó canh phòng cẩn mật.
Như để chứng thực cho lời nói của tên lính hầu, khi ánh đèn phòng khách vừa bật sáng, viên trung tá đã thấy một tên lính cầm ngang khẩu AR. 15 đứng như tượng gỗ cạnh cửa thông ra cầu thang lên gác.
- Tốt!
Viên trung tá nói một câu gỏn lọn, rồi đi thẳng lên cầu thang. Đến chỗ ngoặt, anh ta còn ngoái đầu dặn với xuống tên lính hầu:
- Mang lên phòng cho tôi một phin đậm nghe.
- Rõ, thưa ngài! - Tên lính hầu đứng nghiêm rập gót giầy, hô to. Con mèo tam thể đang lim dim ngủ trên nắp chiếc radio - quay đĩa, giật mình lao vội qua trước mặt tên lính bảo vệ, biến vào gầm cầu thang. Tên lính bảo vệ hoảng hốt nghiêng người lấy tay trái che mặt, lầu bầu:
- Đ. mẹ, làm ông buốt cả tim. Đồ mèo cộng sản. ***
Viên trung tá để nguyên cả giầy thay bộ quân phục bằng bộ quần áo ngủ màu xanh lơ, rút khẩu oan-te trong bao ra đút xuống dưới gối. Tên lính hầu khẽ đẩy cánh cửa khép hờ bước vào, im lặng đặt phin cà phê đang nhỏ những giọt đầu tiên lên bàn, rồi đi ra, khép chặt cửa lại. Từ bên ngoài, gã hỏi vọng vào:
- Thưa trung tá, đêm nay ngài có tiếp ai không ạ? - Không. Trừ lệnh triệu tập!
- Rõ, thưa trung tá. Chúc ngài ngủ ngon.
Tiếng chân bước xa dần. Viên trung tá liếc nhìn đồng hồ, rồi ra cài chốt cửa nối liền với sợi dây báo động đặc biệt. Anh ta lại đi bên cửa sổ, cúi nhìn ra bên ngoài. Đêm Sài gòn vùng quận một này mới yên ắng làm sao. Tiếng con dế mèn góc vườn vẳng đến cứ to dần, to dần. Có lẽ phải đổ đến sáu chai nước nó mới chịu chui lên mặt đất. Cái đầu nó phải lên nước bóng loáng như gỗ mun. Đôi cánh và bộ giò của nó thì phải biết. Bất giác viên trung tá mỉm cười, tựa đầu vào khung cửa sổ. Những bóng lá đung đưa trong vườn như gợi nhớ những bàn chân đất chạy nhẩy trên những con đường của Thủ đô Hà Nội cổ kính. Và hương dạ lan ngan ngát dăng đầy không gian như biến đổi trở thành mùi thơm nồng thắm của hoa sữa bay lừng đường phố những ngày Hà Nội lập đông. Ôi! Hà Nội thân thương của ta! Biết bao giờ ta được trở lại hôn trên những viên gạch cổ kính của Người.
Chợt viên trung tá lắc đầu như để xua đuổi những ký ức xa xưa. Anh đóng chặt cửa sổ, kéo rèm che thật cẩn thận.
Sau khi ngồi xuống giường, viên trung tá vươn tay về phía trong gối, lấy ra lọ nước hoa, xức một ít lên mặt tấm ga trải giường. Xong đâu đó, anh rút một vật cồm cộm trong giầy từ hồi tối chập choạng đến giờ ra. Đó là một tờ giấy mỏng và dài (loại giấy Thụy Điển đây) được cuộn chặt. Đặt lên đùi vuốt cho thẳng, anh dốc ngược lọ nước hoa lên mặt tờ giấy, thấm đều. Rồi soi lên ánh đèn, chờ đợi. Vài ba phút sau, mẩu giấy hiện lên dòng chữ bé xíu: “Món hàng con vừa cất rất hên. Ông sui gia mừng lắm, nói con cất tiếp món hàng ổng ưa. Con Hàn bị bệnh nặng. Con phải uống thuốc lỡ mắc dịch. Má 6.21 quận 5.”
Ra vậy. Hai lần ta đi đón không gặp là như thế đó. Còn bây giờ… Căng đấy. Rồng lửa đã vậy, viôlét sẽ tính sao? Mà nghe như động rồi. Có kẻ phản bội chăng? Kẻ nào?... Vừa suy nghĩ mông lung, viên trung tá vừa châm lửa đốt tờ giấy. Ngắm những dòng chữ thân thương, sợi dây duy nhất nối với trung ương đang đen dần thành than kia, anh muốn vồ lấy,
cố giữ lấy một mẩu. Chỉ một mẩu thôi… ngọn lửa lụi dần, rồi tắt ngẩm. Mẩu giấy đang chuyển dần từ màu đen của than sang màu trắng của tro, lả tả rơi xuống đáy gạt tán thuốc lá…
Viên trung tá ngả người trên chiếc đệm lò so rồi với tay tắt đèn. Căn phòng vụt tối om. Tên lính gác bên ngoài tưởng viên trung tá đã ngủ say sau một ngày làm việc căng thẳng, mệt nhọc. Nhưng không, nếu tên lính gác có phép lạ nhìn qua được cửa dày khép kín, hẳn sẽ thấy trong căn phóng tối chốc chốc lại lóe lên ánh lửa hồng của điếu thuốc lá đang cháy.
Viên trung tá vẫn đang trằn trọc, không hiểu vì sao anh cứ nghĩ mãi về hình ảnh chú bé đánh giầy vừa gặp lúc tối. Chú bé thật gầy yếu, xanh xao. Không hiểu lúc anh buộc phải co chân đá vào thân hình ốm o của chú, có làm chú đau đớn lắm không? Liệu chú có oán trách anh không? Ôi! chú bé đánh giày của thành phố Sài Gòn đang bị chiếm đóng. Thật đáng yêu thương trân trọng chú biết bao. Giữa vòng vây dày đặc của kẻ thù chú đã đem đến cho anh bản chỉ thị của cấp trên. Bản chỉ thị ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho anh soi sáng bước đường hoạt động của anh trong những ngày tới. Viên trung tá chợt mỉm cười trong bóng tối. Phải, hình ảnh chú bé đánh giầy đâu có xa lạ gì với anh. Đó chính là hình ảnh của anh trong những ngày xa xưa, những năm bốn mùa ở thủ đô Hà Nội.
***
Khi theo bọn trẻ cầu bơ cầu bất làm đủ các cái gọi là nghề ở Hà Nội, chú bé ấy lên tám tuổi. Cả tuổi thơ của mình, chú chỉ còn nhớ mẹ chú rất nghèo, chuyên quét chợ cầu Đông kiếm miếng ăn nuôi chú. Chú không có bố. Lên bốn, bị bọn bạn bè lau nhau gọi là thằng con hoang, chú ức lắm, về hỏi mẹ:
- Bố đâu hở mẹ?
- …
- Bố đâu hở mẹ? - Chú lắc lấy lắc để cánh tay gầy guộc của mẹ, lúc ấy không hiểu vì sao mẹ đã gục mặt xuống ổ rơm, khóc nức nở.
- Bố đâu hở mẹ? - Chú hỏi riết, thầm nghĩ sao mẹ chú hay khóc thế, chả nhẽ lớn như vậy cũng bị người ta trêu trọc hay sao? Chú cũng bị trêu trọc, có khi còn bị đánh nữa, nhưng chú không bao giờ khóc.
Mãi sau mẹ ôm chú vào lòng, xoa mớ tóc rễ tre cứng quèo vì suốt ngày bêu ngoài nắng, nói với giọng của người bị ngạt mũi:
- Bố con đi làm tận Hà nội cơ. Xa lắm.
- Thế sao bố không về với con?
- Bố làm nhiều việc lắm, không về được. Bao giờ con lớn, mẹ con mình đi Hà nội thăm bố.
Chú lập tức tin ngay và cảm thấy yên lòng. Mẹ nói bao giờ cũng đúng. Thế là mình cũng có bố. Bố lại ở tận Hà Nội cơ, chứ không thèm ở quê như bố chúng nó. Nghe mấy bác đi buôn chuyến nói Hà Nội đẹp lắm, có rất nhiều nhà to, to bằng mấy cái đình đầu làng mới khiếp chứ. Lại có rất nhiều ô tô nữa. Mình mà ra Hà Nội thì tha hồ xem ô tô. Chẳng như ông tài xế cho quan huyện, mỗi lần về làng lại cầm cành gai tre đuổi bọn trẻ, không cho sờ vào ô-tô một tí.
Chú không biết rằng thực sự chú không có bố. Mẹ chú bị gia đình bán cho nhà quan huyện lấy tiền nộp thuế, phải vào làm con ở từ năm mười một mười hai tuổi. Lớn lên, mẹ chú bị con trai quan huyện lừa, có mang rồi sinh ra chú. Vì thế bị đuổi khỏi nhà quan, phải đi làm nghề quét chợ. Còn con trai quan huyện, sau đi làm ở tận Hải phòng… Chú không hề biết điều đó, và dù có nói điều đó ra chăng nữa, chú cũng không tin. Mẹ chú đã nói là đúng. Chú có bố. Bố chú đi làm tận Hà Nội cơ mà. Nếu như lâu lắm rồi bố chú không về thăm chú thì chỉ vì bố bận làm nhiều việc lắm. Thế thôi. Và thế là những lần ra cổng chợ chơi với bọn trẻ để đợi mẹ, chú gân
cổ cãi bằng được với mấy đứa bạn đa nghi. Có khi còn nắm chặt bàn tay bé xíu để “bảo vệ” người bố chưa bao giờ biết mặt đang làm tận Hà Nội.
Ít lâu sau, bỗng chú nghĩ rằng tại sao phải đợi bao giờ mình lớn mới được đi Hà nội tìm bố. Mẹ chán thật, mình đã lớn từng này rồi cơ mà. Mình đã biết trông nhà (thực ra là một cái lều dựng sát vào bụi tre, cửa làm bằng cái nong thủng). Mình lại biết thổi ngô, luộc khoai, lại biết cả đi bẻ gai tre, nhặt lá bánh về đun nữa chứ. Mình lớn rồi. Thôi, mẹ không đi tìm bố, thì mình sẽ đi. Mình sẽ bảo với bố: “Con là thằng Rớt của bố đây. Con đợi mãi mà không thấy bố về, con ra tìm bố đây. Nhưng bố đừng mách mẹ nhé. Mẹ lại khóc đấy.” Bố sẽ công kênh mình lên tận cổ, cho mình đi xem ô-tô. Rồi mình sẽ đưa bố về thăm mẹ, chắc mẹ mừng lắm.
Đến phiên chợ rằm tháng Giêng năm ấy, chú không đánh đáo với bạn bè ở cổng chợ nữa. Đang tha thẩn ngoài đường cái quan, chú gặp một bà to béo, có dễ bằng ông Phật ngồi nghễu nghện trong đình. Cái bụng bà ấy to đến gớm. Chắc nếu không có dải lụa xanh buộc bên ngoài áo thật chặt thế kia thì nó phải nứt ra như quả dưa bở tháng tám mất. Nhưng không sao, bà ấy tốt bụng lắm. Nhổ đánh toẹt một bãi nước trầu đỏ lòm như máu xuống đường, bà ta đon đả hỏi chuyện chú… Chú rất thích. Từ trước đến nay đã có ai chịu nghe chuyện bố đi Hà Nội với vẻ thông cảm như bà ấy đâu. Vì vậy, chỉ cần vài câu đùa giỡn, chú và bà ta đã đã ngồi trên chiếc xe tay kéo về Hà Nội. Trong suốt chặng đường đi, chú chỉ nghĩ đến lời hứa của bà ta, nghĩ đến Hà Nội, đến bố. Không một lần chú ngoảnh lại đằng sau, nơi phiên chợ đã tan và mẹ chú đang gào khóc như điên dại, hai tay ôm chặt bộ ngực lép kẹp, chạy khắp làng nức nở gọi chú…
Nhưng làm sao có thể tìm cho chú một người bố, một khi thực tình chú chưa bao giờ có bố? Sau khi cất thật sâu nắm tiền còn mới vào giữa mớ tiền bẩn thỉu, nhớp nháp mồ hôi trong cái túi lụa xanh quấn quanh bụng, người đàn bà to béo kia đi mất để mặc chú bơ vơ trong sân một ngôi nhà tường hoa mái ngói…
Trong đêm đầu tiên xa nhà, rúc sâu cái đầu vào bụng con chó cái già đã rụng gần hết lông, chú mới lờ mờ hiểu thế nào là mẹ mìn. Cái tiếng đáng sợ mà các bà già đi chợ thường dọa bọn nhóc tinh nghịch khi bước qua cổng vào chợ, chú mường tượng giống ông Ác đứng ở tường đình. Thế ra, người Ác lại hay ra vẻ tốt bụng…
Sau nửa năm trời làm thằng nhỏ gánh nước, quét nhà, dọn cứt cho đứa con trai ông chủ trạc tuổi chú, chú bé Rớt ấy trốn đi, nhập bọn với đám trẻ vô thừa nhận lang bạt các ngõ chợ. Ban ngày đi đánh giày, bán báo, bán kem… Ban đêm, sau khi nộp cho cậu chủ số tiền thu được trong ngày, chú lại cùng mấy đứa bạn đi mò các đống rác, rồi ôm nhau ngủ dưới gầm cầu Lơ bơ-lăng[2]. Cho đến một hôm, có một ông chủ (đối với chú bấy giờ, ai đi giầy giôn, mặc đồ Tây, đội mũ phớt đều là ông chủ), sau nhiều lần dõi theo, đã đón chú về nhà. Chú đồng ý theo về hầu hạ vì cuộc sống lang thang đã dạy khôn cho chú, ở đâu mà chẳng được. Miễn có cái đút bụng và có chỗ đặt lưng, dẫu ổ chó cũng còn ấm hơn bãi rác gầm cầu.
Nhưng lạ thay, ông bà chủ không bắt chú làm gì cả, lại còn may quần áo đẹp, cắt đi mái tóc đã xù ra như ổ quạ trên chạc cây gạo chân đê của chú. Chú bé Rớt lờ mờ hiểu rằng ông bà chủ đây (chú vẫn chưa quen gọi là ba mẹ và xưng con) không có con, buồn quá nên đón chú về nuôi…
Năm sau, chú được đi học…
Rồi Việt Minh về,... chú không hiểu tại sao ba mẹ chú đóng chặt cánh cổng, bất hợp tác với những người rất tốt ấy. Không những thế, ba mẹ chú còn cấm chú không được đi hội họp, cắm trại với bạn bè cùng lớp…
Rồi quân Pháp quay trở lại. Ba chú là người đầu tiên ra làm việc cho bọn mũi lõ. Tại sao một người tốt như ba lại thế? Trong tâm chí ngây thơ của chú bé Rớt năm xưa, cậu học sinh trường Bưởi với cái tên gọi Hồng Giang ngày nay cứ day dứt mãi một câu hỏi đó. Cậu tìm câu trả lời trong các buổi
thảo luận giữa những người bạn cũng giầu nhiệt huyết như mình.
Người bố nuôi của Hồng Giang lặng người khi được ông thanh tra giáo dục báo cho biết cậu con trai đang đi lại với những kẻ đáng ngờ. Đứa con mà ông yêu quí hơn con đẻ kia đã đến tuổi trưởng thành. Ông bắt đầu để ý những việc làm của Hồng Giang. Một lần ông bắt gặp quả tang Hồng Giang đang cất giấu truyền đơn trong tủ quần áo. Ít ngày sau, ông đã nói chuyện với Hồng Giang thật nghiêm chỉnh, như trao đổi với một người lớn tuổi… Một năm sau, với lời giới thiệu của Đức Giám mục Đờ Pu - lê, Hồng Giang được gửi đi Pháp học. Người bố nuôi hiểu rằng ông đã chắp cánh cho Hồng Giang để anh bay cao, bay xa hơn nữa trong bầu trời cách mạng cháy bỏng. Có lòng căm thù giặc sâu sắc, có nhiệt tình cách mạng cháy bỏng đó là những yêu cầu đầu tiên đối với những người làm công tác tình báo... Anh đã thề sẽ chiến đấu cho dân tộc, cho đất nước, cho hết cảnh người no say phè phỡn trong khi hàng vạn trẻ em đói rét mồ côi, sống lang thang khắp đầu đường xó chợ. Và bây giờ, cậu bé Rớt của Hà Nội ngày ấy là trung tá Hồng Giang, trợ lý đặc biệt của thiếu tướng Sơn Hồng, cục trưởng tác chiến quân lực Việt Nam cộng hòa.
Hai mươi năm sau, Hồng Giang vừa buồn rầu vừa thấy tự hào khi nghĩ đến người bố nuôi, người thầy cách mạng đầu tiên của mình. Anh càng hiểu ông cụ hơn khi chính bản thân khoác bộ quân phục Sài Gòn. Bây giờ ông ở đâu? Cái tên cũ được dát vàng đã vĩnh viễn nằm trên tấm mộ chi bằng đá trắng trong nghĩa trang, dưới cây thánh giá tự tay Cha Đờ Pu-lê cắm lên. Hồng Giang chỉ lờ mờ đoán rằng ông đang làm một nhiệm vụ gì đó với một cái tên khác…
Các sĩ quan trong cục, ai cũng biết Hồng Giang là một gã hãnh tiến, lạnh lùng và kín đáo. Mọi người đồn nhau gã sĩ quan này biết bẩy thứ tiếng, đã từng yết kiến Đức giáo hoàng La mã, từng được Đờ-Gôn bắt tay tại phòng lớn trường võ bị Xanh-Xia, từng được chính tướng Oét-mô-len, tham mưu trưởng liên quân vỗ vai. Hơn nữa, mọi người còn
thầm thì với nhau rằng gã là một sĩ quan “xịa” chính cống, học trò rất cưng của ngài A.Đalét, từng được làm trợ lý cố vấn cho tiểu ban Đông Nam Á của cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ. Nào là các giáo sư kinh tế - chính trị Hoa Kỳ mỗi lần sang đây thường tìm đến nhà gã trung tá đàm luận thâu đêm suốt sáng, ý hợp tâm đầu lắm.
Còn các sĩ quan phu nhân, các bà, các cô, những mệnh phụ của các vị tai to mặt lớn bên Bộ ngoại giao thì thường xì xào về viên sĩ quan đẹp trai cho đến nay vẫn chưa có ai nâng khăn sửa túi. Bà này nói con gà trống đuôi dài đó hình như đã “đặt cọc” tại nhà ông vua dây kẽm gai. Bà kia cãi lại rằng con hổ hiền lành này còn đang kén. Người nói hay, kẻ nói dở, nhưng dù ở đâu, hễ thấy viên trung tá đi qua là lập tức các bà im bặt, cúi mặt xuống vân vê tà áo, ra chiều thẹn thùng lắm. Nhưng ánh mắt của các bà còn sắc hơn dao cạo râu, khiến nhiều khi viên sĩ quan đã đi cách một quãng xa còn thấy nóng bừng trên mặt. Ấy là các bà còn rất lịch sự, nghĩa là mới chỉ liếc cúi mặt. Nếu các bà mà lại thân tình hơn một chút nữa thì hơi men bao lấy viên trung tá còn nóng hơn cả rượu uýt-xki chính gốc. Mà làm sao lại không nhìn một khi anh chàng bảnh đến thế: vóc người cân đối, cao dong dỏng, ngực nở cộm sau tà áo lúc nào cũng là thẳng nếp và nếu đã tiếp các bà thì lịch sự còn hơn người Mỹ.
Hồng Giang không nói một lời nào khi nghe những tiếng đồn hay, dở về anh. Viên trung tá chỉ hơi mỉm cười, nhún vai và nói lảng sang chuyện khác…
***
Thiếp đi được một lát, Hồng Giang tỉnh dậy lúc trời còn tối. Đêm Sài Gòn dạo này còn hơi lành lạnh. Từ cửa sổ làn gió nhẹ đẫm sương lách qua tấm màn gió, mang vào căn phòng mùi hương ẩm ướt của dạ lan. Nghe vẳng đâu đó đôi ba tiếng giầy đinh, tiếng còi. Một con tàu kéo còi phía cảng, nghe trầm đục, nằng nặng. Nhưng bền bỉ hơn tất cả vẫn là tiếng con dế kêu cuối vườn…
Hồng Giang ra khỏi giường, lấy hai quả tạ tay cuối chân giường, vung mạnh. Xương sống theo chiều vặn người kêu răng rắc. Một lát sau, Hồng Giang không bật đèn, lặng lẽ rút khăn mặt đi vào phòng tắm. Tắm buổi sáng đã thành thói quen của cậu học trò trường Bưởi ngày xưa (nước Hồ Tây buổi sáng là sạch nhất - cậu vẫn thường khẳng định với bạn bè như thế ). Vừa nằm bồng bềnh trong bể nước đá hoa xây sát tường, Hồng Giang vừa nhẩm tính kế hoạch trong ngày. “Rồng lửa” - Món hàng vừa cất đã đạt yêu cầu của cấp trên. Còn món hàng mới, Viôlét, như một lần tướng Hâygơ đã nói lỡ ra, sẽ ra sao đây? Hiện giờ nó nằm trong trong két sắt nào? Đã giao cho các tướng lĩnh người Việt chưa? Hai lần làm sát nhau, chắc chắn sẽ rất phức tạp. Hồng Giang không còn lạ gì tính Hâygơ, một người đa nghi và sắt đá không kém gì “ông già tủ lạnh” Bân-cơ. Còn Hoàng Lan,“Con Hàn” làm sao bị bắt? Chắc là có kẻ phản bội…
Nghĩ lan man, Hồng Giang lại nhớ đến chú bé đánh giầy, và gã chiêu hồi tối qua. Vĩnh Nam - tên gã chiêu hồi - có liên quan gì đến việc Hoàng Lan bị bắt không? Có liên quan gì đến chị Sáu không? Còn chú bé kia?
Một hồi chuông gắt gỏng vang lên ngoài cửa. Quấn cả tấm khăn tắm rộng vào người, nước chảy ướt lướt thướt. Hồng Giang ra mở cửa. Tên lính hầu chắc là đã đứng chờ từ lâu khi thấy trong phòng vẫn tối vội vàng nói:
- Thưa trung tá, cục mời trung tá đến ngay. Trực tiếp ngài thiếu tướng cầm tê lê phôn.
- Sao không bảo ngay. Chuẩn bị xe. Năm phút nữa tôi đi. Tên lính hầu vừa quay đi, lập tức quay lại như sực nhớ:
- Thưa, đêm qua ngài Hâygơ có điện tìm trung tá. Theo lệnh trung tá, tôi không gọi. Ngài Hâygơ có nhắn hỏi thăm sức khỏe và công việc của trung tá.
Tên lính hầu quay ra. Hồng Giang nhanh nhẹn vào buồng thay quần áo. Bắt đầu rồi đây. Một đêm ba điện gọi, trong
đó hai của CIA, nhưng muốn ra sao thì ra, phải lấy được Viôlét.
Nên bắt đầu từ đâu đây?
CHƯƠNG BỐN: DÀN THẾ TRẬN
ĐOÀN xe dừng lại trước cổng sắt Bộ tổng tham mưu. Nhìn thấy ba chiếc xe Phi-át đen có hai G.M.C chở đầy quân cảnh hộ tống, viên trung uý chỉ huy bảo vệ hạ lệnh mở cổng, lui bốn cái cự mã ra. Đó là bốn cái khung sắt ken đầy dây kẽm gai, cao ngang ngực, dùng để chắn những chiếc xe chở đầy thuốc nổ lao vào, một kiểu đánh “quyết tử” của quân cộng sản. Hai ụ súng sơn vằn vện nguỵ trang thò ra hai khẩu súng máy mười hai li tám và hai cái nòng đại bác hai mươi li đen chũi, chĩa thẳng về phía trước, gầm gừ hăm doạ. Sau khi cánh cửa nặng nề được mở ra, người đi ngoài đường còn có thể nhìn thấy hai chiếc xe tăng M.48 đỗ lù lù phía trong, nòng pháo chĩa xuống ngang tầm người. Bọn lính đi giầy da bó chặt lấy ống quần, khuôn mặt bé choắt dưới vành mũ sắt Tây Đức, đứng thành hai hàng dọc theo hai bên cổng, nghêng đón cái ngài cố vấn Hoa kỳ.
Đoàn xe dừng lại trước một toà nhà đồ sộ, bắt người ta chú ý không phải vì vẻ đẹp to lớn hiện đại mà chính vì cái vẻ vừa kín đáo, vừa hùng hổ của nó. Trước khi mấy tên bảo vệ chạy tới mở cửa xe, Hâygơ quay sang Sơn Hồng, vỗ nhẹ vào bả vai hắn, dặn dò:
- Xin phép lưu ý ngài một lần cuối cùng: Ngài Uyliam cũng đi với chúng ta là một nhà buôn, một nhà tư bản có uy tín ở Oa-Sinh-tơn. Vì sự toàn thắng trong cuộc chiến tranh này, ngài đừng quên điều đó, nhất là trước mặt các cấp dưới của ngài.
- Dạ, xin lĩnh ý ngài – Sơn Hồng xun xoe trả lời. Hắn rút bao thuốc Caraven “A” ra, cầm hai tay dâng lên mời Hâygơ vẻ nịnh nọt. Thoạt đầu Hâygơ định từ chối, nhưng khi nhìn thấy nhãn hiệu của thuốc, hắn thay đổi ý định với một nụ cười nhiều ý nghĩa trên môi. Được Hâygơ ban ơn bằng cách mỉm cười cầm lấy một điếu, Sơn Hồng sung sướng đến mức gã đã nhắc được bộ mặt phì phì những thịt thằng trên cái cổ nhỏ xíu nổi đầy gân, đưa ra một cái nhìn cảm tạ.
Vì đó là một chuyến viếng thăm đột xuất, cho nên ngoài một vài viên sĩ quan giỏi chiến đấu trong các ba, các vũ trường, hộp đêm đang vơ vẩn trên sân, không có ai ra đón đoàn khách đặc biệt này. Các sĩ quan tác chiến, thám báo, thông tin, các sĩ quan dù, lính thuỷ đánh bộ... chạy lên chạy xuống rầm rập như ong vỡ tổ. Quang cảnh thực sự như sắp bước vào một chiến dịch lớn. Hâygơ bước ra khỏi xe, lơ láo nhìn xung quanh. Với thiên tính bẩm sinh của những kẻ nịnh nọt và ưa nịnh nọt, Sơn Hồng hiểu ngay ý của quan thầy qua cái nhìn ấy. Không dám vung vẩy chiếc can chỉ huy, hắn chạy vòng từ bên kia cửa xe sang đứng cạnh Hâygơ, nhún vai than phiền:
- Ngài xem, lúc nào chúng tôi cũng bận rộn. Thời buổi chiến tranh nên thiếu những nghi lễ ngoại giao. Mời ngài.
Sơn Hồng cúi gập người, vòng tay về phía ngôi nhà. Hâygơ chủ động khoác vai hắn bước vào nhà. Uyliam nhìn quanh. Vốn ưa kín đáo, không thích gặp nhiều người, viên trung tá tình báo khoác áo nhà buôn rất khoan khoái khi không phải chịu cảnh tiền hô hậu ủng, đón rước linh đình. Gã nở ngực hít một hơi dài bầu không khí trong lành của buổi sáng miền nhiệt đới, rồi khoan thai đi theo.
Phòng họp của cục nằm ngay trên tầng hai. Khi đoàn người bước vào, căn phòng vẫn vắng tanh vắng ngắt, trừ viên sĩ quan thường trực và viên sĩ quan bảo vệ. Đợi cho hai ngài Mỹ “an toạ” Sơn Hồng hất hàm ra hiệu cho hai viên sĩ quan kia lui ra. Hắn với sâm banh rót rượu vào li. Gã nhớ như in trong đầu thói quen của người Mỹ: uống một li trước khi làm việc cho sảng khoái tinh thần. Đóng vai chủ nhà dễ tính, gã nâng li:
- Xin chúc sức khoẻ hai ngài!
Hâygơ và Uyliam nâng li. Sơn Hồng ngửa cổ trút thứ nước vừa cay vừa đắng mà gã đã nghiền vào cổ họng. Giữa chừng, gã chợt nhận ra hai cấp trên sau khi nâng cốc, đã không uống mà lại đặt xuống mặt bàn đá. Gã ngượng ngùng
vì cử chỉ mất lịch sự (phần nào hơi vô phép) của mình và đặt li rượu uống dở xuống. Để che giấu, gã nói to hơn bình thường. Cái cổ quá nhỏ để rung lên một âm thanh lớn như vậy, cho nên nó thuỗn ra dẫn đến cái mồm há hốc, trông như một cái loa bằng bìa các-tông.
- Xin các ngài cho biết kế hoạch làm việc.
Hâygơ liếc nhìn Uyliam. Uyliam, đầu ngón tay út trắng mượt với móng để dài vẫn gõ gõ xuống bàn, nói mà mắt lại nhìn lên khung kính treo tấm ảnh các sĩ quan của cục phóng to.
- Thứ nhất, ngài cho phép làm việc chung với tất cả các trưởng, phó các phòng, ban ngay tại đây. Thứ hai, tôi sẽ tiếp riêng một số sĩ quan tại phòng làm việc của ngài. Sau đó, tôi sẽ bàn cụ thể hơn với ngài về cái mà chúng tôi đang quan tâm.
- Xin lĩnh ý ngài trung tá E... Hèm, ngài Uyliam, xin lỗi ngài.
Sơn Hồng nói ề à. Gã bấm chiếc nút xanh ngay góc bàn. Không đầy một giây, viên sĩ quan thường trực xuất hiện nơi cánh cửa, vừa mở ra. Viên sĩ quan bảo vệ lấp ló sau lưng hắn.
- Lệnh triệu tập tất cả trưởng, phó các phòng ban. Mười phút nữa có mặt tại đây, mang theo tài liệu đầy đủ.
- Tuân lệnh, thưa thiếu tướng.
***
Hồng Giang ngồi vào bàn, giở tập tài liệu về tình hình bố trí lực lượng đối phương do Phủ đặc uỷ trung ương tình báo vừa cung cấp. Đây là tập tài liệu anh đã chờ đợi lâu ngày, nhưng hôm nay anh không còn tâm trí nào nghĩ đến nó. Câu chuyện tối hôm qua lởn vởn mãi trong đầu. Khi viên thượng sĩ báo tin có ngài Uyliam gọi điện thăm hỏi, Hồng Giang đã reo lên như gặp bạn cố tri, nhưng thực ra, anh mới chỉ trông thấy hắn có một lần.
Đó là ngày anh tốt nghiệp học viện Prin-xbớc khoa tình báo chiến lược. Cả lớp có hai mươi học viên của Thái lan, Mã lai, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xia và Nam Việt nam. Chỉ có mình anh được đánh giá loại “ưu”, nghĩa là có thể ở lại làm việc trong học viện hoặc nghiên cứu tại một cơ quan nào đó trong cái “chính phủ chìm”,“chính phủ thực sự” của Mỹ: cục tình báo trung ương. Buổi lễ ra trường cũng bí mật, im lặng và đầy ắp những sự việc mập mờ khó hiểu như chính bản thân nghề của học viên. Ngoài mười chín học viên (một đã về Mã lai công tác gấp), chỉ có giám đốc học viện, nguyên là phó giám đốc CIA và bốn trưởng khoa. Tất cả ngồi quanh một chiếc bàn gỗ quý đen bóng, với những đường vân trắng muốt. Theo lời viên giám đốc, chiếc bàn này đã được đóng theo lệnh của chính Oa-sinh-tơn, tổng thống đầu tiên của hợp chủng quốc Hoa kỳ, cách đây xấp xỉ hai trăm năm. Sau lời tuyên bố trịnh trọng nhưng lạnh lùng của viên giám đốc, các học viên tốt nghiệp tuyên thệ trước “quốc huy” CIA và nhận chứng chỉ tốt nghiệp. Tuỳ theo từng nước, từng người mà chứng chỉ đó khác nhau. Nhưng dù nước nào đi nữa, thì tất cả những cái gọi là chứng chỉ tốt nghiệp ấy đều giống nhau ở một điều: Đó không phải là những tờ giấy cứng to bản hay một cuốn sổ hai trang có hình quốc huy. Mỗi người một thứ. Hồng Giang nhận được một cái bút bi như những chiếc bình thường. Nó chỉ đặc biệt ở chỗ không phải làm bằng nhựa, mà được làm bằng thuỷ tinh đỏ. Bên ngoài chiếc bút chạm nổi tượng thần tự do tay giơ cao bó đuốc. Phía dưới chân tượng là câu nói bất hủ của Na-pô-lê-ông trong lần tiến quân vào Ai cập: “Đã đến! đã thấy! đã thắng!” bằng chữ La-tinh. Bên trong, chiếc bút có một cấu tạo đặc biệt, rất Mỹ. Thay cho chỗ cắm ngòi bút là một lỗ nhỏ, và không phải khó khăn gì, Hồng Giang cũng hiểu đó là miệng một khẩu súng giảm thanh ám sát. Ở giữa, khi xoay mở nắp bút, một bông hồng nở xoè vàng rực, nhị là ba chữ đen CIA. Ấn vào chữ đó, bộ phận tự huỷ sẽ nổ tung, làm mất dấu vết những gì có bên trong. Bộ phận cuối, cái nút thường để ấn cho đầu bút thò ra lại không phải là một nút nhựa bình thường. Đó là một túi bột trắng: thuốc độc cực mạnh bảng A. Toàn bộ chứng chỉ tốt nghiệp của Hồng Giang như thế đó.
Sau nghi lễ là lúc các cuộc đàm luận tay đôi của những chuyên gia ăn trộm, hối lộ, ám sát và lật đổ. Bầu không khí đang ồn ào thì cửa phòng tự động mở ra, tụt vào trong tường. Bốn người Mỹ nữa bước vào, gật đầu chào từ cửa. Không thấy các vị lãnh đạo đứng lên chào nên cả bọn học viên vẫn ngồi im. Dù sao thì sự có mặt của tốp người kia cũng làm cho câu chuyện phần nào nhạt đi. Bù vào đó, làn khói thuốc đậm dần lên, cuộn tròn thành một tấm màn trắng đục uốn lên trần nhà. Như đã định sẵn, tốp người kia tự động tản ra ngồi lẫn vào bàn. Ngồi cạnh Hồng Giang là một người Mỹ ít nói, có cái nhìn rất đặc biệt. Kiểu nhìn của một bậc đàn anh xem xét các đứa em mình. Không, đúng hơn là kiểu nhìn sâu thẳm lành lạnh của một thợ săn lành nghề đánh giá các con chó săn trước khi thả chúng vào trong rừng tìm mồi. Khi bắt gặp ánh mắt ngạo nghễ, trịch thượng của người Mỹ đó, Hồng Giang thấy má nóng ran, hai tai ran rát như tất cả máu trong cơ thể chỉ chuyển động trong hai vành sụn ấy. Tên Mỹ kia nghiêng người, cố nặn ra một nụ cười thân thiện qua cái nhếch mép khiến cho đôi môi mỏng dính của hắn thoáng chéo như một dấu phẩy dài và đậm.
- Giêm Uyliam, chủ công ty thép Rôbớc Uyliam và con trai. - Rất hân hạnh! – Hồng Giang nghiêng đầu đáp lại.
Theo bản năng nhạy bén, anh đoán ngay tên Mỹ khoác áo nhà buôn đó là ai. Có lẽ đây là người mà anh đang cần chăng? Người có đủ thế lực nhằm giới thiệu và bảo đảm cho công việc sau này của anh chăng? Kinh nghiệm trong nghề báo cho anh biết rằng phải phớt nó, phải kích thích sự tò mò hiếu kỳ của nó. Điều đó sẽ có lợi cho anh hơn. Vì vậy, sau khi đáp lễ, Hồng Giang lại mân mê chiếc bút bi, dường như cả cuộc đời chỉ có ý nghĩa trong cái bút bi ấy.
Quả nhiên, Uyliam tự ái. Từ trước tới nay, chưa một tên da màu hạ đẳng nào du học tại Hoa kỳ lại dám phớt lờ hắn, một khi hắn đã hạ cố tự giới thiệu trước. Uyliam nhún vai, quay sang gợi chuyện với một tên học viên khác. Tên kia mừng rỡ, được dịp thổ lộ tâm trạng biết ơn và những lời hứa hẹn trời
biển. Hắn nói huyên thuyên về sứ mạng đặc biệt của hắn sau khi ra trường, về việc chưa đi mà đã nhớ đất nước giầu có nhất “thế giới tự do” này. Hắn còn cao hứng mời Uyliam sang thăm đất nước và đầu tư vốn vào kinh doanh ở đó. Uyliam thầm khinh bỉ tên này. Thùng rỗng bao giờ cũng kêu to. Gã thích những chàng trai như con người láo xược ngồi cạnh hơn. Đẹp trai, vạm vỡ, ít nói và hơi kiêu kỳ một chút, đó là sức mạnh của một người đàn ông. Không nén được trí tò mò (gã lấy làm tiếc vì sao chưa tìm hiểu kỹ tụi học viên – phải chăng tên này là người đứng đầu bảng?), gã quay sang bắt chuyện.
- Ông thấy chiếc bút này thế nào?
- Đánh giá nó bây giờ, tôi e hơi sớm – Không nhìn Uyliam, Hồng Giang nhún vai trả lời.
- Nhưng tôi sợ với ông, xin lỗi, khi hiểu hết giá trị của nó thì hơi muộn – Uyliam dùng một ngón đòn gió.
- Thưa ngài, chưa bao giờ, và có lẽ không bao giờ tôi có ý định tìm hiểu kĩ càng một vật gì. Mọi thứ, đối với tôi, cũng như một cuốn sách, chỉ có ý nghĩa khi chưa hiểu hết.
- Ông là một con người kì lạ!
- Xin lỗi ngài, không như thế mới là kì lạ.
Cả hai cùng cười tỏ vẻ hiểu biết lẫn nhau. Trước khi viên giám đốc học viện rút khăn thấm vài giọt rượu trên mép (cử chỉ báo hiệu kết thúc buổi lễ), Uyliam hỏi vẻ chân thành:
- Ông có nguyện vọng đi đâu sau khi rời khỏi đây? Tôi có thể giúp gì được chăng?
- Xin cảm ơn ngài. Hiện giờ tôi muốn hành động.
- Tôi sẽ giúp thiếu tá thực hiện nguyện vọng cao cả đó, tuy tôi chỉ là một nhà buôn bình thường. Tuy nhiên, thế giới này chỉ có một Giêm Uyliam...
- Dù có trăm nghìn nhà tư bản khác, có phải thế không, thưa ngài – Hồng Giang tiếp lời gã một cách khéo léo.
Một tuần sau, Hồng Giang được lệnh về làm trợ lý cố vấn cho tiểu ban Đông – Nam Á của cục tình báo trung ương... Thấm thoắt thế mà đã bẩy năm rồi. Hồng Giang đã được thăng cấp trung tá. Nghe mấy người thân cận của Sơn Hồng xì xào là còn chuẩn bị được thăng lên đại tá nữa. Còn Uyliam, trong thời gian ấy, gã đi những đâu? Liệu sự xuất hiện của gã tại đây, trong thời điểm này có phải là ngẫu nhiên không? Có thể tranh thủ được những gì ở gã?...
- Thưa trung tá, có lệnh của ngài cục trưởng.
Một giọng nói đột ngột vang lên sau lưng, dứt Hồng Giang ra khỏi dòng kí ức triền miên. Anh quay lại. Viên sĩ quan thường trực đã đứng giữa cửa, nét mặt quan trọng:
- Thiếu tướng cục trưởng triệu tập họp gấp. Trung tá nhớ mang theo tài liệu. Có hai ngài cố vấn tới dự đó.
- Cảm ơn đại uý.
Sau cuộc họp, Hồng Giang định về phòng thì Sơn Hồng ngăn lại:
- Trung tá hãy khoan. Các ngài đây muốn làm việc riêng với trung tá. – Quay sang Hâygơ và Uyliam, Sơn Hồng xun xoe – Đây là ngài Hâygơ. Còn đây là...
- Xin lỗi thiếu tướng, chúng tôi đã quen nhau từ lâu. Có phải không, trung tá? Uyliam cắt ngang lời Sơn Hồng, đứng dậy bắt tay Hồng Giang. Hồng Giang mỉm cười vồn vã, bóp mạnh tay Uyliam, nhìn thẳng vào mặt hắn.
- Ô-kê, khá lắm. Vẫn là chàng trai đầy sức mạnh và nhiệt tình của Prin-xbớc năm xưa. – Uyliam vỗ vỗ vào vai Hồng Giang, nói to – À, xin nói thêm là vẫn tràn trề sự hấp dẫn đối với phái đẹp nữa chứ. Không biết có đôi mắt xanh nào ngự trị được trong trái tim nóng bỏng này chưa?
Gã vui mừng thực sự, bởi vì tin chắc vào sự nhận xét chính xác về người khác của bản thân. Chính gã đã giới thiệu trực tiếp Hồng Giang với Uyliêm Cônbi. Và khi sang đây, gã còn mang theo yêu cầu của Cônbi đối với con người kiêu kì này. Vẫn không rời tay Hồng Giang, Uyliam quay sang Sơn Hồng, bấy giờ đang ngẩn người vì ngạc nhiên và ganh tị, nói rất lịch sự, nhưng cũng không kém phần cương quyết:
- Xin lỗi, chúng tôi muốn nói chuyện riêng với nhau.
Sơn Hồng tức sôi máu, nhưng không dám phản ứng gì. Lão tự an ủi, dù sao thì cú hợp đồng có một không hai trong lịch sử Việt Nam cộng hoà đã nằm trong túi gã. Đó là chuyến áp phe 420 tấn đồng và máy móc quân sự từ căn cứ Long bình, dự định đưa xuống tầu Đồng nai, chuyển đi Xanh-ga-po mà Hâygơ vừa dúi cho lão với giá phải chăng. Vị cục trưởng tác chiến của cái gọi là quân lực Việt Nam Cộng hoà phưỡn bụng, nện gót giầy đi sang phòng bên.
Gã không để ý viên sĩ quan bảo vệ đứng nép sát vào tường nhường lối đang há hốc mồm ngạc nhiên: ngài thiếu tướng hôm nay lại đang ư ử hát.
Trong phòng, ngay sau khi cánh cửa có lắp tấm cách âm vừa khép lại, không khí thay đổi hẳn. Uyliam nhìn chằm chằm khuôn mặt thanh tú của Hồng Giang như để ước lượng, rồi đi thẳng vào vấn đề:
- Trung tá nghĩ thế nào về vụ Rồng lửa?
- Thế còn ngài? – Hồng Giang hỏi lại.
- Trung tá không được lịch sự cho lắm. Tất nhiên tôi đã sơ bộ đánh giá tình hình và đã trao đổi với ngài Hâygơ đây – Uyliam nghiêng người về phía Hâygơ – Song tôi muốn biết ý kiến riêng của trung tá.
- Ý kiến của tôi ư? Có lẽ còn hơi sớm để nhận định, nhưng thiết tưởng, trong các ngài, hoặc ở phân cục, hoặc ở U-xét (USAID), hoặc ở DAO có kẻ phản bội.
Không ngờ Hồng Giang lại nói như vậy, cả Hâygơ và Uyliam giật thót mình. Bây giờ định nói điều gì đấy, nhưng sau lại thôi, làm cái miệng hơi he hé để lộ hai chiếc răng vàng bắt ánh đèn sáng choé. Uyliam, sau phút bất ngờ, trấn tĩnh lại và cười to:
- Tôi biết, tôi biết mà. Trung tá là người luôn luôn có những ý nghĩ táo bạo, và có lẽ vì thế không tránh khỏi nông nổi. Ý tôi muốn nói là những ý kiến đó không tránh khỏi chủ quan. Trung tá có thể nói rõ hơn được chứ?
- Thưa ngài, điều rõ ràng hơn cả là cho đến phút tôi hân hạnh ngồi tiếp chuyện ngài, chưa có mấy ai biết rõ Rồng lửa là gì. Đó là kế hoạch của bộ tư lệnh liên quân do tướng Scốt làm tư lệnh. Quân lực Việt Nam cộng hoà chỉ biết từng phần thuộc về nhiệm vụ yểm trợ ngoại vi. Toàn bộ kế hoạch chỉ được biết trước sáu giờ đồng hồ. Với thời gian ấy, không ai có thể lắp cánh bay về đây – Hồng Giang cầm lấy chiếc gậy bịt đồng chỉ lên điểm đỏ trên bản đồ có hàng chữ U minh.
Toàn bộ vùng xanh U minh hạ, U minh thượng nổi bật lên do một chiếc bóng đèn phía sau vừa bật sáng. Hồng Giang nói tiếp:
- Còn dùng vô tuyến thì càng không thể tin được. Bộ phận kiểm tra vô tuyến phối hợp giữa Cục tác chiến, Cục an ninh và Phủ đặc uỷ trung ương tình báo đã gác liên tục hai mươi tư trên hai mươi tư giờ một ngày. Không có tín hiệu lạ trừ ngày hôm qua. Do đó...
- Làm lộ là sơ xuất của phía chúng tôi. Trung tá định nói thế chứ gì – Uyliam ngắt lời.
- Thưa ngài, nói thật chính xác thì tôi không dám kết luận. Nhưng nói chung là như vậy.
- Vậy trung tá có đề xuất gì?
- Nhưng thưa ngài, với tư cách nào ạ? Tôi chỉ là một trợ lý... - Và còn là trung tá tình báo chiến lược nữa chứ?
- Vâng, thưa ngài. Tôi muốn nói là kiểm tra toàn bộ các sĩ quan Hoa kỳ có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào vụ Rồng lửa.
- Còn sĩ quan Việt Nam thì sao? Người Mỹ chúng tôi thường có suy nghĩ: “Hoài nghi tất cả”.
- Vâng, câu nói của ngài buộc tôi phải suy luận rằng cụ tổ của ngài là người Sông Ranh[3]. Hơn nữa, người Đức còn có một câu nghe cũng hay hay: “Không có gì thuộc về con người mà lại xa lạ với tôi”.
- Ha ha ha – Cả Uyliam và Hâygơ cùng cười phá lên – quả thật ngài Cônbi đã không nhầm khi tìm thấy trung tá giữa đám sinh viên lau nhau ở Pari năm 1953.
Rồi sau khi nhìn Hâygơ như dò hỏi, Uyliam tắt ngay nụ cười. Gã nói chậm rãi, lanh lảnh như có chất thép, khiến Hồng Giang nghĩ tới hai thanh thép mỏng va vào nhau giữa hang đá lạnh đêm đông.
- Đủ rồi. Bước đầu giữa trung tá và chúng tôi đã tìm thấy một sợi dây giao cảm. Về vụ Rồng lửa, ý kiến của trung tá sẽ được xem xét kỹ tại cục an ninh bộ tư lệnh Thái bình dương. Vấn đề bây giờ là bàn kế hoạch Z1 mà ngài Hâygơ đây đã có nhã ý đặt tên Viôlét. Lúc này, ngài Hâygơ đã trình bầy dự án của Bộ tư lệnh liên quân. Theo tướng Scốt, với năm sư đoàn Hoa kỳ, sư đoàn “ngựa bay” Nam hàn, hai sư đoàn yểm trợ của quân lực Việt Nam cộng hoà, chắc chắn mục đích của chúng ta sẽ đạt được. Đối phương chỉ có tại đây sư đoàn 3, một phần của sư đoàn 7 và hậu cứ sư đoàn 9. Bản kế hoạch hiện giờ nằm trong tay tướng Sơn Hồng. Trung tá phải nhìn vào đấy. Kẻ thù của chúng ta cũng đang nhằm vào đấy. Biết đâu... – Uyliam vòng hai cánh tay dài có những ngón trắng lều ngều dứ dứ một điểm vô định trên không rồi bắt chộp lấy. Hồng Giang nhếch mép cười:
- Tôi hiểu ý ngài.
- À, xin lỗi, quên mời trung tá hút thuốc – Uyliam đổi nét
mặt, cười cười. Gã rút trong cặp ra hộp thuốc Craven “A”, bóc chỉ giấy dán viền quanh, gõ gõ rồi mời Hồng Giang.
- Cám ơn ngài. – Anh rút lấy một điếu, đưa lên mũi ngửi rồi đặt xuống bàn. – Nhưng tôi thích thứ tôi quen dùng hơn.
Vừa nói, anh vừa rút bao Capstan loại đặc biệt ra để trên bàn. Uyliam nhìn theo từng cử chỉ của Hồng Giang. Chợt bắt gặp ánh mắt của Hồng Giang vừa ngước lên, gã hơi lúng túng, cười xoà chuyển sang chuyện khác:
- Không hiểu trung tá còn nhớ Hoa kỳ không?
- Thưa ngài, ngay cả trong giấc mơ, tôi cũng thấy những bông tuyết trắng và nhẹ đậu bên cửa sổ Prin-xbớc.
- Nếu như giấc mơ thành sự thật thì...
- Còn gì bằng, thưa ngài. Tôi vẫn ao ước một ngày như vậy.
Từ nãy tới giờ, Hâygơ vẫn ngồi im. Vốn không tin người Việt (mà thực ra gã chẳng tin ai ngoài chính bản thân), hắn cũng không tin gì viên trung tá đẹp trai đang ngồi trước mặt. Thông minh, đẹp trai, to khoẻ, có hiểu biết sâu rộng... đó không phải là những đức tính Hâygơ ưa thích. Theo hắn, mọi người dân ngoại quốc cần phải (và thường) ngu đần, tham tiền, háo sắc. Không lạ gì thực chất cái xã hội mà hắn đang thờ phụng. Hâygơ cho rằng đó chính là lý do tồn tại trong mọi mối quan hệ “hữu hảo” giữa Hoa kỳ và các nước khác. Vì vậy, hắn đã tìm gặp cha xứ Bắc kỳ thời trước Đờ Pu-lê, người giới thiệu Hồng Giang, gặp viên giám đốc học viện Prin-xbớc để hỏi thăm về viên trung tá kỳ lạ ấy, mặc dù đã nghe rất nhiều lời khen của Cônbi, Đalét, Uyliam... Dưới con mắt của Hâygơ, Hồng Giang có thể nuôi dưỡng để trở thành một chính khách chắc chắn và hiệu quả hơn Nguyễn Văn Thiệu. Không phải gã chủ tịch “Hội đồng cách mạng” Sài Gòn này xuất thân từ quân khố đỏ của Pháp, từ trung tá mà ngài Ca bốt-lốt đã rút từ túi áo ra đó sao. Nhưng nếu như viên trung tá kỳ lạ này có một tham vọng khác? Thật là đáng sợ, Hâygơ cau mày khi nhớ lại điều nghi ngờ mới nẩy ra trong đầu. Hắn
rút trong túi ngực ra một tập ảnh, xoè ra trên năm ngón tay như xoè bộ bài tú lơ khơ, rút ra một tấm ngắm nghía. Đang nói chuyện rất sôi nổi với Uyliam về nền kiến trúc phương Tây thời Phục hưng, Hồng Giang vẫn nhận thấy những thay đổi thoáng qua trên bộ mặt của gã phân cục trưởng CIA – Sài gòn, gã đang có một mưu đồ gì đây. Hồng Giang tin Hâygơ đang chơi một ván bài, trong đó mỗi con bài đều có một vai trò không nhỏ. Anh đã sẵn sàng. Thấy Hồng Giang chợt nói hơi nhỏ đi, Uyliam săn đón:
- Có lẽ trung tá hôm nay hơi khó ở?
- Ngài quả là người có cặp mắt tinh tường. Hôm qua tôi gặp một số chuyện không vui.
Như đã đợi sẵn, Uyliam chưa kịp hỏi thêm thì Hâygơ đã chìa một tấm ảnh ra trước mặt Hồng Giang. Hắn hỏi vồn vã:
- Hẳn trung tá quen biết người này?
Hồng Giang nhún vai, đón lấy tấm ảnh. Không phải ai khác lạ, đó chính là tên chiêu hồi tối hôm qua. Với cỡ 9x12, người xem có thể thấy những nét đặc biệt trên khuôn mặt. Anh liếc qua chữ A.7 mờ mờ góc trái tấm ảnh, rồi đột nhiên cười phá lên vui vẻ, làm Uyliam ngơ ngác, còn Hâygơ thì thoáng cau mày:
- Người quen của trung tá chăng?
- Vâng, có lẽ tôi biết thì đúng hơn. Trong một trường hợp rất lý thú khiến tôi liền tưởng tới một cuốn truyện trinh thám nào đó.
- Trung tá biết? – Hâygơ hỏi tiếp ngay, Uyliam tò mò muốn xem tấm ảnh. Gã đứng lên, gập người nhìn qua bàn.
- Thưa ngài, đây là một tên thám tử hạng bét. Chiều qua, nó định khử tôi ngay góc rạp Mini Rex. Tôi mới làm quen sơ sơ, nó đã bò ra đường. Không thích nhúng tay vào những chuyện lôi thôi nên tôi đã để mặc nó cho cảnh sát. Chắc bây
giờ nó vẫn còn gục trong Chợ Quán hay Chợ Rẫy[4] gì đó. – Hồng Giang thản nhiên kể, cố ý ra vẻ khoe khoang kiêu hãnh. Anh cầm lấy điếu Capstan trong cái bao từ nãy giờ vẫn nằm chỏng chơ bên bao thuốc của Nữ hoàng Anh, lục tìm mãi bật lửa trong túi quần. Bên ngoài bình thường nhưng trong đầu óc anh căng lên suy nghĩ: Đêm qua anh chỉ nghĩ tên phản bội này thuộc bộ chiêu hồi Sài gòn. Vậy ra hắn là người của Hâygơ? Liệu cái thằng khốn nạn mang mật danh A.7 này đã biết gì về chú bé và viên giấy chiều qua chưa? Hồng Giang tự rà lại trong óc những chi tiết chiều qua. Không! Không có gì đáng ngại cả, trừ cành viôlét...
Uyliam đang muốn nghe tiếp chiến tích của viên trung tá. Gã lại nhoài người ra, bật lửa cho Hồng Giang. Đợi cho Hồng Giang bập bập mấy hơi, gã hỏi ngay:
- Sao, đo ván chứ? Câu chuyện thế nào?
Hồng Giang không trả lời Uyliam. Anh nhìn thẳng vào mặt Hâygơ hỏi vui vẻ:
- Ngài bắt được nó rồi phải không? Giá tôi được hỏi thăm nó một chút thì cũng hay đấy.
Hâygơ không chờ đón một câu hỏi như vậy.
Hắn làm mặt lạnh không trả lời. Viên sĩ quan bảnh trai kia có vẻ có bản lĩnh vững vàng, nhưng cứ đợi xem sao. Nếu Hồng Giang là tên phản bội, thì con bài trước sau cũng sẽ bị lật tẩy. Vả lại, nếu đoán đúng thì không sao, nếu sai thì Cônbi, với quyền phó giám đốc CIA, chắc không thể để cho Hâygơ yên. Tốt nhất là tìm phương sách khác. Nghĩ vậy, Hâygơ đứng dậy, chìa tay ra trước mặt Hồng Giang:
- Tôi cũng như trung tá đều rất bận. Hôm nào mời trung tá tới chỗ tôi. Chắc sẽ có nhiều câu chuyện hay hơn.
- Xin cảm ơn ngài – Hồng Giang đứng dậy.
Uyliam đứng dậy theo. Vốn ưa tính cách của Hồng Giang,
Uyliam không hiểu những điều trao đổi giữa hai người có một ý nghĩa gì. Mình phải tự tìm hiểu xem – Hắn tự nhủ.
Hồng Giang tiễn hai người xuống tận sân. Dọc theo những bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng, ba người đi lặng lẽ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ khác nhau.
***
Về đến biệt thự gần rạch Cầu Bông, sát trụ sở USMACV (bộ chỉ huy yểm trợ quân sự Mỹ), Hâygơ đi thẳng vào phòng ngủ. Gần như thả mình rơi xuống chiếc đi-văng, Hâygơ vươn vai. Xương sống dãn ra kêu răng rắc. Một sự mệt mỏi tê mê bao trùm lên từng khớp xương, từng thớ thịt. Hắn chợt nhớ ra đêm qua hầu như thức trắng. Sau cuộc họp với ba viên tướng Sài gòn, cả buổi tối hắn ngồi im lìm rít xì-gà, nhấp từng ngụm cà-phê Braxin đặc sánh. Hắn suy tính kế hoạch tìm thủ phạm vụ Rồng lửa. Phải nói địch thủ rất cao tay. Một lần nữa, hắn lại giật mình trước bàn tay nguy hiểm vô hình đã thò vào các két sắt của quân đội Mỹ, lấy đi mọi thứ. Lần trước, kẻ giấu mặt nào đó đã trao bản kế hoạch đưa lục quân Hoa kì vào tham chiến tại miền Nam cho cộng sản.
Hôm ấy, chính ngài Râu-giơ, rồi nửa tiếng sau, ngài Cônbi gọi điện thoại đường dây nóng tìm Hâygơ. Trong một vài câu trao đổi thông thường có tính chất ngoại giao, có một câu chung của cả hai người “Anh có nghe đài Hà Nội không?”. Đó là vào 12 giờ đêm, khi hai lớp cửa kính chống đạn bắn thẳng nhìn ra con rạch ngầu bọt lấp loáng đã đóng lại. Hâygơ toát mồ hôi hột, mặc dù chiếc máy điều hoà không khí vẫn kêu è è đến khó chịu dưới gầm giường. Hắn biết có điều gì liên luỵ đến hắn đã xẩy ra. Không chờ được đến sáng, hắn lệnh cho trưởng phòng tình báo tổng hợp mang ngay các tin bài của đài Hà Nội lên phòng ngủ. Đến khi tận mắt nhìn bản dịch tiếng Anh buổi thời sự, hắn vẫn không tin. Những hàng chữ nhảy nhót, chen lẫn nhau, ùa cả vào thị giác Hâygơ. Mắt y loá đi, tưởng chừng như những con chữ đen đã biến thành ngàn vạn con đom đóm bay loạn đêm hè nhiệt đới. Sư đoàn bộ binh số một con đang trên đường đi thì đài Hà nội đã cáo
giác dư luận quốc tế về các đơn vị tiếp theo. Con số và thời gian suýt soát với kế hoạch mang tên mật 465-US... không cần phải đợi lâu, tin tình báo cho biết quân đội Bắc Việt Nam tập trung xung quanh cao điểm 36, và ngay sau đó là tin về trận Núi Thành. Một đại đội bộ binh Hoa kỳ đã ngã gục dưới lưỡi lê quân đội Bắc Việt Nam...
Từng lê la khắp Rôm, Đài Bắc, Cai-rô, Đa-mát, Béc-lin, Hâygơ đã tự cho mình là nắm được ít nhiều bí quyết của cuộc sống của con người. Chân lý nằm trong những tập giấy màu xanh tính giá trị bằng vàng. Ôi, sức mạnh của đồng đô la. Nhưng đến cái xứ sở nhiệt đới này... chính quyền Sài gòn, quân đội Sài gòn tiêu thụ đô-la nhiều hơn bất cứ một chính quyền nào, một quân đội nào trong thế giới tự do, thế mà ai dám chắc có thể tin cậy được?
Nhớ lại hình ảnh một gã khoác áo nhân viên ngoại giao, rất sung sức và kiêu hãnh xách vali từ giã Pari hoa lệ tới Sài gòn, Hâygơ mỉm cười chua chát. Một tháng sống trong cái địa ngục đầy máy điều hoà và em-pi Mỹ, đầy gái nhẩy và những trận tiến công bất ngờ, đầy những tên phản bội và bọn tình báo cộng sản này, dài hơn mấy năm ở nơi khác. Còn Rồng lửa, còn Viôlét? Còn nữ liên lạc mang tên Hoàng Lan vừa bị bắt kia? Chi tiết về năm mẩu thuốc Caraven “A” mà Uyliam vừa kể trong bữa ăn chiều khiến Hâygơ trằn trọc mãi. Viên thượng sĩ lái xe đó là ai? Liệu vô tình hay thật sự có liên quan đến chiếc cặp da đựng Viôlét? Uyliam khăng khăng tin vào cảm giác, nhưng chưa có gì là bằng chứng cả. Hâygơ tôn trọng khả năng nghề nghiệp của Uyliam, nhưng hắn không tin tất cả những gì là cảm giác (trừ cảm giác của chính hắn – tất nhiên). Hâygơ nhỏm dậy tắt máy điều hoà nhiệt độ rồi mở tung cửa sổ. Một luồng không khí nóng ập vào phòng. Bất giác Hâygơ nhớ lại chuyện xẩy ra buổi tối hôm qua khiến hắn bắt đầu nghi ngờ viên trung tá Hồng Giang. Phải, cũng đúng vào giờ này, khi đứng bên cửa sổ đau đầu suy nghĩ hắn thấy chiếc xe ô tô Trai-âm-pho của Sácli đang nháy đèn qua cổng. Dừng ngay trước cửa lớn, Sácli vội vã bước ra khỏi xe, đi như chạy lên thềm. Tiếng gót giầy mang cá sắt làm náo động cả đêm yên tĩnh của biệt
thự. Lại có chuyện gì rồi. Hâygơ cúi người nhìn theo rồi đóng cửa sổ lại.
Vừa quay vào bàn, Hâygơ đã thấy tiếng chuông réo lên từng hồi, khẩn khoản. Hắn bấm nút điện. Cánh cửa từ từ mở ra, để lộ khuôn mặt tái nhợt vì xúc động của Sácli. Viên thư ký bước ngay vào, vừa báo cáo vừa thở hổn hển:
- Thưa ngài, tôi vừa ở nhà thương Chợ Quán về. - Sao? Có chuyện gì?
- A.7 vừa bị đánh ngay gần Mini Rex.
- Sao? Bị ai đánh? Hừ, chắc lại chòng ghẹo mấy con nhỏ, bị nó nện cho chứ gì. Đừng có dại đi đêm một mình. Cái xứ này dữ lắm.
- Không, thưa ngài, A.7 bị một tên cải trang thành trung tá Sài gòn đánh. A.7 đã nhận được mặt: đó là một tên trước cùng học với y tại Hà nội.
- Thế thì sao?
- Hồi đó, tên này tham gia tổ chức của Việt Minh. Hồi chiều, A.7 nhận ra hắn trong vũ trường Đêm mầu hồng, tay cầm một cành... dạ thưa ngài, hình như là cành Viôlét...
Hâygơ sửng sốt. Hắn bắt đầu cảm thấy sự rắc rối của câu chuyện. Sự việc này thế nào nhỉ? Tên trung tá kia là ai? Sao lại loại trừ khả năng đó là một sĩ quan chính cống của Quân lực Sài gòn? Và có dính dáng gì đến Rồng lửa, đến Viôlét, và mọi tình huống đáng ngờ xẩy ra, hắn luôn luôn liên hệ với thất bại đó. Suy nghĩ giây lát, Hâygơ hất hàm hạ lệnh cho Sácli:
- Anh xuống chuẩn bị xe. Báo thêm hai em-pi đi cùng. Tôi sẽ xuống ngay. Anh lái lấy.
Không đầy mười lăm phút, Hâygơ và Sácli đã có mặt tại
phòng bệnh đặc biệt của nhà thương Chợ Quán. Con bệnh mang tên A.7 đã tỉnh, kể lại toàn bộ sự việc vừa xẩy ra. Hâygơ lặng yên nghe, không ngắt lời. Trong thâm tâm, hắn chỉ tin một phần mọi diễn biến qua lời con bệnh, nhưng tuyệt đối chú ý đến chi tiết viên trung tá cầm cành viôlét, ngồi trong vũ trường Đêm mầu hồng đến chiều nay là chiều thứ hai rồi, đợi một con “mèo” nào đó.
Rồi làm như chợt nhớ ra, Hâygơ lấy ra một bộ ảnh cỡ nhỏ trong chiếc cặp nâu từ nãy tới giờ Sácli vẫn ôm khư khư trước bụng. Hắn lục tìm lấy tấm ảnh dày gần gang, xoè ra trước mặt A.7.
- Có viên sĩ quan đó trong số này không?
Người mang tên A.7 nhìn qua, rồi nhỏm cả người dậy. Sự cố gắng đó làm khuôn mặt tái nhợt vì mất máu của y càng trắng bệch, trông như nặn bằng sáp. Gã run run chỉ tay vào một tấm, thều thào:
- Đó... đó... chính... ông này.
Cả Hâygơ và Sácli cùng chụm đầu vào tấm ảnh. Chẳng phải ai xa lạ chính là ảnh trung tá Hồng Giang.
- Có đúng người này không? Hâygơ hỏi lại.
- Thưa ngài, con không thể nào nhầm được.
Hâygơ rút khăn mùi xoa lau mặt, cố kéo dài thời gian để giấu đi sự lúng túng trước mặt cấp dưới và các thuộc hạ. Hắn đã biết rằng, Hồng Giang về đây chính theo sự giới thiệu của Uyliam, Cônbi. Hơn nữa, trong số rất ít những người cộng sự với Hồng Giang bên kia Thái bình dương, chưa có một ai nghi ngờ hay chê bai gì viên sĩ quan trẻ đầy tài năng ấy cả. Ngay đến Uyliam, phái viên đặc biệt của Cục nằm bên cạnh Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Thái bình dương của Hoa kỳ, trong những lần gặp trước đây ở Ha-oai hay Caliphocni đều khen ngợi viên trung tá kỳ lạ đó. Hâygơ nhớ rằng, trong bảng khai đã được thẩm tra rất kỹ lưỡng của Hồng Giang có
đoạn nhận đã hoạt động trong một tổ chức dính líu đến cộng sản hồi còn học sinh tại Hà Nội, nhưng để phá tổ chức ấy. Điều này, chính Đức Giám mục Đờ Pu-lê đã xác nhận và khen ngợi, và còn ghi rõ trong hồ sơ của phòng nhì Quân đội viễn chinh Pháp... Nhưng con mèo đó là ai? Chẳng lẽ viên sĩ quan nổi tiếng là băng giá trong tim kia lại “say” mèo đến mức bỏ buổi chiều ngồi đợi sao? Và bông hoa viôlét kia có nghĩa gì chăng? Một sự trùng hợp lạ kỳ với bản kế hoạch tiến công đặc biệt mang tên Mỹ: Gianxon Xiti... Một sự trùng hợp ngẫu nhiên với cơn mê của liên lạc viên cộng sản Hoàng Lan chăng? Đi sâu một tí nữa, giả thiết con mèo đó là Hoàng Lan thì sao? Vậy thì chính viên trung tá này là...
Với sự tinh ý đặc biệt của những con chó săn nòi A.7, nhận ra ngay điều mình nói đã làm quan thầy chú ý. Như vậy, viên sĩ quan kia phải là loại được ưu đãi đặc biệt của người Mỹ. Vừa chăm chú quan sát nét mặt Hâygơ, A.7 vừa nói với vẻ thiếu tự tin:
- Nhưng... cũng có thể con nhầm. Không... thưa ngài... viên sĩ quan đó đúng là người này... nhưng con có thể nhầm ngay từ bước đầu tiên... Vâng... tại con thiên nga nó báo cho con... Vâng, thời buổi này thiếu gì bọn cộng sản cải trang. Chắc là con nhầm. Làm sao lọt qua được mắt ngài?
Hâygơ lặng thinh, không chú ý nghe lời thanh minh tội nghiệp của A.7. Hắn đóng cặp, nheo mắt nhìn tên kia:
- Anh cứ nghỉ ngơi. Ông Sácli đây – Hâygơ khoát tay về phía viên thư ký đang đứng cuối giường – sẽ thưởng sau.
Đã định quay đi, nghĩ thế nào gã cúi xuống nhìn vào mặt A.7:
- Chiều mai anh có thể đi làm tiếp một nhiệm vụ nữa được chứ?
- Dạ thưa ngài, con xin sẵn sàng.
- Phải tìm mọi cách bắt sống thằng nhỏ đánh giầy về đây.
…Đôi lông mày rậm ri của Hâygơ vẫn cau lại phản ánh nỗi day dứt hắn mang trong đầu. Chợt hắn quay lại, bước đến bên bàn nhấc ống điện thoại lên:
- Alô! Ngài Uyliam đấy à? Tôi, Hâygơ đây...
- Có chuyện gì khẩn khiết vậy, thưa thiếu tướng? – Giọng Uyliam đầy vẻ lo lắng.
- Không có gì đáng ngại đâu – Hâygơ vội trấn an Uyliam. Chuyện vặt thôi. Tôi muốn ngài hãy khoan báo cho trung tá Hồng Giang biết ý định của ngài Cônbi về việc chuyển ông ta về Mỹ...
- Ồ, thiếu tướng đã biết tiểu ban Đông Nam Á đang cần sự có mặt của viên trung tá nổi tiếng về sự am hiểu mảnh đất hấp dẫn nhưng vô cùng dữ dội này.
- Tôi hiểu. Tôi hiểu! Nhưng ngài hãy khoan cho anh ta biết tin này. Được chứ?
- Tất nhiên. Nếu đó là yêu cầu của thiếu tướng. - Xin cảm ơn. Chúc ngủ ngon.
- Cảm ơn lời chúc tốt lành của thiếu tướng. Cũng xin chúc lại ngài như vậy.
Hâygơ còn suy tính hồi lâu rồi mới tắt đèn, lên giường nằm. Hắn không biết rằng ngay sau lúc nói chuyện với hắn, Uyliam đã gọi điện thoại cho Hồng Giang.
***
Về phòng làm việc, Hồng Giang đi đi lại lại trên nền đá hoa, suy tư hồi lâu. Từng ô vuông nhiều màu vằn vện khác nhau nối tiếp, làm người ta khó xác định đâu là điểm bắt đầu. Vết gắn xi măng rất đẹp, gọn, nhưng cũng rất kín. Nếu như có giấu một vật gì đó dưới nền, thì muốn tìm, chỉ có cách nhanh nhất là cậy lên một viên nào đó tại một điểm xác định sự
nghi ngờ nào đó. Chín mười chín phần trăm sự phán đoán trong những trường hợp đó là sai. Nhưng dù sao cũng còn một phần trăm dẫn tới điểm bí mật. Ý nghĩ về những viên đá hoa lát nền nhà đến bất ngờ với Hồng Giang, loé lên như một tia chớp, rọi vào mớ rối rắm những sự kiện kia.
Anh biết anh đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng là để lộ dấu chân của mình. Anh đã bị một cái đuôi bám theo, tuy rằng đã cắt một cách bất ngờ và đúng đắn. Một điều nữa, tuy tình cờ, là ám hiệu anh cầm tay lại trùng hợp một cách ngẫu nhiên với tên kế hoạch bí mật kia, chắc chắn tên phản bội không biết điều đó, song nếu như nó kể lại cho Hâygơ nghe thì sao? Hồng Giang không sợ những nguy hiểm đang chờ đợi mình. Anh chỉ lo tất cả những điều ảnh hưởng đến nhiệm vụ. Nếu có chuyện gì thì cả cuộc đời anh, cả tính mạng anh cũng không thể thanh minh được. Lương tâm anh không cho phép.
Hồng Giang lại nhớ đến chú bé đánh giầy với một lòng thông cảm, phải nói là biết ơn nữa. Chú đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc tới mức không thể ngờ được. Trong thành phố có hơn ba vạn trẻ mồ côi lang bạt khắp các đầu đường xó chợ, hình thức liên lạc ấy đỡ bị lộ hơn. Mình phải báo cáo về việc này mới được. Dùng hình thức gái làm tiền lộ quá rồi, dễ bị địch phát hiện. Vả lại, các ba, các vũ trường giờ đây nhung nhúc bọn thiên nga. Chú bé làm anh ấm lòng. Không, dù hàng ngày hàng giờ sống giữa hang ổ quân thù, cái chết dõi theo từng bước, nhưng nhân dân, Đảng vẫn ở bên anh, che chở, dìu dắt anh từng bước hoàn thành nhiệm vụ.
Còn bản kế hoạch, giờ nó nằm đâu? Ở nhà riêng của Hâygơ hay ở cơ quan cục tác chiến? Rõ ràng trong buổi họp lúc nãy, Hâygơ đã trao cho Sơn Hồng toàn bộ bản tài liệu trong khi chỉ trao cho mỗi sĩ quan nhưng vấn đề liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ của phòng ấy. Nhưng việc Hâygơ trao điều tối mật đó cho Sơn Hồng trước mặt tất cả mọi người sao? Điều đó không thể tin được. Cuộc nói chuyện tay ba giữa Hâygơ, Uyliam và Hồng Giang đã chứng tỏ như vậy. Hắn đã tỏ ra nghi ngờ. Và như vậy, có khả năng từng phần bản kế hoạch
trao cho các phòng là thật, nhưng bản trao cho Sơn Hồng là giả. Và như thế thì đó chính là một cái bẫy giương ra. Tại sao không thể giả thiết như vậy? Nhưng như thế thì Sơn Hồng sẽ chỉ đạo như thế nào? Không có lý. Có thể tủ tài liệu là một cái bẫy, nhưng khó có thể nó lại chứa tài liệu giả. Cái bẫy mà Hâygơ giương ra, đặt ở nhà riêng hay phòng làm việc của Sơn Hồng? Còn Uyliam, gã đóng vai trò gì trong vở kịch này? Vốn biết thái độ của gã đối với mình, Hồng Giang không tin gã là mặt trái của Hâygơ. Nhưng...
Một hồi chuông điện thoại réo lên:
- Hê lô, có phải trung tá Hồng Giang đó không? - Ai đó?
- Uyliam đây – một chuỗi cười vui vẻ vang lên trong ống nghe, rồi có tiếng khàn khàn, lạo xạo – Sáng vội quá, quên chưa báo cho trung tá biết: ngài Cônbi gửi lời hỏi thăm sức khoẻ và công việc của trung tá. Ngài ấy nhắn...
Tiếng kêu lạo xạo im bặt. Người đang nói có lẽ kịp kìm giữ câu định thốt ra, rồi lấp đi bằng tiếng cười.
- Xin dặn thêm trung tá một điều: Hãy lo bảo vệ ngài Cục trưởng thật chặt chẽ thay vì bảo vệ cái cặp. Và trước hết là bảo vệ mình. Chắc trung tá hiểu ý tôi?
- Vâng, xin cảm ơn ngài.
- Bây giờ tôi bận, trung tá đã biết chưa, hai tiếng đồng hồ nữa, ngài Mắc Namara sẽ ghé lại Tân Sơn Nhất. Tôi phải ra đó một lát. Trung tá có đi đón không?
- Ồ, thưa ngài, thật là hân hạnh. Nhưng ở chỗ tôi chưa thấy báo gì. Vâng, thế nào tôi cũng tới đó.
- Nếu trung tá không bận, mời trung tá tới dự bữa cơm chiều tại khách sạn Công-ty-năng-tan, hồi mười chín giờ. Tôi sẽ trao lại một vài điều quan trọng, không tiện nói ở đây.
- Thưa ngài, thế nào tôi cũng đến. Rất hân hạnh được dự bữa cơm với ngài.
Có tiếng cười nhẹ trong máy, rồi tiếng cắt máy. Hồng Giang tưởng như thấy đôi môi mỏng dính của Uyliam khi cười lại nhếch lên mỉa mai, trông giống một dấu phẩy lớn.
Anh đứng bên điện thoại một lát. Thế là thế nào? Phải chăng gã khéo nói cho biết rằng tập tài liệu hiện nằm trong tay Sơn Hồng là giả? Còn điều gì Uyliam định nói? Có nên tin lời gã không? Anh hiểu rằng, thế trận giữa hai bên đã dàn ra. Trong cuộc chiến đấu thầm lặng một mất một còn này, anh có thể hy sinh, nhưng không được phép thất bại.
CHƯƠNG NĂM: KẺ GIẤU MẶT
Theo lệnh của thiếu tướng Sơn Hồng, toàn bộ các sĩ quan trung cấp trong cục đều đi đón Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mắc Namara, trừ bộ phận ngay sau đó lên đường xuống vùng Bốn chiến thuật tiến hành nhiệm vụ yểm trợ. Ngay khi mới nghe lệnh Hồng Giang đã để ý tìm viên thượng sĩ lái xe. Không thấy hắn đâu, Hồng Giang gọi viên đại úy thường trực, hạ lệnh phải phạt giam một ngày tên lính mê gái vô kỷ luật đó. Thời gian gấp lắm rồi, không thể để cái đuôi lẵng nhẵng ấy theo nữa.
Sau hai chiếc G.M.C chở đầy lính đi trước hộ tống, đoàn xe nối nhau chạy dài theo đội hình hành quân. Tiếng còi dẹp đường rú lên inh ỏi. Những chiếc mô tô của quân cảnh nổ máy ầm ĩ chạy từ từ bên xe của Sơn Hồng. Chốc chốc chúng lại phóng vượt lên trước, lao thẳng vào những đám đông dân chúng đang ứ lại ngày càng nhiều vì tắc đường.
Ngả người trên đệm da, Sơn Hồng khoan khoái lim dim mắt hồi tưởng lại đêm qua. Mười tiếng đồng hồ bên một ả gà mái quý phái. Tuyệt! Ả là vợ ba của một ông vua sắt, bạn thân của người Mỹ. Đây là bậc thang kỳ diệu cho những áp phe sau này. Đêm qua không phải gã chỉ ôm một con đĩ thượng lưu, ma còn ôm cả một tấm ngân phiếu khổng lồ. Mải suy nghĩ, Sơn Hồng không để ý chiếc đèn tín hiệu đang nháy liên tục. Cho đến khi tên lính bảo vệ rụt rè thưa, Sơn Hồng mới giật mình choàng dậy, chụp vội lấy cáp nghe đưa lên tai.
- Hê lô, đây. Thiếu tướng Sơn Hồng nghe đây. Sao… dạ… dạ. Ngài có thể để đích thân tôi về lấy được không ạ? Dạ, thế cũng được. Dạ tôi sẽ lệnh ngay. Cảm ơn ngài. Dạ.
Buông cáp xuống, viên thiếu tướng lại ngả người ra đằng sau, nhắm mắt lại. Hâygơ vừa hỏi gã về cặp tài liệu kế hoạch Rồng Lửa. Lạ thật, việc đã qua rồi, sao lại phải báo cáo ngày Bộ trưởng nữa? Yêu cầu mình không được vắng mặt trong buổi tiếp đón trọng thể này, Hâygơ lại gợi ý để trung tá Hồng Giang về đây “cho an toàn tuyệt đối”. Để viên trung tá hãnh
tiến và rất được lòng người Mỹ kia đi thì gã hoàn toàn yên tâm. Nhưng có thật cần thiết đến mức ấy không nhỉ? Vốn không quen suy nghĩ nhiều, Sơn Hồng lặng lẽ châm một điếu Caraven A rồi cầm lấy cáp, chuyển tần số hành quân…
Tự tay lái chiếc xe Jeep có lắp máy bộ đàm theo quy định hành quân tác chiến của Sơn Hồng, Hồng Giang không khỏi đắn đo suy nghĩ. Hay là kiếm một cớ gì đó để quay về? Không được liều lĩnh. Nhưng đâu là giới hạn giữa sự liều lĩnh và lòng dũng cảm? Mà Uyliam nhắn như vậy là có ý gì? Đoàn xe càng đến gần phi trường Tân sơn Nhất, Hồng Giang càng phân vân. Đúng lúc đó, trong chiếc loa chìm gắn cạnh trục tay lái vang lên tiếng kêu rè rè, rồi một giọng nói ngạt mũi vang lên:
- Hêlô, chim ưng đâu? Chim ưng đâu? Phượng hoàng đây. Chim ưng bay về tổ, quắp tấm da bò đen trên bàn, mang tới thảo nguyên cho phượng hoàng, nghe.
- Dạ chim ưng nghe rõ. Sẽ cất cánh ngay bây giờ.
- Rồi. Lẹ lẹ lên nghe. Một giờ nữa đại bàng hạ cánh. Liệu mà tới.
Hồng Giang cho xe tạt sang vệ đường, đợi cho đoàn xe đi qua. Thế là thế nào? Không cầu mà được. Anh không lạ gì tấm da bò đen trên bàn của viên thiếu tướng. Đó là kỷ niệm cay đắng của gã về vụ Rồng lửa. Mắc Namara đến thì cần gì tài liệu ấy. Hay có âm mưu gì trong sự việc này chăng? Không có lẽ. Anh không còn lầm lẫn gì về viên tướng áp-phe kia. Một gã lấy tiền làm Tổ quốc, ngu đần và hãnh tiến, khúm núm với cấp trên và hoạnh họe cấp dưới. Gã rất tin và cần có anh trong công việc. Vậy thì gã không thể nghĩ ra trò gì được. Hay là lệnh của bọn Mỹ. Nhưng đó là bọn nào? Mà thôi, tương kế tựu kế. Cứ về cơ quan đã.
Đoàn xe vừa đi khuất, Hồng Giang quặt mạnh tay lái, rú ga lao thẳng về hướng ngược lại. Trông thấy chiếc xe từ xa, mấy tên quân cảnh đã đứng nghiêm, sau khi mở toang cánh
cổng sắt nặng nề Hồng Giang lơ đãng gật đầu, từ từ cho xe vào ga ra. Anh bước nhanh vào tòa nhà. Không thấy viên sĩ quan thường trực đâu cả, Hồng Giang nhìn trước nhìn sau. Sau những lớp kính cách âm, chắn đạn, tòa nhà vắng tanh vắng ngắt này im lặng gần như tuyệt đối. Nghe rõ cả tiếng đập cánh vội vàng của một con ong lạc vào phòng, đang hấp tấp, hoảng hốt lao đầu vào cửa kính. Tội nghiệp, nó cứ tưởng bầu trời trong khung kính đó. Hồng Giang liếc nhìn con ong rồi khẽ nhún vai. Anh hơi mỉm cười vì thói quen đã ăn sâu vào người. Đến bên bàn làm việc của viên sĩ quan thường trực, anh thoáng đắn đo, rồi nhấc ba chiếc ống nghe đặt sang một bên. Sẽ không còn một tiếng chuông nào vang lên trong gian phòng trực này nữa.
Hồng Giang rút khẩu Oan–te khẽ lên đạn, lại rút trong túi áo bốn miếng cao su lót cá sắt của giầy đinh mà lúc nào anh cũng mang theo bên mình. Hồng Giang cúi xuống, lắp thật chặt dưới đế giày. Như thế, bước đi vừa êm vừa chắc, sẽ khó trượt trên nền đá hoa bóng loáng như gương. Anh thận trọng đi lên gác ba, về phía phòng làm việc của Sơn Hồng. Vừa mới hết tầng hai, anh đứng sững lại, cả người căng ra chờ đợi, tay phải thọc vào túi quần. Có tiếng động ở tầng ba, ngay trên đầu anh. Hồng Giang ngước lên, lắng nghe. Một thoáng im lặng. Ngay sau đó có tiếng người đi, ngày càng gần lại cầu thang trước mặt. Anh lặng lẽ đi giật lùi tay vẫn nắm chặt báng thép lành lạnh của khẩu súng trong túi quần. Tiếng bước chân rón rén xuống thang, hệt như một thằng ăn trộm, đang nghi ngại khi thấy có điều gì không lành. Hồng Giang lùi nhanh về phía cuối hành lang, rồi tụt vào phía trong nhà vệ sinh trước khi bóng kia bước xuống đến chân cầu thang rẽ vào hành lang. Anh rút súng, cầm lăm lăm trong tay. Tiếng chân rón rén vẫn tiến lại gần, mỗi lúc một gần hơn, Hồng Giang nép hẳn vào cạnh tường phía trong một gian rửa mặt, thuận tay khép hờ cửa.
Thời gian trôi qua thật căng thẳng. Người kia đã tiến đến cửa nhà vệ sinh, đang lơ láo ngó vào trong. Qua khe cửa, Hồng Giang căng mắt nhìn. Anh suýt nữa kêu lên. Người đang rình mò kia là viên thượng sĩ mê gái lái xe cho anh. Một loạt câu
hỏi nảy ra trong đầu anh. Tên thượng sĩ này vào đây làm gì? Cục đã quy định rất rõ: tất cả binh lính không được vào trong tòa nhà. Ngay cả sĩ quan cũng chỉ được phép bước qua cửa lớn khi có nhiệm vụ. Vậy thì… Hay nó theo dõi anh? Vô lý. Khi anh vào phòng trực, rõ ràng không có ai biết. Hơn nữa, tên này đã có mặt trên tầng ba trước anh. Hay là… người của ta? Một tia hy vọng lóe lên. Nhưng ngay khi đó, Hồng Giang gạt bỏ ngay giả thiết này. Chỉ có bộ phận tình báo đặc biệt chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của trung ương mới có nhiệm vụ ở đây. Và nếu có thì anh đã biết. Không lẽ là biệt động nội thành? Cũng có thể, song nếu như vậy tại sao trong mật thư không thấy chị Sáu nói gì? Vậy tên này vào đây với mục đích gì?
Trong khi đó, viên thượng sĩ nghiêng ngó một lần nữa rồi lại rón rén đi về phía cầu thang. Hồng Giang rút ống giảm thanh lắp vào nòng súng. Khẽ đẩy cửa, anh bước ra trước tấm gương. Bây giờ anh mới biết mồ hôi túa đầy mặt, ngực áo lót. Bộ lễ phục trở nên vướng víu. Anh lấy tay trái vuốt qua đám mồ hôi đọng thành từng giọt cỡ hạt ngô trên trán, trên má, đi ra cửa, hé nhìn dọc hành lang. Không một bóng người. Súng chĩa thẳng, tay vẫn lăm lăm trong vòng cò, Hồng Giang lẩn ra phía cầu thang. Tiếng chân bước lúc này chỉ còn nghe rất nhỏ ở tầng dưới. Đắn đo một chút, Hồng Giang quyết định đi lên tầng ba. Viên thượng sĩ xuống đến phòng trực, thấy điện thoại như vậy, thế nào hắn cũng đi tìm viên đại úy thường trực. Thời gian đủ cho anh hành động. Nếu có chuyện gì thì chính viên thượng sĩ chứ không phải anh, chịu trách nhiệm. Nó chẳng vừa ở tầng ba đó sao, Hồng Giang quyết định táo bạo.
Anh bước nhẹ nhàng nhưng rất nhanh lên cầu thang, súng vẫn lăm lăm trong tay. Hành lang tầng ba cũng vắng ngắt. Một chân trên hành lang, một chân dưới bậc thang, anh nghiêng người nghe ngóng động tĩnh. Không thấy gì cả. Anh đi thẳng vào hành lang. Mọi cánh cửa đều đóng chặt, Chỉ có một căn phòng cửa mở he hé. Đó lại chính là căn phòng anh định vào: phòng làm việc của Sơn Hồng.
Hồng Giang đi thẳng đến. Liếc qua, anh thấy một bóng người đang loay hoay trước chiếc tủ đứng đựng tài liệu mật gắn chìm vào trong tường. Thực ra chưa bao giờ Hồng Giang được thấy Sơn Hồng mở cửa tủ như thế nào. Vì vậy, anh đứng lặng im quan sát. Người đó hẳn là sĩ quan (anh đã thấy lấp ló hai cái ngù vai và khẩu côn đeo bên hông). Hắn loay hoay một lát, rồi như trợt nhớ ra, hắn vồ lấy chiếc máy điện thoại màu trắng để trên bàn bên cạnh, quay năm số. Theo độ dài của từng tiếng rè rè vang lên trong căn phòng tĩnh mịch, Hồng Giang đoán từng con số hình như là 21966 thì phải. Gã kia quay xong liền đặt ống nghe xuống máy. Một tiếng “tách” vang lên. Cánh cửa tủ từ từ tụt xuống, để lộ một mặt tủ khác đầy những ngăn kéo như những mục phân loại sách trong thư viện. Gã kia thản nhiên kéo tay áo nhìn đồng hồ, rồi nắm lấy quả đấm bịt bạc vặn ngược chiều kim đồng hồ. Dường như đã hết cỡ, gã lại buông tay ra, cúi sát mắt nhìn vào quả đấm, nắm chặt lấy rút mạnh. Chiếc ngăn kéo tụt ra. Ngoài cửa, Hồng Giang cố kiễng chân nhưng không nhìn thấy gì cả, phút quyết định đến rồi đây, Hồng Giang nghĩ thầm khi thấy gã kia thò cả hai tay vào ngăn kéo. Anh hít thở mạnh, và ngay khi đó, gã kia không quay lại, nói to:
- Nó đây nè! .. Mày làm gì đó?
- Đứng im! Anh đã bị bắt – Hồng Giang đẩy mạnh cửa bước vào, chĩa thẳng súng vào người kia. Gã quay lại, hoảng hốt. Một lần nữa, Hồng Giang suýt kêu lên. Thủ phạm vụ ăn trộm tài liệu mật chính là viên sĩ quan thường trực. Hồng Giang tiến đến gần viên đại uy, gằn giọng quát:
- Quay mặt vào tường! Chống cự tao bắn!
Viên đại úy không ngờ sự thể lại diễn ra như vậy. Gã run lấy bẩy quay mặt về phía cánh cửa tủ đã mở.
- Mày đến đây làm gì? Ai sai mày lấy tài liệu? Hả, nói ngay.
Viên đại úy còn đang lúng túng trong miệng thì đã nghe tiếng quát:
- Đứng im! Yêu cầu trung tá cảm phiền bỏ súng xuống.
Không cần quay lại, Hồng Giang cũng biết ngay đó là giọng nói của tên thượng sĩ lái xe. Anh chợt thấy hối tiếc vì lúc nãy, khi bước vào trong phòng đã không đóng cửa lại. Bây giờ thì muộn rồi. Hẳn lúc ở tầng hai, nó đã phát hiện ra anh… Hồng Giang thả rơi súng xuống nền nhà, nghe đánh “cạch” một tiếng khô khốc.
***
Buổi sáng, Hâygơ gọi điện cho mời Uyliam. Không đầy mười phút sau, Uyliam đã đóng sầm cửa xe, bước vào con đường rải sỏi trắng muốt Hâygơ chờ sẵn trên bậc thềm, khoát tay chỉ ra vườn, nói với Uyliam:
- Mời anh ra vườn sau.
Hai người bước tới một bộ bàn ghế sa lông kiểu cổ bằng gỗ lát uốn, mặt da. Không rào trước đón sau, Hâygơ hỏi ngay:
- Anh thấy Viôlét giả thế nào?
- Tôi cũng đang suy nghĩ.
- Nhất định là ăn chứ - Hâygơ xoa xoa hai tay vào nhau – Hừ, mồi lớn như thế, con cá nào mà chẳng đớp.
- Tất nhiên, nếu có cá.
- Có chứ, ông trợ lý. Tôi thì tôi tin không những có cá, mà còn có cá to là đằng khác.
- Ông nghi ngờ Hồng Giang?
- Biết làm sao được – Hâygơ nhún vai – Nghề nghiệp dạy tôi không nên tin bất cứ ai.
- Thế còn lệnh rút Hồng Giang của ngài Cônbi, ông định không tuân theo sao?
- Ấy, ông bạn lại nóng nẩy rồi. Ý tôi không phải như vậy. Tôi chỉ muốn kéo dài thời gian để kiểm tra thôi – Hâygơ nhún vai – Ý của ngài Cônbi là ý Chúa.
Uyliam nhếch mép cười ngạo mạn. Gã đã biết được cái đuôi của Hâygơ. Ấy là tuy rất đa nghi, thủ thế với tất cả mọi người, nhưng Hâygơ lại rất sợ cấp trên. Uyliam thừa biết phần lớn thời gian của viên Cục trưởng CIA ở xứ này là làm gì rồi. Bạch phiến, Hê-rô-in… những chất tê mê đưa người trần tục bay lên sống trên thiên đường trong phút chốc ấy, được các thuộc hạ đóng gói. Tự tay ngài phân cục trưởng niêm phong lại bằng một tờ giấy trắng in sẵn vẻn vẹn mấy chữ “Tài liệu mật – CIA – Hây gơ” rồi chở ra phi trường. Tốc độ làm giàu của hắn tại đất này xấp xỉ với mức tăng tích lũy của các ngài tư bản phố Uôn. Uyliam thừa hiểu muốn gì thì Hâygơ cũng phải giữ cho được cái ghế đang lung lay tại đây… Sau một hồi lặng thinh, Uyliam chợt hỏi:
- A7 ra sao?
- Tên này đang xin được đi bắt ngay thằng nhóc đánh giầy chiều qua. Hắn nói thằng này là một nhân chứng quan trọng.
Uyliam chợt nảy ra một dự kiến. Gã nói nhanh như sợ ý nghĩ bay mất. Lúc này, cái nhìn của gã sáng rực lên, tuy vậy vẫn không làm cho đôi mắt đỡ sâu, đỡ lạnh.
- Hay, ông có một ý kiến rất hay. Hãy cho bắt ngay tên đánh giầy này. Và đừng cho Hồng Giang biết. Sau đó mọi việc tiếp theo sẽ chứng tỏ tôi đúng hay ngài đúng.
- Hay bây giờ chúng ta cùng đến Sở thú? Anh có bận gì không, Uyliam? – Hâygơ sốt sắng đề nghị. Gã muốn xoa dịu bớt những va chạm lúc nãy – Anh sẽ trực tiếp tra hỏi tên nữ liên lạc bị bắt.
- Xin lỗi ngài, tôi vốn ghét cái trò vung dùi cui hay quay điện – Uyliam lại nhếch mép cười khinh bỉ không chút che giấu – Nguyên tắc của tôi là lôi sự thật ra từ những con người, chứ không phải từ những cái xác.
- Ô hô, xin lỗi ông trợ lý. Tôi không ngờ được nghe tại vùng đất máu lửa này một tư tưởng nhân đạo đến mức ấy. Nhưng ông hãy trả lời tôi rằng, nếu như gặp những cái đầu bò thì sao? Ông sẽ cúi xuống đề nghị họ hãy tự giác móc sự thật trong óc ra cho ông chứ?
- Hừm…hừm… cố nhiên là tôi cũng không phải người có trái tim mềm yếu của đàn bà. Nhưng tự tay tôi ư? Không đời nào. Thiếu gì kẻ sẵn sàng làm công việc ấy. Nghề nghiệp đòi hỏi đôi bàn tay chúng ta không nên thấm một chút máu gì, dù đó là máu cộng sản… Mà thôi, ngài cho phép tôi được lưu ý ngài rằng: ngài bộ trưởng Mắc Namara sắp tới.
Trong đoàn có thể có ngài Cônbi đi cùng
- Sao? Thật hả… a, mà đúng rồi – suýt nữa thì tôi quên mất – Hâygơ mỉm cười – Thôi cùng nâng cốc rồi ta đi.
- Khi chiếc xe sang trọng của Hâygơ và Uyliam vào phi trường các quan khách người Mỹ và người Việt Nam đã tề tựu đông đặc. Bãi để xe dọc theo con đường mắc hàng đèn cao áp ngày thường trông rộng là thế, trưa nay trở nên chật chội. Dãy xe xếp chéo đủ kiểu. Trong phòng khách, kẻ đứng người ngồi, lảng vảng đầy bọn empi Mỹ, quân cảnh ngụy, cảnh sát nổi, cảnh sát chìm. Không khí vừa sôi động hân hoan, vừa nặng nề đến ngạt thở.
Hâygơ và Uyliam lên thẳng phòng khách đặc biệt trên tầng hai. Sơn Hồng và các tùy tùng đã đứng sẵn ở đây. Hai người gật đầu lơ đãng đáp lại lời chào kính cẩn của các tướng lĩnh Sài gòn, rồi đi thẳng vào phòng điện đài, một căn phòng đặc biệt có gắn hai chữ “cấm vào” bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Thấy Hâygơ, một đại úy thông tin Mỹ từ cuối phòng chạy lại:
- Thưa ngài, có điện từ Ha-oai.
- Đưa tôi.
- Xin ngài ký nhận cho.
Hâygơ rút bút kí tắt vào cuốn sổ nhận điện, rồi rút tờ giấy trong chiếc phong bì cứng vừa gắn xi. Uyliam đến sát bên Hâygơ, ghé mắt nhìn. Nội dung bức điện như sau: “Vì lý do đặc biệt, tôi không sang được. Ông chủ gọi US-AVN 5381 về ngay. Chậm nhất là 12h00 ngày X, 5381 phải có mặt tại Hin tơn – Ha oai. Có người đón. Kí tên: U.”
Đọc xong bức điện, Uyliam ngẩng lên nhìn Hâygơ như thách thức như tò mò muốn biết thái độ gã ra sao. Phần cuối bức điện ra lệnh cho trung tá Hồng Giang phải có mặt trong thời hạn rất gấp. Hâygơ im lặng, chấp nhận cái nhìn khiêu khích ấy bằng cái nhún vai, khoát tay vẻ mặc kệ rồi đi ra. Uyliam nhếch mép cười, đi theo Hâygơ đến thẳng trước mặt Sơn Hồng hỏi nhỏ, không đếm xỉa đến nghi thức ngoại giao:
- Ông đã chấp hành lệnh tôi chứ, thiếu tướng?
Đang ngồi Sơn Hồng đứng bật dậy, thả rơi chiếc can bịt bạc, tay trái vuốt lại tà áo:
- Đã, thưa ngài.
- Trung tá đi lâu chưa?
- Dạ có dễ đến ba mươi phút rồi đó, thưa ngài. Không… phải đến bốn mươi phút.
Hâygơ nheo mắt, bộ ria đen xì chui ra từ hai lỗ mũi cứ giật giật liên hồi. Làm ra vẻ không nhận thấy Uyliam nhếch mép, gã lẩm bẩm: “Bắt đầu đầu màn kịch rồi đó”. Rồi không để cho viên sĩ quan đội lốt nhà buôn kia hỏi, Hâygơ nhìn thẳng vào hai bông mai trên ve áo viên thiếu tướng, hỏi giật giọng:
- Bao lâu nữa trung tá có mặt?
Sơn Hồng so vai. Cái đầu to tướng được dịp tụt xuống, làm gã bỗng như lùn tịt trước tên Mỹ cao kều. Rồi không hiểu nhớ đến quyền của người Mỹ hay nhớ đến bản hợp đồng mà Hâygơ mới trao, viên tướng hắng giọng lúng túng:
- Thưa ngài... bao lâu nữa... ừm hừm... bao lâu nữa chính tôi… tôi... tôi cũng chưa rõ. Nhưng thưa ngài, ngài cần gặp… gặp... gặp trung tá sao? Tôi sẽ đi tìm ngay - Đến câu cuối, gã sốt sắng, bù lại sự vô lễ vừa rồi.
- Cảm ơn, không cần. Tôi sẽ đi.
Nói xong, Hâygơ quay người đi ngay. Uyliam nháy nháy mắt với viên tướng đang đứng thộn ra rồi bước sau Hâygơ. Ngần ngừ một lát Sơn Hồng vội vã đi theo.
***
Trong lúc này, câu chuyên bất ngờ xẩy ra ở phòng làm việc của thiếu tướng cục trưởng tác chiến đang diễn ra rất nhanh.
Ngay sau khi Hồng Giang bỏ rơi súng, viên thượng sĩ tiến nhanh đến sát lưng giáng một quả đấm nặng như búa bổ vào gáy Hồng Giang. Không hiểu vì lý do gì, cái nắm tay to bè bè đó lại đánh trúng bả vai phải. Cả người anh nhào ra đằng trước, phía viên sĩ quan thường trực. Tiếp liền tiếng “hự” phát ra từ cổ, từ họng, từ mũi Hồng Giang, viên sĩ quan thường trực quay người lại tung chân đá thẳng vào mặt anh. Với mũi giầy đinh như thế, với hướng lao ngược chiều vì cú đấm nặng nề vừa qua, chắc chắn Hồng Giang không giập bã mía (sống mũi) thì cũng vỡ quai hàm.
Tuy choáng váng vì cú đấm bất ngờ từ phía sau nhưng với bản lĩnh cao cường của một người đã bị đo ván và bắt nhiều kẻ khác đo ván, Hồng Giang thấy trước cú đá của tên đại úy. Anh chỉ kịp xoay người, hơi ngửa đầu ra phía sau thì chiếc giày đinh đen xì đã lướt qua mặt, tạt một luồng gió mát lạnh. Tiếp ngay sự mất đà vì đá trượt của tên đại úy, Hồng Giang nghiêng người, đạp mạnh vào mang mỡ nó. Tên này bật ra ba bốn bước, đổ nhào, quằn quại ôm chặt lấy bụng. Thừa lúc Hồng Giang nhao người theo, viên thượng sĩ nhẩy sổ tới, vung một quả đấm hình vòng cung vào má anh. Không kịp tránh nữa rồi, Hồng Giang thoáng nghĩ và nghiến răng chịu quả đấm thứ hai. Anh loạng choạng bật người vào