🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sát Nhân Mạng - Jeffery Deaver Ebooks Nhóm Zalo Khi nói bộ não con người cũng là một cỗ máy, tôi không có ý xúc phạm tới trí tuệ con người, mà chỉ thừa nhận tiềm năng của một chiếc máy. Tôi không tin rằng bộ não con người lại kém cỏi hơn những gì chúng ta tưởng tượng về nó, mà là một chiếc máy có thể ấn chứa những điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta. - w. Daniel Haiis - Hoa văn trên đá I PHÙ THỦY MÁY TÍNH Hoàn toàn có thể… thực hiện hầu hết mọi tội ác với một chiếc máy tính. Thậm chí ta có thể sử dụng nó để giết người. - Một sỹ quan Sở cảnh sát Los Angeles - Chương MỘT Chiếc xe tải trắng cũ kĩ khiến cô cảm thấy bất an. Lara Gibson ngồi bên quầy bar trong nhà hàng Vesta’s Grill tại De Anza, Cupertino, California, tay giữ chặt đáy ly Martini lạnh ngắt và phớt lờ hai chuyên viên phần cứng trẻ tuổi đang đứng gần đó liếc mắt ve vãn cô. Cô lại hướng mắt ra ngoài lần nữa, nhìn sâu vào màn mưa u ám, và không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của chiếc Econoline kín mít không cửa sổ, cô tin chắc rằng nó đã bám theo mình từ căn hộ cách đây vài dặm đến tận nhà hàng này. Lara tụt khỏi chiếc ghế ở quầy bar và bước tới cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chiếc xe đó không đậu trong bãi đỗ của nhà hàng. Cũng chẳng ở bên kia đường, trong bãi xe của Apple Computer hay bãi bên cạnh, thuộc công ty Sun Microsystems. Không bãi đỗ xe nào trong số này là nơi hợp lý để theo dõi – nếu gã tài xế đó thực sự đang đeo bám cô. Không, chiếc xe đó chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, cô kết luận, sự trùng hợp bị cường điệu hóa bởi một dạng hoang tưởng. Cô trở lại quầy bar và liếc nhìn hai gã trai trẻ, giờ đến lượt họ lờ cô đi và nhếch mép cười. Giống như hầu hết các chàng trai trẻ đến đây tìm kiếm niềm vui, họ mặc quần âu, áo sơ mi không cà vạt, và đeo cái phù hiệu đặc trưng nhan nhản ở Thung lũng Silicon, chiếc thẻ nhân viên gắn với quai đeo bằng dây dù lủng lẳng quanh cổ. Hai gã này mang thẻ xanh của Sun Microsystems. Những nhóm khác đến từ Compaq, Hewlett – Packard và Apple, chưa kể vài chú lính mới của các công ty Internet khởi nghiệp mà một số nhân vật khả kính quen thuộc ở Thung lũng đang điều hành với đôi chút khinh khỉnh. Ở tuổi ba hai, có khi Lara Gibson lớn hơn hai gã hâm mộ kia đến năm tuổi. Với tư cách là một nữ doanh nhân độc lập, không phải dân lập trình, cũng chẳng liên quan đến công ty máy tính nào, dễ cô nghèo hơn họ đến năm lần. Nhưng điều đó không thành vấn đề với hai gã này, vì họ đã bị hút hồn bởi khuôn mặt xinh đẹp ấn tượng lạ thường ôm trọn trong những lọn tóc đen nhánh, đôi bốt đến cổ chân, chiếc váy màu đỏ cam kiểu gypsy[1] và chiếc áo không tay màu đen tôn lên đường nét bắp tay đẹp hiếm có. Cô ước tính rằng hai phút nữa, một trong hai cậu trai này sẽ tiếp cận cô, và cô chỉ tính chệch mười giây. Những gì gã trai trẻ nói với cô là ‘phiên bản mới’ của kịch bản mà cô đã nghe cả tá lần trước đó: Xin lỗi, tôi không có ý làm phiền nhưng cô có muốn tôi bẻ gãy chân bạn trai cô vì đã để người phụ nữ xinh đẹp chờ đợi một mình ở quầy bar và nhân tiện, tôi có thể mời cô một ly trong khi cô quyết định xem chân nào bị bẻ được không? Người phụ nữ khác chắc hẳn đã nổi đóa, hoặc lắp bắp, đỏ mặt, cảm thấy bối rối hay lả lơi lại để anh ta mời một ly mà cô ta thậm chí chẳng muốn uống, chỉ vì không biết phải xử lý tình huống này thế nào. Nhưng đó là những người đàn bà yếu đuối hơn cô. Còn Lara Gibson là ‘nữ hoàng của sự tự vệ nơi thành thị’, danh hiệu mà tờ San Francisco Chronicle đã từng phong tặng cho cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta, nở một nụ cười xã giao và nói, “Tôi không quan tâm đến việc kết thân với bất kỳ ai lúc này.” Chỉ đơn giản như thế. Kết thúc cuộc nói chuyện. Anh ta chớp mắt trước sự thẳng thắn này, né tránh ánh mắt kiên nghị của cô và quay lại với bạn của mình. Sức mạnh… tất cả nằm ở sức mạnh. Cô nhấp một ngụm đồ uống. Thực ra, cái xe tải màu trắng chết tiệt đó đã gợi nhắc đến tất cả những nguyên tắc cô từng đặt ra với tư cách người dạy phụ nữ cách tự vệ trong xã hội thời nay. Có vài lần trên đường đến nhà hàng, cô liếc vào gương chiếu hậu và thấy chiếc xe ở phía sau, cách khoảng ba bốn chục feet. Một tên nhóc nào đó cầm lái. Hắn là người da trắng, nhưng tóc được tết thành những lọn dài bù xù màu nâu. Hắn mặc đồ rằn ri và đeo kính đen, bất chấp cơn mưa tối tăm u ám. Tất nhiên đây là Thung lũng Silicon, nơi trú ngụ của những gã hacker và tụi vô công rồi nghề, cũng chẳng có gì bất thường khi dừng ở Starbucks để mua một cốc Venti Latte ít béo và được phục vụ bởi một cậu thiếu niên lịch sự có cả tá khuyên trên người, đầu trọc lóc, ăn vận như một tay găng-tơ trong thành phố. Dường như gã lái xe vẫn đang nhìn cô chằm chằm với vẻ thù địch kỳ quái. Lara chợt nhận ra mình đang vuốt ve lọ xịt hơi cay trong túi xách một cách vô thức. Liếc ra cửa sổ một lần nữa, cô chỉ thấy những chiếc xe xa xỉ được mua bằng tiền kinh doanh Internet. Nhìn quanh phòng. Chỉ có những tay nghiền máy móc vô hại. Thư giãn nào, cô tự nhủ và nhấp một ngụm Martini đậm đặc. Cô để ý nhìn đồng hồ treo tường. Bảy giờ mười lăm. Sandy đã muộn mười lăm phút rồi. Không giống cô ấy chút nào. Lara rút điện thoại đi động ra nhưng màn hình lại hiển thị: NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG. Cô định đi tìm điện thoại công cộng thì ngước lên thấy một người đàn ông trẻ bước vào quầy bar và vẫy tay về phía cô. Cô đã gặp anh ta ở đâu đó nhưng không thể nhớ chính xác. Mái tóc vàng khá dài nhưng được cắt tỉa gọn gàng, chòm râu dê của anh ta ám ảnh trong trí nhớ cô. Anh ta mặc chiếc quần jean trắng và áo sơ mi màu xanh nhàu nhĩ. Điều duy nhất cho thấy anh ta cũng thuộc giới làm ăn ở Mỹ là chiếc cà vạt, cho phù hợp với một doanh nhân của Thung lũng Silicon, mặc dù thiết kế của nó không phải kẻ sọc hay họa tiết hoa Jerry Garcia mà là chú chim hoạt hình Tweety Bird. “Chào cô, Lara,” anh ta bước tới và bắt tay cô, tựa người vào quầy bar. “Nhớ tôi không? Tôi là Will Randolph. Em họ của Sandy đây? Cheryl và tôi đã gặp cô ở Nantucket, tại lễ cưới của Marry ấy.” À phải rồi, đó chính là nơi cô đã gặp anh ta. Anh và cô vợ đang mang bầu đã ngồi cùng bàn với Lara và bạn trai cô, Hank. “Chắc chắn rồi. Dạo này anh thế nào?” “Tôi ổn. Công việc bận rộn. Nhưng làm gì có ai không đến đây cơ chứ?” Tấm thẻ nhựa trên cổ anh ghi dòng chữ Xerox Corporation PARC. Cô thấy rất ấn tượng. Ngay cả những kẻ tay ngang cũng biết về trung tâm nghiên cứu Paolo Alto huyền thoại của Xerox cách đây vài dặm về phía Bắc. Will ra hiệu cho phục vụ và gọi một cốc bia nhẹ. “Hank thế nào?” Anh hỏi. “Sandy nói anh ấy đang cố kiếm một công việc ở Wells Fargo.” “Ồ, phải, anh ấy được nhận rồi. Giờ anh ấy muốn lập nghiệp ở L.A.” Cốc bia được mang đến và Will nhấp một ngụm. “Chúc mừng.” Một bóng trắng sượt qua trong bãi đỗ xe. Lara lập tức nhìn theo, cảnh giác. Nhưng hóa ra đó là chiếc Ford Explorer với một cặp đôi trẻ ở bên trong. Đôi mắt tập trung vào phía sau chiếc xe Ford, quét qua con phố rồi rà soát bãi đỗ xe một lần nữa, Lara nhớ lại rằng trên đường đến đây, cô đã nhìn vào hông chiếc xe tải khi nó vụt qua lúc cô tấp xe vào bãi đỗ nhà hàng. Có một vết bẩn của cái gì đó sẫm màu và đo đỏ trên hông xe, có thể là bùn – nhưng cô nghĩ trông nó gần giống máu. “Cô ổn chứ,” Will hỏi. “À vâng, xin lỗi.” Cô quay lại với anh, thấy mừng vì có một đồng minh. Một nguyên tắc tự vệ nữa ở chốn thành thị mà cô đặt ra là: Hai người luôn tốt hơn một. Giờ Lara đã biến tấu một chút bằng cách bổ sung thêm vế sau rằng dù vài người trong số họ chỉ là một gã mọt máy tính gầy gò, không cao hơn mét bảy nhăm và đeo cà vạt hoạt hình. Will nói tiếp, “Sandy đã gọi lúc tôi đang trên đường về nhà để hỏi xem tôi có thể ghé qua và báo tin cho cô được không. Cô ấy cố gọi cho cô nhưng ko liên lạc được. Cô ấy sẽ về muộn và liệu có thể hẹn cô ở chỗ cạnh văn phòng mà cô đã ghé qua tháng trước, chỗ Ciro ấy? Ở Mountain View. Cô ấy đã đặt bàn lúc tám giờ.” “Anh đâu cần phải ghé qua. Cô ấy có thể gọi cho nhân viên quầy bar mà.” “Cô ấy muốn tôi đưa cho cô những bức ảnh tôi đã chụp ở đám cưới. Hai người có thể xem chúng tối nay và cho tôi biết các cô muốn lấy những tấm nào.” Will nhận ra một người bạn ở phía bên kia quầy bar và vẫy chào anh ta, có lẽ Thung lũng Silicon trải rộng hàng trăm dặm vuông nhưng nó thực sự vẫn là một thị trấn nhỏ. Anh nói với Lara, “Cheryl và tôi đang định mang những bức ảnh tới chỗ của Sandy ở Santa Barbara cuối tuần này….” “Phải, chúng tôi định tới đó vào thứ sáu.” Will ngừng lại và mỉm cười như thể anh ta có một bí mật vĩ đại cần chia sẻ. Anh rút ví, mở ra bức ảnh chụp anh cùng vợ và một đứa bé nhỏ xíu còn đỏ hỏn, “Tuần trước,” anh nói một cách tự hào, “Claire.” “Ôi, dễ thương quá,” Lara xuýt xoa. “Thế nên chúng tôi sẽ loanh quanh ở gần nhà một thời gian.” “Cheryl thế nào rồi?” “Cô ấy ổn. Em bé cũng khỏe. Chẳng có điều gì sánh được… Nhưng, tôi sẽ nói với cô rằng việc trở thành một người cha sẽ làm cuộc sống hoàn toàn thay đổi.” “Tôi tin chắc là như vậy.” Lara liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. Bảy rưỡi. Vào giờ này, phải mất ba mươi phút để lái xe đến Ciro. “Tôi nên đi ngay.” Rồi, một hồi chuông cảnh giác gióng lên, cô lại nghĩ về chiếc xe tải và gã tài xế. Những lọn tóc tết. Vệt cáu bẩn trên cánh cửa xe cũ nát… Will ra hiệu tính tiền và thanh toán. “Anh không phải làm thế đâu,” cô nói. “Tôi sẽ thanh toán.” Anh cười. “Cô đã trả rồi mà.” “Gì cơ?” “Cái quỹ chung mà cô kể với tôi ở đám cưới ấy. Quỹ mà cô mới mua ấy?” Lara nhớ lại lần cô khoác lác không biết ngượng về một quỹ công nghệ sinh học năm ngoái đã tăng trưởng tới sáu chục phần trăm. “Từ Nantucket về, tôi đã mua cả đống… vì thế… cảm ơn nhé.” Anh dốc ngược cốc bia về phía cô rồi đứng dậy. “Cô về chưa?” “Chắc chắn rồi.” Lara nhìn chằm chằm cánh cửa một cách bất an khi họ bước đến đó. Chỉ là một sự hoang tưởng thôi mà, cô tự nhủ. Lara thoáng nghĩ, như cô vẫn thường làm mỗi khi thế này, rằng cô nên kiếm một công việc thật sự, như tất cả những người trong quầy bar này. Cô không nên dấn thân vào thế giới bạo lực. Hẳn là thế, chỉ hoang tưởng thôi… Nhưng nếu vậy, thì tại sao gã choai choai có những lọn tóc tết ấy lại phóng vọt đi khi cô tấp vào bãi đỗ xe ở đây và nhìn thấy hắn? Will bước ra ngoài và bật ô. Anh giơ cao nó lên cho cả hai cùng đi. Lara nhớ lại một nguyên tắc tự vệ khác nơi thành thị: Đừng bao giờ tỏ ra quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ của người khác. Và dù Lara định nhờ Will Randolph đưa ra xe sau cuộc trò chuyện của họ, cô vẫn băn khoăn: Nếu gã choai choai trong xe tải là một mối đe dọa, thì chẳng phải cô thật ích kỷ khi nhờ vả và khiến anh gặp nguy hiểm? Anh là một người chồng, mới lên chức cha, có nhiều người đang trông cậy vào anh. Dường như không công bằng lắm nếu… “Có gì không ổn à?” Will hỏi. “Không hẳn.” “Cô chắc chứ?” Anh gặng hỏi. “À, tôi nghĩ có ai đó đã bám theo tôi đến nhà hàng này. Một tên choai choai nào đó.” Will nhìn quanh. “Cô thấy hắn à?” “Giờ thì không.” Anh hỏi, “Cô có website đó đúng không? Cái website dạy phụ nữ cách tự vệ ấy.” “Đúng vậy.” “Cô có nghĩ hắn biết website đó không? Có thể hắn đang quấy rối cô.” “Có lẽ. Chắc anh sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy những bức thư đầy thù hằn mà tôi nhận được.” Anh lục tìm điện thoại di động. “Cô có muốn gọi cảnh sát không?” Cô lưỡng lự. Đừng bao giờ cảm thấy quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ. “Không, không. Chỉ là… anh không phiền nếu đưa tôi đến chỗ để xe sau khi đi lấy ảnh chứ?” Will mỉm cười. “Tất nhiên là không rồi. Thực ra thì tôi không biết karate nhưng tôi có thể hét lên kêu cứu to hết cỡ.” Cô bật cười. “Cảm ơn.” Họ đi bộ dọc theo vỉa hè phía trước nhà hàng, cô liếc nhìn để kiểm tra những chiếc xe. Giống như mọi bãi đỗ xe ở Thung lũng Silicon, ở đây có hàng tá những chiếc Saab, BMW và Lexus. Dù sao thì, không có chiếc xe tải nào. Không một gã choai choai. Không có vết máu. Will hất đầu về chỗ để xe của mình ở bãi đỗ phía sau. Anh nói, “Cô có thấy hắn không?” “Không.” Họ đi qua một hàng cây bách xù và đến chỗ xe của anh, một chiếc Jaguar màu bạc mới coóng. Lạy Chúa, có phải tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon đều có tiền, trừ cô? Anh lôi chìa khóa ra khỏi túi. Họ đi ra chỗ cốp xe. “Tôi chỉ chụp hết hai cuộn phim ở đám cưới. Nhưng có vài bức khá đẹp.” Anh ta mở cốp xe rồi ngừng lại nhìn quanh bãi đỗ. Cô cũng thế. Nơi này vắng tanh. Xe của anh là chiếc duy nhất ở đây. Will liếc nhìn cô. “Cô hẳn đã băn khoăn về mấy lọn tóc tết[2].” “Tóc tết?” “Phải,” anh ta nói. “Những lọn tóc tết ấy.” Giọng nói trở lên đều đều, lơ đãng. Anh ta vẫn cười nhưng gương mặt có gì đó khang khác. Trông nó có vẻ đói khát. “Ý anh là gì?” Cô hỏi, giọng bình tĩnh nhưng trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang bùng lên. Cô chợt nhận ra có một sợi xích ngăn lối vào khu đằng sau bãi đỗ xe. Và cô hiểu rằng hắn đã móc nó vào sau khi đỗ xe, để đảm bảo không ai khác có thể để xe ở đây. “Nó chỉ là một bộ tóc giả.” Ôi, lạy Chúa, Thánh thần ơi, Lara Gibson thầm nghĩ, dù cô đã không cầu nguyện trong suốt hai mươi năm. Hắn nhìn vào mắt cô, ghi lại nỗi khiếp sợ ấy. “Tôi đã đậu chiếc Jag này ở đây một lúc trước khi đánh cắp cái xe tải và bám theo cô từ nhà. Với bộ đồ rằn ri và mái tóc giả. Cô biết đấy, có thế thì cô mới thấy rợn người, hoảng loạn và muốn tôi ở cạnh… Tôi biết hết mọi quy tắc của cô – mớ nguyên tắc tự vệ nơi thành thị vớ vẩn đó. Không bao giờ vào bãi đỗ xe vắng vẻ với một gã đàn ông. Đàn ông đã kết hôn và có con an toàn hơn đàn ông độc thân. Và bức ảnh gia đình của tôi? Cái ở trong ví ấy? Tôi lấy nó từ tạp chí Parents đấy.” Cô thì thầm trong tuyệt vọng, “Anh không phải là…?” “Anh họ của Sandy? Thậm chí còn chẳng biết hắn. Tôi chọn Will Randolph vì hắn là người cô có chút quen biết, và trông hắn có chút giống tôi. Ý tôi là, chẳng có cách quái nào để lôi cô ra đây một mình nếu cô không quen tôi, hoặc tưởng là mình quen. Ồ, cô có thể bỏ tay ra khỏi túi xách được rồi đấy.” Hắn giơ chiếc bình xịt hơi cay của cô lên. “Tôi đã lấy nó khi chúng ta bước ra ngoài.” “Nhưng… ,” cô bắt đầu nức nở, đôi vai buông thõng trong tuyệt vọng. “Anh là ai? Anh còn không biết tôi cơ mà…” “Không đúng, Lara,” hắn thì thào, soi mói nỗi thống khổ nơi cô như một tay kỳ thủ ngạo mạn dò xét khuôn mặt bại trận của đối phương. “Tôi biết mọi điều về cô. Tất cả mọi thứ trên đời này.” Chương HAI Chầm chậm, chầm chậm… Đừng huỷ hoại chúng, đừng làm vỡ chúng. Từng con ốc bé xíu long dần ra khỏi chiếc vỏ nhựa màu đen của chiếc đài radio nhỏ và rơi xuống những ngón tay dài chắc khỏe của gã đàn ông trẻ tuổi. Có lúc, hắn gần như đã làm trờn rãnh của một con ốc và phải dừng lại, ngồi xuống ghế và nhìn ra ngoài ô cửa sổ nhỏ bé, nơi bầu trời u ám đang bao phủ Hạt Santa Clara, cho đến khi cơn căng thẳng qua đi. Bây giờ là 8 giờ sáng và hắn đã làm cái công việc nặng nhọc kỳ công này hơn hai tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng thì, mười hai con ốc cố định vỏ ngoài của chiếc radio đã được tháo hết ra và đặt lên phần mép dính của tấm giấy nhớ màu vàng. Wyatt Gillette tháo khung của chiếc đài Samsung ra và nghiên cứu nó. Sự tò mò của hắn, như mọi khi, lại tung vó lao về phía trước như một chú ngựa đua. Hắn tự hỏi tại sao những người thiết kế có thể chấp nhận một khoảng trống lớn như vậy giữa các tấm mạch, và tại sao vạch chỉ tần số lại sử dụng loại dây có kích cỡ đặc biệt này, rồi thì, tỉ lệ kim loại trong mối hàn là bao nhiêu. Có thể đây là thiết kế tối ưu nhất, nhưng cũng có thể không. Có thể những kỹ sư đã lười biếng hoặc bị mất tập trung. Liệu có cách lắp ráp nào tối ưu hơn không? Hắn tiếp tục tháo rời nó ra, mở những con ốc trên các tấm mạch. Chầm chậm, chầm chậm… Ở tuổi hai mươi chín, Wyatt Gillette có khuôn mặt hõm sâu của một gã đàn ông cao hơn mét tám và nặng bảy mươi ki lô gam, một mẫu người mà mọi người luôn dễ dàng tưởng tượng ra. Hắn nên được vỗ béo. Hắn có mái tóc tối màu gần như đen, và đã lâu chưa được cắt gội. Trên tay phải của hắn có hình chú chim mòng biển bay qua cây cọ được xăm một cách vụng về. Hắn mặc chiếc quần jean màu xanh da trời bạc phếch và chiếc áo sơ mi màu xám khoác hờ. Hắn rùng mình trong tiết trời lành lạnh của mùa xuân. Cơn rùng mình khiến những ngón tay hắn run rẩy, rụt lại và trượt khỏi rãnh của một con ốc bé xíu. Hắn thở dài tức giận. Với tài năng bẩm sinh như một cái máy, Gillette không cần bất kỳ dụng cụ hỗ trợ nào khác, hắn đang sử dụng chiếc tuốc-nơ-vít tự chế từ ghim kẹp giấy. Hắn chẳng dùng dụng cụ nào khác ngoài nó và những móng tay của mình. Thậm chí một lưỡi dao cạo râu còn phát huy tác dụng tốt hơn, nhưng chẳng thể tìm thấy một thứ như thế ở đây, trong căn nhà tạm bợ này của Gillette, nhà tù Liên bang an ninh bậc trung dành cho nam ở San Jose, California. Chầm chậm, chầm chậm… Khi tấm bảng mạch được tháo ra, hắn đã xác định được vị trí của chiếc chén thánh mà hắn đang tìm – một cái bán dẫn nhỏ màu xám, hắn uốn những sợi dây bé xíu của nó cho đến khi chúng đứt rời. Rồi hắn gắn cái bán dẫn vào một tấm bảng mạch nhỏ mà hắn đã làm hàng tháng trời, cẩn thận xoắn các đầu dây vào với nhau. Ngay khi hắn vừa làm xong thì có tiếng sập cửa ở gần đó, rồi tiếng bước chân vang lên trong hành lang. Gillette ngẩng lên nhìn, đầy cảnh giác. Ai đó đang tới buồng giam của hắn. Ôi, Chúa ơi, không, hắn nghĩ. Tiếng bước chân chỉ còn cách khoảng sáu mét. Hắn dúi tấm bảng mạch đang làm dở vào một ấn bản của tạp chí Wired và nhanh chóng nhét các bộ phận của chiếc radio trở vào vỏ. Hắn đặt nó dựa vào tường. Hắn quay lại giường nằm và bắt đầu giở cuốn tạp chí khác ra, 2600, một tạp chí về hack, thầm cầu nguyện Chúa toàn năng điều mà ngay cả những tên tù vô thần cũng phải bắt đầu nài nỉ van xin ngay khi bước chân vào trại: Xin đừng để họ lôi con ra khỏi đây rồi lục soát. Và nếu có như vậy, xin đừng để họ tìm thấy chiếc bảng mạch. Viên quản ngục nhìn qua chiếc lỗ trên cửa buồng và nói, “Vào vị trí, Gillette.” Hắn đứng dậy và bước về cuối buồng, giơ hai tay lên đầu. Viên cai ngục bước vào cái xà lim nhỏ tối tăm. Nhưng hóa ra, đó không phải là một cuộc kiểm tra.Viên cai ngục thậm chí còn chẳng thèm nhìn ngó quanh cái xà lim, chỉ lặng lẽ còng tay Gillette về phía trước và đẩy hắn đi ra cửa. Ở đoạn giao hành lang giữa khu hành chính và khu trại chung, viên cai ngục đổi hướng và đưa Gillette xuống một hành lang mà hắn chưa từng biết tới. Tiếng nhạc và tiếng la hét từ khu tập thể thao xa dần và sau vài phút, hắn được dẫn xuống căn phòng nhỏ chỉ có một cái bàn với hai cái ghế dài, cả hai đều được gắn chặt xuống sàn. Có những cái vòng trên bàn để chốt còng tay phạm nhân, nhưng viên cai ngục không khóa Gillette vào đó. “Ngồi xuống.” Gillette làm theo. Viên cai ngục bỏ đi cùng cánh cửa đóng sầm lại, để mặc Gillette ngồi một mình với nỗi tò mò và khao khát được quay trở về với tấm bảng mạch của mình. Hắn ngồi run run trong căn phòng không cửa sổ, dường như còn ảo hơn không gian trong một trò chơi máy tính lấy bối cảnh từ thời Trung cổ. Hắn cho rằng cái xà lim này chính là căn phòng, nơi thân thể bầm dập vì đánh đập, tra tấn của những kẻ dị giáo bị bỏ lại để chờ đợi lưỡi búa của tên đao phủ từ trên cao giáng xuống.       - _ - _ -       Thomas Federick Anderson là một người mang nhiều cái tên. Tom hay Tommy là tên của ông lúc còn đi học. Còn cả đống nickname khác nữa như Stealth hay Crypto khi ông còn là sinh viên ở Menlo Park, California, quản lý những bảng tin, hack cả Trash-80s, Commodores và Apples. Ông từng được gọi là T.F. khi làm việc cho bộ phận bảo mật của AT & T, Sprint và Cellular One, chuyên truy tìm các tên hacker và những kẻ câu trộm đường điện thoại và tạo cuộc gọi giả (những chữ cái viết tắt các bạn đồng nghiệp đặt nghĩa là Tenacious Fucker – tên khốn cứng đầu, dựa trên sự kiện hắn đạt thành tích thành công 97% tổng số vụ giúp đỡ cảnh sát tóm cổ các nghi phạm). Khi còn là một thanh tra trẻ tuổi ở San Jose, ông cũng từng có cả đống tên. Ông đã được biết đến với cái tên Courtney 334 hay Lonelygirl hoặc Brittany trong các phòng chat trên mạng, nơi ông đóng vai những cô bé mười bốn tuổi và gửi những tin nhắn vụng về cho bọn biến thái, những kẻ sẵn sàng gửi những e-mail gạ gẫm đầy cám dỗ tới các cô gái không có thật này rồi lái xe đến điểm hẹn tình yêu ở những khu mua sắm xa trung tâm, chỉ để vỡ lẽ rằng thực ra chúng đã hẹn hò với cả tá cớm trang bị đầy đủ súng ống cùng với lệnh của tòa án. Giờ đây người ta thường gọi ông là Tiến sỹ Anderson, khi được giới thiệu ở các hội thảo tin học, hay chỉ ngắn gọn là Andy. Mặc dù trong các hồ sơ chính thức, ông là Trung úy Thomas F. Anderson, chỉ huy Đơn vị điều tra tội phạm máy tính Sở cảnh sát bang California. Người đàn ông gầy, cao lêu nghêu, bốn mươi lăm tuổi, có mái tóc xoăn mỏng màu nâu, bước xuống hành lang ẩm thấp lạnh lẽo bên cạnh viên giám ngục mập lùn của nhà tù San Jose – hay San Ho, theo cách mà các phạm nhân và cảnh sát vẫn gọi. Viên cai ngục vạm vỡ Latino đi cùng với họ. Họ tiếp tục đi dọc hành lang cho tới khi bước đến cánh cửa. Viên giám ngục gật đầu. Người cai ngục mở cửa và Anderson bước vào trong, đưa mắt nhìn tên phạm nhân. Wyatt Gillette trông thật xanh xao, hắn có màu da rám nắng ‘kiểu hacker’, cách người ta vẫn giễu cợt một người tái nhợt xanh xao và khá là gầy. Mái tóc thì bẩn thỉu, dơ dáy và những móng tay của hắn cũng vậy. Rõ ràng là Gillette đã không tắm rửa và cạo râu cả tuần rồi. Viên cảnh sát nhận thấy cái nhìn kỳ cục trong đôi mắt màu nâu tối của Gillette, hắn chớp chớp mắt như phát hiện ra điều gì đó. Hắn hỏi, “Ông là… Có phải ông là Andy Anderson không?” “Đó là Thanh tra Anderson,” viên giám ngục nhắc nhở, với một giọng rít lên the thé. “Ông điều hành bộ phận điều tra tội phạm máy tính của bang,” Gillette nói. “Cậu biết tôi à?” “Tôi có nghe ông giảng bài ở Comsec vài năm trước.” Hội nghị Comsec về máy tính và an ninh mạng chỉ giới hạn cho cảnh sát và những chuyên gia an ninh đã được cấp giấy phép, nó không mở cho người ngoài. Anderson biết đó là trò vui tầm cỡ quốc gia dành cho những tay hacker trẻ tìm cách thâm nhập máy tính đăng ký và tự cấp cho mình thẻ tham dự. Trong lịch sử hội nghị, mới chỉ có hai hay ba tên làm được điều đó. “Làm sao cậu vào được?” Gillette nhún vai. “Tôi nhặt được một tấm thẻ ai đó đánh rơi.” Anderson gật đầu ra vẻ đầy hoài nghi. “Cậu nghĩ sao về bài diễn thuyết của tôi?” “Tôi đồng ý với ông: Các con chip silicon sẽ lỗi thời sớm hơn nhiều người vẫn nghĩ. Máy tính sẽ hoạt động dựa trên điện tử phân tử. Và điều đó có nghĩa là người dùng sẽ phải bắt đầu cân nhắc một phương pháp hoàn toàn mới để bảo vệ mình trước những hackers.” “Không một ai nghĩ như vậy trong hội nghị đó.” “Họ đã làm ông phát cáu.” Gillette nhớ lại. “Nhưng cậu thì không?” “Không. Tôi đã ghi chép lại.” Viên giám ngục đứng dựa vào bức tường trong khi tay cảnh sát ngồi chéo với Gillette và nói, “Cậu còn một năm trong bản án ba năm theo đạo luật liên bang về Lạm dụng và Gian lận máy tính. Cậu đã crack hệ thống máy móc của Western Software và lấy trộm mã nguồn của hầu hết các chương trình ở đó, đúng không?” Gillette gật đầu. Mã nguồn là não bộ và trái tim của các phần mềm máy tính, được bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Lấy trộm mã nguồn cho phép tên trộm dễ dàng có được ID và mã bảo mật để tái cấu trúc phần mềm và bán nó dưới tên của mình. Mã nguồn của Western Software cho các trò chơi, ứng dụng kinh doanh và các phần mềm là tài sản của họ. Nếu một tên hacker vô lương tâm lấy trộm được các mã này, hắn có thể khiến công ty trị giá cả tỉ đô này phá sản. Gillette nhấn mạnh: “Tôi không hề làm gì với các mã đó cả. Tôi đã xóa sạch chúng đi sau khi tải về.” “Vậy thì cậu crack hệ thống của họ để làm gì?” Tên hacker nhún vai. “Tôi nhìn thấy người đứng đầu của công ty xuất hiện trên CNN hay kênh nào đó. Ông ta nói không ai có thể xâm nhập vào mạng lưới của họ được. Hệ thống an ninh của họ vô cùng hoàn hảo. Tôi chỉ muốn kiểm chứng điều đó thôi.” “Có đúng thế không?” “Phải, thực tế là vậy, hệ thống an ninh ấy rất hữu hiệu với những kẻ gà mờ. Vấn đề là ông không cần phải bảo vệ hay phòng thủ với những tên ngốc. Ông phải tự bảo vệ mình khỏi những kẻ như tôi kia.” “Chà, khi đã xâm nhập vào rồi, tại sao anh không nói với công ty đó về những kẽ hở bảo mật ấy? Làm một hacker mũ trắng thì sao?” Hacker mũ trắng là tên gọi dành cho những hacker chuyên xâm nhập vào các hệ thống máy tính để tìm ra những kẽ hở bảo mật cho nạn nhân của mình. Đôi khi để tận hưởng vinh quang, đôi lúc là vì tiền. Thậm chí đôi khi chỉ vì họ nghĩ rằng đó là điều đúng đắn cần phải làm. Gillette nhún vai. “Đó là vấn đề của họ. Gã đó nói là nó không thể bị hack. Tôi chỉ muốn thử xem mình có làm được không thôi.” “Tại sao?” Lại nhún vai. “Tò mò thôi.” “Vậy thì tại sao FBI lại truy lùng cậu gắt gao như thế?” Anderson hỏi. Nếu như một hacker không phá hoại việc kinh doanh hoặc cố gắng bán những gì hắn lấy trộm thì hiếm khi FBI phải điều tra, chưa kể đến việc họ đệ trình vụ án tới Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Người giám ngục trả lời câu hỏi này, “Là do DoD[3].” “Bộ Quốc phòng?” Anderson hỏi, nhìn vào hình xăm vụng về trên cánh tay Gillette. Đó có phải là hình một cái máy bay không nhỉ? Không phải, nó như kiểu một con chim hay gì đó. “Chuyện đó không đúng,” Gillette lẩm nhẩm. “Hoàn toàn là chuyện vớ vẩn.” Viên cảnh sát nhìn tay giám ngục khi anh ta giải thích, “Lầu Năm Góc cho rằng hắn đã viết một chương trình nào đó hay đại loại thế để bẻ khóa phần mềm mã hóa mới nhất của DoD.” “Chương trình Standard 12 của họ?” Anderson bật cười. “Cậu sẽ phải cần đến cả tá siêu máy tính hoạt động liên tục trong sáu tháng chỉ để crack một e-mail.” Standard 12 mới được thay thế cho DES – Defense Encryption Standard (Tiêu chuẩn Mã hóa Quốc phòng), để trở thành phần mềm mã hóa tối tân của Chính phủ. Nó được sử dụng để mã hóa những dữ liệu và các thông điệp bí mật. Chương trình mã hóa quan trọng với an ninh quốc gia đến mức nó được xem như vũ khí theo Luật Xuất khẩu. Anderson nói tiếp, “Nhưng thậm chí nếu cậu ta đã thực sự crack một cái gì đó được mã hóa bởi Standard 12, thì sao nào? Bất cứ ai cũng cố gắng crack những thứ đã được mã hóa.” Việc này không hề bất hợp pháp miễn là tài liệu được mã hóa không phải tuyệt mật hay bị lấy cắp. Thực tế, rất nhiều nhà sản xuất phần mềm thách thức mọi người thử phá vỡ các tài liệu được mã hóa bởi các phần mềm của họ và đưa ra giải thưởng cho bất cứ ai có thể làm được điều đó. “Không,” Gillette giải thích. “Bộ Quốc phòng nói rằng tôi xâm nhập vào máy tính của họ, tìm ra cách thức hoạt động của Standard 12 và viết phần mềm giải mã tài liệu đó. Nó có thể làm điều đó trong vài giây.” “Không thể nào,” Anderson nói, cười lớn. “Không thể thực hiện được điều đó đâu.” Gillette nói, “Đó cũng là những gì tôi nói với họ. Họ không tin tôi.” Tuy nhiên, khi Anderson quan sát đôi mắt nhanh nhạy, trũng sâu dưới cặp lông mày tăm tối và đôi tay ngọ nguậy bồn chồn không yên trước mặt mình, ông tự hỏi liệu có khi nào tay hacker này đã thực sự viết ra một chương trình thần kỳ như thế. Bản thân Anderson không thể làm được điều đó, ông cũng chẳng biết bất cứ ai có thể làm được. Nhưng sau tất cả, ông đang ở đây lúc này, phải ngả mũ vì Gillette thực sự là một phù thủy, thuật ngữ mà các hackers sử dụng để ám chỉ những người đạt tới cảnh giới cao nhất trong Thế giới máy tính. Có tiếng gõ cửa và viên cai ngục đưa hai người đàn ông bước vào. Người đầu tiên, tuổi ngoài bốn mươi, có một khuôn mặt gầy, mái tóc vàng sẫm cứng ngắc theo nếp nhờ gôm xịt được chải ngược ra sau. Và phần tóc mai dày rậm tuyệt đẹp. Ông ta mặc bộ comple màu xám rẻ tiền. Chiếc áo sơ mi trắng sờn cũ và quá khồ, lòi một nửa ra ngoài. Ông ta liếc nhìn Gillette một cách thờ ơ. “Chào anh,” ông ta nói với viên giám ngục bằng một giọng đều đều. “Tôi là Thám tử Frank Bishop, Sở cảnh sát bang, Đội điều tra trọng án.” Ông ta gật đầu chào xã giao với Anderson rồi im lặng. Trẻ hơn một chút, nhưng vạm vỡ hơn, người đàn ông thứ hai bắt tay viên giám ngục và Anderson. “Thám tử Bob Shelton.” Khuôn mặt anh bị rỗ vì mụn nhọt hồi nhỏ. Anderson không biết bất cứ điều gì về Shelton, nhưng ông đã từng nói chuyện với Bishop và có cảm xúc lẫn lộn về sự can thiệp của anh ta trong vụ án khiến Anderson có mặt ở đây. Bishop cũng là một bậc thầy trong lĩnh vực của mình, dù chuyên môn của anh ta là săn lùng những tên giết người và phạm tội hiếp dâm ở những khu vực khó nhằn lân cận như vùng đất cảng Oakland, Haight-Ashbury và San Francisco Tenderloin. Cảnh sát Đơn vị điều tra tội phạm máy tính không được cấp phép, hay trang bị, để thực hiện điều tra các vụ giết người mà không có sự hỗ trợ của người từ bộ phận Trọng án, nhưng sau vài cuộc thảo luận ngắn gọn qua điện thoại với Bishop, Anderson cũng không có ấn tượng gì lắm. Viên cảnh sát hình sự dường như không có khiếu hài hước và thường xuyên xao nhãng và, rắc rối hơn là, chẳng biết gì về máy tính cả. Anderson cũng từng nghe nói rằng thậm chí bản thân Bishop cũng không hề muốn làm việc với Đơn vị điều tra tội phạm máy tính (CCU). Anh ta đã và đang vận động hành lang để được tham gia vào vụ MARINKILL – được FBI đặt tên theo địa điểm xảy ra vụ án: Vài ngày trước, ba tên cướp nhà băng đã giết hai người qua đường và một cảnh sát ở Ngân hàng America chi nhánh Sausalito trong Hạt Marin. Có người trông thấy họ chạy trốn về hướng đông, điều đó có nghĩa là rất có thể họ đã rẽ sang hướng nam về phía địa phận của Bishop, khu vực San Jose. Thực tế, lúc này, điều đầu tiên Bishop làm là kiểm tra màn hình điện thoại của mình, chắc là để xem có nhận được thông báo hay tin tức gì về việc sắp xếp lại nhiệm vụ không. Hất đầu về phía hai chiếc ghế dài quanh chiếc bàn kim loại, Anderson nói với hai thám tử, “Các quý ngài đây có muốn ngồi xuống không ạ?” Vẫn đứng yên ở đó, Bishop lắc đầu. Anh ta nhét áo vào quần rồi khoanh tay trước ngực. Shelton ngồi xuống cạnh Gillette. Rồi viên cảnh sát to lớn nhìn vào mặt tên phạm nhân một cách đầy ghê tởm và đứng dậy, ngồi sang phía bên kia của chiếc bàn. Anh ta lầm bầm nói với Gillette, “Thi thoảng cậu cũng cần phải tắm rửa đi chứ.” Tên tù nhân đáp lại, “Thế thì ông nên hỏi ngài giám ngục tại sao tôi chỉ được tắm mỗi tuần một lần.” “Bởi vì, Wyatt,” viên giám ngục nói một cách bình thản, “anh đã vi phạm quy định của trại. Đó là lý do anh phải ở khu biệt giam?” Anderson không có đủ thời gian và sự kiên nhẫn để cãi nhau. Ông nói với Gillette, “Chúng tôi có chút rắc rối và đang hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ cậu.” Ông ta liếc nhìn Bishop và nói, “Anh có muốn tóm tắt cho anh ta nghe không?” Theo đúng quy định của Sở cảnh sát bang, Frank Bishop là người chịu tránh nhiệm chỉ đạo việc xử lý vụ án. Nhưng người cảnh sát mảnh khảnh lắc đầu. “Không, thưa ngài, ngài có thể tiếp tục.” “Đêm hôm qua, một người phụ nữ đã bị bắt cóc từ một nhà hàng ở Cupertino. Cô ta đã bị sát hại và người ta tìm thấy cái xác ở Portola Valley. Cô ta đã bị đâm đến chết. Không có dấu hiệu bị xâm hại tình dục và chẳng có động cơ rõ ràng nào cả.” “Chà, nạn nhân này, Lara Gibson, đang điều hành một trang Web đưa ra các lời khuyên để giúp phụ nữ tự bảo vệ mình. Cô ấy đã lên báo rất nhiều lần và xuất hiện trên Lary King. Uhm, sự việc xảy ra như sau: Cô ấy đang ở trong quầy bar thì một người đàn ông bước tới, có vẻ như hắn ta quen biết cô ấy. Hắn tự giới thiệu mình là Will Randolph, người phục vụ quầy bar nói. Đó là tên người anh họ của một cô gái mà nạn nhân hẹn gặp vào buổi tối hôm qua. Randolph không liên quan gì cả, anh ta đã tới New York được một tuần rồi, nhưng chúng tôi tìm thấy một bức ảnh kỹ thuật số chụp anh ta trên máy tính của nạn nhân và trông họ na ná nhau – nghi phạm và Randolph. Chúng tôi cho rằng đó là lý do tại sao nghi phạm chọn anh ta để giả mạo. Vì thế, hắn biết tất cả mọi thông tin về nạn nhân: Bạn bè, những nơi cô ấy hay lui tới, cô ấy thường làm gì, sở hữu loại chứng khoán nào, bạn trai cô ấy là ai. Thậm chí hình như hắn đã vẫy chào ai đó trong quầy bar nhưng Đội điều tra trọng án đã thẩm vấn hầu hết những khách hàng ở đó tối hôm qua và không tìm thấy một ai biết chút gì về hắn. Do đó chúng tôi cho rằng lúc ấy hắn chỉ giả vờ thôi, anh biết đấy, để làm cho cô ấy thoải mái, ra vẻ là một khách quen.” “Hắn sử dụng kỹ thuật social engineering[4] với cô ấy,” Gillette nói. “Là sao?” Shelton hỏi. Anderson hiểu thuật ngữ nhưng chưa kịp giải thích thì Gillette đã nói, “Nó có nghĩa là đóng giả một ai đó, giả vờ là một người không phải mình. Hacker lợi dụng điều này để xâm nhập vào các cơ sở dữ liệu và các đường dây điện thoại, rồi tiếp cận để lấy mật khẩu. Anh càng đưa ra được nhiều thông tin về ai đó, thì họ lại càng tin tưởng anh và làm theo những gì anh muốn.” “Giờ thì, cô bạn mà Lara hẹn gặp – Sandy Hardwick nói rằng cô ấy đã nhận được cuộc gọi từ một người nào đó tự nhận là bạn trai của Lara và hủy bỏ kế hoạch cho bữa tối. Cô ấy đã cố gắng liên lạc nhưng điện thoại của Lara lại nằm ngoài vùng phủ sóng.” Gillette gật đầu, “Hắn đã phá sóng điện thoại của cô ấy,” và cau mày, “Không, có lẽ là cả hệ thống di động luôn.” Anderson gật đầu. “Hãng Mobile America đã báo cáo về một vụ cắt nguồn điện kéo dài chính xác bốn mươi lăm phút ở cột phát sóng 850. Ai đó đã bấm mã tắt nguồn điện rồi bật lại.” Gillette nheo mắt lại. Viên thám tử nhận ra hắn đang ngày càng thích thú với vụ án. “Vậy,” tay hacker đăm chiêu, “hắn biến mình thành ai đó mà Lara tin tưởng rồi sát hại cô ta. Và hắn thực hiện điều đó bằng những thông tin lấy được từ máy tính của cô ấy.” “Chính xác.” “Cô ấy có sử dụng dịch vụ Internet của hãng nào không?” “Horizon Online.” Gillette cười lớn. “Chúa ơi, các ông có biết nó được bảo mật tốt thế nào không? Hắn đã xâm nhập vào một trong các router[5] của họ và đọc e-mail của cô ấy.” Rồi hắn lắc đầu, dò xét khuôn mặt của Anderson. “Nhưng đó chỉ là trò trẻ con mà thôi. Bất cứ ai cũng có thể làm điều đó. Mọi chuyện còn hơn thế nữa, phải không?” “Đúng vậy,” Anderson tiếp lời. “Chúng tôi đã nói chuyện với bạn trai Lara và kiểm tra máy tính của cô ta. Một nửa số thông tin mà người phục vụ quầy bar nghe thấy gã sát nhân nói với cô ta không phải là từ các e-mail của cô ấy. Chúng nằm trong chiếc máy tính.” “Có thể hắn đã sử dụng phương thức Dumpster ping[6] ở bên ngoài nhà cô ấy và có được thông tin bằng cách đó.” Anderson giải thích với Bishop và Shelton, “Dumpster ping có nghĩa là lục lọi trong các thùng rác để lấy được những thông tin có ích cho việc hack, chẳng hạn như các giấy tờ, tài liệu, các bản in, hóa đơn bị vứt, nói chung là những thứ kiểu như vậy.” Nhưng ông cũng nói với Gillette, “Tôi nghi ngờ khả năng này – tất cả những điều hắn biết đều được lưu trữ trong máy tính của cô ấy.” “Vậy nếu như đó là một vụ đột nhập kiểu hard access (không qua mạng máy tính) thì sao?” Gillette hỏi. Đó là khi một tay hacker đột nhập vào nhà hoặc văn phòng của ai đó và sử dụng máy tính của nạn nhân. Còn Soft access (xâm nhập mềm) là việc đột nhập vào một chiếc máy tính đang kết nối mạng từ một khoảng cách xa. Nhưng Anderson đưa ra câu trả lời là, “Nó phải là soft access. Tôi đã nói chuyện với người bạn mà Lara hẹn gặp hôm đó, Sandy. Cô ấy nói lần duy nhất họ nói chuyện về việc sẽ tụ tập tối hôm đó là qua tin nhắn trực tiếp hồi chiều và Lara đã ở nhà cả ngày. Tên sát nhân phải ở một địa điểm khác.” “Thú vị rồi đây,” Gillette thì thầm. “Tôi cũng nghĩ như vậy,” Anderson nói. “Vấn đề mấu chốt là chúng tôi cho rằng có một loại virus mới nào đó được sử dụng để xâm nhập vào máy tính của Lara. Và, Đơn vị điều tra tội phạm máy tính CCU chúng tôi không thể tìm ra nó. Chúng tôi hy vọng cậu sẽ xem xét việc này.” Gillette gật đầu, nheo mắt nhìn lên trần nhà bẩn thỉu. Anderson nhận thấy những ngón tay của gã đàn ông trẻ đang chuyển động với những cú nhấp nhẹ và nhanh. Lúc đầu, viên cảnh sát cho rằng Gillette bị tê tay hoặc co giật. Nhưng sau đó, ông nhận ra tên hacker đang làm gì. Hắn đang vô thức gõ lên một bàn phím vô hình – có vẻ đó là một thói quen của hệ thần kinh. Tên hacker hạ thấp tầm mắt xuống nhìn Anderson. “Ông sử dụng cái gì để kiểm tra máy tính của cô ấy?” “Norton Commander, Vi-Scan 5.0, phần mềm Forensic Detection Package của FBI, Restore8 và cả phần mềm Partition của Bộ Quốc phòng, cùng với File Allocation Analyzer 6.2. Chúng tôi thậm chí còn thử luôn bằng phần mềm Surface-Scour.” Gillette nở một nụ cười hoài nghi. “Tất cả những thứ đó và các ông vẫn không tìm được bất cứ cái gìsao?” “Không.” “Làm sao tôi có thể tìm thấy một thứ mà các ông không thể chứ?” “Tôi đã xem vài phần mềm cậu viết, chỉ có khoảng ba hay bốn người trên thế giới có thể viết những phần mềm như thế. Cậu có thể có phần mềm hay hơn của chúng tôi, hoặc cũng có thể là hack together (hack kết hợp nhiều chương trình lại với nhau).” Gillette hỏi Anderson, “Vậy thì tôi có gì ở đây?” “Gì chứ?” Bob Shelton hỏi, khuôn mặt lỗ chỗ cau lại và nhìn chằm chằm vào tay hacker. “Nếu tôi giúp các ông thì tôi sẽ được cái gì?” “Cậu không có lương tâm à,” Shelton ngắt lời. “Một cô gái bị sát hại. Cậu không cảm thấy chút xót thương nào sao?” “Tôi rất tiếc về chuyện xảy ra với cô ấy,” Gillette đáp. “Nhưng thỏa thuận là nếu tôi giúp các ông, tôi muốn được trả công.” Anderson hỏi, “Ví dụ?” “Tôi muốn có một chiếc máy tính.” “Không máy tính,” viên giám ngục gằn giọng. “Không đời nào.” Anh ta nói với Anderson, “Đó là lý do mà chúng tôi nhốt anh ta vào khu cách ly. Chúng tôi bắt được anh ta đang ngồi trước một cái máy tính trong thư viện – anh ta đang lên mạng. Thẩm phán đã thông qua mệnh lệnh rằng một phần trong án phạt dành cho anh ta là không được sử dụng máy tính và Internet.” “Tôi sẽ không lên mạng,” Gillette nói. “Tôi vẫn sẽ ở lại khu E, nơi tôi đang ở. Tôi không có kết nối với đường dây điện thoại.” Viên giám ngục giễu cợt, “Tốt hơn là mày ở lại khu hành chính.” “Khu biệt giam chứ,” Gillette chỉnh lại. “Chỉ vì một cái máy tính thôi à?” “Đúng.” Anderson hỏi, “Nếu anh ta phải ở khu biệt giam, như vậy sẽ chẳng có chút cơ hội nào để lên mạng đúng không, như thế không sao chứ?” “Tôi cho là vậy,” viên giám ngục nói, không chắc chắn lắm. Viên cảnh sát quay sang nói với Gillette, “Thỏa thuận thế nhé. Chúng tôi sẽ đưa cho cậu một chiếc laptop.” “Ông đang mặc cả với hắn đấy à?” Shelton nghi hoặc hỏi Anderson. Anh ta quay sang Bishop tìm kiếm sự ủng hộ nhưng viên cảnh sát mảnh khảnh này đang mải vuốt chỗ tóc mai lỗi mốt của mình và ngó chiếc điện thoại một lần nữa, chờ đợi lệnh hủy nhiệm vụ này. Anderson không đáp lại Shelton. Ông nói tiếp với Gillette, “Nhưng cậu chỉ có được chiếc máy tínhsau khi phân tích xong chiếc máy của Lara Gibson và cho chúng tôi một bản báo cáo hoàn chỉnh.” “Chắc chắn là thế rồi,” tên phạm nhân nói, đôi mắt bừng lên vẻ hứng khởi. “Máy tính của cô ta là một chiếc IBM, mẫu bán đại trà. Một tiếng nữa chúng tôi sẽ mang nó tới đây. Chúng tôi có tất cả đĩa cùng các phần mềm cô ấy sử dụng, và…” “Không, không, không,” Gillette quả quyết. “Tôi không thể làm việc ở đây được.” “Tại sao?” “Tôi sẽ cần truy cập vào một máy chủ – có thể là một siêu máy tính. Tôi sẽ cần các chỉ dẫn kỹ thuật và phần mềm.” Anderson nhìn Bishop, có vẻ như chẳng có lời nào lọt vào tai anh ta. “Không đời nào,” Shelton nói, viên cảnh sát này nhiều lời hơn hẳn đồng sự dù rõ ràng là anh ta chỉ có vốn từ hạn hẹp. Anderson đang đấu tranh trong lòng thì viên giám ngục cất lời, “Tôi có thể gặp riêng các ngài ở sảnh một chút không?” Chương BA Đó thật sự là một cú hack hay ho. Nhưng không hề khó khăn như hắn đã nghĩ. Phate – cái tên giả danh của hắn, theo đúng kiểu đánh vần của hacker là Ph chứ không phải F – giờ đang lái xe về căn nhà ở Los Altos, nằm trong trung tâm Thung lũng Silicon. Hắn đã bận rộn cả buổi sáng hôm nay: Hắn đã vứt bỏ chiếc xe tải màu trắng với vệt ố màu máu mà hắn lợi dụng để khơi lên nỗi sợ hãi hoang mang trong lòng Lara Gibson ngày hôm qua. Và hắn đã quẳng đống đồ hóa trang – mái tóc tết lọn, chiếc áo khoác dã chiến và kính râm trong vai kẻ theo dõi và bộ đồ của nhân viên công ty máy tính vô hại dành cho vai diễn Will Randolph, anh họ của Sandy Hardwick. Giờ thì, hắn là một kẻ hoàn toàn khác. Tất nhiên, không phải tên thật hay nhân dạng thật của hắn – Jon Patrick Holloway, chào đời cách đây hai mươi bảy nằm ở Upper Saddle River, New Jersey. Không, lúc này hắn là một trong sáu hay bảy nhân vật hư cấu mà hắn mới tạo ra. Với hắn, họ như những người bạn, có đủ bằng lái xe, thẻ nhân viên, thẻ an sinh xã hội và tất cả các giấy tờ cần thiết không thể thiếu để xác nhận danh phận trong thời buổi này. Thậm chí hắn còn phân vai cho các nhân vật của mình bằng giọng nói và các nhân cách khác nhau mà hắn cần cù luyện tập. Bạn muốn là ai nào? Câu trả lời của Phate cho câu hỏi này là: Giống với bất cứ ai trên thế giới này. Nhớ lại vụ hack Lara Gibson, hắn thấy thật quá dễ dàng để tiếp cận người quá tự hào về việc bản thân là nữ hoàng tự vệ chốn thành thị. Và đã đến lúc nâng mức chơi lên một chút rồi. Chiếc Jaguar của Phate di chuyển chậm rãi trong làn giao thông dày đặc buổi sáng trên đại lộ Interstate 280 và Junipero Serra Highway. Hướng về dãy núi phía tây nhấp nhô trong làn sương mù mờ ảo đang trôi về hướng Vịnh San Francisco. Những năm gần đây, hạn hán đã biến thung lũng trở nên cằn cỗi, nhưng hầu như cả mùa xuân năm nay, hôm nay chẳng hạn, trời lại mưa và khắp nơi là một màu xanh bát ngát của cỏ cây hoa lá. Nhưng đối với Phate, khung cảnh tươi đẹp ấy chẳng hề quyến rũ chút nào. Hắn đang nghe một vở kịch trên chiếc máy phát CD – Cái chết của một người bán hàng (Death of a Salesman). Đó là một trong những vở kịch yêu thích của hắn. Đôi lúc, miệng của hắn mấp máy theo lời thoại (hắn thuộc tất cả các phần). Mười phút sau, lúc 8:45, hắn lái xe vào trong gara của căn hộ riêng bề thế tại khu đô thị Stonecrest bên đường El Monte Road ở Los Altos. Hắn đỗ xe, rồi đóng cửa lại. Hắn để ý thấy một giọt máu hình dấu phẩy của Lara Gibson trên sàn nhà sạch bong. Quá bất cẩn vì đã để sót vệt máu này, hắn lẩm nhẩm tự trách mình. Hắn lau chùi vết máu rồi bước vào trong, đóng cánh cửa và khóa lại. Căn nhà vẫn còn mới, chỉ khoảng sáu tháng, và vẫn còn phảng phất mùi keo trên thảm cùng mùi sơn rất thơm. Nếu những người hàng xóm đến thăm để chào hỏi và đứng ở hành lang phía trước, nhìn vào phòng khách, họ sẽ thấy những thứ thường có trong cuộc sống thoải mái của một gia đình trung lưu, nhờ số tiền mà ngành tin học mang lại cho nhiều người ở thung lũng này. Chào, rất vui được gặp cô… Vâng, đúng thế, mới chuyển tới tháng trước thôi… Tôi đang làm cho một công ty mạng mới thành lập ở Palo Alto. Họ đón tôi và nửa đống đồ đạc từ Austin đến trước, Kathy và lũ trẻ sẽ tới đây vào tháng Sáu sau khi năm học kết thúc… Họ đấy. Bức ảnh này được chụp trong kỳ nghỉ ở Florida vào tháng Một. Troy và Brittany. Thằng bé bảy tuổi rồi. Còn con bé thì sẽ tròn năm tuổi vào tháng tới. Trên bệ lò sưởi, bàn cà phê cùng bàn ghép so-fa đắt tiền là hàng tá ảnh của Phate chụp cùng một người phụ nữ tóc vàng, đang làm dáng trên bãi biển, cưỡi ngựa, ôm nhau trên đỉnh núi ở khu nghỉ dưỡng trượt tuyết, và nhảy múa trong lễ cưới của họ. Các bức ảnh khác chụp hai vợ chồng với lũ nhóc. Các kỳ nghỉ, luyện tập bóng đá, Giáng sinh, Lễ Phục sinh. Anh biết đấy, tôi cũng muốn mời anh ăn tối hoặc đi đâu đó nhưng công ty mới này bắt tôi làm việc như điên vậy… Tốt nhất là đợi đến khi cả nhà tôi đến đây. Kathy thực sự là một nhà hoạt động xã hội tài ba… Và một đầu bếp tuyệt vời nữa, hơn tôi rất nhiều. Được rồi, bảo trọng nhé ! Và những người hàng xóm có thể chào đón anh ta bằng những chai rượu, bánh quy hay những cây thu hải đường rồi quay về nhà, mà không bao giờ có thể đoán ra rằng, ở trình độ tối cao của kỹ thuật social engineering đầy sáng tạo, tất cả những gì hắn dựng nên chỉ là giả, như kịch bản một bộ phim vậy. Giống những bức ảnh hắn đã cho Lara Gibson xem, chúng được tạo ra từ máy tính của hắn: Mặt hắn được ghép vào thay thế khuôn mặt của người mẫu nam, còn mặt của Kathy là khuôn mặt phụ nữ bất kỳ được cóp từ một người mẫu trong Self. Những đứa nhóc thì từ tờ Vogue Bambini. Cả căn nhà cũng chỉ là bề ngoài, phòng khách và hành lang là nơi duy nhất có đồ đạc (để lừa gạt những kẻ ngốc ngếch chỉ đứng ở ngưỡng cửa). Trong phòng ngủ có một chiếc giường nhỏ và cái đèn bàn. Trong phòng ăn – phòng làm việc của Phate, chỉ có một chiếc bàn, đèn, hai chiếc máy tính xách tay, và một chiếc ghế văn phòng. Trong tầng hầm…, chà, tầng hầm thì chứa một vài thứ khác, nhưng chắc chắn chúng không được dùng để trưng bày. Nếu cần thiết, khi hắn biết khả năng đó có thể xảy ra, hắn có thể bước ra khỏi cánh cửa ngay tức khắc, vứt bỏ mọi thứ. Tất cả những vật sở hữu quan trọng – những linh kiện quan trọng, những chiếc máy tính cổ lỗ sỹ mà hắn sưu tập, chiếc máy tạo thẻ căn cước, những bộ phận siêu máy tính mà hắn mua bán để kiếm lời nằm trong một nhà kho cách đó hàng dặm. Và chẳng có gì ở đây có thể dẫn cảnh sát tới địa điểm ấy. Giờ hắn bước tới phòng ăn và ngồi xuống bàn, bật máy tính lên. Màn hình bừng sáng, dòng gợi ý C:… nhấp nháy trên màn hình, sự xuất hiện của ký hiệu nhấp nháy ấy khiến Phate như được hồi sinh. Mày muốn là ai nào? Chà, lúc này, hắn không còn là Jon Patrick Holloway hay Will Randolph, Warren Gregg, James L. Seymour hoặc bất cứ ai trong số các nhân vật mà hắn đã tạo ra. Giờ hắn là Phate. Không còn là nhân vật tóc vàng, cao một mét tám với thân hình nhẹ nhàng, trôi nổi vô định giữa những ngôi nhà, cửa hàng, những chiếc máy bay 3D hay vỉa hè bê tông trên đường cao tốc với bãi cỏ màu nâu có hàng rào sắt bằng chất bán dẫn, cây cối, những dãy chợ bán thú nuôi và con người, con người, con người… Đây mới là Thế giới thực của hắn, thế giới bên trong chiếc máy tính. Hắn gõ vài lệnh và với một sự khuấy động đầy hứng khởi giữa hai chân, hắn nghe thấy tiếng rít lên rồi im bặt phát ra từ chiếc modem khi nó bắt đầu kết nối điện tử (Hầu hết những tay hacker thực thụ sẽ chẳng bao giờ dùng loại modem chậm như rùa và những đường dây điện thoại như thế này, mà sẽ chọn một đường dẫn trực tiếp, để lên mạng. Nhưng Phate có một giao ước, tốc độ không bao giờ quan trọng bằng việc vẫn online, có thể di động và che đậy dấu vết qua hàng triệu dặm đường dây điện thoại trên khắp thế giới). Sau khi kết nối Internet, hắn kiểm tra email. Chẳng có tin gì từ Shawn cả, nếu không thì hắn đã đọc ngay rồi, những cái khác thì hắn sẽ xem sau. Hắn thoát chương trình e-mail và gõ một lệnh khác. Một menu hiện lên trên màn hình. Khi hắn và Shawn viết phần mềm Trapdoor năm ngoái[7], hắn đã quyết định rằng, dù sẽ không có ai sử dụng nó, hắn sẽ tạo ra một menu thật đơn giản, thân thiện với người dùng bởi đó là điều những lập trình viên tài ba thường làm.       TRAPDOOR Mainmenu 1. Bạn có muốn tiếp tục phần trước không? 2. Bạn có muốn tạo mới/mở/chỉnh sửa một file nền không? 3. Bạn muốn tìm kiếm một mục tiêu mới? 4. Bạn muốn giải mã một mật khẩu hay một văn bản? 5. Bạn có muốn thoát khỏi hệ thống không?       Hắn lăn chuột tới dòng thứ ba và nhấn nút Enter. Một giây sau, phần mềm Trapdoor từ tốn hỏi một cách lịch sự:       Nhập địa chỉ email của mục tiêu       Hắn gõ tên một user trong trí nhớ và nhấn Enter. Trong vòng mười giây, hắn được kết nối tới máy tính của ai đó và hắn có thể thoải mái quan sát mà người dùng chẳng chút nghi ngờ. Hắn đọc một lúc rồi bắt đầu viết nhanh các ghi chú. Lara Gibson là một vụ hack hay ho, nhưng vụ này có khi còn ra trò hơn.       - _ - _ -       “Hắn đã làm ra thứ này,” viên giám ngục nói với họ. Cảnh sát đang đứng trong phòng kho của nhà tù San Ho. Nằm xếp hàng trên kệ là dụng cụ để chơi chất gây nghiện, đồ trang trí kiểu Đức Quốc xã và các tấm biển của quốc gia Hồi giáo, các vũ khí tự tạo – dùi cui, dao và vòng sắt đeo hình nắm đấm, thậm chí cả vài khẩu súng. Đây là căn phòng đựng chiến lợi phẩm và những vật dụng ghê rợn được tịch thu từ đám tù nhân cứng đầu của nhà tù trong vài năm qua. Dù vậy, rõ ràng cái mà viên giám ngục đang chỉ chẳng giống một thứ có thể gây sát thương hay làm chết người chút nào. Đó là một chiếc hộp gỗ kích thước khoảng 60×90 centimet, bên trong chứa đầy những sợi dây điện lấy từ chuông cửa, kết nối hàng tá linh kiện điện tử. “Cái gì thế?” Bob Shelton hỏi bằng giọng nghiêm trọng. Andy Anderson cười lớn và thì thào, “Chúa ơi, đó là một chiếc máy tính. Một chiếc máy tính tự tạo.” Ông chúi người về phía trước, xem xét sự giản đơn của dây điện, những chỗ vặn xoắn dây được nối với nhau một cách hoàn hảo thay cho mối hàn, sự tận dụng không gian một cách hiệu quả. Nó thực sự đơn giản, sơ đẳng nhưng tính tế đến kinh ngạc. “Tôi không biết rằng anh có thể tạo được một chiếc máy tính,” Shelton nói. Frank Bishop còm nhom thì chả buồn mở miệng lời nào. Viên giám ngục nói, “Gillette là kẻ nghiện ngập tồi tệ nhất mà tôi từng thấy, mà chúng tôi đã có những gã xì ke ma túy thâm niên rồi. Chỉ có điều, cái hắn nghiện lại là những thứ này – máy tính. Tôi dám đảm bảo rằng hắn ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để được online. Và hắn có khả năng làm hại người khác để đạt được điều đó. Ý tôi là làm hại người khác một cách khủng khiếp. Hắn làm ra thứ này chỉ để lên mạng.” “Nó có một cái modem ở bên trong sao?” Anderson hỏi, vẫn còn cảm giác choáng váng với thiết bị đơn giản này. “Đợi đã, đây rồi.” “Bởi vậy mà tôi cần phải cân nhắc về việc đưa hắn ta ra ngoài.” “Chúng tôi có thể kiểm soát cậu ta,” Anderson nói, miễn cưỡng rời mắt khỏi sáng chế của Gillette. “Anh nghĩ mình có thể làm thế ư,” viên giám ngục nói, nhún vai. “Những kẻ như hắn sẽ nói bất cứ điều gì phải nói để được lên mạng. Như những kẻ nghiện rượu vậy. Ông biết về vợ hắn chứ?” “Hắn đã có gia đình rồi sao?” Anderson hỏi. “Đã từng. Hắn đã cố dừng việc hack lại sau khi lập gia đình nhưng không thể. Rồi hắn bị bắt và họ mất tất cả để chi trả cho luật sư và tiền phạt. Cô vợ ly hôn với hắn hai năm trước. Tôi đã ở đây khi hắn nhận được thủ tục ly hôn. Hắn thậm chí còn chả thèm quan tâm.” Cánh cửa mở ra và một viên gác ngục bước vào với chiếc cặp tài liệu cũ sờn. Anh ta đưa nó cho viên giám ngục, rồi viên giám ngục lại chuyển nó cho Anderson. “Đây là tài liệu mà chúng tôi có về hắn. Hy vọng nó sẽ giúp ông quyết định xem có thực sự cần hắn hay không.” Anderson lướt qua tập tài liệu. Tên tù nhân đã từng có tiền án tiền sự từ nhiều năm trước. Dù vậy, việc bị tạm giam thời niên thiếu không phải do tội gì quá nghiêm trọng: Gillette đã gọi đến văn phòng chính của Pacific Bell từ một bốt điện thoại công cộng – thứ mà những tay hacker gọi là pháo đài điện thoại và lập trình để nó giúp hắn gọi những cuộc gọi đường dài miễn phí. Các pháo đài điện thoại được coi là trường tiểu học của những hacker trẻ tuổi, sử dụng để xâm nhập vào hệ thống các công ty điện thoại, chẳng khác gì một hệ thống máy tính khổng lồ. Nghệ thuật của việc xâm nhập vào các công ty điện thoại là để kiếm những cuộc gọi miễn phí, hoặc chỉ để nếm trải thử thách, được gọi là Phreaking[8]). Những ghi chú trong hồ sơ cho thấy Gillette đã gọi đến các số điện thoại tra cứu thời gian, nhiệt độ ở Paris, Athens, Frankfurt, Tokyo và Ankara. Điều đó cho thấy hắn xâm nhập hệ thống chỉ vì tò mò muốn biết mình có làm được hay không. Chứ không phải vì tiền. Anderson tiếp tục lướt qua hồ sơ của Gillette. Có điều gì đó rõ ràng về những lời mà viên giám ngục đã nói, hành vi của Gillette giống một kẻ nghiện ngập. Hắn đã từng bị thẩm vấn vì dính líu tới mười hai vụ hack lớn trong suốt tám năm. Trong bản án về vụ hack hệ thống của công ty Western Software, bên khởi tố đã trích dẫn câu nói từ một thẩm phán, người đã ra phán quyết với tên hacker nổi tiếng Kevin Mitnick, nói rằng Gillette là một kẻ ‘nguy hiểm khi được vũ trang bằng một bàn phím máy tính’. Tuy nhiên, hành vi liên quan tới máy tính của tên hacker không có đặc thù tội ác, Anderson cũng nhận thấy điều đó. Hắn đã từng làm việc cho cả tá công ty ở Thung lũng Silicon và luôn nhận được những báo cáo sáng sủa về kỹ năng lập trình của mình, ít nhất thì hắn đã bị sa thải vì không đi làm hay ngủ gật trong giờ do đã mất cả đêm để mày mò máy tính. Hắn cũng viết rất nhiều phần mềm miễn phí tuyệt vời và các Shareware[9] những chương trình phần mềm cho bất cứ ai cần sử dụng và đã thuyết trình tại các hội nghị về những hướng phát triển mới trong an ninh cùng ngôn ngữ lập trình máy tính. Rồi Anderson phải nhìn lại một lần nữa và mỉm cười ngạc nhiên. Ông đang nhìn vào bản sao của một bài báo mà Wyatt Gillette đã viết cho tạp chí Online vài năm trước. Bài báo này khá nổi tiếng và Anderson nhớ rằng mình đã đọc khi nó mới được xuất bản nhưng ông lại chẳng thèm để ý xem ai là tác giả. Tiêu đề bài báo là Life in the Blue Nowhere – Cuộc sống ở Miền xanh thẳm vô định. Chủ đề xoay quanh việc máy tính là phát minh công nghệ cao đầu tiên trong lịch sử, có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống con người, từ tâm lý, giải trí tới kiến thức hay thỏa mãn vật chất, thậm chí là cả tội ác, và vì nó, con người và máy móc sẽ tiếp tục gắn bó với nhau ngày càng khăng khít. Có nhiều lợi ích nhưng đồng thời cũng có rất nhiều nguy cơ. Từ ‘Blue Nowhere’ – Miền xanh thẳm vô định, được dùng để thay thế cho ‘Cyberspace’ (không gian số), chỉ thế giới của những chiếc máy tính, hoặc cũng được gọi là Thế giới máy tính – Machine World. Trong cụm từ mà Gillette nghĩ ra, “Blue” (xanh da trời) ám chỉ hệ thống điện để máy tính hoạt động. “Nowhere” – vô định, ý nói đó là một nơi không tồn tại, không có thật. Andy Anderson cũng tìm thấy vài bản sao của những tài liệu từ vài vụ án gần đây nhất của Gillette. Ông thấy hàng tá những bức thư được gửi tới các thẩm phán, mong muốn sự khoan dung trong phán quyết. Mẹ của tay hacker đã qua đời vì một cơn trụy tim bất ngờ khi bà mới khoảng năm mươi tuổi, nhưng nghe có vẻ như chàng trai trẻ này và cha anh ta có một mối quan hệ tốt đến đáng ghen tị. Cha của Gillette – một kỹ sư người Mỹ làm việc ở Ả-rập Saudi, đã email vài bức thư khẩn cầu vô cùng cảm động tới thẩm phán để xin giảm nhẹ hình phạt cho con trai. Anh trai của tay hacker, Rick – một viên chức Chính phủ ở Motana, đã giúp đỡ em mình bằng vài bức thư được fax tới bồi thẩm đoàn, cũng tha thiết cầu khẩn sự khoan dung. Rick Gillette thậm chí còn đề nghị một cách thống thiết rằng em trai của anh ta có thể đến sống với anh ta và vợ ‘ở một vùng núi lạc hậu và khắc khổ’, như thể không khí trong lành và lao động chân tay có thể chữa lành bản tính tội phạm của tay hacker. Anderson cảm động vì điều này nhưng cũng rất ngạc nhiên, phần lớn các tay hacker mà Anderson từng bắt giữ đều đến từ những gia đình không bình thường. Ông đóng tập hồ sơ lại và đưa nó cho Bishop, anh ta đọc nó một cách im lặng, dường như gặp khó khăn với những thuật ngữ liên quan tới máy tính. Viên thám tử lẩm bẩm, “The Blue Nowhere?” Một lát sau, anh ta bỏ cuộc và trả tập hồ sơ cho cộng sự. “Lịch trình thả anh ta ra như thế nào?” Shelton hỏi, lướt qua các trang hồ sơ. Anderson đáp, “Chúng ta có một tập hồ sơ thủ tục hành chính đang chờ sẵn ở tòa án. Ngay khi chúng ta có thể lấy được chữ ký của thẩm phán bang vào đó, Gillette là của ta.” “Tôi chỉ cảnh báo ngài thế này thôi,” viên giám ngục nói một cách đầy nghi ngại. Anh ta hất đầu về phía chiếc máy tính tự tạo. “Nếu ngài vẫn muốn thả hắn ra, đó là việc của ngài. Chỉ là ngài phải coi hắn như một con nghiện ma túy đã không được đụng đến kim tiêm hai năm rồi.” Shelton nói, “Tôi cho rằng ta nên gọi FBI. Chúng ta có thể đưa vài đặc vụ vào vụ này. Và sẽ có thêm nhiều người để mắt đến anh ta.” Nhưng Anderson lắc đầu. “Nếu chúng ta nói với họ thì Bộ Quốc phòng sẽ biết và bất ngờ về việc chúng ta thả kẻ đã phá vỡ Chương trình Standard 12 của họ. Gillette sẽ bị tống trở lại xà lim chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Không, chúng ta cần phải làm một cách lặng lẽ. Lệnh thả sẽ được thực hiện như với một tội phạm bình thường.” Anderson nhìn về phía Bishop, thấy anh ta lại đang kiểm tra chiếc điện thoại im lìm của mình một lần nữa. “Anh nghĩ sao, Frank?” Viên thám tử gầy guộc lại nhét áo vào quần và cuối cùng cũng nói được vài câu hoàn chỉnh. “Chà, thưa ngài, tôi nghĩ chúng ta nên đưa hắn ta ra ngoài càng sớm càng tốt. Cái tên sát nhân ấy chẳng chịu ngồi yên mà tán gẫu như chúng ta bây giờ đâu.” Chương BỐN Trong suốt nửa tiếng đồng hồ khốn khổ, Wyatt Gillette ngồi im trong phòng giam lạnh lẽo thời trung cổ, cố không suy đoán xem điều đó có thực sự xảy ra hay không – rằng hắn sẽ được thả. Hắn sẽ không cho phép bản thân mình hy vọng, dù chỉ là một tia hy vọng nhỏ nhoi ở trong tù, hy vọng là thứ đầu tiên phải chết. Rồi, với một tiếng ‘cách’ nhỏ như không, cánh cửa mở ra và những cảnh sát quay trở lại. Gillette ngẩng lên nhìn và thấy trên dái tai bên trái của Anderson có một lỗ khuyên đã tịt từ lâu. Viên cảnh sát nói, “Có một thẩm phán đã ký lệnh tạm thả.” Gillette nhận ra rằng nãy giờ mình vẫn ngồi im với hai hàm răng cắn chặt và đôi vai căng cứng. Hắn thở phào nhẹ nhõm vì thông tin vừa rồi. Cảm ơn, cảm ơn… “Giờ thì, cậu có một lựa chọn. Trong suốt thời gian ở ngoài, cậu muốn bị còng tay hay một cái xiềng chân có thiết bị phát tín hiệu?” Tên tù cân nhắc và đáp, “Xiềng chân.” “Đó là một sản phẩm mới,” Anderson nói. “Bằng Titanium. Cậu chỉ có thể đeo vào và tháo ra bằng một chiếc chìa khóa đặc biệt. Chưa từng có ai thoát khỏi cái này.” “Chà, có một gã đã làm được đấy,” Bob Shelton nói đầy hào hứng. “Nhưng hắn phải chặt chân mình để thoát ra. Hắn chỉ chạy được có một dặm trước khi chảy máu đến chết.” Lúc này, Gillette chẳng ưa gì Shelton, chẳng khác gì việc tay cớm lực lưỡng ấy cũng ghét bỏ hắn vậy. “Nó theo dõi tín hiệu của anh trong phạm vi sáu mươi dặm và phát tín hiệu xuyên qua cả kim loại,” Anderson tiếp tục. “Ông đã đạt được mục đích,” Gillette nói. Rồi quay sang viên giám ngục, “Tôi cần vài thứ trong buồng của mình.” “Thứ gì?” Ông ta càu nhàu. “Anh sẽ không nhởn nhơ ở ngoài lâu đến thế đâu, Gillette. Không cần phải thu dọn đồ đạc.” Gillette nói với Anderson, “Tôi cần vài quyển sách và sổ ghi chép của mình. Tôi có rất nhiều tài liệu có ích từ những tạp chí như Wired và 2600.” Viên cảnh sát CCU nói với người giám ngục, “Việc đó thì ok.” Một âm thanh điện tử inh tai kêu ầm ĩ gần đó. Gillette giật bắn mình vì tiếng động đó. Phải mất đến một phút để định thần đó là âm thanh gì, hắn chưa bao giờ nghe thấy nó ở San Ho. Frank Bishop trả lời điện thoại. Viên cảnh sát nhấc máy, nghe một lúc, gõ nhẹ vào phần tóc mai, rồi trả lời, “Vâng, thưa đại úy… Và?” Trong suốt một khoảng lặng kéo dài, ông ta mím chặt môi. “Ông không thể làm được gì?… Vâng, thưa ngài.” Ông ta dập máy. Anderson nhướn lông mày nhìn ông ta. Viên thanh tra trọng án nói một cách bình thản, “Đó là Đại úy Bernstein. Có một báo cáo khác trên điện thoại về vụ án MARINKILL. Các hung thủ được phát hiện ở gần Walnut Creek. Hẳn chúng đang trên đường hướng về phía này.” Ông ta nhìn Gillette như thể anh ta là một vết bẩn trên chiếc ghế dài và nói với Anderson, “Tôi nên nói với ngài là, tôi đã yêu cầu được tách khỏi vụ này và chuyển sang vụ kia. Nhưng họ không đồng ý. Đại úy Bernstein cho rằng tôi sẽ có ích hơn ở đây.” “Cảm ơn vì đã cho tôi biết điều đó,” Anderson nói. Mặc dù, Gillette cảm thấy viên cảnh sát CCU chẳng có vẻ gì là cảm kích khi biết rằng viên thanh tra chỉ hời hợt chứ không thực sự hết mình với vụ án. Anderson hỏi Shelton, “Còn anh, có muốn chuyển sang vụ MARINKILL không?” “Không. Tôi thích vụ này hơn. Cô gái bị giết ở khu vực khá gần địa phận của tôi. Tôi muốn đảm bảo rằng điều này sẽ không lặp lại một lần nữa.” Anderson nhìn đồng hồ. Bây giờ là 9:15. “Chúng ta cần phải quay lại CCU.” Viên giám ngục triệu tập người quản tù to lớn và đưa chỉ thị cho anh ta đưa Gillette quay lại hành lang về buồng của mình. Năm phút sau, hắn đã lấy được những thứ cần thiết, đi vệ sinh và mặc áo khoác. Hắn đi trước theo người quản tù về khu trung tâm của San Ho. Bước qua một cánh cửa, rồi một cánh cửa khác, đi khỏi khu vực đón khách – nơi mà hắn có thể gặp bạn mỗi tháng một lần và phòng gặp gỡ luật sư – nơi hắn đã mất hàng tiếng đồng hồ cho nỗ lực kháng án vô vọng với gã khốn đã lấy đi từng đồng xu mà hắn cùng Ellie tích cóp được. Cuối cùng, thở gấp trước nỗi phấn khích tràn đến như một cơn lũ, Gillette bước qua cánh cửa thứ hai ngay trước cánh cửa cuối cùng, vào khu vực văn phòng và nơi chứa tủ đồ của các quản tù. Mấy tay cảnh sát đang đợi hắn ở đó. Anderson gật đầu với người quản ngục, anh ta tháo còng tay ra. Lần đầu tiên trong vòng hai năm qua, Gillette không còn bị kìm kẹp thể xác trong nhà tù. Hắn đã được tự do theo một ý nghĩa nào đó. Hắn xoa xoa cổ tay khi họ bước về phía cửa ra – hai cánh cửa gỗ với kính chịu nhiệt và lưới mắt cáo bên trong, mà qua đó Gillette có thể thấy bầu trời màu xám. “Chúng tôi sẽ đeo kiềng chân cho cậu ở bên ngoài,” Anderson nói. Shelton hùng hổ bước về phía tên hacker và thì thầm, “Tôi muốn nói một điều, Gillette. Có thể cậu nghĩ rằng mình đang có cơ hội nắm trong tay một thứ vũ khí, hay bất cứ cái gì đi chăng nữa, với hai bàn tay tự do kia. Chà, chỉ cần cậu có một cái nhìn ngứa mắt mà tôi không thích, thì cứ xác định là sẽ bị đập một trận nhừ tử đi. Hiểu chứ? Tôi sẽ không ngần ngại oánh cho cậu một trận ra trò đâu.” “Tôi xâm nhập vào một máy tính,” tay hacker nói, đầy kích động. “Tất cả những gì tôi có thể làm chỉ có thế. Tôi chưa bao giờ làm hại bất kỳ ai.” “Hãy ghi nhớ những điều tôi nói.” Gillette lặng lẽ bước nhanh về phía trước để bắt kịp Anderson. “Chúng ta đang đi đâu đây?” “Văn phòng của Đơn vị điều tra tội phạm máy tính của bang ở San Jose. Đó là một khu vực tách biệt. Chúng ta…” Một tiếng còi báo động rú lên và chiếc đèn đỏ nhấp nháy trên thiết bị phát hiện kim loại mà họ đang bước qua. Bởi vì họ đang rời đi, chứ không phải bước vào nhà tù, nên viên cảnh sát điều khiển hệ thống an ninh đã tắt báo động và gật đầu cho họ đi tiếp. Nhưng ngay khi Anderson đặt tay lên cánh cửa phía trước toan mở nó ra thì một tiếng nói vang lên, “Xin thứ lỗi.” Đó là tiếng của Frank Bishop và anh ta chỉ vào Gillette. “Kiểm tra anh ta.” Gillette cười. “Thật là điên rồ. Tôi đang đi ra, chứ không phải đi vào. Ai lại lén mang thứ gì đó ra khỏi nhà tù bao giờ?” Anderson không đáp nhưng Bishop đã ra hiệu cho người bảo vệ bước tới phía trước. Anh ta đưa gậy dò kim loại rà soát người Gillette. Chiếc gậy phát ra tin hiệu cảnh báo the thé như lợn kêu ở túi quần bên phải. Viên cảnh sát lục túi Gillette và lôi ra một tấm bảng mạch điện, với những sợi dây thò ra. “Cái quái gì vậy?” Shelton sẵng giọng. Anderson kiểm tra nó thật cẩn thận. “Một cái hộp đỏ?” Ông ta hỏi Gillette. Hắn chán nản nhìn lên trần nhà, “Phải.” Viên thanh tra nói với Bishop và Shelton, “Có cả tá hộp mạch điện mà những kẻ dùng điện thoại chùa sử dụng để qua mặt các hãng điện thoại. Các anh biết đấy, để gọi điện miễn phí, xâm nhập vào đường dây điện thoại của ai đó, nghe trộm… Chúng được nhận biết bằng màu sắc. Ngày nay, anh không còn thấy mấy thứ đó nữa – một chiếc hộp đỏ. Nó bắt chước âm thanh của tiền xu trong một bốt điện thoại trả trước. Anh có thể gọi đi bất cứ nơi nào trên thế giới và chỉ cần liên tục nhấn nút tạo tiếng đồng xu rơi cho đủ số lần trả tiền cho cuộc gọi.” Ông ta nhìn Gillette, “Cậu đang định làm gì với thứ này chứ?” “Để phòng khi tôi bị lạc đường và cần gọi điện cho ai đó.” “Anh cũng có thể bán cái hộp đỏ này trên phố, tôi không biết nữa, chắc là được chừng vài trăm đô, cho một kẻ thích dùng điện thoại chùa. Nếu như anh đang định bỏ trốn và cần một ít tiền.” “Tôi cho là có kẻ sẽ làm thế. Nhưng đó không phải điều tôi định làm.” Anderson nhìn vào tấm bảng mạch. “Trông đẹp đấy.” “Cảm ơn.” “Cậu hẳn phải nhớ cái mũi hàn lắm nhỉ?” Gillette gật đầu. “Chắc chắn rồi.” “Nếu cậu mang theo thứ gì như thế này một lần nữa, thì cậu sẽ quay trở lại xà lim ngay khi tôi có một chiếc xe tuần tra để chở cậu về. Hiểu chứ?” “Đã hiểu.” “Khá đấy,” Bob Shelton thì thầm. “Nhưng cuộc đời chỉ là một sự thất vọng lớn mà thôi, cậu có nghĩ vậy không?” Không, Wyatt Gillette nghĩ. Cuộc đời chỉ là một cuộc hack lớn mà thôi.       - _ - _ -       Ở vành đai phía đông của Thung lũng Silicon, trong phòng máy ở Học viện Thánh Francis – ngôi trường tư lâu đời dành cho nam sinh ở San Jose, một cậu học sinh mười lăm tuổi mập mạp đang gõ mạnh lên bàn phím, nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính qua mắt kính dày cộm. Dù vậy, tên gọi của nơi này không được hợp lý lắm. Phải, ở đây có máy tính. Nhưng cái nơi được gọi là ‘phòng’ này lại ẩn chứa chút xíu mạo hiểm, các học viên đều nghĩ vậy. Nằm ở tít dưới tầng hầm, với những thanh sắt trên cửa sổ, trông nó giống một phòng giam hơn. Và có lẽ nó đã từng là phòng giam thực sự, khu này của tòa nhà đã hơn hai trăm năm mươi năm tuổi. Và có tin đồn rằng, một nhà truyền giáo nổi tiếng ở California xưa kia, Cha Junipero Serra, đã truyền giáo trong căn phòng này bằng việc lột trần những người Mỹ bản địa đến thắt lưng rồi lấy roi quất lên người cho đến khi họ chịu thừa nhận Chúa Jesu. Theo lời kể đầy hồ hởi của những học viên cũ, vài kẻ không may mắn trong số đó đã không thể sống sót qua cuộc cải đạo và hồn ma của họ vẫn lảng vảng trong những phòng giam, chà, những căn phòng, như căn phòng này. Jamie Turner, cậu choai choai đang lờ đi các linh hồn và gõ bàn phím với tốc độ ánh sáng, là học viên năm thứ hai, một cậu bé rụt rè với mái tóc sẫm màu. Trong đời mình, cậu ta chưa bao giờ phải nhận điểm số dưới 92 và dù vẫn còn hai tháng mới đến cuối kỳ, cậu ta đã hoàn thành bài đọc yêu cầu và hầu hết các bài tập giáo viên giao cho tất cả các môn học. Cậu ta có nhiều hơn tổng số sách của hai sinh viên bất kỳ trong trường Thánh Fracis cộng lại, đã đọc mỗi tập Harry Porter đến năm lần, Chúa tể những chiếc nhẫn tám lần và ngấu nghiến từng từ trong những tiểu thuyết viễn tưởng cũng như công nghệ của nhà văn William Gibson với số lần nhiều hơn cả khả năng ghi nhớ của mình. Giống như tiếng súng máy giảm thanh, tiếng gõ bàn phím của Turner lấp đầy căn phòng nhỏ. Nó nghe thấy một tiếng cót két ở phía sau. Nhìn xung quanh thật nhanh. Chẳng có gì cả. Rồi một tiếng tách. Im lặng. Giờ là tiếng gió. Mẹ kiếp, bọn hồn ma… Quay lại với công việc nào. Jamie Turner đẩy chiếc kính trên mũi và quay trở lại với công việc đang dang dở. Ánh sáng mờ mờ của một ngày đầy sương tràn vào cửa sổ có song sắt. Ở bên ngoài, bạn bè cùng lớp của nó đang la hét, cười nói, ghi bàn, và lao lên rồi chạy xuống trên sân bóng. Tiết Giáo dục thể chất lúc 9:30 đã bắt đầu. Lẽ ra Jamie phải ở ngoài đó còn Booty thì không hề thích nó trốn chui trốn nhủi trong này. Nhưng Booty không biết điều đó. Không phải Jamie không thích vị hiệu trưởng của ngôi trường nội trú. Thực sự hoàn toàn không phải thế. Thật khó khi ghét bỏ một ai đó luôn quan tâm chăm sóc ta. (Khác với cha mẹ của Jamie, lấy ví dụ thế đi. “Gặp con vào ngày hai mươi ba, con trai… Ồ, khoan đã, không được rồi. Hôm đó mẹ con và ta có việc bận rồi. Chúng ta sẽ đến đây vào ngày mùng một hoặc mùng bảy tháng sau vậy. Chắc chắn ngày đó. Yêu con, tạm biệt.“) Chính nỗi hoang tưởng của Booty mới là nỗi đau khổ lớn nhất, khiến lệnh cấm túc vào ban đêm cùng tất cả hệ thống an ninh và chuông báo động khỉ gió phục vụ cho việc kiểm tra sinh viên mọi lúc mọi nơi của ông ta ra đời. Ví dụ như không cho phép các nam sinh tới các buổi biểu diễn nhạc rock vô hại cùng ông anh trai đầy trách nhiệm, trừ khi phụ huynh của họ ký vào đơn cho phép. Trong khi ai mà biết được phụ huynh của mình đang ở chỗ quái nào, chứ đừng nói đến việc nhờ họ bỏ ra vài phút để ký và fax đơn tới đúng giờ, dù cho nó có quan trọng tới mức nào đi chăng nữa. Yêu con, bye… Nhưng lúc này, Jamie đang tự giải quyết rắc rối của mình. Anh trai của nó, Mark, một kỹ sư âm thanh ở địa điểm tổ chức hòa nhạc Oakland, đã nói với Jamie rằng nếu nó có thể trốn khỏi trường Thánh Francis tối nay, thì anh ta có thể đưa nó đến buổi hòa nhạc Santana và có thể kiếm được vé vào hậu trường thoải mái. Nhưng nếu cậu nhóc không ra khỏi trường trước sáu giờ ba mươi thì anh trai cậu sẽ phải quay lại nơi làm việc đúng giờ. Và đáp ứng được giờ chót ấy là cả một vấn đề. Bởi trốn khỏi trường Thánh Francis không đơn giản như chuồn xuống từ một sợi dây làm bằng ga giường, cách mà lũ trẻ trong các bộ phim cũ vẫn thường làm để trốn đi chơi đêm. Có thể, trông trường Thánh Francis như một lâu đài Tây Ban Nha cổ xưa, nhưng hệ thống an ninh của ngôi trường hoàn toàn ứng dụng công nghệ cao. Đương nhiên Jamie có thể chuồn ra khỏi phòng mình, vì nó không bị khóa ngay cả vào ban đêm (Trường Thánh Francis rõ ràng không phải là một nhà tù). Và cậu nhóc có thể ra khỏi tòa nhà một cách gọn lẹ bằng cửa thoát hiểm, trong trường hợp nó có thể tắt hệ thống báo cháy. Nhưng điều đó chỉ có thể đưa nó xuống đến sân trường mà thôi. Và các khoảng sân đều được bao bọc bởi một bức tường đá cao đến hơn ba mét rưỡi, bên trên còn có hàng rào bằng dây thép gai. Và chẳng có cách nào khác để trèo qua, ít nhất là với nó – một thằng nhóc mũm mĩm đam mê máy móc và ghét độ cao, trừ khi nó phá được mật khẩu của một trong những cánh cổng dẫn ra con phố. Đó là lý do tại sao nó đang ngồi đây, cố gắng phá mật khẩu của ngài Quốc xã Booty, xin thứ lỗi, Tiến sỹ, Thạc sỹ giáo dục Willem C. Boethe. Cho đến giờ, nó đã dễ dàng xâm nhập vào máy tính của Booty và download các file có chứa mật khẩu (được đặt tên cho dễ nhớ là Mật khẩu An ninh. Chà, khôn ngoan quá, Booty!). Tất nhiên, những gì có trong cái file ấy là bản mật khẩu đã mã hóa, và cần phải được giải mã trước khi cậu có thể sử dụng. Nhưng chiếc máy tính đơn độc nhỏ bé này của Jamie sẽ mất cả tuần trời để crack, thế nên lúc này cậu nhóc đang hack vào một máy tính gần đó để tìm một thiết bị đủ mạnh cho việc crack mật khẩu cho kịp thời hạn kì diệu kia. Jamie biết rằng Internet bắt nguồn từ một mạng lưới học thuật rộng lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi nghiên cứu, chứ không phải giữ bí mật thông tin. Những tổ chức đầu tiên được kết nối qua Net – các trường đại học, có tính bảo mật yếu hơn rất nhiều so với các đơn vị và tổ chức của Chính phủ được kết nối gần đây. Nói một cách hình tượng, lúc này cậu nhóc đang gõ cửa phòng máy của Đại học Công nghệ và Kỹ thuật Bắc Carolina và được chào đón với những dòng chữ như sau:       Username?       Jamie trả lời: User.       Password?       Câu trả lời của cậu là: User. Và một dòng thông báo hiện lên:       Welcome, User       Chà, một điểm F trừ cho hệ thống bảo mật nhỉ, Jamie nghĩ một cách mỉa mai và bắt đầu lướt nhanh qua danh mục gốc của chiếc máy chủ, cho đến khi phát hiện ra thứ có thể là một siêu máy tính lớn, nhiều khả năng là một cái Cray cũ, trên mạng lưới của trường. Lúc này, chiếc máy đang tính toán tuổi của vũ trụ. Rất thú vị, nhưng không hấp dẫn bằng Santana, Jamie nghĩ. Jamie gạt dự án thiên văn sang một bên và tải lên một chương trình nó đã tự tay lập trình, được gọi là Crack-er, chương trình này sẽ bắt đầu công việc đáng yêu của mình là giải nén mật khẩu bằng tiếng Anh từ những file của Booty. Nó… “Ôi, mẹ kiếp“, Jamie nói bằng thứ ngôn ngữ không mang phong cách học sinh của Booty lắm. Máy tính của nó lại đơ nữa rồi. Chuyện này đã xảy ra vài lần và làm nó phát bực vì không hiểu lý do tại sao. Jamie biết máy tính bị đơ và không tài nào hiểu được nguyên nhân kẹt máy. Nó không có thời gian cho việc này, không phải ngày hôm nay, với cái hạn chót 6:30. Tuy vậy, thằng nhóc ghi lại sự việc xảy ra vào sổ tay hacker của mình, như những lập trình viên cần mẫn vẫn làm và khởi động lại hệ thống rồi đăng nhập lại. Nó kiểm tra Cray và phát hiện ra rằng chiếc máy tính của trường đại học vẫn đang thực hiện lệnh, chạy phần mềm Crack-er trên file mật khẩu của Booty, ngay cả khi đã bị ngắt mạng. Nó có thể… “Cậu Turner, cậu Turner“, một giọng nói vang lên gần đó. “Xem chúng ta có gì ở đây nào?” Những lời nói đó làm Jamie sợ hết hồn. Nhưng cậu nhóc không quá giật mình đến mức nhấn trượt tổ hợp phím ALT + F6 trên máy tính của mình, ngay trước khi Hiệu trưởng Booty bước tới cửa vào phòng máy tính trên đôi giầy được làm hoàn toàn bằng vải crếp. Màn hình hiện lên một bài luận về sự tàn phá rừng nhiệt đới thay thế cho thông báo tình trạng của chương trình bẻ khóa bất hợp pháp. “Xin chào, Thầy Boethe“, Jamie nói. “À“, người đàn ông cao và mảnh khảnh cúi xuống, nhìn vào màn hình. “Tôi tưởng cậu đang xem những bức tranh bẩn thỉu chứ, cậu Turner.” “Không, thưa thầy“, Jamie nói. “Em không làm như vậy.” “Nghiên cứu về môi trường, ái ngại về những điều chúng ta đã làm với Mẹ Thiên nhiên đáng thương, phải không? Tốt lắm, tốt lắm. Nhưng tôi không giúp được gì ngoài việc nhắc cậu rằng đây là giờ Giáo giục thể chất. Cậu cần phải trực tiếp trải nghiệm về Mẹ Thiên nhiên ở ngoài kia. Trên sân thể thao. Hít thật sâu không khí trong lành của California. Chạy và ghi bàn.” “Không phải trời đang mưa sao ạ?” Jamie hỏi. “Sương mù thôi, tôi nghĩ vậy. Ngoài ra, chơi đá bóng trong mưa là một cách rèn luyện rất tốt. Giờ thì, đi ra ngoài nào, cậu Turner. Sân cỏ thiếu mất một người. Cậu Lochnell vừa cố ngoặt trái nhưng cổ chân lại rẽ sang phải. Hãy đi giúp họ. Đội của cậu cần cậu.” “Em phải tắt cái máy đi đã, thưa thầy. Sẽ mất vài phút.” Vị hiệu trưởng bước tới cánh cửa, nói to, “Thầy hy vọng sẽ thấy em ra sân và chạy hết tốc lực trong vòng mười lăm phút nữa.” “Vâng thưa thầy,” Jamie Turner trả lời, không để lộ sự thất vọng vô cùng của mình khi phải đổi chiếc máy tính thân yêu lấy một mảnh sân đầy bùn và lũ bạn ngốc nghếch. Nhấn ALT + F6 để thoát khỏi cửa sổ bài viết về rừng nhiệt đới, Jamie bắt đầu gõ lệnh kiểm tra xem quá trình làm việc với file mật khẩu như thế nào. Rồi nó chững lại, nheo mắt trước màn hình và phát hiện một điều gì đó kỳ lạ. Dòng thông báo hiện ra trên màn hình có vẻ hơi mờ hơn bình thường một chút. Những chữ cái dường như cũng đang rung rung. Và một điều khác nữa: Các phím gõ có vẻ hiện ra chậm hơn một chút sau khi gõ. Điều này thực sự rất kỳ cục. Nó tự hỏi vấn đề này có thể là gì chứ. Jamie đã viết vài phần mềm chẩn đoán lý do và cậu quyết định sẽ dùng một hay hai phần mềm đó sau khi giải mã được mật khẩu. Nó có thể cho cậu biết điều gì xảy ra. Jamie đoán vấn đề là có một lỗi nhỏ trong folder hệ thống, có thể là do gia tốc đồ họa. Nó sẽ kiểm tra cái đó trước tiên. Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi, một ý nghĩ kỳ quặc lướt qua trong đầu nó: Những chữ cái không rõ nét và phản ứng lờ đờ của máy tính khi gõ phím không phải là vấn đề do hệ điều hành. Đó là do linh hồn của một người Anh-điêng đã chết từ lâu đang trôi nổi giữa Jamie và chiếc máy tính, và thể hiện nỗi tức giận với sự hiện diện của nó khi những ngón tay lạnh lẽo ma quái tuyệt vọng gõ lên thông điệp cầu cứu. Chương NĂM Ở góc trên cùng bên trái màn hình máy tính của Phate xuất hiện một hộp thoại nhỏ: Trapdoor - Hunt Mode Mục tiêu: [email protected] Online: Có Hệ điều hành: MS-DOS/Windows Phần mềm chống virut: Đã vô hiệu hóa Những gì Phate nhìn trên màn hình chính là những gì Jamie Turner thấy trên máy tính của mình, ở cách đó vài dặm, trong Học viện Thánh Francis. Điểm đặc biệt trong trò chơi của hắn đã kích thích Phate ngay từ lần đầu tiên gã xâm nhập vào hệ thống của cậu bé cách đây một tháng. Phate đã mất rất nhiều thời gian xem xét các file của Jamie và tìm hiểu được đầy đủ thông tin về thằng bé như những gì hắn đã biết về Lara Gibson mới đây. Ví dụ: Jamie Turner ghét thể thao và lịch sử nhưng lại yêu thích toán học và khoa học. Thằng nhóc đọc sách một cách say mê. Đứa trẻ này là một kẻ ghiền game MUD. Nó dành hàng tiếng đồng hồ trong các phòng chat MUD trên Internet, rất giỏi các game nhập vai cũng như việc sáng tạo và duy trì những mạng xã hội ảo đã quá phổ biến trong MUD. Jamie còn là một tay viết code cừ khôi, một lập trình viên tự học. Nó đã thiết kế trang web của riêng mình và giành được giải khuyến khích từ Web Site Revue Online. Nó đã nảy ra ý tưởng cho một trò chơi điện tử mới kích thích trí tò mò của chính Phate và rõ ràng là thằng bé có tiềm năng thương mại rất lớn. Nỗi sợ hãi lớn nhất của cậu nhóc gợi cho hắn nhớ đến nỗi sợ hoang tưởng của Lara Gibson, là mất đi thị lực, nó đã đặt hẳn một cặp kính không vỡ đặc biệt từ một cửa hàng online. Thành viên duy nhất trong gia đình mà nó dành nhiều thời gian liên lạc và trò chuyện qua email là anh trai, Mark. Cha mẹ của chúng khá giàu có nhưng lại bận rộn nên thường chỉ trả lời sau khi con trai họ đã gửi năm hay sáu cái email. Jamie Turner, theo như Phate nhận định, là rất thông minh, có trí tưởng tượng phong phú và dễ bị tổn thương. Và thằng bé cũng là kiểu hacker sẽ vượt mặt hắn vào một ngày nào đó. Giống nhiều bậc thầy máy tính vĩ đại khác, Phate có một khía cạnh bí ẩn bên trong. Như những nhà duy vật toàn tâm toàn ý chấp nhận Chúa hay một nhà chính trị bảo thủ tận tâm với Hội Tam điểm thần bí. Phate tin rằng, hắn có một phần tâm linh khó diễn tả đối với máy móc và chỉ có những kẻ có tầm nhìn hạn chế mới không thừa nhận điều đó. Thế nên chẳng có gì mâu thuẫn với con người Phate khi hắn mê tín. Và một trong những điều hắn bắt đầu tin khi dùng Trapdoor[10] để khám phá máy tính của Jamie Turner trong suốt mấy tuần vừa qua, là việc cậu nhóc có kỹ năng để hoàn toàn thay thế Phate, trở thành lập trình viên vĩ đại nhất mọi thời đại. Đó là lý do tại sao hắn phải ngăn không cho Jamie T. Turner nhỏ bé tiếp tục chuyến phiêu lưu của nó trong Thế giới máy tính. Và Phate lên kế hoạch để ngăn chặn thằng nhóc bằng một cách đặc biệt hiệu quả. Giờ hắn đang tiếp tục rê chuột qua nhiều file. Những file được Shawn gửi qua email, cho hắn thông tin chi tiết về ngôi trường nam sinh – Học viện Thánh Francis. Đây là một ngôi trường nội trú có tiếng tăm, nhưng quan trọng hơn, nó là một thử thách thực sự về mặt chiến lược đối với Phate. Nếu như không có khó khăn và rủi ro với hắn trong việc tiêu diệt các nhân vật trong trò chơi này, thì việc chơi cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Và trường Thánh Francis thì lại bày ra những chướng ngại vật khó nhằn. Hệ thống an ninh dày đặc vì ngôi trường đã từng là hiện trường của một vụ đột nhập vài năm trước khiến một học viên bị giết hại và một giáo viên bị trọng thương. Hiệu trưởng của trường, Willem Boethe, đã thề sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra một lần nữa. Để bảo đảm với các phụ huynh, ông ta đã cho nâng cấp lại toàn bộ ngôi trường và biến nó thành một pháo đài. Các sảnh và hành lang đều được khóa chặt vào ban đêm, khu sân trường được khóa hai lần cổng, các cửa sổ và cánh cửa được gắn hệ thống báo động. Và cần phải có mật khẩu để ra vào bức tường cao vút với hàng rào kẽm gai sắc lẹm bao quanh khuôn viên trường. Tóm lại, xâm nhập được vào trong ngôi trường đúng là một thử thách dành cho Phate. Đây là một bước tiến từ vụ Lara Gibson được chuyển lên một cấp độ cao hơn, khó hơn trong trò chơi của hắn. Hắn có thể… Phate nheo mắt nhìn màn hình. Ồ, không, không phải lại nữa đấy chứ. Máy tính của Jamie – tức là máy của hắn cũng vậy – lại bị đơ. Nó vừa bị thế mười phút trước. Đây là lỗi duy nhất trong Trapdoor. Đôi lúc máy tính của hắn và chiếc máy bị xâm nhập bỗng nhiên ngừng hoạt động. Nên cả hai sẽ phải khởi động lại máy của mình và kết nối Internet một lần nữa. Nó dẫn đến sự chậm trễ không quá một phút, nhưng đối với Phate đó là một kẽ hở kinh khủng. Phần mềm phải hoàn hảo, nó cần phải thật tinh tế. Hắn và Shawn đã cố gắng sửa lỗi này hàng tháng trời nhưng vẫn chưa gặp chút vận may nào. Một lát sau, hắn và người bạn trẻ đã online trở lại và Phate tiếp tục lướt qua các file trong máy thằng bé. Một cửa sổ nhỏ hiện lên trên màn hình máy tính của Phate và chương trình Trapdoor hỏi:       Mục tiêu vừa nhận được một tin nhắn từ MarkTheMan. Bạn có muốn kiểm tra không?       Đó hẳn phải là anh trai của Jamie Turner, Mark. Phate nhấn phím Y và trên màn hình hiện lên nội dung đoạn hội thoại giữa hai anh em:       MarkTheMan: nhắn tin được không nhóc? JamieTT: phải ra ngoài chơi trò khỉ gió đây, ý em là bóng đá. MarkTheMan: LOL. Kế hoạch tối nay vẫn thế chứ? JamieTT: LOL. Santana bá cháy!!! MarkTheMan: Không thể chờ thêm nữa!! Anh sẽ gặp chú bên kia phố chỗ cổng phía bắc lúc 6h30 nhé. Sẵn sàng cháy hết mình chưa?       Phate nghĩ, chắc chắn phải thế rồi.       - _ - _ -       Wyatt Gillette dừng lại ở ngưỡng cửa và cảm thấy như vừa được du hành ngược thời gian. Hắn nhìn quanh Đơn vị điều tra tội phạm máy tính nằm trong toà nhà một tầng cũ kỹ cách trụ Sở cảnh sát bang San Jose vài dặm. “Đây là phòng máy chủ.” “Của riêng chúng tôi,” Andy Anderson nói. Rồi ông giải thích cho Bishop và Shelton, có vẻ cả hai chẳng ai muốn biết thông tin này, rằng trong buổi sơ khai của thời đại máy tính, những máy tính khổng lồ giống những chiếc máy chủ do IBM và công ty Control Data Corporation sản xuất (Một trong những công ty siêu máy tính đầu tiên) được đặt trong những căn phòng đặc biệt như thế này, được gọi tên là Dinosaur pens[11]. Đặc trưng của các căn phòng này là sàn nhà được nâng cao, bên dưới là một mạng lưới dây cáp quy mô được gọi là ‘boa’, tên một loại trăn Nam Mỹ, vì hình dáng tương đồng (và đôi khi chúng cũng bất thần xổ tung ra làm các kỹ thuật viên bị thương). Ngoài ra, có hàng tá ống dẫn máy điều hòa trải ngang dọc khắp căn phòng cùng hệ thống làm mát thiết yếu để giữ cho những chiếc máy tính đồ sộ không bị quá nóng và bốc cháy. Đơn vị điều tra tội phạm máy tính đặt tại Tây San Carlos, trong một quận thương mại có giá thuê rẻ của San Jose, gần thị trấn Santa Clara. Để đến đó, ta phải lái xe qua rất nhiều cửa hiệu bán ô tô – EZ TERMS FOR YOU! SE HABLA ESPANÕL[12] và hàng loạt đường tàu. Tòa nhà một tầng lôm côm đã đến lúc phải sơn sửa lại, rõ ràng là tương phản với, chẳng hạn như, trụ sở công ty Apple cách đó một dặm – một tòa nhà tính tươm, theo lối kiến trúc hiện đại, được trang hoàng bằng bức chân dung cao mười hai mét của nhà đồng sáng lập Steve Wozniak. Tác phẩm nghệ thuật duy nhất của tòa nhà CCU là một chiếc máy bán Pepsi hỏng hóc và gỉ sét nằm chồm hổm cạnh cửa trước. Bên trong tòa nhà to lớn là hàng tá những hành lang tối tăm và các văn phòng trống không. Cảnh sát chỉ sử dụng một phần nhỏ không gian – khu vực làm việc trung tâm, cả tá cabin làm việc cho nhân viên được dựng lên ở đó. Có tám máy tính của Sun Microsystems, vài cái của IBM và Apple, và hàng đống máy tính xách tay. Dây cáp chạy khắp nơi, một vài sợi được gắn xuống nền nhà bằng băng dính, có những sợi lại treo lơ lửng trên đầu như dây leo trong rừng. “Anh có thể thuê những công cụ xử lý dữ liệu cũ rích này với giá rẻ mạt,” Anderson giải thích với Gillette. Ông bật cười, “CCU cuối cùng cũng được thừa nhận như một bộ phận chính thống của lực lượng cảnh sát bang và họ cho chúng tôi những tòa nhà cũ kỹ đã quá hạn đến hai chục năm này.” “Nhìn kìa, một cái nút scram switch,” Gillette hất đầu về phía một công tắc màu đỏ trên tường. Một tấm biển bụi bặm ghi: CHỈ DÙNG KHI KHẨN CẤP. “Tôi chưa từng thấy thứ này.” “Cái gì vậy?” Bob Shelton hỏi. Anderson giải thích: Những cỗ máy chủ đã cũ nóng đến mức nếu như hệ thống làm mát bị hỏng thì chúng có thể bị nóng quá mức và bốc cháy chỉ trong vài giây. Với mủ, nhựa và cao su thì luồng khí tỏa ra từ chiếc máy tính bị cháy có thể giết ta trước khi ngọn lửa làm điều đó. Bởi vậy, tất cả các phòng máy chủ đều được trang bị công tắc khẩn cấp gọi là scram switch – cái tên được mượn từ nút tắt khẩn cấp ở lò phản ứng hạt nhân. Nếu như có cháy, ta chỉ cần nhấn nút đó, nó sẽ tắt máy tính, phát lệnh cứu hỏa và thổi khí halon vào chiếc máy để dập tắt ngọn lửa. Andy Anderson giới thiệu Gillette, Bishop và Shelton với đội CCU. Đầu tiên là Linda Sanchez – một phụ nữ Latinh trung niên, thấp và đậm người trong bộ vest phồng màu be. Cô là sỹ quan thuộc đội SSL[13] chuyên thu thập, tìm kiếm và đăng nhập, cô giải thích. Vậy cô chính là người bảo vệ máy tính của hung thủ, kiểm tra xem liệu nó có các bẫy phần mềm không, rồi sao chép các file, nhập các phần cứng và phần mềm vào dữ liệu bằng chứng. Đồng thời cô cũng là một chuyên gia phục hồi bằng chứng số, một người lão luyện trong việc ‘khai quật’ các ổ cứng – truy tìm các dữ liệu ẩn hoặc đã bị xóa (Vì thế, những sỹ quan như vậy thường được biết đến như những nhà khảo cổ máy tính học). “Tôi là mật thám của đội,” cô nói với Gillette. “Có tin gì chưa, Linda?” “Tạm thời chưa, thưa sếp. Cô con gái đó của tôi ấy à, nó là đứa lười nhất quả đất.” Anderson nói với Gillette, “Linda sắp thành bà ngoại.” “Đã quá ngày dự sinh một tuần rồi. Khiến gia đình tôi phát điên.” “Còn đây là cấp phó của tôi, Trung úy Stephen Miller.” Miller già hơn Anderson, xấp xỉ năm mươi. Ông có mái tóc muối tiêu bù xù. Đôi vai xuôi, hay cau có, dáng người quả lê, thon nhỏ ở trên và phình ra ở dưới. Ông ta có vẻ là người thận trọng. Căn cứ vào độ tuổi, Gillette đoán rằng ông ta đến từ thế hệ thứ hai của các nhà lập trình – những người đàn ông và phụ nữ đi tiên phong trong giới tin học đầu thập niên bảy mươi. Người thứ ba là Tony Mott, một người đàn ông vui vẻ chừng ba mươi tuổi với mái tóc dài thẳng màu vàng và chiếc kính mát Oakley treo lủng lẳng trên sợi dây dạ quang màu xanh quàng trên cổ. Khoang làm việc của anh ta đầy những bức ảnh chụp anh ta cùng một cô gái châu Á xinh đẹp, đang trượt tuyết và đạp xe trên núi. Một chiếc mũ bảo hiểm vỡ nát đặt trên bàn, đôi giày trượt tuyết đặt trong góc. Anh ta đại diện cho thế hệ mới nhất của những tay hacker: Một vận động viên ưa mạo hiểm, thời gian dành cho việc ngồi ở nhà, trên bàn phím để hack phần mềm máy tính ngang ngửa với thời gian dành cho các cuộc thi trượt ván lòng chảo ở mục thể thao mạo hiểm. Gillette để ý thấy rằng trong số những cảnh sát của CCU, khẩu súng ngắn tay cảnh sát này mang bên hông là lớn nhất – một khẩu súng tự động màu bạc sáng bóng. Đơn vị điều tra tội phạm máy tính CCU cũng có nhân viên lễ tân nhưng cô ta đang nghỉ ốm. CCU không được coi trọng lắm trong hệ thống cảnh sát bang (nó bị các đồng nghiệp gọi là ‘Geek Squad’[14]) và các cấp chỉ huy sẽ chẳng mảy may nghĩ tới việc bổ sung tạm thời cho vị trí kia. Thành ra các thành viên của đội lại phải tự mình đảm nhiệm việc nhận các tin nhắn, lọc các mail và đống hồ sơ, nên chẳng có gì khó hiểu khi không ai trong số họ cảm thấy vui vẻ với việc này. Rồi Gillette đưa mắt về phía một trong những tấm bảng phoóc trắng trên tường, rõ ràng chúng được dùng để liệt kê các manh mối. Một bức ảnh được đính lên tấm bảng. Hắn không thể nhìn rõ bức ảnh ấy nên bước tới gần hơn. Rồi hắn thở dốc và choáng váng khựng lại. Trong bức ảnh là một người phụ nữ trẻ mặc chiếc váy màu đỏ và cam, thân trên lõa thể xanh lét và đầy máu me, nằm trên một thảm cỏ, và đã chết. Gillette đã từng chơi vô số trò chơi trên máy tính – Mortal Kombat, Doom và Tomb Raider, nhưng dù những game ấy có khủng khiếp tới mức nào thì cũng chẳng thể sánh được với tội ác khủng khiếp, máu lạnh trên nạn nhân là người thật như thế này. Andy Anderson nhìn chằm chằm chiếc đồng hồ treo tường, đó không phải một chiếc đồng hồ điện tử cho phù hợp với một trung tâm máy tính, mà lại là một chiếc đồng hồ kim bụi bặm cổ lỗ sỹ, với những chiếc kim to nhỏ. Bây giờ là 10 giờ sáng. Viên cảnh sát nói, “Ta phải nhanh chóng bắt tay vào việc thôi… Hiện tại ta sử dụng phương án tiếp cận theo hai hướng. Thám tử Bishop và Shelton sẽ tiến hành một cuộc điều tra án mạng như bình thường. CCU sẽ xử lý những bằng chứng máy tính, với sự giúp đỡ của anh Wyatt đây.” Ông nhìn vào chiếc máy fax trên bàn làm việc của mình và nói thêm, “Chúng ta cũng đang chờ đợi một nhà cố vấn đến từ Seattle, một chuyên gia về Internet và hệ thống mạng, Patricia Nolan. Cô ấy cũng sắp đến đây rồi.” “Cảnh sát à?” Shelton hỏi. “Không, dân sự thôi,” Anderson đáp. Miller nói thêm, “Chúng tôi thường nhờ đến những người làm an ninh mạng của các công ty. Công nghệ thay đổi quá nhanh tới mức chúng tôi không thể theo kịp mọi sự phát triển mới nhất. Bọn tội phạm luôn đi trước chúng tôi một bước. Bởi vậy chúng tôi luôn cố gắng tận dụng các cố vấn bên ngoài bất cứ khi nào có thể.” Tony Mott nói, “Họ vẫn thường xếp hàng xin được hỗ trợ. Trong hồ sơ mà có dòng tóm được hacker là rất hợp thời đấy.” Anderson hỏi Linda Sanchez, “Vậy, chiếc máy tính của cô Gibson ở đâu nhỉ?” “Đang ở phòng phân tích, thưa sếp,” người phụ nữ hất đầu về phía một hành lang tối tăm từ căn phòng trung tâm. “Một nhóm chuyên gia từ đơn vị khám nghiệm hiện trường đang lấy dấu tay trên chiếc máy để đề phòng trường hợp hung thủ đã đột nhập vào nhà cô ấy và để lại những dấu vết còn tươi ngon. Chắc mười phút nữa là xong.” Mott đưa cho Frank Bishop một chiếc phong bì. “Nó được gửi đến cho anh vài phút trước. Đó là bản báo cáo khám nghiệm hiện trường sơ bộ.” Bishop luồn ngón tay vào mớ tóc cứng quèo của mình. Gillette có thể nhìn thấy rõ những dấu răng lược trong mảng tóc xịt keo dày đặc ấy. Viên cảnh sát nhìn lướt qua tập giấy nhưng không nói gì cả. Ông đưa tập hồ sơ cho Shelton, nhét áo vào quần một lần nữa rồi đứng dựa vào bức tường. Viên cảnh sát đậm người mở tập tài liệu, đọc nó một lúc rồi nhìn lên. “Các nhân chứng cho biết thủ phạm là một người đàn ông da trắng, tầm vóc và cân nặng trung bình, vận quần màu trắng và chiếc áo sơ mi màu xanh da trời nhạt, cùng chiếc cà vạt có hình hoa văn kiểu một nhân vật hoạt hình. Tầm cuối hai mươi đầu ba mươi tuổi. “Trông như các nhân viên công nghệ khác ở vùng này,” anh chàng phục vụ ở quầy bar nói vậy. Viên cảnh sát bước tới tấm bảng trắng và bắt đầu viết các thông tin lên. Ông tiếp tục, “Tấm thẻ căn cước hắn đeo là của Trung tâm nghiên cứu Xerox Palo Alto nhưng chúng tôi chắc nó chỉ là giả mạo. Chẳng có manh mối gì liên quan tới bất kỳ ai ở đó. Hắn để ria mép và râu dê. Tóc vàng. Cũng tìm thấy vài sợi vải bò sờn màu xanh trên xác nạn nhân, chúng không khớp với bộ đồ Gibson mặc hay bất cứ thứ gì trong tủ đồ của cô ấy ở nhà. Có thể là của hung thủ. Vũ khí giết người có thể là một con dao quân đội Ka-bar có cạnh răng cưa.” Tony Mott hỏi, “Làm sao mà ông biết được điều đó?” “Vết thương khớp với kiểu vũ khí ấy,” Shelton quay lại với tập hồ sơ. “Nạn nhân bị giết ở một nơi khác và bị vứt ở bên đường cao tốc.” Mott ngắt lời, “Làm thế nào mà họ nói thế được?” Shelton hơi cau mày, rõ ràng không muốn chuyển chủ đề. “Dựa vào lượng máu của cô ấy được tìm thấy tại hiện trường.” Mái tóc dài màu vàng của viên cảnh sát trẻ lúc lắc khi anh ta gật gù và có vẻ đang ghi nhớ thông tin này cho kinh nghiệm về sau. Shelton tiếp tục, “Không có ai ở quanh khu vực vứt xác nhìn thấy bất cứ điều gì.” Một ánh mắt sắc sảo liếc qua những người khác. “Giống như họ vẫn hay khai thế… Hiện tại, chúng tôi đang lần theo dấu vết chiếc xe của hung thủ, hắn và Lara rời quầy bar cùng nhau. Người ta nhìn thấy họ đi về phía bãi đậu xe phía sau nhưng không ai thấy hắn đi về hướng nào. Đội khám nghiệm hiện trường thì may mắn hơn, nhân viên quầy bar nhớ là hung thủ bọc chai bia của mình trong một chiếc khăn ăn và một người trong đội khám nghiệm hiện trường đã tìm thấy nó trong thùng rác. Nhưng chúng ta đã tìm dấu tay trên cả cái chai lẫn chiếc khăn và chả thu được gì cả. Phòng xét nghiệm lấy được một chất dính từ miệng chai nhưng không xác định rõ được đó là cái gì. Nó không phải chất độc. Đó là tất cả những gì họ biết. Nó không khớp với bất cứ thứ gì có trong dữ liệu của phòng thí nghiệm.” Frank Bishop cuối cùng cũng mở miệng, “Cửa hàng phục trang.” “Phục trang?” Anderson hỏi. Viên cảnh sát nói, “Có thể hắn ta cần vài thứ để cải trang cho giống cái gã Will Randolph mà hắn đang đóng giả. Có thể là keo để gắn râu giả.” Gillette đồng tình với điều đó. “Một kẻ social engineer tài ba luôn ăn vận phù hợp với nhân vật. Tôi có những người bạn đã cùng nhau may những bộ đồng phục hoàn chỉnh của nhân viên công ty điện thoại Pac Bell.” “Hay đấy,” Tony Mott nói với Bishop, và thêm dữ liệu đó vào bộ nhớ cho file học tập không ngừng của mình. Anderson gật gật thể hiện sự tán thành với ý kiến này. Shelton gọi cho trụ sở Đội điều tra trọng án ở San Jose và sắp xếp một nhóm lính đối chiếu chất dính đó với các mẫu keo dùng cho hóa trang sân khấu. Frank Bishop cởi chiếc áo khoác nhăn nhúm và cẩn thận treo nó lên lưng chiếc ghế đầu. Ông nhìn chằm chằm vào bức ảnh và chiếc bảng trắng, tay khoanh trước ngực. Chiếc áo sơ mi lại tuột ra ngoài quần lần nữa. Ông đi đôi giầy mũi nhọn. Khi Gillette còn là một sinh viên, hắn và vài người bạn ở Berkeley có thuê một cuốn băng video cho một bữa liên hoan – một bộ phim khiêu dâm từ những năm năm mươi, sáu mươi gì đó. Một trong những nam diễn viên ăn mặc và có bề ngoài y hệt Bishop. Lấy tập hồ sơ khám nghiệm hiện trường từ tay Shelton, Bishop nghiền ngẫm nó. Rồi ông ngẩng lên, “Nhân viên quầy bar nói nạn nhân đã gọi một ly Martini còn hung thủ thì uống một cốc bia nhẹ. Hung thủ đã trả tiền. Nếu chúng ta lấy được hóa đơn thì có thể có dấu vấn tay.” “Làm sao ông làm được điều đó?” Stephen Miller tầm thước cất lời. “Nhân viên quầy bar chắc hẳn đã quẳng nó đi đêm qua, cùng với cả ngàn hóa đơn khác.” Bishop hất đầu về phía Gillette, “Chúng tôi sẽ cử vài người lính đi làm điều cậu ta vừa nói – Dumpster ping[15].” Rồi ông nói với Shelton, “Yêu cầu họ tìm kiếm trong các thùng rác của quầy bar tờ hóa đơn cho một ly Martini và một cốc bia nhẹ, thời gian in trên đó khoảng bảy giờ ba mươi tối.” “Sẽ mất ối thời gian vào đó,” Miller nói. Nhưng Bishop lờ ông ta đi và gật đầu với Shelton – người đang thực hiện cuộc gọi theo gợi ý của ông. Gillette chợt nhận ra là không có ai đứng gần hắn cả. Hắn nhìn những bộ quần áo sạch sẽ, mái tóc cắt gội bóng mượt và những móng tay không chút cáu bẩn của mọi người. Hắn hỏi Anderson, “Nếu chúng ta còn vài phút trước khi chiếc máy tính kia sẵn sàng… Tôi hy vọng các ông có vòi sen ở đâu đó quanh đây chứ?” Anderson giật giật phần dái tai vẫn còn nguyên dấu vết của lỗ khuyên ngày trước và phá lên cười, “Tôi đang tự hỏi làm thế nào để mang được nó vào đây,” Ông nói với Mott, “Đưa anh ta xuống phòng thay đồ của nhân viên. Nhưng nhớ theo sát.” Viên cảnh sát trẻ gật đầu rồi đưa Gillette xuống hành lang. Anh ta nói huyên thuyên không ngừng, chủ đề đầu tiên của anh ta là các ưu điểm của hệ điều hành Linux, một biến thể của hệ điều hành Unix truyền thống mà rất nhiều người đang bắt đầu sử dụng để thay thế Windows. Anh ta nói một cách đầy nhiệt huyết sôi nổi và quả thật rất hiểu biết. Rồi anh nói với Gillette về sự thành lập của Đơn vị điều tra tội phạm máy tính. Họ đã thành lập được gần một năm. Đội Geek Squad, Mott giải thích, có thể dễ dàng sử dụng nửa tá cảnh sát toàn thời gian nhưng điều đó nằm ngoài ngân sách. Trên thực tế, luôn có nhiều vụ án hơn số vụ họ có thể giải quyết được, từ các vụ hack tới chat khiêu dâm với trẻ em hay xâm phạm bản quyền phần mềm. Khối lượng công việc có vẻ như ngày càng nặng nề hơn. “Vậy sao anh vào đây?” Gillette hỏi anh ta. “CCU?” “Hy vọng có chút gì đó hay ho thú vị. Ý tôi là, tôi yêu thích máy móc và dường như dành cả tâm trí cho chúng, nhưng việc nghiền ngẫm các phần mềm để tìm bắt các vụ vi phạm bản quyền có vẻ không phải những gì mình mong muốn. Tôi đã nghĩ rằng nó sẽ hiện đại và khốc liệt hơn.” “Thế còn Linda Sanchez thì sao?“, Gillette hỏi. “Chị ấy cũng là một người yêu thích máy móc sao?” “Không hẳn. Chị ấy thông minh nhưng máy tính lại không phải đam mê của chị ấy. Chị ấy từng là một tay anh chị ở Lettuce Land, Salinas. Rồi chị ấy tham gia vào các công tác xã hội và quyết định học hành cẩn thận. Cộng sự của chị ấy đã trúng đạn và bị thương khá nặng ở Monterey vài năm trước. Linda có hai đứa con gái – một đứa đang mang bầu và đứa kia đang trung học, chồng chị ấy thì chẳng bao giờ có mặt ở nhà. Ông ta là nhân viên của INS [16]. Do đó chị ấy nhận ra rằng đã đến lúc phải chuyển sang một công việc bình lặng hơn.” “Hoàn toàn ngược lại với anh.” Mott cười, “Tôi cũng đoán thế.” Gillette lau người sau khi tắm và cạo râu, Mott đặt một bộ quần áo thể thao của anh lên chiếc ghế dài cho tay hacker. Áo phông, quần đen và một chiếc áo gió. Mott thấp hơn Gillette nhưng về căn bản thì họ có cùng vóc người. “Cảm ơn,” Gillette nói khi đang mặc quần áo. Hắn cảm thấy thật là sảng khoái, sau khi gột sạch sự bẩn thỉu đặc trưng khỏi thân xác gầy còm của hắn – ghét bẩn của nhà tù. Trên đường trở lại phòng làm việc chính, họ đi qua một căn bếp nhỏ. Có một bình đun cà phê, một cái tủ lạnh và một cái bàn với một đĩa bánh vòng trên đó. Gillette dừng lại, thèm thuồng nhìn chỗ đồ ăn. Rồi hắn quan sát dãy tủ đồ. Hắn hỏi Mott, “Tôi đoán là các anh có bánh Pop-Tarts ở đây nhỉ?” “Pop-Tarts? Không. Nhưng có bánh vòng đấy.” Gillette bước tới chiếc bàn và rót một tách cà phê. Rồi hắn cầm một cái bánh vòng màu nâu lên. “Không phải chỗ bánh đó đâu,” Mott nói. Anh lấy nó khỏi tay Gillette và thả nó xuống sàn. Chiếc bánh nảy tưng tưng như một quả bóng. Gillette cau mày. “Linda đã mang mấy thứ này vào đây. Nó chỉ để đánh lừa thôi.” Khi Gillette bối rối nhìn anh, viên cảnh sát nói tiếp, “Cậu không hiểu à?” “Hiểu gì?” “Hôm nay là ngày bao nhiêu?” “Tôi không biết nữa. Trong tù người ta không tính thời gian bằng ngày tháng.” “Ngày Cá tháng Tư,” Mott nói. “Những cái bánh ngọt này làm bằng nhựa. Linda và tôi đặt nó ở đó sáng nay và bọn tôi đang đợi Andy cắn một miếng, nói cho anh biết, nhưng chúng tôi vẫn chưa lừa được ông ấy. Tôi nghĩ là ông ấy đang ăn kiêng mất rồi.” Anh mở tủ chạn và lấy ra một chiếc túi với những cái bánh ngon lành. “Đây này.” Gillette xơi hết veo một cái. Mott nói, “Cứ ăn đi. Vẫn còn một chiếc nữa.” Chiếc còn lại tiếp tục được xử lý với một ngụm cà phê thật lớn. Đó là những thứ tuyệt nhất hắn được ăn trong bao nhiêu năm nay. Mott lấy một ly nước cà rốt từ tủ lạnh và họ cùng quay trở lại khu trung tâm điều hành của CCU. Gillette nhìn quanh phòng máy, hàng trăm ‘con trăn boa’ chưa kết nối ngoằn nghèo quanh các góc nhà và những chiếc quạt thông gió, tâm trí hắn bỗng rung lên. Một ý nghĩ chạy qua đầu hắn. “Ngày Cá tháng Tư… Vậy thì vụ giết người hẳn phải là ngày ba mốt tháng Ba?” “Đúng vậy,” Anderson xác nhận. “Việc đó quan trọng à?” Gillette nói một cách không chắc chắn, “Có thể chỉ là một sự trùng hợp mà thôi.” “Cứ nói đi xem nào.” “Chà, chỉ là ngày ba mươi mốt tháng ba kiểu như là một ngày lễ, một ngày kỷ niệm trong lịch sử máy tính.” Bishop hỏi, “Tại sao?” Giọng một người phụ nữ vang lên từ phía cửa vào, “Đó chẳng phải là ngày mà chiếc Univac đầu tiên được giao hàng sao?” Chương SÁU Họ quay ra nhìn cô nàng hippy da trắng, tóc nâu, khoảng ba lăm tuổi, trong bộ áo gió màu xám không hợp mốt và đôi giầy đen dày cộp. Anderson cất giọng hỏi, “Patricia?” Cô ta gật đầu và bước vào phòng, bắt tay ông. “Đây là Patricia Nolan, cố vấn viên mà tôi đã nói với mọi người. Cô ấy đến từ phòng an ninh mạng của Horizon Online.” Horizon là nhà cung cấp dịch vụ Internet thương mại lớn nhất thế giới, thậm chí còn lớn hơn cả America Online. Bởi có đến hàng chục triệu thuê bao đăng ký và mỗi thuê bao lại có thể có tới tám usemame khác nhau dùng cho bạn bè hoặc các thành viên trong gia đình gần như ở bất kỳ thời điểm nào, luôn có một lượng phần trăm lớn của thế giới đang kiểm tra giá cổ phiếu, chém gió với mọi người trong các phòng chat, đọc những tin đồn Hollywood, mua sắm, xem tin thời tiết, đọc và gửi các email, tải các phim khiêu dâm nhẹ qua Horizon Online. Nolan quan sát vẻ mặt Gillette một lúc. Cô liếc nhìn hình xăm cây cọ. Rồi nhìn những ngón tay đang gõ vô thức vào không khí của hắn. Anderson giải thích, “Horizon gọi cho chúng tôi khi biết tin nạn nhân là một khách hàng của họ và tình nguyện gửi nhân viên tới hỗ trợ.” Viên thanh tra giới thiệu cô với mọi người, và giờ đến lượt Gillette dò xét đánh giá cô ta. Cặp kính mắt hàng hiệu, hẳn là đã được mua khi hứng lên, nhưng nó chẳng làm cho khuôn mặt bè bè nam tính của cô ta thanh tú thêm chút nào. Tuy nhiên, đôi mắt xanh lá cây cuốn hút phía sau nó lại vô cùng mạnh mẽ và tính nhanh, Gillette có thể thấy cô ta cũng hoan hỉ khi được đứng trong một phòng máy cổ như thế này. Nước da của Nolan không săn chắc mà bềnh bệch và bị bôi trát bằng lớp trang điểm dày cộp mà nói quá lên thì, có lẽ là thời trang của những năm bảy mươi. Mái tóc nâu của cô thì dày và rối tung, chỉ chực lòa xòa trước mặt. Sau khi bắt tay và giới thiệu, cô quay ngay sang Gillette. Quấn một lọn tóc quanh những ngón tay và không quan tâm có ai nghe thấy không, cô ta nói thẳng thừng, “Tôi thấy cách anh soi mói tôi khi biết tôi làm việc cho Horizon.” Giống như tất cả những nhà cung cấp mạng Internet thương mại lớn khác như AOL, CompuServe, Prodigy…Horizon Online bị khinh thường bởi những tay hacker thực sự. Những phù thủy máy tính sử dụng các chương trình Telnet[17] để chuyển trực tiếp từ máy tính của họ tới máy tính của người khác và lang thang trên mạng với những phần mềm lướt web được thiết lập riêng cho những chuyến du hành như vậy. Họ sẽ chẳng mảy may nghĩ tới việc sử dụng những nhà cung cấp mạng giản đơn, với tốc độ chậm chạp như Horizon, nơi chỉ đơn thuần phục vụ cho việc giải trí của các gia đình. Những thuê bao của Horizon Online được gọi là Holamers[18] hay HoLosers[19]. Hay theo cách gọi nhấn mạnh của Gillette thì chỉ đơn giản là HOs ngố.