🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố - Tập 3 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tặng các anh Nhâm, Tâm Các chị Dung, Vân Các em Chi, Thanh Nhớ những ngày chung sống dưới mái nhà ở Phú Nhuận. https://thuviensach.vn “VIẾT VỀ NHỮNG CHUYỆN ‘TRÊN BỜ’ CỦA DÒNG LỊCH SỬ” (Bài phỏng vấn tác giả Phạm Công Luận, do nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên thực hiện, đăng báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần số 11/1/2015) Điềm đạm, nhẹ nhàng và cẩn trọng là những gì người đọc có thể cảm nhận về tính cách của Phạm Công Luận qua văn anh. Sau cuốn Sài Gòn - Chuyện đời của phố I được độc giả quan tâm đặc biệt, Phạm Công Luận trở thành tên tuổi mới đáng chú ý trong dòng sách viết về Sài Gòn vốn ít ỏi bấy lâu. Sự chỉn chu kỹ lưỡng và cái nhìn của một ký giả biết lùi khỏi những chộn rộn thời sự giúp anh có được sự giản dị, tinh tế khi thu thập và kể lại vệt chuyện về Sài Gòn – thành phố mà anh sinh ra và lớn lên. Tuổi Trẻ Cuối Tuần trò chuyện cùng anh khi Sài Gòn - Chuyện đời của phố II vừa phát hành. Nguyễn Vĩnh Nguyên (NVN): Một người Sài Gòn khi viết về Sài Gòn sẽ chịu những áp lực gì? Phạm Công Luận (PCL): Dù sinh ra và lớn lên ở đây, tôi cũng giống như nhiều người khác, chỉ biết rõ không gian hẹp đã sống lâu nay, không hiểu nhiều về thành phố rộng lớn, có cuộc sống đa dạng này. Đi sâu vào tìm hiểu Sài Gòn như một đối tượng nghiên cứu, càng thấy rõ như vậy. Điều đó dễ dẫn đến thiếu tự tin khi muốn bắt tay vào. Bên cạnh đó, hiện nay có những đề tài không dễ viết, không dễ thể hiện hết bởi những lý do chủ quan và khách quan. https://thuviensach.vn NVN: Thử nói về khách quan. Dường như kho tài liệu nghiên cứu văn hóa, đời sống về một thành phố có tuổi đời trên ba thế kỷ vẫn chưa thật dày và hệ thống. Đó có phải là một trong những cái khó? PCL: Ai cũng thấy lịch sử Sài Gòn chỉ vài trăm năm, tài liệu cổ không nhiều. Các tài liệu viết có bài bản chủ yếu bằng tiếng Pháp, là điều khó khăn nếu không nắm được ngôn ngữ này. Tôi tự biết không thể đi vào việc nghiên cứu, nên chỉ nhẩn nha viết điều gì mình có tài liệu, điều gì đủ cảm hứng để xông vào tìm hiểu. Cuốn sách của tôi giống như một cuốn tạp chí về Sài Gòn xưa do một người viết, sắc thái chính là chủ quan. Tài liệu thì tùy duyên, phải tương đối lạ và độc, quan trọng nhất là tài liệu sống qua gặp gỡ, phỏng vấn. Hình ảnh cố gắng sao cho phong phú. Trong quá trình đi tìm tài liệu, khi không lần ra đầu mối hoặc thấy không có gì mới, tôi bỏ qua đề tài đó và đi tìm điều khác. https://thuviensach.vn NVN: Từ góc độ một nhà báo, từng sưu tập sách báo cũ và đặc biệt là người viết về Sài Gòn, xin thử cắt nghĩa xem vì sao lại có câu chuyện Sài Gòn chưa có những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp viết về nó một cách thật bài bản, cũng như chưa có những nhà văn gắn tên mình với tên đô thị Sài Gòn (như Orhan Pamuk với Istanbul, James Joyce với Dublin, Paul Auster với New York...)? PCL: Tôi nghĩ thành phố nào trên thế giới này cũng đáng để viết về nó. Nhưng vì sao có những nhà văn gắn tên mình với tên đô thị như anh nói, hay nói khác đi có những đô thị gắn tên mình với tên một nhà văn? Tôi nghĩ trong mối quan hệ này, tài năng của nhà văn sẽ quyết định và Istanbul, Dublin hay New York đã may mắn có được Pamuk, Joyce hay Auster. Đã có những tác giả viết sách về thành phố này như Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Huỳnh Minh... Chưa kể có một số nhà văn trước kia, trong tiểu thuyết của họ cũng đậm đặc cuộc sống về Sài Gòn. Các nhà văn, nhà nghiên cứu đi trước đã có những thành công và hi vọng duyên may sẽ giúp thành phố này có tác phẩm lớn như anh nói. NVN: Nhưng nói cho cùng tài năng thường được trổ sinh trên một nền tảng văn hóa. Với Sài Gòn, dường như sự “đứt gãy” văn hóa trong tiến trình lịch sử hiện đại đã là một hạn chế đáng tiếc? PCL: Nếu có đứt gãy, phải tìm cách nối lại bằng sự góp sức của những người yêu và gắn bó với Sài Gòn. Đã có những tập sách ảnh, tranh vẽ, bưu ảnh cổ được xuất bản. Trên mạng xã hội, nhiều trang chia sẻ ảnh hay bài viết về kỷ niệm Sài Gòn xưa đã được lập ra với nhiều thành viên. Các cuộc thi viết về Tết trong hoài niệm, về kỷ niệm gia đình cũng đã có. Những việc này chính là lưu giữ ký ức và nên được khuyến khích. Những sinh hoạt văn hóa của Sài Gòn xưa cần được đánh giá và khẳng định giá trị. Cần có những bù đắp về ký ức đô thị đã bị mai một. NVN: Trong hai quyển sách Sài Gòn - Chuyện đời của phố, rất nhiều câu chuyện thuần túy là cảm xúc cá nhân (chuyện trường lớp, học hành, những ấn tượng thời ấu thơ với Sài Gòn, những biến cố trong gia đình...). Khi tìm https://thuviensach.vn tòi và ngồi viết ra, có bao giờ anh sợ rằng chúng quá khu biệt, riêng tư, không mang tính đại diện cho cái gọi là “chuyện đời của phố”? PCL: Cuốn I như mối tình đầu, tôi thổ lộ cảm xúc nhiều hơn, mang tính chủ quan và riêng tư. Tôi nghĩ dù cái tôi là đáng ghét, nhưng khi chia sẻ cái nhìn, cảm nghĩ riêng một cách chân thành sẽ nhận được đồng cảm, và điều đó đã có. Sách không bị ràng buộc bởi thể loại, người viết sẽ cảm thấy thoải mái khi viết điều mình cảm nhận và có hiểu biết ít nhiều. Quan trọng là bạn đọc chấp nhận được nó. Ở cuốn II, anh sẽ thấy ít cảm xúc cá nhân hơn, tư liệu nhiều hơn. Tôi đọc được câu: “Lịch sử nhân loại như một dòng sông đôi khi đầy máu và xác những người chém giết nhau, cướp bóc lẫn nhau; mà các sử gia chỉ thường chép những hành động đó thôi. Nhưng trên bờ còn có những người khác cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ” (Will & Ariel Durant). Có những điều đã có người viết rất giỏi, nên tôi muốn góp sức viết chuyện “trên bờ” của dòng lịch sử, là những chuyện đời thường “cất nhà, làm vườn, nuôi con...”. Có thể chúng riêng tư nhưng cuộc sống đời thường của một giai đoạn quá khứ nào đó vẫn góp phần vào chuyện đời của một thành phố. NVN: Nghe nói trong quá trình tìm hiểu để viết cuốn II, anh đã khám phá thêm nhiều tư liệu rất thú vị? PCL: Lần này tôi may mắn gặp được một nhân vật hoạt động trong giới nghệ thuật của Sài Gòn cách nay sáu mươi năm. Từ ông, tôi có nhiều tư liệu quý về chuyện tổ chức dịch vụ du lịch Sài Gòn thời chiến khá thú vị. Ông cũng cho phép đăng những tấm ảnh tư liệu màu hiếm có do ông chụp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tuổi 23 khi còn là thầy giáo sống trong một căn gác trọ. Ngoài ra, đó là câu chuyện về ban nhạc thiếu nhi lừng tiếng, ban Tuổi Xanh với kỹ thuật biểu diễn bài bản, nơi xuất phát các ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như Mai Hương, Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Quỳnh Giao, nhạc sĩ Quốc Dũng... Là câu chuyện Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam. Là chuyện mối duyên tình của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Trung Cang và cuốn sổ tay cuối cùng của ông. Qua tư liệu trên báo xưa, sách cho độc giả hình dung về siêu thị đầu tiên của Sài Gòn với diện tích lớn, kệ quầy, cửa quay, bàn cuốn, máy tính, kho lạnh https://thuviensach.vn không thua gì siêu thị ngày nay và những người quản lý được mời sang Bangkok (Thái Lan) để hướng dẫn kinh nghiệm. Về vẻ đẹp của đàn ông Sài Gòn cách nay trên dưới nửa thế kỷ qua những bức chân dung của các nam nghệ sĩ. Là những trang hồi ký của một thanh niên Quảng Bình kể chuyện kiếm sống ở Sài Gòn trước năm 1945 với những chi tiết thú vị... NVN: Đọc hai cuốn sách của anh, với tôi, sự thú vị nằm ở tính tư liệu, nâng niu vàng son, trân trọng ký ức, nhưng thiếu vắng sắc thái đương đại hay những góc nhìn, thái độ thật rõ ràng với rất nhiều thứ xáo trộn đang gây tổn hại trực tiếp hệ giá trị Sài Gòn... Đó là một sự cố tình né tránh? PCL: Cảm ơn về nhận xét của anh. Có lẽ do mục đích của tôi xuyên suốt hai tập sách vẫn là câu chuyện Sài Gòn của những năm đã xa xưa. Nếu có nhân vật hay câu chuyện của thời hiện đại, chẳng qua vì cuộc sống của họ hiện nay có nhắc nhớ tới quãng đời trước kia ở thành phố này. Ưu tiên viết về những giá trị đó, tôi muốn dành thời gian để nhặt nhạnh, gom góp những điều đang dần bị lãng quên một cách nhanh chóng, từng ngày một. Cuộc sống hiện nay tất nhiên đang đặt ra nhiều vấn đề cho thành phố này, nhưng những điều đó không thuộc chủ đề của bộ sách này. NVN: Ký ức có vai trò như thế nào đối với sự phát triển của một đô thị? PCL: Tôi nghĩ về chuyện này: Sài Gòn trước kia có nhiều khu xóm lụp xụp và nay đã dần mất đi. Có lẽ số đông không thích những khu xóm đó, nhưng phải thấy rằng nó có vai trò trong sự phát triển đô thị. Tôi có đọc ở đâu đó cho rằng: các khu xóm này đảm nhiệm vai trò duy nhất là giúp những cư dân từ thôn quê lên tỉnh thích nghi dần với đời sống tân tiến nơi đô thị. Con người nông thôn ở đây biến đổi dần thành người đô thị một cách chậm chạp, vì nơi họ sống vẫn còn những yếu tố của cả hai thế giới chung sống nhau một cách hòa hợp. Khi họ có thể nâng cao và thoát khỏi các khu xóm lụp xụp về các phương diện kinh tế và xã hội, họ cũng biến cải về phong cách sống, trở thành một thị dân tân tiến. Khi chuyện đó hoàn tất, ký ức về nơi xuất thân giúp họ không quên nguồn cội và từ chỗ này, họ đóng góp cho đô thị những sắc màu của cố hương từ phong tục, ẩm thực, lời ăn tiếng nói và những thế mạnh riêng. https://thuviensach.vn Ký ức sau khi được chiêm nghiệm giúp thị dân nhận thức các giá trị lâu đời trong văn hóa, lối sống và truyền đến lớp người sinh sau. Ký ức đô thị cần được lưu giữ. Một đô thị không có ký ức giống như một con người không nhớ gì về nơi mình sinh ra, lớn lên và cách mình trưởng thành ra sao. Nếu vậy, sẽ không biết đánh giá đúng các giá trị để chọn lọc, giữ gìn, truyền lưu. NVN: Anh có hai con trai. Có bao giờ anh thử so sánh sự khác biệt giữa thế giới Sài Gòn trong mắt hai cậu bé với thế giới Sài Gòn của anh, tình yêu với Sài Gòn của chúng với tình yêu Sài Gòn thời thơ ấu của anh trước đây... PCL: Tình yêu Sài Gòn của tôi trước hết từ cảm xúc yêu thương gắn bó với người thân trong gia đình, tình làng nghĩa xóm, những trò chơi tuổi nhỏ và những chuyến đi chơi Sở thú, chợ hoa Nguyễn Huệ dịp Tết... Nếu sau này các con tôi lớn lên và sống xa thành phố này, tôi tin rằng kỷ niệm trong gia đình ngày Tết, trường lớp bạn bè, những chuyến đi cùng cha mẹ sẽ hình thành tình yêu của các con tôi đối với thành phố này giống như tôi, dù cuộc sống và diện mạo Sài Gòn có khác đi. NVN: Thử hình dung, 50 năm sau, giả dụ hai con trai của anh sẽ tiếp tục viết một dạng TP.HCM - Chuyện đời của phố thì chúng sẽ viết gì? PCL: Năm 1972, khi tôi 11 tuổi, ba của tôi là nhân viên cửa hàng Kim Phát ở chợ Bến Thành vừa đi làm về đã cho biết người ta định đập ngôi chợ này để xây một khu chợ mới hiện đại nhiều tầng lầu. Sau đó một thời gian, ông lại kể rằng vì dân chúng phản đối quá nhiều nên cuối cùng ngôi chợ vẫn được giữ nguyên, tồn tại đến ngày nay. Câu chuyện đã diễn ra từ hơn bốn mươi năm trước, tôi có viết lại trong phần II cuốn sách. Sài Gòn nửa thế kỷ sau chắc sẽ rất hiện đại, và rất có thể các con tôi trong câu chuyện giả định này sẽ viết về những quyết định đúng hay sai khi người ta đứng trước một hay nhiều kiến trúc cổ của thành phố này. Biết đâu chúng sẽ đưa hình ảnh một tòa nhà cổ, vẫn đang tồn tại, cho mọi người xuýt xoa tiếc rẻ, vì ở thời của chúng đã biến mất để thành khu buôn bán hay cao ốc gì đó. NVN: Xin cảm ơn anh! https://thuviensach.vn Cảng Sài Gòn năm 1951, tranh khắc của Patrick Manceau. https://thuviensach.vn BỨC ẢNH GIA ĐÌNH Ảnh: Tư liệu gia đình tác giả Bức ảnh này chụp trước khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ II. Năm 1940, một người em họ của bà ngoại tôi sắp đi xa. Bà ngoại tôi (bận áo đen ngồi giữa ảnh) cùng anh ruột, các em họ, em rể, em dâu, con, cháu trong đại gia đình ở Chợ Lớn chụp một tấm ảnh chung để lưu niệm. Má tôi lúc đó chỉ mới mười sáu tuổi, bận áo đen đứng sát góc bên phải. Một năm sau đó bà lên xe hoa. Người đàn ông bận complet màu sáng là người sẽ lên tàu biển sang Pháp làm việc, sau đó một thời gian ngắn. Hai ông bên phải, hai bà áo đen góc trái là anh ruột và các em họ của bà ngoại tôi. Bà bận áo dài trắng là em dâu. Ông trán cao thứ ba từ trái qua là em rể của bà ngoại, chồng bà áo đen kế bên bà ngoại. Người trong bức ảnh này giờ chỉ còn mỗi dì Út tôi, bé gái phía bên trái. Dì Út tôi lớn lên làm dâu trong gia đình người Gia Định gốc mà tôi viết trong cuốn Sài Gòn - Chuyện đời của phố I, bài Hai thế kỷ thăng trầm của một dòng họ. Đàn ông Sài Gòn thời đó bận complet với cravate to bản. Phụ nữ có khi bận áo đen quần trắng hay áo trắng quần đen. Phụ nữ lớn tuổi đeo dây https://thuviensach.vn chuyền có mề đay, tay đeo vòng. Con gái nhỏ thì đeo kiềng. Ông ngoại tôi không chụp chung với gia đình bên vợ. Lúc đó ông đang làm thư ký Sở Hỏa xa Đông Dương, chỗ “hàng chữ” điện quang góc Huỳnh Thúc Kháng – Hàm Nghi, đối diện xéo chợ Bến Thành. Năm năm sau, chiến cuộc xảy ra, gia đình cả hai bên, phía ông ngoại ở quận 4 và bà ngoại trong Chợ Lớn đều tan tác theo thời cuộc. Bức ảnh này thất lạc đã lâu, bỗng tìm lại được trước ngày giỗ của má tôi tháng Tám Âm lịch 2015. Ngày giỗ, cả nhà cùng xem với nhiều cảm xúc, nhất là dì Út, bé gái nhỏ nhất trong ảnh. Poster quảng bá du lịch Sài Gòn trước 1975. Trân trọng cám ơn: – Ông Lý Lược Tam (An Giang) https://thuviensach.vn – Ông Đinh Tiến Mậu (quận 3, TP.HCM) – Ông Dương Kiện Toàn (quận Bình Thạnh, TP.HCM) – Nhà thơ – nhà báo Lê Minh Quốc (quận Phú Nhuận, TP.HCM) – Ông Dương Hữu Đạt (quận I, TP.HCM) – Nhà văn Kim Hài (quận Phú Nhuận, TP.HCM) – Ông Tăng Văn Hùng (quận 10, TP.HCM) – Ông Hoàng Thọ Phồn (quận 4, TP.HCM) – Ông Trần Thành Trung (Vĩnh Long) – Ông Trần Hữu Nghiêm (quận 3, TP.HCM) – Ông Lương Tấn Thành và các anh chị gia đình nhà may Kim Sơn (TP.HCM và Hoa Kỳ) – Nhà văn Thùy An (Hoa Kỳ) – Giáo sư Lê Văn Khoa (Hoa Kỳ) – Cô Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (Hoa Kỳ) – Ông Nguyễn Đăng Kha (Hoa Kỳ) Đã tiếp chuyện, trả lời thư, hỗ trợ tài liệu, hình ảnh, góp ý bản thảo trong quá trình thực hiện cuốn sách này. Tác giả https://thuviensach.vn LANG THANG TRÊN THÀNH PHỐ XƯA Ngôi nhà ở Lái Thiêu của Lý Thân lúc nào cũng đông khách. Từ sáng tới tối, khách ngủ lại hoặc ghé ăn cơm rồi đi. Có người ăn dầm nằm dề hàng tháng trời. Người trong xóm gọi ông Hai Vững, cha của Thân, là ông Mạnh Thường Quân, theo tích trong truyện Tàu. Ai cũng kính nể ông vì tính hào sảng, mà sống kiểu hào sảng như vậy thì tốn kém lắm, dù ai cũng biết ông Hai Vững là con của bang trưởng Triều Châu ở Lái Thiêu, giàu có và uy tín nhất vùng đất nhiều cây trái này. Lý Thân không để tâm nhiều đến vị thế gia đình, chỉ biết mình có rất nhiều ông chú không phải ruột thịt, ông nào cũng thương chú bé nhỏ nhắn con chủ nhà. Thân thường được đi chơi với mấy chú, những chuyến đi để mở mắt nhìn đời. Đáng nhớ nhất vẫn là những chuyến thăm Sài Gòn. Đó là câu chuyện trước năm 1954. Những năm đó, Lý Thân đã lang thang bao lần ở cái thành phố phồn hoa này. Người ta nói “Sài Gòn hoa lệ”. Hoa cho người giàu và nước mắt cho người nghèo. Dù sao, Thân cùng mấy chú chỉ là khách nhàn cư vãng lai nên chẳng bận tâm chi mấy chuyện đó. Tới Sài Gòn, cậu thanh niên mới lớn choáng ngợp với cảnh nhà xe nhộn nhịp, rồi dần quen và thích cuộc sống ở đây. Sài Gòn lúc đó còn thông thoáng lắm so với bây giờ, nhưng đã quá vui với chàng nhà quê. Xe cộ qua lại như mắc cửi. Xe kéo tay có người phu đội nón lá chạy chân đất thình thịch giữa trời trưa nắng. Xe ngựa kéo, bò kéo đi lóc cóc ngoài đường phố trung tâm gần chợ Bến Thành, bên chiếc xe hơi bóng loáng của mấy ông Tây. Có loại xe ngựa chuyên chở hàng, không mui, ngoài xe ngựa chở khách thanh mảnh, dáng đẹp có mui kín mít. Có cả xe kéo tay chở hàng với thùng xe rất to, vừa có càng phía trước để kéo vừa có chỗ để mấy người phía sau đẩy đi, loại xe tải bằng sức người của mấy ông Tàu đội nón cời-lối rộng vành chóp nhọn. Có những chiếc xe đẩy bán nước ngọt đóng chai. Hai bức tượng cô đầm trước Nhà hát Tây nhìn cao ráo thanh https://thuviensach.vn mảnh hơn tượng phục chế hiện nay. Đàn ông lịch sự bận bộ đồ bà ba trắng may bằng lụa lèo, đầu đội mũ phớt và chân mang guốc, ít thấy người bận áo dài khăn đóng trừ chỗ đám tang. Phụ nữ thời đó hay bận áo dài đen. Nhiều người thích trùm khăn trên đầu khi trời nóng, cả nam lẫn nữ, nhất là ở ngoài chợ. Hầu như không thấy mặc quần ngắn, trừ các ông Tây với quần soọc lửng. Một thời sầm uất của Sài Gòn đầu thập niên 1960. Cảnh bến Chương Dương trước Ngân hàng Quốc gia. Ảnh: Báo SDMN. https://thuviensach.vn Xe kéo ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935. Những người bán hàng rong trên đường phố Sài Gòn xưa. Ảnh: T.L. Lý Thân thích nhìn mấy tấm biển quảng cáo to đùng mà vẽ rất sắc nét, không bị méo mó: nhiều nhất là quảng cáo La-de Larue và giày của hãng Bata. Ở bến Bình Đông, người ta chở dừa, chuối và sản vật miệt Lục Tỉnh lên Sài Gòn bán không khác gì bây giờ. Sông đã có bờ kè bằng xi măng dốc thoai thoải xuống. Nhà hàng Givral đã mở cửa lại từ năm 1946 khi Tây trở qua. Năm 1950, ông chủ Givral cho bày thêm bàn ở ngoài hàng hiên cho khách ngồi vì không gian nhỏ xíu trong nhà hàng chỉ để được dăm bàn ăn. Một ông chú dắt Thân đến đây, nhưng chỉ dám đãi thằng cháu món yaourt là thứ rẻ nhất. Yaourt lúc đó có vị hơi lạt, chủ quán để sẵn một hũ đường, ai thích ăn ngọt thì thêm đường. Có khi ngoài vỉa hè hết chỗ, ông chú làm gan đẩy cửa bước vào trong. Ghế ngồi trong quán Givral lúc đó chỉ là ghế gỗ bình thường, không có nệm như sau này, cũng không có máy hát cho khách nghe. Đa số khách là lính Tây, vài ông bận complet trắng. https://thuviensach.vn Hiệu Khinh Ký góc Hai Bà Trưng - Đông Du ngày nay, xưa kia là nơi bán đồ thực phẩm ngoại nhập nổi tiếng. Ảnh T.L. Uống nước xong thì cả nhóm lại rong chơi tiếp. Trong nhóm của Thân có một chú rất diện, thắt cravate mặc complet nhìn như một ông chủ hãng. Ông chú này thích la cà ngó nghiêng chỗ này chỗ kia, thích vào hiệu sách Portail (hiệu sách Xuân Thu sau này), nhưng khi có ông Tây nào đến đứng gần là chú bỏ đi ngay. Thân hỏi thì chú trả lời: “Đứng gần, nó hỏi tiếng Tây mà không biết trả lời thì mắc cỡ sao mậy!” Vô nhà sách Portail xem sách cho vui thôi chứ sách mắc lắm, không mua nổi. Thân ngạc nhiên khi thấy ở tiệm người ta bày bán nhiều ấm trà không có nắp, hỏi ra thì đó không phải ấm trà mà là... bình vôi ăn trầu. Cho đến giờ, ông già Lý Thân của sáu mươi năm sau vẫn tủm tỉm cười nhớ cái bình vôi rất bình dân được bán trong một nhà sách của Tây sang trọng như vậy. Nhưng vào Portail cũng khá thú vị khi xem những bức ký họa về Nam kỳ của ông Henry Meige, họa sĩ người Pháp. Ông vẽ những hình ảnh rất gần gũi đời thường, như một góc khách sạn Continental gần đó, người đánh giày trên đường phố Sài Gòn... Đi dạo chợ Sài Gòn thì có thể nhận ra những tiệm của người Bắc đóng giày và tiệm vàng Nguyễn Thế Tài trên đường Lê Thánh Tôn phía sau chợ. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài nổi tiếng với cuộc thi thơ rất hấp dẫn mà Thân nhớ mấy câu thơ đã đọc trong báo Mới của ông Phạm Văn Tươi. Đoạn thơ kể rằng bà nhà giàu kia có cô con gái, bà muốn gả chồng cho con nhưng cô https://thuviensach.vn con gái kén chọn lắm, chẳng chịu ai. Ai ngờ anh chàng người hầu trong nhà khôn ngoan, sắm tặng cô mấy món nữ trang của tiệm vàng Nguyễn Thế Tài. Thế là cô ưng thuận (!) trước sự ngỡ ngàng của bà mẹ. Chuyện này được giải thích: “Là vì vàng đúng tuổi mười. Lòng cô cảm nghĩa ơn người biết bao. Tình yêu cô bỗng thấm vào…”. Bà mẹ được cô gái thưa chuyện nên tự tìm hiểu và rồi: “Bà xem vàng thấy hay hay. Nên bà đem gả nàng ngay cho chàng. Cho hay nhờ bởi có vàng. Thế Tài họ Nguyễn mà chàng được yêu”. Mỗi bài thơ đăng trên báo Mới với nội dung ca ngợi nữ trang của nhà Nguyễn Thế Tài sẽ được trả 50 đồng. Chiêu quảng cáo này hấp dẫn dân ưa văn chương lắm và nhờ vậy vàng Nguyễn Thế Tài luôn đông khách. Khoảng thời gian đó, có nhiều người Ấn sống ở khu trung tâm Sài Gòn gần chợ. Người Ấn gốc Bombay chuyên cho vay lấy lãi và bán vải, còn những người Hạch chuyên thức đêm làm gác cửa, gác tiệm buôn. Nhóm người Hạch gốc Hồi giáo có làn da ngăm đen giống người Ấn và làm nghề gác cửa thì rất cần mẫn. Mấy ông chú nói với Thân là họ chỉ giỏi nghề gác cửa, chuyển sang nghề khác thì dở ẹc nên mới có câu “Dở như Hạch”. Sau này, Thân biết Hạch có nghĩa là Hadj, đứng đầu tên của họ, nghĩa là “hành hương” trong tiếng Á Rập, nhắc đến mơ ước một đời là hành hương đến thánh địa Mecca. Và ai có chữ Hadj đứng trước tên nghĩa là đã đến đó rồi. Dân Ấn góp cho ẩm thực Sài Gòn xưa mấy món ăn mà Thân không quên. Đi xuống mé Đa Kao, phía Cầu Bông gần rạp Văn Hoa Đa Kao sau này có https://thuviensach.vn một tiệm bán cơm cà-ri của người Ấn rất ngon. Ngay trong quán có ông Ấn khác thuê một góc bán cà phê, cơm nị, bánh cay, bánh rế. Bánh cay không phải là loại bánh bằng bột khoai mì vắt trong nắm tay, chiên trong chảo mỡ thành một loại bánh dài, nhỏ nhắn và cay như sau này. Bánh cay đây là loại hơi giống bánh xèo nhưng đổ dày hơn, to cỡ bánh patéchaud, bằng bột mì, có nhân thịt, củ hành, ớt, đậu xanh... chiên lên có vị cay và hơi chua, rất ngon nếu ăn cùng với cà-ri gà, cà-ri dê. Ông chỉ bán từ trưa đến chiều, rất đông khách. Còn cơm nị thì có trộn dầu, bơ, sữa nên ai không thích béo thì khó ăn vì ngậy. Còn nếu không thích thì đi ăn bánh cuốn có trứng vịt chiên cuộn bên trong, rất ngon và béo... Năm nay đã hơn 80 tuổi, chàng trai Lý Thân ngày nào vẫn sống ở quê nhà Lái Thiêu, thỉnh thoảng lên Sài Gòn thăm con trai lớn sắp về hưu. Ông già Lý Thân đi đâu cũng gặp kỷ niệm. Nhớ có lần đi xe điện gần ga Arras tức đường Cống Quỳnh ngày nay, ông nhảy tàu suýt té chết. Tiệm Givral ông từng ăn yaourt nay đã không còn. Saigon Departo, nơi ông mê mẩn mấy bộ tách trà Nhật hiệu Arita cũng không còn. Xe điện không còn. Hiệu sách Portail không còn. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài không còn. Nhớ có lần ông nhờ đứa cháu làm nghề báo vô Chợ Lớn tìm mua cái nón cời-lối đan bằng tre, chóp nhọn vành rộng nhưng nó đi mấy ngày không tìm ra. May mà có thể thấy cái xe kéo tay trong Bảo tàng ở bến Nhà Rồng. Ông nghĩ chắc chỉ có mỗi mình và vài ông bạn già ở miệt Lái Thiêu lẩn thẩn khi nhớ về Sài Gòn qua những hình ảnh đó. Chứ người ở Sài Gòn bây giờ có khi chỉ thích xây nhà cao có kính bóng loáng để bán thật nhiều hàng, cho thuê nhiều tầng mà thôi. CATINAT – PHIÊN Y – TỰ DO… DĂM HỒI ỨC Đường Tự Do, xưa gọi là Catinat, nay có tên là Đồng Khởi. Nhưng có lẽ không mấy ai biết người Hoa trong Chợ Lớn từng gọi đường này là đường Phiên Y, vì từ cuối thế kỷ 19 ở đây đã có nhiều cửa hiệu quần áo của người https://thuviensach.vn phương Tây (Phiên: cách người Hoa gọi người phương Tây. Y: quần áo). Con đường này, từ khi còn mang tên Catinat đã là nơi cạnh tranh mãnh liệt trong thương trường của người Pháp, người Hoa và người Việt, nhất là người gốc Bắc. Theo cuốn Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ của nhà báo Đào Trinh Nhất, cho đến thập niên 1920 dân Sài Gòn xưa vẫn quen dùng hàng Tàu và của châu Âu nhập qua. Lúc đó, người miền Bắc đã tìm mọi cách đem hàng thủ công nghệ xứ Bắc vào Nam và đường Catinat chính là chọn lựa số một. Trước đó người Nam không thèm ngó tới the lượt của Bắc kỳ, nhưng từ khi có phong trào tẩy chay hàng người Hoa sản xuất thì người trong Nam đã ưa dùng đồ Bắc. Đó là chưa kể đồ đắt tiền như khảm xà cừ, đồ gụ... thường bán cho Tây ở ngoài Bắc nhưng vào Nam bán rất chạy do người Nam có “đức xài tiền”, hàng quý mấy mà thích cũng dám mua. Chính vì vậy, các mặt hàng từ các nguồn khác đã bị cạnh tranh và ảnh hưởng doanh thu. Trước kia dân Sài Gòn dùng vải mùi xám của Hoa kiều dệt tại chỗ, nhưng khi người Bắc vào mang theo vải ta và hàng tơ lụa thì họ dùng luôn. Hoặc trước kia người Nam dùng ghế mây gọi là ghế Tô-nê thì sau đó dùng ghế Bắc. Trước kia dùng giày cườm thì sau đó dùng giày Hạ. Tuy nhiên, tác giả phàn nàn là tại sao chỉ thích thuê mướn ở đường Catinat giá tới 100 đồng, có khi lên tới 200 đồng, để rồi vì tranh nhau mà đẩy giá lên cao. Ông khẳng định: “Nào có nghĩ đâu rằng: hàng Bắc muốn cho ai nấy đều biết đều chuộng, chẳng cần gì lấy phố Catinat làm chỗ chiêu hàng mới được, mà chỉ nên chiêu hàng ở chỗ buôn bán thật thà, hàng hóa tốt và rẻ mà thôi, thì trong thành phố Sài Gòn, không thiếu gì chỗ cũng tốt và rẻ tiền hơn: như những phố Charner (Nguyễn Huệ), Pellerin (Pasteur), d' Espagne (Lê Thánh Tôn) và Amiral Courbet (Nguyễn An Ninh) v.v…”. Câu chuyện trên giúp ta thấy phần nào không khí buôn bán của người Việt mà con đường Catinat đã chứng kiến dưới những tán cây của mình. Tuy nhiên, đó là câu chuyện thập niên 1920. Từ thập niên 1940 về sau, người Việt đã đứng chân nhiều cửa hàng ở đường Catinat, trước khi người Pháp rút về nước năm 1954. Có nhiều tiệm may, tiệm bán vải, tiệm chụp ảnh trên con https://thuviensach.vn đường này và trên các nhánh đường gần đó như d’ Ormay (Nguyễn Văn Thinh, nay là Mạc Thị Bưởi), Amiral Dupré (Thái Lập Thành, nay là Đông Du)... hầu hết của người gốc Bắc. Người gốc Hoa vẫn chiếm nhiều vị trí cửa hàng tạp hóa trên đường d’ Ormay. Anh Tấn Thành, một thầy giáo sống từ nhỏ trên con đường Amiral Dupré, nay là Đông Du kể: “Khi tôi sinh ra năm 1962, đường Catinat đã đổi tên thành đường Tự Do. Đó là một con đường có thể là lộng lẫy nhất Sài Gòn dù không lớn như đường Thống Nhất (nay là Lê Duẩn), hay Nguyễn Huệ. Nhưng ở đó có những cửa hiệu đẹp nhất, dùng kính bóng loáng, ốp đá sang trọng...”. Anh Thành kể suốt những năm tuổi nhỏ, anh gắn bó với con đường này bằng những kỷ niệm riêng tư. Đó là những buổi đi bơi ở hồ tắm Tự Do phía bến Bạch Đằng, gần quán cơm nổi tiếng Bà Cả Đọi. Cái hồ đó lát gạch men trắng, sâu tới ba mét, nay đã không còn. Từ đường Tự Do, có con hẻm sát bên cửa hàng Thành Lễ bán đồ mỹ nghệ đi băng ra đường Nguyễn Huệ. Trong hẻm có rạp hát nhỏ gọi là rạp Catinat, có chỗ bán bún thịt nướng, hột vịt lộn, rất thu hút các nữ sinh. Đám con nít thích ra Trung tâm thương mại Saigon Departo, góc Tự Do và Thái Lập Thành. Đây là tiệm bách hóa có thể nói là đẹp nhứt Sài Gòn thời đó, bán hàng mỹ nghệ Việt Nam, hàng nhập cảng từ Nhật. Đồ đạc trong đó có nhiều thứ hấp dẫn, cuốn hút với lũ nhỏ, nhất là có tủ bán kẹo tự động. Bỏ đồng xu vào là có thể mua kẹo, đồ chơi. Kế bên Saigon Departo là tiệm Cafeteria, loại quán giải khát tự phục vụ còn rất lạ lúc đó. Ở đó có máy nghe nhạc tự động, muốn nghe thì nhét đồng xu vào khe, máy sẽ chớp đèn nhấp nháy để báo hiệu chọn bản nhạc. Kế bên là mấy tiệm bán vải Tô Châu, Hàng Phong và Tân Cương. Kế nữa là photo Long Biên, tiệm ảnh rất nổi tiếng. Công viên Chi Lăng bọn trẻ thích ra đá banh, gọi là “Vườn bông cao”. Họa sĩ Bé Ký lang thang trên con đường này bán tranh, nhiều lần bị cảnh sát đuổi khi bày tranh trên vỉa hè Thái Lập Thành và nhiều lần gia đình anh Thành chứa giúp tranh, thậm chí còn mua cho cô hai bức. https://thuviensach.vn Họa sĩ Bé Ký bán tranh dạo trên đường Tự Do (Đồng Khởi) trước 1975. Ảnh: Mạnh Đan, báo SDMN số 4 (10) loại II. Bây giờ khi viết về đường Tự Do ngày xưa, người ta nhắc nhiều về hai quán Givral hay Brodard cùng với quán La Pagode, góc đường Lê Thánh Tôn – Tự Do, những cái quán nay đã không còn. Tuy nhiên đối với người dân khu này, đó là những quán dành cho khách vãng lai. Chị Dung, con dâu của nhà may nổi tiếng Phúc Lợi ở đường Pasteur, chị đầu của anh Thành kể rằng chị và bạn cùng lứa chưa từng vào các quán đó mãi cho đến sau này, chỉ vì nghĩ rằng không phải dành cho mình. Anh Thành kể: Tiệm Brodard dành cho giới nghệ sĩ, con nhà khá giả. Phía ngoài, chủ quán đặt tủ kem bán loại kem ba màu rất ngon hương vị châu Âu, có kem vanilla, chocolate. Giá kem này khá mắc và chú bé Thành phải để dành tiền quà sáng nhiều ngày mới đủ mua một gói kem 100 đồng. Nếu không thì ăn kem ở tiệm Givral, cũng bán ở tủ bày phía ngoài, dạng kem cornet có bánh hình chóp nhọn, hoặc có loại bánh hình nắp hộp tròn, úp lại chứa kem bên trong. Cảm giác đi dọc vỉa hè thưởng thức hương vị bánh xốp thơm và kem lạnh béo tuyệt vời còn đọng trong trí nhớ của anh. https://thuviensach.vn Cuộc sống đường Tự Do đậm dấu ấn Hoa kiều, nhất là trên đường Nguyễn Văn Thinh (Mạc Thị Bưởi) thẳng góc với Tự Do. Thỉnh thoảng trên lề đường thấy một ông Tàu đội nón cời-lối, xách thùng sắt tây có sợi dây móc trên vai, bán bò bía ngọt. Trên đường này còn có một bà xẩm chủ tiệm bán giấm hay ăn gian, thường pha nước vào giấm nên mẹ Thành luôn dặn người nhà khi đi mua nhớ nhắc bà xẩm lắc cái hũ trước khi rót để phần giấm chảy xuống nhiều hơn. Giữa đường Nguyễn Văn Thinh có tiệm nước nổi tiếng Nam Quang cũng của người Hoa. Dân quanh vùng thích đến đó uống cà phê, ăn hủ tíu bò viên. Ai có bệnh thì mua thuốc bắc ở tiệm Tồn Tâm Tế gần đó. Cà phê ở tiệm Nam Quang được đổ vô dĩa để húp khi còn nóng. Do quen giao dịch với Tây, ba của Thành chỉ uống cà phê rót ra ly thủy tinh, còn chú bé Thành ăn bánh hạnh nhân. Trong tiệm còn đặt một xe bán bò viên của người Tàu, bánh croissant có nhân hột gà bên trong. Xe mì góc Nguyễn Văn Thinh – Hai Bà Trưng có những hình vẽ tranh kiếng tích tuồng Tam quốc, Thủy hử có từ nửa thế kỷ trước cho đến giờ vẫn tồn tại. Có lần, Thành thấy giáo sư âm nhạc T.V.K đến đó ăn, mang theo một chai đựng mù tạt vàng để dùng với mì, có lẽ ông nhớ kiểu ăn mì hồi xưa. Đường Tôn Thất Thiệp vẫn còn tiệm hủ tíu Thanh Xuân rất hẹp với bề ngang hai mét, tấm bảng hiệu cũ kỹ vẫn còn qua nửa thế kỷ. Đường Nguyễn Văn Thinh còn có tiệm Peacock (con công) bán đồ “lâm vố” (rabiot) ăn rất ngon, không phải đồ ăn thừa của khách, mà là thức ăn trong bếp còn dư, bán rẻ trong ngày, bỏ hộp đàng hoàng. Ngon nhất là bò lúc lắc và món cơm giống cơm chiên Dương Châu nhưng có vị bơ. Mùa hè năm nay, tôi và anh Thành, những cư dân cũ của Sài Gòn, đi lại trên con đường Tự Do, đã là đường Đồng Khởi gần 40 năm nay. Vẫn còn là con đường sang trọng, gợi cảm, vẫn xứng đáng được ca ngợi như trong cuốn sách năm xưa: “…Với những tầng nhà cao chót vót của một thành phố tân tiến, những cửa hàng mỹ thuật, những lớp người trẻ tuổi tấp nập đi lại, con đường chan chứa cái tưng bừng và náo nhiệt của một dân tộc tiến bộ…” (Lịch tài liệu 1959). Niềm tự hào ấy tồn tại cho đến giờ. Người đi cùng miên man kể: “Có những buổi đi dạy qua đường này buổi chiều, tôi nhớ những chiều năm 1972 lúc lên mười. Khi sắp đến giờ cơm, tôi nắm tay bà vú nuôi https://thuviensach.vn tên là bà Ba Bàng, một người phụ nữ nhà quê xứ Bắc theo mẹ tôi vào Nam hồi còn trẻ. Bà không có gia đình, chăm sóc chín anh chị em tôi với một tình thương giản dị, chân chất. Những buổi chiều đó, bà dẫn tôi ra depot nước đá của một bà người Tàu tên là bà Nhì trên góc đường Phan Văn Đạt – Nguyễn Văn Thinh để đổi vài chai nước ngọt và bia cho bố tôi. Lần nào cũng vậy, sau khi lấy đủ các món, bà lẳng lặng lấy ly rượu trắng nhỏ do bà Nhì rót sẵn, đưa lên miệng uống một hơi, xong lau miệng và ra về. Tôi lủi thủi đi theo bà, luôn thắc mắc vì sao bà thích uống thứ nước cay xè ấy. Bà dặn tôi giấu chuyện này với cả nhà, vẫn uống chút rượu mỗi ngày cho đến ngày già yếu, xin vào chùa tu và mất. Sau này lớn lên, tôi lờ mờ hiểu rằng đó là niềm vui riêng tư và có thể là duy nhất của bà, giữa chốn phồn hoa đô hội mà bà đang sống. Cả hai hoàn toàn không ăn nhập với nhau. Bà luôn nhớ xứ Bắc của bà và hoàn toàn thờ ơ với cảnh náo nhiệt sang trọng chung quanh”. Cửa hàng bán sản phẩm mỹ nghệ của hãng Thành Lễ trên đường Tự Do (Đồng Khởi) trước 1975 được ưa chuộng bởi khách ngoại quốc và giới thượng lưu Sài Gòn. Ảnh: Phùng Trực trên báo TGTD loại V số II -1963. https://thuviensach.vn Nhà cửa khu trung tâm Sài Gòn năm 1967 còn nhiều nhà mái ngói nhấp nhô. Bức ảnh này chụp trên sân thượng một ngôi nhà đường Thái Lập Thành (Đông Du) với hậu cảnh là nóc nhà Tiểu thủ công nghệ, nay là khách sạn Sheraton. Tư liệu: Lương Tấn Thành. Góc đường Nguyễn Văn Thinh - Tự Do (Mạc Thị Bưởi - Đồng Khởi) năm 1962. Ảnh: Jeff Kaufman. https://thuviensach.vn Quảng cáo của các cửa hàng trên đường Catinat đăng trên báo Xuân Tự Do và Tiếng Chuông Xuân Tân Mão 1951. Hình như phía sau vẻ đẹp của một con đường phồn hoa luôn có những nỗi buồn, những mảnh đời không vui. Tôi nhớ giọng hát cũ của nhạc sĩ Trần Văn Trạch: “Trời khuya vui bước trên đường Catinat/ Người đi còn năm ba khách không nhà/ Ngàn mây sao chiếu trên trời đầy mơ/ Hàng cây lặng im nghe gió dưới trăng mờ. Còn kia vài ba búp bê đang nhìn/ Ngồi im và vương mắt trông ra mơ hồ/ Tình duyên say đắm trên lầu đèn che/ Tỉnh mê còn ai đang đứng bên lề…”. Con đường này tôi đã đi qua nhiều lần, từ lần duy nhất hồi nhỏ được vào Brodard cùng ông anh cả đến bao lần lang thang đi ăn uống, mua sách, xem tranh sau này, khi Givral và Brodard chưa đóng cửa. Nhưng tôi cảm thấy mình chưa bao giờ thuộc về con đường này. Có lẽ nó không thuộc về ai cả, bởi con đường huyền thoại này đã dan díu với bao tâm hồn tha hương từ bốn phương trời, hơn một trăm năm nay rồi. https://thuviensach.vn Góc đường Tự Do (Đồng Khởi) - Nguyễn Thiệp năm 1969. Ảnh: Nguyễn Gia Liên. NHỚ VỀ SAIGON DEPARTO Trên báo Xuân Chính Luận năm 1969, bài phóng sự của H. Thủy Ba bộ mặt của Tết Sài Gòn có nêu: “Đi đến đường Tự Do mà không ghé Saigon Departo thật là một thiếu sót. Trong dịp Tết đến, Saigon Departo được huy động toàn lực để… vét túi khách hàng giàu sang. Dân nghèo mà vô đây thì đúng là cảnh chim chích lạc vào rừng. Các món nữ trang, mỹ phẩm đến các đồ tiểu thủ công nghệ chẳng hạn như đèn trang hoàng, giá cũng phải ba bốn chục ngàn một món. Dân nghèo sức mấy mà sờ vào đó. …Ít người tay xách nách mang vì có xe hơi bên cạnh, mua gì là họ gọi tài xế tống ngay lên đó chở về nhà…”. Sài Gòn thời đó, ai mà không biết Saigon Departo là bị chê “quê một cục”. Nhiều người, nhất là giới phụ nữ, cố gắng đến ít nhất một lần cho biết, nhân tiện ghé cửa hàng thực phẩm Pháp gần đó mua bơ Bretel hay cá mòi Sumaco, nước tương Maggi ăn với bánh mì cho bữa điểm tâm. https://thuviensach.vn Sự hiện diện của loại hình Trung tâm bách hóa tổng hợp ở Việt Nam có bề dày không lâu và do người Pháp lập nên. Nổi tiếng nhất miền Bắc là Gô đa (tiếng Pháp là Godard) sang trọng bậc nhất thời Pháp thuộc, nay là Tràng Tiền Plaza. Còn ở miền Nam, đó là thương xá Tax. Tòa nhà bách hóa tổng hợp này có lịch sử lâu đời, được khởi xây từ những năm 80 của thế kỷ 19, lúc đầu mang tên Les Grands Magazins Charner (GMC). Khi cuốn sách này ra đời, người Sài Gòn vẫn còn băn khoăn tự hỏi phương án xử lý đã công bố có thật sự lưu giữ được giá trị lịch sử và kiến trúc của nó hay không? Năm 1967, song song với việc thành lập siêu thị đầu tiên ở miền Nam và chắc là của cả nước, một trung tâm bách hóa tổng hợp đã được mở ra ở Sài Gòn, cạnh tranh thu hút khách với thương xá Tax. Điều cần lưu ý là trung tâm buôn bán này được vận hành khá bài bản, hiện đại không khác mấy so với các trung tâm thương mại hiện nay. Đó là Saigon Departo, thiết lập tại đường Tự Do, quận Nhứt (nay là đường Đồng Khởi), trực thuộc Sài Gòn đại bách hóa thương xã. Departo là từ do người Nhật dùng để gọi Department store của Mỹ, Anh. Saigon Departo mượn cái tên này nói lên tính chất và quy mô của trung tâm. Như tất cả các trung tâm bách hóa, người dân đến đây có thể mua đủ loại vật dụng cho gia đình, đồ dùng hàng ngày, dụng cụ bếp, văn phòng, vải vóc quần áo, đồ dùng du lịch v.v… mà không phải đi đâu xa. Sau khi xuất hiện không lâu, cái tên Departo ở Sài Gòn đã mang ý nghĩa thời thượng thu hút khách hàng do bán nhiều đồ cao cấp, và có cách bài trí hàng hóa tiện lợi và đẹp mắt, phong cách phục vụ mới mẻ, như một làn gió mới thổi vào đời sống của người Sài Gòn thập niên 1960. Việc đào tạo nhân viên ở đây tiến hành khá bài bản trong điều kiện đang có chiến tranh là điều ít ai ngờ tới. Trước khi chính thức mở cửa vào ngày 16 tháng 7 năm 1967, Ban giám đốc trung tâm này dành hơn nửa năm sang Nhật Bản, Hồng Kông và vài quốc gia châu Âu để nghiên cứu thị trường, sản phẩm và học hỏi kinh nghiệm. Việc tuyển chọn nhân viên được tiến hành từ cuối năm 1966. Hơn 60 thiếu nữ bán hàng được tuyển dụng đều có trình độ trung học, học thức khá và nói được tiếng Anh, Pháp. Họ được ông https://thuviensach.vn Trần Thiện Ân, người của Bộ Kinh tế chính quyền Sài Gòn đào tạo trực tiếp. Ông Ân tốt nghiệp chuyên ngành Department store tại Mỹ, từng thực tập tại trung tâm bách hóa R.H. Macy ở New York bốn năm nên có nhiều kinh nghiệm. Ông huấn luyện nhân viên từ lý thuyết đến thực hành về cách giao dịch và cử chỉ niềm nở với khách, cách bán hàng, gói hàng, giới thiệu hàng. Tuy chỉ có hai tầng, trệt và lầu, chiếm 1.500 mét vuông, trung tâm có đủ các khu vực bán hàng: khu vật dụng trong nhà, khu mỹ phẩm và đồ mỹ nghệ, thực phẩm công nghiệp như đồ hộp. Trên lầu bán vải vóc, quần áo trẻ em may sẵn, máy thu thanh, máy vô tuyến truyền hình, đồ điện. Tầng này có khu giải trí cho trẻ em và khu giải khát có máy phát phim ca nhạc sử dụng đồng jeton bỏ vào lỗ để chọn phim. Hàng hóa ở đây chiếm tới 70% hàng nước ngoài và có 30% hàng trong nước. Với cơ cấu hàng hóa đó, khách mua hàng là giới khá giả ở Sài Gòn và người nước ngoài. Các dịp lễ Tết, cửa hàng rất đông khách. Cùng với siêu thị Nguyễn Du và thương xá Tax, Saigon Departo tạo nên bộ mặt thương nghiệp hiện đại của Sài Gòn cách nay gần nửa thế kỷ, sớm thúc đẩy nền thương nghiệp mang tính cạnh tranh của người Sài Gòn và giúp dân chúng quen với mô hình buôn bán hiện đại, tiện dụng của thế giới trong điều kiện chiến tranh, không dễ gì ra nước ngoài du lịch tìm hiểu cuộc sống quốc tế. https://thuviensach.vn Saigon Departo là dãy nhà phía bên trái, góc ngã tư Tự Do - Thái Lập Thành ( nay là Đồng Khởi - Đông Du). Ảnh T.L. https://thuviensach.vn Khu bán đồ gia dụng và khu giải trí cho thiếu nhi ở lầu 2. Khu bán đồ chơi và búp bê. https://thuviensach.vn Khu bán đồ gốm sứ, sơn mài và quạt điện. Ảnh trang 42-43: báo TGTD tập XVII số 1. https://thuviensach.vn HOÀI VỌNG TÂN ĐỊNH – ĐA KAO Chỉ cách nhau một chiếc cầu thôi, Phú Nhuận của tôi lúc nào cũng là khu đô thị hiền hòa, an phận so với vùng Tân Định – Đa Kao phồn hoa. Đi quá cầu Kiệu, khu Tân Định như mở ra một thế giới khác của Sài Gòn. Con đường Trần Quang Khải bắt đầu không gian đó, với cây cao bóng cả sang trọng như ấp ủ một thời Sài Gòn xưa cũ đầu thế kỷ, năm nào vào đầu mùa gió chướng cũng đổ lá và mùa hè lại trút những cánh hoa dầu xoay lên đầu khách qua đường và trên những mái ngói của đình Nam Chơn. Ông anh cả của tôi học trường Văn Lang ở đầu đường Trần Quang Khải vẫn nhắc tới giáo sư – nhà thơ Vũ Hoàng Chương ròm tom, đi dạy học trên chiếc xích lô đạp đầu những năm 1960. Nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng dạy ở trường này. Lớp có tới hơn 90 học sinh, ngồi chen chúc như cá mòi hộp. Anh nhớ đầu tháng 11 năm 1963, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, trước trường giăng một biểu ngữ lớn có những câu thơ của thầy Vũ Hoàng Chương: “Bao chiến công từ xưa tới nay/ Sáng lên vì bởi chiến công này/ Lòng dân họng súng mười phương lửa/ Trở lực nào cũng phải bó tay/ Giữa cơn chiến thắng nồng say/ Cùng hô: nước Việt đến ngày vinh quang/ Nam nữ sinh trường Văn Lang/ Mượn lời thi sĩ Vũ Hoàng kính dâng…” Gần chục năm sau thời đi học, anh chở tôi bằng chiếc Honda Dame mới toanh vừa mua được nhờ đồng lương giáo chức, hãnh diện chạy qua khu Tân Định, chỉ ngôi trường cũ và chở tôi đến Yiễm Yiễm thư quán của một ông thầy khác – nhà thơ Đông Hồ. Ở đó, anh mua cuốn sách Tục ngữ phong dao bìa màu nâu của Nguyễn Văn Ngọc và từ đó, nó trở thành cuốn sách mà tôi mê mải đọc đi đọc lại suốt thời thơ ấu cho đến khi bị thất lạc. Yiễm Yiễm thư quán nhỏ thôi, nằm trên con đường nhỏ Trần Văn Thạch, nay là Nguyễn Hữu Cầu. Đến thư quán, anh tôi ngó nghiêng vào nhà trong nhưng không thấy ông thầy nhà thơ của mình đâu cả. Anh bảo ở giảng đường Văn khoa, thầy giảng bài rất say sưa, thích bận áo dài thâm. Ở nhà, thầy thích chưng hoa cúc hay phong lan, viết câu đối, xông trầm thơm ngát, nhất là khi Tết https://thuviensach.vn đến. Quý mến thầy, anh sửng sốt khi nghe tin ông bị đứt mạch máu chết trên giảng đường Văn khoa lúc giảng bài thơ Trưng Nữ Vương của Ngân Giang. Lúc đó, anh đang dạy học tuốt trên biên giới Việt – Miên và chỉ biết thương vọng từ xa. Yiễm Yiễm thư quán, khoảng giữa thập niên 1980 khi có dịp đi ngang đó, tôi vẫn thấy còn tấm bảng hiệu trên cao, cửa nhà đóng im ỉm. Ông Dương Hữu Đạt tuy sống trên đường Trần Quý Khoách nhưng lại cảm thấy gắn bó với khu Đa Kao, nơi ông sống từ hồi nhỏ trên con đường Albert Premier, nay là Đinh Tiên Hoàng, đoạn quận I. Ông cho rằng người Sài Gòn thời đó sống chân chất, hiền lành hơn, mâu thuẫn giữa người Việt và Pháp cũng không gay gắt. Ông nhớ những người dân nghèo từ lục tỉnh lên sống lang thang trên đường phố khu Đa Kao, đánh giày hay bán sách dạo in bằng tiếng Pháp cho những bà đầm, anh lính hay viên công chức người Pháp. Họ kiếm sống từng bữa, ăn cơm hàng cháo chợ tằn tiện và không tham lam. Nhiều lần ông thấy những người lính Tây say rượu nằm lăn ra trên đường ngủ, bỏ mặc xe đạp chỏng chơ bên lề đường. Mấy người đánh giày hay bán sách dạo dựng xe của họ lên, đạp mấy vòng phố xá chơi cho biết rồi đem đặt trở lại bên ông Tây say mèm. Những người đạp xích lô đầu những năm 1950 hay đậu xe bên lề đường này chờ khách. Họ thích uống cà phê bít tất, còn gọi là cà phê vợt hay cà phê kho, đổ ra dĩa cho mau nguội, uống nhanh để còn lo chạy mối. Trong khi chờ khách, họ nằm khểnh đọc báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, mải mê đọc truyện của các ông Thiếu Lăng Quân, Phi Long… Ông Đạt nghe mấy bà đầm Pháp kháo nhau rằng thật đáng ngạc nhiên khi dân lao động nghèo trên phố Sài Gòn rất thích đọc báo và có khi đọc sách nữa, điều không thấy có ở tầng lớp dân nghèo kiếm sống lề đường bên Pháp. Khoảng thời gian đầu thập niên 1950, khu Đa Kao xôn xao vì một vụ tự tử thương tâm. Người chết là một bà xẩm - tên thường gọi phụ nữ người Hoa. Bà thuộc nhóm phụ nữ Hoa giúp việc nhà rất được người Pháp tin cậy, trả lương cao, cho phép đánh đòn con nít Tây mà họ trông nom, cho ăn, đưa đi học mỗi ngày. Bù lại, họ trung thành với chủ, sạch sẽ, nấu ăn ngon, dạy dỗ và thương yêu đám con nít. Người phụ nữ bất hạnh trong câu chuyện này https://thuviensach.vn làm việc nhà không có gì sai sót trong mắt ông chủ giàu có người Pháp, chủ hãng xe Rồng Xanh (Dragon Vert). Tuy nhiên, một ngày kia ông phát hiện bị mất một số tiền lớn và bà xẩm bị nghi ngờ. Không biện minh được, bà xẩm thắt cổ tự tử để chứng minh sự trong sạch của mình. Người dân ở đây sống lâu với người Pháp nên hiểu họ khá rõ. Với tâm trạng tha hương, những anh lính hay giới công chức Pháp thích hưởng thụ xả láng cuộc sống vui chơi ở thuộc địa, nhiều người chìm đắm trong men rượu hòng quên đi nỗi nhớ quê hương và những nỗi căng thẳng khác. Đồng lương của họ được xài phung phí, chỉ sau vài ngày lãnh lương là gần cạn. Thỉnh thoảng lại có những trận đánh nhau giữa phu xích lô, thợ đánh giày với những người Pháp say rượu trước mấy cái nhà hàng khúc đường trước rạp hát Casino. Sau khi tin tức về trận Điện Biên Phủ lan về Sài Gòn, người Pháp khu Đa Kao buồn và thu mình lại khiến người dân chung quanh không dám giao thiệp với họ. Ở gần nhà ông Đạt có anh lính Pháp thỉnh thoảng kêu một anh chàng bán sách dạo có biệt tài thổi kèn bằng cọng lá đu đủ, thổi cho hắn nghe bài La Marseillaise, để rồi hắn lẩm bẩm hát theo: https://thuviensach.vn Tòa building trên đường Phùng Khắc Khoan, khu Tân Định được báo Sáng Dội Miền Nam đánh giá là lộng lẫy, được xây đầu thập niên 1960. Ảnh: Báo SDMN loại 3 số 3 (21) tháng 3/1961. https://thuviensach.vn Ngày rằm trong chùa Ngọc Hoàng. Ảnh: Nguyễn Đình. Allons enfants de la Patrie, Le jour de gloire est arrivé! Contre nous de la tyrannie, L’étendard sanglant est levé... (Tạm dịch: Hãy tiến lên những người con Tổ quốc Ngày vinh quang đã đến rồi! Chúng ta hãy chống lại sự áp bức Ngọn cờ nhuốm máu đã giương lên Theo Wikipedia) Có lúc người thổi kèn lá thổi sai nhạc, anh lính này bực bội càu nhàu. Tuy vậy, lần nào anh lính cũng cho tiền người thổi kèn lá. Và chỉ yêu cầu thổi cho anh ta nghe mỗi bài La Marseillaise, quốc thiều Pháp. Mùa hè 1975, tôi lang thang ra lề đường Trần Quang Khải để mua sách. Trên lề đường, những người bán bày mớ sách tuồn ra từ các nhà cho thuê truyện bị đóng cửa. Cuốn nào cũng được đóng kẽm sát gáy, bọc ny lon, bên trong chi chít những dòng ghi vội ngày cho thuê mới nhất bằng bút nguyên tử (tức là bút bi theo cách gọi sau này). Tôi thấy có tên Nhà sách Toàn Hiệp, Tân Dân ở gần nhà tôi trên bìa mấy cuốn sách quen thuộc với tôi như Đêm dài một đời, Thềm hoang, Phượng… Xen giữa mớ sách bán rẻ là vài cái hộp gỗ, bức tranh nhỏ đề tên Xưởng mỹ nghệ Thành Lễ, Công ty mỹ nghệ Mê Linh giá khá cao. Có dạo tôi thường ghé nhà một anh chuyên rửa ảnh đen trắng thủ công trên con đường này. Trong lúc chờ đợi in tráng ảnh trong buồng tối, tôi đi bộ quanh khu Tân Định, hỏi dò vài người sống quanh đó về một quán cà phê mở sau 1975 của đôi vợ chồng nghệ sĩ Từ Dung – Từ Công Phụng mang tên ”Từ Dung”, có chiếc piano trắng nhưng không ai biết quán đã từng đặt ở đâu. Tôi đi ngó đồ bán "xôn" trên lề đường, đi tràn sang phía bên khu xóm https://thuviensach.vn Vạn Chài và dọc đường thơ thẩn, tôi phát hiện có quá nhiều cái đình chỉ trong một khoảnh đất không lớn. Đình Nam Chơn, rồi đình Phú Hòa từng là nơi có quán cà phê của nghệ sĩ nổi tiếng Bảy Nhiêu, thân phụ của các nghệ sĩ Kim Cúc, Kim Lan. Đình Sơn Trà trên đường Nguyễn Phi Khanh. Trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là đình Tân An. Đình Nghĩa Hòa cũng trên đường Trần Quang Khải. Sau này đọc sách của tác giả Phụng Nghi mới biết xóm Vạn Chài (một cái tên hình dung về một làng ven biển chuyên đánh cá) ở vùng Đa Kao này là xóm của những người dân chài từ miền Nam Trung bộ di dân vào. Khi đã ổn định, họ lập ra tới bảy ngôi đình để tiếp tục thờ Thành hoàng của làng đánh cá ở quê cũ, mà họ gọi là Vạn. Họa sĩ Nhan Chí vẽ tranh chân dung bằng phấn tiên trong căn nhà trên đường Huỳnh Tịnh Của, khu Đa Kao. Đôi song ca Từ Dung - Từ Công Phụng nổi tiếng từ thập niên 1970. Rất ít thấy hình ảnh của Từ Dung trừ tấm ảnh cô đeo kính râm che đôi mắt. Họ https://thuviensach.vn gắn bó một thời với đường Trần Quang Khải khi mở quán cà phê nhỏ trên con đường này. Ảnh: báo Điện Tín Xuân 1973. Khu Tân Định – Đa Kao thú vị vì có rất nhiều con đường nhỏ nhưng sầm uất từ thời Tây, hàng quán quá nhiều, người tài cũng lắm. Bác Hai, chủ tiệm rửa ảnh kể tôi nghe về những hàng quán ngon lành mà giới công chức cao cấp thời trước 1975 thích ghé như nhà hàng Casino Đa Kao, có món độc đáo nhất là món tôm hùm đút lò. Nhà hàng cơm Tây La Cigale (Con ve sầu) trên đường Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) có món tôm cua ốc ăn với thứ nước chấm ngon. Anh con trai bảo rằng ở khu này, thích nhất là mì Cây Nhãn ở đường Đinh Tiên Hoàng và bánh mì thịt giăm bông pa-tê Bảy Quan đường Huỳnh Khương Ninh. Còn cà phê ngon phải là cà phê Thái Chi trên đường Nguyễn Phi Khanh. Ở đường Huỳnh Tịnh Của có một ông họa sĩ mà lâu nay không thấy báo chí nhắc tới, ông Nhan Chí. Khi đến thăm một họa sĩ sơn mài nổi tiếng ở Sài Gòn, tôi được nghe ông ca ngợi về họa sĩ này: “Ông Nhan Chí vẽ chân dung bằng phấn tiên rất đẹp và sống động. Cách vẽ của ông là vừa vẽ vừa nói chuyện với người mẫu thật thoải mái, khiến mọi nét tự nhiên sinh động của cô người mẫu bộc lộ ra hết”. Tài năng của ông thu hút những khách hàng là các vị đại sứ của Mỹ, Nam Dương, Hòa Lan. Bà Ngô Đình Nhu trước kia có đến đặt vẽ chân dung. Xưởng vẽ của ông ở số 60/55H trên con đường này, nay không còn dấu vết. Dân quanh vùng một thời kháo nhau về ông họa sĩ có “tóc kiểu Victor Hugo, bộ ria Mông Cổ” và khách đến đặt vẽ toàn đi xe hơi. Đám trẻ nhỏ ở đó lại không quan tâm đến việc vẽ vời của ông Nhan Chí mà chỉ khoái cái bàn bóng bàn nhà ông vì cha con ông rất mê bóng bàn. Ở đô thị Sài Gòn cũ, khu Đa Kao – Tân Định có thể nói tập trung nhiều tinh hoa của thành phố này nhất. Đó là vùng đất tụ hội những người tài hoa, cá tính, sành điệu... thể hiện nhiều nhất lối sống Sài Gòn. Nó là khu tiểu đô thị sầm uất bên cạnh quận I với giới kinh doanh lớn, người làm dịch vụ cao cấp, người Hoa – Ấn trong giới kinh doanh và người nước ngoài. Một trung tâm khác là Chợ Lớn với cộng đồng người Hoa giỏi làm ăn buôn bán. Do https://thuviensach.vn tính chất riêng của mình, khu Tân Định – Đa Kao có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống vui, đa dạng và nhộn nhịp hơn. Những dòng này chỉ là dăm nét chấm phá về một vùng đất mà người viết từng lang thang qua lại hơn 30 năm trước, từ khi nhìn bông dầu xoay tròn trên đầu, thấy đời thật vui trong những tối đi chơi với bạn bè, ghé ăn đêm trên vỉa hè chợ “nhà giàu” Tân Định. Hay từ những buổi sáng gần Giáng sinh se lạnh, khi Sài Gòn còn ngây thơ hơn bây giờ, mê mải chọn thiệp và ngắm cây thông bên nhà thờ Tân Định đường Hai Bà Trưng. Chợ Tân Định đầu thập niên 1960. Ảnh T.L. “NGƯỜI TRONG NÀY HỌ NHƯ VẬY…” Trong sổ ghi chép của ba tôi vài năm trước khi mất, ông nhắc đôi lần về nỗi tiếc nuối khi không thể ở lại quê nhà, để được sống trọn đời trên đất cù lao Phố nằm vắt vẻo giữa sông Đồng Nai. Ở đó, có ngôi nhà vườn bằng gỗ mái lợp ngói của ông nội tôi nhìn ra mặt sông, có đôi rùa – hạc bằng gỗ cao một mét do chính tay ông nội tạc để hiến tặng đình Tân Giám. Ông còn nhớ nhiều người già truyền tụng chuyện ông nội tôi dám đứng ra đề nghị viên chức trong làng bỏ bớt tục đãi đằng người đến phúng viếng đám tang, đã tốn kém lại sinh sự do nhậu nhẹt trong khi gia chủ đang đau buồn, nhiều nhà đã https://thuviensach.vn nghèo còn mắc nợ triền miên sau khi chôn cất người thân. Đó là một cuộc cách mạng nho nhỏ đáng tự hào của ông nội đóng góp cho cuộc sống đất cù lao, khiến ba tôi cảm thấy nên ở lại mảnh đất đó với tư cách con trai trưởng, để dòng dõi được nối tiếp và bồi đắp quê hương. Nhưng sức hút của Sài Gòn quá lớn đối với một người đàn ông sinh trưởng ở vùng đất chỉ cách đô thị này chưa tới ba mươi cây số. Nói cho cùng, Sài Gòn đã mang đến cho ông cuộc sống thoải mái hơn những ngày ở Biên Hòa làm công việc đo đạc đất đai theo viên Kinh lý, hay lúc dạy học trong làng luôn nơm nớp lo sợ vì không có giấy phép của nhà nước Tây. Giấc mơ hồi hương của ông chỉ là những thoáng mơ qua như bao người chọn nơi đây làm quê hương mới. Anh em chúng tôi sinh ra và lớn lên trên đất Sài Gòn quê mẹ, gắn bó với thành phố này trong khi người cha sinh thành mang tâm sự kẻ tha hương. Ba và chúng tôi đã khác nhau trong tâm thức về một nơi gọi là quê hương. Sau khi ông mất không lâu, tôi đọc lại tập Một cuốn sách Tuấn, chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ trong tủ sách gia đình để hiểu thêm về sức hút của Sài Gòn, từ hơn bảy mươi năm trước. Đó là thời gian ba tôi mới lấy xong bằng Sơ học Pháp Việt: “Thỉnh thoảng đôi người đi Đồng Nai về khoe rùm lên rằng ở Sài gòn nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng ba thước, trên bộ xe hơi chạy “boong boong”, dưới nước tàu thủy chạy “vù vù”, tối đến đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà Đầm ôm nhau “đăng xê” coi vui mắt quá chừng! Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của dân An nam ta! … Một số đông phụ nữ trẻ đẹp nhưng buồn duyên tủi phận, giận mẹ chồng hiếp đáp hoặc bị chồng hất hủi, thường “cuốn gói” đi “Đồng Nai Gia Định” mặc dầu phải đi bộ. Rồi năm bảy năm sau trở về thăm bà con cô bác, họ đeo đầy vòng vàng, hột xuyến, chói lọi trên tay trên ngực, má phấn môi son, đầu tóc thơm ngát mùi nước hoa. Thường thường cô Hai hay cô Ba https://thuviensach.vn thích dắt theo về một người chồng Đồng Nai, bận áo quần bằng lãnh đen, chân đi giày Tây, đầu đội mũ Tây, miệng bịt răng vàng, và hút thuốc lá Tây… Đàn ông đàn bà ở đất “Hòn ngọc Viễn Đông” đi về đây trông oai như ông Hoàng, bà Chúa. Cho nên hầu hết những thanh niên buôn bán ở các tỉnh miền Trung đều đi bộ theo con đường cái quan, hoặc đi ghe bầu theo đường biển, kéo nhau vào Đồng Nai Lục tỉnh…”. Trên các giai phẩm Xuân, kỷ niệm về Tết Sài Gòn xưa luôn là đề tài được độc giả ưa thích. Giới viết lách, đa số là dân nhập cư nên luôn có chuyện để viết về đề tài này, hoặc họ sẽ phỏng vấn những nhân vật có tên tuổi để được nghe những nhận xét độc đáo về nơi đang sống. Các câu chuyện thường vây quanh khu vực trung tâm Sài Gòn, như chợ Bến Thành, đường Lê Thánh Tôn, phố Bonard – Lê Lợi hay Catinat – Tự Do – Đồng Khởi sau này. Qua các câu chuyện, có thể thấy nhận thức về Sài Gòn của họ tuy ban đầu có bỡ ngỡ, có khi nhầm lẫn, nhưng dần rõ và đúng thực chất hơn. Họ luôn phát hiện những điều thú vị mà người sống ở đất đô thị này từ nhỏ đến lớn không phát hiện ra. Có lẽ là từ sự so sánh với những thói tục của quê hương bản quán của người viết. Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải cống hiến một câu chuyện thú vị trong bài trả lời phỏng vấn trên báo Bách Khoa năm 1967. Ông nhớ lại 40 năm trước, năm 1927: “Một hôm nọ, tôi ghé thăm một người đồng hương bán đồ cẩn xà cừ ở bên hông chợ Sài Gòn. Đường Sabourain, bấy giờ là đường Tạ Thu Thâu. Đang hàn huyên thì có một ông khách vào, hỏi giá một món đồ, người Nam, mặc áo bà ba trắng, đi guốc vông. Dân thầy không ra dân thầy. Dân thợ không ra dân thợ. Tôi tưởng ông ta là một khách qua đường rỗi rãi, hỏi chơi để giết thời giờ, chớ cái bộ vó ông ta như thế, tiền đâu mà mua nổi món đồ bạc ngàn. Ông ta xin bớt hai trăm. Chủ hiệu bằng lòng bớt một trăm. Tôi tưởng ông ta sẽ bỏ đi, qua một cửa hàng khác. Nào ngờ ông ta ưng thuận, móc bóp ra, lấy chín trăm đồng trả. Hai ông biết chín trăm đồng hồi bốn mươi năm về https://thuviensach.vn trước là một cái gia tài nhỏ. Khi ông ta mở bóp, tôi nhìn thấy giấy bạc lớn còn nhiều. Người nhà hàng bao, cột món đồ xong, ông ta ra cửa ngoắt, một người tài xế mặc đồ Tây vội vã chạy đến, ôm món đồ vừa mua để lên một xe nhà sang trọng. Ông ta vui vẻ bắt tay người chủ hiệu lên xe. Thấy tôi ngạc nhiên ra mặt, ông bạn tôi cười: “Người trong này, họ như vậy đó bác. Một nhà giàu có hạng ở đây mà đi phố họ ăn mặc giản dị như thế đó. Lúc mới vào, tôi cũng thường đánh giá họ lầm như bác.”. Tôi như được mở mắt ra, và cảm thấy thương thương cái đất “Nam... kỳ” này. Nơi đây, người ta sống hồn nhiên, ít bị lễ nghi, tập quán ràng buộc như ở Bắc, ở Trung.”. Cảnh bày bán dưa hấu trên lề đường là hình ảnh rất quen thuộc của Tết Sài Gòn. Ảnh T.L. https://thuviensach.vn Các nghệ sĩ ăn cơm ở quán cơm xã hội Anh Vũ dành cho học sinh, sinh viên và nghệ sĩ ở đường Bùi Viện, quận I đầu thập niên 1960. Tạp chí Trẻ tập I số 8. Ông kể tiếp “... Một chiều thứ bảy, tôi được thấy cảnh thầy thông, thầy phán, anh em thợ máy, anh em phu xe ngồi quây quần trong các quán ăn ở chợ Bến Thành cùng nhau bàn chuyện phiếm, chuyện đời, hay chuyện thời sự một cách tự nhiên, thẳng thắn. Bầu không khí cởi mở ấy giữa những hạng người khác nhau ấy làm tôi càng thích lối sống trong Nam…” Cuộc sống như vậy không thể không cuốn hút người đến đây sinh sống, giúp họ tạm quên nỗi nhớ quê và thấy giữa những người lạ chia sẻ được tình ấm áp trong cuộc kiếm sống hằng ngày. Nhà báo Việt Tha, một nhà báo kỳ cựu, yêu nước của Sài Gòn cách nay 65 năm trên báo Tiếng Dội số Xuân Canh Dần 1950 có viết một bài hồi ký về câu chuyện kiếm tiền ăn Tết của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh và những người cùng chí hướng. Họ mới ra tù và rất khó khăn, nhưng do sự https://thuviensach.vn khôn ngoan lanh lợi của họ và tấm lòng hào sảng của những người dân Sài Gòn mà họ có một cái Tết vui và đáng nhớ. “Năm 1933 là năm kinh tế khủng hoảng đi đến cực điểm. Lúa 3 cắc một giạ. Cao su 7 cắc 1 kilô. Nông dân sản xuất lúa gạo sống một cuộc đời bần hàn, cơ cực. Kẻ ở châu thành đói khát và rách rưới, mặc dầu một cắc bạc có thể ăn no và một đồng bạc may được một bộ quần áo trắng. Hạng “thầy” ăn lương 45 đồng 1 tháng là cao lắm rồi. Hạng đứng bán ở Charner lãnh chỉ được mỗi tháng 25 đồng thêm ít cắc. Xe kéo một cuốc 5 xu, và dân phu cực nhọc trọn ngày lãnh cao lắm là 4 cắc rưỡi. Nhưng cũng không có công việc làm! Thành phố Saigon đếm hơn 5 ngàn người thất nghiệp. Trong số nầy chỉ độ 3 trăm người được tế độ; mỗi ngày hai bữa để sống cầm chừng, còn bao nhiêu, lê lết mòn giày không tìm ra việc. Một số thất nghiệp phải bỏ châu thành hoa lệ về ẩn núp ở đồng quê để chờ cơ hội… Tháng Chạp đến, số đông dân chúng ở Saigon gặp nhau thì đầu câu chuyện là than với nhau: “Trời ôi! Năm nay làm sao ăn Tết được?”. Theo như mấy năm về trước, tháng nầy hàng vải bán rần rần và các món gì dùng ăn Tết được kẻ khuân, người vác. Năm ấy, rằm tháng Chạp đến nơi, chợ Bến Thành vắng teo và có lẽ người đi mua ít hơn kẻ ngồi bán. Bởi vậy, chung quanh chợ và đám đất bùng binh không ai thèm mướn. Hai mươi đã qua, mà quang cảnh chợ Saigon chưa có mòi gì thay đổi. Một vài gian hàng bán Tết dọn ra từ sớm đến chiều tiền lời vừa đủ ăn cơm và đóng tiền chỗ. Cũng năm nầy, có vài chục anh em chánh trị phạm được tha hoặc được mãn tù, vì không thể sống ở làng đều nương náu ở đây để đi tìm việc. Họ đi tìm việc gì được bây giờ? Thiên hạ đã thất nghiệp cả ngàn, hơn nữa nhiều người ái ngại không muốn dây vào họ, cũng không ai ưa họ. Trong số anh em đó có hai anh Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm. Anh Ninh có đất, có nhà ở Mỹ Hòa (Gia Định), song huê lợi để nuôi bốn đứa con không ngoài năm bảy trăm gốc trầu do chị Ninh vun quén. Riêng anh Hùm, có cha mẹ giàu có ở Búng, nhưng chí hướng bất đồng, bỏ xuống Saigon để sống lây lấy với anh em trong một căn phố ở đường Reims[1]. https://thuviensach.vn Tết gần đến nơi, dầu năm nầy thiên hạ khốn đốn, song ai nấy cũng ráng chạy chọt cho có tiền ăn Tết. Riêng các anh nầy, chẳng những không lo nghĩ đến ngày xuân mà bữa ăn ngày mai họ cũng không buồn nghĩ đến. Đã hăm ba Tết, ngoài đường lai rai tiếng pháo nổ. Chung quanh Chợ Mới[2] người qua kẻ lại cũng rộn rịp hơn ngày thường. Đêm nay anh Ninh kéo nhóm bạn sáu bảy người đi vài tua chợ, rồi rủ nhau vào quán ở đầu đường Alsace Lorraine[3] uống nước trà. Nước trà là sở thích của anh Ninh. Uống được lối hai chén, anh đặt chén xuống, kể cho anh em nghe quãng đời của anh ở Paris. Anh bị túng thiếu, đi làm công cho một hiệu buôn để bán hàng lẻ ở các nơi có chợ phiên. Nói đến đây, anh nhắc đến mấy gian hàng mà khi nãy đã đi qua mà người bán ngồi bí xị như con lân sành. Họ không biết kêu khách, mời khách và dụ khách để ý đến món hàng đặng mua, nhứt là món hàng dùng trong dịp Tết càng dễ bán hơn hết. Anh càng nói đến vụ bán hàng bằng cách rao to lên (vente à la criée), anh em ngó thấy anh càng hăm hở với ý định ra chợ bán Tết. Nhưng lúc đó, trong anh em ai cũng rụt rè, một là không quen, bợ ngợ quá lẽ. Hai là không vốn mua đồ để bán. https://thuviensach.vn Ngã tư Tự Do - Nguyễn Văn Thinh (Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi) năm 1961. Ảnh: John Dominis. Đến khuya, họ kéo nhau về ngủ. Tại căn phố đường Reims chỉ có vài bộ ván nhỏ, anh em chia nhau kẻ nằm trên ván, người nằm dưới đất. Tiếng là về ngủ, song về đây anh Ninh lại tiếp tục hăng hái, thuyết phục mọi người tán thành ý kiến của anh, để ngày mai lập tức cất gian hàng và kéo nhau “chiếm thị trường” Chợ Mới. Anh bảo: “Ngày mai, tôi chỉ chạy được 5 đồng bạc đưa cho Nguyễn Văn Số, đi Cầu Kho mua cây vụn và đệm buồm để lập gian hàng”. Có đủ mấy thứ cần dùng rồi, anh Ninh đi kiếm sơn về vẽ “bảng hiệu”trên tấm đệm. Gian hàng không có tên hiệu, chỉ có mấy chữ: NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC. Trong ngày 24 tháng Chạp, gian hàng dựng xong ngang bến xe đò đi Thủ Dầu Một gần chợ. Anh em còn đang thắc mắc sẽ bán hàng gì thì anh Nguyễn Bá Tường lúc bây giờ làm mại bản cho nhà thuốc “Thoại Dư Đường” đem giao một ngàn ve cù-là, khỏi trả tiền trước. Ai đời gian hàng bán Tết mà chưng lên chỉ có một món cù-là! Nhưng không sao, chiều hôm đó, anh Ninh bắt đầu đứng rao hàng. Tiếng anh thật tốt, từ đầu chợ đến cuối chợ đều nghe rõ CÙ-LÀ, và nội mấy tiếng đồng hồ, một ngàn ve dầu cù-là bán gần hết. Năm xu một ve, vốn là ba xu rưỡi. Đêm nay đã có tiền cà phê và sáng ra khỏi lo tiền chợ. Anh em hiểu rằng sở dĩ bán được là nhờ anh Ninh được công chúng có cảm tình, còn người nào không biết anh lại bị mê mệt với “mốt” rao hàng, mời mọc của anh. Dầu cho không cần dùng đến cũng bỏ ra một cắc để mua hai ve bỏ túi. Đến khoảng 9 giờ tối, thiên hạ bu trước gian hàng chen nhau mua dầu cù-là, trong số người mua có cả người mặc Âu phục và các cô đồ“mốt”. Anh Ninh đã quen lối sống của Paris, rao không ngợ miệng, anh nói cả dây, cả nhợ và cắt nghĩa lợi ích của cù-là, và giải nghĩa cái tên cù-là. Ở Saigon, có một số người biết mặt anh Ninh và cũng có nhiều người không biết dù nghe tiếng. Thế là họ rủ nhau “Muốn biết mặt ông Ninh, mau lại mua cù-là để biết”. Người nào đã biết càng móc túi để ủng hộ anh. Càng khuya, gian hàng NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC https://thuviensach.vn càng đông khách, nhờ bạn hàng ở chợ rảnh khách kéo nhau lũ lượt đi mua cù-là ông Ninh. Có ông già nhà quê đứng xa xa nhìn anh Ninh, và chờ cho bớt khách mới xáp lại gần, móc túi lấy cái gói ra, rồi chậm rãi mở từ lớp giấy lấy một đồng bạc đem lại đưa tận tay anh Ninh để mua cù-là. Ông mua hai ve, đưa một đồng bạc và từ chối không lấy tiền thối. Anh Ninh từ chối, ông đứng năn-nỉ để phải nhận chín cắc dư của ông. Đêm đó chưa phải đến phiên chợ đêm ngày Tết, các gian hàng chỉ bán tới 12 giờ thôi. Lối 11 giờ, nhiều hiệu buôn ngó thấy chỉ có gian hàng nầy bán đắt xúm nhau đem đồ lại gởi bán. Lúc bấy giờ, nhóm anh em tám người của anh Ninh rất mừng vì ngày mai, ngoài cù-là, họ còn có xi-rô HIỆP-HÒA, thuốc ĐẠI-NAM, xà-bông CON CỌP, bánh in BỔN LẬP, trà NGHI-BỒI NHÂM, guốc THIỆN CHIẾU, dầu thơm hiệu CINQ FLEUR… để bán nữa. Buổi chợ ngày 25 tháng Chạp, từ sớm đến chiều, thiên hạ đứng trước gian hàng chật cả một khúc đường, nhứt là vào buổi tối. Anh Phan-văn Hùm phải thay thế cho anh Ninh rao ó lên. Càng rao, càng hấp dẫn khách hàng hoặc những người cảm tình. Những người hiếu kỳ đến xem một mớ người trí thức, thiệt sự trí thức Tây học đứng bán hàng, rao hàng không e lệ, sụt sè, trong lúc bọn trí thức lỡ mùa khi ấy, ngồi chễm chệ trên xe kéo mang bộ mặt phách lối, khiếm nhã sai khiến người nghèo. Suốt ngày và đêm hôm đó, anh em thay phiên nhau bán cho đến sáng và từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, không phút nào vắng khách. Bán đắt hàng đến đỗi các gian hàng khác sai người lại thăm chừng và các quán cơm gần bên, nhờ có gian hàng Ninh-Hùm mà bán cơm rượu không dứt khách. Bán xong ba buổi chợ đêm, anh em mệt đừ, nhưng nhờ buôn may bán đắt, nhưng được tinh-thần họ ráng thức cho vui, không nghĩ lời lóm. Buổi chiều 29 là buổi chợ chót, người ở Saigon bớt nhiều bởi một số đông đã lên xe về ăn Tết ở tỉnh, thế mà gian hàng NĂM NAY CÒN ĂN TẾT ĐƯỢC vẫn còn đông và càng đông là nhờ tiếng đồn đã hai ngày ở các xóm lao-động rằng: Ông Ninh bán chợ Tết. Và một khi thiên-hạ càng đông thì số mật thám đến rình mò, canh gắt cũng đông. Vả lại, có người nghi hoặc: “Ông Nguyễn An Ninh làm gì đây? https://thuviensach.vn Không lẽ người như ông mà phải đày đọa tấm thân tới nước ấy?”. Sáng ngày 30 Tết, gian hàng anh Ninh còn bán được đến 10 giờ. Hàng hóa sạch bách, sạp dỡ ra xong, anh em tính sổ thấy số tiền bán cả thảy 3 ngàn 500 đồng, trong lúc đó các gian hàng khác không được một phần năm, trong mấy buổi chợ ấy. Trừ tiền ăn uống sung sướng mấy bữa và các sở phí, mỗi anh em còn được chia lối 15 đồng. Năm ấy, đối với các nhà làm cách mạng này, họ được ăn Tết đáng bực nhứt. Từ sau Tết đó, các tay bán hàng rong bắt chước anh Ninh rao hàng bằng cách hô to lên cho khách chú ý dù họ không thể bắt chước được lối hô trào lộng của anh để làm cho khách chú ý. Có người phải dùng cách kêu lô-tô, ca vọng-cổ, nhiều lúc khách qua đường phải bực mình với họ." Những câu chuyện về Sài Gòn sinh động mà đơn sơ, có chút hồn nhiên và thấy thương thương cho tính cách chất phác không ganh đua hiếu thắng dù cương cường bất khuất, không vênh mặt tự mãn coi giá trị mình cao hơn đồng bào. Bao nhiêu người đã từng đi qua thành phố này như một khách vãng lai hạ gánh nặng để nghỉ chân, uống chén nước trà pha theo kiểu Huế vun chùm bọt, nói dăm ba câu với bạn mới quen. Vài lần như vậy, họ cảm thấy không bị coi thường dù trước mặt họ là thầy hay thợ. Rồi họ quyết định nán lại làm ăn thêm chút nữa, mở lòng chút nữa với tha nhân cho đến khi họ hòa nhập vào thế giới chung quanh một cách gắn bó, lúc đó họ là người Sài Gòn. Như ba tôi, và bao lớp người từng chọn nơi nầy làm quê hương. Cho dù có lúc họ chùng lòng trong buổi chiều mưa ở cầu Ông Lãnh: Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác, Quán bên hè, uống tách cà-phê. Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê, Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng… (“Thơ Ba Mén" – Bình Nguyên Lộc) https://thuviensach.vn Cảnh chợ búa xưa. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935. ___________________________________ Chú thích: [1] Nay là đường Lê Công Kiều, quận I [2] Tên thường gọi của chợ Bến Thành thời đó [3] Đường Phó Đức Chính, quận I “THÁM XỰC CÁI” Thư của đứa bạn thời tiểu học bên xứ tuyết Canada thường không dài, nhưng lần nào ôn về những ngày tháng ở quê nhà, nó đều nhắc đến những món ăn lúc còn nhỏ. Có lần, khi tôi nhắc đến món vịt quay ăn ở nhà nó, thì bao kỷ niệm quay trở lại. Nó bồi hồi kể lần nào từ miền Tây về Sài Gòn thăm gia đình bà chị Hai ở gần cầu Kiệu, Phú Nhuận, cậu của nó cũng ghé https://thuviensach.vn khu Soái Kình Lâm để mua con vịt quay làm quà cho cả nhà. Ông nói: “Dân Sài Gòn chưa chắc biết vịt quay Chợ Lớn khu này ngon có tiếng à nha! Mà dân Phú Nhuận chắc chỉ biết món ngon quanh đây như phở Quyền, Bắc Huỳnh hay mì Dìn Chón là cùng chứ gì!". Lần đó, tôi được ăn ké món vịt quay ngon nhất Sài Gòn với bánh mì như lời của ông. Thịt vịt mềm lụp, béo nhưng không ngấy, được ướp thơm nhẹ, không quá nồng mùi thuốc Bắc. Trí nhớ của tôi cảm nhận có vậy. Đến lúc đó, món ăn Tàu tôi thưởng thức quanh quẩn chỉ có món lạp xưởng mà ba tôi mua từng xâu ở đường Hàm Nghi gần Chợ Cũ. Có lúc được ăn vịt lạp, chưng lên với gừng, ăn hơi sừn sựt. Tôi thích mùi vị của những món ăn đó, một thứ hương vị lạ so với các món thuần Việt do má tôi nấu. Chúng khá hấp dẫn trong tuổi mới lớn luôn thèm ăn của tôi. Ở gần nhà tôi, trên đường Nguyễn Minh Chiếu cũ (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) gần quán bò bảy món Ánh Hồng có hai cái tiệm mì Tàu tên là Xẩm Ba và Xẩm Tư, hai cái tên do dân gian đặt ra không rõ vì đâu, dù tiệm có bảng hiệu nhưng không ai còn nhớ. Hồi nhỏ, lần nào đi ngang đó tôi cũng nuốt nước miếng vì mùi hương trong nồi nước lèo tỏa ra. Tiệm sát nhau, do hai chị em thường bận áo xẩm cùng bán mì nước, không ngại cạnh tranh, khách thích ăn ở đâu thì tùy. Tiệm nào cũng có cái sân trước bày lơ thơ mấy cái bàn tròn, có ống đũa sơn đen và hai cái hũ đựng giấm, nước tương. Suốt tuổi ấu thơ, đợi đến ngày Tết có tiền lì xì là tôi lại rủ bà chị cùng đứa em gái ra đó ngồi chễm chệ trên ghế, kêu tô mì ăn với xá xíu. Mì sợi vàng nhạt. Miếng thịt hồng có màu đỏ viền quanh. Thêm cái bánh tôm, vài cọng xà lách. Phần tôi là ba vắt mì, ăn no cành. Tôi nhớ bà bỏ từng vắt mì vuông vắn trên mặt bàn bọc kẽm sáng loáng, trộn trong một loại bột tro rồi trụng trong nồi nước nghi ngút. Nước mì không trong veo mà hơi đục một chút, thơm ngọt. Lần nào tôi cũng ăn hết cái rồi đến nước, thòm thèm liếm môi và đứng dậy ra về, nghĩ bụng sẽ quay lại trong mấy ngày nữa cho đến khi hết Tết. Nhưng mấy chương trình Đại nhạc hội cuốn hút hơn và hầu như lần nào tôi cũng quên quay lại quán mì Tàu đó. Tôi ăn cho đến khi nó bị dẹp năm 1978 và gia đình hai bà chủ về Tàu. Sau này đi làm, tôi ăn mì từ Nam ra Bắc, từ https://thuviensach.vn Sài Gòn đến Lái Thiêu, từ Việt Nam sang Trung Quốc rồi Nhật nhưng chưa bao giờ cảm thấy ngon như vị mì lúc đó. Trong một buổi uống trà Ô Long buổi chiều giữa mùa mưa tháng bảy, tôi và Kiện Toàn ngồi nói về món ăn của người Hoa ở Sài Gòn. Vốn gốc người Hẹ, là thầy thuốc Bắc nên mối quan tâm của anh là những vị thuốc trong các món ăn. Anh nhớ những năm cuối thập niên 1980, anh thường đi giao rượu thuốc do gia đình ngâm cho một quán ăn cuối đường Nguyễn Trãi, đối diện cổng Lực lượng thanh niên xung phong. Quán nhỏ, kê bốn dãy bàn, hai dãy sát tường và hai dãy ở giữa, chỉ bán một món duy nhất là gà ác tiềm thuốc Bắc. Tiệm lúc nào cũng thơm ngào ngạt mùi thuốc rất đặc trưng. Gần đó có một chợ gà cung cấp nguyên liệu rất sẵn. Món gà tiềm đựng trong một thố tròn, cao. Kiện Toàn thấy cứ mỗi lần mang một thố gà cho khách, bà chủ kèm cho khách một ly xây chừng nhỏ đựng rượu thuốc do anh mang tới. Tính sơ qua, bà chủ bán rất đắt vì mỗi ngày anh phải giao tới 20 lít rượu và ngày nào cũng hết sạch. Với con mắt nhà nghề, anh hiểu ngay bí quyết thu hút khách của bà chủ quán. Ở góc quán, bà đặt thường xuyên một cái xửng hấp bánh bao loại lớn có hai ngăn, mặt ngăn có lỗ thủng như mọi cái xửng hấp bánh khác. Mặt trên, bà để gà làm sẵn, ngăn dưới bày xuyên khung tỏa ra mùi thơm rất đặc trưng của thuốc Bắc. Thỉnh thoảng cái xửng được giở ra, hương xuyên khung nấu dưới lửa liu riu bay ra ngào ngạt cộng với mùi thịt gà đã rục lôi cuốn khách vào quán. Trong thực tế, các vị thuốc trong thố gà chỉ thoảng rất nhẹ thôi nên chiêu dụ khách bằng cái xửng tạo mùi hương rất hiệu quả. Ngồi rảnh, anh nhớ khi hấp thức ăn theo cách như vậy, mẹ anh thường đặt trên mặt ngăn những cái trứng gà để dành cho các con. Khi chín tới, trứng thơm nức, mùi của xuyên khung thấm vô tới lòng đỏ, ăn rất thơm ngon. https://thuviensach.vn Món gà ác tiềm thuốc Bắc ở quán Chấn Phát, quận 11. Ảnh: Nguyễn Đình. Trong quan sát của Kiện Toàn, món gà ác tuy hầu hết các quán chuyên món ăn Tàu đều có, nhưng hơn thua nhau chính là cân lượng. Anh biết một tiệm cơm Hải Nam trên đường Nguyễn Tri Phương nấu có cân lượng khá chuẩn nên luôn đắt khách. Ngoài các vị căn bản như đương quy, xuyên khung, sanh địa tức thục địa, đãng sâm hay phòng đãng sâm, có người không biết cách xài táo đen thay vì táo đỏ, xài bắc kỳ giá mắc lại không đúng thay vì Hoàng Kỳ giá rẻ lại ngon hơn. Chủ tiệm là người Singapore, giữ nghiêm ngặt công thức cũ của người Hoa di cư đến các nước Đông Nam Á xưa. Kiện Toàn bảo trước 1975, giới Tài phu (phụ trách chính việc bốc thuốc các tiệm thuốc Bắc) thường mua nguyên liệu từ Hồng Kông. Đến nay, chỉ có mua thuốc ở Viện Đông y nhập trực tiếp từ Trung Quốc. Mua theo nguồn thuốc thảo dược từ thương buôn dễ gặp thuốc rác không chuẩn, không tốt. Xong mấy tuần trà, chúng tôi chở nhau đi dọc ra vùng Chợ Lớn. Sau cơn mưa chiều, phố xá tuy tấp nập song vẫn có một không khí hơi nặng và trầm. Xe chạy đến khu La Kai (Lacaze), không đông vui như thuở Bảy Viễn mở sòng bạc lớn ở khu Đại Thế Giới xưa kia. Không biết còn ai bán vịt lạp, lạp xưởng gan heo như hồi ba tôi còn sống làm việc ở hiệu buôn chợ Bến Thành ra mua về. Trung học La Concorde của thầy Trần Văn Kế, nơi anh tôi suýt ghi danh học không biết giờ nằm ở đâu? Câu thơ cũ viết về khu La Kai chợt hiện trong đầu: Trường học nằm trong dãy phố Tàu/ Có phòng khám bệnh sát bên nhau/ Đầu đường tiệm nước ngồi đông khách/ Hoa bướm còn vương https://thuviensach.vn mãi thuở nào… Từ đó tôi không về Lacaze/ Trường xưa thành chuyện tháng năm dài…1 Khu phố này nằm hai bên đường Nguyễn Tri Phương, giữa đường Hồng Bàng và Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo B). Một thời, thức ăn đêm nổi tiếng khu này là mì đùi vịt và bánh cuốn. Giới sống về đêm như ca sĩ, các cô bán bar rượu đều thích đến đây ăn tối nên không khí rầm rộ nhất, vui nhất ở đây bắt đầu từ sáu giờ chiều đến giữa khuya. Có buổi tối cùng ba đi thăm người bà con, tôi được thưởng thức mấy món như sò nướng, cua rang hay được ba mua về cho cả nhà ăn chạo tôm, chả giò, bánh đập. Tôi kể cho Kiện Toàn nghe về một bài báo cũ từ trước 1975, rằng khu Tản Đà, giữa Đồng Khánh và bến Hàm Tử có tên khác là “thám-xực-cái” nghĩa là “Con đường tham ăn”. Không biết khi nào có cái tên đó. Thức ăn nổi tiếng của con đường này là Sa té. Sa té là tiếng Tiều, là món ăn đặc biệt của người Singapore với thịt bò thái lát mỏng nhúng trong một loại súp làm bằng tương và các loại đậu. Lạ miệng và thơm ngon. Quán cháo Tiều đường Hồng Bàng, quận 6. Ảnh: Nguyễn Đình. Câu chuyện miên man đến những khu bán đồ ăn nửa thế kỷ trước nay không còn nữa. Đó là món nghêu ở ngã sáu Chợ Lớn. Ở đó từng có chợ nghêu nằm đầu đường Nguyễn Tri Phương, giữa đường Trần Quốc Toản (Ba Tháng Hai) và Minh Mạng (Ngô Gia Tự). Dọc theo hai bên đường có những quán lụp xụp che tạm bợ, bàn nhỏ ghế thấp. Có 30 đồng thập niên 1960 là https://thuviensach.vn có một thau nghêu hấp bốc khói ngạt ngào. Đó là món bún thịt nướng vùng chùa Cây Mai, món cháo lòng heo khu Minh Phụng, cháo cá vùng Chợ Lớn Mới. Những hàng quán đó, mẹ chúng tôi, dì chúng tôi khi còn son trẻ, những buổi về thăm nhà ông cố trong khu này, sà vào để tận hưởng thú vui cuộc đời trong hàng quán bình dân, không dám mơ tới và thấy cũng không nhất thiết đi tìm món ăn Tàu nổi tiếng ngon mà mắc tiền ở các nhà hàng Đại La Thiên, Đồng Khánh hay Soái Kình Lâm. Kiện Toàn cho rằng không gian, phong cách quán ăn đã có ít nhiều thay đổi so với hơn bốn mươi năm trước. Anh nhận ra điều đó khi có lần cùng đi với một người bạn Việt kiều đến một tiệm bán đồ ăn Tàu ở đường Âu Cơ quận 11. Cả hai đến đó không để ăn, chỉ mua mang về nhà vì quán hoàn toàn không có bàn ghế cho khách. Ở một bên mặt tiền khá rộng của quán, có một gian bếp với một nhóm đầu bếp quần quật chế biến món ăn theo phong cách Quảng Đông. Khách đến đứng xem thực đơn, chọn món và đứng đợi xong thì trả tiền mang về. Lần đầu đến quán, Kiện Toàn chợt cảm nhận không khí quán ăn Tàu xa xưa khi anh còn nhỏ mà ở tuổi đời năm mươi tưởng chừng không còn cảm thấy. Đó là mùi chiên xào nức thơm phức gia vị trong món mì xào giòn, mì xào mềm, hoành thánh chiên, sủi cảo… rất riêng mà lâu nay nhiều quán đã chế biến với công thức khác dần cách cũ. Ở đây cũng có những đầu bếp ăn nói cụt lủn, cách xào tung chảo, cách xối nước tráng chảo sau khi xào xong một món, đợi nước sôi lăn tăn hấp thu hết chất mỡ rồi đổ đi để nấu món khác. https://thuviensach.vn Làm món mì xào ở quán Chấn Phát, quận 11. Ảnh: Nguyễn Đình. Ra về, Toàn miên man kể về mẹ anh khi chưa ra nước ngoài sinh sống. Đến mùa nắng bà nấu lạp chạp xà, với đủ thứ cây cỏ để giải nhiệt cho con, bao gồm các vị thuốc thiên nhiên như mục mìn phá (mộc miên), cúc phá (hoa cúc), cắm ngành phá (kim ngân hoa), danh xành (nhân trần) và ma khô (gốc rạ)… Có khi bà nấu loèng trxà (lương trà) hay pạc chánh (bát trân thang) có các vị đương quy, xuyên khung, thục địa, bạch hược, bạch truật, cam thảo, đãng sâm uống cho đẹp da… Anh uống các thứ nước như uống tình thương của mẹ, là con nhà thuốc Bắc nhiều đời lưu lạc từ Trung Hoa từ đầu thế kỷ 20 đến Sài Gòn mở hiệu thuốc trên đường La Grandière (Lý Tự Trọng). Đến giờ, khi chế biến thuốc cho khách, ngâm rượu hay bốc thuốc nấu gà ác, anh lại nhớ đến người mẹ ở xa và người cha đã khuất cũng là một thầy thuốc. Ở Nhật có món Tempura rất nổi tiếng, được xếp trong những món đặc trưng của ẩm thực truyền thống Nhật Bản. Thật ra món ăn này có xuất xứ từ châu Âu rồi truyền đến Nhật từ giữa thế kỷ thứ 16 theo chân người Bồ Đào Nha. Tôi nghĩ về các món ăn gốc gác Trung Hoa từng ăn hồi nhỏ cho đến hơn nửa thế kỷ nay. Đó vẫn là những món ăn của người dân tộc Hoa, nhưng nhiều người Việt khi đi qua Hồng Kông, Đài Loan hay Trung Quốc bảo rằng không tìm thấy các món giống như vậy để ăn, theo khẩu vị ở Sài Gòn, Chợ Lớn họ thấy quen thuộc. Các món đó đã được Việt hóa qua năm, qua tháng và đã nằm trong ký ức thân thương của người Sài Gòn từ hồi còn bé thơ, phần nào tương tự như món tempura đối với người Nhật. Riêng với tôi, cục lạp xưởng ăn với cơm trắng chan một chút nước mắm y, hay tô mì Xẩm Ba Xẩm Tư là những món ăn tuyệt vời tuổi nhỏ, góp phần tạo nên những điều đẹp đẽ khiến tôi luôn thấy yêu thương thành phố này. Bao lớp hậu duệ của người Minh Hương, tiếp theo đó là di dân người Hoa và cư dân Việt đã góp phần tạo nên diện mạo một thành phố đa dạng về văn hóa sống, nhất là trong ẩm thực. Đó là điều cần ghi nhớ và trân trọng. https://thuviensach.vn Hàng ăn rong. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935. Tiệm nước người Hoa, bán các món điểm tâm như há cảo, xíu mại, bánh bao, trà và cà phê, là nơi ăn uống và cũng là nơi trao đổi thông tin của cộng https://thuviensach.vn đồng người Hoa. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine” (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935. https://thuviensach.vn CHÚ CHỆC BÁN ĐẬU PHỘNG RANG Quần chằm khiếu, áo lang thang Trên đầu đội cái nón rách Đi khắp ngả quanh đường tách Làng trên xóm dưới rao vang: Tàu phọng rang! Thùng thiếc treo lên vai mang Như bầu hồ lô mầu nhiệm Chứa đầy Nhẫn nại, Cần kiệm Bền chí, hy vọng giàu sang; Tàu phọng rang! Nhà đóng cửa, canh hầu tàn Ở thôn quê, trong khoảng vắng Xa xa còn nghe văng vẳng Tiếng ngọng lịu ở đầu làng Tàu phọng rang! Côn đồ quen thói nghênh ngang, Chửi mắng, lật thùng, đấm đá Buồn phá chơi, cho hả dạ Không cự lại, cũng không than: Tàu phọng rang! Được đồng xu không dễ dàng https://thuviensach.vn Có khi bán đắt, khi ế Nỗi lo cơm, phần chạy thuế Xu thành bạc, bạc thành vàng Tàu phọng rang! Ít năm có vốn lập tiệm Bây giờ được tự chủ đa. Được nở mặt với người ta Anh em rồi cũng hiếm hiệm: Xì thẩu a! Thong thả mới lo cưới vợ Đầu năm mới sanh con ra Hưởng chung sung sướng một nhà, Được thêm tiền mà hé nợ: Xì thẩu a! Cái giàu lôi kéo cái sang Đồng bào của mình kiêng nể Xúm nhau bỏ thăm rất dễ Từ đây tên tuổi vinh quang: Hà ông Bang! Danh có, lạ gì cửa quan Mình vẫn vô ra làm việc Trong tỉnh thường mời đãi tiệc Cầm tay quan lớn hỏi han: https://thuviensach.vn Hà ông Bang! Đây là một bài thơ rất xưa, trích trong tập thơ Hoa trái mùa của Trần Văn Tân, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn xuất bản năm 1943. Một bài thơ dung dị, kể về hành trình kiếm sống gian khổ, nhẫn nại và phát triển đi lên của một người Hoa (trước đây dân gian gọi là Chệc hay Chệt) di cư đến sống và kiếm ăn trên đường phố Sài Gòn xưa, với vốn liếng ban đầu là một thùng đậu phộng rang. Dẫn theo ông Vương Hồng Sển trong bài Người Trung Hoa ở miền Nam, tập san Chọn Lọc Chủ Nhật ra ngày 2 tháng 1 năm 1966. Ông cho rằng bài thơ điệu mới này đã có người đem hát lên sân khấu cải cách tức cải lương rồi. Ảnh: Jack Garofalo. NHÀ HÀNG VIỆT CAO CẤP ĐẦU TIÊN Một nhà hàng sang trọng chuyên về món ăn Việt là điều bình thường hiện nay. Ở đó, khách nước ngoài, người sành điệu có thể thưởng thức phong cách ẩm thực thuần Việt, từ thức ăn đến đồ uống, cảm nhận vẻ khác biệt, độc đáo trong cách ăn uống của một dân tộc, thấy được những dấu ấn của khí hậu, hệ thực vật, nền nông nghiệp trong bữa cơm hằng ngày của người Việt. https://thuviensach.vn Nhiều quốc gia có chiến lược quảng bá nền ẩm thực độc đáo như Pháp, Ý, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ,... Ẩm thực truyền thống chính là nét văn hóa riêng đáng tự hào, tạo sự thông cảm giữa các dân tộc và tạo sự thu hút trong công nghiệp du lịch. Trở lại cuộc sống của Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Sau khi người Pháp rút về, cuộc sống tự chủ đã xuất hiện thay cho chế độ thuộc địa. Trong ngành ẩm thực, hệ thống nhà hàng hạng sang nấu ăn theo kiểu Pháp sót lại sau 1954 vẫn chiếm lĩnh khu vực trung tâm Sài Gòn, khu Tân Định – Đa Kao. Trong Chợ Lớn, nơi buôn bán sầm uất, có các nhà hàng theo phong cách ẩm thực Tàu, nhất là Quảng Đông, Triều Châu. Nấu ăn theo kiểu Việt hầu hết là ở các quán bình dân, rất đa dạng món ăn từ cơm tám giò chả, nem chua chả rán, gà xé phay, mắm nêm, mắm Huế. Đồng bào di cư từ miền Bắc vào, người miền Trung di dân vào Nam góp thêm nhiều món ăn hấp dẫn vào thực đơn món Việt ở Sài Gòn. Tuy nhiên, có thể nói lúc đó ở thành phố này chưa có một nơi tương xứng để đón du khách với món thuần Việt, đủ tiện nghi, có phong cách phục vụ bưng dọn như các nhà hàng Âu Mỹ. Kế hoạch phát triển du lịch miền Nam lúc đó đã chuyển động, các khiếm khuyết bắt đầu lộ dần và vấn đề này đã được đặt ra. Nha Du Lịch thuộc chánh phủ miền Nam lúc đó đã tìm cách thay đổi thực trạng. Họ lập ra một nhà hàng sang trọng có cái tên giản dị “Hàng Cơm Việt Nam”, khánh thành vào ngày 9 tháng 10 năm 1957. Người quản lý là ông Bửu Hoàng, một người thuộc hoàng tộc triều đình Huế, nơi có phong cách ẩm thực Việt đáng tự hào. Chủ trương của nhà hàng cũng giản dị như cái tên nhà hàng “giới thiệu du khách những món ăn thuần túy của Việt Nam”, đặt tại số 40 Nguyễn Huệ, quận I (phải chăng hiện nay là Nhà sách Fahasa?). Việc trang trí nhà hàng được chú trọng để tạo đẳng cấp. Màu đỏ là tông chính xuất hiện trên các khung cửa sổ, trần nhà. Phòng lắp máy điều hòa, ghế ngồi bằng da, rải rác là các chậu hoa vạn niên thanh trang trí tạo vẻ tươi mát. Về thức ăn, ba đầu bếp tập trung chế biến các món Trung và Nam bộ trong thời gian đầu và ông Bửu Hoàng có ý định tiếp tục tìm một đầu bếp món Bắc thật giỏi để hoàn thiện thực đơn Việt của nhà hàng. Tuy chưa hoàn https://thuviensach.vn hảo theo ý muốn, thực đơn của nhà hàng thật phong phú với hơn năm mươi món khác nhau. Từ nem chua Huế, chả lụa, chả chiên, chả quế, bì, nem cuốn, bánh hỏi chả giò, gỏi gà, tôm sứa, chạo tôm, tôm nướng Rạch Miễu, lươn, ếch, canh chua, miến gà, vân vân. Thực khách đến gọi món, đầu bếp làm ngay. Các món được đánh giá cao như: Gỏi gà Huế có nước dùng nấu với dứa và hoa chuối xắt nhỏ. Cao lầu gần với món vằn thắn của Tàu. Tôm nướng Rạch Miễu dùng tôm to bóc vỏ, bao một lớp lá mỡ trắng rồi mới nướng. Món canh chua nấu với cá chẽm, măng, me, cọng bạc hà được nhiều du khách ưa thích thay cho món súp. Món “giò quốc tế” là món cá nấu như kiểu thịt đông, bỏ vào máy ướp lạnh, cắt thành khúc tròn như mặt đồng hồ trên dĩa, tô điểm thêm hai lá hành thành cây kim đồng hồ... Từ nhà hàng sang trọng mang tên “Hàng Cơm Việt Nam” này, món ăn Việt từ trong bữa ăn giađình đã biến thành các món ăn cao cấp chiêu đãi khách quốc tế gần 60 năm trước ở Sài Gòn. Ảnh trong bài: báo SDMN loại II số 4. https://thuviensach.vn Tiếp viên nhà hàng với trang phục lịch sự, thắt nơ trên cổ. Bộ phận bếp chuẩn bị món chạo tôm cho khách. Chuẩn bị hoa trang trí nhà hàng. Không chỉ chú trọng đến món ăn thuần Việt, “Hàng Cơm Việt Nam” đưa vào thực đơn thức uống cũng thuần Việt nốt, đó là rượu... ba xi đế, rượu đậu https://thuviensach.vn nành, rượu đào, Tôn Thọ tửu sản xuất trong nước bên cạnh rượu Tây. Bên cạnh đó, trang phục của nhân viên phục vụ được trang bị đúng đẳng cấp nhà hàng hạng sang: nhân viên tiếp khách (lúc đó gọi là chiêu đãi viên) bận đồng phục trang trọng, cổ thắt nơ. Đầu bếp có trang phục riêng, đội mũ chuyên dùng. Thời điểm đó có một hội nghị quốc tế phát triển kinh tế và xã hội khu vực châu Á tổ chức tại Sài Gòn, và các vị khách quốc tế, đại diện hai mươi mốt quốc gia đã trở thành những khách ngoại quốc đầu tiên thưởng thức món ăn Việt trong thực đơn cao cấp này tại nhà hàng “Hàng Cơm Việt Nam”. Tự hào và tìm cách khẳng định giá trị của ẩm thực Việt bằng cách tạo lập nhà hàng này là một cố gắng rất đáng trân trọng của những người có trách nhiệm, gần 60 năm trước ở Sài Gòn. Bài trí trong nhà hàng không khác các nhà hàng ăn hiện nay. Góc phải là quầy tiếp tân trưng bày các loại rượu do Việt Nam sản xuất. NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA MỘT THỜI Trong khoảng thời gian 20 năm trước năm 1975, thành phố Sài Gòn chỉ có một thời gian ngắn ngủi sống trong bình yên. Sau đó, là các cuộc đấu tranh của các giới chống chế độ độc tài, là đảo chánh giữa các phe phái, là bầu không khí chiến tranh sát ngay đô thị hoặc có khi là từ các trận đánh https://thuviensach.vn trên đường phố… Nhưng người dân Sài Gòn không nguôi khát vọng về một cuộc sống an hòa, luôn mong muốn phát triển năng lực bản thân để xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Lục lại một số tài liệu về những dự án nhỏ hay lớn cách nay gần nửa thế kỷ được gầy dựng ở thành phố này, thấy thương cho lớp cư dân Sài Gòn đi trước từng có nhiều trăn trở và khát vọng đóng góp cho sự phát triển của thành phố này. Những mơ ước lớn chưa kịp đi xa, mà hơi thở hiện đại vẫn còn vọng tới… CHIẾC XE KỲ LẠ CỦA ÔNG TỐN Cách nay 46 năm (1969), trên một góc đường trung tâm Sài Gòn có một chiếc xe 4 bánh bị viên cảnh sát công lộ (nay là cảnh sát giao thông) thổi một tràng còi thật dài để chận xe lại. Viên cảnh sát trố mắt nhìn chiếc xe do người đàn ông trung niên lái. Đó là một chiếc xe thật kỳ cục. Rõ ràng nó có bốn bánh nhưng không thể gọi là một chiếc xe hơi. Người lái xe bước ra, bình thản cười, xuất trình giấy chủ quyền xe, bằng lái và cả một… bằng sáng chế. Viên cảnh sát xem xong, lắc đầu cho đi vì tất cả đều hợp pháp. Chiếc xe đó thực chất được chế biến từ hai chiếc xe gắn máy hiệu Gilera loại 50 phân khối của Ý. Xe có bốn chỗ ngồi, dài 2m, ngang 1,38m và có mui cao 1,7m, hai bên trống trải như xe quân sự. Đây là sản phẩm sinh ra từ nhà ông Nguyễn Gia Tốn, một cựu giáo viên đang làm việc tại trường Bách khoa Trung cấp ở Sài Gòn. Chiếc Gilera di chuyển trên đường Nguyễn Huệ, trung tâm Sài Gòn. https://thuviensach.vn Ông Nguyễn Gia Tốn (phải) trên chiếc xe độc đáo do ông sáng chế. Thời điểm đó, giá xe nước ngoài nhập vào miền Nam quá cao nên ông Tốn muốn thỏa khát vọng có một chiếc xe hơi để đi lại một cách thoải mái mà không sợ mưa nắng. Nghĩ là làm, ông chọn con đường đơn giản nhất là chọn lọc những bộ phận của xe ngoại nhập từ các nhà sản xuất nước ngoài đã hoàn chỉnh mà trong nước chưa đủ trình độ sản xuất, sau đó là lắp ráp theo cách riêng của ông. Tất nhiên, muốn chọn và ráp các bộ phận cơ khí từ các chiếc xe khác nhau thì trình độ của người thực hiện là quan trọng. Ông dùng kính xe Lambro cũng của Ý để làm kính chắn phía trước, mui xe làm bằng vải bố, nệm xe bằng mousse cao su, có hai bánh sơ cua đi theo. Xe không dùng vô lăng mà dùng luôn tay lái của xe gắn máy. Thắng xe nằm dưới chân. Với khối lượng khoảng 140kg, 2 máy xe cùng họat động, ông định tốc độ có thể lên tới 80 đến 100km/h mặc dù trong thành phố không thể đi nhanh như vậy. Chiếc xe được lấy tên Gilera theo tên loại xe máy cấu thành nó. Sau khi chạy thử trên xa lộ nhiều lần, ông Tốn cho chạy trên đường phố Sài Gòn đúng vào ngày phi hành gia Mỹ có cuộc du hành đầu tiên trên mặt trăng (21/7/1969 tức 20/7 bên Mỹ). Tính ra giá thành chiếc xe vào khoảng 130.000 đồng. Theo tài liệu cho biết một năm sau đó, 1970, xe La Dalat của hãng Citroen ra đời tại Sài Gòn có giá bán chính thức lên tới 650.000 đồng, còn giá chợ đen là 1,1 triệu đồng thời đó. Một vài người lớn tuổi lui tới thường xuyên khu vực trung tâm thành phố còn nhớ đã bắt gặp chiếc xe của ông Tốn chạy qua lại trên đường phố Sài Gòn. Rồi sau đó không ai biết số phận của chiếc xe ra sao và ông có thực hiện thêm chiếc xe nào nữa hay không. Dù sao, đây là ký ức đẹp của một https://thuviensach.vn thời Sài Gòn, một thành phố luôn có những người trăn trở cải tiến để cuộc sống tiện nghi hơn, bằng kiến thức và lòng nhiệt tâm của mình. “BÚP BÊ VĂN HÓA” CỦA BÀ TRÙNG QUANG Đầu thập niên 1960, khách nước ngoài đến Sài Gòn được giới thiệu một loại búp bê bằng vải lụa tinh tế và mềm mại, chế tác rất đẹp, không thua loại búp bê Geisha, búp bê Hina của Nhật Bản thường bày bán ở cố đô Kyoto. Tuy không có trang phục lộng lẫy như búp bê Nhật, loại búp bê này thể hiện dáng vóc của thiếu nữ Việt Nam, mảnh dẻ và thon thả trong những tà áo dài lụa, gấm và áo tứ thân. Nét mặt của các cô búp bê khá biểu cảm, tay chân uyển chuyển và dáng đứng mềm mại. Khách quốc tế thường mua nhiều búp bê loại này mang về làm quà. “Búp bê văn hóa”, đó là tên gọi của loại búp bê nói trên với hàm ý đây sẽ là loại búp bê dùng để giao lưu văn hóa, để người mua hiểu thêm về đời sống tinh thần của người Việt qua trang phục và dáng vóc của thiếu nữ Việt từng thời kỳ khác nhau. Tác giả của loại búp bê này là bà Trùng Quang, một phụ nữ từng nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 1940 vì thường xuyên làm công tác xã hội và sáng lập trường nội trợ Việt Nữ tại Hà Nội với mục đích đào tạo người phụ nữ toàn diện. Trường có dạy ngoại ngữ, âm nhạc, làm bánh, nấu ăn, thêu may. Năm 1955, bà Trùng Quang vào Sài Gòn sinh sống. Bà lại lập ra trường Nữ công Phương Chính dạy nghề và dạy chữ Việt cho phụ nữ tại Sài Gòn. Các chứng chỉ tốt nghiệp của trường Nữ công Phương Chính được nhiều quốc gia ở Âu châu như Pháp, Đức, Anh công nhận. Năm 1956, muốn học hỏi Nhật Bản là một nước châu Á đang phát triển mạnh mẽ, bà tự túc sang Nhật quan sát đời sống phụ nữ Nhật, học nghề in offsette màu và học ngoại ngữ. Bà còn học cắm hoa và nhất là học chuyên sâu nghề làm búp bê. Sau ba năm học, bà về nước và bắt đầu bắt tay vào việc sản xuất búp bê từ năm 1959. Kỹ thuật bà học từ người Nhật, vốn kỹ lưỡng và tinh tế trong sản xuất, chế tạo. Nhưng búp bê của bà là búp bê Việt Nam, với dáng hình thiếu nữ Việt mang vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng mà bà luôn tự hào. Bà muốn loại búp bê này phải thể hiện cho được vẻ đẹp đó. https://thuviensach.vn Xưởng búp bê của bà Trùng Quang sản xuất có hai loại: búp bê bằng nhựa để bán với giá bình dân và loại búp bê bằng vải lụa chú trọng tính mỹ thuật, công phu và khéo léo hơn. Để sản xuất, xưởng có máy móc, các khuôn rập để làm ra khuôn mặt và hình dáng, tơ để làm tóc, lụa để làm mặt, vải lụa để may y phục, sơn để làm đế, thuốc vẽ... Là giám đốc và cũng là chuyên viên chính về kỹ thuật, bà đảm nhận vẽ khuôn mặt búp bê, các khâu khác giao các chuyên viên do bà đào tạo. Kiểu dáng búp bê xưởng Trùng Quang sản xuất đa dạng, từ loại búp bê mặc trang phục cổ với hình dạng cô gái quê bận áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, đến búp bê tiểu thư đài các mang khăn vành dây, áo thụng hài thêu. Có cả búp bê mang dáng vóc thiếu nữ hiện đại đi giày cao gót, tóc uốn quăn, áo nylon, quần sa tanh trắng, cầm ví tay. Mỗi búp bê là một tác phẩm mỹ thuật có sắc thái riêng, dáng điệu riêng nhưng đều mang vẻ đẹp kín đáo, nhu mì, thuần hậu của cô gái Việt. Búp bê Trùng Quang khi vừa xuất xưởng đã được dư luận đánh giá rất tốt vì tính tỉ mỉ công phu trong chế tác, mẫu mã lại đẹp nên rất được ưa chuộng ở thị trường Sài Gòn và miền Nam suốt thập niên 1960. Loại sản phẩm này được trưng bày thường xuyên tại gian hàng Công nghệ Việt Nam tại đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), tham dự triển lãm Hội hoa mùa xuân 1960 tại Phòng Thông tin Đô thành, Triển lãm văn hóa Việt Nam tại hội trường Diên Hồng. Nhiều quốc gia Âu châu ưa chuộng đã đặt hàng và chính phủ miền Nam cũng đặt mua để dự các cuộc triển lãm tại Nhật, Thái Lan, Mã Lai Á, Hoa Kỳ... Việc sản xuất dần ổn định và bà Trùng Quang mong sản xuất búp bê trở thành một kỹ nghệ lớn, giữ vai trò giới thiệu văn hóa, phát triển kinh tế của nước nhà. “Búp bê văn hóa” của bà Trùng Quang một thời trên đất Sài Gòn nửa thế kỷ trước có thể nói là đạt đỉnh cao về mỹ thuật và kỹ thuật mà cho đến nay, loại mỹ nghệ búp bê Việt như vậy vẫn chưa có ai khôi phục lại được. Sau này qua Mỹ sống, bà Trùng Quang dù đã lớn tuổi còn thi vào học College tại Evergreen và năm 84 tuổi thi vào Đại học Cộng đồng San Jose và luôn đạt điểm cao trong các kỳ thi. Năm 89 tuổi, lúc thi tiếng Anh, bà là nữ sinh viên lớn tuổi nhất trong lịch sử Đại học Cộng đồng San Jose và là https://thuviensach.vn người đạt điểm cao nhất. Hơn 90 tuổi, bà vẫn viết sách và làm thơ. Đến năm 2012, bà mất ở tuổi 101 tại Mỹ. Bà Trùng Quang, chủ nhân sáng lập xưởng “Búp bê văn hóa”. Búp bê hoàn thiện những khâu cuối. Khâu lắp ráp búp bê. Ảnh trong bài: Hữu Cơ. https://thuviensach.vn Từ vóc dáng, gương mặt đến quần áo, kiểu búp bê truyền thống của bà Trùng Quang thể hiện đẹp và có hồn. https://thuviensach.vn Búp bê Việt Nam rất được chú ý và thích thú trong Hội chợ thương mại quốc tế Á Châu tại Bangkok năm 1966. MỘT ĐÔ THỊ NỬA THẾ KỶ ƯỚC MƠ Năm 1957, tại khuôn viên ngôi nhà trước kia là nhà hàng Charner nằm trên đường Nguyễn Huệ có một cuộc triển lãm lấy tên “Kiến thiết quốc gia”, tổ chức trong suốt 6 ngày từ 22 đến 28 tháng 10. Cuộc triển lãm nhằm mục đích trưng bày những viễn cảnh dự định phát triển miền Nam của chính phủ thời đó. Khách đến xem, qua những mô hình, các bảng thống kê chuyên môn, tranh, ảnh có thể hình dung về tương lai phát triển của đô thành Sài Gòn và bốn mươi tỉnh thành miền Trung và miền Nam trong tương lai. Đặc biệt, được chú ý là mô hình phát triển thành phố mới Thủ Thiêm bên kia sông Sài Gòn hứa hẹn sẽ thành một đô thị kiểu mẫu hiện đại. Bản thiết kế do nhà điêu khắc Lê Ngọc Vân trình bày. Mô hình này được trình bày rất lớn, mỗi bề ngang ba mét theo tỉ lệ 1/2.000. https://thuviensach.vn Qua mô hình, thành phố kiểu mẫu Thủ Thiêm phía bên kia sông Sài Gòn có hình giống móng ngựa, mặt lồi đối diện với bến Bạch Đằng và các bến sông khác. Đây là một khu vực rộng lớn có một ít ruộng, đất phần nhiều bỏ hoang dài khoảng 6km, rộng 3km. Chính phủ miền Nam khi đó muốn biến vùng đất hoang này thành một trung tâm hiện đại dành cho các đoàn ngoại giao, hội nghị quốc tế, văn hóa, chính trị, khoa học thương mại và khu dân cư. Chương trình phát triển khu Thủ Thiêm này sau khi hoàn thành sẽ là một đặc khu nằm lọt giữa dòng sông Sài Gòn như một bán đảo, nối với đô thị hiện tại bằng ba chiếc cầu. Cầu thứ nhất bắc từ đại lộ Hàm Nghi (trong sa bàn là cầu chếch sang góc trái). Cầu thứ hai bắc từ Nhà Bè (bên phải sa bàn) và cầu thứ ba bắc từ cầu Mới phía Thị Nghè sang (phía xa). Theo mô hình, nếu đứng từ đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) nhìn sang khu Thủ Thiêm, khách bộ hành có thể thấy phía bên phải Thủ Thiêm, đối diện với thương cảng Sài Gòn có nhiều chung cư hiện đại cao năm, bảy tầng của khu thương mại. Tiếp đó, dọc bờ sông là khu biệt thự có sân cỏ rộng rãi xanh mát. Đi theo vành móng ngựa là khu trung tâm văn hóa, với các trường Đại học Văn khoa, Y khoa, Luật khoa, Viện Khảo cứu và Viện bảo tàng. Khu trung tâm đô thị này là một hồ nước rộng giữa khu vườn cảnh, cạnh hồ là trụ sở Quốc Hội được xây dựng mang dáng dấp truyền thống dân tộc. Bên kia bờ hồ là khu vực ngoại giao đoàn các nước, được kỳ vọng các nước đặt sứ quán ở đây sẽ xây dựng cho sứ quán mình bằng kiểu thiết kế mang tính truyền thống của các nước, góp phần tạo vẻ mỹ quan cho khu Thủ Thiêm. Lan tỏa ra chung quanh là các công trình như thư viện quốc gia, hội trường lớn để tổ chức hội nghị quốc tế, khu triển lãm, khách sạn và sân vận động quốc tế, khu giải trí, chợ, đài kỷ niệm, trạm y tế và bãi đậu xe. Để thực hiện đề án lớn này, chính phủ miền Nam lúc đó có dự định thành lập một cơ quan gọi là “Quốc gia Chỉnh trang Lãnh thổ Cục”. Nhiệm vụ của cơ quan này là thi hành các đề án đã thiết lập, đề nghị lên chánh phủ về đất đai cần trưng dụng, tổ chức san nền đất và bán các lô đất cho các cơ quan https://thuviensach.vn của chính phủ hay tư nhân. Tiền lời sẽ được dùng để làm đường sá, thiết kế điện nước… Các quan chức chánh phủ thời đó dự tính dự án xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm này sẽ được khởi công vào năm 1958 và đến 1963 là hoàn thành. Số tiền một tỉ đồng sẽ dành riêng cho kế hoạch này. Tuy nhiên, dự án này đã không thành hiện thực. Chúng ta không rõ vì sao, có thể lúc đó là thời điểm có chiến tranh, chính phủ tập trung nhiều vào khu đô thị hiện hữu còn ngổn ngang, và bất ổn chính trị liên tiếp, hoặc do thiếu chi phí để cải tạo vùng đất thấp, xây dựng hạ tầng tốn kém và có nhiều rủi ro như lún, sạt lở… Mô hình khu Thủ Thiêm trong Triển lãm tại Sài Gòn năm 1957. Triển vọng lúc đó là sẽ hoàn thành khu đô thị này trong vòng năm năm sau đó. Ảnh: Báo Gia Đình (1957). Đến tháng 12 năm 2005, tức 48 năm sau, qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã công bố quy hoạch khu Thủ Thiêm, nay thuộc quận 2, sẽ là quận trung tâm mới của Thành phố với khu trung tâm thương mại, tài chính gồm các tòa nhà cao 10 – 40 tầng, và một số khu 32 tầng, khu dân cư cho 130 ngàn người và một triệu khách vãng lai. Hơn một nửa diện tích của khu đô thị sẽ được dành cho cây xanh và giao thông. Có lẽ lần này, mơ ước xưa có những cơ sở để thành hiện thực, một https://thuviensach.vn mơ ước đi qua một chặng đường quá dài từ những khao khát ban đầu của một thành phố. Bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm. TIỆM MAY KIM SƠN Ở ĐƯỜNG AMIRAL DUPRÉ Trước 1955, con đường mang tên Đông Du ngày nay có tên là đường Amiral Dupré. Đường nằm ngay trung tâm thành phố, nơi tập trung giới thượng lưu, gần nhiều cơ quan của nhà nước thuộc địa. Đây cũng là một trong những con đường xưa nhất Sài Gòn, từ năm 1871 có lúc mang tên là đường Tự Đức. Trước khi người Pháp về nước hoàn toàn năm 1954, con đường này và vài đường lân cận là nơi tọa lạc nhiều tiệm may nổi tiếng, phục vụ cho giới https://thuviensach.vn sành điệu đất Sài Gòn cũ. Danh tiếng các tiệm như Ích Tân, Xuân Lâm chuyên may đồ Tây cũng nằm trên đường Amiral Dupré, rồi tiệm Tân Tân cũng may đồ Tây phía bên đường Catinat (Đồng Khởi), tiệm Phúc Lợi may đồ đầm ở Pasteur, tiệm Xuân Sơn và tiệm Bình bên Nguyễn Thiệp... lan xa xuống miệt lục tỉnh, miền Trung. Đa số các tiệm may lớn này là của người gốc miền Bắc vào Sài Gòn từ trước Thế chiến thứ Hai, chiếm lĩnh lãnh vực may mặc, giống như những người đồng hương của họ làm trùm về nghề đóng giày ở đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Ở số 68 đường Amiral Dupré, có một tiệm may mở trước Thế chiến thứ Hai, tồn tại ở Sài Gòn trong suốt sáu mươi năm cho đến khi đóng cửa năm 1991. Tiệm mang tên Kim Sơn. Đến nay, con cháu của những người chủ tiệm vẫn giữ niềm tự hào về nghề nghiệp mà cha mẹ mình theo đuổi lâu đời, tạo được tiếng tăm trong giới may mặc Sài Gòn xưa. Năm 1928, chàng thanh niên mới lớn mười lăm tuổi Lương Văn Thí nhận ra rằng công việc đồng áng bán lưng cho trời bán mặt cho đất khó có tương lai. Rời quê hương Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam, anh Thí về Hà Nội cố gắng tìm học một nghề. Ban đầu, anh học đóng giày, học may Âu phục rồi học làm nón. Đeo đuổi một thời gian, anh thanh niên đầy ý chí này thấy rằng làm nghề gì cũng không bằng chuyên may trang phục đầm cho phụ nữ lúc đó. Phụ nữ khi có điều kiện, nhất là phụ nữ Pháp ở Hà Nội thường thích may sắm cho mình nhiều loại trang phục. Người thầy dạy nghề ban đầu của anh có quen một người chuyên may đồ đầm đã giới thiệu cậu học trò sang đó học nghề. Anh sang đó “học thí công”, không kể giờ giấc, chuyên tâm học nghề may và tận tụy làm nhiều việc khác ở nhà thầy, được thầy rất quý mến và truyền hết sở trường. Sau ba năm chuyên chú, anh Thí tìm vào Sài Gòn, đất thuộc địa phồn hoa đô hội với nhiều hy vọng. Tàu cập bến Nhà Rồng, anh lên bờ, đến đường Amiral Dupré chỉ cách đó vài trăm mét, ngay góc đường Catinat. Ở đó có một căn phố dài hai mươi mét, ngang bốn mét trên miếng đất của ngôi đền Hồi giáo gần đó đang muốn sang nhượng. Không bỏ lỡ cơ hội, anh bỏ tiền https://thuviensach.vn ra mua ngay, mở tiệm chuyên may đồ đầm, bắt đầu làm nên hành trình dài của cuộc sống xa quê hương đến cuối đời bằng nghề may mặc cao cấp. Ở vùng quê Hà Nam, thấy anh làm ăn ở Sài Gòn thuận lợi lại thường gửi tiền về quê, mấy ông anh của anh lần lượt kéo vào kiếm sống. Bảy tám năm sau, làm ăn thành công, anh trở ra Hà Nội, đến thăm người dạy nghề may thuở ban đầu đã giúp anh tìm thầy mà làm nên. Ở đó, anh xin cưới cô con gái của ông, một phụ nữ Tây học, cô Cao Thị Liên, người sau này đã giúp anh phát triển sự nghiệp. Đôi vợ chồng son cùng đi vào Sài Gòn. Với lợi thế là đặt tiệm ngay trung tâm thành phố, gần khu vực cảng, gần chợ Bến Thành, tiệm may Kim Sơn của ông bà Thí – Liên thực sự có thuận lợi. Tuy vậy, bí quyết làm ăn là có tay nghề may cao, tổ chức nhân công giỏi và biết cách giao tiếp với khách hàng. Giới thợ may người Bắc thời đó thường gọi hai ông bà là ông Tư, bà Tư. Do có bằng Tiểu học Pháp Certificat d’étude, bà Tư nói và viết tiếng Pháp khá lưu loát, nhận việc tiếp khách, nhận hàng, giao tiếp trực tiếp với các bà đầm Pháp thay vì phải thuê thông ngôn như các tiệm may khác. Mỗi ngày, bà bận bộ bà ba trắng, quần đen, mang đôi guốc ra đón khách đến mua vải, xem vải, đặt may. Khách đến tiệm có ấn tượng sâu đậm với bà chủ tiệm búi tóc củ hành, nhuộm răng đen, nhanh nhẹn ghi chép và vẽ kiểu cho khách bằng cây bút chì hiệu Gilbert cột dây vào cuốn sổ to và nặng. Bên cạnh đó, việc phát triển và tồn tại của tiệm chính là nhờ tài năng của ông Tư. Ông dày công nâng cao tay nghề nên các loại quần áo phụ nữ do ông cắt may được khách người Pháp thích thú, khen ngợi rất nhiều. Những lần giao hàng thành phẩm quá đẹp, mấy bà khách đầm với phong cách cư xử phương Tây có lúc nồng nhiệt ôm hôn ông Tư – như một cách cám ơn – khiến bà Tư nhiều phen “nóng mặt”! Ông làm việc phía nhà trong, chỉ huy nhóm thợ cắt may do ông tuyển lựa và đào tạo, lúc đầu chỉ vài người sau phát triển dần lên đến hai chục người, có cả ba cô con gái của ông bà. Tiệm trở thành chốn lui tới đông đúc của những bà đầm là vợ các viên chức Pháp thời thuộc địa, các quý bà người Việt giàu sang, và giới nghệ sĩ. Khách thường mang vải tới, những mảnh vải thật đẹp nhập từ nước Pháp theo đường tàu thủy. Theo đúng bài bản cắt may của người Pháp https://thuviensach.vn truyền lại hồi còn ở Hà Nội, ông Tư sau khi có số đo của khách, cắt đồ bằng vải sô và ráp lại như một chiếc đầm thật sự. Sau đó, khách đến thử nếu cảm thấy vừa vặn hoặc muốn chỉnh sửa, ông sẽ làm theo yêu cầu, xả áo ra, dùng từng mảnh vải sô làm mẫu trên vải khách mang đến. Cách này tuy công phu nhưng chuẩn xác, áo may không bị lỗi. Khi giao đồ, thợ trong tiệm gom tất cả các mẩu vải “mụn” để trả lại cho khách. Mớ vải này khách có thể dùng để mạng, đắp, vá áo sau này nếu cần. Có lần thợ đãng trí bỏ thùng rác số vải dư, ông buộc thợ lục giỏ rác tìm lại, giặt sạch để trả đủ cho khách. Chủ tiệm may Kim Sơn, ông Lương Văn Thí, cũng là chuyên gia cắt may đồ đầm trong suốt 60 năm hành nghề may mặc tại trung tâm Sài Gòn. Bà Cao Thị Liên giỏi tiếng Pháp nên có thể giao dịch với khách Tây đến may đồ tại tiệm Kim Sơn. https://thuviensach.vn Bà Cao Thị Liên cùng các con, năm 1950 tại Sài Gòn. Tiệm may này, ròng rã 60 năm trời là nơi làm việc cũng là nơi sinh sống của cả gia đình ngày càng đông đúc của ông bà Kim Sơn. Muốn ổn thỏa, tiệm cần được quản lý chu đáo và hợp lý bằng óc sáng tạo và tính tháo vát của ông bà chủ. Ban ngày, bà chủ và các cô thợ may ngồi làm việc trên những chiếc ghế thấp được thiết kế thuận tiện cho việc may vá. Ban đêm, số ghế này được xếp sát nhau biến thành những chiếc giường ngủ. Các bàn làm việc dùng để cắt may vào ban ngày và là bàn học của con cái trong nhà vào buổi tối. Có những việc đặt ra luôn phải giải quyết. Như bàn ủi (bàn là) là thứ cần thiết trong nghề may, ông bà luôn thủ sẵn những chiếc bàn ủi than, tuy đã lạc hậu nhưng đến khi cúp điện (chuyện rất quen thuộc với dân Sài Gòn thời đó) rất tiện để hoàn tất đồ cho khách. Trước khi có máy vắt sổ nhập từ nước ngoài vào, vải phải được vắt sổ bằng tay khá tốn công cho đến khi tiệm được trang bị một cái. Khi trào lưu quần áo may sẵn từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam, các tiệm may một phen lao đao, khách giảm đáng kể. Bà Tư than với các con rằng tiền mua vải để may đồ cho khách luôn mắc hơn quần áo may sẵn công nghiệp. Cũng may, lúc đó đồ may sẵn chưa đạt tới chất lượng cao như hiện nay nên các tiệm may vẫn sống được nhiều năm sau. Người sành mặc vẫn thích đặt đồ may đúng kích thước riêng, có thể điều chỉnh theo vóc dáng cho dù trả chi phí cao. Do vậy, khách đến tiệm phần lớn là giới trung lưu trở lên, là người Việt trẻ chuộng văn hóa phương Tây, các https://thuviensach.vn Pháp kiều hành nghề giáo sư, viên chức... ở Sài Gòn. Họ thích diện, theo sát xu hướng thời trang mà báo chí hay phim ảnh giới thiệu. Khoảng thời gian thập niên 1950, 1960, khách đến tiệm thường mang vải mua ở các tiệm vải của người Ấn trên đường Huỳnh Thúc Kháng (còn gọi là Đỗ Hữu Vị), hoặc vải do người thân quen ở nước ngoài gửi về. Phổ biến nhất là mua từ các cửa tiệm vải nổi tiếng là Hàng Phong, Tô Châu và Tân Cương ở đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) gần khu thương mại Saigon Departo (mặt hông khách sạn Sheraton ngày nay). Lúc này, đường Amiral Dupré đã mang tên là Thái Lập Thành. Bầy con của ông bà ngoài việc học phải phụ việc tiệm may. Nhờ đó, họ chứng kiến những ngôi sao đang lên trong giới nghệ sĩ Sài Gòn đến may đồ. Đó là đôi vợ chồng Anh Lân – Túy Hoa của ban kịch đắt khách Dân Nam, đến bằng ô tô. Nghệ sĩ Anh Lân gầy, cao dong dỏng, sau khi đưa vợ đến chọn vải liền vô phòng trong tán gẫu với ông Tư. Các nghệ sĩ Phùng Há, Kim Cương, Túy Hồng, Túy Phượng, các ca sĩ Thanh Thúy, Bích Chiêu cũng thường đến may các kiểu đầm hiện đại, không kiểu cách rườm rà như trước đây. Bà chủ hãng sơn mài Thành Lễ, bà Ưng Thi chủ rạp REX, có khi là con dâu bà chủ báo Bút Trà, bà Như Hảo là vợ nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng là khách hàng của tiệm. https://thuviensach.vn Mặt tiền tiệm may Kim Sơn và ảnh cưới cô con gái đầu của ông bà Tư - chủ tiệm may. Chú rể là con trai của một chủ tiệm may nổi tiếng khác, tiệm Phúc Lợi ở góc đường Lê Lợi - Pasteur. Các ảnh trong bài từ trang 99 - 101 thuộc tư liệu gia đình ông bà Lương Văn Thí - Cao Thị Liên. Tiệm vải Paris Tissus trên đường Catinat (Đồng Khởi). Ảnh T.L. Hành nghề may suốt nửa thế kỷ, ông bà chủ tiệm Kim Sơn chứng kiến và sống theo những biến chuyển của thời cuộc bằng nghề nghiệp của mình. Sau trận Điện Biên Phủ, số người Pháp ở lại Sài Gòn vẫn tiếp tục đến may đồ tại tiệm Kim Sơn cho đến 1975. Năm 1954, nhiều người Bắc di cư vào Nam, ông Tư ra bến Bạch Đằng nghe ngóng. Ông nhận ra nhiều gương mặt quen thuộc xứ Nam Định, đón họ về nhà cho ở nhờ vì biết nơi tạm trú là Nhà hát thành phố gần đó đã đông nghẹt người. Khi chiến tranh lan rộng, người Mỹ đưa lính Đại Hàn (Hàn Quốc) đến tham chiến. Trong số đó có những nữ quân nhân. Tiệm may của ông bà do có uy tín nên nhận được gói thầu may mặc cho một đơn vị nữ quân nhân Đại Hàn. Các cô gái Hàn xa nhà đến may trong khi chờ đợi, nằm ngồi la liệt và xuống bếp lục cả đồ ăn khiến bà lúc đầu để yên, sau đó là nổi cáu la ầm lên, bị các cô kêu “Number ten, Bà!” https://thuviensach.vn