🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Rơi Tự Do Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn RƠI TỰ DO – Nước Mỹ, các thị trường tự do và sự suy sụp của nền kinh tế thế giới Tác giả: Joseph E. Stiglitz Dịch giả: Nguyễn Phúc Hoàng Số trang: 446 Xuất bản: quý IV năm 2010 NXB Thời đại – DT Books (PACE) Giá tiền: 112.000đ Roitudo.100 (có bổ sung “Lời bạt dành cho ấn bản bìa mềm”, cập nhật một số đường dẫn liên quan và một số phần chú thích) Số hóa bởi ABBYY FineReader 11 Hiệu đính và dịch bổ sung bởi Bún và lemontree123 Thư viện ebook (e–thuvien.com) Thời gian hoàn thành: tháng 4/2013 “Cuốn sách này được số hóa với mục đích phi lợi nhuận. Nếu bạn thực sự yêu thích cuốn sách này, hãy mua sách từ các bên xuất bản và phân phối. Không được mua bán bản số hóa này.” ––– TỦ SÁCH DOANH TRÍ Do PACE tuyển chọn & giới thiệu. Nhà xuất bản Thời Đại DTBOOKS, a member of PACE Bản quyền bản tiếng Việt ©DTBOOKS Công ty TNHH Sách Dân Trí, 2010 ––– Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org https://thuviensach.vn VỀ TÁC GIẢ (Bìa 4) Joseph E. Stiglitz là một nhà kinh tế học lỗi lạc của thế giới – người đã từng được trao giải thưởng Nobel Kinh tế. Ông nguyên là Phó Chủ tịch cấp cao và người đứng đầu nhóm các nhà kinh tế học của Ngân hàng Thế giới, nguyên là Chủ tịch hội đồng Cố vấn Kinh tế trong chính quyền Mỹ. Hiện ông là giáo sư kinh tế học của Đại học Columbia. Ông nổi tiếng với các quan điểm phê phán cái gọi là “chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ”, phê phán chủ thuyết tuyệt đối tin tưởng vào thị trường tự do, và chỉ trích một số tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Stiglitz là một trong những nhà kinh tế học được trích dẫn thường xuyên nhất thế giới. (Từ Wikipedia.org) Joseph E. Stiglitz là một trong những nhà kinh tế học xuất sắc nhất thế giới, theo đánh giá của dự án RePEc. Chuyên ngành của ông rất đa dạng, từ kinh tế học vĩ mô, kinh tế học công cộng, kinh tế học phát triển, đến kinh tế học quốc tế. Ông, cùng với A. Michael Spence và George A. Akerlof, đã được trao giải Nobel Kinh tế 2001 cho những lý luận về Ảnh hưởng của việc kiểm soát thông tin đến thị trường. Năm 2011, ông được tạp chí Time bình chọn vào danh sách 100 người quyền lực nhất thế giới. ––– Cùng một tác giả: - The Price of Inequality: How Today's Divided Society Endangers Our Future (2012) - Rơi tự do (Freefall: America, Free Markets, and the Sinking of the World Economy (2010) - Cuộc chiến ba ngàn tỷ đô la: Chi phí thực của chiến tranh Iraq (với Linda Bilmes) (The Three Trillion Dollar War: The True Cost of the Iraq Conflict (2008) - Stability with Growth: Macroeconomics, Liberalization and Development (2006) https://thuviensach.vn - Vận hành toàn cầu hóa (Making Globalization Work (2006) - đã dịch và xuất bản tại Việt Nam, NXB Trẻ và PACE, 2008) - Fair Trade for All (2005) - New Paradigm for Monetary Economics (2004) - Những năm 90 sôi động (The Roaring Nineties: A New History of the World's Most Prosperous Decade (2003) - Toàn cầu hóa và những mặt trái (Globalization and Its Discontents (2002) - đã dịch và xuất bản tại Việt Nam, NXB Trẻ và PACE, 2008) ––– Dành tặng các sinh viên của tôi, những người mà tôi đã học hỏi được rất nhiều, mong rằng họ cũng sẽ học được từ các sai lầm của chúng ta. https://thuviensach.vn LỜI NGƯỜI DỊCH Đây là cuốn sách mới nhất (vừa xuất bản đầu năm 2010) của Joseph Eugene Stiglitz – giáo sư Đại học Columbia, nhà kinh tế học hàng đầu thế giới thuộc trường phái Keynes. Không chỉ mô tả lại quá trình “rơi tự do” của nền kinh tế Mỹ bắt đầu từ mùa thu 2008, ông còn thảo luận qua 10 chương trong sách này các nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng tài chính và đợt suy thoái quy mô toàn cầu hiện nay, bàn về một trật tự kinh tế toàn cầu mới được thiết lập sau cuộc khủng hoảng và đề xuất các hành động cải cách cần thiết để phục hồi và phòng tránh sự lặp lại của khủng hoảng. Có lẽ thông điệp lớn nhất của ông là kêu gọi sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế và những quy định trong một số lĩnh vực ngành nghề nhất định. “Rơi tự do: nước Mỹ, các thị trường tự do và sự suy sụp của nền kinh tế thế giới” đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về kinh tế Hoa Kỳ nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung trong giai đoạn hiện nay. Stiglitz ở đây không dành quá nhiều giấy mực vào việc “truy tìm các thủ phạm gây ra khủng hoảng và quy trách nhiệm” mà nỗ lực để phân tích các nội dung có ý nghĩa sâu xa hơn: đó là các động cơ, các học thuyết kinh tế làm nền tảng cho tư duy, hành động và cách biện hộ của chính phủ Mỹ, các tổ chức quốc tế cũng như các thành phần khác tham gia vào nền kinh tế. Vượt ra ngoài các yếu tố kỹ thuật trong hoạt động kinh tế, tác giả còn trình bày nhiều vấn đề từ góc độ chính trị, lịch sử, văn hóa xã hội. Joseph E. Stiglitz sinh năm 1943, người Mỹ, được trao giải Nobel Kinh tế năm 2001. Ông từng là Phó Chủ tịch cấp cao và là người đứng đầu nhóm các nhà kinh tế học của Ngân hàng Thế giới; từng là Chủ tịch hội đồng Cố vấn kinh tế trong chính quyền Mỹ. Ông nổi tiếng với các quan điểm phê phán cái gọi là "chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ”, phê phán chủ thuyết tuyệt đối tin tưởng vào thị trường tự do, và chỉ trích một số tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Stiglitz là một trong những nhà kinh tế học được trích dẫn thường xuyên nhất thế giới. https://thuviensach.vn Văn phong của Stiglitz luôn trong sáng, tự nhiên, không hề cầu kỳ rối rắm với những thuật ngữ kinh tế xa lạ hay khó hiểu, nên độc giả sẽ dễ dàng tiếp cận dù đề tài của ông có vẻ khô khan. Một số tác phẩm của Stiglitz đã từng được dịch và giới thiệu tại Việt Nam. Trân trọng giới thiệu tác phẩm mới nhất này của Stiglitz với quý vị bạn đọc. Nguyễn Phúc Hoàng – tháng 6/2010 https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU 2008, hàng triệu người ở Mỹ và trên khắp thế giới đã bị mất nhà cửa và việc làm. Số người lo lắng và sợ hãi tình cảnh này còn cao hơn, và hầu như bất cứ ai dành dụm tiền để nghỉ hưu hoặc lo việc học hành cho con em họ đều thấy rằng giá trị của những khoản đầu tư đó đang teo tóp lại. Một cuộc khủng hoảng khởi đầu tại Hoa Kỳ đã sớm lan ra toàn cầu, khi hàng chục triệu người mất việc làm trên toàn thế giới – riêng tại Trung Quốc đã là 20 triệu người – và hàng chục triệu người khác rơi vào cảnh đói nghèo.[1] Đó không phải là điều được mong đợi. Kinh tế học hiện đại, với niềm tin vào thị trường tự do và toàn cầu hóa, đã hứa hẹn sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. Nền Kinh tế Mới vốn được ca tụng rất nhiều – những cải tiến đáng kinh ngạc ghi lại dấu ấn trong nửa sau của thế kỷ XX, trong đó có cả việc bãi bỏ các quy định và những kỹ thuật tài chính – là thứ mà người ta cho rằng sẽ giúp việc quản lý rủi ro có hiệu quả cao hơn, đồng thời chấm dứt ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh. Nếu sự kết hợp của nền kinh tế mới và kinh tế học hiện đại không loại trừ được những biến động kinh tế, thì ít nhất nó cũng chế ngự được chúng. Đại loại chúng ta đã nghe nói thế. Cuộc suy thoái quy mô lớn – rõ ràng là đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ Đại Suy thoái cách đây 75 năm – đã làm tan vỡ những ảo tưởng. Nó buộc chúng ta phải xem lại những quan điểm trong dài hạn. Trong một phần tư thế kỷ, một số học thuyết về thị trường tự do đã thắng thế: thị trường tự do và không bị khống chế là có hiệu quả; nếu các thị trường này có khuyết tật, chúng sẽ nhanh chóng tự chỉnh sửa. Chính phủ tốt nhất là một chính phủ quy mô nhỏ, và các quy định chỉ cản trở sự đổi mới mà thôi. Ngân hàng trung ương phải được độc lập và chỉ tập trung vào việc kìm chế lạm phát ở mức thấp. Bây giờ thì ngay cả “Đức cha” cấp cao của ý thức hệ này, ông Alan Greenspan – Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED: Federal Reserve System) trong giai đoạn mà các quan điểm trên còn đang thắng thế, cũng đã thừa nhận rằng có thiếu sót trong mặt lý luận, nhưng lời thú tội của ông quá muộn màng khiến cho nhiều người đã phải gánh chịu hậu quả. https://thuviensach.vn Cuốn sách này viết về một trận chiến giữa các luồng tư tưởng, các ý tưởng đã dẫn tới các chính sách sai lầm khiến cho cuộc khủng hoảng sớm diễn ra và về những bài học mà chúng ta thu được. Theo thời gian, cuộc khủng hoảng nào rồi cũng chấm dứt. Nhưng không có khủng hoảng nào, nhất là ở mức độ nghiêm trọng, đi qua mà không để lại sau nó các “di sản”. Các di sản của năm 2008 sẽ bao gồm những viễn cảnh mới cho cuộc xung đột lâu dài về loại hệ thống kinh tế có nhiều khả năng đem lại những lợi ích lớn nhất. Trận chiến giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có lẽ đã tàn, nhưng những biến thể của nền kinh tế thị trường và các cuộc thi tài giữa chúng vẫn đang diễn ra một cách quyết liệt. Tôi tin rằng thị trường chính là vấn đề trọng tâm của mọi nền kinh tế thành công, nhưng bản thân thị trường không thể tự nó vận hành hiệu quả. Xét từ góc độ này, tôi là tín đồ của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes, những ảnh hưởng của ông là vượt trội trong việc nghiên cứu về kinh tế học hiện đại. Chính phủ cần phải có một vai trò cụ thể, chứ không chỉ là giải cứu nền kinh tế khi thị trường sa sút và điều tiết thị trường để ngăn chặn các loại hình thất bại mà chúng ta đã có kinh nghiệm. Nền kinh tế cần phải có sự cân bằng giữa vai trò của các thị trường và vai trò của chính phủ, với sự đóng góp quan trọng của các tổ chức phi thị trường (non– market) và phi chính phủ. Trong vòng 25 năm qua, Hoa Kỳ đã để mất sự cân bằng này; và nó đã đẩy quan điểm lệch lạc của mình sang các quốc gia khác trên thế giới. Cuốn sách này giải thích cách thức khi những quan điểm sai lầm đã dẫn đến khủng hoảng, chúng đã làm cho những người ra quyết định trong các khu vực kinh tế tư nhân then chốt và những người hoạch định chính sách trong khu vực kinh tế công phải vất vả như thế nào khi nhìn nhận các vấn đề ung nhọt, và chúng góp phần vào sự thất bại của việc hoạch định chính sách để xử lý hiệu quả “các khói bụi sau vụ nổ” ra sao. Chiều dài của cuộc khủng hoảng sẽ phụ thuộc vào các chính sách được theo đuổi. Thật vậy, những sai lầm đã mắc phải sẽ gây ra hậu quả sâu rộng hơn trong thời kỳ suy thoái, nếu so với các giai đoạn khác. Tuy nhiên, việc quản lý khủng hoảng chỉ là mối quan tâm ban đầu của tôi. Tôi còn quan tâm đến cục diện https://thuviensach.vn thế giới sau khủng hoảng. Chúng ta sẽ không thể và không được phép quay trở lại với cục diện thế giới như nó đã từng có trước đây. Trước khi có cuộc khủng hoảng này, Hoa Kỳ và thế giới nói chung đều phải đối mặt với nhiều vấn đề, chứ không phải chỉ là việc thích nghi với biến đổi khí hậu. Tốc độ toàn cầu hóa đã buộc phải có các thay đổi nhanh trong cơ cấu kinh tế, kéo dãn năng lực đối phó của nhiều nền kinh tế. Những thách thức này sẽ vẫn còn sau khủng hoảng, dưới hình thức được khuếch đại lớn hơn; trong khi các nguồn lực mà chúng ta có để xử lý chúng sẽ bị giảm đi đáng kể. Tôi hy vọng cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến những thay đổi trong chính sách và trong tư tưởng. Nếu chúng ta có các quyết định đúng đắn, không chỉ đơn thuần là phù hợp xét về khía cạnh chính trị hay xã hội, thì chúng ta không những giảm thiểu được nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng khác, mà có lẽ còn làm tăng tốc các cải tiến thực sự để nâng cao đời sống của người dân trên thế giới. Nếu quyết định sai lầm, chúng ta sẽ có một xã hội bị chia cắt nhiều hơn và một nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn trước các cuộc khủng hoảng cũng như được trang bị kém hơn để đối phó với các thách thức của thế kỷ 21. Một trong những mục đích của cuốn sách này là giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều cuối cùng sẽ đến: đó là cục diện toàn cầu sau khủng hoảng, và cách chúng ta ứng phó như thế nào để cục diện đó sẽ tốt đẹp hơn, hoặc tồi tệ hơn. * * * Người ta có thể cho rằng với cuộc khủng hoảng năm 2008 thì các cuộc tranh luận về chủ thuyết tuyệt đối tin tưởng vào thị trường (market fundamentalism) – khái niệm cho rằng bản thân thị trường tự do cũng có thể đảm bảo sự thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế – đã kết thúc. Mọi người nghĩ rằng chẳng còn ai dám – hoặc ít nhất là cho đến khi những ký ức về cuộc khủng hoảng này đã lùi xa vào quá khứ – một lần nữa lập luận rằng: các thị trường có thể tự điều chỉnh và rằng chúng ta có thể dựa vào các hành vi tư lợi của các bên tham gia thị trường để đảm bảo rằng tất cả mọi thứ đều “chạy tốt". https://thuviensach.vn Những ai đã hoàn toàn tôn thờ chủ thuyết thị trường hoàn hảo nói trên lại có cách lý giải khác. Những người này nói rằng nền kinh tế của chúng ta chỉ “bị tai nạn”, mà tai nạn thì có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chẳng có ai khuyên rằng đừng lái xe nữa chỉ vì việc va chạm ngoài đường là thường xuyên. Những người có quan niệm này muốn chúng ta quay trở về với thế giới của giai đoạn trước năm 2008, càng nhanh càng tốt. Họ nói rằng: các ngân hàng đã chẳng làm gì sai cả[2]. Bơm tiền cho các ngân hàng theo yêu cầu của họ, chỉnh sửa các quy định một chút, đưa ra một vài bài giảng nghiêm khắc với các cơ quan điều tiết sao cho không để cho những hạng người như Bemie Madoff có thể bày trò gian lận một lần nữa, thêm một vài khóa học về đạo đức trong các trường kinh doanh, rồi thì chúng ta sẽ ổn thôi. Cuốn sách này lại cho rằng: vẫn còn nhiều vấn đề sâu xa hơn nữa. Trong hơn 25 năm qua, bộ máy được cho là tự điều chỉnh, hệ thống tài chính của chúng ta, đã nhiều lần được chính phủ giải cứu. Từ việc hệ thống còn “sống sót”, chúng ta đã rút ra những bài học sai lầm – rằng nó đã tự vận hành. Thật ra, hệ thống kinh tế của chúng ta đã không hiệu quả đối với hầu hết người Mỹ từ trước khi có cuộc khủng hoảng. Một số người đã hưởng lợi, nhưng đó không phải là một người Mỹ điển hình. Một nhà kinh tế học tìm hiểu một cuộc khủng hoảng với cách thức giống như một bác sĩ tiếp cận môn bệnh lý học: cả hai đều tìm hiểu rất nhiều về việc những điều bình thường vận hành như thế nào, bằng cách nhìn thấy những gì sẽ xảy ra khi có các bất thường. Khi tôi tiếp cận với cuộc khủng hoảng năm 2008, tôi cảm thấy mình đã có một lợi thế rất khác so với các quan sát viên khác. Xét theo một góc độ nhất định thì tôi là một “cựu chiến binh” sống qua các cuộc khủng hoảng, một nhà phân tích khủng hoảng (crisologist). Đây không phải là cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong những năm gần đây. Khủng hoảng ở các nước đang phát triển đã xảy ra với một tần số đáng báo động – một tính toán cho thấy đã có tới 124 cuộc khủng hoảng từ năm 1970 đến 2007.[3] Tôi đã từng là nhà hoạch định chiến lược kinh tế tại Ngân hàng Thế giới vào thời điểm diễn ra cuộc khủng https://thuviensach.vn hoảng tài chính toàn cầu gần đây nhất, giai đoạn 1997 – 1998. Tôi đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng phát xuất từ Thái Lan rồi lây lan sang các nước khác trong khu vực Đông Á, sau đó đến khu vực Mỹ Latinh và Nga. Đó là một ví dụ kinh điển của việc lây lan – sự trục trặc trong một phần của hệ thống kinh tế toàn cầu đã lan rộng sang các phần khác. Cần phải mất nhiều năm sau đó mới có thể nhìn nhận được đầy đủ những hậu quả của một cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong trường hợp của Argentina, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 1995 như một phần của "khói bụi” đến từ cuộc khủng hoảng của Mexico, và đã trở nên trầm trọng hơn bởi cuộc khủng hoảng tại Đông Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng của Brazil năm 1998, nhưng mãi đến cuối năm 2001 thì sự sụp đổ hoàn toàn mới diễn ra. Các nhà kinh tế học có thể cảm thấy tự hào về những tiến bộ trong khoa học kinh tế sau bảy thập kỷ kể từ cuộc Đại khủng hoảng, nhưng điều đó không có nghĩa là đã có được sự đồng thuận về cách thức xử lý khủng hoảng. Trở lại năm 1997, tôi đã khiếp đảm khi chứng kiến Bộ Tài chính Hoa Kỳ và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) phản ứng lại với cuộc khủng hoảng tại Đông Á khi họ đề ra một loạt các chính sách gợi nhớ lại các chính sách sai lầm liên quan đến Tổng thống Herbert Hoover trong thời Đại khủng hoảng và đã phải gánh chịu thất bại. Sau đó, tôi có cảm giác ngờ ngợ khi nhìn thấy thế giới một lần nữa trượt dài vào cuộc khủng hoảng năm 2007. Các nét tương đồng giữa những gì tôi thấy sau đó và những gì diễn ra một thập kỷ trước đây thật kỳ lạ. Chẳng hạn, người ta ban đầu cũng công khai phủ nhận cuộc khủng hoảng: như 10 năm trước đây, Bộ Tài chính Hoa Kỳ và IMF lúc đầu cũng đã không thừa nhận rằng có một cuộc suy thoái/suy sụp ở Đông Á. Larry Summers, khi đó là Thứ trưởng Bộ Tài chính và bây giờ là Cố vấn kinh tế cao cấp nhất cho Tổng thống Obama, đã vô cùng giận dữ khi Jean–Michel Severino, lúc đó là Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách châu Á, đã sử dụng chữ R (recession: suy giảm) và chữ D (depression: suy thoái) để mô tả những gì đã xảy ra. Nhưng người ta còn có thể dùng cách mô tả nào khác để nói về một thoái trào mà trong đó tỷ lệ thất nghiệp tại Java, hòn đảo chính của Indonesia, là 40%? https://thuviensach.vn Tương tự như vậy, cũng trong năm 2008, chính quyền Bush lúc đầu cũng không thừa nhận có bất cứ vấn đề gì nghiêm trọng. Tổng thống chỉ cho rằng chúng ta đã xây dựng hơi nhiều nhà cửa[4]. Trong những tháng đầu của cuộc khủng hoảng, Bộ Tài chính và Cục Dự trữ Liên bang đảo điên đổi hướng như người lái xe say rượu, giải cứu một số ngân hàng trong khi để cho một số khác sụp đổ. Không thể hiểu được các nguyên tắc đằng sau mỗi quyết định của họ. Các quan chức trong chính quyền Bush lập luận rằng họ đang thực dụng, và công bằng mà nói, họ đang đi trong một vùng lãnh thổ chưa từng xuất hiện trên bản đồ. Khi những đám mây suy thoái bắt đầu lờ mờ xuất hiện trên bầu trời kinh tế Hoa Kỳ trong năm 2007 và đầu năm 2008, các nhà kinh tế học đã thường xuyên được hỏi rằng: liệu có thể có hay không một cuộc suy thoái khác, hoặc thậm chí là suy thoái trên diện rộng? Hầu hết các nhà kinh tế học đều trả lời theo bản năng, KHÔNG! Những tiến bộ trong khoa học kinh tế – trong đó có cả kiến thức về quản lý nền kinh tế toàn cầu – mang ý nghĩa rằng một thảm họa dường như là quá xa lạ đối với nhiều chuyên gia. Nhưng, 10 năm trước đây, khi cuộc khủng hoảng Đông Á xảy ra, chúng ta đã thất bại – một thất bại thảm hại. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các lý thuyết kinh tế sai lầm đã dẫn đến các chính sách sai lầm, nhưng rõ ràng là những người ủng hộ theo các lý thuyết này đã nghĩ rằng chúng sẽ mang lại hiệu quả tốt. Họ đã nhầm. Các chính sách sai lầm không chỉ mang lại cuộc khủng hoảng Đông Á cách đây một thập kỷ, mà còn gia tăng chiều sâu và thời lượng của nó, để lại một “di sản” là nền kinh tế suy yếu và những khoản nợ chất chồng như núi. Thất bại của mười năm trước cũng một phần là sự thất bại của nền chính trị toàn cầu. Khủng hoảng diễn ra ở các nước đang phát triển, đôi khi vẫn được gọi là “vùng ngoại biên” của hệ thống kinh tế thế giới. Những người điều hành hoạt động của hệ thống kinh tế toàn cầu không quá bận tâm đến việc bảo vệ cuộc sống và sinh kế của những ai đang sống trong các quốc gia bị ảnh hưởng, vì các quốc gia này đã được các ngân hàng phương Tây hỗ trợ và cho vay tiền. Ngày nay, khi Mỹ và phần còn lại của thế giới cùng https://thuviensach.vn đấu tranh để khôi phục lại nền kinh tế thế giới, nhằm phát triển mạnh mẽ, một lần nữa lại có các sai lầm trong chính sách và chính trị. RƠI TỰ DO Khi nền kinh tế thế giới rơi tự do trong năm 2008, niềm tin của chúng ta cũng rơi theo. Các quan điểm đã có từ lâu về kinh tế, về nước Mỹ, và về những người hùng của chúng ta cũng đã rơi tự do. Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính lớn gần đây nhất, tạp chí Times số ra ngày 15 tháng 2 năm 1999 đã cho đăng hình ảnh của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan Greenspan và Bộ trưởng Tài chính Robert Rubin trên trang bìa, những người đã từ lâu được ghi công vì những phát triển vượt bậc trong thập niên 1990, cùng với người được họ bảo trợ là Larry Summers. Những vị này được gắn lên cái nhãn là “Ủy ban Giải cứu Thế giới", và trong nhận thức phổ biến thì họ là những Chúa trời Siêu đẳng (supergods). Năm 2000, nhà báo chuyên về phóng sự điều tra được độc giả yêu thích nhất, Bob Woodward đã viết tiểu sử cho "thánh" Greenspan như một nhạc trưởng bậc thầy (maestro)[5]. Được trực tiếp chứng kiến việc xử lý cuộc khủng hoảng Đông Á, tôi đã không có nhiều ấn tượng đối với tạp chí Times hay Bob Woodward. Đối với tôi và phần lớn những người ở Đông Á, các chính sách mà IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ áp đặt lên họ, phát xuất từ "Ủy ban Giải cứu Thế Giới”, đã làm cho cuộc khủng hoảng tồi tệ hơn nhiều so với mức độ vốn dĩ nó gây ra. Các chính sách cho thấy sự thiếu hiểu biết về các nguyên tắc cơ bản của kinh tế vĩ mô hiện đại, vốn đòi hỏi các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng (nới lỏng) khi đối mặt với sự đi xuống của nền kinh tế[6]. Dưới góc độ xã hội, giờ đây chúng ta đã mất đi sự tôn trọng mà lâu nay vẫn dành cho các bậc thầy thông thái về kinh tế học. Trong những năm gần đây, chúng ta đã hoàn toàn trông chờ vào phố Wall – chứ không chỉ là các bậc á thánh như Rubin và Greenspan – để được tư vấn về cách thức vận hành các hệ thống phức tạp: đó là nền kinh tế của chúng ta. Bây giờ thì còn ai ở đó để chúng ta cầu xin giúp đỡ? Nói chung, các nhà kinh tế học đã không còn hữu ích nữa. Nhiều người trong số họ đã cung cấp thứ áo giáp trí https://thuviensach.vn tuệ mà những người hoạch định chính sách muốn có trong phong trào bãi bỏ các quy định (deregulation). Đáng tiếc là sự quan tâm chú ý thường dịch chuyển từ trận chiến giữa các ý tưởng sang vai trò của các cá nhân: những thủ phạm đã tạo ra khủng hoảng, và những người hùng đã giải cứu chúng ta. Những người khác sẽ viết sách (và trong thực tế đã viết) công kích những người xây dựng chính sách, những nhà điều hành quản lý tài chính hay ai ai khác nữa, nói chung là những kẻ nào đã đưa chúng ta vào cuộc khủng hoảng hiện nay. Cuốn sách này lại có mục tiêu khác. Quan điểm của nó cho rằng: xét về bản chất thì tất cả các chính sách quan trọng, chẳng hạn như những chính sách liên quan tới việc gỡ bỏ các quy định, là hệ quả của các “lực lượng” chính trị và kinh tế – các lợi ích, ý tưởng, và ý thức hệ – vượt xa hơn bất kỳ một cá nhân cụ thể nào. Khi Ronald Reagan bổ nhiệm Greenspan vào ghế Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang năm 1987, Tổng thống khi đó đang tìm kiếm một người có thể cam kết bãi bỏ các quy định. Paul Volcker, trước kia từng là Chủ tịch của FED đã ghi được số điểm cao trong vai trò là một quan chức ngân hàng nhà nước giúp cho tỷ lệ lạm phát của Mỹ giảm từ 11,3% trong năm 1979 xuống còn 3,6% trong năm I987[7]. Thông thường, một thành tựu như vậy sẽ tự động đi kèm với việc tái bổ nhiệm. Nhưng Volcker hiểu rõ tầm quan trọng của các quy định, còn Reagan thì lại muốn có một người để tháo dỡ chúng đi. Nếu khi đó Greenspan không thể làm công việc này, thì đã có rất nhiều người khác có khả năng và sẵn sàng cho việc gỡ bỏ bớt các quy định. Vấn đề không phải mang tính cá nhân Greenspan, mà nhiều hơn là vì một ý thức hệ về việc bãi bỏ quy định đã được hình thành. Cuốn sách này chủ yếu viết về các niềm tin trong kinh tế và cách thức chúng ảnh hưởng đến các chính sách, khi nhận diện được mối liên kết giữa các cuộc khủng hoảng và những niềm tin nói trên thì người ta sẽ khám phá ra được những gì đã xảy ra. Cuốn sách này không phải viết theo kiểu “truy tìm thủ phạm”, nhưng có những yếu tố quan trọng của câu chuyện gần giống như một điều bí ẩn ly kỳ: nền kinh tế lớn nhất thế giới đã rơi tự do https://thuviensach.vn như thế nào? Những chính sách và các sự kiện nào đã kích hoạt cho đợt suy thoái lớn trong năm 2008? Nếu chúng ta không thể thống nhất được câu trả lời cho những vấn đề này, chúng ta sẽ không thể có sự đồng thuận về những việc cần làm tiếp theo, để thoát khỏi cuộc khủng hoảng hoặc để phòng ngừa các cuộc khủng hoảng kế tiếp. Phân tích được vai trò có liên quan đến các hành vi xấu của giới ngân hàng, thất bại của các cơ quan điều tiết, hoặc chính sách tiền tệ lỏng lẻo của FED là điều không dễ dàng, nhưng tôi sẽ giải thích tại sao tôi lại quy trách nhiệm cho các thị trường tài chính và các định chế tài chính. Tìm ra căn nguyên, gốc rễ vấn đề cũng như bóc vỏ một củ hành. Mỗi lời giải thích cho một vấn đề lại gợi ra các câu hỏi tiếp theo ở mức độ sâu hơn: các chế độ lương thưởng quá cao có thể đã khuyến khích các hành vi thiển cận và nguy hiểm của các quan chức ngân hàng, nhưng tại sao họ lại có được sự đãi ngộ thái quá như vậy? Câu trả lời đã sẵn có: đó là những vấn đề trong quản trị doanh nghiệp, với cách thức theo đó chế độ lương thưởng được ấn định. Nhưng tại sao thị trường lại không “xử lý kỷ luật” những hành vi quản trị doanh nghiệp xấu và các cấu trúc lương thưởng không phù hợp? Người ta vẫn cho rằng sự chọn lọc tự nhiên sẽ duy trì sự sống còn của những thực thể phù hợp nhất; những công ty với cấu trúc quản trị và chế độ đãi ngộ tốt nhất được thiết kế cho hoạt động dài hạn sẽ phát triển. Lý thuyết này cũng là một tổn thất nữa sau cuộc khủng hoảng. Khi cho rằng những vấn đề của cuộc khủng hoảng được hé lộ từ lĩnh vực tài chính, thì rõ ràng là các vấn đề này cũng chỉ mang tính khái quát chung chung và còn có những vấn đề tương tự diễn ra trong các lĩnh vực khác. Điều đáng chú ý nữa là khi xem xét vấn đề sâu hơn bề mặt của chúng, vượt ra ngoài các sản phẩm tài chính mới, các khoản thế chấp dưới chuẩn (subprime mortgage) và các công cụ cho nghĩa vụ nợ có đảm bảo, chúng ta sẽ thấy cuộc khủng hoảng này xuất hiện cũng tương tự như nhiều cuộc khủng hoảng đã xảy ra trước kia, tại Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Xuất hiện một bong bóng, rồi bong bóng vỡ tung và gây ra sự tàn phá theo sau nó. Bong bóng này được thổi căng hơn với việc cho vay yếu kém của ngân hàng, khi sử dụng tài sản thế chấp có giá trị đã được thổi phồng do bong https://thuviensach.vn bóng trước kia. Các sáng kiến mới đã cho phép các ngân hàng che giấu nhiều khoản nợ xấu, bỏ ra ngoài bảng cân đối kế toán của họ, tăng thêm hiệu quả của đòn bẩy tài chính – làm cho bong bóng lớn hơn, và sức công phá mạnh hơn khi nó vỡ tung khiến cho sự việc tồi tệ hơn. Những công cụ mới (như CDS: hoán đổi rủi ro tín dụng – credit default swap) được khẳng định là để quản lý rủi ro, nhưng trên thực tế lại được thiết kế ra để qua mặt những cơ quan điều tiết, làm mọi thứ phức tạp và khuếch đại rủi ro. Câu hỏi lớn, trọng tâm mà cuốn sách này đặt ra, là: làm thế nào và tại sao mà chúng ta lại cho phép điều này xảy ra một lần nữa, trên quy mô như vậy? Trong khi tìm ra cách lý giải ở mức độ sâu sắc hơn là điều khó khăn, một số lời giải thích giản đơn khác có thể dễ dàng bị bác bỏ. Như tôi đã đề cập, cá nhân những người làm việc tại phố Wall đều muốn tin rằng họ đã chẳng làm gì sai, và họ muốn tin rằng bản thân hệ thống đã đúng về cơ bản. Họ tin rằng họ chỉ là các nạn nhân bất hạnh của một cơn bão “nghìn năm có một”. Nhưng cuộc khủng hoảng không chỉ xảy ra đối với thị trường tài chính; nó là sản phẩm của con người – là thứ mà Phố Wall đã tự gây ra cho bản thân và luôn cả phần còn lại của xã hội chúng ta. Đối với những người không ủng hộ quan điểm “đó là chuyện đã rồi", phố Wall lại có các nhóm biện hộ khác: chính phủ đã yêu cầu chúng tôi làm điều đó, thông qua sự khuyến khích việc sở hữu nhà ở và cho người nghèo vay tiền. Hoặc, lẽ ra chính phủ đã phải ngăn chúng tôi lại, nó là lỗi của các cơ quan điều tiết. Điều đặc biệt khó chấp nhận trong các nỗ lực của hệ thống tài chính Hoa Kỳ là sự đổ lỗi trong cuộc khủng hoảng này, mà trong các chương sách sau đây tôi sẽ giải thích lý do tại sao các luận điểm trên là không thuyết phục. Các “tín đồ” của hệ thống này cũng phô trương một “phòng tuyến thứ ba”, thứ đã từng được sử dụng một vài năm trước đó vào thời kỳ phát sinh vụ bê bối của Enron và WorldCom. Hệ thống nào cũng có “những quá táo thối” trong đó, và theo cách nào đó thì “hệ thống” của chúng ta – bao gồm cả các cơ quan điều tiết và các nhà đầu tư – đơn giản là đã không làm đủ tốt công việc của mình để tự vệ hay chống lại chúng. Từ Ken Lays (Tổng Giám đốc của Enron) và Bemie Ebbers (Tổng Giám đốc của WorldCom) https://thuviensach.vn trong những năm đầu của thập kỷ này đến nay, chúng ta có thêm Bemie Madoff và một loạt các nhân vật khác (như Allen Stanford và Raj Rajaratnam), họ đang phải đối mặt với các cáo buộc. Nhưng những sai lầm – trong quá khứ và hiện tại – không chỉ liên quan đến một vài người. Những người biện hộ cho ngành tài chính đã không nhận ra rằng chính cái thùng đựng táo của họ bị thối[8]. Bất cứ khi nào nhìn thấy những rắc rối là liên tục và lan tràn như những gì đã lây lan trong hệ thống tài chính Hoa Kỳ, người ta đều có thể có kết luận: các vấn đề là có tính hệ thống. Phần thưởng lớn và sự chuyên tâm vào việc kiếm tiền của phố Wall có thể khiến giới này có lắm kẻ không trung thực (nguyên văn là "the ethically challenged", một uyển ngữ chỉ những người gian dối, mất đạo đức – ND), nhưng tính phổ quát của vấn đề cho thấy hệ thống có những thiếu sót căn bản. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG KHI LÝ GIẢI VẤN ĐỀ Trong lĩnh vực chính sách, xác định sự thành công hay thất bại là một việc đầy thử thách và thậm chí còn khó khăn hơn việc xác định xem nên tin tưởng ai hoặc tin vào điều gì (và chỉ ra ai hoặc cái gì để mà đổ lỗi). Nhưng thành công hay thất bại là gì? Đối với các quan sát viên tại Hoa Kỳ và châu Âu, việc hỗ trợ tài chính cho Đông Á năm 1997 là một thành công, vì Hoa Kỳ và Châu Âu đã không bị ảnh hưởng xấu. Còn với những người “trong cuộc” đã chứng kiến các nền kinh tế của họ bị chìm đắm, những giấc mơ của họ tan tành, các công ty của họ bị phá sản, và đất nước của họ phải gồng gánh các khoản nợ lên đến hàng tỷ, thì những sự hỗ trợ tài chính kia là một thất bại ảm đạm. Đối với các nhà phê bình, các chính sách của IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã làm cho vấn đề tồi tệ hơn. Đối với các nhóm biện hộ, các chính sách đã ngăn ngừa được một thiên tai. Và đó là chuyện không dễ dàng gì. Các câu hỏi được đặt ra là: điều gì sẽ xảy ra nếu như người ta theo đuổi các chính sách khác? Liệu có phải những hành động của IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã làm cho cuộc suy thoái kéo dài thêm và sâu sắc hơn, hay đã rút ngắn và kiềm chế nó? Đối với tôi, có một câu trả lời rõ ràng: các mức lãi suất cao và sự cắt giảm chi tiêu mà IMF và Bộ Tài https://thuviensach.vn chính đã thúc đẩy – đối lập với các chính sách mà Hoa Kỳ và châu Âu theo đuổi trong cuộc khủng hoảng hiện nay – đã làm cho mọi thứ tồi tệ hơn[9]. Các nước trong khu vực Đông Á rốt cuộc cũng đã phục hồi, nhưng sự phục hồi này bất chấp các chính sách đã được đưa ra, không phải phục hồi là nhờ có chúng. Tương tự như vậy, nhiều người khi quan sát thấy sự mở rộng của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn bãi bỏ các quy định đã kết luận rằng: các thị trường không bị ràng buộc đã hoạt động hiệu quả – việc bãi bỏ quy định này đã kích hoạt mức tăng trưởng cao, sẽ được duy trì trong dài hạn. Thực tế thì khác. Tốc độ tăng trưởng này được hình thành từ một núi nợ; ít nhất cũng có thể nói rằng nền móng của sự tăng trưởng này đang run rẩy. Các ngân hàng phương Tây đã nhiều lần được giải cứu sau những thực hành tín dụng ngớ ngần khi tài trợ – không chỉ ở Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, mà còn tại Mexico, Brazil, Argentina, Nga ... danh sách này gần như là bất tận[10]. Sau mỗi “tập phim”, thế giới lại tiếp tục vận hành, phần nhiều cũng giống y như trước, và nhiều người đã kết luận rằng các thị trường đã tự nó vận hành tốt. Nhưng chính phủ mới là người liên tục giải cứu các thị trường sau những sai lầm của chúng. Những người có kết luận rằng “nền kinh tế thị trường là ổn” đã phạm sai lầm trong suy luận, nhưng sai sót chỉ trở nên “rõ ràng” khi xảy ra một cuộc khủng hoảng quá lớn đến mức không thể phớt lờ. Những cuộc tranh luận về ảnh hưởng của một số chính sách cụ thể giúp lý giải cho việc các ý tưởng tồi vẫn có thể được duy trì rất lâu như thế nào. Đối với tôi, cuộc suy thoái quy mô lớn của năm 2008 dường như là hậu quả không thể tránh khỏi từ những chính sách được theo đuổi trong nhiều năm trước đó. Điều hiển nhiên là những chính sách đã được hình thành bởi những nhóm lợi ích đặc biệt – thị trường tài chính. Phức tạp hơn là vai trò của kinh tế học. Trong danh sách dài của những người bị quy trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng này, tôi sẽ bao gồm các nhà kinh tế học, họ đã cung cấp cho các nhóm lợi ích đặc biệt này cách thức lý luận về hiệu quả và sự tự https://thuviensach.vn điều tiết của thị trường – ngay cả khi những tiến bộ của kinh tế trong suốt hai thập kỷ trước đã cho thấy các điều kiện giới hạn mà trong phạm vi đó thì lý thuyết vẫn còn đúng. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng, kinh tế học (cả lý thuyết và chính sách) hầu như chắc chắn sẽ thay đổi cũng như nền kinh tế sẽ thay đổi, và trong chương kế cuối, tôi sẽ thảo luận về một số những thay đổi này. Người ta thường hỏi tôi: các nhà kinh tế học đã phạm sai lầm như thế nào. Luôn luôn có những nhà kinh tế học “bi quan”, những người nhìn thấy trước các vấn đề rắc rối, dự đoán ra được đến 9 chứ không như thực tế chỉ có 5 cuộc suy thoái gần đây. Nhưng cũng có một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học không bi quan, những người này chia sẻ một tập hợp các quan điểm về lý do tại sao nền kinh tế lại phải đối mặt với những vấn đề không thể tránh khỏi. Vì chúng ta luôn luôn có cả hai nhóm này trong các cuộc họp thường niên, chẳng hạn như Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos vào mỗi mùa đông, chúng ta cùng nhau chia sẻ các chẩn đoán và cố gắng giải thích tại sao “ngày đại họa” mà mọi người đều thấy rõ ràng sắp xảy ra, lại vẫn chưa đến. Chúng ta, những nhà kinh tế học rất giỏi trong việc xác định các nguồn lực nền móng, lại yếu kém khi cần dự đoán chính xác thời điểm. Tại cuộc họp năm 2007 tại Davos, tôi đã ở trong một tình huống không mấy dễ chịu. Tôi đã dự đoán về bóng mây của các vấn đề khó khăn, với áp lực ngày càng tăng, trong cuộc họp. Nhưng kinh tế toàn cầu tiếp tục mở rộng nhanh chóng. Tỷ lệ tăng trưởng toàn cầu 7% đã gần như là mức chưa từng có trước kia và thậm chí là đem lại những tin tốt lành cho Châu Phi và Mỹ Latinh. Như tôi đã giải thích cho khán giả, điều này có nghĩa rằng hoặc lý thuyết nền tảng của tôi đã sai; hoặc sẽ có khủng hoảng và khi nó diễn ra thì sẽ khốc liệt hơn và dai dẳng hơn mức độ mà lẽ ra nó có. Tất nhiên là tôi đã chọn lựa và lý giải cho tình huống thứ hai. Cuộc khủng hoảng hiện nay đã bộc lộ những thiếu sót căn bản trong chế độ tư bản, hoặc ít nhất là phiên bản dành riêng của chủ nghĩa tư bản xuất hiện vào cuối thế kỷ XX tại Hoa Kỳ (đôi khi vẫn được gọi là chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ). Nó không chỉ là sự thiếu sót đơn lẻ hoặc các sai lầm cụ thể, https://thuviensach.vn cũng không phải là việc chỉnh sửa một vài vấn đề nho nhỏ hay một vài chính sách. Khó có thể nhìn thấy các lỗi lầm này bởi vì người Mỹ chúng ta rất muốn tin vào hệ thống kinh tế của mình. “Đội ngũ của chúng ta” đã làm tốt hơn rất nhiều so với đối thủ khó chịu là Liên bang Xô Viết trước kia. Sức mạnh của hệ thống cho phép chúng ta chiến thắng tại những điểm yếu của họ. Chúng ta cổ vũ cho đội nhóm của mình trong tất cả các cuộc tranh tài: Hoa Kỳ so với châu Âu, Hoa Kỳ so với Nhật Bản. Khi Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld chê bai “Châu Âu già cỗi” khi họ phản đối chúng ta trong cuộc chiến tranh Iraq, cuộc thi tài mà ông đã có trong đầu – giữa các mô hình chai sạn cứng nhắc của xã hội Châu Âu và tính năng động của Hoa Kỳ – đã rõ ràng. Trong những năm 1980, những thành công của Nhật Bản đã khiến chúng ta hoài nghi. Liệu hệ thống của chúng ta có thực sự tốt hơn so với “tổng công ty” Nhật Bản? (Japan, Inc. là cụm từ mà Tây phương dùng để chỉ mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa chính phủ Nhật và khối doanh nghiệp của họ – ND). Sự lo lắng này cũng là một lý do tại sao một số người đã được an ủi với cuộc khủng hoảng năm 1997 tại Đông Á, nơi mà rất nhiều nước đã triển khai nhiều khía cạnh theo mô hình Nhật Bản[11]. Chúng ta đã không công khai hả hê vui sướng trước giai đoạn khó chịu kéo dài hàng thập kỷ của Nhật Bản trong suốt những năm 1990, nhưng chúng ta đã xúi giục người Nhật triển khai loại chủ nghĩa tư bản của chúng ta. Các con số lại củng cố thêm cho tình trạng tự lừa dối bản thân mình. Suy cho cùng, nền kinh tế của chúng ta đã phát triển nhanh hơn rất nhiều so với hầu hết mọi nền kinh tế khác, nhanh hơn cả Trung Quốc – và đối với những vấn đề chúng ta nghĩ rằng đã nhìn thấy trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc thì việc nó sụp đổ cũng chỉ là vấn đề thời gian[12]. Đại khái chúng ta nghĩ vậy. Đây không phải là lần đầu tiên mà các phán xét (bao gồm cả nhận xét rất sai lầm của phố Wall) đã được xác lập từ việc hiểu sai những con số. Trong những năm 1990, Argentina đã được tôn vinh như một thành công lớn của châu Mỹ Latinh – chiến thắng của chủ thuyết thị trường hoàn hảo ở miền https://thuviensach.vn Nam. Số liệu thống kê tăng trưởng trông rất tốt trong vòng một vài năm. Nhưng cũng như Hoa Kỳ, sự tăng trưởng này dựa trên một đống nợ mà kéo theo đó là mức tiêu dùng không bền vững. Cuối cùng, vào tháng 12 năm 2001, các khoản nợ đã “ngập đầu” và nền kinh tế sụp đổ[13]. Ngay cả bây giờ mà nhiều người vẫn phủ nhận tầm quan trọng của các vấn đề mà nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Khi đã vượt qua những khó khăn hiện tại – và mọi suy thoái cũng đã chấm dứt – người ta mong muốn sự tăng trưởng mạnh mẽ. Nhưng xem xét nền kinh tế Hoa Kỳ kỹ hơn sẽ thấy rằng có một số vấn đề sâu sắc hơn: một xã hội mà ngay cả những người thuộc tầng lớp trung lưu vẫn có mức thu nhập trì trệ trong một thập kỷ, một xã hội có đặc điểm nổi bật là sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng; một đất nước, mặc dù có nhiều ngoại lệ đáng kể, mà thống kê cho thấy các cơ hội dành cho một người Mỹ nghèo trở thành giàu có là thấp hơn so với “Châu Âu già cỗi”[14], và có kết quả thống kê số lượng bài đạt điểm xuất sắc trong các kỳ thi chuẩn của ngành giáo dục chỉ là mức trung bình[15]. Những thống kê cho thấy, nhiều ngành nghề trọng điểm ở Hoa Kỳ, ngoài lĩnh vực tài chính, đều đang gặp rắc rối, bao gồm y tế, năng lượng, và sản xuất. Nhưng những vấn đề cần được giải quyết không chỉ gói ghém trong biên giới Hoa Kỳ. Những sự mất cân bằng trong thương mại toàn cầu – điểm đặc trưng của thế giới trước khi xảy ra khủng hoảng – sẽ không tự biến mất. Trong một nền kinh tế toàn cầu hóa, người ta không thể chỉ ra đầy đủ những vấn đề của nước Mỹ mà không xét đến những vấn đề này dưới góc nhìn rộng. Nhu cầu toàn cầu sẽ xác định sự tăng trưởng toàn cầu, và Hoa Kỳ sẽ rất khó phục hồi mạnh mẽ – mà không bị trượt dài vào tình huống khốn đốn kiểu Nhật Bản – trừ khi nền kinh tế thế giới mạnh mẽ. Và cũng khó có thể có một nền kinh tế toàn cầu mạnh mẽ khi một phần của thế giới vẫn tiếp tục sản xuất ra nhiều hơn so với mức tiêu dùng, và một phần khác – là phần cần tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu của dân số già – vẫn tiếp tục tiêu thụ nhiều hơn so với mức được sản xuất ra. * * * https://thuviensach.vn Khi bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã mang theo một niềm hy vọng: vị tổng thống mới, ông Barrack Obama, sẽ chỉnh sửa những chính sách còn thiếu sót của chính quyền Bush, và chúng ta sẽ tiến bộ không những trong việc phục hồi ngay lập tức mà còn nhận diện được các thách thức trong dài hạn. Mức thâm hụt tài chính của quốc gia có thể tạm thời sẽ cao hơn, nhưng tiền bạc sẽ được chi tiêu phù hợp: giúp đỡ các gia đình giữ được nhà cửa, đầu tư làm tăng năng suất của quốc gia trong dài hạn và bảo vệ môi trường, và để đổi lại cho bất cứ khoản tiền nào được gửi vào các ngân hàng sẽ là một cam kết hoàn trả trong tương lai, bù đắp cho công chúng vì những rủi ro mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuốn sách này đã được viết trong đau đớn: hy vọng của tôi chỉ có một phần được thực hiện. Tất nhiên, chúng ta nên ăn mừng sự kiện là đã được kéo lên từ bờ vực của thảm họa mà rất nhiều người đã cảm nhận trong sự sụp đổ vào năm 2008. Nhưng một số các khoản tài trợ cho các ngân hàng cũng xấu y như dưới thời Tổng thống Bush; sự trợ giúp cho chủ sở hữu nhà là ít hơn những gì tôi mong đợi. Hệ thống tài chính mới nổi lên đang kém khả năng cạnh tranh, với các ngân hàng “quá lớn đến mức không thể sụp đổ” thậm chí còn cho thấy một vấn đề lớn hơn. Lượng tiền lẽ ra được chi tiêu để tái cấu trúc nền kinh tế và tạo ra các doanh nghiệp mới, năng động lại được dùng để giải cứu các công ty cũ, đã làm ăn thất bại. Những khía cạnh khác trong chính sách kinh tế của ông Obama rõ ràng là sự dịch chuyển đúng hướng. Sẽ là sai lầm khi chỉ trích Tổng thống Bush vì một số chính sách nhất định; và tôi cũng không cao giọng phê phán những chính sách tương tự do người kế nhiệm của ông ta thực thi. Viết cuốn sách này cũng là điều khó khăn vì một lý do khác nữa. Tôi chỉ trích – một số người có thể nói rằng tôi phỉ báng – các ngân hàng, các quan chức ngân hàng và những người khác trong thị trường tài chính. Tôi có nhiều, rất nhiều bạn bè trong lĩnh vực kinh tế – những người đàn ông và phụ nữ thông minh, cống hiến, những công dân tốt biết suy nghĩ cẩn thận về việc làm thế nào để đóng góp cho một xã hội đã tưởng thưởng hậu hĩ cho họ. Họ không những chỉ hào phóng cho đi, mà còn chăm chỉ làm việc cho chính nghĩa mà họ tin tưởng. Họ sẽ không nhận ra những bức biếm họa https://thuviensach.vn mà tôi vẽ ra đây, và tôi cũng không nhận ra họ trong những bức vẽ này. Thật ra, nhiều người trong số họ đều cảm thấy rằng mình cũng là nạn nhân y như những người bên ngoài. Họ đã mất nhiều tiền tiết kiệm mà cả cuộc đời họ dành dụm. Trong phạm vi ngành, hầu hết các nhà kinh tế học đã cố gắng để dự báo nền kinh tế sẽ đi đến đâu, những người thương lượng kinh doanh đã cố gắng để làm cho lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp mình hiệu quả hơn, và các nhà phân tích đã cố gắng sử dụng các kỹ thuật tinh vi nhất có thể để dự đoán lợi nhuận và để đảm bảo rằng các nhà đầu tư có được mức lợi nhuận cao nhất mà không dính líu vào các thực hành sai trái để ngành tài chính mang danh tiếng xấu. Dường như “những món này” vẫn xảy ra thường xuyên trong xã hội hiện đại phức tạp của chúng ta. Những kết quả xấu không là lỗi của từng cá nhân đơn lẻ mà cuộc khủng hoảng này là kết quả của những hành động, quyết định, và lập luận của những người trong ngành tài chính. Sự sụp đổ thảm hại của hệ thống tài chính không là điều tự dưng xảy ra, mà là được tạo ra. Thật ra, đã có nhiều người nỗ lực làm việc chăm chỉ – và chi tiêu tiền hợp lý – để đảm bảo rằng hệ thống tài chính có được hình thái nó đã từng có trước kia. Những người có vai trò trong việc tạo ra hệ thống và quản lý nó – bao gồm luôn cả những người được hệ thống này tưởng thưởng – đều phải chịu trách nhiệm. *** Nếu chúng ta có thể hiểu được những gì đã gây ra cuộc khủng hoảng năm 2008 và tại sao một số chính sách phản ứng ban đầu lại thất bại nặng nề, thì chúng ta có thể làm giảm khả năng diễn ra một cuộc khủng hoảng trong tương lai, nếu có thì khủng hoảng cũng sẽ ngắn hơn, và số lượng các nạn nhân vô tội cũng thấp hơn. Chúng ta thậm chí có thể mở đường cho sự tăng trưởng mạnh mẽ dựa trên những nền tảng vững chắc, chứ không phải là sự tăng trưởng phù du dựa trên các khoản nợ như tình hình những năm gần đây, và chúng ta còn có thể đảm bảo rằng thành quả của sự tăng trưởng sẽ được chia sẻ cho đại bộ phận công dân. Ký ức sẽ qua nhanh, và trong ba mươi năm tới, một thế hệ mới sẽ trỗi dậy, tự tin rằng họ sẽ không là nạn nhân của các vấn đề từng có trong quá https://thuviensach.vn khứ. Sự khéo léo của con người là không giới hạn, trong bất cứ hệ thống nào do chúng ta thiết kế nên cũng sẽ có những người khác tìm ra cách để phá vỡ các quy định và luật lệ – những thứ đã được đặt ra để bảo vệ chúng ta. Thế giới cũng sẽ thay đổi, và các quy định được thiết lập cho ngày hôm nay sẽ không còn hoàn hảo nữa trong nền kinh tế giai đoạn giữa thế kỷ 21. Tuy nhiên, từ hậu quả của cuộc Đại suy thoái, chúng ta đã thành công trong việc tạo ra một cấu trúc mang tính điều tiết, hoạt động hiệu quả trong nửa thế kỷ, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định. Cuốn sách này được viết với hy vọng rằng chúng ta có thể làm điều đó thêm một lần nữa. https://thuviensach.vn LỜI CẢM ƠN Trong vài năm qua, tôi đã miệt mài nghiên cứu về khủng hoảng, vì tôi thấy nó được tạo ra và sau đó được xử lý sai lầm. Hàng ngàn cuộc trò chuyện với hàng trăm người từ nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp hình thành nên các quan điểm và sự hiểu biết của tôi về những gì đã xảy ra. Danh sách những người mà tôi muốn cảm ơn có thể viết thành một cuốn sách với kích thước tương tự như cuốn sách này. Khi chọn ra một vài người để cảm ơn, tôi không có ý làm tổn thương những người khác, và những người tôi đề cập đến trong phần này không mang hàm ý gì đối với các kết luận của tôi: các kết luận của họ có thể rất khác biệt so với kết luận của tôi. Trong những năm trước khi có cuộc khủng hoảng này, các cuộc thảo luận với Steven Roach, Nouriel Roubini, George Soros, Robert Shiller, Paul Krugman, và Rob Wescott – tất cả đều đã cùng tôi chia sẻ sự bi quan về những gì phía trước – là vô giá. Tôi đã chủ trì cuộc thảo luận dài ngày bàn về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những gì cần làm, với các thành viên trong Ủy ban các chuyên gia về Cải cách tiền tệ và hệ thống tài chính quốc tế của Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc[16]. Tôi cảm ơn vì những hiểu biết chuyên sâu mà họ mang đến cuộc thảo luận, và kiến thức họ đã giúp tôi hiểu về cách thức mà cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến từng phần của thế giới. Tôi đã may mắn khi không chỉ được trực tiếp chứng kiến khủng hoảng ảnh hưởng như thế nào đến các quốc gia ở mọi châu lục, mà còn được thảo luận về các tác động này với các vị Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng Tài chính và kinh tế, và/hoặc Thống đốc Ngân hàng Trung ương và các cố vấn kinh tế tại nhiều quốc gia, lớn và nhỏ, phát triển và đang phát triển (bao gồm Anh, Mỹ, Iceland, Pháp, Đức, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Úc, Ấn Độ, Trung Quốc, Argentina, Malaysia, Thái Lan, Hy Lạp, Ý, Nigeria, Tanzania và Ecuador). Tôi đã viết về chủ đề điều tiết tài chính (financial regulation) từ sự sụp đổ của các quỹ tiết kiệm và cho vay tại Hoa Kỳ trong cuối thập niên 1980, https://thuviensach.vn và ảnh hưởng của những đồng tác giả với tôi trong lĩnh vực này, họ đều đến từ Đại học Stanford và Ngân hàng Thế giới, là rõ ràng: Kevin Murdock, Thomas Helimann, Gerry Caprio (hiện đang làm việc tại trường Đại học Williams), Marilou Uy, và Patrick Honohan (nay là Thống đốc của Ngân hàng Trung ương Ireland). Tôi cảm ơn Michael Greenberger, hiện là giáo sư luật tại Đại học Maryland và Giám đốc Ban Thương mại và Thị trường của Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai trong thời kỳ then chốt, khi xuất hiện các nỗ lực điều tiết công cụ tài chính phái sinh, và cảm ơn Randall Dodd, hiện đang làm việc cho IMF, trước đây từng làm việc tại Diễn đàn chính sách tài chính và Trung tâm Nghiên cứu các công cụ tài chính phái sinh, đã củng cố kiến thức của tôi về những gì xảy ra trên thị trường này. Cũng có những người khác đã giúp hình thành nên quan điểm của tôi, đó là: Andrew Sheng, từng làm việc tại Ngân hàng Thế giới và cựu lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán và giao dịch tương lai của Hong Kong; Tiến sĩ Y.V. Reddy, cựu Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ; Arthur Levitt, cựu chủ tịch Ủy ban chứng khoán và hối đoái Hoa Kỳ; Leif Pagrotsky, người từng đóng một vai trò chủ chốt trong việc giải quyết đợt khủng hoảng ngân hàng Thụy Điển; Thống đốc Zeti Aziz của Ngân hàng Trung ương Malaysia, người đã đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý nền kinh tế Malaysia trong thời gian khủng hoảng tài chính; Hovvard Davies, cựu quản lý Ban Dịch vụ tài chính của Anh và hiện làm việc tại Trường Kinh tế London; Jamie Galbraith của Đại học Texas, Austin; Richard Parker và Kenneth Rogoff của Đại học Harvard; Andrew Crockett và Bill White, cả hai trước đây đều làm việc cho Ngân hàng Thanh toán quốc tế; Mar Gudmundsson, nhà kinh tế học đứng đầu trong Ngân hàng Trung ương và là người đầu tiên đưa tôi đến Iceland, hiện đang làm Thống đốc; Luigì Zingales của Đại học Chicago; Robert Skidelsky của Đại học Warwick; Yu Yongding của Viện Kinh tế và Chính trị thế giới Bắc Kinh; David Moss của Dự án Tobin và Trường Luật Harvard; Elizabeth Warren và David Kennedy, cũng từ Trường Luật Harvard; Damon Silver, giám đốc chính sách của AFLCIO; Ngaire Woods của trường Oxford; Jose Antonio Ocampo, Perry Merhing, https://thuviensach.vn Stephany Griffith–Jones, Patrick Bolton, và Charles Calomiris, đều từ Đại học Columbia; và Keith Leffler của Đại học Washington. May mắn là có một số nhà báo xuất sắc, và dũng cảm, đã giúp khám phá ra những gì đang xảy ra trong lĩnh vực tài chính và đưa ra ánh sáng. Tôi đặc biệt thụ hưởng nhiều từ các bài viết, và trong một số trường hợp là những lần đối thoại với Gretchen Morgenson, Lloyd Norris, Martin Wolf, Joe Nocera, David Wessel, Gillian Tett, và Mark Pittman. Trong khi chỉ trích Quốc hội, tôi vẫn phải ca ngợi Nữ nghị sĩ Carolyn Maloney, đồng chủ tịch của Ủy ban kinh tế tổng hợp, vì những nỗ lực của bà, và vì những cuộc thảo luận với bà xoay quanh nhiều vấn đề. Mọi đạo luật được thông qua đều mang con dấu của Nghị sĩ Barney Frank, Chủ tịch Ủy ban Dịch vụ tài chính Quốc hội, và tôi đánh giá cao những cuộc thảo luận với ông và nhà kinh tế học cao cấp nhất của ông, David Smith, cũng như các cơ hội để minh chứng trước Ủy ban của ông. Và nếu cuốn sách này là rất quan trọng đối với một số phương pháp tiếp cận của chính quyền Obama, tôi rất cảm ơn nhóm kinh tế gia của họ (bao gồm Timothy Geithner, Larry Summers, Jason Purman, Austan Goolsbee và Peter Orszag) vì đã chia sẻ quan điểm và giúp tôi hiểu chiến lược của họ. Tôi cũng muốn cảm ơn Dominique Strauss–Kahn, giám đốc điều hành của IMF, không chỉ vì nhiều cuộc hội thoại trong năm qua mà còn vì những nỗ lực của ông trong việc cải cách tổ chức này. Hai người cần được nêu tên vì những ảnh hưởng của họ đối với việc hình thành quan điểm của tôi: Rob Johnson, một cựu sinh viên Princeton, người đưa ra viễn cảnh hoàn toàn khác biệt từ cuộc khủng hoảng này, từng tham gia vào cả khối kinh tế tư nhân và công cộng, là nhà kinh tế đứng đầu Ủy ban Ngân hàng của Thượng viện trong giai đoạn tiết kiệm và cho vay gặp khó khăn và ông cũng từng làm việc tại phố Wall. Còn người thứ hai là Bruce Greenwald, đồng tác giả của tôi trong một phần tư thế kỷ, giáo sư tài chính tại Đại học Columbia, người luôn luôn cung cấp cái nhìn sâu sắc và sáng tạo trong mỗi chủ đề mà tôi đề cập trong cuốn sách này – từ ngân hàng, đến dự trữ toàn cầu, và lịch sử của Đại suy thoái. https://thuviensach.vn Các phiên bản trước của một số phần trong cuốn sách này đã xuất hiện trên tạp chí Vanity Fair, và tôi đặc biệt cảm ơn nhà biên tập của tôi, Cullen Murphy, vì đã giúp tôi xây dựng và chỉnh sửa những bài viết này (“Thông điệp độc hại của phố Wall”, Vanity Fair, số tháng 7 năm 2009, và “Vận may đổi chiều” số tháng 10 năm 2008). Trong khi viết cuốn sách này, tôi đã được may mắn thụ hưởng sự trợ giúp của một nhóm các trợ lý nghiên cứu hàng đầu – Jonathan Dingel, Izzet Yildiz, Sebastian Rondeau, và Dan Choate; và các trợ lý biên tập Deidre Sheehan, Sheri Prasso, và Jesse Berlin. Jill Blackford không chỉ giám sát toàn bộ quá trình mà còn có những đóng góp vô giá ở mỗi công đoạn, từ nghiên cứu đến biên tập sách. Một lần nữa, tôi đã may mắn được làm việc với các nhà xuất bản W.W. Norton và Penguin: các nhận xét chi tiết và sự chỉnh sửa của Brendan Curry, Drake McFeely và Stuart Proffitt là vô cùng quý giá. Mary Babcock đã làm một công việc tuyệt vời khi biên tập bản thảo kịp tiến độ cực kỳ sát sao. Cuối cùng, như mọi khi, tôi gửi lời cảm ơn nhiều nhất đến Anya Schiffrin, vì những lần thảo luận các ý tưởng từ giai đoạn hình thành cho đến tận lúc biên tập bản thảo này. Cuốn sách này sẽ không thể ra đời nếu không có em. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 1: TẠO RA KHỦNG HOẢNG Điều đáng ngạc nhiên duy nhất về cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 là: nó đã làm cho rất nhiều người kinh ngạc. Đối với một số nhà quan sát, cuộc khủng hoảng này là một tình huống kinh điển “trong sách giáo khoa” không chỉ có thể dự đoán được, mà thực tế là đã được biết trước. Một thị trường được gỡ bỏ các quy định, tràn ngập thanh khoản và lãi suất thấp, một bong bóng bất động sản toàn cầu, cộng với sự tăng vọt bất thường trong hoạt động cho vay dưới chuẩn là một sự kết hợp tai hại. Thêm vào đó là thâm hụt tài chính và thương mại của Hoa Kỳ và sự tích lũy đồng đô la tương ứng trên quy mô lớn của Trung Quốc – một nền kinh tế toàn cầu bấp bênh – và rõ ràng là tình hình vô cùng mất cân đối. Điều đã là sự khác biệt giữa cuộc khủng hoảng này với rất nhiều cuộc khủng hoảng trước đó trong một phần tư thế kỷ vừa qua là: cuộc khủng hoảng này mang cái nhãn “sản xuất tại Hoa Kỳ”. Nếu như các cuộc khủng hoảng trước đó đã được kìm chế, thì sản phẩm “sản xuất tại Hoa Kỳ” này đã lây lan nhanh chóng ra toàn thế giới. Chúng ta luôn nghĩ rằng đất nước của chúng ta là một trong những động lực của sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, một nước xuất khẩu với các chính sách kinh tế đúng đắn – không có suy thoái. Lần cuối cùng Hoa Kỳ “xuất khẩu” một cuộc khủng hoảng là giai đoạn Đại suy thoái của thập niên 1930[17]. Đó là các nét chính của một câu chuyện nổi tiếng và thường được nghe nói tới. Nước Mỹ đã có một bong bóng nhà ở. Khi bong bóng vỡ và giá nhà đất sụt giảm từ mức cao ngất ngưởng, ngày càng có nhiều chủ nhà thấy mình “chìm dưới mặt nước”: khoản nợ của họ tăng cao hơn so với giá trị tài sản thế chấp. Khi bị mất nhà cửa, nhiều người cũng đánh mất luôn tiền tiết kiệm đã dành dụm cả đời và những giấc mơ về tương lai của họ – con cái được học đại học, một quỹ hưu trí để sống thoải mái. Theo một góc độ nhất định thì người Mỹ đã từng sống trong một giấc mơ. https://thuviensach.vn Một quốc gia giàu có nhất thế giới đã sống vượt ra ngoài số lượng của cải mà nó thực có, và sức mạnh của nền kinh tế Mỹ, và cả nền kinh tế thế giới, lại phụ thuộc vào điều đó. Nền kinh tế toàn cầu ngày càng cần gia tăng mức tiêu dùng, nhưng làm sao có được điều này khi thu nhập của nhiều người Mỹ đã bị đình trệ trong thời gian dài[18]? Người Mỹ tìm đến một giải pháp khéo léo: vay và tiêu dùng, cứ làm như là thu nhập của họ vẫn đang đi lên. Thế là họ đã đi vay. Mức tiết kiệm bình quân tuột xuống mức zero – và khi có nhiều người Mỹ giàu có tiết kiệm được một số tiền đáng kể, thì có nghĩa là những người Mỹ nghèo có mức tiết kiệm là số âm. Nói cách khác, họ đã ngập sâu trong nợ nần. Những người đi vay và luôn cả người cho vay đều có thể cảm thấy hài lòng về những gì xảy ra: người đi vay vẫn thả sức tiêu dùng, chứ không đối mặt với thực tế là thu nhập đang trì trệ và sụt giảm, còn bên cho vay có thể tận hưởng lợi nhuận kỷ lục từ mức phí cao. Lãi suất thấp và các quy định lỏng lẻo đã nuôi dưỡng bong bóng nhà ở. Khi giá nhà tăng vọt, các chủ nhà có thể lấy được tiền mặt từ chính căn nhà của họ. Những khoản rút tiền từ tài sản thế chấp này – trong một năm đã lên đến 975 tỷ đô la, nghĩa là hơn 7% GDP[19](tổng sản phẩm quốc nội, biện pháp tiêu chuẩn để đo lường tổng số tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế) – cho phép người đi vay thanh toán bằng “tiền tươi” để mua một chiếc xe hơi mới và vẫn còn có một số tiền còn lại để dành cho việc hưu trí. Nhưng tất cả các khoản vay này đã được đặt trên một giả định nguy hiểm là: giá nhà sẽ tiếp tục tăng lên, hoặc ít nhất là không đổi. Nền kinh tế đã trở nên lộn xộn: từ hai phần ba tới ba phần tư nền kinh tế (GDP) là liên quan đến nhà ở: xây dựng nhà mới hoặc mua đồ đạc, hoặc dùng nhà ở cũ để vay tiền cho mục đích tiêu dùng. Mô hình này không bền vững – và nó đã không thể được duy trì. Bong bóng vỡ, đầu tiên ảnh hưởng tới các khoản thế chấp xấu nhất (các khoản thế chấp dưới chuẩn, được cấp cho các cá nhân có thu nhập thấp), sau đó nhanh chóng ảnh hưởng đến toàn bộ mảng bất động sản dân cư. https://thuviensach.vn Khi bong bóng vỡ, hiệu ứng đã được khuếch đại bởi vì các ngân hàng đã tạo ra các sản phẩm phức tạp dựa trên mức giá đỉnh điểm của các tài sản thế chấp. Tệ hại hơn, họ đã cùng nhau, và cùng với cả những tổ chức khác trên thế giới, tham gia vào những trò cá cược trị giá hàng tỷ đô la. Điều phức tạp này, kết hợp với việc tình hình nhanh chóng xấu đi và đòn bẩy tài chính cao của các ngân hàng (họ, cũng như các hộ gia đình, đã tài trợ cho các khoản đầu tư của mình bằng các khoản vay lãi suất cao); có nghĩa là các ngân hàng đã không biết rằng liệu những gì họ nợ người gửi tiền và người mua trái phiếu có vượt quá giá trị tài sản của họ hay không. Vì thế họ nhận ra rằng mình cũng không thể biết được vị thế của bất kỳ ngân hàng nào khác. Sự tin cậy làm nền móng cho hệ thống ngân hàng đã bốc hơi. Các ngân hàng từ chối cho nhau vay, hoặc đòi mức lãi suất cao để bù đắp cho việc phải gánh chịu rủi ro. Thị trường tín dụng toàn cầu bắt đầu tan rã. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ và thế giới đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính và cả một cuộc khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã có một số bộ phận cấu thành: khủng hoảng bất động sản dân dụng; kéo theo ngay sau đó là các vấn đề bất động sản thương mại. Nhu cầu giảm, khi các hộ gia đình thấy giá trị của căn nhà của họ (và nếu họ sở hữu cổ phiếu thì luôn cả giá trị của chúng) giảm sút, và khả năng – cũng như sự sẵn sàng – để đi vay tiền cũng giảm. Xuất hiện chu kỳ tồn kho, khi thị trường tín dụng bị đóng băng và nhu cầu giảm, các công ty cũng giảm lượng hàng tồn kho của họ càng nhanh càng tốt. Thế là ngành sản xuất Hoa Kỳ đã sụp đổ. Có những câu hỏi sâu hơn: Điều gì sẽ thay thế “con ngựa tiêu dùng bất kham” của người Mỹ, thứ đã duy trì nền kinh tế trong những năm trước khi bong bóng vỡ? Hoa Kỳ và Châu Âu sẽ làm thế nào để quản lý việc tái cơ cấu, ví dụ, dịch chuyển theo hướng một nền kinh tế dịch vụ đã từng gây ra đủ khó khăn trong quá trình phát triển bùng nổ? Tái cấu trúc là việc không thể tránh khỏi – toàn cầu hóa và bước tiến công nghệ đòi hỏi phải làm điều này – nhưng nó sẽ không dễ dàng. TÓM TẮT LẠI CÂU CHUYỆN https://thuviensach.vn Khi những thách thức phía trước đã trở nên rõ ràng, câu hỏi vẫn là: nó đã xảy ra như thế nào? Đó không phải là cách thức mà nền kinh tế thị trường vận hành; theo như người ta vẫn hiểu. Đã có cái gì đó không ổn – rất không ổn. Không thể tự dưng lại cắt ngang vào dòng chảy liên tục của lịch sử. Nhằm mục đích vắn tắt, tôi bắt đầu với sự bùng nổ của bong bóng công nghệ (hoặc “dot–com”) vào mùa xuân năm 2000 – một bong bóng mà Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang tại thời điểm đó, đã cho phép phát triển và đã duy trì sự tăng trưởng mạnh mẽ của nó trong cuối thập niên 1990[20]. Giá của cổ phiếu công nghệ đã giảm 78% trong giai đoạn từ tháng 3/2000 đến tháng 10/2002[21]. Người ta vẫn hy vọng rằng những thiệt hại này sẽ không ảnh hưởng đến nền kinh tế trên quy mô rộng lớn hơn, nhưng thực ra là có. Phần nhiều các khoản đầu tư đã đi vào lĩnh vực công nghệ cao, và khi bong bóng các cổ phiếu trong ngành công nghệ vỡ tung, tình hình đầu tư chững lại. Trong tháng 3/2001, nước Mỹ rơi vào suy thoái. Chính quyền của Tổng thống George W. Bush đã tận dụng đợt suy thoái ngắn sau sự sụp đổ của bong bóng công nghệ như một cái cớ để thúc đẩy chương trình nghị sự với việc cắt giảm thuế cho người giàu, giải pháp mà Tổng thống đã tuyên bố là “liều thuốc” dành cho mọi căn bệnh kinh tế. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế đã không được thiết kế để kích thích nền kinh tế và động thái này chỉ có hiệu quả ở một mức độ hạn chế. Gánh nặng đặt lên vai chính sách tiền tệ để khôi phục lại nền kinh tế trở về tình trạng có đầy đủ việc làm. Theo đó, Greenspan giảm lãi suất, thị trường tràn ngập thanh khoản. Với năng lực dư thừa rất nhiều trong nền kinh tế, không ngạc nhiên gì khi thấy lãi suất thấp đã không dẫn đến mức đầu tư nhiều hơn dành cho máy móc và trang thiết bị. Hành động này có tác dụng nhất định, nhưng chỉ là sự thay thế bong bóng công nghệ bằng một bong bóng nhà ở, chế tạo ra một quả bom tiêu dùng và bất động sản. Gánh nặng đối với chính sách tiền tệ đã tăng thêm khi giá dầu bắt đầu tăng vọt sau cuộc chiến tranh xâm lược Iraq năm 2003. Hoa Kỳ đã dành hàng trăm tỷ đô la để nhập khẩu dầu – số tiền này lẽ ra đã được dùng để hỗ https://thuviensach.vn trợ nền kinh tế Mỹ. Giá dầu tăng từ 32 đô một thùng hồi tháng 3/2003 khi cuộc chiến Iraq bắt đầu lên đến 137 đô một thùng vào tháng 7/2008. Điều này có nghĩa rằng Hoa Kỳ đã chi 1,4 tỷ đô la mỗi ngày để nhập khẩu dầu (tăng từ con số 292 triệu đô mỗi ngày, trước khi xảy ra cuộc chiến), thay vì chi tiêu trong nội địa[22]. Greenspan đã cảm thấy rằng ông có thể giữ các mức lãi suất thấp, vì khi đó áp lực lạm phát là ít[23], và khi không có bong bóng nhà ở được duy trì bởi lãi suất thấp và sự bùng nổ tiêu dùng được hỗ trợ từ bong bóng nhà ở, thì nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn yếu. Trong các năm tăng trưởng nóng và dễ dàng vay tiền, phố Wall đã không đưa ra được một sản phẩm vay thế chấp phù hợp. Một sản phẩm tốt ở đây phải có chi phí giao dịch thấp và lãi suất thấp, nó lẽ ra phải giúp người ta quản lý được các rủi ro trong việc sở hữu nhà ở, bao gồm cả sự bảo vệ trong trường hợp nhà cửa mất giá hoặc người đi vay mất việc. Các chủ nhà đều muốn các khoản thanh toán hàng tháng là có thể được dự đoán trước, chứ không phải bị “bắn hạ” mà không có lời cảnh báo nào, và cũng chẳng muốn có các chi phí ẩn. Các thị trường tài chính Mỹ đã không tìm kiếm để xây dựng nên những sản phẩm tốt hơn, ngay cả khi chúng đã được sử dụng tại các quốc gia khác. Thay vào đó, các tổ chức tại phố Wall, khi chỉ tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận, đã đi đến giải pháp là các khoản thế chấp có chi phí giao dịch cao và lãi suất biến động thông qua các khoản thanh toán có thể đột ngột kết thúc, mà không có biện pháp phòng vệ chống lại các rủi ro khi giá trị nhà giảm sút hoặc mất việc làm. Nếu những nhà thiết kế của loại hình thế chấp đi vay này chú trọng vào các mục đích – những gì chúng ta thực sự muốn có từ thị trường tín dụng – hơn là việc làm thế nào để tối đa hóa lợi nhuận, thì họ đã có thể nghĩ ra các sản phẩm có thể gia tăng tỷ lệ sở hữu nhà trong dài hạn. Họ lẽ ra đã có thể “làm từ tốt đến xuất sắc”. Nhưng những nỗ lực của họ lại đem đến một loạt các khoản thế chấp phức tạp, giúp họ thu về rất nhiều tiền trong ngắn hạn và tạm thời làm tăng nhẹ tỷ lệ sở hữu nhà ở, nhưng xét trên tổng thể thì chi phí xã hội là vô cùng lớn. https://thuviensach.vn Các thất bại trên thị trường vay thế chấp là triệu chứng của những thất bại lớn hơn trên toàn hệ thống tài chính, bao gồm và đáng chú ý nhất là các ngân hàng. Có hai chức năng cốt lõi của hệ thống ngân hàng. Thứ nhất là cung cấp một cơ chế thanh toán hiệu quả, theo đó ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch, chuyển tiền gửi của các chủ tài khoản đến những người mà họ mua hàng hóa và dịch vụ. Chức năng cốt lõi thứ hai là đánh giá và quản lý rủi ro và cấp các khoản tín dụng. Điều này liên quan đến chức năng chính thứ nhất, bởi vì nếu một ngân hàng yếu kém trong việc thẩm định năng lực tín dụng, nếu nó chơi trò “đỏ đen” liều lĩnh, hoặc đặt quá nhiều tiền vào các nghiệp vụ mạo hiểm đầy rủi ro và sau đó thất bại, ngân hàng đó không thể giữ lời hứa của mình để hoàn trả lại cho những người đã đến gửi tiền. Nếu một ngân hàng làm tốt công việc của mình, nó sẽ cấp tiền để khởi đầu việc kinh doanh cho các doanh nghiệp mới và mở rộng các doanh nghiệp đã có, kinh tế phát triển, có công ăn việc làm, và đồng thời ngân hàng cũng thu được một khoản lợi nhuận – đủ để hoàn trả lại những người gửi tiền cùng với lãi suất cho họ, cũng như tạo ra khoản thu nhập cạnh tranh cho những những người đã đầu tư tiền cho ngân hàng đó. Nét quyến rũ của các khoản lợi nhuận dễ kiếm từ các chi phí giao dịch đã làm rất nhiều ngân hàng lớn xao nhãng các chức năng cốt lõi của họ. Hệ thống ngân hàng ở Mỹ và nhiều nước khác đã không tập trung vào việc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tiền, đây chính là các yếu tố cơ bản tạo việc làm trong mọi nền kinh tế, mà thay vì vậy họ lại chú trọng vào việc thúc đẩy chứng khoán hóa (securitization: chuyển đổi các khoản mà ngân hàng đã cho vay và các tài sản khác thành cổ phiếu rồi chào bán cho các nhà đầu tư – ND), đặc biệt là trên thị trường vay thế chấp. Chính việc bị lôi cuốn vào chứng khoán hóa tài sản thế chấp này là mối hiểm nguy chết người. Trong thời Trung cổ, nhà giả kim đã cố gắng biến đổi các kim loại cơ bản thành vàng. Còn những nhà giả kim thời hiện đại đã chuyển đổi các khoản thế chấp dưới chuẩn, đầy rủi ro thành các sản phẩm được “xếp loại ưu” (mức AAA), đủ an toàn để các quỹ hưu trí nắm giữ. Và các cơ quan thẩm định còn “phù hộ” cho những gì mà các ngân hàng đã https://thuviensach.vn làm. Cuối cùng, các ngân hàng đã trực tiếp tham gia trò cờ bạc – không những chỉ làm trung gian cho các tài sản đầy rủi ro mà họ đã tạo ra, mà còn đang thực sự nắm giữ tài sản. Các ngân hàng, và cả các cơ quan điều tiết, có lẽ đã cho rằng họ đã chuyển giao cho người khác những rủi ro khó chịu do chính họ tạo ra, nhưng đến ngày đại họa – khi thị trường sụp đổ – thì hóa ra chính họ cũng đã mất cảnh giác[24]. PHÂN TÍCH TRÁCH NHIỆM Khi người ta hiểu rõ hơn nguồn gốc của cuộc khủng hoảng này – đến tháng 4/2009 thì đây là đợt suy thoái dài nhất kể từ cuộc Đại suy thoái – việc truy tìm các thủ phạm là lẽ tự nhiên, và đã có rất nhiều hành vi quy trách nhiệm. Biết người nào, hoặc ít nhất là cái gì, để quy trách nhiệm là điều thiết yếu nếu chúng ta muốn làm giảm khả năng tái diễn một cuộc khủng hoảng khác và muốn chỉnh sửa những khía cạnh rõ ràng là đang bất thường trên thị trường tài chính hiện nay. Chúng ta phải cảnh giác với những lời giải thích quá hời hợt: rất nhiều trong số những lý giải này được bắt đầu với thói tham lam quá mức của các quan chức ngân hàng. Điều đó có thể đúng, nhưng nó không cung cấp được gì nhiều cho một nền tảng để cải cách. Các quan chức ngân hàng đã hành động một cách tham lam, vì họ có động cơ và các cơ hội để làm điều đó, và đó là những gì cần được thay đổi. Bên cạnh đó, nội dung căn bản của chủ nghĩa tư bản là theo đuổi lợi nhuận: chúng ta liệu có nên đổ lỗi cho các quan chức ngân hàng khi họ thực hiện (có lẽ còn hơi tốt hơn một chút) những gì mọi thành phần khác trong nền kinh tế thị trường đều được cho là nên thực hiện? Trong danh sách dài liệt kê các thủ phạm, theo cách tự nhiên thì người ta vẫn bắt đầu với những cái tên nằm dưới, với những nhà thế chấp nguyên thủy (mortgage originator). Các công ty cho vay thế chấp đã đẩy những khoản cho vay kỳ lạ đến hàng triệu người, nhiều người trong số họ còn không biết mình đang dính líu vào chuyện gì. Tuy nhiên, các công ty cho vay thế chấp đã không thể làm trò tai quái này nếu không nhận được sự trợ giúp và tiếp tay từ các ngân hàng và các cơ quan thẩm định. Các ngân hàng đã mua lại các khoản thế chấp và đóng gói lại, đem bán cho các nhà đầu tư https://thuviensach.vn bất cẩn khác. Các ngân hàng và các định chế tài chính Hoa Kỳ đã khoe khoang về các công cụ đầu tư thông minh mới mẻ của họ. Họ đã tạo ra một sản phẩm mới, một sản phẩm nguy hiểm đe dọa phá sập hệ thống tài chính Hoa Kỳ, trong khi vẫn được chào bán như một công cụ quản lý rủi ro. Các cơ quan thẩm định, lẽ ra cần kiểm tra sự tăng trưởng của các công cụ độc hại này, thì lại đóng dấu phê duyệt, theo đó khuyến khích những người khác – bao gồm cả các quỹ hưu trí đang tìm kiếm nơi an toàn để cất giữ số tiền mà những người lao động đã để dành cho giai đoạn nghỉ hưu – tại Hoa Kỳ và ở nước ngoài, đi mua chúng. Nói ngắn gọn thì thị trường tài chính Mỹ đã không thực hiện được các chức năng xã hội thiết yếu của mình đối với việc quản lý rủi ro, phân bổ vốn và huy động tiền tiết kiệm trong khi vẫn giữ chi phí giao dịch ở mức thấp. Thay vào đó, họ đã tạo ra rủi ro, phân bổ nguồn vốn sai lầm và khuyến khích vay nợ nhiều, trong khi áp đặt các chi phí giao dịch cao. Trong cao trào năm 2007, thị trường tài chính béo bở đã thu về 41% lợi nhuận từ khối doanh nghiệp[25]. Một trong những lý do tại sao hệ thống tài chính đã thực hiện việc quản lý rủi ro một cách tệ hại là: thị trường đã thẩm định giá sai và đánh giá rủi ro không chính xác. “Thị trường” đã đánh giá rất sai lầm về nguy cơ vỡ nợ của các khoản thế chấp dưới chuẩn, và sai lầm còn tệ hơn nữa khi tin tưởng vào các cơ quan thẩm định và các ngân hàng đầu tư khi họ đóng gói lại các khoản thế chấp này, cho điểm đánh giá là AAA (rất tốt) đối với các sản phẩm mới. Các ngân hàng (và các nhà đầu tư của ngân hàng) cũng sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá rủi ro liên quan đến đòn bẩy ngân hàng. Và những tài sản đầy rủi ro, thông thường phải có một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn đáng kể nhằm thuyết phục những người nắm giữ chúng, lại chỉ đem về khoản lãi nhỏ. Trong một số trường hợp, việc làm giá và thẩm định rủi ro có vẻ không chính xác đã dựa trên sự cá cược khôn ngoan: họ tin rằng nếu có rắc rối phát sinh, thì Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tài chính sẽ giải cứu họ, riêng điều này thì họ đã đúng[26]. https://thuviensach.vn Cục Dự trữ Liên bang, trước đây do Chủ tịch Alan Greenspan lãnh đạo – sau đó là Ben Bernanke, và các cơ quan điều tiết khác đứng đằng sau đã để mặc cho mọi việc diễn ra. Họ không những tuyên bố rằng chỉ sau khi bong bóng vỡ thì mới biết đã có một bong bóng hay không, mà còn xác nhận: ngay cả khi có khả năng xuất hiện bong bóng, thì họ cũng chẳng thể làm gì cả. Họ đã phạm sai lầm trên cả hai khía cạnh. Chẳng hạn, họ lẽ ra đã có thể thúc đẩy các khoản thanh toán ngay với giá trị cao khi mua nhà, hoặc yêu cầu ký quỹ cao hơn cho các giao dịch chứng khoán, cả hai đều có thể làm dịu lại hai thị trường đang quá nóng này. Nhưng họ đã chọn cách không làm như vậy. Có lẽ còn tồi tệ hơn, khi Greenspan làm cho tình hình xấu thêm bằng cách cho phép các ngân hàng tham gia vào những khoản cho vay rủi ro nhất từ trước đến nay và khuyến khích người dân nhận các khoản thế chấp có lãi suất biến động, theo đó có thể – và thực tế là đã – làm mất khả năng thanh toán một cách dễ dàng, buộc những hộ gia đình thậm chí là có thu nhập trung bình rơi vào tình cảnh bị tịch biên tài sản thế chấp[27]. Những người ủng hộ việc bãi bỏ các quy định – và vẫn tiếp tục biện hộ bất chấp những hậu quả rành rành – cho rằng các phí tổn từ sự hạn chế của quy định đã vượt qua những lợi ích. Khi ngân sách toàn cầu và chi phí thực tế cho cuộc khủng hoảng này đã lên đến hàng ngàn tỷ đô la, rất khó có thể thấy được cách thức mà những người biện hộ duy trì được quan điểm trên. Tuy nhiên, họ lại tranh luận rằng phí tổn thực tế của các quy định chính là việc bóp nghẹt các cải tiến. Sự thật đáng buồn là tại các thị trường tài chính Hoa Kỳ, các cải tiến đã được định hướng với những quy định vòng vèo, các chuẩn mực kế toán và quy định về thuế không rõ ràng. Chúng tạo ra các sản phẩm phức tạp, vừa khiến cho mức rủi ro tăng thêm, vừa làm thông tin mất cân đối. Sau đó thì chẳng có thắc mắc nào về việc không thể nhận thấy bất kỳ dấu vết nào của sự tăng trưởng kinh tế bền vững (ngoài các bong bóng) từ những đổi mới tài chính này. Cùng lúc đó, các thị trường tài chính đã không đổi mới theo cách để có thể hỗ trợ các công dân bình thường trong việc đơn giản là quản lý rủi ro của việc sở hữu nhà. Những cải tiến, lẽ ra đã giúp người dân và các quốc gia quản lý được các rủi ro quan trọng khác mà https://thuviensach.vn họ phải đối mặt, trên thực tế lại là vô hiệu. Các quy định phù hợp đã có thể làm công cuộc đổi mới chuyển hướng theo cách thức làm tăng hiệu quả của nền kinh tế và bảo vệ được các công dân của chúng ta. Không ngạc nhiên khi tuyên bố của ngành tài chính, trong nỗ lực đổ lỗi sang nơi khác, rằng đây chỉ là một tai nạn (một cơn bão “ngàn năm có một”), đã bị người ta bỏ ngoài tai. Những nhân vật trong ngành tài chính thường đổ lỗi cho Cục Dự trữ Liên bang vì đã khống chế lãi suất quá thấp trong thời gian quá dài. Nhưng cố sức đổ lỗi kiểu này là “hơi lạ”: những lĩnh vực ngành nghề khác sẽ nói gì khi nguyên nhân của mức lợi nhuận thấp và hiệu quả hoạt động yếu kém của họ lại là chi phí đầu vào (thép, tiền lương) quá thấp? “Khoản đầu vào” chính yếu của giới ngân hàng là chi phí cho các nguồn tài trợ của họ, và các quan chức ngân hàng dường như đã phàn nàn rằng FED đã làm cho tiền trở nên quá rẻ! Chẳng hạn, lẽ ra đã có những khoản tài trợ với chi phí thấp được sử dụng hiệu quả, nếu các khoản tiền được dùng để đầu tư vào công nghệ mới hoặc mở rộng các doanh nghiệp, và chúng ta đã có một nền kinh tế với sức cạnh tranh cao và tính năng động. Các quy định lỏng lẻo, nhưng không có chuyện dễ dàng đi vay tiền, cũng có thể không dẫn đến tình trạng bong bóng. Nhưng quan trọng hơn, khi người ta dễ dàng vay tiền, qua một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt hay được quản lý tốt đi nữa, thì vẫn có thể dẫn đến sự bùng nổ, vì nó sẽ diễn ra vào các thời điểm khác và tại những nơi khác. (Vì vậy, nếu các cơ quan thẩm định đã thực hiện tốt công việc của họ, thì các tài sản thế chấp sẽ ít được bán cho các quỹ hưu trí và các tổ chức khác hơn, và độ lớn của bong bóng có thể được hạ thấp đáng kể. Điều tương tự cũng có thể có, ngay cả khi các cơ quan thẩm định không làm tốt công việc của họ, nhưng các nhà đầu tư đã phân tích rủi ro một cách hợp lý). Nói ngắn gọn, sự kết hợp của những sai lầm này đã tạo nên quy mô của cuộc khủng hoảng. Đến lượt mình, Greenspan và những người khác đã cố gắng quy trách nhiệm về lãi suất thấp cho các nước châu Á và cơn lũ thanh khoản từ tình hình dư thừa tiền gửi tiết kiệm của các quốc gia này[28]. Một lần nữa, việc có https://thuviensach.vn thể nhập khẩu vốn theo các điều khoản ưu đãi hơn lẽ ra phải là một lợi thế, một điều may mắn. Nhưng có một tuyên bố đáng chú ý: FED đã nói rằng, thực ra, họ không còn có thể kiểm soát được mức lãi suất ở Hoa Kỳ. Tất nhiên, họ có thể làm điều đó; nhưng FED đã chọn lựa để giữ mức lãi suất thấp, phần nào vì các lý do mà tôi đã trình bày[29]. Nhiều quan chức ngân hàng, có thể xem là đã đối xử rất bạc với những người đã cứu sống họ, đã đổ lỗi cho chính phủ – kiểu “ăn cháo đá bát". Họ đổ lỗi cho chính phủ đã không ngăn họ lại – y như một thằng bé con bị bắt quả tang khi ăn trộm kẹo bánh trong cửa hàng lại đổ lỗi cho chủ tiệm hoặc cảnh sát vì họ lơ đễnh nhìn sang nơi khác, khiến nó tin rằng có thể kiếm chác được chút đỉnh rồi chuồn êm. Nhưng lập luận này là càng không chính trực, bởi vì các thị trường tài chính đã trả tiền để mấy tay “cảnh sát” ra chỗ khác chơi. Họ đã thành công khi đẩy lùi được những nỗ lực để điều tiết các công cụ phái sinh và hạn chế sự cho vay nặng lãi. Họ đã toàn thắng tại Mỹ. Mỗi chiến thắng đều đem lại nhiều tiền hơn cho họ, và lượng tiền này gây ảnh hưởng đến các tiến trình chính trị. Họ thậm chí đã tranh luận rằng: bãi bỏ các quy định giúp họ thu về nhiều tiền hơn, mà tiền bạc là dấu hiệu của sự thành công. Chẳng phải như vậy sao? Phe bảo thủ không ưa sự đổ lỗi như thế này của thị trường; nếu có một vấn đề đối với nền kinh tế, thì từ trong thâm tâm họ biết nguyên nhân thực sự phải là chính phủ. Chính phủ muốn gia tăng tỷ lệ sở hữu nhà ở, và các quan chức ngân hàng đã tự bào chữa rằng họ chỉ làm phần việc của mình. Fannie Mae và Freddie Mac, hai công ty tư nhân đã hình thành từ điểm khởi đầu là hai cơ quan chính phủ, đã là chủ đề chính bị bêu riếu, khi xuất hiện một chương trình của chính phủ gọi là Luật tái đầu tư cộng đồng (Community Reinvestment Act ICRA), theo đó khuyến khích các ngân hàng cho vay tới các cộng đồng không đủ điều kiện được phép đi vay. Lập luận tiếp theo là: nếu không có những nỗ lực này để cho người nghèo vay tiền, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đoạn kinh cầu nguyện này gần như hoàn toàn vô nghĩa. Khoản giải cứu gần 200 tỷ đô la cho AIG (một tập đoàn tài chính và bảo hiểm lớn của Hoa Kỳ – ND) (số tiền rất lớn xét theo mọi góc độ) là https://thuviensach.vn dựa trên các công cụ phái sinh (hoán đổi rủi ro tín dụng: credit default swap) – các ngân hàng đánh bạc với nhau. Các ngân hàng cũng không cần bất kỳ áp lực nào cho việc quân bình nhà ở mà vẫn tham gia được vào những hoạt động chứa đựng quá nhiều rủi ro. Sự đầu tư quá lớn vào bất động sản thương mại cũng chẳng dính líu gì đến chính sách về sở hữu nhà ở của chính phủ. Tương tự cho những trường hợp lặp đi lặp lại việc cho vay các khoản nợ xấu trên toàn thế giới rồi sau đó các ngân hàng nhiều lần được giải cứu. Hơn nữa, tỷ lệ vỡ nợ khi cho vay theo CRA thực sự là so sánh được với các lĩnh vực cho vay khác – cho thấy rằng loại hình cho vay này, nếu được thực hiện tốt, sẽ không gây ra nhiều rủi ro[30]. Mặc dù vậy, quan điểm thường được trình bày nhất lại là: nhiệm vụ của Fannie Mae và Freddie Mac là “cho vay hợp lý”, các khoản tín dụng dành cho các tầng lớp trung lưu. Các ngân hàng lại nhảy vào những khoản thế chấp dưới chuẩn – vào thời gian đó, Freddie Mac và Fannie Mae đã không làm – điều mà chính phủ không khuyến khích. Tổng thống có thể có một số bài diễn văn về quyền sở hữu trong xã hội, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy các ngân hàng quan tâm lời tổng thống phát biểu. Một chính sách phải được đi kèm với những cây gậy và các củ cà rốt, đằng này đã chẳng có gì. (Nếu một bài diễn văn là thành công, thì sự hối thúc lặp đi lặp lại của Obama yêu cầu các ngân hàng cơ cấu lại các khoản thế chấp nhiều hơn và cho các doanh nghiệp nhỏ vay nhiều hơn đã có thể mang lại một số kết quả). Ngoài ra, chủ trương ủng hộ sự sở hữu nhà cửa ở đây có nghĩa là quyền sở hữu vĩnh viễn, hoặc ít nhất cũng là dài hạn. Chẳng có ích lợi gì khi bạn cho ai đó vào một căn nhà trong vài tháng rồi sau đó mời người đó ra đường khi đã tước đoạt hết tiền tiết kiệm của anh ta. Nhưng các ngân hàng đã làm vậy. Tôi không nhận thấy bất kỳ quan chức chính phủ nào nói rằng bên cho vay nên tham gia vào các thực hành cho vay nặng lãi, cho vay vượt quá khả năng thanh toán của người đi vay, với các khoản thế chấp vừa có rủi ro cao vừa có chi phí giao dịch lớn. Sau đó vài năm khi khu vực kinh tế tư nhân đã phát minh ra các khoản thế chấp độc hại (tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn trong chương 4), các đơn vị được tư nhân hóa và ít chịu sự kiểm soát như Fannie Mae và https://thuviensach.vn Freddie Mac đã quyết định tham gia vào cuộc vui này. Những nhà điều hành của họ suy nghĩ, tại sao lại không thể hưởng lợi giống như những người khác trong ngành? Trớ trêu thay, trong khi làm điều đó, họ đã giúp khu vực tư nhân tháo gỡ một số sai lầm: nhiều khoản thế chấp được chứng khoán hóa đã làm tổn thương bảng cân đối của chính họ. Nếu họ đã không mua lại, những vấn đề trong khu vực kinh tế tư nhân có thể sẽ tồi tệ thêm, nhưng khi mua lại nhiều chứng khoán, họ đã giúp bong bóng phình to hơn[31]. Như tôi đã đề cập trong phần lời nói đầu, tìm hiểu xem những gì đã xảy ra cũng như việc “bóc vỏ một củ hành”: mỗi lời giải thích lại gợi ra những câu hỏi mới. Khi bóc vỏ củ hành này, chúng ta cần phải hỏi: tại sao các lĩnh vực tài chính lại thất bại nặng nề, không chỉ trong việc thực hiện chức năng xã hội quan trọng của nó, mà còn ngay cả trong việc phục vụ các cổ đông và trái chủ[32]? Những vị quản lý điều hành trong các định chế tài chính có vẻ như đã khăn gói ra đi với chiếc túi lép kẹp – túi sẽ căng hơn nếu tai nạn đã không xảy ra, nhưng thế vẫn còn tốt hơn các cổ đông nghèo của Citibank khi họ nhìn thấy khoản đầu tư của mình hầu như biến mất. Các tổ chức tài chính phàn nàn rằng các cơ quan điều tiết đã không ngăn họ lại trước các hành vi xấu. Nhưng chẳng phải là các doanh nghiệp đều có nghĩa vụ phải tự mình hành xử đúng đắn hay sao? Trong những chương sau, tôi sẽ đưa ra một lời giải thích đơn giản: những động cơ sai lầm. Nhưng sau đó chúng ta phải lật ngược lại vấn đề: Tại sao lại có những động cơ sai lầm? Tại sao thị trường lại không “xử lý kỷ luật” các công ty có cơ cấu khuyến khích sự sai trái, theo như lý thuyết phổ biến vẫn thường thấy? Câu trả lời cho những vấn đề này là rất phức tạp, nhưng bao gồm một hệ thống quản trị doanh nghiệp khiếm khuyết, việc yêu cầu thực thi luật cạnh tranh là không đầy đủ, thông tin không hoàn hảo và sự hiểu biết không đúng đắn về rủi ro từ phía các nhà đầu tư. Trong khi lĩnh vực tài chính chịu trách nhiệm lớn nhất, các cơ quan điều tiết cũng đã không làm những công việc mà họ nên làm: đảm bảo rằng các ngân hàng không có hành vi xấu, không tái phạm nhiều lần. Một số nhân https://thuviensach.vn vật trong các khu vực ít bị quản lý trên thị trường tài chính (như các quỹ phòng hộ), khi chứng kiến những vấn đề xấu nhất lại xảy ra trong những mảng được quản lý rất chặt (các ngân hàng), mau mắn kết luận rằng chính quy định mới là vấn đề. “Chỉ khi nào họ cũng không bị kiểm soát như chúng tôi, thì các vấn đề sẽ không bao giờ xảy ra”, họ tranh luận như vậy. Nhưng họ đã bỏ qua những điểm quan trọng: Lý do các ngân hàng được kiểm soát là vì sự đổ vỡ của chúng có thể gây ra những thiệt hại lớn cho phần còn lại của nền kinh tế. Lý do tại sao có ít quy định cần thiết dành cho các quỹ phòng hộ, ít nhất là cho những đơn vị nhỏ hơn, là vì chúng chỉ có thể gây ra tổn thất ít hơn. Các quy định không khiến cho các ngân hàng có hành vi xấu, chỉ là thiếu sót trong quy định và việc cưỡng chế thực thi đã không ngăn cản được các ngân hàng nhiều lần áp đặt chi phí lên phần còn lại của xã hội. Thật ra, điều này là khả thi: Đã từng có một khoảng thời gian trong lịch sử nước Mỹ khi ngân hàng không áp đặt các chi phí này trong một phần tư thế kỷ sau Thế chiến thứ hai, khi đó những quy định nghiêm ngặt được thực thi một cách có hiệu quả. Một lần nữa, sự thất bại của các quy định trong một phần tư thế kỷ vừa qua cần phải được tìm hiểu: câu chuyện tôi kể dưới đây cố gắng tìm ra sự liên hệ giữa những thất bại này với ảnh hưởng chính trị của các nhóm lợi ích đặc biệt, nhất là của những người trong ngành tài chính đã kiếm được tiền từ việc bãi bỏ các quy định (nhiều khoản đầu tư kinh tế của họ đã “bốc mùi chua”, nhưng họ sắc sảo hơn rất nhiều trong lĩnh vực đầu tư chính trị), và đến cả ý thức hệ – những ý tưởng cho rằng quy định là không cần thiết. NHỮNG THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG Hiện nay, sau khi vụ việc đã xảy ra, hầu như tất cả mọi người đều nói rằng cần phải có các quy định, hoặc ít nhất là có nhiều quy định hơn so với những gì đã có trước khi khủng hoảng. Thiếu các quy định cần thiết sẽ gây ra phí tổn lớn cho chúng ta: những cuộc khủng hoảng lẽ ra đã ít xảy ra hơn và ít tốn kém hơn, và chi phí của các cơ quan điều tiết và cho các quy định sẽ là một khoản thù lao giá rẻ được tính trong những chi phí này. Các thị trường tự chúng rõ ràng là đã sụp đổ – và tình huống này là rất thường https://thuviensach.vn xuyên. Có nhiều lý do giải thích cho những thất bại này, nhưng có hai điểm đặc biệt thích đáng đối với ngành tài chính: “tính chất đại diện” – trong thế giới ngày nay là số người nắm giữ tiền và ra quyết định thay mặt những người khác (nghĩa là làm đại diện cho người khác), và tầm quan trọng ngày càng tăng của “ngoại ứng” hay “ảnh hưởng, tác động bên ngoài” (extemalities). Vấn đề đại diện là một yếu tố mang tính hiện đại. Các tập đoàn hiện đại với vô số các cổ đông nhỏ sẽ có khác biệt về cơ bản so với các công ty gia đình. Có sự tách bạch trong quyền sở hữu và kiểm soát doanh nghiệp, theo đó ban quản lý, sở hữu chút ít cổ phiếu của công ty, có thể điều hành việc tìm kiếm lợi nhuận[33]. Vấn đề này cũng tồn tại trong quá trình đầu tư: phần lớn các khoản đầu tư đã được thực hiện thông qua các quỹ hưu trí và các định chế khác. Những người ra quyết định đầu tư – và đánh giá hoạt động của công ty – không làm cho chính họ mà là đang thay mặt cho những người ủy thác các khoản quỹ để nhờ họ coi sóc giúp. Cùng với chuỗi “đại diện” này, những mối quan tâm về hiệu quả hoạt động đã bị dịch chuyển thành sự tập trung vào lợi nhuận trong ngắn hạn. Với lợi tức chi trả không phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động trên dài hạn, mà ảnh hưởng bởi giá cả trên thị trường chứng khoán, một cách tự nhiên thì việc quản lý sẽ là làm những gì để đẩy giá trên thị trường chứng khoán tăng thêm – thậm chí phải lừa đảo (hoặc “sáng tạo”) trong công tác kế toán. Trọng tâm ngắn hạn này được củng cố bởi nhu cầu lợi nhuận hàng quý ở mức cao từ các nhà phân tích thị trường chứng khoán. Động cơ lợi nhuận ngắn hạn khiến các ngân hàng tập trung vào việc làm thế nào để tạo ra nguồn thu phí cao hơn, và trong một số trường hợp là làm thế nào để qua mặt các quy định về tài chính kế toán. Sáng kiến mà phố Wall rất tự hào là giấc mơ về các sản phẩm mới có thể tạo thêm thu nhập trong ngắn hạn cho các doanh nghiệp của họ. Những vấn đề phát sinh từ tỷ lệ vỡ nợ cao sau một số cải tiến này dường như chỉ là chuyện tương lai xa vời. Mặt khác, các công ty tài chính chẳng quan tâm tí nào đến những cải tiến nhằm giúp https://thuviensach.vn người dân có thể giữ được nhà cửa của họ hoặc bảo vệ họ khi lãi suất đột ngột tăng. Nói tóm lại thì khâu “kiểm soát chất lượng” (QC) hoặc đã thực hiện rất ít hoặc không hiệu quả. Một lần nữa, theo lý thuyết thì người ta vẫn cho rằng thị trường sẽ thực thi kỷ luật. Các công ty sản xuất ra các sản phẩm quá nguy hiểm sẽ phải mất uy tín. Giá cổ phiếu của chúng sẽ giảm nhanh. Nhưng trong thế giới năng động ngày nay, tính kỷ luật của thị trường đã không còn nữa. Các nhà phù thủy tài chính đã phát minh ra các sản phẩm mang tính rủi ro cao nhưng mức lợi nhuận cũng bình thường – với những nhược điểm không rõ ràng trong nhiều năm. Hàng ngàn nhà quản lý tiền tệ khoe khoang rằng họ “có thể thành công trên thị trường” và đã có nhiều nhà đầu tư thiển cận tin vào điều đó. Nhưng các ông “thầy pháp tài chính” cũng đã bị mê hoặc trong tâm trạng phởn phơ vui sướng – họ tự lừa dối mình, cũng như những người đã mua các sản phẩm của họ. Điều này giúp giải thích tại sao khi thị trường sụp đổ mà họ vẫn còn nắm giữ các sản phẩm độc hại trị giá hàng tỷ đô la. Chứng khoán hóa, lĩnh vực “hot” nhất của các sản phẩm tài chính trong những năm qua dẫn đến sự sụp đổ, là một ví dụ điển hình của những rủi ro phát sinh từ các sáng kiến mới, vì điều này có nghĩa là mối quan hệ giữa người cho vay và bên đi vay đã bị phá vỡ. Chứng khoán hóa có một lợi thế lớn, cho phép phân tán rủi ro, nhưng nó cũng có một bất lợi không nhỏ khi gây ra vấn đề từ các thông tin không hoàn hảo, và điều này nhấn chìm những lợi ích từ sự đa dạng hóa ngày càng cao. Thực tế, những người đi mua chứng khoán thế chấp bằng tài sản (mortgaged–backed security) đang cho những chủ sở hữu nhà vay tiền mà chẳng biết gì về những con nợ này cả! Họ đã tin tưởng rằng các ngân hàng đang bán cho mình những sản phẩm đã được kiểm chứng, còn các ngân hàng thì tin cậy vào bên thế chấp nguyên thủy. Động cơ của bên thế chấp nguyên thủy này lại là tập trung vào số lượng các khoản thế chấp, chứ không phải là chất lượng của chúng. Họ tạo ra rất nhiều các khoản thế chấp thực sự rất vớ vẩn. Các ngân hàng muốn đổ lỗi cho các bên thế chấp nguyên thủy, nhưng thực ra chỉ cần xem lướt qua cũng có thể thấy các khoản thế chấp này vốn sẵn có các rủi ro. https://thuviensach.vn Thực tế là các quan chức ngân hàng không muốn biết. Động cơ của họ là ”đẩy” những khoản thế chấp và các loại chứng khoán mà họ tạo ra từ các khoản thế chấp đó sang người khác, càng nhanh càng tốt. Trong phòng thí nghiệm Frankenstein của phố Wall, giới ngân hàng tạo ra các sản phẩm mới đầy rủi ro (công cụ nợ có đảm bảo [collateralized debt instrument], công cụ có đảm bảo được điều chỉnh [collateralized debt instrument squared] và hoán đổi rủi ro tín dụng [credit default swap], một số các công cụ này sẽ được thảo luận trong các chương sau), mà không có cơ chế để quản lý con quái vật do chính họ đã tạo ra. Họ đã trở thành nhà kinh doanh “mua bán lòng vòng” – lấy những khoản thế chấp từ bên thế chấp nguyên thủy, đóng gói chúng lại một lần nữa, rồi chuyển chúng vào sổ sách của các quỹ hưu trí và những đơn vị khác – bởi vì đó là nơi có mức phí cao nhất, trái với việc kinh doanh kiểu “tồn trữ” vốn là mô hình kinh doanh truyền thống cho các ngân hàng (hình thành các khoản thế chấp và sau đó nắm giữ chúng). Hoặc đó là những gì họ nghĩ trong đầu, cho đến khi tai nạn xảy ra và họ nhận ra hàng tỷ đô la đang nằm trong các món tài sản xấu còn ghi trong sổ sách của họ. NGOẠI ỨNG, HAY CÁC TÁC ĐỘNG BÊN NGOÀI Các quan chức ngân hàng đã không nghĩ rằng một số các công cụ tài chính là nguy hiểm đối với phần còn lại của thị trường như thế nào, nguy hiểm trên phạm vi bên ngoài rộng lớn đã ra sao. Trong kinh tế học, thuật ngữ kỹ thuật ngoại ứng (externalities) đề cập đến những tình huống khi mà một giao dịch thị trường lại tạo ra chi phí hoặc lợi ích lên những bên khác không tham gia giao dịch. Nếu bạn đang kinh doanh bằng tài khoản của mình và bạn thua lỗ, mất tiền thì chuyện này thực sự chẳng ảnh hưởng đến bất cứ ai khác. Tuy nhiên, hệ thống tài chính ngày nay là đan xen vào nhau và là trung tâm của nền kinh tế, một khi một tổ chức lớn trong đó đổ vỡ cũng có thể khiến cho toàn bộ hệ thống sụp đổ theo. Sự đổ vỡ hiện nay đã ảnh hưởng đến tất cả mọi người: hàng triệu người bị mất nhà cửa, và hàng triệu người nữa đã thấy nhà cửa của họ không còn giá trị; toàn bộ cộng đồng bị tàn phá; người nộp thuế phải thanh toán cho các khoản thua lỗ của các ngân hàng và người lao động bị mất công ăn việc làm. Cái giá phải trả https://thuviensach.vn không chỉ ở Mỹ mà còn là trên toàn thế giới, bởi hàng tỷ người không có lợi ích gì từ những hành động thiếu thận trọng của các ngân hàng. Khi nảy sinh những vấn đề nghiêm trọng về sự đại diện và các ngoại ứng, theo cách điển hình thì các thị trường sẽ không làm việc hiệu quả – trái với quan điểm phổ biến về năng lực của thị trường. Đây là một trong những căn nguyên để điều tiết, quản lý thị trường tài chính. Các cơ quan điều tiết là tấm lá chắn cuối cùng để chống lại những hành vi vừa quá mạo hiểm vừa vô nguyên tắc của các ngân hàng, nhưng sau nhiều năm tập trung nỗ lực vận động hành lang của giới ngân hàng, chính phủ đã không những gỡ bỏ các quy định hiện tại mà còn không thể áp dụng những quy định mới nhằm ứng phó với bối cảnh tài chính đang thay đổi. Những người không hiểu tại sao các quy định là cần thiết – và do đó tin rằng không cần các quy định – lại trở thành những người quản lý, điều tiết bằng các quy định. Việc bãi bỏ đạo luật Glass – Steagall vào năm 1999 đã tách biệt các ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại (luật được Quốc hội Mỹ thông qua từ năm 1933, nghiêm cấm các ngân hàng thương mại cấu kết với các tổ chức môi giới có đầy đủ chức năng hoặc tham gia vào các hoạt động đầu tư – ND) đã tạo ra các ngân hàng khổng lồ chưa từng có, quá lớn với ảo tưởng không thể sụp đổ. Khi nhận thức rằng mình quá lớn không thể “chết” được thì họ lại càng hăng máu trong việc chấp nhận rủi ro. Cuối cùng, các ngân hàng đã rơi vào tình thế “gậy ông đập lưng ông”: các công cụ tài chính mà họ đã sử dụng để khai thác người nghèo đã quay lại đánh vào thị trường tài chính và nhấn chìm các ngân hàng. Khi bong bóng vỡ, phần lớn các ngân hàng vẫn còn đang nắm giữ các chứng khoán nguy hiểm đe dọa sự sống còn của họ – rõ ràng là họ đã không thực hiện tốt công việc chuyển giao rủi ro sang những người khác như họ đã nghĩ. Nhưng đây là một trong nhiều sự trớ trêu nổi bật lên từ cuộc khủng hoảng: với các nỗ lực của Greenspan và Bush để giảm thiểu vai trò của chính phủ trong nền kinh tế, chính phủ đã đảm nhận một vai trò chưa từng thấy trước kia trên một phạm vi rộng – trở thành chủ sở hữu của công ty xe hơi lớn nhất thế giới, công ty bảo hiểm lớn nhất, và (để lấy lại những gì họ đã gửi các ngân hàng) một số ngân hàng lớn nhất. Một quốc gia, nơi mà chủ nghĩa https://thuviensach.vn xã hội thường bị nguyền rủa nay lại xã hội hóa các rủi ro và đã can thiệp vào thị trường theo những cách thức chưa từng thấy. Những nghịch lý trớ trêu này là tương ứng với bề ngoài không nhất quán trong những lập luận của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Bộ Tài chính Hoa Kỳ trước, trong và sau thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tại Đông Á – và mâu thuẫn giữa các chính sách trước đó và hiện nay. IMF cho rằng họ có thể tin tưởng tuyệt đối vào thị trường – cho rằng các thị trường có năng lực, có thể tự điều chỉnh, và theo đó tốt nhất là cứ để cho những yếu tố cấu thành nên chúng tự xử lý nếu có sự tối đa hóa mức tăng trưởng và hiệu suất – nhưng thời điểm khủng hoảng xảy ra, cơ quan này đã kêu gọi sự hỗ trợ to lớn từ chính phủ, lo lắng về “khả năng lây lan” căn bệnh từ một quốc gia này sang các quốc gia khác. Nhưng sự lây lan là nét điển hình của ngoại ứng, và nếu có những ngoại ứng này thì (theo logic) không thể trông cậy vào thuyết thị trường tuyệt đối được nữa. Ngay cả sau khi có những khoản giải cứu hàng tỷ đô la, IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ vẫn chống lại việc áp đặt các biện pháp (những quy định) để có thể hạn chế khả năng xảy ra “các vụ tai nạn” và giảm bớt tổn thất, vì họ tin rằng về cơ bản thì các thị trường vẫn tự “chạy tốt”, ngay cả khi họ đã liên tục trải nghiệm các trường hợp trục trặc. Các gói giải cứu chính là ví dụ về một tập hợp các chính sách không nhất quán, tiềm ẩn các hậu quả trong dài hạn. Các nhà kinh tế học lo lắng về các động cơ – có thể nói rằng đây là mối quan tâm hàng đầu của họ. Một trong những lý luận được đưa ra trên các thị trường tài chính nhằm lý giải tại sao không hỗ trợ các chủ sở hữu tài sản thế chấp khi những người này không thể hoàn trả được nợ là: việc này sẽ làm tăng thêm “rủi ro đạo đức” có nghĩa là động cơ để thanh toán nợ sẽ suy yếu, nếu chủ sở hữu tài sản thế chấp biết rằng vẫn có một số cơ hội hỗ trợ họ khi họ không trả được nợ. Những lo lắng về rủi ro đạo đức đã khiến cho IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ tranh luận kịch liệt chống lại các khoản giải cứu tại Indonesia và Thái Lan – gây ra sự sụp đổ trên diện rộng của hệ thống ngân hàng và làm trầm trọng hơn sự suy thoái tại các nước này. Lo lắng về rủi ro đạo đức đã góp phần vào quyết định không giải cứu Lehman Brothers. Nhưng quyết định này, https://thuviensach.vn đến lượt nó, lại dẫn đến chương trình giải cứu lớn nhất trong lịch sử. Nhưng khi những hậu quả từ Lehman Brothers lan sang các ngân hàng lớn tại Mỹ, mối quan tâm về rủi ro đạo đức đã được đặt sang một bên, và sự thay đổi này lớn đến nỗi các nhân viên ngân hàng được phép hưởng khoản tiền thưởng lớn ngay khi ngân hàng có các khoản lỗ kỷ lục, cổ tức tiếp tục không suy giảm, các cổ đông và trái chủ vẫn được bảo vệ. Các cuộc giải cứu lặp đi lặp lại (không chỉ là bơm tiền, mà còn sẵn sàng cung cấp thanh khoản từ Cục Dự trữ Liên bang khi xảy ra sự cố) góp phần lý giải về cuộc khủng hoảng hiện nay: họ khuyến khích các ngân hàng ngày càng trở nên bất cẩn, khi biết rằng đây là một cơ hội tốt vì nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra thì cũng sẽ được cứu thoát. (Các thị trường tài chính gọi hiện tượng này là “quyền chọn bán của Greenspan/Bernanke” [theo cụm từ Greenspan put, nói đến việc Greenspan luôn sẵn sàng giảm lãi suất để hỗ trợ thanh khoản cho thị trường]). Các cơ quan điều tiết đã có một đánh giá sai lầm rằng bởi nền kinh tế đã “sống sót” nên đúng là các thị trường tự vận hành tốt và chẳng cần các quy định – mà họ đã không nhận ra rằng sự tồn tại đó chỉ có được nhờ sự can thiệp sâu rộng của chính phủ. Cho đến nay, vấn đề rủi ro đạo đức là lớn hơn bao giờ hết. Các vấn đề đại diện và những ngoại ứng có nghĩa là chính phủ có một vai trò nhất định. Nếu nó làm tốt công việc của mình, sẽ có ít tai nạn xảy ra hơn, và nếu có thì sẽ ít tốn kém hơn. Khi có sự cố, chính phủ sẽ hỗ trợ việc khắc phục hậu quả. Nhưng cách thức khắc phục của chính phủ cũng ảnh hưởng đến khả năng diễn ra các cuộc khủng hoảng trong tương lai – và ý thức xã hội về tính công bằng và công lý. Mỗi nền kinh tế thành công – và mỗi xã hội thành công – đều bao gồm cả chính phủ và các thị trường. Cần có sự cân bằng giữa các vai trò. Đó không chỉ là vấn đề “bao nhiêu” mà còn là “cái gì”. Trong nhiệm kỳ Tổng thống Reagan và cả chính quyền Bush, Hoa Kỳ bị mất sự cân bằng này – khi trước làm quá ít có nghĩa là bây giờ phải làm quá nhiều. Phạm sai lầm ngày nay có nghĩa là còn có thể sai lầm hơn trong tương lai. SỰ SUY THOÁI https://thuviensach.vn Một trong những khía cạnh nổi bật nhất của cuộc cách mạng “thị trường tự do” được Tổng thống Ronald Reagan và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher khởi xướng có lẽ là việc người ta đã bỏ quên các tình huống quan trọng nhất khi thị trường không vận hành hiệu quả: các “tập phim” lặp đi lập lại với việc không tận dụng được tối đa các nguồn lực. Nền kinh tế thường chạy không đạt công suất, với hàng triệu người muốn tìm việc làm mà không thể tìm ra, với những giai đoạn biến động trong đó mức thất nghiệp cao hơn 1/12, và tỷ lệ này còn tệ hơn ở những người dân tộc thiểu số và thanh niên trẻ. Tỷ lệ thất nghiệp được công bố chính thức không cho thấy một bức tranh toàn diện: trong đó nhiều người muốn làm việc toàn thời gian đang phải làm các công việc bán thời gian, vì đó là thứ duy nhất họ có thể có, mà số lượng những người này lại không được tính vào tỷ lệ thất nghiệp. Mức này cũng chưa bao gồm những người trong danh sách khuyết tật – những người sẽ làm việc nếu họ có việc làm – và cũng không tính những người đã quá thất vọng khi không tìm được việc làm và họ sau đó thôi không tìm việc nữa. Mặc dù vậy, cuộc khủng hoảng này vẫn tồi tệ hơn bình thường. Với những kết quả đo lường rộng hơn về tỷ lệ thất nghiệp, đến tháng 9/2009 thì tỷ lệ là hơn 1 người trong 6 người Mỹ muốn có một công việc toàn thời gian đã không thể tìm được việc, và đến tháng 10 thì tình hình còn tệ hơn[34]. Nếu thị trường có thể tự điều chỉnh – bong bóng cuối cùng cũng nổ tung – thì khủng hoảng này một lần nữa cho thấy rằng sự điều chỉnh là chậm chạp và tốn kém rất nhiều chi phí. Khoảng cách tích lũy giữa sản lượng thực tế của nền kinh tế so với sản lượng tiềm năng là hàng ngàn tỷ. NHỮNG AI CÓ THỂ TIÊN LIỆU ĐƯỢC VỤ VIỆC? Sau tai nạn, tất cả những người trong thị trường tài chính và các cơ quan điều tiết đều tuyên bố: “Ai có thể lường trước những chuyện này chứ?” Thực ra, đã có nhiều nhà phê bình biết trước – nhưng các dự báo khủng khiếp của họ đã là những sự thật khó chịu: quá nhiều người đã kiếm được quá nhiều tiền nên chẳng ai có thể nghe được lời cảnh báo của họ. https://thuviensach.vn Chắc chắn tôi không phải là người mong muốn nền kinh tế Hoa Kỳ sụp đổ, kéo theo hậu quả toàn cầu. Nhà kinh tế học Nouriel Roubini, chuyên gia tài chính George Soros của Đại học New York, Stephen Roach của Morgan Stanley, chuyên gia về nhà ở Robert Shiller của Đại học Yale và Robert Wescott từng là thành viên của Hội đồng cố vấn kinh tế/ Hội đồng Kinh tế Quốc gia của Tổng thống Clinton trước đây đều lặp đi lặp lại những lời cảnh báo. Tất cả đều là các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes, cùng chia sẻ quan điểm cho rằng thị trường không tự điều chỉnh. Hầu hết chúng ta đều lo lắng về bong bóng nhà ở; một số người (như Roubini) tập trung vào các rủi ro gây ra từ sự mất cân bằng toàn cầu dẫn đến sự thay đổi bất ngờ trong tỷ giá hối đoái. Nhưng những nhà thiết kế của chiếc bong bóng (Henry Paulson đã đưa Goldman Sachs lên một đòn bẩy có tầm cao mới, và Ben Bernanke đã cho phép tiếp tục cấp phát các khoản vay thế chấp xấu) vẫn cứ tin rằng thị trường có khả năng tự điều chỉnh – cho đến khi họ buộc phải đối mặt với thực tế là sự sụp đổ trên quy mô lớn. Một người không cần phải có bằng Tiến sĩ tâm lý học thì mới hiểu được lý do tại sao người ta cứ muốn giả vờ rằng nền kinh tế chỉ đang trải qua giai đoạn xáo trộn nho nhỏ, diễn biến này có thể dễ dàng được gạt sang một bên. Đến tháng 3/2007, Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Bernanke vẫn tuyên bố rằng “dường như đã kiểm soát được các ảnh hưởng từ thị trường tín dụng dưới chuẩn đối với nền kinh tế trên quy mô rộng hơn và các thị trường tài chính"[35]. Thậm chí là một năm sau, ngay cả sau khi Bear Stearns (một ngân hàng đầu tư của Mỹ – ND) sụp đổ, với những tin đồn về sự sụp đổ của Lehman Brothers sắp xảy ra, dòng thông tin chính thống (không những chỉ tuyên bố công khai mà còn có ngay trong các phòng họp kín giữa các quan chức ngân hàng nhà nước khác) vẫn là: nền kinh tế đang trên đường hồi phục mạnh mẽ sau một vài sự cố nhỏ. Bong bóng bất động sản buộc phải nổ tung chính là triệu chứng rõ ràng nhất của “căn bệnh kinh tế”. Nhưng đằng sau triệu chứng này là những vấn đề căn bản hơn. Nhiều người đã cảnh báo các rủi ro của việc bãi bỏ các quy định. Trở lại thời điểm năm 1992, tôi đã lo ngại việc chứng khoán hóa các https://thuviensach.vn khoản thế chấp sẽ kết thúc trong thảm họa, vì cả người mua và người bán đều đánh giá thấp khả năng giảm giá và phạm vi của mối tương quan[36]. Thật vậy, bất cứ ai nhìn kỹ vào nền kinh tế Mỹ đều có thể dễ dàng thấy rằng: tồn tại các vấn đề lớn trên tầm “vĩ mô” cũng như “vi mô”. Như tôi đã trình bày trước đây, nền kinh tế của chúng ta đã được duy trì bởi một bong bóng không bền vững. Nếu không có bong bóng, tổng cầu – tổng số tất cả các hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình, các công ty, chính phủ và người nước ngoài cần có – sẽ yếu, một phần vì sự bất bình đẳng ngày càng tăng tại Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới, theo đó tiền được dịch chuyển từ những người lẽ ra phải tiêu dùng nó sang những người không dùng[37]. Trong nhiều năm qua, người đồng nghiệp Columbia là Bruce Greenwald và tôi đã quan tâm chú ý nhiều đến vấn đề rộng hơn khi có sự thiếu hụt trong lượng tổng cầu trên toàn thế giới – là tổng số tất cả các hàng hóa và dịch vụ mà mọi người trên toàn cầu muốn mua. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tổng cầu thế giới là một vấn đề. Nếu tổng cầu của mọi người trên thế giới thấp hơn sản lượng mà thế giới có thể sản xuất ra, thì đó là lúc phát sinh trục trặc – một nền kinh tế toàn cầu yếu kém. Một trong những lý do tại sao lượng tổng cầu của thế giới yếu kém là do mức dự trữ gia tăng – lượng tiền mà các quốc gia để dành lại cho những “ngày mưa bão”. Các nước đang phát triển đã để dành hàng trăm tỷ đô la nhằm tự bảo vệ mình trước sự bất ổn toàn cầu ở cấp độ cao, từng để lại dấu ấn trong thời kỳ bãi bỏ quy định, và từ lúc họ cảm thấy khó chịu khi phải cầu cứu IMF[38]. Một vị thủ tướng của một quốc gia từng là nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1997 nói với tôi rằng: “Chúng tôi đã 'theo học' khóa ‘97. Chúng tôi đã học được những gì sẽ xảy ra nếu không có đủ tiền dự trữ.” Các nước có trữ lượng dầu mỏ lớn cũng tích lũy khoản dự trữ – họ biết rằng mức giá cao của dầu thô là không bền vững. Đối với một số quốc gia thì lại có một lý do khác để tích lũy dự trữ. Tăng trưởng nhờ xuất khẩu đã được tán dương như phương cách tốt nhất cho các nước đang phát triển để https://thuviensach.vn đi lên; sau khi các quy tắc thương mại mới từ Tổ chức Thương mại Thế giới đã lấy đi rất nhiều công cụ truyền thống mà các nước đang phát triển đã sử dụng để giúp tạo ra các ngành mới, nhiều quốc gia đã chuyển sang chính sách: giữ tỷ giá hối đoái ở mức cạnh tranh. Và điều này có nghĩa là mua vào đồng đô la, bán ra các loại nội tệ, và tích lũy dự trữ. Tất cả đều là các lý do chính đáng để tích lũy dự trữ, nhưng điều này đã mang lại một hệ quả xấu: tổng cầu trên thế giới bị thiếu hụt. 500 tỷ đô la, hoặc nhiều hơn, đã được để dành riêng sang một bên cho dự trữ hàng năm trong giai đoạn trước khi có cuộc khủng hoảng. Hoa Kỳ đã đến giải cứu tình hình với mức tiêu dùng bừa bãi dựa trên các khoản vay nợ, các khoản chi tiêu vượt quá khả năng. Quốc gia này trở thành giải pháp tiêu dùng cuối cùng của thế giới. Nhưng tình thế này là không bền vững. KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU Cuộc khủng hoảng nhanh chóng trở thành toàn cầu – và không đáng ngạc nhiên, khi gần một phần tư các khoản vay thế chấp của Hoa Kỳ đã được chuyển sang nước ngoài[39]. Điều này vô tình đã giúp nước Mỹ: nếu các tổ chức nước ngoài không mua lại rất nhiều các công cụ độc hại và các khoản nợ vay, thì tình hình ở đây có thể còn tệ hại hơn nữa[40]. Nhưng trước tiên là Hoa Kỳ đã xuất khẩu được triết lý về việc hủy bỏ quy định (deregulatory philosophy) – nếu không thì những người nước ngoài hẳn sẽ chẳng mua quá nhiều các khoản thế chấp nguy hiểm kia[41]. Suy cho cùng, Hoa Kỳ đã xuất khẩu được đợt suy thoái của họ. Tất nhiên, đây chỉ một trong nhiều kênh để thông qua đó cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ trở thành khủng hoảng toàn cầu: nền kinh tế Mỹ vẫn là lớn nhất, và sự suy thoái của nó rất dễ ảnh hưởng đến toàn cầu. Hơn nữa, các thị trường tài chính toàn cầu đã trở nên gắn bó mật thiết với nhau – được chứng minh bởi thực tế là 2 trong số 3 đối tượng chủ chốt tham gia vào chiến dịch giải cứu AIG của Chính phủ Mỹ là các ngân hàng nước ngoài. Thoạt đầu, nhiều người châu Âu đã nói đến chuyện độc lập không phụ thuộc nhau, rằng họ vẫn có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình ngay khi Hoa Kỳ rơi vào suy thoái: sự phát triển ở châu Á sẽ cứu họ. Có vẻ https://thuviensach.vn như đây chỉ là mơ ước. Các nền kinh tế châu Á vẫn còn quá nhỏ (toàn bộ lượng tiêu thụ của châu Á cũng chỉ bằng 40% của Hoa Kỳ)[42], và sự tăng trưởng của họ chủ yếu dựa vào xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Ngay cả sau khi triển khai những gói kích thích kinh tế lớn, sự tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2009 cũng giảm sút khoảng 3–4% so với mức mà họ đã có được trước khi xảy ra khủng hoảng. Thế giới này là gắn kết chặt chẽ với nhau; một đợt suy thoái tại Hoa Kỳ rất có thể dẫn đến suy thoái toàn cầu. (Sự bất cân xứng ở đây là: vì có thị trường quốc nội rộng lớn và chưa được khai thác hoàn toàn, nên châu Á vẫn có thể tăng trưởng mạnh mẽ ngay cả khi Hoa Kỳ và châu Âu đang yếu kém – tôi sẽ quay lại vấn đề này trong Chương 8). Trong khi các định chế tài chính châu Âu phải hứng chịu hậu quả khi mua lại các khoản thế chấp độc hại và trò cờ bạc mạo hiểm mà họ đã chơi với các ngân hàng Mỹ, một số quốc gia châu Âu cũng phải vật lộn với những vấn đề khó khăn theo cách riêng của họ. Tây Ban Nha cũng đã để cho một bong bóng nhà ở phình to và hiện đang phải gánh chịu sự sụp đổ gần như hoàn toàn của thị trường bất động sản. Tuy nhiên, trái ngược với Hoa Kỳ, các quy định cứng rắn của giới ngân hàng Tây Ban Nha cho phép các ngân hàng của họ chịu đựng được một chấn thương nghiêm trọng và kết quả chữa trị tốt hơn – mặc dù không ngạc nhiên gì khi toàn bộ nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề. Nước Anh cũng “bó tay” với bong bóng bất động sản. Nhưng tệ hơn, dưới ảnh hưởng của trung tâm tài chính London, họ rơi vào cái bẫy của “cuộc lặn đua xem ai tới đáy trước” cố gắng làm bất cứ điều gì để có thể thu hút các doanh nghiệp tài chính. Quy định “lỏng” tại thị trường này đã chẳng tốt đẹp gì hơn so với Hoa Kỳ. Bởi vì người Anh đã để cho lĩnh vực tài chính nắm vai trò lớn hơn trong nền kinh tế của họ, chi phí cho các khoản giải cứu (tương ứng) thậm chí còn lớn hơn. Giống như ở Hoa Kỳ, nền văn hóa của lương cao và tiền thưởng nhiều đã phát triển. Nhưng ít nhất người Anh hiểu rằng nếu bạn đem tiền của những người nộp thuế vào ngân hàng, bạn phải làm sao để có thể chắc chắn rằng ngân hàng sử dụng https://thuviensach.vn cho các mục đích như dự định – cho vay nhiều hơn, chứ không phải dùng làm tiền thưởng và chi trả cổ tức. Và ít nhất thì tại nước Anh, người ta hiểu rằng phải có người chịu trách nhiệm – lãnh đạo của các ngân hàng được giải cứu đã được thay thế – và chính phủ Anh yêu cầu rằng những người nộp thuế phải nhận được giá trị công bằng từ những vụ giải cứu trên, chứ không phải là thứ “hàng kính biếu” trong các đợt giải cứu dưới cả chính quyền Obama và Bush[43]. Iceland là một ví dụ tuyệt vời cho những sai lầm khi một nền kinh tế nhỏ và mở cửa đã vận dụng câu thần chú “bãi bỏ quy định” một cách mù quáng. Những người dần có học thức của đất nước này đã làm việc chăm chỉ và đã đi đầu trong các công nghệ hiện đại. Họ đã vượt qua những bất lợi do khoảng cách địa lý, thời tiết khắc nghiệt và sự suy yếu của cổ phiếu các doanh nghiệp nghề cá – một trong những nguồn thu truyền thống của họ – để đạt mức thu nhập bình quân đầu người là 40.000 đô la. Vậy mà do hành vi thiếu thận trọng của các ngân hàng Iceland đã đặt tương lai của đất nước vào tình thế lâm nguy. Tôi đã nhiều lần ghé thăm Iceland trong thập kỷ này và cảnh báo các rủi ro từ chính sách tự do hóa[44]. Đất nước có 300.000 dân này chỉ có ba ngân hàng nhận tiền gửi và mua một số tài sản có tổng trị giá khoảng 176 tỷ đô la, nghĩa là gấp 11 lần so với GDP[45]. Với sự sụp đổ thảm khốc của hệ thống ngân hàng vào mùa thu năm 2008, Iceland đã trở thành quốc gia phát triển đầu tiên trong vòng hơn 30 năm phải quay sang cầu cứu IMF[46]. Các ngân hàng Iceland, cũng như các ngân hàng ở nước khác, đã ứng dụng các đòn bẩy tài chính lớn và rủi ro cao. Khi các thị trường tài chính nhận ra những rủi ro và bắt đầu rút tiền ra, các ngân hàng này (nhất là Landsbanki) thu hút tiền gửi từ những người gửi tiền tại Anh và Hà Lan bằng cách cung cấp cho họ tài khoản “Icesaver” có lợi nhuận cao. Người gửi tiền lại dại dột nghĩ rằng họ được mời một “bữa ăn trưa miễn phí”: có tiền lãi cao hơn mà không có rủi ro. Có lẽ họ cũng thiếu thông minh khi nghĩ rằng chính phủ đang làm công việc điều tiết. Nhưng, cũng như ở khắp mọi nơi, đa phần các cơ quan điều tiết đều giả định rằng thị trường sẽ tự lo cho bản thân chúng. https://thuviensach.vn Nhận vào tiền gửi chỉ làm trì hoãn “ngày đại họa”. Iceland không thể đủ khả năng bơm hàng trăm tỷ đô la vào các ngân hàng suy yếu. Khi sự thật này dần dần hé lộ trước mắt những người đã cung cấp tiền vào các ngân hàng, sự sụp đổ trong hệ thống ngân hàng chỉ là vấn đề thời gian; sự hỗn loạn toàn cầu sau sự sụp đổ của Lehman Brothers dẫn đến những điều tất yếu trong mọi trường hợp. Không giống như Hoa Kỳ, chính phủ Iceland biết rằng họ không thể cứu các trái chủ hoặc các cổ đông. Vấn đề ở đây là liệu chính phủ có giải cứu các tập đoàn đã từng cam kết với người gửi tiền hay không; và họ hào phóng đến mức nào đối với những người gửi tiền nước ngoài. Nước Anh đã sử dụng chiến thuật “bàn tay sắt” – đến mức dùng cả luật chống khủng bố để giành lại các tài sản từ Iceland – và khi Iceland quay sang cầu viện IMF và các nước Bắc Âu, họ khẳng định rằng những người nộp thuế của Iceland đã cứu những người gửi tiền của Anh và Hà Lan, thậm chí còn vượt hơn cả số tiền trong tài khoản đã được bảo đảm. Trong chuyến trở lại thăm Iceland vào tháng 9/2009, nghĩa là gần một năm sau đó, tôi thấy sự giận dữ đã trở nên rất rõ ràng. Tại sao người nộp thuế của Iceland phải trả giá cho sự thất bại của một ngân hàng tư nhân, đặc biệt là khi các cơ quan điều tiết của nước ngoài đã không làm được công việc bảo vệ các công dân của họ? Trước những phản ứng mạnh mẽ của các chính phủ châu Âu, người ta thường cho rằng Iceland đã phạm một sai lầm cơ bản trong quá trình hội nhập châu Âu: “thị trường chung” có nghĩa là bất kỳ ngân hàng châu Âu nào cũng đều có thể hoạt động ở bất cứ quốc gia nào. Trách nhiệm điều tiết, quản lý đã được chuyển về nước xuất xứ. Nhưng nếu một quốc gia không hoàn thành công việc, thì công dân của họ ở các nước khác có thể mất tiền tỷ. Châu Âu không muốn nghĩ đến điều này cũng như những hàm ý sâu xa của nó; vậy thì tốt hơn là để mặc Iceland nhỏ bé gánh chịu khoản tiền này, số tiền tương đương 100% GDP của họ![47] Khi cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn ở Hoa Kỳ và châu Âu, các nước khác trên thế giới cũng phải gánh chịu sự sút giảm trong lượng tổng cầu của thế giới. Các nước đang phát triển đặc biệt phải gánh chịu nhiều nhất, khi kiều hối giảm (chuyển tiền từ các thành viên trong gia đình từ các nước https://thuviensach.vn phát triển) và luồng vốn chảy vào trong nước cũng giảm mạnh, và trong một số trường hợp còn là đảo chiều. Nếu như cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ bắt đầu từ ngành tài chính và sau đó lan ra các phần còn lại của nền kinh tế, thì ở nhiều nước đang phát triển – bao gồm cả những quốc gia có quy định tài chính tốt hơn nhiều so với Hoa Kỳ – những vấn đề trong “nền kinh tế thật” là rất lớn, đến mức cuối cùng chúng đã gây ảnh hưởng đến lĩnh vực tài chính. Cuộc khủng hoảng lan nhanh một phần là do các chính sách, đặc biệt là chính sách tự do hóa thị trường vốn và tài chính, mà IMF và Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã tuồn vào các nước này – dựa trên cùng một ý thức hệ về thị trường tự do đã từng làm nước Mỹ khốn đốn trước kia[48]. Nhưng ngay cả Hoa Kỳ còn nhận thấy rất khó để có đủ hàng ngàn tỷ đô la cho việc giải cứu và kích thích nền kinh tế, thì những hành động tương tự của các quốc gia nghèo hơn đúng là vượt quá năng lực của họ. BỨC TRANH LỚN Đằng sau tất cả các triệu chứng rối loạn chức năng như trên là một sự thật lớn hơn: nền kinh tế thế giới đang trải qua cơn địa chấn. Trước kia, Đại suy thoái đã xảy ra trùng hợp với sự suy giảm trong nền sản xuất nông nghiệp Hoa Kỳ; giá cả trong ngành nông nghiệp đã sụt giảm ngay trước khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm 1929. Sự gia tăng năng suất nông nghiệp thật đáng nể và chỉ cần một tỷ lệ nhỏ dân số cũng có thể sản xuất ra tất cả những thực phẩm đáp ứng tiêu thụ toàn quốc. Việc chuyển đổi từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp sang một nền kinh tế trong đó ngành chế tạo đóng vai trò thống trị là không dễ dàng. Trong thực tế, nền kinh tế chỉ tiếp tục tăng trưởng trở lại khi Chính sách Kinh tế mới (New Deal) được khởi động và Thế Chiến thứ hai thu hút nhân công đến làm việc trong các nhà máy. Xu hướng tiềm ẩn ngày nay tại Hoa Kỳ là thoát ra khỏi sản xuất và bước vào lĩnh vực dịch vụ. Cũng giống như trước, điều này một phần là vì sự thành công trong việc tăng năng suất trong ngành chế tạo, do đó một phần nhỏ trong tổng dân số có thể sản xuất ra tất cả đồ chơi, xe hơi, TV đáp ứng được nhu cầu của một xã hội thậm chí là quá thiên về vật chất và tiêu dùng https://thuviensach.vn hoang phí nhất. Nhưng tại Hoa Kỳ và châu Âu, còn có thêm một chiều hướng bổ sung: toàn cầu hóa, có nghĩa là sự thay đổi trong vị thế sản xuất và lợi thế so sánh với Trung Quốc, Ấn Độ, và các nước đang phát triển khác. Đi kèm với sự điều chỉnh “kinh tế vi mô” này là một tập hợp các vấn đề mất cân bằng trong kinh tế vĩ mô: trong khi Hoa Kỳ nên tiết kiệm cho các quỹ hưu trí của thế hệ baby–boom (những người ra đời trong giai đoạn bùng nổ dân số sau Thế chiến, từ năm 1946 đến 1964 – ND) đang lão hóa, quốc gia này lại sống vượt ra ngoài lượng của cải sở hữu được, được tài trợ trên quy mô rộng lớn bởi Trung Quốc và các nước đang phát triển khác – những quốc gia đã sản xuất được nhiều hơn mức họ tiêu dùng. Việc các quốc gia cho nhau vay tiền là bình thường – một số nước muốn giảm mức thâm hụt thương mại, những nước khác lại muốn giảm mức thặng dư – nhưng mô hình theo đó các nước nghèo cho nước giàu vay tiền là khá kỳ lạ và độ lớn của mức thâm hụt dường như không bền vững. Khi các quốc gia đi vay nhiều hơn, bên cho vay có thể mất dần đi niềm tin rằng con nợ có thể trả được nợ vay và điều này có thể đúng ngay cả đối với một con nợ giàu có như Mỹ. Để giúp nền kinh tế Mỹ và kinh tế toàn cầu hồi phục, cần tái cơ cấu các nền kinh tế này theo kinh tế học kiểu mới và điều chỉnh lại sự mất cân bằng toàn cầu. Chúng ta không thể quay trở lại tình hình mà chúng ta đã có trước khi bong bóng vỡ vào năm 2007. Mà chúng ta cũng không nên quay lại. Có rất nhiều vấn đề với nền kinh tế này – như chúng ta đã thấy. Tất nhiên, cũng có cơ hội để cho một bong bóng mới sẽ thay thế các bong bóng nhà ở, cũng giống như bong bóng nhà ở đã từng thế chỗ cho bong bóng công nghệ. Nhưng những “giải pháp” kiểu này chỉ có thể trì hoãn “ngày đại họa”. Bất kỳ bong bóng mới nào cũng có thể gây nguy hiểm: các bong bóng dầu mỏ đã đẩy nền kinh tế đến bờ vực thẳm. Chúng ta càng chậm trễ trong việc đối phó với những vấn đề cốt lõi thì việc thế giới tăng trưởng mạnh mẽ trở lại sẽ càng lâu xảy ra hơn. Có một phép thử đơn giản để xem liệu Hoa Kỳ đã có những bước tiến đủ dài nhằm bảo đảm sẽ không có một cuộc khủng hoảng nữa hay chưa: nếu https://thuviensach.vn các đề xuất cải cách đã được thực thi, thì có thể tránh được cuộc khủng hoảng hiện nay không? Hay là dù sao thì khủng hoảng cũng xảy ra? Ví dụ: trao nhiều quyền lực hơn cho Cục Dự trữ Liên bang là nội dung cốt lõi trong các đề xuất cải cách công tác điều tiết của chính quyền Obama. Nhưng khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, Cục Dự trữ Liên bang đã có quyền hạn nhiều hơn mức mà nó đã sử dụng. Trong hầu hết các lời lý giải về cuộc khủng hoảng này, họ đã luôn là trung tâm của việc tạo ra các bong bóng hiện nay và trước đó. Có lẽ chủ tịch của FED đã nhận được bài học của riêng mình. Nhưng chúng ta đang sống trong một đất nước của pháp luật, chứ không phải chỉ là của những con người: chúng ta có nên có một chế độ với yêu cầu trước tiên là phải thiêu hủy FED để đảm bảo rằng sẽ không thiết lập nên một tổ chức nào khác nữa? Liệu chúng ta có thể tin vào một hệ thống mong manh chỉ dựa vào triết lý kinh tế và sự hiểu biết của một người – hoặc thậm chí là cả 7 thành viên trong Hội đồng Quản trị của FED? Khi cuốn sách này được phát hành, rõ ràng là các biện pháp cải cách đã không đi đủ xa. Chúng ta không thể chờ thời gian sau cuộc khủng hoảng. Thật vậy, cách thức mà chúng ta đã xử lý cuộc khủng hoảng có thể làm cho việc nhận ra được toàn bộ những vấn đề sâu xa hơn trở nên khó khăn thêm. Chương kế tiếp sẽ phác họa những gì chúng ta lẽ ra nên làm để giải quyết cuộc khủng hoảng – và tại sao những gì chúng ta đã làm là thiếu sót rất nhiều. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 2: RƠI TỰ DO VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ Tháng 10/2008, nền kinh tế Mỹ rơi tự do, đe dọa kéo theo toàn bộ nền kinh tế thế giới đi xuống dốc. Trước đó chúng ta đã từng chứng kiến các thị trường chứng khoán sụp đổ; tín dụng bất ổn, thị trường nhà ở đình trệ, và sự điều chỉnh lượng hàng tồn kho. Nhưng đây là lần đầu tiên kể từ cuộc Đại suy thoái, tất cả những sự kiện này cùng lúc xảy ra. Và cũng chưa bao giờ những đám mây báo bão lại di chuyển qua Đại Tây Dương và Thái Bình Dương nhanh đến vậy, tập trung thêm sức tàn phá khi chúng đi qua. Nhưng trong khi mọi thứ dường như đang rơi rụng từng phần cùng một lúc, người ta nhìn thấy có một nguồn gốc chung: sự cho vay thiếu thận trọng của lĩnh vực tài chính, vốn đã nuôi dưỡng bong bóng nhà ở để cuối cùng đã nổ tung. Sự kiện thực tế được phơi bày là: những hậu quả này có thể được dự đoán và đã được dự đoán từ trước. Các bong bóng này và hậu quả của chúng cũng chẳng có gì mới lạ, như chính chủ nghĩa tư bản và giới ngân hàng. Đơn giản chỉ là Hoa Kỳ đã xóa bỏ được các bong bóng này trong nhiều thập kỷ từ sau cuộc Đại suy thoái, với các quy định do chính phủ ban hành sau khi bị “chấn thương”. Một khi quy định bị bãi bỏ, việc tái diễn các nỗi kinh hoàng của quá khứ sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. Cái gọi là “cải cách tài chính” chỉ làm cho các bong bóng phình to hơn trước khi nó nổ tung, và làm cho việc thu dọn sau vụ nổ trở nên khó khăn hơn[49]. Yêu cầu cần phải có các biện pháp quyết liệt đã trở nên rõ ràng từ hồi tháng 8/2007. Thời điểm này, sự khác biệt giữa các mức lãi suất cho vay liên ngân hàng (lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay) và lãi suất từ trái phiếu chính phủ ngắn hạn T–bills (mức lãi suất mà chính phủ đi vay tiền trong ngắn hạn) là rất lớn. Trong một nền kinh tế “bình thường", các mức lãi suất này chỉ khác nhau chút ít. Khi có khác biệt lớn, nghĩa là các ngân hàng đã không tin tưởng lẫn nhau. Các thị trường tín dụng có nguy cơ bị đóng băng – và vì một lý do chính đáng. Ai cũng biết những rủi ro lớn họ phải đối mặt trên bảng cân đối tài chính, khi các khoản thế chấp mà họ nắm https://thuviensach.vn giữ đang trở nên bất lợi và còn thêm các khoản mất mát khác. Họ biết tình hình đang bấp bênh đến mức nào – và họ chỉ có thể dự đoán về sự bấp bênh của các ngân hàng khác. Bong bóng vỡ tan và thắt chặt tín dụng là những hậu quả không thể tránh khỏi. Chưa thể cảm nhận được ngay sau một đêm mà sẽ phải mất hàng tháng, nhưng chẳng có lối tư duy ảo tưởng nào có thể ngăn chặn quá trình này lại. Nền kinh tế đi xuống. Và khi kinh tế xuống dốc sẽ kéo theo số lượng các vụ tịch biên tài sản thế chấp ngày càng tăng thêm. Những vấn đề liên quan đến bất động sản đầu tiên chỉ lộ diện trên thị trường tín dụng dưới chuẩn, nhưng sau đó nhanh chóng xuất hiện trong các lĩnh vực khác. Nếu người Mỹ không thể thanh toán việc mua nhà, thì họ cũng sẽ gặp khó khăn khi phải thanh toán các thẻ tín dụng. Khi giá bất động sản giảm sút, việc nảy sinh các rắc rối trong trong lĩnh vực bất động sản dân cư và thương mại chỉ còn là vấn đề thời gian. Khi lượng chi cho tiêu dùng cạn kiệt, chắc chắn rằng nhiều doanh nghiệp sẽ phá sản – đồng nghĩa với việc tỷ lệ vỡ nợ từ các khoản vay thương mại cũng sẽ tăng thêm. Tổng thống Bush đã khẳng định rằng chỉ có những gợn sóng nhỏ trên thị trường nhà ở và một vài chủ sở hữu nhà chịu tổn thương. Khi thị trường nhà đã giảm đến mức thấp nhất trong 14 năm qua, ông đã trấn an cả nước vào ngày 17/10/2007 rằng: “Tôi cảm thấy ổn trong nhiều chỉ số kinh tế tại Hoa Kỳ”. Ngày 13/11, ông khẳng định lại: “Nền tảng của kinh tế nước ta rất mạnh, và chúng ta có một nền kinh tế với sức bật tốt”. Nhưng những căn bệnh trong lĩnh vực ngân hàng và bất động sản vẫn tiếp tục diễn biến xấu đi. Khi nền kinh tế đi vào suy thoái trong tháng 12/2007, ông bắt đầu phải thừa nhận rằng có thể có vấn đề: “Rõ ràng là đang xuất hiện những đám mây của cơn bão và sự quan ngại, nhưng căn bản vẫn là tốt”[50]. Khi ngày càng có nhiều lời kêu gọi hành động từ các nhà kinh tế học và từ lĩnh vực kinh doanh, Tổng thống Bush đã quay sang dùng liệu pháp quen thuộc mà ông dành cho mọi căn bệnh của nền kinh tế và đã thông qua việc cắt giảm 168 tỷ đô la tiền thuế trong tháng 2/2008. Hầu hết các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes đều dự đoán rằng liều thuốc này sẽ không https://thuviensach.vn hiệu quả. Người Mỹ đã phải gồng gánh nợ nần và chịu đựng những nỗi lo lớn, vậy tại sao họ sẽ chi tiêu, chứ không phải là tiết kiệm, từ khoản cắt giảm thuế nho nhỏ này? Trên thực tế, họ đã để dành lại hơn một nửa, do đó chỉ kích thích được chút ít cho một nền kinh tế đang trì trệ[51]. Nhưng mặc dù ủng hộ việc cắt giảm thuế, Tổng thống vẫn không chịu tin rằng nền kinh tế đang phải đối đầu với suy thoái. Thật vậy, ngay cả khi đất nước đã rơi vào suy thoái được vài tháng, ông vẫn không chịu thừa nhận khi tuyên bố vào ngày 28/2/2008 rằng: “Tôi không nghĩ rằng chúng ta đang đương đầu với suy thoái”. Ngay sau đó, khi các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tài chính mai mối cho một “đám cưới chạy” giữa gã khổng lồ trong ngành đầu tư là Bear Stearns với JP Morgan Chase với giá chỉ là 2 đô la một cổ phiếu (sau đó sửa thành 10 đô la), thì rõ ràng là vụ nổ bong bóng đã gây ra thiệt hại nhiều hơn chứ không chỉ là một gợn sóng nhỏ cho nền kinh tế[52]. Khi Lehman Brothers phải đối mặt với nguy cơ phá sản trong tháng 9, cũng chính những quan chức này đột ngột đổi hướng và cho phép ngân hàng sụp đổ, khởi động một dòng thác giải cứu trị giá hàng tỷ đô la. Sau đó, việc suy thoái kinh tế không thể bị phớt lờ được nữa. Nhưng sự sụp đổ của Lehman Brothers là hệ quả, chứ không phải nguyên nhân, của nền kinh tế đang tan rã, giúp tăng tốc quá trình đã được xác lập. Bất chấp thất nghiệp tăng cao (trong 9 tháng đầu năm 2008, có khoảng 1,8 triệu người mất việc làm, cùng với 6,1 triệu người Mỹ phải làm việc bán thời gian, vì họ không thể có được một công việc toàn thời gian) và chỉ số Dow Jones trung bình giảm 24% từ tháng 1/2008, Tổng thống Bush và các cố vấn của ông vẫn khăng khăng cho rằng điều này không tệ như vẻ bề ngoài của chúng. Tổng thống Bush đã nói trong bài diễn văn ngày 10/10/2008 rằng: “Chúng ta đã biết những vấn đề ở đây là gì, chúng ta có những công cụ cần thiết để xử lý chúng, và chúng ta đang nhanh chóng làm điều đó”. Tuy nhiên, trên thực tế thì chính quyền Bush đã chuyển sang một tập hợp hữu hạn các công cụ – và thậm chí sau đó không thể chọn lựa được cách https://thuviensach.vn thức nào để làm cho các công cụ đó phát huy hiệu quả. Chính phủ đã từ chối không giúp các chủ sở hữu nhà, không hỗ trợ những người thất nghiệp và không kích thích nền kinh tế thông qua các biện pháp phổ thông thường thấy (tăng chi tiêu hoặc thậm chí là “các công cụ lựa chọn” của nó, hay cắt giảm thuế nhiều hơn nữa). Chính phủ lại tập trung vào việc ném tiền cho các ngân hàng nhưng đã lúng túng vì phải chật vật nhằm tìm ra một phương cách hiệu quả, một phương thức sẽ nhanh chóng khởi động lại tiến trình cho vay. Sau sự sụp đổ của Lehman Brothers, vụ quốc hữu hóa Fannie Mae và Freddie Mac và đợt giải cứu AIG, ông Bush vội vã đi cứu các ngân hàng với khoản tiền khổng lồ 700 tỷ đô la, với một chương trình có tên hoa mỹ là “Chương trình xử lý các tài sản có vấn đề” (TARP: Troubled Asset Relief Program). Chính sách của Tổng thống Bush vào mùa thu 2008 nhằm giúp các ngân hàng nhưng lại bỏ qua hàng triệu ngôi nhà bị tịch biên cũng gần giống như việc truyền thêm nhiều máu cho một bệnh nhân đã tử vong vì xuất huyết nội. Lẽ ra cần phải làm rõ một điều là: nếu không tác động gì đến các nền tảng căn bản của nền kinh tế và can thiệp vào dòng lũ của các khoản thế chấp bị tịch biên, thì việc đổ tiền vào các ngân hàng cũng chẳng thể giải cứu chúng được. Ở mức tối đa thì việc bơm tiền mặt chỉ là một thứ thuốc giảm đau tạm thời. Các đợt giải cứu nối đuôi nhau, thậm chí một ngân hàng được giải cứu nhiều lần[53](chẳng hạn như Citibank, ngân hàng lớn nhất của Mỹ tại thời điểm đó). TRANH LUẬN VỀ SỰ PHỤC HỒI VÀ CHIẾN DỊCH VẬN ĐỘNG TRANH CỬ TỔNG THỐNG Khi cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11/2008 đang đến gần, hầu như tất cả mọi người (tất nhiên là trừ Tổng thống Bush) đều thấy rõ ràng là cần phải làm nhiều việc hơn nữa để đưa được nền kinh tế ra khỏi suy thoái. Chính phủ vẫn hy vọng rằng, sau khi giải cứu các ngân hàng, các mức lãi suất thấp sẽ đủ đáp ứng yêu cầu công việc trên. Các chính sách tiền tệ sai lầm có thể đã đóng vai trò trung tâm trong việc đưa đến Đại suy thoái, nhưng chúng sẽ không đưa đất nước ra khỏi suy thoái đó. John Maynard https://thuviensach.vn Keynes đã từng lý giải về sự bất lực của chính sách tiền tệ trong thời kỳ suy thoái bằng cách so sánh nó với việc dùng sợi dây để đẩy đồ vật. Khi việc kinh doanh đang sụt giảm, việc giảm lãi suất từ 2% xuống còn 1% sẽ không khiến cho các công ty xây dựng thêm nhà xưởng mới hoặc mua máy móc thiết bị mới. Tình trạng dư thừa năng lực sản xuất thường gia tăng đáng kể trên đà suy thoái. Với những bất trắc như trên, thì thậm chí là mức lãi suất 0% cũng có thể không làm nền kinh tế hồi phục được. Hơn nữa, ngân hàng trung ương có thể hạ thấp mức lãi suất dành cho chính phủ, nhưng nó không thể quyết định được lãi suất cho các công ty hoặc thậm chí là việc các ngân hàng khác có sẵn sàng cho vay hay không. Điều có thể hy vọng nhất từ chính sách tiền tệ là nó sẽ không làm cho tình hình tồi tệ thêm – như FED và Bộ Tài chính đã sai lầm trong việc quản lý sự sụp đổ của Lehman Brothers. Cả hai ứng cử viên tổng thống, Barack Obama và John McCain, đều đồng ý rằng cần có một chiến lược căn bản có dạng mũi đinh ba: chặn đứng dòng lũ của các khoản thế chấp xấu, kích thích nền kinh tế và giải cứu ngành ngân hàng. Nhưng họ bất đồng về những gì nên được thực hiện trong mỗi lĩnh vực. Rất nhiều trận chiến về kinh tế, ý thức hệ và sự phân phối từng diễn ra trong một phần tư thế kỷ trước đã được tái hiện. Kích thích kinh tế theo đề xuất của McCain là tập trung vào việc cắt giảm thuế từ đó sẽ khuyến khích tiêu dùng. Kế hoạch của Obama lại kêu gọi tăng chi tiêu chính phủ và đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, bao gồm cả “đầu tư xanh” nhằm giúp ích cho môi trường[54]. McCain đã có một chiến lược để giải quyết vấn đề tịch biên tài sản thế chấp – chính phủ sẽ nhận lãnh các khoản thua lỗ của ngân hàng từ các khoản tín dụng xấu. Trong lĩnh vực này, McCain là người tiêu xài mạnh tay; còn chương trình của Obama khiêm tốn hơn nhưng tập trung vào việc hỗ trợ các chủ sở hữu nhà ở. Không có ứng cử viên nào có tầm nhìn rõ ràng về những gì cần làm với các ngân hàng, và cả hai đều sợ “chọc ngoáy” vào các thị trường, thậm chí còn nói bóng gió về những lời chỉ trích các nỗ lực giải cứu của Tổng thống Bush trước kia. https://thuviensach.vn Thật kỳ lạ, McCain đôi khi đứng trên lập trường dân túy nhiều hơn cả Obama và dường như ông này sẵn sàng hơn trong việc chỉ trích nhiều hành vi thái quá của phố Wall. McCain có thể “ra đi êm ái”: đảng Cộng hòa được hiểu là đảng của các doanh nghiệp lớn, và McCain có tiếng là một kẻ phá hỏng niềm tin này. Obama, giống như Bill Clinton trước kia, nỗ lực để tạo khoảng cách với tai tiếng chống lại doanh nghiệp của đảng Dân chủ già cỗi, mặc dù lúc đầu ông cũng đã phát biểu hùng hồn tại trường Cooper Union giải thích lý do tại sao cần phải có các quy định tốt hơn[55]. Không ứng viên nào muốn gặp rủi ro khi đi vào những nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng. Phê bình sự tham lam của phố Wall là có thể chấp nhận được, nhưng thảo luận những vấn đề trong quản trị doanh nghiệp làm phát sinh các cấu trúc khuyến khích các sai lầm và từ đó cho phép những hành vi xấu có lẽ là việc quá nặng tính kỹ thuật. Nói về những nỗi khốn khổ của dân thường Hoa Kỳ thì chấp nhận được, nhưng gắn kết điều này đến sự giảm sút của tổng cầu sẽ là rủi ro, không theo đúng châm ngôn của một chiến dịch vận động tranh cử thường thấy là “giữ vấn đề ở mức đơn giản”. Obama sẽ thúc đẩy để tăng cường quyền thành lập nghiệp đoàn, nhưng chỉ như một quyền cơ bản, không phải là một phần trong chiến lược khả dĩ liên kết được với sự khôi phục kinh tế hay thậm chí là với mục tiêu khiêm tốn hơn của quá trình giảm bớt sự bất bình đẳng. Khi tổng thống mới nhậm chức, đã có một tập hợp các dấu hiệu của việc cứu trợ. Ít nhất thì người ta nghĩ cũng phải cần làm một cái gì đó. Trong các chương tiếp theo, tôi sẽ tìm hiểu kỹ những gì mà chính quyền Obama phải đối mặt khi đã nắm được quyền lực, họ đối phó với cuộc khủng hoảng như thế nào, và những gì lẽ ra nên làm để nền kinh tế đi lên cũng như ngăn chặn một cuộc khủng hoảng khác xảy ra. Tôi sẽ thử lý giải tại sao những nhà hoạch định chính sách đã chọn một số phương pháp tiếp cận nhất định – luôn cả những gì họ đã nghĩ hoặc hy vọng có thể diễn ra. Cuối cùng, đội ngũ của ông Obama đã chọn một chiến lược bảo thủ, một chiến lược mà tôi mô tả là “loay hoay tháo gỡ”. Có lẽ, theo cách phản trực giác, đây là một chiến lược rất nguy hiểm. Một số rủi ro vốn có trong kế hoạch của Tổng https://thuviensach.vn thống Obama có thể được nhìn thấy rõ ràng ngay khi cuốn sách này được xuất bản; những rủi ro khác sẽ chỉ lộ diện sau nhiều năm. Nhưng câu hỏi vẫn là: tại sao Obama và các cố vấn của ông ta vẫn chọn sự loay hoay này? NỀN KINH TẾ TIẾN HÓA Phác thảo ra những gì cần làm trong một nền kinh tế đang rơi tự do không phải là điều dễ dàng. Việc nhận thấy mọi suy thoái đều đến hồi kết thúc cũng chỉ xoa dịu được chút ít. Vụ nổ bong bóng nhà ở hồi giữa năm 2007 – như tôi và những người khác đã dự đoán – đã nhanh chóng dẫn đến suy thoái ngay sau đó. Trong khi những điều kiện tín dụng đã rất xấu thậm chí trước khi có vụ phá sản của Lehman Brothers, chúng còn trở nên tồi tệ hơn sau đó. Đối mặt với chi phí tín dụng cao – nếu muốn được cấp tín dụng – và thị trường sụt giảm, các công ty nhanh chóng phản ứng lại bằng cách cắt giảm mức tồn kho. Lượng đơn đặt hàng giảm xuống đột ngột – từ mất cân đối đến sự suy giảm GDP – và những quốc gia nào bị phụ thuộc vào hàng đầu tư (máy móc thiết bị phục vụ sản xuất) và hàng tiêu dùng lâu bền, chi tiêu có thể bị chậm lại, sẽ chịu ảnh hưởng nặng nhất. Từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009, xuất khẩu của Nhật Bản giảm 35,7%, của Đức giảm 22,3%)[56]. Viễn cảnh tốt nhất là các “chồi xanh” xuất hiện vào mùa xuân 2009 cho thấy sự phục hồi tại một số lĩnh vực khó khăn nhất hồi cuối năm 2008 và đầu năm 2009, bao gồm cả việc tái lập hàng tồn kho từng bị suy giảm quá mức. Nếu xem kỹ những vấn đề cốt lõi cần tiếp quản sau ngày nhậm chức thì Obama có thể sẽ rất bi quan: hàng triệu ngôi nhà đã bị tịch biên, và tại nhiều vùng miền của đất nước, giá bất động sản vẫn đang giảm. Điều này có nghĩa rằng sẽ có thêm hàng triệu khoản thế chấp bằng nhà ở đang “chìm dần” – lại có thêm các ứng cử viên tiềm năng cho việc tịch biên tài sản. Tỷ lệ thất nghiệp tăng, với hàng trăm ngàn người đạt điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo hạn mức đã mở rộng gần đây. Các tiểu bang buộc phải cho người lao động tạm thôi việc khi các khoản thu từ thuế giảm mạnh[57]. Chi tiêu của chính phủ theo dự luật kích thích kinh tế là một trong những thành https://thuviensach.vn tựu đầu tiên của Obama, nhưng cũng chỉ đủ để ngăn cản tình hình trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Các ngân hàng được phép đi vay giá rẻ từ FED, từ các khoản ký quỹ tồi tàn, và đang trong tình thế nguy hiểm. Một số ngân hàng báo cáo có lợi nhuận trong nửa đầu năm 2009, chủ yếu là dựa vào các khoản lợi nhuận kế toán và thương mại (được hiểu là: đầu cơ). Nhưng loại đầu cơ này sẽ không giúp cho nền kinh tế nhanh chóng khôi phục. Và nếu các “kèo cá độ” này không được “chung” thì phí tổn của người đóng thuế Hoa Kỳ còn lớn hơn. Bằng cách tận dụng những khoản tiền có chi phí thấp này và đem đi cho vay lại với lãi suất cao hơn nhiều – cạnh tranh giảm trong ngành ngân hàng nghĩa là họ có nhiều quyền lực hơn để nâng cao mức lãi suất cho vay – các ngân hàng sẽ dần dần được tái cơ cấu vốn, nếu trước kia họ chưa bị chìm ngập trong các khoản lỗ từ tài sản thế chấp, mua bán bất động sản, cho vay kinh doanh và thẻ tín dụng. Nếu không có bất trắc gì xảy ra, các ngân hàng có thể đi lên mà không tạo ra một cuộc khủng hoảng khác. (Vì vậy người ta hy vọng) trong một vài năm, tình hình các ngân hàng sẽ tốt hơn và nền kinh tế sẽ trở lại bình thường. Tất nhiên, mức lãi suất cao mà các ngân hàng áp dụng khi họ cố gắng tái cơ cấu vốn sẽ làm giảm sự hồi phục, nhưng đây là một phần trong cái giá phải trả để tránh các cuộc tranh luận chính trị khó chịu. Các ngân hàng (bao gồm nhiều ngân hàng nhỏ, là chỗ dựa cho rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ) phải đối mặt với áp lực căng thẳng trong hầu hết các loại hình cho vay – bất động sản thương mại và dân cư, thẻ tín dụng, tiêu dùng và các khoản vay thương mại. Mùa xuân 2009, chính phủ kiểm tra các ngân hàng qua một bài thi về áp lực (thực ra, không phải là quá căng thẳng) để xem họ sẽ chịu đựng như thế nào khi tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và giá cả bất động sản giảm sút[58]. Nhưng ngay cả khi các ngân hàng khỏe mạnh, thì tiến trình hạ thấp đòn bẩy tài chính – giảm lượng nợ đã tràn lan trong nền kinh tế – làm cho nền kinh tế có thể sẽ suy yếu trong khoảng thời gian dài. Các ngân hàng đã dùng số tiền vốn nhỏ nhoi của họ (“vốn cơ bản” hoặc “giá trị ròng") để đi vay các khoản rất lớn, nhằm có một tài sản lớn, https://thuviensach.vn đôi khi gấp 30 lần so với vốn chủ sở hữu. Tương tự, các chủ sở hữu nhà cũng đã đi vay rất nhiều so với giá trị tài sản ít ỏi từ căn nhà của họ. Rõ ràng là có quá nhiều nợ đè lên lượng vốn chủ sở hữu quá ít, và tỷ lệ nợ phải được giảm xuống. Việc này cũng là khó khăn. Tuy nhiên, khi giảm tỷ lệ nợ, mức giá của tài sản, vốn đã được duy trì bằng cách vay mượn, có thể sẽ giảm sụt. Sự tổn thất về mức độ thịnh vượng sẽ gây ra căng thẳng trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế; sẽ có phá sản, mà ngay khi các công ty hoặc cá nhân không phá sản thì họ cũng sẽ cắt giảm chi tiêu. Tất nhiên, người Mỹ vẫn có thể tiếp tục sống như họ đã từng sống trước kia, với tỷ lệ tiết kiệm là zero, nhưng đặt cược vào “cửa” này là bất cẩn, và dữ liệu về tỷ lệ tiết kiệm tăng lên đến 5% thu nhập của các hộ gia đình đã cho thấy tình hình đổi khác.[59] Một nền kinh tế yếu kém có nghĩa là rất nhiều khả năng xuất hiện nhiều ngân hàng thua lỗ. Một số người hy vọng xuất khẩu có thể cứu vớt nền kinh tế Hoa Kỳ – xuất khẩu đã giúp giảm bớt suy thoái trong năm 2008. Nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa, một vấn đề trong một phần của hệ thống sẽ nhanh chóng lan sang nơi khác. Cuộc khủng hoảng năm 2008 là sự suy thoái đồng bộ trên toàn cầu. Điều đó có nghĩa rằng Hoa Kỳ không thể dùng xuất khẩu làm cách thức thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng – như Đông Á đã làm cách đây một thập kỷ. Khi Hoa Kỳ tham gia vào Chiến tranh vùng Vịnh lần đầu tiên vào năm 1990, Tướng Colin Powell nêu lên học thuyết Powell, trong đó có yếu tố tấn công với lực lượng quyết đoán. Nên có thứ tương tự trong kinh tế, có lẽ là học thuyết Krugman – Stiglitz. Khi nền kinh tế suy yếu, rất yếu như nền kinh tế thế giới vào đầu năm 2009, cần một cuộc tấn công với lực lượng áp đảo. Chính phủ luôn luôn có thể giữ lại "đạn dược” dự phòng nếu họ có và sẵn sàng sử dụng, nhưng không có đạn dược để sẵn sàng chiến đấu ngay thì hậu quả có thể kéo dài. Tấn công các vấn đề với lượng đạn dược không đầy đủ là một chiến lược nguy hiểm, đặc biệt là khi ngày càng thấy rõ rằng chính quyền ông Obama đã đánh giá thấp sức mạnh của suy thoái, bao gồm tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tệ hơn nữa, khi chính quyền tiếp tục hỗ trợ https://thuviensach.vn dường như vô hạn cho các ngân hàng, có vẻ như không thể nhìn thấy một tương lai nào cho nền kinh tế Mỹ và lĩnh vực tài chính đang ốm yếu của đất nước. TẦM NHÌN Chính sách Kinh tế Mới (New Deal) của Tổng thống Franklin Roosevelt đã hình thành nên đời sống kinh tế tại Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ, cho đến khi chúng ta quên mất những bài học của Đại suy thoái. Trong năm 2008, với một hệ thống tài chính tả tơi và nền kinh tế Hoa Kỳ đang oằn mình trải qua biến đổi, chúng ta cần tầm nhìn cho một loại hình của thị trường tài chính và nền kinh tế cần có để vươn ra khỏi khủng hoảng. Hành động của chúng ta có thể hoặc sẽ ảnh hưởng đến hình thái của nền kinh tế trong nhiều thập kỷ tới. Chúng ta cần một tầm nhìn mới, không chỉ vì mô hình cũ đã thất bại mà còn bởi vì chúng ta đã học được bài học đau đớn khi các giả định nền móng trong mô hình cũ là sai lầm. Thế giới đã thay đổi, mà chúng ta thì không theo kịp. Một trong những thế mạnh rất lớn của Obama là đem lại cảm giác hy vọng, một cảm giác về tương lai và khả năng thay đổi. Chưa hết, xét theo ý nghĩa cơ bản hơn, một Obama “không kịch sỹ” (no drama) cũng là người bảo thủ: ông không đưa ra tầm nhìn nào khác cho chủ nghĩa tư bản. Ngoài bài diễn văn nổi tiếng tại trường Cooper Union đã đề cập trước đây và góp thêm tiếng nói vào điệp khúc chỉ trích các khoản tiền giải cứu, Obama ít nói về hệ thống tài chính mới có thể đi lên từ đống tro tàn của cuộc khủng hoảng hoặc làm thế nào để hệ thống có thể hoạt động. Ông đã đưa ra được một kế hoạch rộng hơn, thực tế hơn cho tương lai – các chương trình đầy tham vọng để điều chỉnh lĩnh vực chăm sóc y tế, giáo dục và năng lượng của Hoa Kỳ – và một nỗ lực giống như Reagan cố gắng để thay đổi tâm trạng của đất nước từ tuyệt vọng sang hy vọng, khi sự thất vọng là hệ quả đương nhiên của các dòng tin tức xấu về kinh tế tuôn chảy dường như vô tận. Obama cũng có một tầm nhìn khác, về một đất nước ít bị phân chia hơn so với thời của George W. Bush và ít phân cực theo ý thức hệ. Có thể là vị tân tổng thống tránh bất kỳ cuộc thảo luận nào đi sâu vào https://thuviensach.vn những sai lầm trong nền kinh tế Mỹ – cụ thể là những sai lầm mà các thành viên trong ngành tài chính đã phạm phải – vì ông lo ngại làm như vậy sẽ gây xung đột trong thời điểm chúng ta cần sự đồng thuận. Liệu một cuộc thảo luận toàn diện sẽ gắn kết được xã hội hay làm trầm trọng thêm các xung đột trong đó? Theo lập luận của một số quan sát viên, nếu nền kinh tế và xã hội chỉ chịu các thương tổn nhỏ, tốt nhất là cứ để các vết thương tự lành. Tuy nhiên, rủi ro ở đây là đối với những vấn đề giống như các ung nhọt đang mưng mủ, thì loại vết thương này chỉ có thể được chữa lành bằng cách đưa ra khử trùng dưới ánh sáng mặt trời. Khi những rủi ro trong việc xây dựng một tầm nhìn đã rõ ràng, thì rủi ro khi không có tầm nhìn cũng là điều dễ nhận thấy. Nếu không có một tầm nhìn, toàn bộ quá trình “cải cách” có thể bị khống chế bởi những người trong lĩnh vực tài chính, đưa đất nước vào một hệ thống tài chính còn mong manh hơn hệ thống từng thất bại trước kia, ít có khả năng quản lý rủi ro và chuyển giao các khoản tiền một cách hiệu quả đến nơi mà chúng nên đến. Chúng ta cần có thêm tiền cung cấp cho ngành công nghệ cao của Hoa Kỳ, tạo ra các doanh nghiệp mới và mở rộng các đơn vị cũ. Chúng ta đã có quá nhiều kênh bơm tiền vào bất động sản, quá nhiều tiền và vượt quá khả năng chi trả nợ của người dân. Ngành tài chính đã được yêu cầu phải đảm bảo rằng các khoản tiền đi đến những nơi nào tạo ra hiệu quả cao nhất cho xã hội. Rõ ràng nó đã thất bại. Ngành tài chính lại có tầm nhìn riêng của họ, trọng tâm là lợi nhuận càng nhiều càng tốt, và cho đến khi còn có thể, quay trở lại tình hình thế giới như hồi trước năm 2007. Các công ty tài chính đã coi việc kinh doanh của mình là một cứu cánh, họ tự hào về quy mô và khả năng sinh lợi của mình. Tuy nhiên, một hệ thống tài chính phải là một phương tiện để đạt mục đích, chứ bản thân nó không phải là mục đích. Mức lợi nhuận vượt trội của ngành tài chính có thể phát sinh từ phí tổn của sự thịnh vượng và tính hiệu quả của phần còn lại trong nền kinh tế. Ngành tài chính phình to quá khổ phải được cắt giảm – ngay trong khi một số bộ phận của nó, như những doanh nghiệp cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể được tăng cường. https://thuviensach.vn Chính quyền Obama đã không nhìn thấy rõ (hoặc ít nhất là đã không phân tích rõ) lý do tại sao hệ thống tài chính Mỹ thất bại. Khi không có tầm nhìn về tương lai và sự hiểu biết về thất bại trong quá khứ, các phản ứng của chính phủ đều loạng choạng. Lúc đầu, chính phủ này đưa ra các điều chỉnh tốt hơn bình thường chút ít và giới ngân hàng nhiều trách nhiệm hơn. Thay vì tái thiết kế hệ thống, chính phủ lại dành nhiều tiền vào việc tăng cường cho hệ thống đang thất bại sẵn có. Các định chế “quá lớn đến nỗi không thể sụp đổ” liên tục tìm đến các tổ chức chính phủ để được giải cứu, nhưng tiền công quỹ chảy vào các ngân hàng lớn nằm tại trung tâm của sự sụp đổ thực sự chỉ củng cố cho các phần liên tục gặp rắc rối của hệ thống. Đồng thời, chính phủ đã không chi tiêu nhiều tương ứng để tăng cường cho các bộ phận khác của lĩnh vực tài chính: những nơi cung cấp vốn cho các phần năng động trong nền kinh tế, các liên doanh mới và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. SÒNG BẠC LỚN: TIỀN VÀ SỰ CÔNG BẰNG Một số người có thể cho rằng các phương pháp tiếp cận của chính quyền Obama là thực dụng, là sự thỏa hiệp mang tính thực tế với các lực lượng chính trị hiện có, thậm chí là một phương pháp hợp lý để chỉnh sửa nền kinh tế. Obama phải đối mặt với một tình thế “tiến thoái lưỡng nan” trong những ngày sau cuộc bầu cử. Ông muốn bình ổn các cơn bão tại phố Wall, nhưng ông cần chỉ ra những thiếu sót cơ bản của nó và các vấn đề của nước Mỹ. Ông bắt đầu bản nhạc với một nốt cao: hầu như tất cả mọi người đều muốn ông thành công. Nhưng ông nên biết rằng ông không thể chiều lòng tất cả mọi người, trong một cuộc chiến tranh kinh tế lớn giữa phố Main và phố Wall (khu vực đầu tư của công chúng (Main Street) và mảng đầu tư môi giới tài chính chuyên nghiệp (Wall Street) – ND). Tổng thống bị kẹt giữa dòng. Trong thời gian Clinton cầm quyền, những căng thẳng này được kiềm chế để không bùng phát ra ngoài. Clinton đã bổ nhiệm nhiều cố vấn kinh tế, với Robert Reich, người bạn cũ của ông từ những ngày học tại Oxford https://thuviensach.vn thuộc cánh tả (làm Bộ trưởng Lao động); Robert Rubin và Larry Summers thuộc cánh hữu; Alan Blinder, Laura Tyson và tôi trong Hội đồng cố vấn kinh tế, phe trung lập. Đây thực sự là một nội các phản ánh sự cạnh tranh giữa các luồng tư tưởng, và những cuộc tranh luận thường rất gay gắt mặc dù hầu như đều diễn ra trong không khí văn minh lịch sự. Chúng tôi đã chiến đấu cho các trình tự ưu tiên – quyết định nên tập trung vào việc giảm mức thâm hụt hay chú trọng vào đầu tư và cung cấp các nhu cầu cơ bản (cải cách phúc lợi, cải cách chăm sóc sức khỏe và mở rộng phạm vi của chúng). Trong khi tôi luôn tin rằng xét theo cảm tính thì Clinton nghiêng về cánh tả và nhóm trung lập, nhưng thực trạng chính trị và tiền bạc đã dẫn đến kết quả ngược lại: cánh hữu giành thắng lợi trong nhiều vấn đề, đặc biệt là sau cuộc bầu cử quốc hội 1994, theo đó đảng Cộng hòa nắm quyền tại Quốc hội. Một trong những vấn đề làm đau đầu nhiều người là sự công kích vào mức phúc lợi dành cho doanh nghiệp, các khoản chi khổng lồ cho các công ty Hoa Kỳ dưới hình thức trợ cấp và ưu đãi về thuế. Rubin không thích thuật ngữ phúc lợi dành cho doanh nghiệp, ông nghĩ rằng cụm từ này mang hơi hướng đấu tranh giai cấp. Tôi đứng về phía Reich: đây không là vấn đề đấu tranh giai cấp, mà là một vấn đề kinh tế. Các nguồn lực đang khan hiếm và vai trò của chính phủ là làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn, giúp đỡ những người nghèo và những người không thể tự xoay sở cho mình. Các khoản chi cho doanh nghiệp khiến nền kinh tế kém hiệu quả hơn. Việc tái phân phối đã đi sai đường lối, và đặc biệt là trong thời kỳ khó khăn tài chính thì tiền lẽ ra phải đến với những người nghèo của nước Mỹ hoặc để đầu tư với hiệu quả cao cho cơ sở hạ tầng và công nghệ, chứ không chạy vào các công ty tập đoàn vốn đã giàu mạnh. Nhìn trên tổng thể quốc gia, Washington đã chi rất ít theo cách này. Trong buổi xế chiều của chính quyền Bush, phúc lợi dành cho doanh nghiệp đã đạt đến những tầm cao mới – các khoản chi tiêu đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai trong chính quyền trước. Mạng lưới an toàn của doanh nghiệp được mở rộng từ các ngân hàng thương mại đến các ngân hàng đầu tư và sau đó là những công ty bảo hiểm – dành cho các công ty https://thuviensach.vn không những không đóng phí bảo hiểm cho những rủi ro đã được người nộp thuế che chở giúp, mà còn có những bước tiến dài để tránh nộp thuế. Khi Obama nhậm chức, câu hỏi được đặt ra là liệu ông sẽ tiếp tục với thứ chủ nghĩa phúc lợi doanh nghiệp này hay sẽ tìm kiếm một sự cân bằng mới? Nếu ông bơm thêm tiền vào ngân hàng, liệu ông có đòi hỏi ý thức trách nhiệm, và có bảo đảm rằng những người đóng thuế nhận được các giá trị hoàn lại? Phố Wall hẳn cũng sẽ yêu cầu không kém nếu họ phải đến giải cứu một số công ty không may phải đối mặt với mối đe dọa phá sản. Chính quyền Obama đã quyết định, đặc biệt là trong trọng điểm của việc tái cấu trúc ngân hàng, chơi một canh bạc lớn, khi tiếp tục phần lớn các tiến trình mà Tổng thống Bush đã đặt ra, tránh càng xa càng tốt việc chơi theo các quy tắc thông thường của chủ nghĩa tư bản: Khi một công ty không thể trả được nợ vay, nó phá sản (hoặc tài sản chịu sự quản lý của bên tiếp quản), khi đó các cổ đông thường là mất tất cả và các chủ sở hữu trái phiếu/chủ nợ sẽ trở thành các cổ đông mới. Tương tự như vậy, khi một ngân hàng không thể trả được nợ, nó buộc phải “bị quản lý”. Để xoa dịu phố Wall – và có lẽ để tăng nhanh tốc độ phục hồi của nó – ông Obama đã quyết định mạo hiểm với cơn giận dữ của phố Main (khu vực đầu tư của công chúng – ND). Nếu chiến lược này của ông Obama có hiệu quả, thì nghĩa là có thể tránh được những trận chiến khốc liệt về ý thức hệ. Nếu nền kinh tế nhanh chóng phục hồi, phố Main có thể tha thứ cho những trò phóng túng tại phố Wall. Tuy nhiên, có rủi ro cố hữu rất lớn trong tiến trình này – các rủi ro đối với nền kinh tế trong ngắn hạn, các rủi ro đối với vị thế tài chính của đất nước trong trung hạn và các rủi ro về ý thức của chúng ta đối với sự công bằng và gắn kết xã hội trong dài hạn. Chiến lược nào cũng liên quan đến những rủi ro, nhưng không thể nhận thấy rõ ràng là chiến lược này sẽ giảm thiểu được các rủi ro về lâu dài. Chiến lược cũng đầy rủi ro khi có thể làm xa lánh nhiều bên trên thị trường tài chính, vì họ thấy các chính sách đang bị các ngân hàng lớn chi phối. Sân chơi đã nghiêng về phía các định chế lớn, và dường như nó càng nghiêng nhiều hơn về phía các bộ phận đã từng gây ra các vấn đề rắc rối đầu tiên cho hệ thống tài chính. https://thuviensach.vn Đẩy tiền vào các ngân hàng là việc tốn kém và có thể ảnh hưởng đến các chương trình nghị sự mà Obama đã cho chạy khi nhậm chức. Ông không có khát vọng khi trở thành tổng thống sẽ làm công việc của một bác sĩ cấp cứu đối với hệ thống ngân hàng. Bill Clinton đã hy sinh nhiều tham vọng tổng thống của ông khi phải phụng sự trước “bàn thờ” của việc giảm bớt thâm hụt ngân sách. Obama còn chịu nguy cơ thua cuộc ngay trước cái “bàn thờ” tồi tàn nhất của việc tái cơ cấu vốn cho ngành ngân hàng, mang lại sức khỏe cho các ngân hàng để họ có thể tham gia vào các hành vi bất cẩn – thứ đã đưa nền kinh tế vào rắc rối từ lúc đầu. Có nhiều yếu tố trong canh bạc của Obama khi tiếp tục tiến trình giải cứu ngân hàng được chính quyền Bush thiết lập. Nếu suy thoái kinh tế trở nên sâu sắc hơn hay kéo dài hơn ông nghĩ, hoặc nếu các vấn đề của ngân hàng còn nghiêm trọng hơn những gì họ tuyên bố, chi phí để dọn dẹp sẽ còn cao hơn. Obama có thể không đủ tiền để giải quyết vấn đề. Cần nhiều tiền hơn nữa cho vòng quay thứ hai của chương trình kích thích kinh tế. Không may là việc ném tiền phung phí cho các ngân hàng gây khó khăn hơn cho việc nhận được các khoản tiền từ Quốc hội. Và chắc chắn là chi tiêu vào các ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến các ưu tiên khác của ông. Uy tín đạo đức của ông thậm chí có thể bị nghi ngờ, vì rằng các khoản giải cứu hình như là phần thưởng dành cho chính các bên đã đưa nước Mỹ và thế giới đến bờ vực của sự sụp đổ. Sự phẫn nộ của công chúng đối với ngành tài chính, khi họ dùng khoản lợi nhuận khổng lồ: ban đầu thì mua những ảnh hưởng chính trị nhằm giải phóng thị trường tài chính khỏi các quy định, sau đó là các khoản giải cứu lên đến hàng ngàn tỷ đô la, sẽ chỉ có khả năng tăng thêm chứ không nguội lại. Không biết công chúng sẽ phải chịu đựng bao lâu nữa cái thói đạo đức giả của những nhóm biện hộ kỳ cựu cho trách nhiệm tài chính và thị trường tự do, những kẻ tiếp tục phản đối việc hỗ trợ những người nghèo có nhà, dựa trên căn bản là rủi ro về đạo đức – điều chỉ có lợi trong hiện tại và đơn giản là trong tương lai sẽ dẫn đến nhiều vụ giải cứu và làm giảm động cơ thanh toán các khoản vay – trong khi họ thì nhất quyết đòi phải vay được tiền. https://thuviensach.vn Obama sẽ sớm nhận ra rằng người bạn mới của ông trong ngành tài chính là các đồng minh bấp bênh. Họ chấp nhận các khoản viện trợ và giúp đỡ tiền tỷ, nhưng nếu Obama ngụ ý rằng ông cũng cảm thông với xu hướng chung của nước Mỹ khi phê phán các khoản chi khổng lồ của những tay chơi tài chính thì họ sẽ nổi cơn thịnh nộ. Còn nếu ông Obama không đưa ra bất kỳ lời phê phán nào, dường như ông sẽ trở nên xa rời những cảm xúc của người dân Mỹ, vì họ đã miễn cưỡng đưa tiền cho các ngân hàng theo yêu cầu. Qua những hành vi vi phạm của giới quan chức ngân hàng gây nhiều thiệt hại cho đa số người dân Mỹ, không có gì đáng ngạc nhiên với những sự công kích được cường điệu hóa nhằm vào hệ thống tài chính; nhưng trong thực tế, cách thức cường điệu hóa có khác đi. Một dự thảo luật tìm cách hạn chế mức lương thưởng cho các nhân vật điều hành tại các ngân hàng có nhận tiền cứu trợ đã được liên tưởng đến “Luật Nuremberg”[60]. Chủ tịch hội đồng quản trị của tập đoàn Citigroup cho rằng: mọi người cùng chia sẻ trách nhiệm này, nhưng “vấn đề lớn hơn thuộc về văn hóa tìm kiếm ra thủ phạm và công kích hắn ta”[61]. Một người vợ có chồng làm quản lý cấp cao trong doanh nghiệp nằm trong “Chương trình xử lý các tài sản có vấn đề" cho rằng: sự sụp đổ thanh danh của giới quan chức ngân hàng Hoa Kỳ đã “nhanh chóng hơn và tàn khốc hơn bất kỳ cuộc sụp đổ nào, kể từ khi Mao Trạch Đông ném giới trí thức về nông thôn Trung Quốc”[62]. Không còn nghi ngờ nữa: thủ phạm cũng cảm thấy mình là nạn nhân. Nếu Obama bị chỉ trích thẳng thắn vì đã nêu lên vấn đề lương thưởng của quan chức ngân hàng, không ngạc nhiên gì khi ông đã chỉ đạo để làm rõ một tầm nhìn sáng sủa cho loại hình của ngành tài chính sẽ trỗi dậy sau khủng hoảng. Các ngân hàng đã phát triển, không những chỉ là “quá lớn đến mức không thể sụp đổ” mà còn quá mạnh mẽ về chính trị đến nỗi không thể kiềm chế được. Nếu một số ngân hàng là quá lớn đến nỗi không được phép sụp đổ, vậy thì tại sao chúng ta lại để cho chúng quá lớn? Người Mỹ lẽ ra nên có một hệ thống Chuyển tiền Điện tử của thế kỷ 21, với chi phí giao dịch thấp mà công nghệ hiện đại cho phép, và không có lý do gì để https://thuviensach.vn thất bại khi các ngân hàng Mỹ cung cấp hệ thống này. Nước Mỹ lẽ ra nên có một hệ thống kiểm soát thế chấp, ít nhất cũng như của Đan Mạch hay bất cứ nước nào khác, nhưng họ đã không có. Tại sao các định chế tài chính, từng được người đóng thuế Hoa Kỳ cứu vớt, lại được phép tiếp tục bóc lột người dân thường Hoa Kỳ qua những thực hành gian lận trong thẻ tín dụng và các khoản vay nặng lãi? Ngay cả việc đặt ra những câu hỏi này cũng bị các ngân hàng lớn cho là thù địch. Như tôi đã từng đề cập trước đây, phản ứng của một số thành viên nội các thời chính quyền Clinton đối với một số người trong chúng tôi (ví dụ như bản thân tôi và Robert Reich) là: chúng tôi đang bắt đầu một cuộc chiến tranh giai cấp khi coi hàng tỷ đô la trợ cấp cho các công ty giàu có của Mỹ là “phúc lợi dành cho doanh nghiệp”. Nếu các nỗ lực âm thầm của chúng tôi nhằm kiềm chế những gì dường như phát xuất từ quan điểm hơi thái quá hiện nay đã bị lăng mạ như vậy, chúng tôi có thể mong đợi được gì từ sự công kích trực tiếp đến việc chuyển tiền vào ngành tài chính Hoa Kỳ theo cách chưa từng có trong lịch sử? MỘT MÔ HÌNH QUEN QUEN BẮT ĐẦU CHẠY... Khi Hoa Kỳ trượt dài vào khủng hoảng, tôi lo ngại rằng những gì tôi đã thường xuyên chứng kiến tại các nước đang phát triển sẽ xảy ra ở đây. Những quan chức ngân hàng, từng góp phần lớn vào việc tạo nên tình huống xấu, đã lợi dụng sự hoảng sợ, mà kết quả là sự phân phối lại của cải, để lấy tiền từ công chúng và làm giàu cho riêng họ. Trong mọi trường hợp, người nộp thuế đều được thông báo rằng chính phủ phải tái cơ cấu vốn của các ngân hàng nếu muốn nền kinh tế phục hồi. Trong những khủng hoảng trước đó, chính phủ đã chuyển tiền tỷ cho các ngân hàng theo các điều khoản ưu đãi, và nền kinh tế đã hồi phục. (Cuộc suy thoái nào rồi cũng đến hồi kết thúc và trong nhiều trường hợp thì không thể biết rõ là các khoản giải cứu làm tiến trình phục hồi nhanh hơn hay chậm hơn)[63]. Sau khi hồi phục, một đất nước thường thở dài khoan khoái mà ít chú ý đến những gì đã xảy ra bên dưới bề mặt của sự việc. Chi phí giải cứu ngành ngân hàng của Mexico giai đoạn 1994–1997 được ước tính bằng 15% GDP của đất https://thuviensach.vn nước này, và một phần lớn trong số đó đã đi vào túi các quan chức ngân hàng giàu có[64]. Bất chấp lượng tiền khổng lồ được bơm, các ngân hàng không thực sự khôi phục lại hoạt động tín dụng, và sự giảm sút trong nguồn cung tín dụng đã góp phần làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của Mexico trong 10 năm tiếp theo. Một thập kỷ sau đó, tiền lương của người lao động Mexico, đã có điều chỉnh lạm phát, đã bị giảm, trong khi sự bất bình đẳng tăng cao[65]. Giống như việc khủng hoảng tại Mexico chỉ giảm bớt chút ít quyền lực của giới quan chức ngân hàng nước này, cuộc khủng hoảng tại Hoa Kỳ không có nghĩa là sự chấm dứt ảnh hưởng của ngành tài chính. Sự giàu có trong ngành này có thể đã bị giảm sút, nhưng bằng cách nào đó nguồn vốn liếng chính trị vẫn còn tồn tại. Các thị trường tài chính vẫn là yếu tố quan trọng duy nhất trong chính trường Mỹ, nhất là trong thời đại kinh tế thống trị. Ảnh hưởng của các thị trường tài chính là trực tiếp và gián tiếp. Các công ty tham gia vào thị trường tài chính đã dành ra hàng trăm triệu đô la trong những chiến dịch đóng góp cho cả hai đảng chính trị trong suốt thập niên này[66]. Họ đã thu hoạch rất khá – lợi ích từ các khoản đầu tư chính trị cao hơn nhiều so với những gì họ thu về từ chuyên môn, từ đầu tư vào các thị trường và cho vay. Món lợi ban đầu họ đã thu được thông qua trào lưu bãi bỏ quy định. Họ còn thu hoạch tốt hơn từ các cuộc giải cứu lớn của chính phủ. Tôi cam đoan rằng họ còn hy vọng gặt hái nhiều hơn nữa từ các “khoản đầu tư” cho việc ngăn chặn sự quay lại của các quy định. Những cánh cửa quay (tình trạng có các cá nhân hoán đổi vai trò của mình, khi thì trong các cơ quan ban hành quy định và điều tiết, khi lại là đại diện cho lĩnh vực ngành nghề được điều tiết – ND) ở Washington và New York cũng tiếp năng lượng cho phong trào ngăn chặn các sáng kiến mới về những quy định. Một số quan chức có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với lĩnh vực tài chính đã được kêu gọi để tham gia vào việc lập khuôn mẫu quy tắc cho lĩnh vực ngành nghề của chính họ. Khi những người có trách nhiệm thiết kế nên các chính sách cho ngành tài chính lại đến từ đúng lĩnh vực này, đâu là lý do để người ta trông đợi họ đưa ra những viễn cảnh https://thuviensach.vn thực sự khác biệt so với mong muốn của những nhân vật trong lĩnh vực tài chính? Đây phần nào là vấn đề tư duy hẹp, nhưng không thể hoàn toàn xóa bỏ vai trò của lợi ích cá nhân. Các cá nhân có tài sản hoặc triển vọng nghề nghiệp trong tương lai phụ thuộc vào hiệu suất của các ngân hàng sẽ có nhiều khả năng đồng ý rằng: những gì là tốt cho phố Wall cũng là tốt cho nước Mỹ.[67] Nếu Hoa Kỳ cần bằng chứng về sự ảnh hưởng bao trùm của thị trường tài chính, sự tương phản trong cách đối xử với giới ngân hàng và ngành xe hơi sẽ cung cấp bằng chứng đó. GIẢI CỨU CÁC CÔNG TY XE HƠI Các ngân hàng không phải là những người duy nhất cần được giải cứu. Cuối năm 2007, có hai trong số ba nhà sản xuất xe hơi lớn, là GM và Chrysler, đã đứng trên bờ vực phá sản. Ngay cả các công ty xe hơi được quản lý tốt cũng phải đối mặt với những vấn đề là hậu quả của sự tuột dốc thẳng đứng trong doanh số bán hàng, và không ai có thể nói rằng có một trong số hai công ty nêu trên là được quản lý tốt. Người ta lo lắng rằng sẽ có hiệu ứng dòng thác: nhà cung cấp của họ sẽ phá sản, thất nghiệp sẽ tăng vọt, và tình trạng suy thoái kinh tế sẽ tệ hại hơn. Đáng chú ý là, không hiểu sao, thậm chí theo cách công khai mà một số các tổ chức tài chính khi chạy đến Washington để xin trợ giúp đã lập luận rằng: cần giải cứu các ngân hàng – chúng là huyết mạch của nền kinh tế – nhưng cũng có một việc khác nữa là nên bắt đầu giải cứu những công ty thực sự sản xuất ra hàng hóa. Đó mới là cứu cánh của chủ nghĩa tư bản, như chúng ta đã biết. Tổng thống Bush đã lưỡng lự – trì hoãn vấn đề để đá quả bóng sang người kế nhiệm ông, kéo dài dây thả neo để giữ cho các công ty tồn tại trong một thời gian ngắn nữa. Điều kiện để nhận được thêm các khoản cứu trợ là: các công ty đã phát triển được một kế hoạch khả thi để sống sót. Chính quyền Obama lại nêu ra tiêu chuẩn rõ ràng là phân biệt đối xử: hợp đồng với các giám đốc điều hành của AIG là bất khả xâm phạm, nhưng hợp đồng tiền lương cho công nhân tại các công ty nhận được trợ cấp phải được thương thảo lại. Những người phải chịu cắt giảm lương là những người lao https://thuviensach.vn động thu nhập thấp, những người đã làm việc chăm chỉ cả đời và họ đã chẳng làm gì sai trái, chứ không phải là các nhà tài chính với tiền triệu đô la – những kẻ đã đưa thế giới đến bờ vực của sự sụp đổ tài chính. Các nhân vật này có giá trị rất cao, cần trả tiền thưởng để giữ họ tồn tại, ngay cả khi không có lợi ích gì từ việc này. Các nhà lãnh đạo điều hành trong giới ngân hàng có thể tiếp tục tận hưởng mức thu nhập cao ngất ngưởng; các nhà quản lý trong công ty xe hơi có thể trông kém cao ngạo hơn chút ít. Tuy nhiên, hạ thấp mức ngạo mạn của họ cũng chưa đủ, chính quyền Obama đã buộc hai công ty trên phải phá sản. Các quy chuẩn của chủ nghĩa tư bản, đã nhắc đến ở phần trên, được áp dụng: các cổ đông hiện hữu mất tất cả, trong khi trái chủ và các bên đòi bồi thường khác (các quỹ chăm sóc sức khỏe và chính phủ, là những bên đã cứu giúp công ty) trở thành các cổ đông mới. Nước Mỹ đã đi vào một giai đoạn mới với sự can thiệp của chính phủ trong nền kinh tế. Điều này có thể là cần thiết, nhưng vấn đề làm nhiều người lúng túng là: Tại sao lại có sự phân biệt đối xử kiểu này? Tại sao các ngân hàng được đối xử khác so với các công ty xe hơi? Điều này còn nêu bật thêm những vấn đề sâu sắc hơn mà tiến trình tái cấu trúc đất nước đang phải đối mặt: khi làm hấp tấp, khó có thể tin rằng khoản tiền “cấp cứu” 50 tỷ đô la mà chính phủ tung ra trong mùa hè năm 2009 sẽ mang lại hiệu quả, cũng khó mà tin rằng các công ty xe hơi, phần lớn vẫn giữ ban quản lý cũ (mặc dù người đứng đầu GM đã được thay đổi), đã thua trong cuộc cạnh tranh với xe hơi Nhật Bản và châu Âu trong một phần tư thế kỷ, sẽ đột nhiên tăng trưởng lên thứ hạng hàng đầu. Nếu kế hoạch này không hiệu quả, mức thâm hụt ngân sách quốc gia Hoa Kỳ sẽ còn cao hơn con số 50 tỷ, mà nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế cũng trở nên xa vời hơn. CHỐNG LẠI SỰ THAY ĐỔI Khi cơn bão tài chính lớn dần, cả các quan chức ngân hàng lẫn chính phủ đều không muốn tham gia vào các cuộc thảo luận mang tính triết lý sâu xa về việc thế nào là một hệ thống tài chính tốt. Các ngân hàng chỉ muốn có tiền được bơm vào hệ thống. Khi thảo luận về khả năng xuất hiện các quy https://thuviensach.vn định mới, họ nhanh chóng rung chuông báo động. Trong một cuộc họp của các doanh nghiệp lớn tại Davos khi cuộc khủng hoảng lờ mờ hiện ra hồi tháng 1/2007, một trong những quan ngại lớn nhất là lo lắng sẽ có “các phản ứng thái quá”, một mật mã ám chỉ việc có thêm nhiều quy định khác. Vâng, họ thừa nhận đã có một số hiện tượng vượt quá quy định, nhưng họ cam đoan rằng họ đã lĩnh hội được bài học. Rủi ro là một phần trong chủ nghĩa tư bản. Họ cho rằng nguy cơ thực sự là khi có quá nhiều quy định sẽ bóp nghẹt sự cải tiến. Nhưng chỉ bơm thêm tiền cho các ngân hàng sẽ là không đủ. Họ đã đánh mất niềm tin của người dân Mỹ – và họ đáng bị như vậy. “Những sự cải tiến” của họ đã không dẫn đến sự tăng trưởng bền vững, cũng không giúp người dân thường Hoa Kỳ quản lý được rủi ro về sở hữu nhà ở; chúng chỉ đem lại cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái và phát sinh những đợt giải cứu quy mô lớn. Bơm thêm tiền cho các ngân hàng, mà không làm thay đổi động cơ của họ hoặc các hạn chế dành cho họ, thì chỉ đơn giản là cho phép họ đi tiếp con đường cũ. Quả thật vậy, nhìn chung đó chính là những gì đã xảy ra. Chiến lược của các tay chơi trong thị trường tài chính đã rõ ràng: hãy để các nhóm biện hộ cho sự thay đổi thực sự trong lĩnh vực ngân hàng cứ nói, và nói nữa; cuộc khủng hoảng sẽ kết thúc trước khi đạt được thỏa thuận – và với sự kết thúc của cuộc khủng hoảng, cái đà cho việc cải tiến sẽ biến mất[68]. DỊCH CHUYỂN NHỮNG CHIẾC GHẾ TRÊN TÀU TITANIC Thử thách khó khăn nhất mà vị tân tổng thống phải đối mặt là việc chọn lựa nhóm của mình. Trong khi những người được bổ nhiệm được cho là phải phản ánh và thực hiện được tầm nhìn của tổng thống, trong một lĩnh vực rất phức tạp như kinh tế, chính họ thực sự hình thành nên chương trình hành động. Tân tổng thống phải đối mặt với một tình thế rất khó xử: ông sẽ lựa chọn để tiếp tục hoặc thay đổi – trong nhân sự cũng như chính sách? Ông sẽ chi tiêu lượng vốn liếng chính trị bao nhiêu để vượt qua được sự phản đối việc thay đổi? https://thuviensach.vn Nhóm của Bush gồm Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang được tổng thống bổ nhiệm năm 2006; Timothy Geithner, người đứng đầu Cục Dự trữ New York; và Henry (Hank) Paulson, Bộ trưởng Tài chính. Khi Ben Bernanke thừa hưởng một bong bóng đã sẵn có, ông đã chỉ làm chút ít để xì hơi nó[69]. Có lẽ dễ hiểu thôi: phố Wall đã hưởng được mức lợi nhuận kỷ lục từ các bong bóng. Họ sẽ không vui nếu ông ta làm bong bóng vỡ tung, hoặc thậm chí nếu ông xì hơi nó dần dần. Ngay cả khi ông nhận thấy rằng có một bong bóng, ông sẽ khó xử: nếu ông thổi còi báo động – chẳng hạn, nếu ông cố gắng ngăn chặn một số khoản cho vay cẩu thả từ bất động sản và quá trình chứng khoán hóa phức tạp được xây dựng từ bong bóng – ông sẽ bị quy trách nhiệm vì làm bong bóng xẹp xuống và làm nền kinh tế suy thoái; sẽ có những bất lợi khi so sánh với Alan Greenspan, người tiền nhiệm đại tài, (sẽ có lập luận cho rằng) Greenspan sẽ biết cách làm bong bóng xẹp dần dần hoặc giữ nó mãi mãi! Nhưng cũng có những lý do khác khiến Bernanke duy trì bong bóng. Có lẽ ông nghiêm túc nhìn nhận sự hùng biện của Greenspan: có lẽ ông đã thực sự tin rằng không có bong bóng nào cả, chỉ là một ít bọt mà thôi; có lẽ ông tin rằng, trong mọi trường hợp, người ta không thể chắc chắn rằng đã có một bong bóng cho đến khi nó vỡ[70]. Có lẽ ông tin rằng, với Greenspan, FED không có công cụ để làm bong bóng xẹp dần và việc chỉnh sửa mọi thứ sau khi nó vỡ tung sẽ là dễ dàng hơn. Tuy nhiên, dễ dàng nhận ra rằng bất cứ nhà kinh tế học nghiêm túc nào cũng lo lắng – rất lo lắng là đằng khác – vì đáng lẽ ra hồi còi của Bernanke phải cất lên. Cả hai trường hợp đều không phải là những hình ảnh đẹp: một lãnh đạo ngân hàng trung ương đã tạo ra bong bóng và người kế nhiệm vẫn để cho nó tiếp tục tồn tại, thổi phồng nó lên theo tất cả các khía cạnh. Tim Geithner đã đóng vai trò dài hơi hơn. Ông đã từng làm phó cho Larry Summers và Robert Rubin, hai kiến trúc sư của phong trào bãi bỏ quy định dưới thời Clinton. Quan trọng hơn, ông đã là người lãnh đạo cơ quan điều tiết các ngân hàng New York – bao gồm ngân hàng lớn nhất của các ngân hàng lớn, Citibank, với tài sản gần 2.360 tỷ đô la tại thời điểm https://thuviensach.vn