🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quyền Lực Thứ Tư Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn TÁC GIẢ ~oOo~ Jeffrey Archer Jeffrey Archer, nhà văn Anh hiện đại, con của một chủ nhà in, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1940 tại Luân Đôn, nhưng lớn lên tại Somerset. Ông theo học tại đại học Oxford, và tại đây ông đã được tuyển chọn vào đoàn lực sĩ https://thuviensach.vn điền kinh của trường, và năm 1966 ông đại diện nước Anh trong một cuộc tranh tài thế giới với môn chạy nước rút 100 yards để đem về huy chương vàng với kỷ lục 9.6 giây. Ông trở thành nghị viên trẻ tuổi nhất của Viện Thứ Dân (House of Commons), lúc 29 tuổi. Năm 1985 ông được đề cử vào chức vụ Phó Chủ Tịch đảng Bảo Thủ. Năm 1992 ông bước lên Viện Quý Tộc (House of Lords). Tác giả hiện sống ở Luân Đôn cùng vợ, Mary, và hai con, Wil và James. Jeffrey Archer là một mẫu người hoạt động. Bên cạnh văn chương ông còn say mê nhiều địa hạt khác. Thời kỳ sinh viên của ông gắn liền với thể thao, thể dục; ông từng là chủ tịch Câu Lạc Bộ Thể Dục Đại Học. Ông bước vào chính trị sớm, và những hoạt động sau này của ông hướng về con người và xã hội; năm 1991 trong cương vị điều hợp viên Chiến Dịch Cứu Trợ Các Bộ Lạc Dân Kurd ông đã giúp gây quỹ được 57 triệu bảng Anh. Quay sang các bộ môn giải trí, ông từng là Chủ Tịch Hiệp Hội Billard Chuyên Nghiệp Thế Giới, Mạnh Thường Quân của Quỹ Thể Thao Thanh Niên, và Phòng Thương Mại Tiểu Thương, Chủ Tịch Hội Hỗ Trợ Môn Cricket của vùng Somerset. Ngoài các truyện dài và kịch bản, Jeffrey Archer còn được biết đến như là một trong những cây bút viết truyện ngắn hay nhất thế giới hiện nay. Truyện của ông là một chuỗi những pha hồi hộp nghẹt thở, cùng những nút mở bất ngờ - mang hơi hướm những truyện trinh thám Anh - hoặc giả những kết thúc bi đát để lại một dư hưởng kéo dài trong lòng người đọc như một điều gì để suy ngẫm. Tâm hồn phong phú, nhạy cảm và sức sáng tác không mệt mỏi của Jeffrey Archer quả là điều hiếm thấy. Mỗi lần đường đời mình đi vào một khúc quanh nghiệt ngã thì tác giả cũng lại cho “thăng hoa” một cái gì. Năm 1974, đứng bên bờ hố khánh tận, thì năm sau ông cho ra đời truyện dài đầu tay “Not a Penny More, Not a Penny Less”. Sau khi rút lui khỏi Viện Thứ Dân ông viết kịch bản đầu tay năm 1987, “Beyond Reasonable Doubt", một vở kịch đã được diễn đến 600 buổi tại hí viện của Hoàng Gia ở Tây Luân Đôn. Năm 1999 bắt đầu một ngã rẽ mới bi đát trong đời mình, tức vụ kiện tờ báo Daily Star mười hai năm trước đang bị điều tra, thì năm 2000 Jeffrey https://thuviensach.vn Archer lại cho ra đời một kịch bản mới, “The Accused” (Kẻ Bị Cáo Buộc). Rồi tác giả dính vào vòng lao lý. Ra tù năm 2003, Jeffrey Archer lại cũng đã cống hiến cho đời những đứa con tinh thần thai nghén, khai sinh trong nghịch cảnh đó, “A Prison Diary” (Nhật Ký Trong Tù), “A Prison Diary Volume 2”, “A Prison Diary Volume 3”. Với sách của mình được xuất bản ở 63 quốc gia, dịch ra 21 ngôn ngữ, con số bán lên trên 120 triệu cuốn, đến nay Jeffrey Archer đã chiếm một vị trí vững vàng trên văn đàn thế giới. Xin liệt kê sau đây tác phẩm của Jeffrey Archer. • Truyện Dài Not A Penny More Not A Penny Less; Shall We Tell The President; Kane and Abel; The Prodigal Daughter; First Among Equals; A Matter of Honour; As The Crow Flies; Honour Among Thieves; The Fourth Estate; The Eleventh Commandment; Sons of Fortune; A Prison Diary; A Prison Diary Volume 2; A Prison Diary Volume 3; In the Lap of the Gods; False Impression; The Gospel According to Judas (viết chung với Francis J. Muloney); A Prisoner of Birth. • Truyện Ngắn (liệt kê theo tuyển tập) A Quiver Full of Arrows; A Twist in The Tale; Twelve Red Herrings; To Cut a Long Story Short; Cat O’Nine Tales. https://thuviensach.vn GIỚI THIỆU ~oOo~ Báo Chí - như một số quan niệm cho rằng: Đó là “Quyền Lực Thứ Tư", cùng với Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp của Nhà Nước; hoặc có người cho rằng, báo chí có một sức mạnh mà không một sức mạnh nào có thể so sánh. Ở một góc nhìn nào đó thì quan niệm trên có lý, song cuộc đời vốn tương đối, nên chẳng có một “Sức Mạnh” nào là tuyệt đối cả. Nhưng, liệu có chắc rằng, tại các nước tiên tiến trên thế giới, mọi tờ báo đều thật sự là “của dân, cho dân, vì dân”? Có hoàn toàn là “tự do ngôn luận”? Hay đó cũng đều là “sự tương đối” dễ hiểu. Cuốn tiểu thuyết ấn tượng nhất của Jeffrey Archer kể câu chuyện về hai người đàn ông đặc biệt nhất trong thời đại chúng ta. Thoáng qua thì thấy Richard Armstrong và Keith Townsend dường như không có điểm chung. Một người sinh ra trong gia đình nông dân nghèo khổ và thất học ở một nơi hẻo lánh của Châu Âu bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt. Còn người kia lớn lên trong lâu đài ở nơi xa bên kia thế giới khi mà cuộc chiến tranh đó chỉ là một phần nhỏ của bản tin. Một người đầy nghị lực, một tên cướp, sẵn sàng gian trá với tất cả, thậm chí với cả nhận dạng bản thân nếu chuyện đó có thể mang lại cho anh ta những lợi ích trước mắt. Còn người kia xuất thân từ gia đình quý tộc danh giá, được chuẩn bị bước ra công chúng từ những năm trẻ thơ; một người nổi loạn không thèm quan tâm xem người khác có tán thành những việc anh ta làm hay không. https://thuviensach.vn Một người thèm khát sự giàu có, sự nổi danh, địa vị xã hội. Còn người kia lại sớm nhận ra quyền lực thực sự xuất phát từ sự nặc danh. Nhưng họ đều có một điểm chung: Cả hai đều là những con bạc. Cả hai đều được chuẩn bị để đánh liều tất cả trong cuộc chiến của họ nhằm kiểm soát đế quốc báo chí lớn nhất thế giới. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 1 ~oOo~ «Tin giờ chót Các vua báo chí vật lộn để cứu vương quốc của mình - Báo Globe Ngày 5 tháng Mười một, 1991 Armstrong phá sản» Vận rủi như rơi cả vào ông. Nhưng trước đây, chưa bao giờ nó khiến Richard Armstrong phải lo lắng. “Xin các vị đặt tiền”. Armstrong nhìn xuống tấm vải màu be nhạt. Chồng phỉnh[1] trước mặt ông vừa 20 phút trước đó cao ngất ngưởng, giờ chỉ còn là một nhúm nhỏ. Tối nay ông đã thua bốn mươi ngàn francs, nhưng bốn mươi ngàn francs thì thấm tháp gì khi trong vòng mười hai tháng qua, ông đã lỗ hơn một tỷ đôla. Ông nhoài người, đặt toàn bộ chỗ phỉnh còn lại vào số 0. “Các số đã đặt xong. Không nhận thêm nữa”, người tài pán vừa nói vừa quay bánh xe. Hòn bi nhỏ chạy tròn trong vùng lòng chảo trước khi dừng lại ở một con số. Armstrong lơ đãng nhìn ra xa. Ngay cả khi hòn bi đã dừng, ông cũng không buồn nhìn lại. “Số hai mươi sáu”, tài pán hô to, đồng thời bắt đầu vơ phỉnh từ các ô số không phải là hai mươi sáu. Armstrong đứng dậy, chẳng buồn nhìn lại bàn roulette. Ông đi chậm rãi qua đám đông những người đang chơi… cho tới chiếc cửa kép mở ra ngoài. Một gã đàn ông cao lớn mặc áo dài xanh cúi rạp người mở rộng cánh cửa, mỉm cười với con bạc nổi tiếng, nghĩ sẽ được boa một trăm quan như mọi lần. Nhưng tối nay thì không. Armstrong vuốt mái tóc đen dầy trong lúc đi https://thuviensach.vn qua những khu vườn sang trọng của sòng bạc và đi tiếp qua một bồn nước phun. Kể từ cuộc họp khẩn cấp của Ban điều hành ở London đến giờ đã được mười bốn tiếng và ông bắt đầu cảm thấy kiệt sức. Tuy người to béo, mấy năm nay ông chưa hề bước lên bàn cân. Và lúc này ông vẫn bước khỏe khoắn dọc con dường đi dạo tới khách sạn nhìn ra vịnh mà ông rất thích. Ông thừa biết muốn có bàn ngồi phải đặt trước cả tuần, và ý nghĩ mình sẽ gây nên chuyện rắc rối ở đó tối nay làm ông mỉm cười, nụ cười đầu tiên từ lúc tối. Ông đẩy cửa bước vào. Người hầu bàn cao gầy quay ngoắt lại, cố giấu ngạc nhiên bằng cách cúi chào thật thấp. “Chào ông Armstrong. Thật vui mừng được gặp lại ông. Ông cùng đi với ai không ạ?” “Không, Henri”. Người hầu bàn vội dẫn ông khách không hẹn mà đến qua những bàn đầy thực khách, tới một bàn nhỏ ở cánh gà. Mỗi lần Armstrong tới dùng bữa, Henri thường đem tới cho ông cuốn thực đơn dầy đóng bìa da. Armstrong lắc đầu. “Khỏi cần, Henri. Anh biết tôi thích dùng gì rồi”. Người hầu bàn nhíu mày. Các bậc đế vương, minh tinh Hollywood, thậm chí các cầu thủ bóng đá Italia đều không làm anh ta hoảng, nhưng mỗi khi Richard Armstrong có mặt là anh ta lại lo sốt vó. Còn bây giờ phải chọn món ăn cho Armstrong nữa. Anh ta thở phào nhẹ nhõm vì chiếc bàn mà vị khách nổi tiếng thường xuyên tới ngồi còn trống. Nếu đến chậm vài phút thôi thì sẽ phải ngồi ở quầy rượu mà đợi, trong khi bồi bàn vội vàng xếp một chiếc bàn khác ở giữa phòng cho ông ta. Lúc Henri trải tấm khăn ăn lên lòng Armstrong, người hầu rượu đã rót ra một loại champagne mà ông ưa thích. Armstrong lơ đãng đưa mắt qua cửa sổ, không phải nhìn vào chiếc du thuyền lớn đang neo ở phía bắc vịnh, mà đang nghĩ tới vợ con ông ở nơi cách đó mấy trăm dặm. Họ sẽ phản ứng thế nào khi biết được tin này? Một đĩa tôm hùm nhẹ nhàng đặt trước mặt ông; nó được giữ ở độ nóng vừa phải để ông có thể ăn được ngay. Armstrong rất ghét phải đợi cho đồ ăn nguội bớt. Ông thà bị rộp lưỡi còn hơn phải chờ. Henri ngạc nhiên thấy https://thuviensach.vn ánh mắt của vị khách vẫn đang phiêu diêu tận phía chân trời, trong khi cốc champagne của ông đã được rót đầy lần thứ hai. Những đồng nghiệp của ta, những người gắn bó với nhau vì tước vị hoặc vì các mối quan hệ bắt đầu che đậy dấu vết hoặc lánh xa ta mới nhanh làm sao, từ khi tài khoản của công ty được công bố, ông nghĩ. Armstrong cho rằng chỉ có Ngài Paul Maitland mới có thể cứu được danh tiếng của ông. Armstrong cầm chiếc thìa ăn tráng miệng để trước mặt, dùng nó xúc lấy xúc để món súp trong chiếc tô to. Khách hàng ở những bàn xung quanh thỉnh thoảng lại quay nhìn về phía ông và lén thầm thì với nhau. “Một trong những người giàu nhất thế giới”, một nhà ngân hàng địa phương nói với người phụ nữ trẻ mà ông ta lần đầu tiên mời đi ăn tối. Armstrong có vẻ gây ấn tượng mạnh cho cô ta. Thông thường, ông rất đắc chí với tiếng tăm của mình. Nhưng tối nay, ông không để ý đến những người xung quanh. Ông đang nghĩ tới phòng họp của ban trị sự một ngân hàng Thụy Sĩ, nói người ta đã quyết định hạ màn, mà tất cả chỉ vì 50 triệu đôla. Tô súp được dọn đi trong khi Armstrong dùng chiếc khăn ăn lau miệng. Henri biết quá rõ vị khách này không thích chờ đợi món tiếp theo quá lâu. Một cốc cà phê đen bốc khói nghi ngút thay thế cho cốc kem. Armstrong vẫn lơ đãng nhìn ra vịnh. Một khi cái tin ông không thể cáng nổi, thậm chí chỉ với 50 triệu đôla lan ra, thì không còn một ngân hàng nào trên trái đất này muốn làm ăn với ông nữa. Mấy phút sau, người hầu bàn trở lại, ngạc nhiên thấy cà phê vẫn còn nguyên trong tách. “Tôi mang cho ông cốc khác được không, thưa ông Armstrong?”, Anh ta ngập ngừng hỏi nhỏ. Ông lắc đầu. “Cho thanh toán, Henri”. Vừa nói ông vừa uống cạn chỗ champagne còn lại. Người hầu bàn vội vã chạy đi và trở lại ngay với tờ giấy trắng để trên chiếc khay bạc. Đây là vị khách không bao giờ chịu chờ đợi, dù là chờ tính tiền. Armstrong mở tờ giấy, nhưng không quan tâm trong đó ghi gì. Bảy trăm mười hai quan, không kể tiền phục vụ. Ông ký, làm tròn thành một ngàn quan. Nụ cười hiện trên khuôn mặt người hầu bàn lần đầu tiên trong buổi https://thuviensach.vn tối hôm đó, nụ cười sẽ biến mất nếu như Henri biết được rằng khách sạn của anh ta đang là một trong chuỗi dài các chủ nợ của ông khách. Armstrong đẩy ghế đứng dậy, vứt chiếc khăn ăn lên bàn, không nói một lời, bước ra khỏi khách sạn. Mấy cặp mắt nhìn theo khi ông rời phòng ăn, còn một cặp mắt khác theo dõi tận khi ông bước xuống các bậc thềm. Ông không nhận thấy một thủy thủ trẻ chạy vụt qua mặt ông về phía chiếc du thuyền mang tên Hầu tước Lancelot. Armstrong vừa ợ vừa sải bước trên đường, qua cả chục chiếc thuyền đang neo lại với nhau nghỉ qua đêm. Ông thường thích thú nghĩ rằng Hầu tước Lancelot dường như chắc chắn là chiếc du thuyền lớn nhất trong vịnh, tất nhiên, trừ phi đêm đó Vua Brunei hoặc Quốc vương Fahd dong thuyền vào cảng. Ý nghĩ duy nhất của ông đêm nay là chiếc du thuyền này, nếu đem bán ngoài chợ trời, thì được bao nhiêu. Nhưng một khi đã biết sự thật, liệu có ai muốn mua chiếc du thuyền đã từng là vật sở hữu của Richard Armstrong? Vịn tay vào dây chão, Armstrong giữ thăng bằng trên cầu tàu. Thuyền trưởng cùng thuyền phó đang đứng đợi ông. “Chúng ta đi ngay thôi”. Viên thuyền trưởng không ngạc nhiên. Ông ta biết Armstrong không bao giờ muốn neo tàu trong vịnh lâu hơn mức cần thiết. Chỉ có cái lắc lư nhè nhẹ của con tàu mới ru ông vào giấc ngủ, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất. Ông ta phát lệnh chuẩn bị ra khơi trong khi Armstrong cởi giầy, mất hút dưới cabin tàu. Khi mở cửa cabin sang trọng, ông lại thấy một chồng fax mới. Ông vồ lấy chúng, vẫn hy vọng còn đường sống. Fax đầu là của Peter Wakeham, Phó chủ tịch của Công ty Viễn thông Armstrong, lúc này vẫn đang còn ở văn phòng London mặc dù đã rất muộn. “Xin hãy điện thoại ngay cho tôi”, bức điện viết. Bức điện thứ hai từ New York, cổ phiếu của công ty đã xuống một mức thấp mới và các ngân hàng của ông đã “miễn cưỡng” thấy cần phải bán các cổ phiếu của họ ra thị trường. Bức điện thứ ba là của Jacques Lacroix ở Geneva khẳng định rằng, vì ngân hàng không nhận được 50 triệu đôla vào cuối ngày làm việc, nên họ không còn cách nào khác là… https://thuviensach.vn Bây giờ là 5 giờ 12 phút ở New York, tức là 10 giờ 12 phút ở London và 11 giờ 12 phút ở Geneva. Vào lúc 9 giờ sáng hôm sau, ngay ông cũng không thể ngăn được những hàng tít lớn trên các tờ báo của ông, chứ đừng nói gì đến những tờ báo của Keith Townsend. Armstrong kéo khoá, để quần áo rơi thành đống trên sàn. Sau đó ông mở tủ lấy chai brandy, rót một cốc lớn rồi vật ra giường. Ông nằm im lìm trong khi tiếng máy tàu gầm lên và chiếc du thuyền bắt đầu lách mình ra khỏi cảng. Mấy giờ trôi qua mà Amstrong vẫn nằm bất động, chỉ trừ những lúc rót thêm rượu, cho đến khi ông nghe chiếc đồng hồ nhỏ để gần giường điểm bốn tiếng. Ông lồm cồm bò dậy, đợi một lát rồi đặt chân xuống nền thảm. Ông đứng không vững, loạng choạng đi qua phòng không bật đèn, vào nhà tắm. Khi đến chiếc cửa mở sẵn, ông với tay lấy chiếc áo choàng rộng màu kem thêu chữ Hầu tước Lancelot màu vàng trên túi. Ông sờ soạng đi về phía cửa cabin, thận trọng mở và chân trần bước ra ngoài hành lang tối ánh đèn. Ông do dự trước khi khóa cửa cabin, đút chìa vào túi áo choàng. Ông đứng im cho đến khi cầm chắc không nghe tiếng gì khác ngoài tiếng máy quen thuộc của con tàu. Armstrong lảo đảo đi dọc hành lang tàu, dừng lại ở chân cầu thang dẫn lên boong. Rồi ông từ từ trèo lên, tay bám chắc vào hai sợi dây to dùng làm tay vịn. Lên hết cầu thang, ông bước ra boong, vội vã nhìn ngược ngó xuôi. Không có ai. Đêm tối trong veo, lành lạnh, không khác gì những đêm vào thời gian này trong năm. Armstrong chầm chậm bước đi, cho đến khi ông đến khoang trên chỗ đặt máy, nơi ồn nhất trên tàu. Ông chỉ đợi một lát, rồi tháo dây buộc áo choàng, để nó tự rơi xuống sàn. Trần truồng trong đêm, ông nhìn ra biển tối đen tịch mịch và nghĩ: Chả lẽ đời ta chỉ thoáng qua trước mắt trong một khoảnh khắc như thế này sao? https://thuviensach.vn CHƯƠNG 2 ~oOo~ «- Báo The Citizen Ngày 5 tháng Mười một, 1991 Townsend khánh kiệt» “Có điện đóm gì không?” là câu duy nhất Townsend hỏi cô thư ký, sau đó ông đi về phòng. “Tổng thống gọi điện từ Trại David trước khi Ngài lên máy bay”, Heather nói. “Lần này, tờ báo nào của tôi làm ông ta khó chịu”, Townsend hỏi rồi ngồi xuống ghế. “Tờ New York Star. Ngài nghe tin đồn ông sẽ cho in trên trang nhất các báo ngày mai tuyên bố tài chính của Ngài”. Heather đáp. “Nhiều khả năng tuyên bố tài chính của tôi mới là ở trang nhất ngày mai”. Townsend nói, giọng Úc của ông nghe càng rõ. “Còn ai nữa?”. “Margaret Thatcher gửi fax từ London. Bà ta đồng ý ký hợp đồng xuất bản hai cuốn sách theo điều kiện của ông, mặc dù Armstrong trả cao hơn”. “Hy vọng ai đó sẽ trả tôi 6 triệu đôla khi tôi viết hồi ký của mình”. Heather gượng cười. “Ai nữa không?”. “Gary Deakins lại bị kiện”. “Lần này về chuyện gì?”. “Ông ta tố cáo Tổng giám mục Brisbane phạm tội hiếp dâm trên trang đầu tờ Truth số ra hôm qua”. “Sự thật, toàn bộ sự thật và không gì khác ngoài sự thật”, Townsend mỉm cười nói. “Chừng nào nó làm cho báo bán chạy”. https://thuviensach.vn “Khốn nỗi người phụ nữ liên can lại là một linh mục phụ trách thánh ca nổi tiếng, và từ nhiều năm là bạn của gia đình Tổng giám mục. Hình như Gary cố tình hiểu từ thánh ca theo nghĩa là tình dục.” Townsend ngả người trên ghế, lắng nghe cả lô vấn đề mà những người khác trên toàn thế giới đang gặp phải: những lời ca thán như thường lệ của các chính khách, doanh nghiệp và cái gọi là các nhân vật nổi tiếng trong giới báo chí, những người đang hy vọng ông sẽ can thiệp ngay để cứu vãn nghề nghiệp cao quý của họ khỏi đổ vỡ. Vào giờ này ngày mai, phần lớn bọn họ sẽ trấn tĩnh lại và sẽ được thay thế bằng một loạt khác cũng cau có, cũng đòi hỏi và giận hờn chẳng kém. Ông biết rằng tất cả bọn họ sẽ hết sức thích chí khi biết rằng nghề nghiệp của chính ông mới thực sự đang ở bên bờ vực thẳm, và tất cả chỉ vì chủ tịch của một ngân hàng nhỏ ở Cleveland đòi ông phải trả món nợ 50 triệu đôla vào cuối ngày làm việc hôm nay. Trong khi Heather tiếp tục đọc danh sách những bức điện, mà đa phần là của những người tên tuổi chẳng nghĩa lý gì đối với ông, Townsend đang nghĩ tới bài phát biểu của ông tối hôm trước. Một ngàn cán bộ điều hành của ông trên khắp thế giới đã tụ tập ở Honolulu để tiến hành một hội nghị ba ngày liền. Ông nói với họ rằng công ty Địa Cầu chưa bao giờ ở vị thế tốt như lúc này để đối diện với những thách thức của cuộc cách mạng thông tin mới. Kết thúc, ông nói: “Chúng ta là công ty duy nhất đủ sức dẫn dắt ngành công nghiệp này bước sang thế kỷ XXI”. Họ đã đứng dậy vỗ tay hoan hô ông mấy phút liền. Nhìn xuống những khuôn mặt đầy tin tưởng trong đám người nghe, ông tự hỏi không biết bao nhiêu người trong bọn họ dám nghi ngờ rằng nó chỉ còn vài tiếng nữa là đến hồi phá sản. “Về việc Tổng Thống gọi, tôi phải làm gì?” Heather hỏi lại, lần thứ hai. Townsend bừng tỉnh, trở về với hiện tại. “Tổng thống nào?”. “Tổng thống Mỹ”. “Hãy chờ ông ta gọi lại. Đến lúc đó có thể ông ta sẽ bình tĩnh hơn đôi chút. Còn bây giờ, tôi muốn nói chuyện với biên tập viên báo Star”. “Còn bà Thatcher?”. “Gửi cho bà ta một lẵng hoa to với dòng chữ: Chúng tôi sẽ biến hồi ký của bà thành cuốn sách bán chạy số một từ Moscow đến New York.” https://thuviensach.vn “Tôi viết thêm London được không?”. “Không cần. Bà ta biết nó sẽ là cuốn bán chạy nhất London”. “Tôi phải làm gì về chuyện Gary Deakins?”. “Gọi điện cho Tổng giám mục, nói tôi sẽ cho lợp lại mái nhà thờ mà ông ta yêu cầu. Chờ sau một tháng, gửi cho ông ta tờ séc 1.000 đôla. Heather gật đầu, gập sổ lại, hỏi thêm. “Ông muốn gọi điện thoại cho ai?”. “Tôi chỉ gọi Austin Pierson”. Ông dừng lại, rồi tiếp. “Khi anh ta gọi, nối ngay vào cho tôi”. Heather quay ra. Townsend xoay ghế nhìn qua cửa sổ. Ông cố nhớ lại cuộc nói chuyện với cố vấn tài chính khi ông đang ngồi trên chiếc chuyên cơ từ Honolulu trở về. “Tôi vừa gặp Pierson”, bà ta nói. “Cuộc gặp kéo dài một tiếng nhưng lúc tôi về, ông ta vẫn chưa quyết định được”. “Chưa à?”. “Vâng. Ông ta vẫn phải tham khảo Ủy ban tài chính của ngân hàng trước khi có thể đi tới quyết định cuối cùng”. “Nhưng bây giờ, khi các ngân hàng khác đã xong cả rồi. Pierson không thể…” “Ông ta hoàn toàn có thể làm được điều đó. Hãy nhớ rằng ông ta chỉ là chủ tịch một ngân hàng nhỏ ở Ohio, không quan tâm tới việc các ngân hàng khác đã thỏa thuận thế nào. Và sau những tin tức không hay về ông trên các báo suốt mấy tuần qua, thì ông ta chỉ còn quan tâm đến một điều duy nhất lúc này mà thôi”. “Điều gì vậy?” “Không để hở sườn”. “Nhưng ông ta không thấy là tất cả các ngân hàng khác sẽ bội ước nếu ông ta không thực hiện theo kế hoạch chung sao.” “Có thấy. Nhưng khi tôi nói điều đó, ông ta nhún vai bảo: Trong trường hợp đó, tôi đành phải phó mặc may rủi với những người khác vậy". https://thuviensach.vn Townsend bắt đầu chửi rủa khi bà ta nói thêm: “Nhưng ông ta có hứa với tôi một điều”. “Điều gì?” “Ông ta sẽ gọi điện thoại cho tôi ngay sau khi Ủy ban đi đến quyết định cuối cùng”. “Tử tế quá nhỉ? Vậy tôi phải làm gì nếu Ủy ban đó chống lại tôi?” “Công bố thông cáo báo chí mà chúng ta đã thoả thuận”, bà ta đáp. Townsend cảm thấy choáng váng “Không còn cánh nào khác ư?” “Không”, bà Beresford quả quyết. “Hãy ngồi đợi điện thoại của Pierson. Nếu muốn kịp chuyến bay đi New York, thì tôi cần phải đi ngay bây giờ. Khoảng trưa mai tôi sẽ gặp ông”. Sau đó bà cúp máy. Townsend đứng dậy đi quanh phòng, tiếp tục suy nghĩ về những lời bà ta nói. Ông dừng lại kiểm tra cravate trong chiếc gương để trên nóc lò sưởi. Chỉ thoáng nhìn là biết ngay ông không có thời gian thay đồ sau khi rời máy bay. Lần đầu tiên trong đời, ông không thể không nghĩ rằng mình già hơn cái tuổi sáu mươi ba. Nhưng điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên sau những gì bà Beresford buộc ông trải qua trong sáu tuần vừa rồi. Ông sẽ là người đầu tiên thú nhận rằng giá như ông tìm kiếm lời khuyên của bà sớm hơn chỉ một chút thôi, thì nay ông đã không phải phụ thuộc vào cú phôn của một tay chủ tịch một ngân hàng nhỏ ở Ohio. Ông dán mắt vào điện thoại, những mong nó đổ chuông, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì. Ông không buồn sờ đến chồng thư mà Heather để trên bàn cho ông ký. Dòng suy nghĩ của ông bị gián đoạn khi Heather đẩy cửa bước vào. Cô ta đưa cho ông một tờ giấy, trên đó là danh sách tên nhiều người xếp theo vần abc. “Tôi nghĩ cái này có thể giúp ích cho ông”, cô ta bảo. Sau ba mươi lăm năm làm việc cho ông, cô ta thừa biết ông không thuộc loại người chỉ ngồi đó mà chờ đợi. Ngón tay của Townsend lần dọc theo danh sách một cách chậm chạp đến không ngờ. Không có tên tuổi nào có ý nghĩa đối với ông. Có ba cái tên đánh dấu hoa bên cạnh, ý muốn nói trước đây họ đã làm việc cho Công ty Địa cầu. Hiện nay ông đang thuê mướn ba mươi bảy ngàn người, ba mươi sáu ngàn trong số đó ông chưa từng gặp bao giờ. Nhưng ba người đã từng https://thuviensach.vn làm cho ông hiện đang là nhân viên của tờ Cleveland Sentinel, một tờ báo ông chưa hề nghe. “Ai là chủ bút tờ Sentinel”. Ông hỏi, hy vọng có thể gây áp lực với người này. “Richard Armstrong”, Heather đáp gọn lỏn. “Vậy thì rõ rồi”. “Thực ra ông ta không kiểm soát một tờ báo nào trong vòng một trăm dặm ở Cleveland”, Heather nói tiếp, “Chỉ có một đài phát thanh nhỏ ở phía nam thành phố phát nhạc đồng quê và nhạc phim cao bồi mà thôi”. Vào lúc này, Townsend sẵn sàng đánh đổi tờ New York Star để lấy tờ Sentinel. Ông lại liếc nhìn ba cái tên có đánh dấu hoa, nhưng chúng vẫn chẳng có ý nghĩa gì với ông. Ông ngước nhìn Heather. “Có ai trong số ba người này vẫn còn quý mến tôi không?” Ông hỏi, cố nở nụ cười. “Barbara Bennett thì chắc chắn là không”, Heather đáp. “Bà ta là biên tập viên phụ trách chuyên mục thời trang của tờ Sentinel. Bị đuổi khỏi tờ báo địa phương ở Seatle ngay mấy ngày sau khi ông tiếp quản tờ báo. Bà ta phát đơn kiện vì bị đuổi việc vô cớ, nói rằng người thay thế bà ta là một phụ nữ có quan hệ tình ái với tổng biên tập. Cuối cùng, chúng ta đã phải giải quyết riêng với bà ta ngoài tòa án. Trong những phiên xử đầu tiên, bà ta mô tả ông như là một người chỉ thích những trò khiêu dâm với mối quan tâm duy nhất là từ rốn trở xuống. Ông đã chỉ thị không được nhận bà ta vào làm việc ở bất cứ tờ báo nào của ông”. Townsend biết danh sách này phải phải có đến hơn một ngàn cái tên, mà bất cứ ai trong số đó cũng sẽ vô cùng thích thú được nhúng ngòi bút của mình vào máu để soạn lời báo tử cho ông trong các số báo đầu tiên vào ngày mai. “Mark Kendall thì sao?”. Ông hỏi. “Biên tập viên mục hình sự. Làm việc với New York Star vài tháng, nhưng chắc ông chưa bao giờ gặp ông ta”. Townsend lại nhìn vào một cái tên khác lạ hoắc và chờ Heather cung cấp những chi tiết liên quan. Ông biết cô ta bao giờ cũng nói những tin tức đắt giá nhất vào lúc cuối cùng. https://thuviensach.vn “Malcom McCreedy, biên tập viên chuyên mục tin chính. Ông ta làm cho Công ty ở tòa báo Melbourne Courier trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1984. Những ngày đó ông ta thường kể với mọi người trong tòa soạn là ông ta và ông từ lâu vốn là bạn rượu. Bị đuổi việc vì liên tục không nộp bài đúng hạn. Hình như sau mỗi cuộc giao ban sáng, whisky là thứ thu hút sự chú ý của ông ta, còn sau bữa trưa thì là bất cứ cái gì nằm trong váy. Mặc dù ông ta nói thế, tôi không thể tìm thấy bằng chứng cho thấy là ông đã gặp ông ta”. Townsend ngạc nhiên trước khối lượng tin tức mà Heather có thể thu thập được trong một thời gian ngắn như thế. Nhưng ông cho rằng sau một thời gian dài làm việc với ông, các mối quan hệ của cô cũng nhiều chẳng kém gì ông. “McCreedy đã hai lần lấy vợ”, cô ta nói tiếp. “Cả hai lần đều kết thúc bằng việc ra tòa ly dị, ông ta có hai con với người vợ đầu: Jill, hai mươi bảy tuổi và Alan hai mươi bốn. Alan làm cho tờ Dallas Comet của Công ty chuyên mục quảng cáo, rao vặt”. ‘‘Không còn gì tốt hơn”, Townsend nói. “McCreedy chính là người của chúng ta. ông ta sẽ nhận được cú điện thoại của người bạn cố tri”. Heather mỉm cười. “Tôi sẽ điện thoại cho ông ta ngay. Hy vọng là giờ ông ta vẫn còn tỉnh táo”. Townsend gật đầu và Heather trở lại chỗ làm việc của mình. Một ông chủ của 297 tờ báo, với số độc giả hơn một tỷ người trên toàn thế giới mà nay phải đợi để được gọi điện thoại cho một biên tập viên tin tức của một tờ báo địa phương ở Ohio với số phát hành chưa tới ba mươi lăm ngàn! Townsend lại đứng dậy đi lại quanh phòng, đầu óc sắp xếp những câu để hỏi McCreedy và trình tự sắp xếp những câu hỏi đó còn mắt thì ông nhìn những tờ báo của ông đóng khung treo trên tường với những tít báo nổi tiếng nhất: — Tờ New York Star ngày 30 tháng Bẩy, 1963: “Kennedy bị ám sát ở Dallas”. — Tờ Continent ngày 30 tháng Bẩy, 1981: “Hạnh phúc bên nhau mãi mãi” bên trên bức ảnh của thái tử Charles và Công nương Diana trong https://thuviensach.vn ngày cưới. — Tờ Globe ngày 17 tháng Năm, 1991: “Richard Branson đã phá trinh tôi: lời của một trinh nữ". Ông sẽ vô cùng sung sướng trả một triệu đôla để có thể được đọc những dòng tít lớn trên những tờ báo đó ngày mai. Chuông điện thoại trên bàn làm việc của ông réo lên. Townsend vội vàng trở lại ghế, vồ lấy ống nghe. “Malcom McCreedy đang cầm máy”, Heather nói rồi nối máy. Vừa nghe tiếng tích trong máy, Townsend nói ngay: “Malcom đấy à?”. “Đúng vậy, thưa ông Townsend”, câu trả lời nghe có vẻ ngạc nhiên và đặc sệt Úc. “Lâu quá không gặp, Malcom ạ. Thực ra là đã quá lâu. Cậu thế nào?”. “Khoẻ, rất khoẻ Keith ạ”, câu trả lời lần này nghe có vẻ tự tin hơn. “Bọn trẻ thế nào?”, Townsend hỏi, mắt nhìn vào mảnh giấy Heather để trên bàn. “Jill và Alan nhỉ? Alan đang làm cho Công ty ở Dallas phải không?” Im lặng kéo dài làm Townsend tự hỏi không biết có phải đường dây đã bị cắt hay không. Cuối cùng McCreedy nói: “Đúng đấy. Cảm ơn, hai đứa nhà mình nói chung làm ăn cũng được. Còn lũ trẻ nhà cậu thế nào?”. Rõ ràng ông ta không thể nhớ Townsend có mấy con và tên chúng là gì. “Cảm ơn cậu. Bọn trẻ nhà mình làm ăn cũng tàm tạm”. Townsend trả lời, có ý bắt chước ông ta. “Cậu thích ở Cleveland chứ?” “Cũng tạm được. Nhưng mình vẫn muốn trở về 0z hơn. Rất nhớ những trận bóng đội Tiger chơi vào chiều thứ bảy”. “Đó chính là một trong những chuyện mình muốn gọi và nói chuyện với cậu. Nhưng trước hết mình muốn xin cậu một vài lời khuyên đã”. “Gì cũng được. Keith ạ. Cậu luôn có thể tin tưởng ở mình”, ông ta đáp. “Nhưng có lẽ để mình khép cái cửa văn phòng đã nhé”, ông ta nói thêm vì lúc này tất cả các phóng viên có mặt tại tòa báo đều biết người đầu dây bên kia là ai. Townsend sốt ruột chờ. “Nào, mình có thể làm gì cho cậu hả Keith?”. https://thuviensach.vn “Cậu có quen Austin Pierson chứ?” Lại im lặng kéo dài. “Ông ta là một nhân vật quan trọng trong giới tài chính, đúng không? Hình như ông ta là chủ tịch của một trong những ngân hàng hay công ty bảo hiểm ở đấy thì phải. Đợi một chút nhé; mình kiểm tra trên máy tính xem”. Townsend lại phải đợi, thừa biết rằng nếu bốn mươi năm trước cha ông hỏi câu hỏi đó thì phải mất hàng giờ, thậm chí hàng mấy ngày mới hòng có được câu trả lời. “Tìm ra rồi", một lát sau người ở Cleveland nói. Ông ta ngừng lại một chút. “Bây giờ thì mình hiểu tại sao lại nhớ cái tên đó. Bốn năm trước, chúng mình làm một phóng sự khi ông này trở thành chủ tịch của Công ty chế tạo Cleveland”. “Cậu có thể cho mình biết gì thêm về ông ta?”, Townsend hỏi, không muốn mất thêm thời gian vào những chuyện tầm phào. “Không nhiều lắm đâu”, McCreedy trả lời, mắt vẫn nhìn vào màn hình máy tính trước mặt, thỉnh thoảng lại bấm thêm nhiều phím hơn. “Hình như ông ta là một công dân kiểu mẫu, trưởng thành từ nhân viên ngân hàng, rồi làm thủ quỹ của Câu lạc bộ Rotary ở địa phương. Là một linh mục dòng chính thống, lấy vợ và sống với bà này suốt ba mươi mốt năm trời, ông ta có ba con và cả nhà sống trong thành phố”. “Cậu biết gì thêm về lũ con ông ta không?”. McCreedy ấn một số phím trước khi trả lời. “Có đấy. Một người dạy sinh vật trong một trường trung học ở địa phương. Người con thứ hai là hộ lý trong bệnh viện Cleveland Metropolitan, còn người con út vừa trở thành thành viên đối tác của một công ty có danh tiếng nhất bang. Nếu cậu muốn làm ăn với ông Austin Pierson, cậu sẽ hài lòng biết rằng hình như ông này có tiếng là trong sạch, Keith ạ”. Townsend không hài lòng khi biết điều đó. “Vậy là không có chuyện gì trong quá khứ của ông ta để có thể…” “Theo mình thì không”, McCreedy trả lời. Ông ta nhanh chóng đọc lướt qua những ghi chép của mình trong suốt năm năm qua, hy vọng tìm được mẩu tin nào đó làm vừa lòng chủ cũ của mình. “A, có đây. Ông ta là loại https://thuviensach.vn mọt đục cứt sắt. Không cho mình phỏng vấn trong giờ làm việc, còn buổi tối khi mình đến nhà, cố gắng như thế nào cũng chỉ được ông ta mời một cốc nước dứa nhạt thếch”. Townsend cho rằng chẳng lấy được tin gì của McCreedy về Pierson và tiếp tục câu chuyện cũng chẳng giải quyết được gì. “Cảm ơn, Malcom”, ông nói. “Cậu đã giúp mình rất nhiệt tình. Nếu có tin tức gì về Pierson thì gọi ngay cho mình nhé”. Ông vừa định rập máy thì người nhân viên cũ của ông hỏi: “Còn chuyện cậu định bàn là gì thế, Keith? Cậu biết đấy, mình rất hy vọng có một chỗ làm ở Oz, có thể với tờ Courier”. ông ta dừng lại. “Mình nói với cậu điều này, Keith ạ. Mình sẵn sàng nhận mức lương thấp hơn nếu được làm việc cho cậu”. “Mình sẽ ghi nhớ điều đó", Townsend đáp. “Cậu có thể tin tưởng nếu khả năng đó xuất hiện, mình sẽ báo ngay cho cậu”. Townsend dập máy, biết chắc đó là người mà ông sẽ không bao giờ gọi lại trong đời. Cái mà McCreedy có thể cho biết về Austin Pierson là ông này là một người đầy những đức tốt, loại người không cùng hội cùng thuyền với Townsend, và ông không biết cách giao thiệp với loại người này. Lời khuyên của Beresford xem ra lại đúng, ông không có thể làm gì khác ngoài chuyện ngồi đó mà chờ. Ông ngả người trên ghế, một chân gác lên một chiếc ghế khác. Lúc này đã là 11 giờ 12 phút ở Cleveland, tức là 4 giờ 12 phút sáng hôm sau ở London và 3 giờ 12 phút chiều ở Sydney. Vào lúc sáu giờ tối hôm đó, có lẽ ngay ông cũng không thể kiểm soát được những hàng tít lớn trên báo chí của chính ông, chứ đừng nói gì tới báo chí của Richard Armstrong. Chuông điện thoại trên bàn lại đổ từng hồi. Có lẽ McCreedy đã tìm thấy tin tức thú vị nào đó về Pierson chăng? Townsend luôn cho rằng mỗi người đều có những chuyện bí mật riêng tư mà họ luôn muốn đào sâu chôn chặt. Ông vồ lấy máy. “Tổng thống Mỹ và Austin McCreedy cùng gọi. Ông trả lời ai trước ạ?” https://thuviensach.vn CHƯƠNG 3 ~oOo~ Sinh ra là người Do Thái dòng Ruthen có vài cái lợi và nhiều cái bất lợi, nhưng Lubji Hoch phải mất một thời gian dài mới phát hiện được những cái lợi của nó. Lubji ra đời trong một ngôi nhà nhỏ tường đá ở ngoại ô Douski, một thị trấn nằm lọt thỏm trong vùng biên giới giữa Séc, Rumani và Ba Lan. Anh không biết đích xác ngày sinh của mình vì gia đình không giữ giấy tờ, nhưng đại thể anh hơn cậu em một tuổi và kém cô chị cũng một tuổi. Nâng đứa trẻ trên tay, bà mẹ mỉm cười mãn nguyện. Cậu bé thật hoàn hảo, hoàn hảo cho đến cả vết bớt đỏ dưới xương bả vai bên phải, giống hệt cha cậu. Ngôi nhà nhỏ mà họ đang sống là của một vị giáo sĩ, anh trai ông bà ngoại cậu. Vị giáo sĩ đã nhiều lần can ngăn để Zelta đừng cưới Sergei Hoch, con trai người buôn gia súc trong vùng. Cô gái xấu hổ không dám thú nhận là đã có mang với Sergei. Mặc dù Zelta lấy chồng không đúng ý ông, vị giáo sĩ vẫn tặng cho đôi vợ chồng trẻ ngôi nhà làm quà cưới. Khi Lubji ra đời, bốn phòng trong nhà đã chật người. Đến lúc cậu lon ton chạy được thì lại có thêm một em trai và một em gái nữa. Cha cậu thường ra khỏi nhà ngay sau khi mặt trời mọc và mãi tối mịt mới về, nên con cái cũng ít khi thấy mặt. Mẹ Lubji giải thích là ông bận đi công chuyện. “Chuyện gì hả mẹ?” Lubji hỏi. “Bố chăn đàn gia súc mà ông nội để lại, con ạ”. Mẹ cậu coi vài con bò và mấy con bê hiển nhiên là đàn gia súc. “Nhưng bố làm việc ở đâu?”. https://thuviensach.vn “Ở cánh đồng phía bên kia thị trấn”. “Thị trấn ở đâu?” Zelta tiếp tục trả lời các câu hỏi cho đến khi cậu bé ngủ thiếp đi trong tay mẹ. Vị giáo sĩ chưa bao giờ nói với Lubji về cha cậu, nhưng ông nhiều lần kể với cậu rằng thời trẻ, mẹ cậu có rất nhiều người theo đuổi vì được coi không những là đẹp nhất, mà còn là cô gái thông minh của thị trấn. Vị giáo sĩ bảo, với những lợi điểm đó, mẹ cậu rất có thể đã trở thành một giáo viên ở trường địa phương, nhưng nay thì đành phải bằng lòng với việc truyền thụ kiến thức cho lũ con ngày một đông thêm. Nhưng trong đám con, chỉ có Lubji là đáp ứng được những cố gắng của mẹ. Cậu thường ngồi trên lòng bà, nghe như nuốt từng lời bà trả lời các câu hỏi của cậu. Những năm về sau, vị giáo sĩ bắt đầu quan tâm đến sự tiến bộ của Lubji. Ông thường lo lắng không biết bên nội hay bên ngoại giữ được tính trội trong việc hình thành tính cách của thằng bé. Nỗi lo của ông xuất hiện khi Lubji phát hiện ra cái cửa ra vào. Từ giây phút đó, cậu không chỉ bám lấy mẹ, mà còn bám vào cái lò sưởi, chú ý đến việc cha cậu đi đâu và làm gì sau khi ra khỏi nhà vào buổi sáng sớm. Rồi cậu bắt đầu xoay nắm đấm cửa và ra đường, bước vào cái thế giới rộng hơn của cha. Cậu rất thích khi được cha dắt tay đi qua những đường phố lổn nhổn đá sỏi của cái thị trấn đang chìm trong giấc ngủ, cho đến khi tới cánh đồng nơi cha cậu chăn dắt “đàn” gia súc. Nhưng rồi cũng chỉ được vài tuần, Lubji nhanh chóng thấy chán khi cứ nhìn mãi mấy con bò cái đứng đợi vắt sữa, rồi sau đó ăn cỏ. Cậu muốn biết cái gì đang diễn ra sau khi mọi người thức dậy trong thị trấn mà sáng sáng cha con cậu đi qua. Gọi Douski là một thị trấn thực ra là đã nói quá lên về tầm quan trọng của nó, vì nó chỉ có một vài dãy nhà tường đá, dăm bảy quán hàng, một quán ăn và một giáo đường nhỏ, nơi mẹ Lubji thường dẫn cả nhà tới cầu nguyện vào thứ bảy, và một tòa thị chính mà cậu chưa bao giờ được vào. Nhưng với Lubji, nó là nơi thú vị nhất trên đời. Một buổi sáng, cha cậu không nói năng gì, chỉ buộc dây vào hai con bò dắt về phía thị trấn. Lubji sung sướng vừa đi vừa nhảy tưng tưng bên cạnh, https://thuviensach.vn hỏi hết câu này đến câu khác về việc cha cậu định làm gì với hai con bò này. Nhưng không giống như khi hỏi mẹ, cha cậu không trả lời, hoặc nếu có thì cậu cùng chẳng biết gì rõ hơn. Lubji đành thôi không hỏi nữa, vì câu trả lời luôn là “cứ đợi khắc hiểu”. Khi cha con cậu đến vùng ngoại ô Douski, lũ bò được thúc đi về phía chợ Douski. Đột nhiên cha cậu dừng lại ở một góc chợ thưa người hơn. Lubji quyết định tốt nhất không nên hỏi tại sao lại chọn chỗ đó, vì cậu biết chắc ông sẽ không trả lời. Hai cha con đứng im lặng. Phải mãi sau mới có người để ý đến họ. Lubji thích thú quan sát mọi người lượn quanh hai con bò, người thì ngó nghiêng, vài người khác định giá chúng bằng thứ ngôn ngữ mà cậu chưa từng nghe. Cậu bắt đầu thấy việc cha cậu ở thế bất lợi như thế nào khi chỉ biết nói độc một thứ tiếng trong cái thị trấn biên giới giữa ba nước, ông ngớ người nghe người ta trả giá sau khi đã xem kỹ hai con vật gầy giơ xương. Khi có người trả giá bằng thứ tiếng mà cha cậu hiểu, ông lập tức chấp nhận mà không đòi trả thêm. Mấy tờ giấy màu và hai con bò được trao qua trao lại và cha cậu vào chợ mua một bao bột mỳ, một bịch khoai tây, vài miếng cá, mấy thứ áo quần linh tinh, một đôi giầy cũ cần phải khâu lại mới dùng được, vài thứ khác nữa như chiếc xe trượt và một chiếc khóa dây lưng mà ông nghĩ có thể ai đó trong nhà cần đến. Lubji thấy lạ là trong khi những người khác mặc cả với chủ hàng, thì cha cậu nghe nói giá thế nào là trả như thế, không hề thắc mắc. Trên đường về, cha cậu tạt vào quán, để cậu ngồi ngoài trông những thứ vừa mua. Mãi khi mặt trời khuất sau thị trấn, sau một vài chai bia, cha cậu mới khật khưỡng từ trong quán ra, vui vẻ để Lubji một tay cố kéo chiếc xe trượt chất đầy đồ, tay kia dắt cha. Khi mẹ cậu mở cửa, cha cậu loạng choạng bước vào nhà. Nằm vật ra đệm. Một lát sau, ông ngáy như sấm. Lubji giúp mẹ đưa đồ xuống nhà trái. Nhưng mặc cho cậu con trai tán dương về những thứ vừa mua, bà không hài lòng với kết quả một năm lao https://thuviensach.vn động. Bà vừa lắc đầu, vừa sắp xếp chúng. Bao bột mì được đặt vào chỗ cao trong góc bếp, bịch khoai tây nhét trong thùng gỗ, còn cá để gần cửa sổ. Zelta xem cỡ quần áo rồi quyết định cho đứa nào trong đám con bà, còn đôi giầy rách để gần cửa cho ai thích thì dùng. Cuối cùng, bà nhét cái khóa dây lưng vào một hộp carton nhỏ mà Lubji để ý thấy bà giấu trong tủ cạnh chỗ cha cậu nằm. Đêm ấy khi mọi người đã ngủ, Lubji quyết định sẽ không theo cha ra đồng nữa. Sáng hôm sau, khi cha cậu dậy, Lubji xỏ chân vào đôi giầy để cạnh cửa thì mới biết nó quá rộng so với cậu. Cậu theo cha ra khỏi nhà, nhưng lần này chỉ đến vùng ngoại vi thị trấn thì dừng lại, nấp sau một cây to. Cậu thấy ông cứ lầm lũi đi khuất, chẳng cần nhìn lại xem người thừa kế vương quốc của mình có đi theo hay không. Lubji chạy quay lại phía chợ. Suốt ngày hôm đó, cậu đi quanh mấy sạp hàng xem họ bày ra những gì. Một vài quầy bán rau quả, trong khi mấy sạp khác bán các đồ gia dụng hoặc bàn ghế, giường tủ. Nhưng hầu hết họ sẵn sàng trao đổi bất cứ thứ gì nếu họ thấy có lời. Cậu thích thú quan sát những thủ thuật mà họ dùng khi trao đổi với khách hàng: người thì dọa dẫm, kẻ gạ gẫm, xoen xoét cái mồm, nhưng ai cũng nói dối về chất lượng hàng của mình. Cái làm Lubji thích thú nhất là những ngôn ngữ mà họ nói với nhau. Cậu nhanh chóng phát hiện ra rằng hầu hết khách hàng, giống như cha cậu, đều phải mua với giá đắt. Buổi chiều, cậu lắng nghe cẩn thận hơn và bắt đầu học được một vài từ của những ngôn ngữ không giống như cậu đang dùng. Tới khi trở về nhà, cậu đã có cả trăm câu để hỏi mẹ và lần đầu tiên cậu phát hiện ra rằng một số câu thậm chí mẹ cũng không trả lời được. Sau cùng, bà bảo: “Đã đến lúc con phải đi học rồi đấy” – Cái khó là ở Douski không có trường nào nhận học sinh nhỏ như cậu. Zelta quyết định nói chuyện với ông ngoại cậu về vấn đề này khi có điều kiện. Xem ra với đầu óc sáng láng như Lubji, con trai bà biết đâu lại chẳng trở thành giáo sĩ. Sáng hôm sau. Lubji còn dậy trước khi cha cậu nhúc nhích, xỏ giầy và luồn ra khỏi nhà mà không làm ai thức giấc. Cậu chạy suốt đoạn đường đến chợ và lại đi quanh các sạp hàng, quan sát cách bày hàng ra sao cho buổi https://thuviensach.vn chợ sắp họp. Cậu lắng nghe khi họ mặc cả với nhau, bắt đầu hiểu nhiều hơn những điều họ nói. Cậu cũng bắt đầu nhận thức được ý mẹ muốn nói gì khi bà bảo cậu có năng khiếu trời cho về ngoại ngữ. Cái mà bà không biết là con trai bà còn có tài buôn bán. Lubji mê mẩn đứng quan sát một người đổi một tá nến lấy một con gà, trong khi một người khác đổi một khăn bàn lấy hai thùng khoai tây. Cậu tiếp tục đi quanh thì biết một con dê đổi được một một chiếc thảm cũ và một xe gỗ đầy đổi lấy một đệm giường. Cậu cứ ước ao giá mình có thể mua được chiếc nệm ấy, rộng hơn và dài hơn cái mà cả nhà cậu đang nằm. Sáng nào cậu cũng “đi" chợ. Cậu học được rằng thủ thuật mua bán phụ thuộc không chỉ vào loại hàng người ta phải bán, mà còn phụ thuộc vào khả năng thuyết phục người mua về sự cần thiết của hàng hóa đó. Chỉ cần có vài ngày là cậu nhận thức được rằng những người mua bằng những tờ giấy nhiều màu thường không chỉ ăn mặc sang hơn, mà rõ ràng là ở thế mạnh nên mua được rẻ hơn. Khi cha cậu quyết định mang hai con bò khác ra chợ, cậu bé sáu tuổi đã sẵn sàng làm chân đứng bán. Tối hôm đó, cậu chủ hàng trẻ tuổi lại dắt bố về. Nhưng sau khi ông bố say khướt ngã vật xuống nệm, mẹ cậu chỉ còn biết đứng đó ngạc nhiên nhìn đống hàng nhiều gấp bội mọi lần mà cậu con trai đặt trước mặt bà. Lubji bỏ ra cả tiếng đồng hồ giúp mẹ phân chia các thứ mua được cho các thành viên trong gia đình, nhưng không nói với mẹ rằng mình vẫn còn giữ một tờ giấy màu in con số 10. Cậu muốn thử xem có thể mua được những gì với tờ giấy đó. Sáng hôm sau, Lubji không đến ngay chợ. Lần đầu tiên cậu đánh liều vào phố Schull để nghiên cứu xem họ bán gì trong những cửa hàng mà thỉnh thoảng vị giáo sĩ già vẫn đến. Cậu dừng lại trước hàng bánh mỳ, hàng thịt, gốm sứ, quần áo và cuối cùng là hiệu kim hoàn của ông Lekski, cửa hàng duy nhất có biển chữ mạ vàng treo trên cửa. Cậu trố mắt nhìn cái gài ve áo bày ở giữa quầy gần cửa kính. Nó còn đẹp hơn nhiều so với cái mà mẹ cậu dùng vào ngày lễ Hashanah và đã có lần bà nói đó là vật gia bảo. Tối đó về nhà, cậu đứng cạnh bếp trong khi mẹ cậu đang chuẩn bị bữa ăn, https://thuviensach.vn một món thường lệ. Cậu kể với mẹ rằng các cửa hàng thực ra cùng giống như những sạp báo nhưng có cửa sổ kính ở phía trước, và rằng khi cậu ghé sát mặt nhìn vào trong thì thấy hầu như tất cả khách mua đều trả cho chủ hiệu những tờ giấy màu và không ai mặc cả. Ngày hôm sau, Lubji trở lại phố Schull. Cậu lôi tờ giấy màu ra khỏi túi và nghiên cứu nó khá lâu. Cậu vẫn không biết là người ta sẽ đổi những gì cho cậu để lấy tờ giấy đó. Sau khoảng một tiếng ngắm hàng qua cửa kính, cậu tự tin bước vào hàng bánh mỳ. Đưa tờ giấy cho người đàn ông đứng sau quầy. Ông ta cầm và nhún vai. Lubji hồi hộp chỉ vào chiếc bánh trên cái giá phía sau lưng ông ta. Người chủ hiệu lấy đưa cho cậu. Rất thoả mãn với thứ mua được, cậu xoay người định đi thì người chủ hiệu gọi với theo: “Này, còn tiền thừa của cháu”. Lubji quay lại, vẫn chưa hiểu ông ta bảo gì. Cậu thấy ông cho tờ giấy vào ngăn kéo và lấy ra mấy đồng xu đưa lại cho mình. Ra đến đường, cậu bé sáu tuổi xem rất kỹ những đồng xu. Một mặt có in số, còn mặt kia có hình một người đàn ông mà cậu không biết là ai. Vui mừng với món hàng mua được, cậu tiếp tục đến cửa hàng gốm sứ, ở đó cậu mua một cái bát to mà cậu hy vọng mẹ sẽ thấy cần. Vậy mà cũng mới chỉ hết có nửa số tiền xu. Chỗ dừng chân cuối cùng của Lubji là hiệu kim hoàn của ông Lekski. Cậu lại dán mắt vào cái gài ve áo rất đẹp sau cửa kính. Cậu đẩy cửa, bước thẳng đến quầy gặp một người đàn ông mặc complet, thắt cravate. “Bác có thể giúp gì cháu nào?” Ông Lekski hỏi, cúi người nhìn cậu. “Cháu muốn mua cái gài ve áo kia tặng mẹ”, cậu vừa nói vừa chỉ về phía cửa kính, giọng tự tin. Cậu chìa bàn tay cho ông ta thấy ba đồng xu còn lại sau khi cậu mua các thứ sáng nay. Ông già không hề cười, mà nhẹ nhàng giảng giải rằng cậu phải cần rất nhiều đồng xu như thế mới hy vọng mua được cái gài ve áo đó. Mặt Lubji đỏ dừ trong khi cậu nắm tay lại và vội vàng định đi. “Nhưng mà tại sao cháu không trở lại đây vào sáng mai nhỉ?” Ông già gợi ý. “Rất có thể bác sẽ tìm được thứ gì đó cho cháu cũng nên”. Mặt Lubji càng đỏ hơn. Cậu chạy vụt ra phố mà không ngoảnh lại. https://thuviensach.vn Tối hôm đó Lubji không ngủ được. Cậu cứ tự nhắc đi nhắc lại những lời của ông Lekski. Sáng hôm sau, cậu đứng ngoài cửa, rất lâu trước khi ông già đến mở cửa hàng. Bài học đầu tiên cậu học được của ông Lekski là những người đủ tiền mua đồ trang sức không bao giờ dậy sớm. Ông Lekski thuộc hàng bô lão trong thị trấn. Ông có ấn tượng sâu sắc với sự liều lĩnh của cậu bé 6 tuổi trong tay chỉ có mấy đồng xu lẻ mà dám vào cửa hàng ông, nên trong mấy tuần sau đó ông sẵn sàng trả lời hết câu hỏi này đến câu hỏi khác của cậu con trai người chăn gia súc. Chẳng bao lâu, chiều nào Lubji cũng ghé vào cửa hàng ông ít phút. Nhưng bao giờ cậu cũng đứng ngoài nếu ông già đang bán hàng cho khách. Chỉ khi khách đi rồi cậu mới vào, đứng ở góc phòng và tuôn ra hàng loạt câu hỏi mà cậu nghĩ từ tối hôm trước. Ông Lekski rất hài lòng nhận thấy Lubji không bao giờ hỏi một câu tới hai lần, và mỗi khi có khách vào, cậu bé nhanh chóng lui vào góc, giấu mình sau tờ nhật báo của ông. Tuy cậu cũng lần giở từng trang, nhưng ông chủ hiệu kim hoàn không chắc cậu đọc chữ hay là chỉ xem tranh. Một buổi tối, sau khi đã khóa cửa, ông Lekski đưa Lubji ra phía sau cửa hàng cho nó xem chiếc ôtô. Lubji tròn xoe mắt khi nghe ông bảo cái vật kỳ diệu này có thể tự nó chạy được mà không cần phải ngựa kéo. “Nhưng nó không có chân làm sao chạy được?” Cậu sửng sốt thốt lên rồi mở cửa xe, leo vào ngồi cạnh ông Lekski. Khi ông già nhấn nút khởi động, Lubji cảm thấy vừa thích, vừa sợ. Nhưng mặc dù mới chỉ được nhìn qua, mấy phút sau cậu đã muốn đổi chỗ cho ông Lekski để ngồi vào ghế lái xe. Ông Lekski cho xe chạy quanh thị trấn, rồi thả cậu ngoài cửa nhà. Thằng bé chạy vụt vào bếp, hét toáng lên: “Một ngày nào đó, con cũng sẽ có ôtô”. Zelta mỉm cười trước ý nghĩ đó, nhưng không nói cho cậu biết rằng ngay cả vị giáo sĩ cũng chỉ đi xe đạp. Bà tiếp tục bón cho cậu út, thề rằng đây là đứa cuối cùng. Sự ra đời của thằng út có nghĩa là cậu Lubji ngày càng lớn của bà không còn chỗ cùng nằm với các anh chị em trên chiếc đệm nữa. Thời gian gần đây thằng bé đành phải lấy báo cũ của vị giáo sĩ trải xuống nền nhà gần lò sưởi mà nằm. https://thuviensach.vn Ngay khi trời tối, lũ trẻ bắt đầu tranh giành chỗ ngủ. Gia đình nhà Hoch không đủ tiền mua nến thắp để kéo dài thời gian. Đêm này qua đêm khác, Lubji nằm gần lò sưởi nghĩ về chiếc xe của ông Lekski, cố tìm cách chứng minh cho mẹ cậu thấy là bà đã nghĩ sai. Rồi cậu bắt đầu nhớ đến cái gài ve áo mà bà chỉ dám dùng vào ngày lễ Rosh Hashanah. Cậu bắt đầu đếm trên ngón tay và tính toán cậu còn phải đợi thêm sáu tuần nữa mới có thể bắt đầu thực hiện kế hoạch đã hình thành trong đầu. Trước lễ Rosh Hashanah, Lubji nằm nghĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, khi mẹ mặc quần áo, cậu dán mắt nhìn bà, hay nói cho đúng hơn là nhìn cái gài áo bà đang dùng. Sau lễ nguyện, bà ngạc nhiên, cậu con trai cứ đeo riết lấy tay bà trên đường về, một việc trước nay nó chưa từng làm. Về đến nhà, Lubji ngồi xếp bằng tròn ở góc phòng, nhìn bà tháo ra thứ trang sức nhỏ đó. Zelta đứng ngắm đồ gia bảo của mình, khom người lôi cái hộp carton ra, cẩn thận đặt nó vào đó rồi cất vào tủ. Lubji cứ im lặng nhìn mẹ làm bà đâm hoảng, phải hỏi xem cậu có làm sao không. “Không sao đâu mẹ”, cậu đáp. “Hôm nay là ngày lễ Hashanah, nên con nghĩ ngày này năm sau con sẽ phải làm gì”. Mẹ cậu mỉm cười, vẫn còn nuôi hy vọng cậu con trai của bà sẽ trở thành giáo sĩ. Lubji không nói gì thêm trong khi đầu óc đang bận suy nghĩ về cái hộp carton. Cậu cảm thấy chẳng hề có tội nếu làm một cái việc mà mẹ cậu sẽ coi là tội lỗi, vì cậu tự thuyết phục mình rằng, rất lâu trước khi hết năm, cậu đã trả lại chỗ cũ mọi thứ, và thế là chẳng ai biết chuyện. Tối đó, khi cả nhà đã nằm lên nệm, Lubji thu mình cạnh lò sưởi giả vờ ngủ, cho đến khi tin chắc không ai còn thức, cậu bắt đầu thận trọng bò lại gần giường. Cha cậu ngáy như sấm, làm Lubji hoảng, chỉ sợ tiếng ngáy có thể làm ai đó tỉnh dậy thì nguy. Bằng cách lách nhẹ bàn tay phải vào, Lubji đẩy được cánh tủ. Cậu thọc tay trái vào trong, từ từ lôi chiếc hộp carton ra, đẩy cánh tủ về chỗ cũ, rồi nhẹ nhàng đi ra. Cậu quỳ xuống, lần tìm tay nắm cửa, bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Cái cửa cũ kêu cót két, điều mà trước đây cậu không để ý. Cậu bước ra ngoài, đặt https://thuviensach.vn chiếc hộp xuống, nín thở rồi khép nhẹ cửa lại. Lubji chạy khỏi nhà, tay ôm chặt chiếc hộp vào ngực. Cậu không nhìn lại. Giá cậu nhìn lại thì sẽ thấy vị giáo sĩ già đang đứng trong ngôi nhà lớn phía sau chăm chú nhìn theo. “Đúng như mình lo”, vị giáo sĩ lẩm bẩm. “Nó giống hệt đằng nội”. Khi đã đi thật xa, Lubji lần đầu tiên nhìn vào trong hộp, nhưng mặc dù trời sáng trăng, cậu cũng không phân biệt được những thứ trong đó. Cậu lại đi tiếp, chỉ sợ có ai nhìn thấy mình. Vào đến thị trấn, cậu ngồi nghỉ cạnh đài phun nước khô cạn, vừa mừng vừa run. Phải mất vài phút cậu mới phân biệt rõ đống của quý mẹ vẫn nâng niu cất giữ. Có hai chiếc khóa dây lưng, vài chiếc cúc đủ loại, trong đó có một chiếc rất to và bóng lộn, cùng một đồng xu cũ có hình ai đó. Và ở góc hộp là vật quý nhất: Chiếc gài ve áo nhỏ bằng hạc hình tròn xung quanh nạm đá, lấp lánh dưới ánh trăng. Khi đồng hồ trên nóc tòa thị chính điểm sáu tiếng, Lubji kẹp chiếc hộp dưới nách đi về phía chợ. Đến nơi, cậu ngồi giữa hai sạp hàng và lấy các thứ trong hộp ra. Sau đó, cậu lộn ngược chiếc hộp, bày chúng lên trên, chiếc gài ve áo được đặt ngay ở giữa. Vừa bày xong thì một người đàn ông vai mang bịch khoai tây dừng lại ngắm nghía. “Cái này bao nhiêu?” ông ta hỏi bằng tiếng Séc, tay chỉ vào chiếc cúc áo to bóng lộn. Cậu nhớ lại là ông Lekski không trả lời câu hỏi bằng một câu trả lời, mà bao giờ cũng là một câu hỏi khác. “Ông muốn trả bao nhiêu?” Cậu hỏi lại bằng thứ tiếng của người đàn ông nọ. Ông này đặt bao khoai tây xuống. “Sáu củ khoai tây”, ông bảo. Lubji lắc đầu. “Với một vật quý như thế này, ít nhất cũng phải mười hai củ”, cậu trả lời, cầm chiếc khuy áo đưa lên để ông ta có thể nhìn kỹ hơn. Người đàn ông nhíu mày. “Chín củ”, cuối cùng ông ta bảo. “Không được”, Lubji kiên quyết. “Ông nên nhớ cái giá cháu nói lúc đầu là giá thấp nhất đấy”. Cậu hy vọng mình đã nói giống như ông Lekski https://thuviensach.vn thường nói khi bán cho một vị khách hay mặc cả. Người nông dân lắc đầu, nhặt bao khoai tây đưa lên vai và đi về phía trung tâm thị trấn. Lubji tự hỏi liệu mình có sai lầm khi không chấp nhận cái giá chín củ không. Cậu khẽ chửi thề, sắp xếp lại các thứ trên hộp, chiếc gài ve áo vẫn ở chính giữa. “Còn cái này thì bao nhiêu?”, một khách hàng khác nhìn cái gài ve áo hỏi. “Bác trả bao nhiêu?”, Lubji hỏi lại bằng tiếng Hung. “Một bao bột mỳ tốt nhất”, ông ta nói, hãnh diện lấy trên lưng lừa xuống một bao bột mỳ đặt trước mặt Lubji. “Nhưng bác mua cái gài ve áo này làm gì?” Lubji hỏi, nhớ lại một thủ thuật khác của ông Lekski. “Mai là sinh nhật vợ bác”, ông ta giải thích. “Năm ngoái bác quên mua đồ tặng”. “Cái đồ gia bảo đã có trong gia đình cháu cả mấy thế hệ nay”, Lubji nói, giơ cao nó lên cho ông ta xem, “cháu sẵn sàng đổi cái nhẫn bác đang đeo kia…”. “Nhưng nhẫn này bằng vàng”, người nông dân cười phá lên, “còn của cháu bằng bạc”. “Cùng một bao bột mỳ của bác”, Lubji tiếp tục, tựa như chưa được nói hết câu. “Cháu không điên đấy chứ?” Ông nọ hỏi. “Cái gài này đã từng được một bà quý tộc sử dụng trước khi gặp vận rủi, vì thế cháu tự hỏi: vậy nó có xứng với người đàn bà đã sinh ra những đứa con cho bác hay không?”, Lubji nói, không cần biết ông ta có con hay không. “Hay bà lại bị lãng quên thêm một thời gian nữa?”. Người đàn ông Hung im lặng suy nghĩ về những lời của thằng bé. Lubji đặt lại chiếc gài ve áo vào giữa, mắt nhìn dán vào nó, không một lần nhìn chiếc nhẫn của người đàn ông. “Bác đồng ý đổi chiếc nhẫn, nhưng bao bột mỳ thì không”. Cuối cùng ông ta bảo. https://thuviensach.vn Lubji nhíu mày, giả vờ xem xét cái giá ông trả. Nó cầm chiếc gài ve áo lên ngắm nghía. “Thôi được”, nó thở dài nói. “Nhưng chỉ vì sinh nhật của vợ bác thôi đấy”. Ông Lekski đã dạy nó bao giờ cũng để cho khách hàng cảm thấy mình mua được giá hời. Người nông dân vội vàng tháo cái nhẫn vàng ra khỏi ngón tay và cầm lên chiếc gài ve áo. Vừa bán xong thì người khách lúc nãy trở lại, tay cầm chiếc xẻng cũ. Ông ta ném bịch khoai tây đã vơi một nửa xuống trước mặt cậu bé. “Bác đã nghĩ lại”, ông nói bằng tiếng Séc. “Bác đồng ý trả cho cháu mười hai củ khoai tây”. Nhưng Lubji lắc đầu. “Bây giờ thì phải mười lăm củ”, nó nói mà không nhìn lên. “Nhưng vừa lúc sáng cháu bảo là mười hai!”. “Đúng thế. Nhưng từ lúc ấy bác đã đổi một nửa số khoai mà cháu tin là chỗ khoai tốt, để lấy cái xẻng”, Lubji nói. Người nông dân lưỡng lự. Ông lại nhăn nhó, nhưng lần này không nhặt bịch khoai bỏ đi như lần trước. “Thôi được”, ông giận giữ nói và bắt đầu nhặt khoai ra. Nhưng Lubji lại lắc đầu. “Mày còn muốn gì nữa hả”, ông quát lên. “Tao nghĩ ta đã thoả thuận với nhau xong rồi cơ mà”. “Bác đã xem cái khuy của cháu”, Lubji bảo, “nhưng cháu thì lại chưa được nhìn khoai của bác. Đúng ra cháu mới là người chọn khoai, chứ không phải bác”. Ông người Séc nhún vai, mở bao khoai tây, để cậu bới tung chọn đủ mười lăm củ theo ý muốn. Sau đó, Lubji không đổi chác được gì thêm. Khi người ta bắt đầu dỡ sạp thì cậu cũng thu dọn đồ, cả cũ lẫn mới, cho vào trong hộp và lần đầu tiên bắt đầu thấy lo về việc mẹ cậu có thể đã biết việc cậu làm. Cậu từ từ đi qua chợ về phía bên kia thị trấn, dừng lại ở chỗ con đường tách làm hai ngả. Một con đường dẫn ra cánh đồng nơi cha cậu chăn gia súc, còn đường kia dẫn vào rừng. Lubji kiểm tra đường vào thị trấn xem có ai theo sau không, rồi biến vào rừng. Một lúc sau, cậu dừng lại chỗ một cây https://thuviensach.vn to mà cậu biết là không thể lẫn được khi muốn tìm lại. Cậu dùng tay móc thành một cái hố, vùi xuống đó cái hộp cùng mười hai củ khoai tây. Xong xuôi, cậu trở ra đường, vừa đi vừa đếm bước chân. Hai trăm linh bảy bước tất cả. Cậu nhìn lại một lần nữa, sau đó chạy một mạch qua thị trấn về nhà. Cậu dừng một lát để thở trước khi bước vào. Mẹ cậu đang múc súp cải nhạt thếch vào các bát, và chắc bà sẽ hỏi biết bao câu hỏi về việc cậu đi đâu về muộn nếu cậu không chìa ra ba củ khoai tây. Anh chị em cậu sáng mắt lên khi nhìn thấy chúng. Mẹ cậu dừng tay múc súp, nhìn thẳng vào mắt cậu. “Con ăn cắp ở đâu phải không, Lubji?” Bà hỏi, hai tay chống nạnh. “Không phải đâu mẹ ạ”, cậu đáp. “Con không ăn cắp”. Zelta thở phào nhẹ nhõm rồi cầm lấy. Bà rửa từng củ trong cái xô mà chỉ cần nước đầy quá nửa là đã chảy lênh láng. Sau khi rửa sạch, bà dùng móng tay gọt vỏ một cách khéo léo. Sau đó, bà cắt khoai thành từng miếng nhỏ, dành cho chồng miếng to hơn. Sergei ăn mà chẳng buồn hỏi xem cậu con trai kiếm đâu ra cái thứ đồ quý giá lâu lắm họ mới được nếm mùi. Hôm đó, mới chập tối mà Lubji đã lăn ra ngủ. Nó kiệt sức sau một ngày làm việc như một lái buôn. Sáng hôm sau, cậu ra khỏi nhà trước khi cha dậy. Cậu chạy một mạch vào rừng, đếm đủ hai trăm linh bảy bước, dừng lại khi đến cạnh gốc cây và bắt đầu đào. Lấy lên chiếc hộp, cậu trở vào thị trấn quan sát các thương gia dựng sạp hàng. Lần này cậu ngồi giữa hai sạp hàng ở cuối chợ. Nhưng hôm nay, khi khách đi chợ đã lặc lè ôm đồ đến chỗ cậu thì vì họ đã mua đủ các thứ cần thiết, nên không còn muốn mua gì thêm. Tối đó, ông Lekski giải thích cho cậu ba nguyên tắc tối thượng của nghề buôn bán là vị trí, vị trí và vị trí. Sáng hôm sau, Lubji bày hàng ngay gần lối vào chợ. Cậu nhanh chóng thấy rằng nhiều khách vào chợ dừng lại xem hàng của cậu, rất nhiều người hỏi bằng đủ các thứ tiếng khác nhau xem cậu muốn đổi cái nhẫn vàng lấy gì. Một số người còn đeo thử, nhưng dù nhiều người hỏi giá, cuối cùng cậu vẫn không bán được theo cái giá mà cậu cho là có lời. https://thuviensach.vn Lubji đang cố thương lượng đổi mười hai củ khoai và ba chiếc cúc áo lấy một chiếc xô không bị thủng thì thấy một ông già chỉnh tề trong chiếc áo khoác dài đen đang đứng cạnh, kiên nhẫn chờ cho cậu đổi chác xong. Vừa nhìn lên và nhận ra người đó, cậu đứng dậy chào. “Chào bác Lekski” và vội vàng xua một khách hàng khác đi. Ông già bước tới, cúi người và bắt đầu nhặt lên những thứ cậu bày bán. Lubji không thể tin người chủ hiệu kim hoàn lại quan tâm đến những món hàng của cậu. Lúc đầu, ông Lekski xem đồng xu cũ có hình Nga Hoàng. Ông xem xét nó rất kỹ. Lubji nhận ra rằng ông không thực sự quan tâm đến đồng xu nọ; đó chỉ là một thủ thuật mà cậu đã thấy ông sử dụng nhiều lần trước khi hỏi giá thứ hàng mà ông thực sự muốn mua. “Không bao giờ được để họ biết mình cần thứ gì”, ông đã nói với cậu cả trăm lần như thế. Lubji kiên nhẫn chờ cho ông già đánh mắt vào vật để ở giữa. “Cái này cháu muốn bao nhiêu” ông chủ hiệu kim hoàn hỏi, nhặt chiếc nhẫn vàng lên. “Bác trả cháu bao nhiêu?” Cậu bé hỏi, dùng đúng cái mẹo ông dạy. “Một trăm koruna”, ông bảo. Lubji không biết nên phản ứng thế nào vì chưa ai trả giá cậu thứ gì quá mười koruna. Rồi cậu nhớ đến nguyên tắc của ông thầy dạy: “Hãy nói giá gấp ba và bán với giá gấp đôi”. Cậu ngước nhìn ông thầy. “Ba trăm koruna”. Ông chủ hiệu kim hoàn cúi xuống đặt cái nhẫn về vị trí cũ. “Hai trăm là cái giá cao nhất bác trả”, ông nói dứt khoát. “Hai trăm năm mươi”, nó nèo thêm. Ông Lekski không nói gì, tiếp tục ngắm cái nhẫn. “Hai trăm hai mươi lăm”, cuối cùng ông nói, “với điều kiện cháu kèm thêm đồng xu kia”. Lubji lập tức gật đầu, cố giấu niềm vui bán được giá cao. Ông Lekski rút từ trong túi quần ra chiếc ví, đếm đủ hai trăm hai mươi lăm koruna trao cho Lubji, rồi nhặt đồng xu cổ và chiếc nhẫn vàng nặng cho vào túi. Lubji nhìn ông già, tự hỏi không biết ông còn gì để dạy nó nữa không. https://thuviensach.vn Chiều hôm đó vì không bán được gì thêm nên cậu thu dọn đồ sớm và đi vào trung tâm thị trấn, rất thoả mãn với những việc đã làm trong ngày. Khi đến phố Schull, cậu mua chiếc xô mới hết mười hai koruna, một con gà hết năm koruna và cái bánh mỳ nóng hổi trong hiệu bánh hết một koruna. Anh chàng lái buôn nhà ta vừa đi dọc phố vừa huýt sáo. Khi đi ngang cửa hiệu ông Lekski, cậu ghé mắt vào cửa kính nhìn xem cái gài ve áo xinh đẹp mà cậu định mua tặng mẹ trước ngày lễ Hashanah còn không. Cậu sửng sốt buông rơi chiếc xô. Hai mắt cậu trố ra. Chiếc gài áo được thay bằng đồng xu có hình Nga Hoàng Đệ Nhất, niên đại 1829. Cậu nhìn cái giá ghi trên tờ giấy để phía dưới: “Một ngàn năm trăm koruna”. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 4 ~oOo~ «Khủng hoảng phố Wall: Thị trường chứng khoán sụp đổ» Sinh ra là người Úc thế hệ thứ hai có nhiều cái lợi và một số cái bất lợi. Chẳng bao lâu Keith Townsend đã phát hiện ra những cái bất lợi đó. Keith ra đời vào lúc 2 giờ 32 phút chiều mồng 9 tháng Hai năm 1929, trong một ngôi nhà rộng kiểu cũ ở Toorak. Việc đầu tiên mẹ cậu làm khi còn đang nằm trên giường đẻ là gọi điện thoại đến trường tư thục Thánh Andrew ghi tên cho cậu con trai nhập học vào năm 1941. Từ văn phòng, cha cậu gọi điện cho thư ký của Câu lạc bộ Cricket Melbourne đăng ký tên cậu con trai làm hội viên, vì muốn vào đó phải ghi tên trước mười lăm năm. Cha của Keith, Hầu tước Graham Townsend vốn người ở thành phố Dundee xứ Scotland, nhưng vào đầu thế kỷ này đã cùng cha mẹ tới Úc trên một tàu chở gia súc. Mặc dù Hầu tước Graham là chủ bút của hai tờ Melbourne Courier và Adelaide Gazette, được phong tước vào năm trước, nhưng giới trưởng giả ở Melbourne mà một số thành viên đã mấy đời ở đó và lúc nào cũng làm người ta phải nhớ họ không phải là con cháu của những kẻ tử tội lưu đày, thường hoặc là coi như không quen biết ông, hoặc bao giờ cũng nhắc đến ông ở ngôi thứ ba. Hầu tước Graham chẳng mấy quan tâm đến chuyện đó, hoặc nếu có thì cũng không bao giờ bộc lộ ra ngoài. Những người ông thích giao du là những người làm trong các tòa báo và những người được ông coi là bạn mà thường tuần nào cũng bỏ ra ít nhất một buổi chiều ở trường đua. Đối với Hầu tước Graham, đua ngựa hoặc chó không khác gì nhau. https://thuviensach.vn Nhưng Keith có một bà mẹ mà giới trưởng giả Melbourne không thể dễ dàng làm ngơ, một người thuộc dòng dõi sĩ quan hải quân trong Hạm đội đầu tiên của Vương Quốc Anh. Giá như bà sinh chậm lại một thế hệ, thì câu chuyện này có lẽ là kể về bà, chứ không phải về con trai bà. Vì Keith là con trai duy nhất trong nhà, cậu là thứ hai trong ba người con (hai người kia là gái), nên ngay khi ra đời, Hầu tước Graham đã tin rằng cậu sẽ nối nghiệp ông trong ngành báo chí, và nhằm vào việc đó, ông bắt đầu sắp xếp để cậu học hành đầy đủ trước khi vào nghề. Lên ba tuổi. Keith đã được đến thăm Melbourne Courier là tờ báo của cha cậu và cậu lập tức ngây ngất trước mùi mực in, tiếng lách tách không ngừng của máy chữ và tiếng ầm ì của máy in. Từ giây phút đó, cậu thường được cha cho tới tòa báo mỗi khi có dịp. Hầu tước Graham chẳng khi nào ngừng khuyến khích con trai trong mọi việc, kể cả khi ông tới trường đua vào chiều thứ Bảy. Hầu tước phu nhân Townsend không thích những chuyện như vậy và thường bắt Keith phải dự lễ cầu nguyện tại nhà thờ vào sáng hôm sau. Bà rất thất vọng khi phát hiện ra cậu con trai mình thích những người thu tiền cá cược hơn là các linh mục. Sau cùng, bà quyết tâm đảo ngược tình thế bằng những cuộc phản công. Trong khi Hầu tước Graham bận công việc ở Perth trong những chuyến đi dài ngày, bà thuê một bảo mẫu tên là Florie chỉ để làm có mỗi một việc là đe nẹt con trẻ. Nhưng Florie, một bà goá ở tuổi năm mươi, xem ra không trị nổi cậu bé bốn tuổi và chỉ vài tuần sau, bà buộc phải hứa để cậu tới trường đua mà không cho mẹ cậu biết. Cuối cùng, khi Hầu tước phu nhân Townsend biết chuyện, đợi lúc chồng có việc đi New Zealand, bà bèn cho đăng quảng cáo trên trang nhất của tờ London Times. Ba tháng sau, cô Steadman xuống tàu ở ga xe lửa và đến làm việc tại Toorak. Cách thức của cô xem ra đúng như người ta giới thiệu với bà. Là con gái thứ hai của một mục sư dòng Presbytery xứ Scotland, theo học tại trường Thánh Leonard, cô biết chính xác điều người ta mong đợi ở mình. Trong khi Florie rất gắn bó với trẻ em và chúng cũng gắn bó với bà, https://thuviensach.vn thì Steadman hình như không gắn bó với cái gì khác ngoài nghề nghiệp của cô và thực hiện bằng hết cái được coi là trách nhiệm nặng nề của mình. Cô dứt khoát yêu cầu bất cứ ai, dù ở ngôi thứ nào cũng phải gọi cô cho đủ là Cô Steadman và luôn làm mọi người thấy rõ họ ở địa vị nào trong thang bậc xã hội của cô. Người lái xe phải nhẹ giọng và hơi cúi người, còn Hầu tước Graham thì gọi tên cô với sự tôn trọng. Ngay hôm đến, cô Steadman đã tổ chức cho trẻ chơi theo cái cách mà một sĩ quan hải quân đang làm nhiệm vụ trực tàu hẳn phải có ấn tượng sâu sắc. Keith cố bằng mọi cách, từ việc hờn dỗi đến nguyền rủa để phá cô, nhưng cậu nhanh chóng phát hiện ra rằng cô không hề xúc động. Lẽ ra ông bố đã can thiệp để cứu cậu con trai nếu như bà vợ ông không hết lời ca ngợi những cố gắng không mệt mỏi của cô gia sư, đặc biệt trong việc dạy cậu quý tử nói thứ tiếng Anh chính thống. Lên năm tuổi, Keith đi học và cuối tuần đầu tiên cậu phàn nàn với cô Steadman rằng chẳng có đứa con trai nào trong lớp muốn chơi với cậu. Cô không cho là mình đang ở cái địa vị để có thể nói cho cậu biết rằng trong những năm qua, cha cậu đã tạo ra rất nhiều kẻ thù. Tuần học thứ hai xem ra còn tồi tệ hơn, vì Keith liên tục bị một đứa tên là Desmond Motson, mà cha nó dính líu vào một vụ bê bối ở hầm mỏ bị đưa mấy ngày liền trên trang nhất của tờ Melbourne Courier bắt nạt. Mà cái thằng Motson này lại cao hơn Keith hai inch[2] và nặng hơn gần hai chục ký. Keith tính đem chuyện này nói với cha, nhưng vì hai cha con chỉ gặp nhau vào cuối tuần, nên cậu đành phải bằng lòng với việc sáng Chủ nhật ngồi với ông trong phòng làm việc để nghe quan điểm của ông về nội dung những tin đăng trên Courier và Gazette trước khi so sánh với các đối thủ của mình. “Gã độc tài giàu lòng trắc ẩn là một cái tít yếu”, một sáng chủ nhật cha cậu nói khi nhìn trang nhất của tờ Gazette của tuần trước. Một lát sau, ông nói thêm: “Còn nội dung lại càng yếu. Đừng bao giờ cho mấy tay này in bài trên trang nhất”. https://thuviensach.vn “Nhưng đầu cột chỉ có tên một người", Keith nói sau khi đã chăm chú lắng nghe. Hầu tước Graham tặc lưỡi. “Đúng thế, con ạ. Nhưng cái tít do người trợ lý biên tập đặt, có lẽ rất lâu sau khi người viết đã rời tòa báo về nhà”. Keith vẫn chưa hiểu, cho đến khi cha cậu giải thích rằng các tít báo có thể thay đổi chỉ vài phút trước khi tờ báo được in. “Tít báo phải thu hút sự chú ý của người đọc, nếu không chẳng bao giờ họ chịu ngó tới nội dung bài báo”. Hầu tước Graham đọc to một bài viết về người nắm quyền ở nước Đức. Đó là lần đầu tiên Keith nghe đến cái tên Adolf Hitler. “Bức ảnh thì tuyệt vời”, cha cậu nói thêm, tay chỉ vào người đàn ông thấp nhỏ có bộ ria rậm, tay phải chém trong không khí. “Chớ bao giờ quên cái câu nghe có vẻ mòn chán, con ạ: Một bức ảnh bằng cả một ngàn chữ”. Có tiếng gõ cửa rất mạnh mà cả hai cha con đều biết là không ai khác ngoài cô Steadman. Hầu tước Graham tự hỏi hình như tiếng gõ cửa của cô sáng Chủ nhật có xê dịch khoảng một vài giây so với ngày cô mới đến. “Mời vào”, ông nói với giọng hách dịch nhất rồi quay lại nháy mắt với cậu con trai. Hai cha con không cho ai biết là sau lưng Steadman, họ gọi cô là “Quốc trưởng cái”. Cô Steadman bước vào và nhắc lại đúng những từ mà sáng chủ nhật nào trong năm qua cô cũng nói: “Thưa ngài Hầu tước. Đã đến giờ cậu Keith đi lễ nhà thờ”. “Lạy Chúa! Muộn đến thế rồi sao, cô Steadman?” Ông thường đáp vậy rồi đẩy cậu con trai về phía cửa. Keith miễn cưỡng rời nơi an toàn là phòng làm việc của cha để theo cô Steadman đi ra. “Cô có biết cha cháu vừa nói gì không, cô Steadman?”, Keith hỏi bằng cái giọng Úc đặc sệt mà cậu tin sẽ làm cô ta khó chịu. “Tôi không biết, cậu Keith ạ”, cô ta đáp. “Nhưng dù cha cậu nói gì, chúng ta hãy hy vọng là nó không làm cậu mất tập trung vào bài giảng của cha Davidson”. Keith buồn bã im lặng trong khi họ đi ra xe, cả đến khi vào ngồi cùng cô chị và cô em ở ghế sau chiếc Rolls Royce. https://thuviensach.vn Keith hiểu là cậu phải lắng nghe từng chữ của vị cha xứ, vì cô Steadman bao giờ cũng kiểm tra ba chị em về những chi tiết nhỏ nhất trước khi cho chúng đi ngủ. Hầu tước Graham lấy làm mừng bởi cô ta không buộc ông phải qua những lần kiểm tra ấy. Ba ngày giam lỏng trong túp lều dưới gốc cây, túp lều cô Steadman cho dựng vài tuần sau khi cô đến, là hình phạt cho ai nắm được ít hơn tám mươi phần trăm bài giảng đạo. “Cái đó tốt cho việc hình thành tính cách”, cô thường xuyên nói với chúng như thế. Điều Keith không bao giờ nói với cô là thỉnh thoảng cậu cố ý trả lời sai, vì ba đêm nằm trong lều là cơ hội tuyệt vời để trốn ách phát xít của cô ta. Khi Keith mười một tuổi, có hai quyết định sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu sau này và cả hai đều làm cậu khóc toáng lên. Sau khi Anh tuyên chiến với Đức, Hầu tước Graham được chính phủ Úc trao cho sứ mạng đặc biệt, mà như ông giải thích cho cậu con trai, sẽ đòi hỏi ông phải ở nước ngoài một thời gian dài. Đó là quyết định thứ nhất. Quyết định thứ hai được đưa ra chỉ mấy ngày sau khi Hầu tước Graham lên đường đi London. Keith được gọi nhập học trường tư thục Thánh Andrew, một trường nội trú ở ngoại ô Melbourne và mẹ cậu dứt khoát bắt cậu phải đi. Keith không biết rõ quyết định nào làm cậu đau khổ hơn. Mặc chiếc quần dài lần đầu tiên, cậu bé đầm đìa nước mắt được xe đưa tới trường Thánh Andrew để dự lễ khai giảng. Mẹ giao cậu cho một bà xơ trông cứ như được tạc từ khối đá dùng để tạc cô Steadman ra vậy. Thằng bé đầu tiên mà Keith thấy bước vào cửa là Desmond Motson, và sau đó cậu phát hoảng biết rằng không những cậu ở cùng nhà, mà còn cùng buồng với nó. Đêm đầu, cậu không sao ngủ được. Sáng hôm sau, Keith đứng mãi tận cuối hội trường, lắng nghe bài diễn văn của ông Jessop, vị hiệu trưởng mới, người được lôi tới từ cái nơi gọi là Winchester ở bên Anh. Vài ngày sau, thằng bé phát hiện ra rằng cái mà ông Jessop cho là trò vui chỉ là một cuộc chạy bộ mười dặm qua các vùng thôn quê, sau đó là tắm bằng nước lạnh. Điều này tốt cho lũ trẻ, vì sau khi thay quần áo, chúng trở về phòng và phải đọc Homer trong nguyên bản. Gần https://thuviensach.vn đây Keith chỉ chú ý đọc những câu chuyện về “những người anh hùng ngoài mặt trận của chúng ta” cùng những chiến công của họ nơi tiền tuyến, được đăng trên tờ Courier. Sau một tháng học tại trường Thánh Andrew, cậu bé sẵn sàng đánh đổi vị trí của cậu với họ. Trong kỳ nghỉ đầu tiên, Keith kể với mẹ cậu là nếu những ngày đi học là những ngày hạnh phúc nhất trong đời thì chắc tương lai cậu cũng chẳng có gì mà hy vọng. Thậm chí bà còn được biết rằng cậu có rất ít bạn bè và đang trở thành một đứa trẻ cô độc. Ngày duy nhất trong tuần mà Keith mong đợi là thứ Tư, khi cậu có thể lẻn khỏi trường vào giữa trưa và mãi khi đèn tắt mới phải quay về. Ngay sau khi chuông báo hết giờ học, cậu thường đạp xe trên đoạn đường bảy dặm đến trường đua, nơi cậu có một buổi chiều hạnh phúc len lỏi trên khán đài, hoặc ở chỗ những con ngựa thắng cuộc. Ở tuổi mười hai, cậu cho mình là một người sành sỏi trong nghề, chỉ muốn có tiền riêng để đặt cược lớn hơn. Sau cuộc đua, cậu thường đạp xe tới tòa báo Courier xem số báo mới ra, rồi trở về trường trước khi đèn tắt. Giống như cha, Keith cảm thấy dễ giao thiệp với những người làm báo và giới cá cược hơn là với lũ con của tầng lớp khá giả ở Melbourne. Cậu những muốn nói cho những tay chuyên nghiệp này biết điều cậu muốn là, sau khi học xong, trở thành phóng viên chuyên mục đua ngựa cho tờ Sporting Globe, một trong những tờ báo của cha cậu. Nhưng cậu không dám thổ lộ bí mật đó với ai, sợ rằng họ có thể nói lại với mẹ cậu, là người từng bóng gió nói rằng đã có kế hoạch cho tương lai của con trai. Khi cha đưa cậu đến trường đua, thường không bao giờ ông nói với vợ hoặc cô Steadman là họ đi đâu. Keith thường quan sát thấy ông đặt cược rất nhiều trong tất cả các vòng đua, thỉnh thoảng lại cho con trai đồng sáu xu để thử vận may. Lúc đầu, Keith đánh cá theo con ngựa mà cha cậu chọn, nhưng cậu ngạc nhiên thấy việc này thường đem lại kết quả là cha cậu rỗng túi về nhà. Sau vài lần như vậy, và phát hiện ra rằng hầu hết những đồng sáu xu của cậu đều rơi vào cái túi da căng phồng của người thu tiền cá cược, Keith quyết định mỗi tuần bỏ hẳn ra mười xu mua tờ Sporting Globe. Lần giở các https://thuviensach.vn trang, cậu học thuộc tên của từng jockey người huấn luyện ngựa và chủ ngựa đã được Câu lạc bộ đua ngựa Victoria công nhận, nhưng cho dù có được mớ kiến thức mới đó, cậu thường xuyên vẫn thua như những lần trước. Đến tuần thứ ba của học kỳ, cậu thường cá cược hết cả chỗ tiền tiêu vặt của mình. Cuộc sống của Keith thay đổi vào cái ngày cậu phát hiện một cuốn sách quảng cáo trên tờ Sporting Globe nhan đề: “Làm thế nào để thắng trong cá cược” do một người có tên là Chàng Joe may mắn viết. Cậu ngon ngọt dụ Florie cho vay hẳn nửa đồng crown[3] và gửi thư đặt mua theo địa chỉ ghi bên dưới quảng cáo. Sáng nào cậu cũng đứng chờ người bưu tá, cho đến khi cuốn sách được gửi đến sau mười chín ngày. Từ giây phút Keith lật giở trang đầu tiên, Chàng Joe may mắn đã thay thế Homer, là tài liệu bắt buộc trong thời gian chuẩn bị bài buổi tối. Sau khi đọc cuốn sách hai lần, cậu tin tưởng mình đã tìm ra được cách thức đảm bảo thắng nhiều hơn thua. Thứ Tư sau đó, cậu trở lại trường đua, tự hỏi tại sao cha cậu lại không biết tận dụng cái phương pháp không thể sai lầm của Chàng Joe may mắn. Tối hôm đó, Keith đạp xe về trường sau khi đã nướng hết toàn bộ số tiền tiêu vặt cả học kỳ trong một buổi chiều. Cậu vẫn không chịu tin cậu thua do lỗi của Chàng Joe may mắn, mà cho rằng có thể cậu chưa hiểu hết được cách thức của anh ta. Sau khi đọc lại cuốn sách lần thứ ba cậu nhận ra sai lầm của mình. Như Joe may mắn đã giải thích ở trang 71, trước hết phải có một số tiền nhất định, nếu không đừng bao giờ nghĩ tới chuyện thắng cuộc. Trang 72 gợi ý số tiền đó là khoảng mười bảng, nhưng cha cậu thì còn đang ở nước ngoài, mà mẹ cậu lại theo một triết lý là “không vay mà cũng không cho mượn”, do đó cậu không có cách nào để chứng minh được ngay là Joe may mắn nói đúng. Vì vậy cậu đi đến kết luận là dù thế nào cũng phải kiếm thêm tiền, nhưng vì điều đó trái với nội quy của trường là không được kiếm tiền trong thời gian đang học, cậu đành bấm bụng đọc lại cuốn sách của Joe may mắn lần nữa. Giá như cuốn “Làm thế nào để thắng trong cá cược” mà là sách buộc phải đọc, thì hẳn cậu phải được điểm loại A. https://thuviensach.vn Học kỳ kết thúc, Keith trở về Toorak và thảo luận vấn đề tài chính với Florie. Bà bảo cậu một số cách mà các em bà sử dụng để kiếm thêm tiền túi trong những ngày nghỉ. Nghe lời bà khuyên, Keith trở lại trường đua, lần này không phải để đặt cược vì cậu vẫn chưa có tiền, mà để nhặt phân trong các tàu ngựa cho vào một bao tải đựng đường mà Florie đưa cho. Sau đó cậu phóng xe trở lại Melbourne với cái túi đầy để trên ghi đông, rồi trải số phân đó lên các bồn hoa của những người họ hàng nhà cậu. Sau bốn mươi bảy chuyến như thế trong vòng mười ngày, Keith đã có trong túi ba mươi shilling. Khi đã đáp ứng đủ yêu cầu của họ hàng, cậu bắt đầu chuyển sang làm cho các nhà hàng xóm. Đến cuối kỳ nghỉ, cậu đã kiếm được ba bảng, bảy shilling và bốn xu. Sau khi mẹ cho một bảng là tiền tiêu vặt của học kỳ tiếp theo, cậu sốt ruột quay lại trường đua để làm giàu. Nhưng khó nhất là cái hệ thống không thể sai lầm mà Joe may mắn viết trên trang 72 và nhắc lại ở trang 73 là: “Đừng sử dụng hệ thống này nếu không có đủ mười bảng”. Nếu ông Clarke không bắt gặp Keith đang nghiền ngẫm cuốn “Làm thế nào để thắng trong cá cược” trong giờ chuẩn bị bài, thì có lẽ cậu đã đọc lại nó lần thứ chín. Không những cuốn sách quý của cậu bị tịch thu và có lẽ còn bị tiêu hủy, mà nhục hơn là cậu còn bị ông hiệu trưởng đánh đòn trước mặt cả trường. Trong khi cúi người chịu đau, cậu nhìn thấy Desmond Motson ở ngay hàng đầu đang cười khoái trá. Tối đó, trước khi tắt đèn, ông Clarke bảo nếu ông ta không vì cậu mà can thiệp thì có lẽ cậu đã bị đuổi học. Cậu biết việc này chắc không làm hài lòng cha cậu đang từ một nơi gọi là Yalta ở Krym trở về, hoặc mẹ cậu hiện bắt đầu nói đến việc gửi cậu đến một trường đại học gọi là Oxford bên Anh. Nhưng Keith còn bận lo làm sao có thể biến ba bảng, bảy shilling và bốn xu của mình thành mười bảng hơn là lo những chuyện đó. Chính trong thời gian tuần thứ ba của học kỳ, Keith phác họa được ý tưởng nhân đôi số tiền bằng một cách mà ban giám hiệu trường không bắt bẻ vào đâu được. Căng tin của trường mở cửa từ năm đến sáu giờ ngày thứ Sáu, rồi đóng cửa cho đến thứ Sáu tuần sau. Vào sáng thứ Hai, hầu hết học sinh đã xơi đủ https://thuviensach.vn số bánh, đã nhai nhiều túi khoai rán và sung sướng uống không biết bao nhiêu mà kể những chai nước chanh hiệu Merchants. Mặc dù bọn chúng có vẻ hả hê, nhưng Keith tin rằng chúng vẫn còn muốn nữa. Trong hoàn cảnh đó, cậu nghĩ từ thứ Ba đến thứ Năm là cơ hội lý tưởng để bán hàng. Cậu chỉ cần mua những thứ mà chúng thích nhất trong căng tin, rồi đợi khi bọn chúng đã dùng hết số hàng mua trong tuần thì bán lại cho chúng là có lời. Thứ Sáu tiếp đó, khi căng tin mở cửa, Keith đã xếp hàng ngay đầu tiên. Người bán hàng ngạc nhiên thấy cậu Townsend bỏ ra ba bảng mua một thùng kẹo bạc hà và một hộp ba mươi sáu túi khoai rán, hai chục thanh kẹo anh đào và hai thùng, mỗi thùng có mười hai chai nước chanh. Ông này báo ngay cho ông Clarke, nhưng ông ta chỉ nói: “Tôi lấy làm ngạc nhiên không hiểu sao bà Townsend lại cho thằng bé nhiều tiền đến thế”. Keith lôi những thứ mua được đến phòng thay đồ và giấu tất cả vào trong ngăn tủ riêng của mình. Sau đó, cậu kiên nhẫn chờ cho qua cuối tuần. Chiều Chủ nhật Keith phóng xe tới trường đua, mặc dù đáng ra cậu phải ở nhà xem đội bóng của trường chơi trận hàng năm với trường Geelong. Cậu cuống lên, không biết đặt cược vào con ngựa nào. Cậu nghĩ: Lạ thật, làm sao mà chọn được con ngựa thắng cuộc trong khi trong túi không có tiền. Sau giờ dự lễ nhà thờ, Keith kiểm tra các phòng sinh hoạt chung của các lớp năm trên và năm dưới, sung sướng thấy kẹo bánh và nước uống của chúng đều sắp cạn. Vào giờ nghỉ ngày thứ Hai, cậu quan sát lũ bạn học đứng túm tụm ở hành lang trao nhau những chiếc kẹo cuối cùng, mở những thanh sôcôla cuối cùng và uống nốt chỗ nước chanh còn lại. Sáng thứ Ba, cậu để ý nhìn vỏ chai xếp từng hàng dài gần thùng rác trong góc phòng. Đến chiều, cậu đã sẵn sàng để đưa lý thuyết của mình vào thực tiễn. Trong giờ thể thao, cậu ngồi lỳ trong phòng in nhỏ mà cha cậu đã tặng trường năm trước. Mặc dù máy móc đã cũ và phải in bằng tay, nhưng cũng đủ để thoả mãn nhu cầu của Keith. Một tiếng sau cậu ra khỏi phòng, mang theo ba mươi bản in trong đó thông báo rằng một căng tin khác sẽ được mở từ năm tới sáu giờ ngày thứ Tư, bên ngoài phòng để đồ số 19 thuộc phòng thay đồ của lớp năm trên. https://thuviensach.vn Mặt sau là danh mục các loại hàng có trong căng tin với giá cả đã được “điều chỉnh”. Keith phát cho mỗi học viên trong lớp một tờ ngay khi bắt đầu giờ học cuối của buổi chiều, hoàn thành nhiệm vụ chỉ mấy phút trước khi thầy dạy địa lý vào lớp. Cậu đã lên kế hoạch sẽ in thêm nhiều hơn vào tuần tới nếu việc này thành công. Chiều hôm sau, khi Keith xuất hiện ở phòng thay đồ vài phút trước năm giờ, cậu đã thấy một đám xếp thành hàng dài trước ngăn để đồ của mình. Cậu lập tức mở tủ, kéo mấy cái thùng ra để dưới sàn. Chưa đầy một giờ, cậu đã bán hết veo số hàng. Với cái giá cao hơn giá gốc hai mươi lăm phần trăm, rõ ràng cậu đã kiếm được một bảng tiền lời. Chỉ có Desmond Metson đứng trong góc nhà nhìn cảnh tiền trao cháo múc là bàu bàu về cái giá cắt cổ của Keith. Nhà doanh nghiệp trẻ nói với nó: “Tuỳ cậu thôi. Hoặc là đứng vào hàng, hoặc là đợi đến thứ Sáu tuần sau”. Motson bỏ ra khỏi phòng, vừa đi vừa làu bàu đe dọa. Thứ Sáu sau, Keith trở lại xếp hàng trước cửa căng tin trường. Cậu thống kê những thứ đã bán hết, nên chỉ mua những thứ bổ sung. Khi ông Clarke được thông báo Keith đã mua bốn bảng và mười shilling hàng căng tin ngày thứ Sáu đó, ông thú nhận là mình không hiểu và quyết định nói chuyện lại với ông hiệu trưởng. Chiều thứ Bảy Keith không ra trường đua, mà dùng thời gian in một trăm tờ quảng cáo. Sáng thứ Hai, cậu phát không chỉ cho bạn cùng lớp, mà cả những học sinh ở hai lớp năm dưới. Sáng thứ Ba, trong giờ lịch sử nước Anh giai đoạn 1815-1867, cậu tính toán ở mặt sau bản Dự luật cải cách 1832 rằng với đà này, chỉ cần ba tuần là cậu có thể có đủ mười bảng cần thiết để thử nghiệm cái hệ thống không thể sai lầm của Joe may mắn. Nhưng trong giờ học tiếng La Tinh chiều thứ Tư, cái hệ thống không thể sai lầm của chính cậu bắt đầu tỏ ra sai. Ông hiệu trưởng bất ngờ bước vào phòng và yêu cầu Townsend ra gặp ông ngay tại hành lang. “Và nhớ cầm theo chìa khóa ngăn để đồ của cậu”, ông nói thêm với vẻ dữ dằn. Trong khi im lặng đi dọc hành lang, ông Jessop đưa cho cậu tờ quảng cáo. Keith https://thuviensach.vn nghiên cứu danh mục hàng mà cậu có thể đọc thuộc lòng hơn bất cứ bảng nào trong tập từ vựng La Tinh của Kennedy: “Kẹo bạc hà, 8 xu; khoai rán 4 xu; kẹo anh đào 4 xu; nước chanh, một shilling. Hãy đến ngoài phòng để đồ số 19 thuộc phòng thay đồ của lớp trên vào lúc 5 giờ chiều ngày thứ Năm. Khẩu hiệu của chúng tôi là: Ai đến trước được phục vụ trước.” Keith giữ vẻ mặt bình thản trong khi lẽo đẽo đi dọc hành lang. Vào đến phòng thay đồ, Keith thấy thầy chủ nhiệm và thầy dạy thể thao đã đứng ngay cạnh ngăn để đồ của cậu. “Mở ra, Townsend”, ông hiệu trưởng nói cộc lốc. Keith tra chìa vào ổ và từ từ xoay. Cậu mở cánh tủ trong khi bốn người cùng nhìn vào trong, ông Jessop ngạc nhiên thấy chẳng có gì trong đó ngoài chiếc gậy chơi cricket, một đôi nịt gối và một chiếc áo trắng nhầu nát trông như đã được mặc liền mấy tuần. Ông hiệu trưởng có vẻ tức giận, thầy chủ nhiệm ngượng ngùng, còn thầy thể thao thì lúng túng. “Có thể các thầy nhầm với học sinh khác chăng?” Keith hỏi với vẻ mặt rất ngây thơ. “Khóa lại và trở về lớp ngay, Townsend”, thầy chủ nhiệm bảo. Keith vâng lời, gật đầu với vẻ nhơn nhơn và từ từ đi dọc hành lang về lớp. Khi đã ngồi xuống ghế, Keith vẫn chưa biết mình phải hành động như thế nào. Liệu cậu nên lấy lại số hàng, thu hồi vốn, hay nhắn ai đó đến chỗ giấu hàng, bán tống bán tháo rồi thôi luôn? Desmond Motson quay lại nhìn cậu. Nó có vẻ ngạc nhiên và thất vọng thấy Keith lại được quay về lớp. Keith mỉm cười với nó và lập tức biết cần phải chọn cái nào trong hai giải pháp trên. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 5 ~oOo~ «- Báo The Times Ngày 9 tháng Ba, 1936 Quân Đức chiếm vùng Rhine» Phải mãi tới khi người Đức tái chiếm vùng Rhine Lubji mới lần đầu tiên nghe nói đến cái tên Adolf Hitler. Mẹ cậu nháy mắt khi bà đọc những lời của Quốc trưởng Đức đăng trong tờ tuần báo của vị giáo sĩ. Sau khi đọc xong mỗi trang, bà lại đưa nó cho đứa con trai lớn. Bà chỉ dừng lại khi trời quá tối không còn đọc được nữa. Lubji thì có thể tiếp tục đọc thêm được một lúc. “Nếu Hitler vượt qua biên giới thì chúng ta cũng phải đeo những ngôi sao vàng hả mẹ?” Cậu hỏi. Zelta giả vờ ngủ. Từ lâu mẹ cậu đã không còn giấu được những người khác trong nhà chuyện Lubji là đứa con được bà cưng nhất, cho dù bà nghi chính cậu là thủ phạm của vụ chiếc trâm cài áo biến mất. Bà kiêu hãnh nhìn cậu con nay đã là một chàng thiếu niên cao to, đẹp trai. Nhưng bà vẫn dứt khoát, dù cậu buôn bán thành đạt, mà bà phải công nhận là cả nhà được nhờ, là cậu phải trở thành giáo sĩ. Bà có thể đã uổng phí đời bà, nhưng Lubji thì nhất định không được uổng phí đời nó. Trong sáu năm sau đó, Lubji sáng nào cũng được vị giáo sĩ già kèm cặp trong ngôi nhà trên đồi. Đến trưa được thả, cậu lại ra chợ, là nơi mới đây cậu đã mua được sạp hàng riêng. Vài tuần sau lễ mitzvah, vị giáo sĩ trao cho mẹ Lubji lá thư người ta báo với ông rằng Lubji đã được học bổng để theo học tại trường ở Ostrava. Đó là ngày hạnh phúc nhất trong đời Zelta. https://thuviensach.vn Bà biết con bà thông minh, có lẽ còn xuất chúng nữa, nhưng bà cũng hiểu rằng việc được nhận vào học ở đó chỉ có thể là do tiếng tăm của ông cậu. Lúc đầu, khi được biết có học bổng đi học, Lubji cố không tỏ ra hoảng hốt. Mặc dù chỉ được phép ra chợ vào buổi chiều, nhưng cậu đã kiếm đủ tiền để sắm cho mỗi người trong nhà một đôi giầy và hai bữa ăn hàng ngày. Cậu muốn giải thích với mẹ rằng làm giáo sĩ chẳng có nghĩa lý gì một khi cái mà cậu muốn là có một cửa hàng trong cái lô còn trống bên cạnh cửa hàng của ông Lekski. Ông Lekski đóng cửa hiệu để lái xe đưa chàng thiếu niên đến trường. Trên con đường dài ấy, cậu nói với ông già rằng hy vọng một ngày nào đó sau khi học xong, cậu sẽ tiếp quản cửa hiệu của ông. Lubji chỉ muốn quay về nhà ngay và chỉ sau khi bị thuyết phục mãi cậu mới cầm chiếc túi da nhỏ, vật cuối cùng mà cậu trao đổi chiều hôm trước, để bước qua chiếc cổng đá to tướng vào trường. Nếu Lekski không nói thêm ông sẽ không bao giờ nhận Lubji vào làm trong cửa hàng, trừ phi cậu học hết năm năm ở trường, có lẽ cậu đã bỏ về. Lubji nhanh chóng phát hiện ra rằng, ở trường, hầu như không có học trò nào thuộc gia đình nghèo hèn như cậu. Một vài đứa cùng lớp đã nói trực tiếp hoặc gián tiếp, là cậu không phải loại người chúng muốn giao thiệp. Những tuần sau đó, cậu cũng phát hiện thêm rằng những trò tiểu xảo mà cậu học được ngoài chợ chẳng có ích gì trong một thể chế như ở đây, cho dù ngay cả đứa thành kiến nhất cũng không thể phủ nhận được việc cậu có năng khiếu ngôn ngữ bẩm sinh. Và chắc chắn những giờ học dài, ít ngủ và kỷ luật chặt chẽ không làm cậu bé từ Douski lo ngại. Vào cuối năm học đầu tiên tại Ostrava, Lubji đứng ở nửa trên của lớp trong tất cả các môn. Cậu đứng đầu môn toán, thứ ba môn tiếng Hung - hiện đã trở thành ngôn ngữ thứ hai của cậu. Nhưng ngay cả ông hiệu trưởng cũng không thể không nhận thấy cậu rất ít bạn và ngày càng trở nên cô độc. Ít ra thì ông cũng yên tâm là không có đứa nào dám ăn hiếp thằng bé bất trị này; đứa duy nhất thử giở trò đó đã phải vào trạm xá điều trị. Khi Lubji trở lại Douski, cậu ngạc nhiên thấy thị trấn sao mà nhỏ, gia đình cậu sao mà nghèo và sao họ đã quen dựa vào cậu đến thế. https://thuviensach.vn Sáng sáng, sau khi cha cậu đã ra đồng, Lubji thường đi bộ đến nhà vị giáo sĩ ở trên đồi để tiếp tục học. Nhà học giả già kinh ngạc trước khả năng làm chủ ngôn ngữ của cậu, và thừa nhận ông không còn dạy nổi cậu môn toán nữa. Buổi chiều Lubji trở lại chợ, và gặp ngày may mắn, cậu kiếm đủ đồ ăn cho cả nhà. Cậu thử dạy các em trai cách thức buôn bán để chúng có thể quản lý được sạp hàng vào buổi sáng và sau khi cậu trở lại trường, và nhanh chóng nhận ra rằng đó là việc làm vô vọng. Cậu những mong mẹ cho phép cậu ở lại nhà, xây dựng được một cơ sở buôn bán mà cả nhà có thể được nhờ cậy. Nhưng Zelta tỏ ra không quan tâm đến những gì cậu làm ngoài chợ, mà chỉ hỏi về chuyện học hành mà thôi. Bà đọc đi đọc lại phiếu báo điểm, đến mức cuối ngày chắc đã thuộc lòng từng dòng. Điều đó càng làm Lubji thêm quyết tâm năm sau phiếu báo điểm của cậu phải làm mẹ hài lòng hơn nữa. Hết kỳ nghỉ sáu tuần, Lubji miễn cưỡng cho quần áo vào lại chiếc túi da nhỏ và lại được ông Lekski đánh xe đưa trở lại Ostrava. “Lời mời của bác vẫn để ngỏ”, ông nói với cậu, “nhưng chỉ sau khi cháu học xong”. Vào năm học thứ hai, cái tên Adolf Hitler xuất hiện trong các câu chuyện thường xuyên chẳng kém gì tên của Moise. Người Do Thái hàng ngày bỏ chạy qua biên giới kể lại những chuyện kinh hoàng đang diễn ra ở Đức và Lubji thường tự hỏi không biết gã Quốc trưởng tới đây còn dự định làm những trò gì. Cậu đọc tất cả các báo mà cậu có được bằng các thứ tiếng, cho dù là báo cũ. “Hitler nhìn về Phương Đông”, một tít trên trang nhất của tờ Ostrava viết. Khi Lubji giở tới trang bảy để đọc nốt bài báo thì không thấy, nhưng điều đó không ngăn được cậu tự hỏi bao lâu nữa thì xe tăng Đức sẽ tiến vào Tiệp Khắc. Cậu có thể nói chắc một điều: Cái chủng tộc siêu việt của Hitler chắc chắn không bao gồm những người như cậu. Cuối buổi sáng hôm đó, cậu nói những lo lắng này với thầy lịch sử, nhưng xem ra tầm nhìn của ông này không vượt quá được Hannibal, chớ chưa nói gì đến vùng núi Alpes. Lubji gấp sách, không suy nghĩ đến hậu quả việc làm của mình, đùng đùng bỏ ra khỏi lớp, đi dọc hành lang, về phía https://thuviensach.vn văn phòng ông hiệu trưởng. Cậu dừng lại trước cánh cửa mà cậu chưa từng bước qua, ngập ngừng một lát rồi mạnh dạn gõ. “Vào đi”, một giọng đáp. Lubji từ từ mở cửa và bước vào văn phòng. Vị hiệu trưởng trông thánh thiện trong bộ lễ phục học đường màu đỏ và xám, chiếc mũ đen chụp trên chỏm tóc đen xoăn tít. Ông vẫn ngồi, ngước mắt lên hỏi: “Đây chắc là một vấn đề cực kỳ quan trọng phải không?”. “Vâng, thưa thầy”, Lubji tự tin trả lời. Rồi nó mới thấy hoảng. “Nào, nói đi”, ông hiệu trưởng nhắc sau một hồi im lặng. “Chúng ta phải sẵn sàng khi có tin là di chuyển ngay”, cuối cùng Lubji lắp bắp. “Cần phải nghĩ rằng không lâu nữa Hitler…” Ông hiệu trưởng già mỉm cười nhìn Lubji và vẫy tay ra hiệu không cần nói nữa. “Hitler đã nói với chúng ta cả trăm lần là ông ta không quan tâm đến việc chiếm đóng lãnh thổ của bất cứ nước nào”, ông nói cứ tựa như đang sửa một lỗi nhỏ của Lubji trong bài kiểm tra lịch sử. “Em xin lỗi đã làm mất thời gian của thầy”, Lubji nói, nhận ra rằng cho dù cậu có khéo trình bày đến mấy cũng không thuyết phục được ông già lơ mơ với thời cuộc này. Nhưng trong những tuần sau, trước tiên là thầy giáo phụ đạo, sau đến thầy chủ nhiệm và cuối cùng là ông hiệu trưởng đều phải thú nhận rằng lịch sử đang viết rõ ràng trước mắt họ. Vào một buổi tối ấm áp tháng Chín, ông hiệu trưởng đi quanh trường báo cho học sinh biết chúng cần thu dọn đồ đạc vì rạng sáng hôm sau trường sẽ chuyển đi nơi khác. Ông không ngạc nhiên khi thấy phòng của Lubji đã trống trơn. Ngay sau lúc nửa đêm, một sư đoàn xe tăng Đức đã vượt biên giới, tiến thẳng vào Ostrava mà không gặp sự kháng cự nào. Lính Đức lục soát cả trường ngay trước giờ ăn sáng, lôi tất cả học sinh lên những chiếc xe tải đang đợi sẵn. Chỉ có một học sinh không có mặt khi điểm danh. Lubji Hoch đã đi khỏi trường từ đêm trước. Sau khi nhét tất cả các thứ vào chiếc túi da nhỏ, cậu nhập vào dòng người tị nạn đang đi về hướng biên giới Hungari. Cậu cầu Chúa rằng mẹ cậu không chỉ đọc báo, mà đọc cả suy tính của https://thuviensach.vn Hitler và đã có thể cùng gia đình trốn thoát. Gần đây, cậu nghe nhiều tin đồn về việc người Đức dồn tất cả dân Do Thái vào các trại tập trung. Cậu cố không nghĩ đến những gì có thể xảy ra với gia đình cậu nếu họ bị bắt. Tối hôm đó, khi Lubji lẻn khỏi cổng trường, cậu không dừng lại để nhìn đám dân địa phương chạy từ nhà này sang nhà khác tìm kiếm người thân, trong khi những người khác chất đủ các thứ lên những chiếc xe ngựa kéo mà chắc chắn chiếc xe quân sự chạy chậm nhất cũng dễ dàng đuổi kịp. Đêm nay không phải là đêm để lo chuyện đồ đạc. Ai mà bắn được đồ đạc, Lubji muốn nói với họ. Nhưng có ai buồn đứng đó để nghe chàng thiếu niên cao to trong bộ đồ học sinh với mái tóc đen xoăn tít nói. Vào lúc xe tăng Đức bao vây trường, cậu đã đi được mấy dặm trên con đường về phía Nam dẫn tới vùng biên giới. Lubji không dám dừng lại ngủ. Cậu đã nghe tiếng pháo vang rền khi kẻ thù từ phía Tây tiến vào thành phố. Cậu đi, đi mãi, vượt trước những người đi chậm vì phải mang theo đồ đạc. Cậu vượt qua những đoàn lừa và xe ngựa chở nặng, bánh xe cần phải sửa, và những gia đình có con nhỏ và người già luôn phải chờ những người đi chậm. Cậu quan sát thấy các bà mẹ bắt đầu cắt tóc cho con và bỏ đi tất cả những gì có thể chứng tỏ họ là người Do Thái. Cậu không dừng lại để cự nự họ vì không muốn lãng phí thời gian quý báu. Cậu thề rằng không gì có thể làm cậu từ bỏ tôn giáo của mình. Cái thứ kỷ luật mà cậu bị nhồi nhét trong hai năm qua ở trường cho phép Lubji đi bộ đến tận tối mà không cần ăn nghỉ. Cuối cùng, cậu lăn ra ngủ ở phía sau chiếc xe ngựa, sau đó là trên ghế trước của một chiếc xe tải. Cậu quyết bằng bất kỳ giá nào cùng phải đi tới được một đất nước thân thiện. Mặc dù tự do chỉ cách đó một trăm tám mươi cây số, Lubji đã qua ba lần mặt trời mọc rồi lặn trước khi nghe thấy tiếng những người đi trước hét lên sung sướng khi họ đến được Hungari là nước có chủ quyền. Cậu dừng lại ở cuối một hàng dài người sắp trở thành dân di cư. Suốt ba tiếng sau đó, cậu chỉ nhích được có vài trăm mét, và hàng người bắt đầu chuẩn bị ngủ qua đêm. Những cặp mắt lo lắng nhìn lại phía sau, nơi những cột khói đang bốc cao, và có thể nghe thấy tiếng súng khi quân Đức tiếp tục bước tiến thô bạo của chúng. https://thuviensach.vn Lubji đợi cho đến khi trời tối hẳn mới lặng lẽ luồn qua những gia đình đang ngủ say, cho đến khi có thể nhìn rõ những ngọn đèn của đồn biên phòng trước mặt. Cậu kín đáo ngủ trong một chỗ đất phẳng, đầu gối lên chiếc túi da. Sáng hôm sau, khi nhân viên hải quan nhấc thanh chắn đường lên, Lubji đã đứng đợi ở đầu hàng. Khi những người phía sau thức dậy thấy trước mặt là một cậu thiếu niên mặc đồng phục nhà trường đang rì rầm cầu nguyện, họ cũng chẳng buồn hỏi bằng cách nào cậu lại ở đó. Viên sĩ quan hải quan không phí thời gian lục cái túi của Lubji. Khi đã qua khỏi biên giới, cậu không rời con đường dẫn về Budapest, thành phố Hung duy nhất mà cậu nghe nói. Lại thêm hai ngày đêm chia sẻ đồ ăn với những gia đình hào phóng, sung sướng vì đã thoát khỏi cơn thịnh nộ của người Đức, cậu đã đến được vùng ngoại ô thủ đô vào ngày 23 tháng Chín năm 1939. Lubji không thể tin những điều cậu nhìn thấy. Chắc chắn đây phải là thành phố lớn nhất thế giới? Cậu dành mấy giờ đầu lang thang qua các phố, mỗi bước đi là mỗi ngất ngây. Cuối cùng cậu kiệt sức trên tam cấp một giáo đường Do Thái và sáng hôm sau tỉnh dậy, việc đầu tiên cậu làm là hỏi đường đến chợ. Lubji sững sờ nhìn từng dãy các quầy hàng có mái che chạy dài tít tắp. Một vài quầy chỉ bán rau, các quầy khác bán hoa quả trong khi một vài quầy nữa thì bán giường tủ. Riêng một quầy chỉ bán tranh ảnh, trong đó một số đã có khung. Mặc dù nói thông thạo tiếng Hung, nhưng khi cậu đến xin làm cho các chủ sạp, câu hỏi duy nhất của họ là: “Cậu có gì bán không?” Lần thứ hai trong đời Lubji phải đối mặt với việc không có gì để đổi chác. Cậu đứng nhìn những người tị nạn trao đổi những vật quý của gia đình, đôi khi chỉ là một nửa ổ bánh mỳ hoặc một bịch khoai tây. Cậu nhanh chóng thấy rõ chiến tranh đã giúp cho một số người làm giàu nhanh chóng. Ngày này qua ngày khác, Lubji tìm kiếm việc làm. Tối đến cậu thường ngủ gục trên vỉa hè, vừa đói vừa mệt lả, nhưng vẫn quyết tâm. Sau khi tất cả các chủ sạp chẳng ai mướn cậu, Lubji đành phải đi xin ăn ngoài phố. Vào cuối một buổi chiều, trong lúc sắp tuyệt vọng, cậu đi ngang quầy báo ở một góc phố yên tĩnh. Một bà già đang ngồi, cổ đeo chiếc dây chuyền nhỏ https://thuviensach.vn có hình ngôi sao David. Cậu nhìn bà mỉm cười, hy vọng bà sẽ nhủ lòng thương xót, nhưng bà vẫn tiếp tục công việc của mình như không hề nhìn thấy cậu bé di cư bẩn thỉu. Lubji sắp sửa đi thì một thanh niên, có lẽ chỉ hơn cậu vài tuổi đến bên quầy, lấy bao thuốc lá, hộp diêm, sau đó bỏ đi không trả tiền. Bà già nhảy ra, vung chân múa tay kêu toáng lên: “Đồ ăn cắp! Đồ ăn cắp!” nhưng hắn chỉ nhún vai, châm thuốc. Lubji chạy theo, đặt tay lên vai hắn. Khi hắn quay lại, Lubji bảo: “Anh chưa trả tiền bao thuốc”. “Xéo đi, thằng chó Slovak”, hắn vừa nói vừa đẩy cậu ra, tiếp tục đi. Lubji lại chạy theo và lần này nắm tay hắn. Lần thứ hai hắn quay lại, không nói không rằng đấm luôn. Lubji cúi tránh và đấm trả ngay. Trong khi hắn đang choáng, Lubji bồi thêm một quả vào mỏ ác, mạnh đến nỗi hắn loạng choạng ngã gục xuống đường, diêm thuốc văng ra ngoài. Lubji phát hiện mình ít ra cũng được thừa hưởng của bố một cái gì đó. Lubji rất ngạc nhiên trước sức mạnh của mình. Chần chừ một lúc, cậu cúi xuống nhặt bao thuốc và bao diêm. Để mặc tên kia nằm ôm bụng nhăn nhó, cậu chạy trở lại quầy hàng. “Cảm ơn cậu”, bà già nói khi cậu đưa trả các thứ. “Tên cháu là Lubji Hoch”, cậu nói, cúi người chào bà. “Bác là Ceranis”. Tối đó, sau khi bà già về nhà, Lubji ngủ trên vỉa hè phía sau quầy. Sáng hôm sau, bà ngạc nhiên thấy cậu vẫn còn ở đó, ngồi trên chồng báo. Ngay khi thấy bà đang từ đầu phố đi lại, cậu bắt đầu cởi dây buộc báo. Cậu nhìn bà phân báo thành từng loại, xếp lên sạp để thu hút sự chú ý của những người đi làm sớm. Ngày hôm đó, bà Ceranis bắt đầu kể cho Lubji nghe về những tờ báo khác nhau và sửng sốt khi biết cậu đọc được nhiều thứ tiếng. Không lâu sau đó, bà phát hiện rằng cậu cũng có thể nói chuyện với bất cứ người tị nạn nào đến tìm hiểu tin tức từ đất nước của cậu. Hôm sau trước khi bà Ceranis đến, Lubji đã bày xong các báo lên quầy. Cậu còn bán được một vài tờ cho khách đi làm sớm. Tới cuối tuần, người ta thường thấy bà yên tâm nằm ngủ trong góc quầy, chỉ cần thỉnh thoảng nói vài lời nếu Lubji không trả lời được câu hỏi của khách. https://thuviensach.vn Tối thứ Sáu, sau khi khóa cửa, bà bảo Lubji theo mình. Họ im lặng bước khá lâu, rồi dừng trước ngôi nhà nhỏ cách quầy hàng khoảng một dặm. Bà mời cậu vào nhà, dẫn vào phòng trong gặp chồng. Ông Ceranis sửng sốt khi thấy cậu thiếu niên cao to bẩn thỉu, nhưng thái độ chợt dịu đi khi biết cậu là người Do Thái từ Ostrava qua tị nạn. Ông mời cậu cùng ăn tối. Đây là lần đầu tiên Lubji được ngồi vào bàn từ sau khi rời trường. Trong bữa ăn, Lubji được biết ông Ceranis quản lý một xưởng in báo cung cấp cho quầy hàng của vợ. Cậu bắt đầu hỏi ông một loạt câu hỏi về những số báo còn lại, khuôn chữ hỏng, lề báo và đồ thay thế. Chẳng bao lâu, ông đại lý báo hiểu ra lý do tại sao tiền lời bán báo tuần rồi lại cao hơn. Trong khi Lubji rửa chén đĩa, ông bà Ceranis nói chuyện với nhau trong góc bếp. Nói chuyện xong, bà Ceranis vẫy Lubji, lúc đó đang nghĩ đã đến giờ cậu phải đi. Nhưng thay vì đưa cậu ra cửa, bà lại bắt đầu leo lên cầu thang. Bà dừng lại vẫy cậu lên theo. Đến đầu cầu thang, bà mở cửa dẫn cậu vào một phòng nhỏ xíu. Sàn không trải thảm, đồ đạc duy nhất chỉ có chiếc giường đơn, chiếc tủ nhỏ nham nhở và một bàn nhỏ. Bà nhìn chiếc giường trống, nét mặt buồn rầu, chỉ tay vào đó và vội vàng đi ra, không nói một lời. Người di cư từ nhiều nước khác nhau tìm đến nói chuyện với chàng thanh niên, người hình như đọc tất cả các báo, để hỏi về những gì đang diễn ra ở nước họ. Vì thế, đến cuối tháng thứ nhất, Lubji đã tăng được thu nhập của quầy lên gấp đôi. Vào ngày cuối tháng, ông Ceranis trả cậu tháng lương đầu tiên. Trong bữa ăn tối, ông bảo rằng từ thứ Hai, cậu sẽ cùng làm với ông trong xưởng in để học thêm nghề. Bà Ceranis có vẻ thất vọng, mặc dù chồng bà hứa cậu sẽ chỉ đi trong một tuần. Ở xưởng in, Lubji nhanh chóng nhớ tên các khách hàng quen, loại nhật báo họ đặt và loại thuốc lá họ ưa dùng. Vào tuần thứ hai, cậu bắt đầu biết có một ông Farkas nào đó ở cửa hàng bên kia đường luôn cạnh tranh với ông Ceranis, nhưng vì cả ông bà Ceranis không ai nhắc đến tên ông ta nên cậu không hỏi. Tối Chủ nhật, ông Ceranis bảo vợ rằng Lubji sẽ cùng làm luôn với ông ở xưởng. Bà tỏ vẻ không ngạc nhiên. Sáng sáng Lubji dậy vào lúc bốn giờ, ra khỏi nhà để tới cửa hàng. Mãi khi cậu đã bày hết báo lên quầy, phục vụ được một vài khách mua báo sớm https://thuviensach.vn thì vợ chồng nhà Ceranis mới ăn sáng xong. Những tuần tiếp theo, ông Ceranis đến xưởng muộn dần, và buổi tối sau khi đếm số tiền thu, ông thường nhét vào tay Lubji một hai đồng lẻ. Lubji đặt những đồng xu thành chồng trên bàn cạnh giường ngủ. Mỗi khi đủ mười xu, cậu lại đổi thành một tờ tiền giấy màu xanh. Đêm đêm cậu thường nằm thao thức, mơ đến một ngày sẽ tiếp quản cả xưởng và quầy báo, khi ông bà Ceranis nghỉ dưỡng già. Gần đây, họ bắt đầu đối xử với cậu như con trai của mình, tặng cậu những món quà nhỏ và bà Ceranis thường ôm hôn cậu trước khi đi ngủ. Việc đó làm cậu nhớ đến mẹ. Lubji bắt đầu tin tưởng tham vọng của mình sắp thành hiện thực khi ông Ceranis nghỉ việc một ngày, và cuối tuần trở lại, ông thấy thu nhập của xưởng đã tăng lên ít nhiều. Một sáng Chủ nhật, trên đường từ giáo đường trở về, Lubji cảm giác có người đang đi theo mình. Cậu dừng bước, quay lại, thì thấy ông Farkas cách cậu chỉ mấy bước. “Chào ông Farkas”, Lubji nhấc mũ chào. “Chào ông Hoch”, ông ta đáp. Cho đến lúc đó, Lubji chưa bao giờ nghĩ mình là “ông Hoch”. Thật ra cậu vừa mới kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười bảy. “Ông muốn nói chuyện với tôi?” Lubji hỏi. “Đúng vậy, ông Hoch ạ”, vừa nói ông ta vừa lại gần. Ông ta bắt đầu đổi chân liên tục. Lubji nhớ lại lời khuyên của ông Lekski: “Khi khách hàng có vẻ sợ, thì đừng nói gì vội”. “Tôi đang nghĩ muốn dành cho cậu việc làm ở một trong những xưởng của tôi", ông ta nhìn cậu nói. Lần đầu tiên Lubji biết ông Farkas có không phải chỉ một xưởng in. “Với tư cách gì?” Cậu hỏi. “Trợ lý giám đốc”. “Còn lương?” Khi nghe số tiền, cậu không bình luận gì, mặc dù một trăm Pengo một tuần là gấp đôi số tiền ông Ceranis trả cho cậu. “Tôi sẽ ở đâu?” https://thuviensach.vn “Trong chỗ làm, có một phòng trên gác. Tôi nghĩ phòng này còn rộng hơn nhiều so với cái phòng nhỏ của nhà Ceranis mà cậu đang ở”. Lubji nhìn ông ta. “Thưa ông Farkas, tôi sẽ suy nghĩ thêm”, cậu nói và lại nhấc mũ chào. Khi về đến nhà, cậu quyết định nói lại toàn bộ câu chuyện với ông Ceranis để đề phòng có ai đó nói lại. Ông già vuốt râu thở dài khi Lubji kể xong. Nhưng ông không nói gì. “Tất nhiên cháu đã nói rõ là không có ý định làm cho ông ta”, Lubji nói thêm, đợi xem ông chủ phản ứng thế nào. Ông Ceranis vẫn im lặng và không nhắc lại chuyện đó mãi cho đến khi ngồi vào bàn ăn tối. Lubji mỉm cười khi được biết cậu sẽ được tăng lương vào cuối mỗi tuần. Nhưng vào thứ Sáu, cậu thất vọng khi mở chiếc phong bì màu vàng nhỏ và thấy số lương được tăng ấy thật ít ỏi. Thứ Bảy sau, khi ông Farkas tiếp cận lần nữa và hỏi cậu đã quyết định chưa, Lubji chỉ nói cậu rất mãn nguyện với số tiền hiện được lĩnh. Cậu cúi người rất thấp chào trước khi đi, hy vọng làm ông ta nghĩ cậu vẫn để ngỏ cửa cho lời đề nghị của ông ta. Mấy tuần sau đó, trong lúc làm việc, cậu thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn xưởng in phía bên kia đường. Đêm đêm cậu nằm trên giường, cố hình dung trong đó có gì. Sau khi làm việc cho ông bà Ceranis sáu tháng, Lubji đã tiết kiệm được hầu như toàn bộ số lương của mình. Quần áo duy nhất mà cậu có là bộ complet mua ở cửa hàng đồ cũ, hai áo chemise và một chiếc cravate có chấm thay thế cho bộ đồng phục học sinh. Nhưng mặc dù yên ổn ở đây, cậu vẫn ngày càng cảm thấy lo lắng về việc Hitler sẽ tấn công tiếp nước nào. Sau khi xâm lược Ba Lan, Hitler đã có những bài diễn văn trấn an người Hung rằng, hắn coi họ là đồng minh. Nhưng nhìn vào những việc hắn đã làm, đồng minh không phải là từ hắn tra trong từ điển tiếng Ba Lan. Lubji cố không nghĩ tới việc lại phải di chuyển một lần nữa, nhưng mỗi ngày qua đi là mỗi ngày cậu đau đớn nghe mọi người nói thẳng ra rằng cậu là một gã Do Thái, và cậu không thể không nhận thấy một vài người địa phương hình như đang chuẩn bị để đón bọn Quốc xã. https://thuviensach.vn Một buổi sáng khi đang trên đường đi làm, một người đi đường huýt sáo ra ý chửi cậu. Cậu ngạc nhiên, nhưng chỉ vài ngày sau, việc đó trở thành thường xuyên. Rồi những viên đá đầu tiên bắt đầu ném vào cửa sổ xưởng in của ông Ceranis, và một vài khách quen bắt đầu qua phố lấy báo của ông Farkas. Nhưng ông Ceranis tiếp tục nhắc lại là Hitler đã nói rõ, hắn không bao giờ xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Hung. Lubji nói với ông đó cũng là những lời Hitler đã nói trước khi xâm lược Ba Lan. Cậu kể tiếp cho ông nghe về một người Anh tên là Chamberlein mấy tuần trước đã đệ đơn từ chức thủ tướng. Lubji biết cậu vẫn chưa tiết kiệm đủ tiền để qua một nước khác; vì thế, thứ Hai sau đó, trước khi ông Ceranis xuống ăn sáng, cậu mạnh dạn bước qua phố, vào xưởng của ông Farkas. Ông này không giấu nổi ngạc nhiên khi thấy Lubji không mời mà đến. “Ông vẫn cần một trợ lý giám đốc chứ?” Lubji hỏi ngay, không muốn người khác nhìn thấy mình ở bên này phố. “Với một thằng Do Thái thì không”, ông Farkas nhìn thẳng mặt cậu, trả lời. “Cho dù cậu nghĩ mình giỏi giang thế nào cũng mặc. Dẫu sao ngay khi Hitler tiến quân vào Hung, tôi cũng sẽ tiếp quản cái xưởng đó”. Lubji bỏ ra ngoài, không nói một lời. Một tiếng sau, khi ông Ceranis đến xưởng, cậu nói với ông là ông Farkas lại gạ cậu lần nữa. “Nhưng cháu nói tiền không mua được cháu”. Ông Ceranis gật đầu không nói gì. Lubji không ngạc nhiên khi đến thứ Sáu, mở chiếc phong bì nhỏ, cậu thấy mình lại được tăng lương. Lubji tiếp tục để dành hầu như toàn bộ số tiền kiếm được. Khi dân Do Thái bắt đầu bị bắt vì những chuyện rất nhỏ nhặt, cậu bắt đầu nghiên cứu chặng đường đi trốn. Mỗi đêm, sau khi ông bà Ceranis đã ngủ, Lubji thường mò xuống dưới nhà, nghiên cứu tấm bản đồ trong văn phòng nhỏ của ông Ceranis. Cậu tính đi tính lại con đường sẽ phải đi. Cậu cần phải tránh vượt biên giới vào Nam Tư vì chẳng chóng thì chày, nó cũng sẽ chịu chung số phận như Ba Lan và Tiệp khắc. Ý cũng như Nga, đều không được. Cuối cùng cậu chọn Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù không có giấy tờ tuỳ thân, cậu quyết định cuối tuần sẽ tới ga tàu hỏa xem có thể mua vé lên tàu qua https://thuviensach.vn Rumani và Bungari để tới Istanbul được không. Ngay sau nửa đêm, Lubji gập chiếc bản đồ Châu Âu lại lần cuối, rồi trở về căn phòng nhỏ sát nóc nhà. Cậu biết sẽ đến lúc phải nói với ông Ceranis về kế hoạch của cậu, nhưng quyết định đợi cho đến thứ Sáu, sau khi đã lĩnh lương. Cậu leo vào giường, lăn ra ngủ, cố hình dung cuộc sống sẽ thế nào ở Istanbul. Ở đó có chợ không, và người Thổ có thích đổi chác mặc cả không? Lubji giật mình tỉnh giấc sau tiếng động rất mạnh. Cậu nhảy khỏi giường, chạy lại cửa sổ nhỏ nhìn xuống. Đường phố đầy lính, lăm lăm súng trường. Một số tên dùng báng súng đập rầm rầm vào cửa. Chỉ lát nữa thôi, chúng sẽ tới nhà ông bà Ceranis. Lubji vội vàng mặc lại bộ quần áo hôm trước, vớ túi tiền dưới đệm đút vào người, thít chặt thêm thắt lưng. Cậu chạy xuống nhà, biến vào buồng tắm của ông bà Ceranis. Cậu vớ chiếc dao cạo râu của ông già, nhanh chóng cắt những đụn tóc xoăn dài đến vai của mình. Cậu bỏ mớ tóc vào bệ xí rồi giật nước. Sau đó cậu mở ngăn nhỏ đựng thuốc, lấy kem bôi tóc của ông Ceranis xoa hết lên đầu, hy vọng giấu được việc tóc cậu vừa cắt. Lubji nhìn vào gương, cầu Chúa rằng với bộ complet to có hai hàng khuy màu xám, chemise trắng và cravate xanh chấm đen, bọn lính xâm lược sẽ nghĩ cậu chỉ là một thương gia Hung đang ở thăm thủ đô. Ít ra bây giờ cậu đã có thể nói tiếng Hung mà không có giọng người nước ngoài. Cậu dừng lại một lúc rồi mới bước ra. Trong khi rón rén đi xuống cầu thang, cậu nghe tiếng đập rầm rầm ở cửa nhà bên cạnh. Cậu vội vàng kiểm tra phòng ngoài, nhưng không thấy vợ chồng ông Ceranis đâu. Cậu vào bếp thì thấy hai vợ chồng già đang ôm chặt lấy nhau trốn dưới gậm bàn. Trong khi bảy cây nến của David đang cháy ở góc nhà, khó có thể có cách giấu được việc họ là người Do Thái. Không nói một lời, Lubji rón rén đi lại gần cửa sổ nhà bếp nhìn ra sân sau. Cậu thận trọng tháo cánh cửa và thò đầu ra ngoài. Không có bọn lính ở đó. Cậu nhìn sang bên phải: một con mèo đang cố trèo lên một cây to. Cậu nhìn sang trái đúng khi cặp mắt của tên lính đang nhìn cậu chằm chằm. Cạnh hắn là ông Farkas đang gật đầu nói: “Nó đấy”. https://thuviensach.vn Lubji mỉm cười hy vọng, nhưng tên lính thẳng tay nện báng súng vào cằm cậu. Cậu lộn ra ngoài cửa sổ, rơi xuống đường. Cậu ngước lên thì thấy lưỡi lê đang dí ngay trán. “Tôi không phải người Do Thái”, cậu hét to. “Tôi không phải Do Thái”. Hẳn tên lính đã tin lời cậu hơn, nếu cậu không nói những lời đó bằng tiếng Yiddish. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 6 ~oOo~ «- Báo Daily Mail Ngày 8 tháng Hai, 1946 Yalta: Hội nghị tam cường» Khi Keith trở lại học năm cuối tại trường Thánh Andrew, chẳng ai ngạc nhiên khi ông hiệu trưởng không bảo cậu làm lớp trưởng. Tuy nhiên, có một ghế khá nhiều quyền lực mà cậu rất muốn, cho dù chẳng ai trong số học sinh ở trường cho cậu một chút cơ hội để có được ghế đó. Keith hy vọng trở thành tổng biên tập của tờ Thánh Andy, tạp chí của trường, giống như cha cậu trước đây. Địch thủ của cậu là một học sinh cùng lớp tên là Tomkins “Mọt sách”, từng là phó tổng biên tập từ năm trước và được ông hiệu trưởng coi là có “đôi tay an toàn”. Tomkins đã được vào danh sách nhận học bổng của trường Cambridge nghiên cứu về tiếng Anh, được sáu mươi ba học sinh lớp 12 có quyền bỏ phiếu coi là có năng lực nhất. Nhưng đó là trước khi có người nhận ra rằng Keith muốn ghế đó đến mức nào. Ngay trước khi bầu cử diễn ra, Keith bàn luận vấn đề này với cha khi họ đi dạo trong khu vực của gia đình ở ngoại ô. “Cử tri thường đổi ý vào phút cuối”, cha cậu bảo. “Họ phần lớn dễ bị mua chuộc hoặc dọa nạt. Đó là kinh nghiệm của cha, cả trong chính trị lẫn thương trường. Cha không biết tại sao học sinh lớp 12 trường con lại có thể khác”. Hầu tước Graham dừng lại khi họ tới đỉnh đồi nhìn xuống khu nhà. “Và đừng bao giờ quên con có lợi thế hơn phần lớn các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử”. https://thuviensach.vn “Sao lại thế?” Cậu thanh niên mười bảy tuổi hỏi trên đường từ đồi về nhà. “Với một cử tri đoàn nhỏ xíu như thế, con biết hết các cử tri”. “Nếu con được lòng mọi người hơn Tomkins thì mới có lợi thế”, Keith nói. “Nhưng lại không phải vậy”. “Ít ai chỉ dựa vào việc được lòng dân để đắc cử đâu con ạ”, cha cậu trấn an. “Nếu thế thì nửa số lãnh đạo trên thế giới đã bị rụng từ lâu. Không ví dụ nào rõ hơn trường hợp của Churchill”. Keith chăm chú lắng nghe lời cha trong khi họ trở về nhà. Trở lại trường, cậu chỉ còn mười ngày để thực hiện những khuyến nghị của cha cậu trước khi cuộc bầu cử bắt đầu. Cậu thử đủ các kiểu thuyết phục mà cậu có thể nghĩ ra: Vé tới xem các trận đấu ở sân vận động MCG, bia và những bao thuốc lá lậu. Thậm chí cậu còn hứa với một học sinh là sẽ đi chơi với chị gái cậu ta. Nhưng mỗi lần ngồi tính số phiếu, cậu lại càng không tin tưởng mình sẽ được đa số. Đơn giản là vì không có cách nào để biết người ta bỏ cho ai trong cuộc bầu phiếu kín. Và Keith càng không yên tâm bởi việc ông hiệu trưởng không úp mở gì về chuyện ai là người ông muốn đắc cử. Khi chỉ còn bốn mươi tám tiếng trước khi bầu cử diễn ra, Keith bắt đầu xem xét cách thứ hai mà cha cậu bày cho là dọa dẫm. Nhưng dù suốt đêm nằm tính kỹ chuyện này, cậu vẫn không thể tìm được cách nào có khả năng thực thi nhất. Chiều hôm sau, cậu tiếp Alexander Duncan, người mới được chỉ định làm lớp trưởng. “Mình muốn có vé xem trận Victoria đấu với Nam Úc ở sân vận động MCG”, “Đổi lại, tớ được gì?”, Keith vẫn ngồi cạnh bàn hỏi. “Lá phiếu của tớ. Đó là chưa kể tớ có thể tác động những cử tri khác”. “Trong bầu phiếu kín ư? Cậu đừng khoác lác”. “Cậu nghi lời nói của tớ không đáng để cậu tin ư?”. “Đại khái là như vậy”, Keith trả lời. https://thuviensach.vn “Còn cậu nghĩ thế nào nếu tớ cung cấp cho cậu những chuyện bẩn thỉu của Cyril Tomkins?” “Còn tuỳ thuộc chuyện đó có thể bôi nhọ được hắn không đã”. “Chuyện này mà tung ra thì chắc chắn nó sẽ phải rút khỏi cuộc đua”. “Nếu đúng như thế thì tớ không chỉ kiếm cho cậu hai vé ở hạng ghế dành cho hội viên, mà sẽ đích thân giới thiệu cậu với bất cứ cầu thủ nào cậu muốn gặp. Nhưng trước khi trao vé, tớ muốn cậu cho biết chuyện về Tomkins thế nào đã”. “Sau khi tớ nhìn thấy vé”. “Cậu nghĩ lời nói của tớ không đáng để cậu tin ư?” Keith nhăn nhó hỏi lại. “Đại khái là như vậy”. Keith mở ngăn kéo trên cùng, lấy ra một hộp nhỏ. Cậu tra chiếc khóa rất nhỏ vào ổ và xoay tròn. Cậu mở nắp, tìm kiếm bên trong, cuối cùng lấy ra hai cái vé mỏng dài. Cậu giơ cao để Alexander nhìn cho rõ. Nhìn thấy nụ cười trên mặt cậu bé, Keith bảo: “Nào, chuyện gì mà cậu dám bảo sẽ làm Tomkins ngứa ngáy?”. “Nó là thằng đồng tính luyến ái”. “Cái đó ai chẳng biết”, Keith nói. “Nhưng cái chẳng ai biết là học kỳ vừa rồi suýt nữa nó bị đuổi học”. “Tớ cũng thế mà. Vì vậy, đó đâu phải là tin đáng giá?” Cậu nhét lại hai chiếc vé vào hộp. “Nhưng đằng này là vì bị bắt gặp trong phòng cùng với Julian Wells ở lớp dưới, cả hai đều đang chưa mặc quần”. “Nếu đó là tội nặng, thì sao nó không bị đuổi?”. “Bởi vì không có đủ chứng cứ. Tớ nghe nói thầy chủ nhiệm mở cửa vào hơi chậm một chút.” “Hay là hơi quá sớm?” Keith gặng hỏi. “Theo nguồn đáng tin cậy, tớ được biết thầy chủ nhiệm cho đó là chuyện không nên làm rùm beng ở trường vào lúc này. Nhất là khi Tomkins mới có học bổng Cambridge”. Keith cười rạng rỡ, cho tay vào hộp lấy ra một chiếc vé. https://thuviensach.vn “Cậu hứa đưa tớ hai chiếc cơ mà?”, Alexander bảo. “Ngày mai nếu tớ thắng, cậu sẽ được nốt chiếc kia. Bằng cách đó, tớ mới thấy tin cây thánh giá của cậu đã được đặt đúng vào chiếc quan tài cần đặt”. Alexander vồ lấy chiếc vé. “Ngày mai, tớ sẽ trở lại lấy nốt chiếc kia”. Khi cánh cửa đã khép lại sau lưng Alexander, Keith ngồi vào bàn đánh máy như điên. Cậu mổ cò được khoảng hai trăm từ trên chiếc máy chữ Remington mà cha tặng nhân ngày Giáng Sinh. Đánh xong, cậu kiểm tra lại nội dung, thay đổi một vài câu chữ, rồi lao đến xưởng in của trường. Năm mươi phút sau cậu trở ra, tay ôm một tập giấy còn nóng. Cậu nhìn đồng hồ. Cyril Tomkins là một trong những học sinh bao giờ cũng ngồi chuẩn bị bài từ khoảng năm đến sáu giờ. Hôm nay cũng sẽ không phải ngoại lệ. Keith bước nhanh dọc hành lang, nhẹ nhàng gõ cửa. “Mời vào”. Tomkins nói với ra. Cậu học sinh chăm chỉ ngước nhìn Keith đang bước vào. Cậu không giấu nổi ngạc nhiên: Townsend trước đây chưa bao giờ đến thăm cậu. Trước khi cậu kịp hỏi, Keith nói ngay: “Mình nghĩ cậu có thể sẽ thích xem số báo đầu tiên của trường do tớ là tổng biên tập”. Đôi môi dầy của Tomkins mím lại. “Mình nghĩ cậu sẽ thấy, như cách cậu thường hay nói, trong cuộc bỏ phiếu ngày mai, mình sẽ là người thắng với số phiếu áp đảo”. “Không đâu. Một khi cậu đã có tỳ vết.” “Làm gì có chuyện ấy”, Tomkins vừa hỏi vừa bỏ kính, kéo đuôi cravate lau mắt kính. “Chắc chắn cậu không thể hối lộ tớ theo cách mà lâu nay cậu làm với các học sinh khác trong lớp”. “Đúng thế”, Keith nói. “Nhưng mình vẫn có cảm giác là cậu sẽ tự động rút sau khi đọc cái này”. Cậu chìa trang báo ra. Tomkins đeo lại kính, nhưng mới đọc hết đề báo và một vài câu trong bài đó cậu ta đã gục mặt trên bài tập đang làm. Keith phải thừa nhận phản ứng đó vượt quá mức cậu hy vọng. Cậu có cảm giác cha cậu cũng sẽ đồng ý là chỉ với cái tít như thế cậu đã thu hút được sự chú ý của người đọc: https://thuviensach.vn “Học sinh lớp 12 bị bắt gặp trong phòng với một học sinh mới. Cả hai chưa kịp mặc quần. Tin đồn bị bác bỏ". Keith thu lại trang báo, bắt đầu xé nhỏ trong khi Tomkins mặt trắng bệch đang cố lấy lại tinh thần. Cậu ném những mảnh giấy vụn vào sọt rác bên cạnh Tomkins và bảo: “Tất nhiên mình sẽ rất mừng nếu cậu là phó cho mình, nếu cậu chịu rút tên khỏi cuộc bầu ngày mai”. *** “Chủ nghĩa xã hội" là một tít lớn trên số báo đầu tiên của tờ Thánh Andy dưới quyền của tổng biên tập mới. “Theo chỗ tôi nhớ lại, chất lượng giấy và in ấn tốt hơn trước rất nhiều”, ông hiệu trưởng nhận xét trong cuộc họp giáo viên sáng hôm sau. “Tuy nhiên, về nội dung thì lại không nói được như thế. Tôi nghĩ chúng ta đội ơn Chúa là chỉ phải chịu đựng có hai số báo một học kỳ”. Các giáo viên khác gật đầu tán thành. Sau đó, ông Clarke báo cáo rằng Cyril Tomkins đã từ chức phó tổng biên tập vài giờ sau khi số báo đầu tiên được phát hành. “Đáng tiếc là cậu ta không phải là tổng biên tập”, ông hiệu trưởng nói. “À, có ai biết tại sao cậu ta lại rút vào phút chót không?”. Chiều hôm sau, Keith cười phá lên khi nghe tin này từ một người nghe lỏm được câu chuyện tại bàn ăn sáng. “Nhưng bố em có nói sẽ làm gì về việc đó không?” Keith hỏi trong khi cô bé kéo lại khóa quần. “Bố em không nói gì thêm về chuyện đó, ngoài việc ông bảo đội ơn Chúa anh đã không kêu gọi Úc trở thành nước cộng hoà”. “A, bây giờ thì có đấy”, Keith bảo. “Đúng giờ này thứ Bảy tuần sau, anh tới đây được không?” Penny hỏi trong khi chui đầu qua chiếc áo pull cổ rộng. “Anh sẽ cố gắng”, Keith bảo. “Nhưng tuần sau thì không thể vào phòng này được vì người ta đã dùng cho cuộc đấu bốc rồi. Tất nhiên là trừ khi em https://thuviensach.vn muốn chúng mình làm chuyện đó giữa đấu trường, xung quanh là khán giả cổ vũ nhiệt liệt”. “Em nghĩ nên để cho họ đấm đá nhau ngã ngửa ra sàn thì hơn”, Penny nói. “Anh có gợi ý gì khác không?”. “Anh cho em chọn nhé. Hoặc chỗ tập bắn, hoặc sân cricket”. “Sân cricket”, Penny nói ngay. “Nhưng chỗ tập bắn thì có sao đâu?”, Keith hỏi. “Ở đó tối và lạnh lắm”. “À ra thế”. Keith ngừng lại. “Vậy thì phải ở sân cricket rồi”. “Nhưng làm sao vào được?” Penny hỏi. “Có chìa chứ”, Keith đáp. “Bằng cách nào”, cô ta hỏi, cắn câu ngay. “Mỗi khi đội đi, sân lại khóa mà”. “Nhưng sẽ không bị khóa khi con trai ông gác sân lại làm cho tờ Courier, đúng không?” Penny ôm cậu ngay khi cậu vừa kéo lại khóa quần. “Anh có yêu em không, Keith?” Keith cố nghĩ ra một câu trả lời có tính thuyết phục nhất mà lại không phải cam kết gì. “Chẳng phải anh đã hy sinh cả buổi chiều ở trường đua để đến với em đó sao?” Penny nhíu mày khi cậu cố gỡ mình ra khỏi vòng tay cô. Cô vừa định áp sát vào lần nữa thì cậu nói thêm: “Tuần sau gặp lại nhé”. Cậu mở chốt cửa, thò đầu nhìn dọc hành lang. Cậu quay vào, mỉm cười bảo: “Em ở đây thêm năm phút rồi hãy ra”. Cậu vòng về, vào phòng ngủ qua cửa sổ nhà ăn. Khi vào phòng học, cậu thấy mấy chữ ông hiệu trưởng để lại trên bàn yêu cầu tới gặp ông lúc tám giờ. Cậu nhìn đồng hồ. Đã tám giờ kém mười. Cậu lấy làm mừng vì đã không bị Penny cám dỗ mà ở lại thêm chút nữa. Cậu bắt đầu tự hỏi không biết lần này ông hiệu trưởng sẽ phàn nàn cái gì, nhưng nghĩ có thể Penny đã chỉ cho cậu đúng hướng. Cậu soi gương trên bồn tắm để chắc chắn không còn dấu vết gì của những hoạt động ngoại khóa trong hai tiếng vừa rồi. Cậu sửa lại cravate, lau sạch vết son hồng trên má. https://thuviensach.vn Trên con đường lổn nhổn đá sỏi tới nhà ông hiệu trưởng, cậu bắt đầu ôn lại những lời bào chữa của mình trước lời khiển trách của ông ta mà trong mấy ngày qua cậu mường tượng ra. Cậu cố sắp xếp lại các suy nghĩ và càng thấy tin tưởng là có thể trả lời bất cứ lời buộc tội nào. Tự do báo chí, thực hiện quyền dân chủ của công dân, những điều xấu xa của kiểm duyệt…, và nếu ông hiệu trưởng xạc cậu về tất cả những chuyện đó, cậu sẽ nhắc lại những lời ông ta nói với các bậc phụ huynh trong ngày kỷ niệm thành lập trường năm trước, khi ông ta lên án Hitler tiến hành những trò bịt miệng báo chí Đức. Hầu hết những lập luận này đều nhặt ở bàn ăn sáng với cha cậu từ khi ông ở Yalta về. Keith đến cửa nhà ông hiệu trưởng đúng khi đồng hồ trên nóc nhà nguyện điểm tám tiếng. Nghe tiếng gõ cửa, một người giúp việc ra mở và nói: “Chào ông Townsend”. Đây là lần đầu tiên có người gọi cậu là “ông”. Chị ta đưa cậu vào thẳng phòng làm việc của hiệu trưởng. Ông Jessop từ sau chiếc bàn bừa bộn sách vở ngước nhìn cậu. “Chào Townsend”, ông nói, không giống thói quen của ông chào học sinh năm cuối cùng bằng tên thánh. Rõ ràng Keith sắp gặp rắc rối to. “Chào thầy”, cậu đáp, tiếng “thầy” nghe rất nhỏ. “Ngồi xuống đi”, ông Jessop vẫy tay về phía ghế kê trước bàn. Keith ngạc nhiên. Nếu được mời ngồi, điều đó thường có nghĩa là không gặp rắc rối. Chả lẽ ông ta sắp bảo cậu làm gì chăng? “Cậu có dùng một chút rượu ngọt không, Townsend?”. “Dạ thôi, cảm ơn thầy”, Keith đáp mà vẫn không tin điều vừa nghe. Rượu ngọt thông thường chỉ mời lớp trưởng. A, có lẽ đây là lối mua chuộc, Keith nghĩ thầm. Ông ta sẽ bảo mình tới đây nên khôn ngoan hơn, ít bộc lộ khuynh hướng khiêu khích của mình bằng cách…vân vân và vân vân. Được rồi, mình đã có sẵn câu trả lời cho việc đó. Xin ông cứ việc giở trò. “Townsend này! Tất nhiên tôi biết cậu phải làm việc vất vả như thế nào để vừa chuẩn bị cho việc theo học ở Cambridge, vừa là tổng biên tập của tạp chí nhà trường”. Ra là vậy! Ông ta muốn mình từ chức tổng biên tập. Đừng hòng! Ông ta phải đuổi mình trước đã. Và nếu ông ta làm thế, mình sẽ cho xuất bản một https://thuviensach.vn tạp chí bí mật ra trước tạp chí chính thức một tuần. “Tuy nhiên, tôi hy vọng cậu cảm thấy có thể đảm nhận thêm trọng trách”. Ông ta định đưa mình làm lớp trưởng chăng? Mình không tin điều đó. “Cậu có thể ngạc nhiên khi biết rằng tôi coi sân cricket hiện nay là không thích hợp…”, ông hiệu trưởng nói tiếp. Keith tái mặt. “Thưa thầy, không thích hợp?” Cậu lắp bắp. “Không thích hợp đối với đội có tiếng như của trường ta. Bây giờ tôi mới nhận thấy cậu chưa để lại dấu ấn ở trường với tư cách là một nhà thể thao. Tuy nhiên, hội đồng nhà trường đã quyết định năm nay sẽ kêu gọi đóng góp để xây sân vận động mới”. Hừ, họ không cần hy vọng mình sẽ giúp một tay, Keith nghĩ. Nhưng cứ để cho ông ta nói thêm chút nữa rồi mình sẽ từ chối. “Tôi biết cậu sẽ vui mừng khi biết mẹ cậu đồng ý là chủ tịch của ban kêu gọi đóng góp này”, ông dừng lại, rồi tiếp. “Vì thế tôi hy vọng cậu sẽ đồng ý là chủ tịch của tiểu ban đóng góp học sinh”. Keith tỏ ý không muốn trả lời. Cậu thừa biết một khi ông già đã vào cuộc thì đừng hòng có ai ngắt lời ông ta. “Và vì cậu không phải đảm đương trách nhiệm lớp trưởng đầy cực nhọc, lại không tham gia trong một đội thể thao nào của trường, tôi cảm thấy cậu có thể quan tâm đến việc đương đầu với thách thức này…” Keith vẫn không nói gì. “Số tiền mà hội đồng nhà trường nghĩ cần kêu gọi đóng góp là năm ngàn bảng, và nếu cậu thành công trong việc gây quỹ được ngần ấy, tôi có thể thông báo với trường để cậu nộp đơn vào học Oxford vì những nỗ lực to lớn của cậu”. Ông ta dừng lại nhìn mấy tờ giấy để trước mặt. “Nếu tôi nhớ chính xác thì là trường Worcester. Tôi cảm thấy có thể nói một cách chắc chắn là, nếu đơn xin học của cậu có lời giới thiệu của tôi, thì nhất định cậu sẽ được nhận”. Và đây lại chính là người sáng Chủ nhật nào cũng chui vào phòng rửa tội để sám hối về những tội mua chuộc và tham nhũng, Keith nghĩ. https://thuviensach.vn “Vì vậy tôi nghĩ, cậu sẽ xem xét đề nghị này một cách nghiêm túc, Townsend ạ”. Vì sự im lặng kéo dài đến ba giây, Keith cho rằng ông hiệu trưởng đã dứt lời. Phản ứng đầu tiên của cậu là bảo ông ta hãy nghĩ lại, tìm một cậu nào đó dễ ăn phải bả của ông ta hơn, chứ cậu thì chẳng quan tâm gì đến chuyện đội cricket hay theo học tại Oxford. Cậu đã quyết định ngay sau khi học xong trường này, là làm cho tờ Courier, với tư cách là phóng viên tập sự. Tuy nhiên, cậu công nhận vào lúc này mẹ cậu vẫn muốn cậu phải theo học ở đó, nhưng nếu cậu cố ý rớt trong kỳ thi tuyển thì bà sẽ chẳng còn có thể làm gì được hơn. Mặc dù vậy, Keith có thể nghĩ ra vài lý do xác đáng để thoả mãn mong muốn của ông hiệu trưởng. Số tiền quyên góp không phải là lớn lắm, việc quyên góp cho trường sẽ giúp mở một số cửa mà trước nay vẫn đóng đối với cậu. Và rồi còn mẹ cậu nữa. Bà cần được an ủi nếu cậu rớt không vào được Oxford. “Mọi khi cậu đâu cần nhiều thời gian đến thế trước khi quyết định làm việc gì”, ông hiệu trưởng cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu. “Thưa thầy, em đang xem xét một cách nghiêm túc lời đề nghị của thầy", Keith nghiêm trang đáp. Cậu không hề có ý định cho phép ông già tin rằng cậu dễ dàng bị phỉnh phờ. Lần này, đến lượt ông hiệu trưởng im lặng. Keith đếm đủ ba giây trước khi nói tiếp. “Thưa thầy, em sẽ trở lại vấn đề này nếu có thể được", cậu nói, hy vọng mình giống như giám đốc ngân hàng đang nói với một khách hàng xin vay tiền. “Nhưng khi nào cậu trả lời, Townsend?” ông hiệu trưởng hỏi, có vẻ cáu. “Nhiều nhất là hai hoặc ba ngày, thưa thầy”. “Cảm ơn, Townsend”, ông ta nói, đứng dậy, ra ý cuộc nói chuyện đến đó là kết thúc. Keith xoay người đi ra, nhưng khi vừa tới cửa, cậu nghe ông hiệu trưởng nói thêm: “Hãy nói chuyện với mẹ cậu trước khi quyết định”. *** https://thuviensach.vn “Bố em muốn anh đại diện cho đám học sinh trong tiểu ban quyên góp”, Keith vừa nói vừa rờ rẫm tìm quần. “Lần này họ muốn xây cái gì?”, Penny hỏi, vẫn nằm ngửa nhìn lên trần. “Sân crickét mới”. “Em không hiểu. Sân này có sao đâu?”. “Người ta biết nó còn được dùng vào những mục đích khác”, Keith nói trong khi mặc quần. “Em vẫn không hiểu tại sao”. Cô bé kéo ống quần của Keith. Cậu nhìn xuống thân thể trần truồng của cô ta. “Thế anh định trả lời bố em thế nào?” “Anh sẽ trả lời đồng ý”. “Nhưng tại sao? Việc đó sẽ choán hết thời gian của anh”. “Anh biết. Nhưng nó sẽ làm ông thôi không chọc ngoáy anh nữa. Và dẫu sao nó cũng giống như mua bảo hiểm”. “Mua bảo hiểm ư?” Penny hỏi. “Ừ. Nếu người ta thấy anh ở trường đua, hoặc tệ hơn nữa…”. Cậu lại nhìn cô ta. “Thấy nằm với con gái ông hiệu trưởng trong phòng thay đồ chứ gì?” Cô ta nhỏm dậy, lại bắt đầu hôn cậu. “Mình còn thời gian không?” Cậu hỏi. “Đi đâu mà vội, Keith. Nếu hôm nay đội chơi ở Wesley và mãi sáu giờ mới kết thúc trận đấu, thì chín giờ họ mới về tới đây. Chúng mình còn ối thời gian”. Cô ta quỳ xuống và lại bắt đầu kéo khóa quần của cậu. “Nhưng ngộ trời mưa”, Keith bảo. Penny là cô gái đầu tiên Keith làm tình. Cô ta đã dụ được cậu vào cái đêm cậu đi dự buổi hòa nhạc của một ban nhạc đến thăm thành phố. Cậu không bao giờ nghĩ trong nhà vệ sinh nữ lại có đủ chỗ để làm việc đó. Cậu biết chắc với Penny đó không phải là lần đầu, vì cho đến lúc này, cậu vẫn chưa dạy nổi cô ta điều gì trong chuyện ân ái. Nhưng đó là những chuyện xảy ra từ đầu học kỳ, còn bây giờ cậu đang để mắt tới một cô gái khác có tên là Betsy làm ở bưu điện địa phương. Thực tế là gần đây mẹ cậu rất ngạc nhiên trước việc cậu rất chăm viết thư về nhà. https://thuviensach.vn Keith nằm trên cái đệm ghép từ những miếng nịt che gối được xếp ngay ngắn trong phòng thay đồ, bắt đầu tự hỏi khi Betsy trần truồng thì trông cô thế nào. Cậu quyết định đây phải là lần cuối cùng. Vừa mặc lại áo lót, Penny vừa hỏi: “Tuần sau lại giờ này chứ?”. “Rất tiếc tuần sau không được”, Keith bảo. “Anh có hẹn ở Melbourne”. “Với ai?”, Penny hỏi. “Anh đâu có chơi cho đội bóng?”. “Ừ, họ cũng chưa tuyệt vọng đến mức cần có anh”, Keith cười bảo. “Nhưng anh phải có mặt trong cuộc phỏng vấn để vào trường Oxford”. “Vậy thì việc quái gì phải lo? Nếu chẳng may phải vào đó học, nó càng khẳng định nỗi sợ tồi tệ nhất của người ta về người Anh”. “Anh biết thế, nhưng…”, cậu vừa nói vừa mặc lại quần lần thứ hai. “Nhưng em nghe bố em bảo với ông Clarke là ông đưa tên anh vào danh sách chẳng qua chỉ để làm vừa lòng mẹ anh thôi”. Penny hối tiếc ngay là đã buột miệng nói ra câu đó. Keith nheo mắt nhìn cô gái lúc đó đang nằm, mặt không hề đỏ. *** Keith dùng số báo thứ hai để bày tỏ quan điểm của mình về giáo dục tư thục. “Trong khi chúng ta sắp bước vào nửa sau của thế kỷ XX, tiền bạc không còn có thể đảm bảo cho một nền giáo dục tốt”, bài bình luận tuyên bố. “Những trường tốt nhất cần phải được mở cửa cho bất cứ học sinh nào tỏ ra có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người sinh ra trong những gia đình khá giả”. Keith chờ đợi cơn thịnh nộ của ông hiệu trưởng, nhưng phía nhà trường lại hoàn toàn im lặng. Ông Jessop không đáp lại lời thách thức ấy. Có thể ông bị tác động bởi việc Keith đã gây quỹ được 1.470 bảng trong số 5.000 bảng cần cho việc xây sân vận động mới. Cũng phải thừa nhận rằng phần lớn số tiền đó là trích từ những người ký hợp đồng với bố cậu, những người mà Keith ngờ rằng họ đóng góp với hy vọng tên tuổi của họ trong tương lai sẽ không bị nêu trên trang nhất của các báo. https://thuviensach.vn Thực ra cậu viết không phải để phàn nàn, mà vì tờ Melbourne Age sẵn sàng trả 10 bảng cho việc đăng bài đó. Nó là đối thủ chính của Hầu tước Graham, muốn đăng lại bài báo dài 500 từ này. Keith vui vẻ chấp nhận số tiền nhuận bút đầu tay, nhưng chỉ để thứ Tư sau lại thua sạch trong cá cược, để cuối cùng cho cậu thấy hệ thống của Joe may mắn không phải là không thể sai. Tuy nhiên, Keith mong đợi cơ hội gây ấn tượng với cha mình bằng cái cú nho nhỏ đó. Ngày thứ Bảy, cậu đọc lại toàn bộ áng văn của mình được đăng lại trên tờ Melbourne Age. Họ không thay đổi một chữ nào, nhưng đã cho nó một cái tít khác hẳn: “Người thừa kế của Hầu tước Graham đòi học bổng cho thổ dân”. Một nửa trang báo dành cho quan điểm cấp tiến của Keith, nửa trang còn lại là bài của phóng viên chính phụ trách mảng giáo dục của tờ báo. Người này lập luận rất thuyết phục cho giáo dục tư thục. Độc giả được mời phát biểu quan điểm của mình và thứ Bảy sau đó là một ngày rất tai hại cho Hầu tước Graham. Keith rất mừng cha cậu không bao giờ nói đến vấn đề này, mặc dù cậu nghe thấy ông nói với mẹ cậu: “Thằng bé sẽ học được nhiều điều trong chuyện này. Nhưng dù sao tôi cũng tán thành hầu hết những điều nó viết”. Nhưng mẹ cậu thì ngược lại. Trong những ngày nghỉ, Keith dành các buổi sáng để cô Steadman phụ đạo thêm, chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá. “Học hành cũng là một hành động bạo ngược dưới hình thức khác”, cậu tuyên bố sau một buổi học căng thẳng. “Thế cũng chưa thấm gì so với cái bạo ngược là ngu dốt suốt quãng đời còn lại của cậu”, cô ta trấn an. Sau khi cô Steadman cho cậu một số chủ đề để ôn, Keith đến tòa báo Courier làm việc suốt ngày hôm đó. Giống như cha, cậu thấy dễ hòa nhập với các phóng viên hơn là với đám con cái nhà giàu, quyền thế ở trường Thánh Andrew, những đứa mà cậu vẫn phải lấy lòng để quyên tiền xây sân vận động. https://thuviensach.vn Việc đầu tiên cậu được giao ở tòa báo là làm việc với một phóng viên tên là Barry Evans phụ trách mục hình sự; anh này chiều nào cũng phái cậu đến tòa án để theo dõi các vụ án, nào là móc túi, đục tường khoét vách, nào là ăn cắp trong cửa hàng và đôi khi cả chuyện đa thê. “Hãy tìm những tên tuổi mà mọi người có thể nhận ra”, Evans bảo cậu. “Hoặc tốt hơn nữa là tên những người có liên quan đến những nhân vật nổi tiếng. Tốt nhất là những người nổi tiếng”. Keith làm việc cần mẫn, nhưng kết quả không phải hoàn toàn tương xứng với những cố gắng của cậu. Mỗi khi có bài được đăng trên báo, cậu thường thấy nó đã bị sửa chữa không thương xót. “Tôi không muốn biết ý kiến của cậu”, tay phóng viên hình sự nhắc đi nhắc lại. “Tôi chỉ muốn sự thực”. Evans đã được tập sự ở tòa báo Manchester Guardian, nên không bao giờ mệt mỏi nhắc lại câu nói của C.P. Scott: “Bình luận thì tự do, nhưng sự thực mới là thiêng liêng”. Keith quyết định nếu cậu là chủ bút một tờ báo, cậu sẽ không bao giờ thuê mướn ai đã từng làm cho tờ Manchester Guardian. Cậu trở lại trường để vào học kỳ hai và dùng bài bình luận trong số báo đầu tiên của trường để gợi ý đã đến lúc nước Úc cắt các mối liên hệ với Anh. Bài báo tuyên bố rằng Churchill đã bỏ rơi Úc, chỉ tập trung vào cuộc chiến ở Châu Âu. Một lần nữa tờ Melbourne Age lại gạ Keith quảng bá ý kiến của mình đến số lượng độc giả rộng hơn, nhưng lần này cậu từ chối, mặc dù số tiền được trả khá hấp dẫn là 20 bảng, tức là gấp bốn lần số tiền cậu kiếm được trong hai tuần với tư cách phóng viên tập sự tại tờ Courier. Cậu quyết định chuyển bài đó cho tờ Adelaide Gazette, một trong những tờ báo của cha cậu, nhưng ông tổng biên tập gạch chéo bài báo trước khi đọc đến đoạn hai. Vào tuần thứ hai của học kỳ, Keith nhận thấy vấn đề khó khăn nhất của cậu là làm sao thoát được Penny, đến lúc này đã không còn tin vào các lí do cậu đưa ra để giải thích tại sao không chịu gặp cô ta, ngay cả lúc cậu nói thật. Cậu đã mời Betsy đi xem phim vào chiều thứ Bảy tuần sau. Tuy nhiên, vẫn còn vấn đề chưa được giải quyết là, làm sao đi chơi với cô này trước khi rũ bỏ được cô kia. https://thuviensach.vn Trong lần gặp gần đây nhất ở phòng thể thao, khi cậu gợi ý có lẽ đã đến lúc hai đứa phải chia tay…, Penny bóng gió rằng sẽ kể với bố về những chuyện hai người thường làm chiều thứ Bảy. Keith không ngại việc cô kể với ai, nhưng cậu rất không muốn làm mẹ cậu buồn. Suốt cả tuần cậu ở lỳ trong phòng, học bài miệt mài đến mức không ngờ, tránh đi bất cứ chỗ nào có thể chạm trán với Penny. Chiều thứ Bảy, Keith luồn vào thành phố gặp Betsy ở ngoài rạp Roxy. Không gì giống như ba lần vi phạm nội quy trong một ngày, cậu nghĩ. Cậu mua hai vé có dự thưởng xem bộ phim Những Con Chuột Của Tobruk, dẫn Betsy vào một ghế đôi hàng cuối cùng. Tới khi dòng chữ “hết phim” hiện trên màn ảnh, cậu chẳng biết phim nói gì, còn lưỡi thì đau rát. Keith nóng lòng chờ thứ Bảy sau, khi đội bóng sang đấu ở sân khách, cậu có thể giới thiệu Betsy những lạc thú trong sân vận động. Cậu mừng là Penny không tìm cách liên hệ với cậu trong mấy tuần tiếp theo. Vì thế thứ Năm, khi đến bưu điện gửi thư cho mẹ, cậu hẹn gặp Betsy vào chiều thứ Bảy. Cậu hứa sẽ đưa cô tới một nơi mà cô chưa từng bao giờ đặt chân. Ngay khi chiếc xe chở đội bóng vừa khuất, Keith quanh quẩn sau những hàng cây ở phía bắc sân vận động chờ Betsy. Sau khoảng nửa giờ chờ đợi, cậu bắt đầu tự hỏi không biết cô có tới không, nhưng chỉ một lát sau cậu nhìn thấy cô đang đi qua cánh đồng, và lập tức hết sốt ruột. Mái tóc vàng dài của cô buộc bằng sợi cao su vổng lên như đuôi ngựa. Cô mặc chiếc áo thun bó sát người, làm cậu nhớ đến Lara Turner[4], chiếc váy đen ngắn đến nỗi khi đi, cô không còn cách nào khác là bước những bước rất ngắn. Keith đợi cô đến chỗ cậu sau hàng cây, rồi khoác tay, nhanh chóng dẫn cô về phía sân vận động. Cứ vài bước cậu lại dừng để hôn cô, và khi còn cách sân khoảng hai chục mét thì lần ra được chỗ khóa váy của cô. Khi họ đến cửa sau, Keith lấy từ túi ra một chìa khóa to cho vào ổ. Cậu từ từ xoay, rồi đẩy cho cửa mở, sờ soạng tìm công tắc đèn. Cậu bật đèn, chợt nghe tiếng rên. Keith không tin vào những gì cậu thấy. Bốn con mắt đang chớp chớp nhìn cậu. Cô gái lấy tay che mặt dưới ánh đèn, nhưng Keith nhận ra https://thuviensach.vn cặp đùi ấy, cho dù không nhìn rõ mặt. Cậu chăm chú nhìn cậu con trai đang nằm đè lên người cô gái. Duncan Alexander chắc chắn sẽ không bao giờ quên cái ngày cậu tập tễnh vào đời. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 7 ~oOo~ «- Báo The Times Ngày 22 tháng Mười một, 1940 Hungary bị lôi kéo vào khối trục: Bentrop huênh hoang “những nước khác sẽ noi theo"» Lubji nằm co quắp trên sân, tay ôm cằm. Tên lính vẫn chĩa lưỡi lê vào mặt cậu, hất hàm ra ý bảo phải cùng đám người leo lên những chiếc xe tải đang đợi. Lubji tiếp tục phản đối bằng tiếng Hung, nhưng cậu biết là đã quá muộn. “Câm mồm đi, thằng Do Thái”, tên lính quát. “Nếu không, tao sẽ làm cho nó ngậm lại ngay tức khắc”. Lưỡi lê cứa rách quần, rạch một đường khá sâu trên đùi phải của cậu. Lubji vội vàng khập khễnh chạy ra xe, nhập vào đoàn người ngơ ngác đáng thương chỉ giống nhau ở một điểm: Họ bị nghi là người Do Thái. Ông bà Ceranis bị ném lên xe ngay trước khi đoàn xe chầm chậm ra khỏi thành phố. Một giờ sau, họ đến sân nhà tù địa phương. Lubji và những người cùng đoàn bị xua vào chẳng khác gì súc vật. Đàn ông phải xếp hàng, rồi được lùa qua sân vào một phòng rộng tường đá. Mấy phút sau, một thượng sĩ SS bước vào cùng hơn chục tên lính Đức. Hắn ra lệnh bằng tiếng Đức nghe như tiếng chó sủa. “Hắn bảo chúng ta phải cởi bỏ quần áo”, Lubji thì thầm dịch ra tiếng Hung. Mọi người cởi quần áo, sau đó bọn lính lùa những con người trần truồng ấy vào hàng. Người nào cũng run bần bật, một số thút thít khóc. Lubji đảo mắt nhìn quanh, cố xem có cách nào trốn được không. Chỉ có một cửa ra vào có lính đứng gác và ba cửa sổ nhỏ xíu mãi tít trên cao. https://thuviensach.vn Mấy phút sau, một sĩ quan SS ăn mặc chỉnh tề bước vào, miệng ngậm điếu xì gà nhỏ. Hắn đứng giữa phòng và sau mấy câu chiếu lệ, thông báo mọi người hiện là tù binh. “Heil Hitler!”, hắn hô rồi xoay người bước ra ngoài. Lubji bước lên một bước, mỉm cười khi viên sĩ quan đi ngang. “Chào ngài”, cậu nói. Viên sĩ quan dừng lại, nhìn chàng thanh niên với vẻ ghê tởm. Lubji bắt đầu giải thích bằng thứ tiếng Đức giả cầy là họ đã phạm một sai lầm chết người, sau đó mở lòng bàn tay để lộ ra xấp tiền Pengo của Hung. Viên sĩ quan mỉm cười với Lubji, cầm tiền, rồi dùng điếu xì gà đốt luôn. Những tờ tiền giấy bắt lửa cháy cho đến khi hắn không còn cầm được nữa mới vất xuống chân Lubji và bỏ đi. Lubji chỉ còn nghĩ đến việc phải mất bao nhiêu tháng trời cậu mới dành dụm được số tiền đó. Hàng người đứng run rẩy trong căn phòng đá. Lính gác không ngó ngàng tới họ; một vài thằng hút thuốc, những tên khác nói chuyện phiếm, tựa như những người trần truồng kia không tồn tại. Phải một tiếng sau mới có một nhóm người mặc áo choàng trắng, tay đeo găng cao su bước vào. Chúng đi ngược đi xuôi dọc theo hàng người, chỉ dừng lại vài giây kiểm tra dương vật từng tù nhân. Ba người được lệnh mặc quần áo và được bảo có thể về nhà. Bằng chứng chỉ cần bấy nhiêu là đủ. Lubji tự hỏi với đàn bà, không biết họ kiểm tra thế nào. Sau khi đám người bận áo choàng trắng ra khỏi, tù nhân được lệnh mặc quần áo, rồi được dẫn ra khỏi phòng. Khi đi ngang sân, Lubji ngó nghiêng tìm đường trốn, nhưng chỗ nào cũng có lính gác lưỡi lê tuốt trần đứng cách đoàn người chỉ vài bước. Họ được dẫn vào một hành lang dài, rồi bị lùa xuống những bậc thang bằng đá leo lét vài ngọn đèn ga. Cả hai phía là những phòng nhỏ lèn chặt người. Lubji nghe tiếng khóc lóc, nài xin bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, đến mức cậu không dám quay lại nhìn. Rồi bỗng nhiên cửa một phòng giam bật mở, cậu bị nắm cổ áo quẳng vào trong. Đầu cậu chắc sẽ đập xuống nền đá nếu cậu không rơi trên một đống người. Cậu nằm im một lúc, rồi nhỏm dậy, cố nhìn những người xung quanh. Nhưng vì phòng chỉ có một cửa sổ nhỏ có song sắt, phải mất một lúc cậu mới nhìn rõ mặt người. https://thuviensach.vn Một vị giáo sĩ đang đọc lời cầu nguyện, nhưng không có ai đọc theo. Lubji cố tránh sang bên vì một ông già nôn mửa hết lên người cậu. Cậu tránh chỗ bẩn, nhưng lại va ngay vào một người khác đang ngồi tụt quần. Cậu ngồi qua một góc, lưng quay vào tường để không bị bất ngờ nếu có ai túm cậu. Khi cửa lại mở, Lubji không có cách nào biết mình đã ở trong phòng giam hôi hám đó bao lâu. Một tốp lính bước vào, soi đèn vào những cặp mắt đang chớp chớp. Nếu mắt họ không chớp, họ bị lôi ra hành lang và không ai còn gặp lại họ. Đó là lần cuối cùng cậu thấy ông Ceranis. Ngoài việc nhìn ánh sáng, rồi bóng đêm qua cửa sổ nhỏ trên tường, chia nhau đồ ăn vất cho tù nhân, không còn cách nào để tính ngày tháng. Cứ vài giờ bọn lính lại đến mang người chết đi, cho tới khi chúng nghĩ chỉ còn những người khoẻ nhất sống sót. Lubji tin rồi cũng đến lượt cậu phải chết, vì đó là cách duy nhất thoát khỏi nhà tù nhỏ này. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày quần cậu lại lỏng thêm, và cậu phải thắt dần dây lưng lại mới chặt. Một buổi sáng, bất ngờ đám lính ùa vào phòng giam, dồn tất cả những người còn sống ra ngoài. Họ được lệnh đi dọc hành lang, ngược cầu thang đá dẫn qua sân. Khi Lubji bước ra ánh nắng mặt trời, cậu phải lấy tay che mặt. Cậu đã ở trong phòng giam đó mười, mười lăm, mà có thể là hai mươi ngày, và mắc chứng mà những tù nhân khác gọi là mắt mèo - sợ ánh sáng. Rồi cậu nghe tiếng búa nện thình thình. Cậu quay đầu nhìn sang trái: Một toán lính đang dựng giá gỗ. Cậu đếm được tám chiếc thòng lọng. Cậu buồn nôn, nhưng trong bụng không có gì mà nôn. Lưỡi lê thúc vào hông, cậu vội vàng theo đám tù nhân đứng vào hàng, chờ lên những chiếc xe tải đã chật ních người. Trên đường xe vào thành phố, một tên lính vừa cười vừa bảo chúng sẽ cho họ vinh dự được ra tòa trước khi trở lại nhà tù và sẽ bị treo cổ từng người một. Hy vọng biến thành tuyệt vọng, vì một lần nữa Lubji nghĩ mình sắp chết. Lần đầu tiên trong đời, cậu không biết là mình còn quan tâm đến chuyện đó nữa hay không. Những chiếc xe tải đỗ lại ngoài phòng xử án, tù nhân được dẫn vào bên trong. Lubji nhận thấy không còn lưỡi lê, và bọn lính đứng ngoài xa. Vào https://thuviensach.vn đến bên trong, tù nhân được phép ngồi trên những ghế băng bằng gỗ dọc theo hành lang sáng ánh đèn và được mấy lát bánh mỳ để trên khay sắt tây. Lubji bắt đầu nghi ngờ, lắng nghe bọn lính đang kháo chuyện nhau. Từ những câu nghe được, cậu biết bọn Đức đang tìm cách chứng minh tất cả dân Do Thái đều là tội phạm, vì một quan sát viên của Hội Chữ Thập Đỏ từ Geneva tới đang có mặt trong phòng. Chắc chắn vị đó sẽ thấy không phải ngẫu nhiên tất cả tù nhân đều là người Do Thái, Lubji nghĩ. Trước khi cậu có thể nghĩ ra cách tận dụng mẩu tin này, một tên hạ sĩ túm tay cậu lôi vào phòng. Lubji bị điệu ra trước vành móng ngựa, trước mặt một quan tòa già đang ngồi trên chiếc ghế cao. Phiên toà, nếu có thể gọi như vậy, chỉ kéo dài vài phút. Trước khi quan tòa tuyên án tử hình, một quan chức còn phải yêu cầu Lubji cho chúng biết tên. Cậu thanh niên cao gầy nhìn vị đại diện Hội Chữ Thập Đỏ đang ngồi phía bên phải mình. Ông ta đăm đăm nhìn xuống mặt sàn, rõ ràng là mệt mỏi, và chỉ ngước lên khi án tử hình được tuyên. Một tên lính khác túm tay Lubji, bắt đầu lôi cậu đi để lấy chỗ cho người sau. Đột nhiên vị đại diện Hội Chữ Thập Đỏ đứng dậy hỏi quan tòa một câu bằng thứ tiếng mà Lubji không hiểu. Quan tòa nhíu mày và quay lại nhìn người tù đang đứng trước vành móng ngựa. “Bao nhiêu tuổi?” Ông ta hỏi bằng tiếng Hung. “Mười bảy”, Lubji trả lời. Tay công tố viên bước lại, nói thầm điều gì đó với quan toà. Quan tòa nhìn Lubji, nhăn mặt nói: “Giảm mức án xuống chung thân”. Ông ta dừng lại mỉm cười rồi tiếp: “Mười hai tháng sau sẽ xử lại”. Vị đại diện có vẻ hài lòng với công việc của ông ta trong buổi sáng hôm đó, nên gật gù tán thành. Tên lính rõ ràng cảm thấy Lubji đã được khoan hồng quá mức liền bước tới, túm vai cậu lôi ra hành lang. Cậu bị còng tay, đẩy ra sân rồi quẳng lên xe. Những tù nhân khác ngồi im lặng đợi cậu, tựa như cậu là vị khách cuối cùng lên xe buýt. https://thuviensach.vn Cửa sau xe đóng lại và mấy phút sau, xe bắt đầu lao đi. Lubji không giữ được thăng bằng, ngã lăn xuống sàn. Cậu vẫn còn quỳ, đảo mắt nhìn quanh. Có hai tên lính ngồi đối diện nhau ở cuối xe. Cả hai tay súng lăm lăm, nhưng một tên bị cụt tay phải. Trông hắn cũng buồn rầu như những tù nhân khác trên xe. Lubji bò về phía cuối xe, ngồi vào chỗ gần ngay tên lính còn đủ hai tay. Cậu cúi đầu, cố tập trung suy nghĩ. Đoạn đường trở lại nhà tù mất khoảng bốn mươi phút, và cậu tin đây là cơ hội cuối cùng nếu như cậu không muốn cùng những người khác lên giá treo cổ. Nhưng làm sao thoát được đây, cậu đang nghĩ, thì chiếc xe chậm lại chuẩn bị chui vào đoạn đường hầm. Khi xe ra khỏi đường hầm, Lubji cố nhớ xem giữa nhà tù và phòng án có bao nhiêu đoạn đường hầm. Ba, mà có thể là bốn, cậu không dám chắc. Mấy phút sau, khi chiếc xe lại chui vào một đường hầm khác, cậu bắt đầu đếm. “Một, hai, ba”. Chiếc xe chìm trong bóng tối trong khoảng bốn giây. Cậu có lợi thế so với hai tên lính: Sau ba tuần bị giam trong phòng kín, cậu nhìn trong bóng tối giỏi hơn. Thế nhưng cậu lại phải đối phó với hai tên. Cậu nhìn sang phía tên lính kia. À, một tên rưỡi. Lubji nhìn về phía trước, cố ghi nhớ địa hình. Cậu suy tính có lẽ xe đã đi được nửa đoạn đường từ tòa án về nhà tù. Sát bên đường là dòng sông. Nếu không phải là không thể thì cũng là khó mà vượt qua vì cậu không biết nông sâu thế nào. Phía bên kia là cánh đồng chạy dài về phía rừng mà cậu tính khoảng từ ba tới bốn trăm mét. Cậu cần bao nhiêu thời gian để chạy qua đoạn ba trăm mét đó khi tay bị còng? Cậu ngoảnh mặt xem đã đến đoạn hầm nào chưa, nhưng không thấy. Lubji bắt đầu lo có thể xe đã qua đường hầm cuối cùng trước khi đến nhà tù. Cậu có dám chạy trốn giữa ban ngày không? Cậu đi tới kết luận là không còn cách nào khác, nếu không còn đường hầm nào trong khoảng hai ba dặm đường còn lại. Xe chạy thêm một dặm, và Lubji nghĩ khi vào đoạn cua trước mặt, cậu sẽ phải quyết định. Cậu bắt đầu co người, để hai tay bị còng lên gối. Cậu ngồi thẳng người, dựa lưng vào thành xe, dồn hết sức lực lên đầu ngón chân. Lubji nhìn xuống đường khi chiếc xe chạy vào đoạn đường cong. Cậu suýt nữa kêu “Mazeltov” khi thấy đường hầm khoảng năm trăm mét trước https://thuviensach.vn mặt. Từ khoảng sáng nhỏ xíu phía bên kia đường hầm, cậu đoán xe phải chạy trong đó khoảng bốn giây. Cậu vẫn ngồi trên đầu ngón chân, cứng người trong tư thế chuẩn bị nhảy. Cậu có thể nghe tiếng tim mình đập mạnh đến mức hai tên lính chắc cũng phải biết điều nguy hiểm sắp xảy ra. Cậu nhìn tên lính còn đủ hai tay; tên này thò tay vào túi lấy thuốc, rồi uể oải đưa thuốc lên miệng và bắt đầu tìm diêm. Lubji quay nhìn về phía đường hầm, lúc này chỉ còn cách khoảng một trăm mét. Cậu biết một khi đã vào đường hầm tối đen, cậu chỉ có khoảng bốn giây để hành động. Năm mươi… bốn mươi…, ba mươi…, hai mươi… mười. Lubji hít một hơi thật sâu, đếm “một” rồi đứng vụt dậy, thò đôi tay mang còng vào cổ họng tên lính hai tay bóp mạnh đến nỗi hắn ngã lăn sang một bên, hét toáng lên khi rơi xuống đường. Chiếc xe phanh gấp khi ra khỏi cửa đường hầm phía bên kia. Lubji nhảy xuống, chạy ngược vào trong bóng tối của đoạn đường hầm. Hai ba người tù khác chạy theo. Rời khỏi đường hầm, cậu chạy một mạch ra cánh đồng. Được khoảng một trăm mét thì cậu nghe tiếng đạn réo sát trên đầu. Cậu vẫn giữ nguyên tốc độ chạy đoạn một trăm mét thứ hai, nhưng mỗi bước lại nghe hàng loạt đạn bắn theo. Cậu chạy ngoằn ngoèo. Ngoảnh lại, cậu đang thấy một người tù cùng nhảy khỏi xe với cậu nằm bất động trên mặt đất, trong khi người thứ hai vẫn mải miết chạy sau cậu vài bước. Lubji cầu mong những viên đạn bắn đuổi đó là của tên lính cụt tay. Trước mặt cậu là hàng cây, cách khoảng một trăm mét nữa thôi. Mỗi loạt đạn là mỗi tiếng súng lệnh thôi thúc cậu chạy nhanh hơn. Rồi cậu nghe tiếng kêu. Lần này cậu không nhìn lại. Khi còn khoảng năm mươi mét, cậu bỗng nhớ một người tù nói rằng súng trường Đức có tầm bắn là ba trăm mét, do vậy cậu đoán chỉ năm sáu giây nữa là cậu có thể an toàn. Nhưng một viên đạn xuyên vào vai cậu. Sức mạnh của nó làm cậu lao về phía trước vài bước, rồi ngã vật ra, đầu lao xuống bùn. Cậu cố bò, nhưng chỉ được vài mét thì gục hẳn. Cậu nằm đó, đành lòng chờ chết. Một lát sau, cậu cảm thấy một đôi tay thô ráp nắm lấy vai cậu. Đôi tay khác cầm cổ chân cậu nhấc lên. Ý nghĩ duy nhất của Lubji lúc đó là tại sao https://thuviensach.vn