🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quảng Trị 1972
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục lục
Lời Tác Giả
Lời Giới Thiệu
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Nhập Ngũ Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Huấn Luyện Tân Binh Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Về Phép Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (1) Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (2) Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (3) Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Chiến Trường B5 Phần Thứ Hai: Chiến Trận - Trận Thành Cổ (1)
Phần Thứ Hai: Chiến Trận - Trận Thành Cổ (2)
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (1)
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (2)
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (3)
Vĩ Thanh
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Lời Tác Giả
Tôi tin rằng, trên đời này, mỗi người đều có một số phận riêng, không ai giống ai.
Từ lâu, ca dao Việt Nam đã nói về thân phận con người, đó là sự mặc định, thiên định:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày...
Tôi coi mình là người may mắn và hạnh phúc khi được làm con bố mẹ tôi, những người không chỉ cho tôi cuộc sống, mà còn dạy tôi biết hướng về những điều cao đẹp như chính cuộc đời của ông bà, luôn nặng lòng với quê hương đất nước và tương lai của con cháu.
Tôi coi mình là người hạnh phúc và may mắn khi được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Hà Nội hào hùng lịch sử, hào hoa cốt cách, thủ đô của phẩm giá con người.
Tôi có Hà Nội lại được có Hà Tĩnh, Hương Sơn quê hương. Cái vùng đất địa linh nhân kiệt; vùng đất của thơ ca, của sự trung dũng kiên cường, đậm đà tình nghĩa ấy đã bồi đắp cho tôi những phẩm tính đặc biệt để dễ
https://thuviensach.vn
dàng vượt qua những thử thách trong cuộc sống và biết chắt lọc niêm vui, hạnh phúc ngay cả trong những ngày gian khổ nhất.
Bố tôi là Nguyễn Đình Kỳ, người Sơn Tân, Hương Sơn, Hà Tĩnh; tham gia cách mạng năm 1946, vào Đảng năm 1948, trải qua nhiều công tác, đến khi nghỉ hưu là Phó Trưởng ban Ban Quản lý Quảng trường Ba Đình, trực thuộc UBND TP Hà Nội trước đây và thuộc Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay.
Mẹ tôi là Đỗ Thị Nhu, người làng Mọc, Thượng Đình, Hà Nội. Thuở nhỏ bà đã học hết Tiểu học thời Tây, có bằng Primaire Certificate nên tiếng Pháp rất khá. Tôi được thừa hưởng nhiều trí tuệ và lòng đam mê văn học của bà. Cho đến lúc nghỉ hưu mẹ tôi là Trưởng Phòng Tài vụ Sở Xây dựng Hà Nội.
Tôi sinh năm 1954. Lính Hà Nội nhập ngũ 27- 04-1972 và vào Nam chiến đấu ở mặt trận B5, Quảng Trị. Nguyên là chiến sĩ Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B “Tử thủ Cổ thành”. Bị thương nặng, được đưa ra Bắc điều trị tháng 01-1973, rồi đi học đại học. Hiện nay đang sống và làm việc ở CHLB Đức.
Tôi không phải nhà văn và viết cuốn sách này không để làm văn.
Nó chỉ là hồi ức của một người lính, kể về một đoạn đời ngắn nhưng đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời tôi ở Mặt trận Quảng Trị, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vô cùng ác liệt. Ở đó, cái sống và cái chết tranh chấp nhau từng giây một. Ở đó, trắng đen rõ rệt. Trần trụi sự thật. Trần trụi bản năng và mọi khía cạnh con người. Tất cả được phơi bày hết, phơi bày đến tận cùng cái tốt và cái xấu; dũng cảm và hèn nhát; nhân đạo và nhẫn tâm; cao cả và thấp hèn; có lý và phi lý... Cuốn sách được viết dựa trên những hồi ức của tôi và các Đồng đội của tôi, đặc biệt là hai cuốn nhật ký của chính bản thân tôi, ghi lại chân thực nhiều chi tiết.
https://thuviensach.vn
Tôi biết ơn bố tôi, người đã giữ cho tôi những cuốn nhật ký đó và nhiều tài liệu khác trong hơn 40 năm và khuyến khích tôi viết cuốn sách này.
Tôi biết ơn, nhà báo Vũ Đình Hương, bệnh nhân cùng phòng với bố tôi tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội đã động viên tạo nhiều điêu kiện để cuốn sách được hoàn thành.
Tôi trân trọng ghi nhận những đóng góp của nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại, người đồng hương Hà Tĩnh. Anh cũng từng là một quân nhân trong chiến tranh chống Mỹ. Với tình cảm của một người đồng đội, đồng hương; anh đã dành nhiều ngày tháng để biên tập, chú giải, liên hệ xuất bản, in ấn để cuốn sách hoàn thiện hơn và ra đời được vào dịp kỷ niệm 30-4-2017, kỷ niệm 42 năm Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới ông Nguyễn Anh Vũ, bà La Kim Liên, lãnh đạo NXB Văn học, và anh chị em biên tập của nhà xuất bản đã nâng đỡ rất nhiều để cuốn sách của tôi được ra mắt bạn đọc.
Hy vọng các đồng đội tôi ở Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B sẽ tìm thấy ở đây những kỷ niệm về một thời hoa lửa.
Hy vọng các bạn trẻ sẽ hiếu hơn về thế hệ chúng tôi, những người đã sống và chiến đấu cho Tổ quốc như thế nào. Trong sách có sử dụng một số hình ảnh tư liệu.
CHLB Đức, ngày 10-03-2017
Nguyễn Quang Vinh
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Lời Giới Thiệu
Trong lịch sử dân tộc ta, có nhiều thời kỳ võ công oanh liệt gắn liền với sự phát triển rực rỡ của văn học nghệ thuật. Thời Lý - Trần; thời kháng chiến chống quân Minh; thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước là những thời kỳ như vậy.
Những bài thơ như Nam quốc sơn hà, những câu thơ như “Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong” (niên hiệu vua Trần Thái Tông, gắn với chiến thắng Nguyên Mông tần thứ nhất 1258); “Xã tắc hai phen chôn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng” đã vượt qua mọi thử thách của thời gian. Văn học, từ chỗ phản ánh hiện thực đời sống; đã trở thành giá trị tinh thần, hào khí, cốt cách của dân tộc.
Đến nay, 2017, hòa bình đã được lập lại 42 năm. Nhưng ký ức chiến tranh vẫn còn tươi nguyên, nhất là với những chiến sĩ đã trực tiếp cầm súng. Họ không chỉ xả thân vì độc lập dân tộc mà còn là những nhà văn trung úy, những nhà văn binh nhì đã và đang làm nên những chiến tích mới trong văn học nghệ thuật. Đã có hàng trăm, hàng nghìn tiểu thuyết đồ sộ, đã có tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” rực lửa, chan chứa giá trị nhân văn khiến cả thế giới kinh ngạc, khâm phục. Song vẫn chưa hết. Những hồi ức binh nhì tiếp tục ra đời.
“Quảng Trị 1972” của Nguyễn Quang Vinh là một cuốn sách như vậy, cuốn sách hấp dẫn từ đầu chí cuối, với những chi tiết hết sức sống động và chân thực về chiến tranh, tôi nghĩ rằng, không phải người cầm súng, không thể viết được. Nguyễn Quang Vinh, vốn là học sinh Trường Phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng, hăng hái ra trận năm 1972, như tất cả mọi
https://thuviensach.vn
thanh niên thời ấy, với tâm thế “Chiến đấu là cao quý nhất. Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù” (Nhật ký Lê Mã Lương). Chân dung người chiến sĩ Giải phóng quân hồi ấy được Nguyễn Quang Vinh vẽ ra thật lãng mạn: “Có đoạn đi bên sườn núi, nhìn ra phía đông xuyên qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp. Rồi những cồn cát trắng nhỏ xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông bạc đang uốn khúc, y như trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự hào vô cùng. Dầu sao đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai"... Nhưng rồi thực tế chiến trường đã không chỉ có sự phơi phới. Anh là chiến sĩ rồi Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4, Trung đội 2, Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48, Trung đoàn Thép của Sư đoàn 320B tử thủ ở Thành cổ Quảng Trị và Mặt trận Cửa Việt. Đường hành quân, chủ yếu đi bộ từ Bắc vào Nam đã được anh nhớ lại: “Cả lũ đi mò trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị đứt, đành phải đi đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi. Đường bờ ruộng trơn như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống đất mà vẫn ngã. Mỗi bước đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch, quần áo bẩn thỉu như trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi phệt dưới bùn mà nuốt nước mắt: cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế này"! Cuộc sống ở chiến trường có những điều mà bây giờ lớp trẻ không thể hiểu nổi: “Sau bữa trưa chỉ có cơm với muối chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca nhôm vào cát rồi chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom cách đó vài chục mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích”...
Quảng Trị năm 1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Đụng vào đâu cũng thấy xác chết, cả ta lẫn địch. Tiểu đoàn 3 của anh đã hai lần bị xóa sổ trong vòng ba tháng. Chỉ có tinh thần chiến đấu kiên cường của người chiến sĩ là không chết. Đây là một đoạn viết về những người lính trẻ: “Từ cửa hãm đối diện, Lâm Thành xả một tràng AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có địch. Hai chiến sĩ trẻ của C11, là
https://thuviensach.vn
Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng vào nhau, chĩa súng AK ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy trên mặt một người và máu thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không ngừng, bắn mãi... Cách đó khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế "Khương Trung” mang khẩu DKZ82 ra định lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng địch đang rầm rầm xông đến, Quế hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay, nạp vào súng. Rồi không cần giá súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào sống sót”...
Mọi sự thật của chiến tranh đều được phơi bày một cách trần trụi. Cả dũng cảm và hèn nhát. Không ít cán bộ, chiến sĩ đã thoái lui, không đập bệnh cũng đảo ngũ. Nhưng trên tất cả là bản anh hùng ca của tuổi trẻ từ bộ đội chủ lực đến giao liên, du kích. Tác giả, trong hoàn cảnh cụ thể của mình đã có những trang viết xúc động, rất đáng tự hào về tuổi trẻ Hà Nội trong những ngày kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có chính tác giả.
Văn học gần đây có khuynh hướng thiên về ký sự, mô tả sự thật như nó vốn có. Sự thật cuộc chiến đấu Quảng Trị năm 1972 hào hùng và tiêu biểu đến nỗi, không cần tới hư cấu, và bởi không cần đến hư cấu nên lay động sâu xa tới người đọc. Cuốn sách này của Nguyễn Quang Vinh không chỉ có giá trị lịch sử mà còn góp phần khẳng định một khuynh hướng mới có nhiều triển vọng trong đời sống văn học hiện nay.
Nguyễn Quang Vinh kể lại những ngày tháng của các anh ở Quảng Trị không để làm văn chương; mà là nén hương lòng tưởng niệm và tri ân những đồng đội đã hy sinh vì Tổ quốc:
Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
https://thuviensach.vn
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai.
(Trần Mạnh Hảo)
Khép lại trang cuối cùng của cuốn sách; tôi hết sức khâm phục, biết ơn và càng thương nhớ các anh chị đã chiến đấu và hy sinh ở Quảng Trị; trong đó hai người anh của tôi là Liệt sĩ Nguyễn Đức Thúy và Liệt sĩ Nguyễn Sĩ Đường.
Tôi nhận thấy ở Nguyễn Quang Vinh một nhà văn - chiến sĩ. Dù anh không viết gì nữa, tôi tin anh đã có một chỗ đứng trên văn đàn.
Cuốn sách “Quảng Trị 1972" chắc chắn sẽ ghi được dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc.
Hồ Gươm, 21-3-2017
Nguyễn Sĩ Đại
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Nhập Ngũ
Ngày 16-04-1972 máy bay Mỹ ném bom trở lại Hà Nội, sau gần bốn năm ngừng oanh kích.
Khoảng 11 giờ trưa còi báo động từ phía Nhà hát Lớn rú vang, rồi tiếng súng cao xạ nổ ầm ầm. Tôi chạy từ trong lớp học ra ban công tầng 2 Trường Phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng, ngó lên bầu trời. Những chiếc phản lực Mỹ hình vỉ ruồi nhỏ xíu, mình bạc cánh đen, đang lao vun vút trên thành phố, phía sau chúng là từng đám hoa khói của đạn cao xạ nổ lụp bụp. Nhà trường cho học sinh nghỉ học. Thành phố ban bố lệnh sơ tán.
Ngày hôm sau chỉ mình tôi đạp chiếc xe đạp Mifa chở theo đồ đạc lên chỗ sơ tán. Đó là làng Giang Xá, gần Trạm Trôi, huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), nơi chúng tôi đã từng sơ tán từ tháng 06-1966 đến tháng 07-1969. Tôi lại đến nhà bà Phó Tiến ở Xóm Trong xin ở nhờ. Đó là một bà già nông dân tốt bụng, ở một mình trong căn nhà lá 5 gian và một khu vườn rộng. Các con bà, anh con trai cả và cô con gái thứ, đều đã có gia đình và ra ở riêng cả. Bà chỉ xót xa cậu con út, chú Hinh, đi bộ đội đã mấy năm mà không có tin tức gì. Bà vẫn thường kể từ ngày chú Hinh cùng đơn vị “kéo cờ lên đường” sang Cao Miên (Căm-pu-chia) là bặt vô âm tín.
Đến hôm trước thì hôm sau tôi đã ra vườn giúp bà làm việc: bóc lá mía, tưới khoai tây, trèo hái ổi cho bà đi chợ bán… Những lúc nhàn rỗi tôi lại giở sách ra ôn tập, lòng bâng khuâng tự hỏi, còn vài tháng nữa là thi tốt nghiệp lớp 10 và thi đại học, không biết rồi sẽ ra sao đây? Một buổi chiều tôi ra ngồi câu cá ở ao sau vườn, nhìn bầu trời trong xanh phản chiếu xuống mặt ao, lại nhớ hơn 4 năm về trước, từ chỗ này tôi đã quan sát cảnh máy
https://thuviensach.vn
bay Mỹ lao vào ném bom Hà Nội. Khi bay vào thì hùng hổ, hàng ngũ chỉnh tề; khi quay ra thì tán loạn, cái lao lên cái nhào xuống, lăn lộn cố thoát khỏi lưới lửa phòng không nhiều tầng nhiều lớp. Khẩu thượng liên 12ly7 trên cổng làng Giang Xá cũng nổ từng loạt giòn giã, xen lẫn những tiếng bì bọp của súng trường dân quân. Đang mơ màng hồi tưởng thì chợt thấy phao nhấp nháy rồi bềnh lên, tôi vội giật cần. Một chú trắm đen bằng cổ tay bị lôi lên bờ, giãy đành đạch và phát ra những tiếng kêu chít chít nghe rất lạ. Chợt Huệ, cô bạn học cùng lớp sơ tán hồi trước, sang chơi. Huệ người làng này, là em của Giang, người bạn thân nhất của tôi thời sơ tán, tuy là hai anh em nhưng lại học cùng một lớp với tôi. Từ hôm về đây tôi chưa tới thăm bạn cũ nào cả. Huệ cho biết Giang đã nhập ngũ được mấy tháng, thanh niên làng này đã đi bộ đội vãn cả, ở làng hầu như chỉ còn phụ nữ, trẻ con và người già. Ai ngờ đó là lần cuối cùng tôi biết tin Giang, hai mươi mấy năm sau mới có dịp lần hỏi tin tức, thì được biết Giang đã hy sinh ở chiến trường B5 rồi. Dạo này tình hình chiến sự ở Miền Nam đang cực kỳ sôi động. Từ cuối tháng 03-1972 quân ta đã đồng loạt mở các cuộc tấn công lớn ở 3 mặt trận Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và Lộc Ninh - Đông Nam Bộ.
Hàng ngày chiếc loa phóng thanh trên nóc đình làng vẫn vang lên những tin thắng trận liên tiếp. Đặc biệt ấn tượng là tin cả một trung đoàn quân ngụy do Trung tá Đính cầm đầu ra hàng Quân Giải phóng (1). Kiểu này thì chắc sắp giải phóng Miền Nam đến nơi rồi. Tuy nhiên buổi tối trước hôm đi sơ tán tôi có bật Radio nghe trộm đài Gươm thiêng ái quốc của Sài Gòn, thì thấy nói “xác của hàng ngàn thiếu niên Bắc Việt đang rải khắp các chiến trường Miền Nam trong cuộc tấn công này”.
-------------
(1) Về chuyện đầu hàng của trung đoàn này, lịch sử chép như sau: 10 giờ 55 phút, ngày 30-3-1972, từ Sở chỉ huy Bộ Chỉ huy chiến dịch, Tư lệnh mặt trận Lê Trọng Tấn phát lệnh "Bão táp", mở màn chiến dịch tấn công
https://thuviensach.vn
giải phóng Quảng Trị. Trung đoàn pháo binh Bông Lau (Trung đoàn 38) do Cao Sơn làm Trung đoàn trưởng và Trần Thông làm Trung đoàn phó được giao nhiệm vụ chi viện cho Sư đoàn 304, tấn công ở hướng chủ yếu, theo đường số 9 từ hướng Tây xuống Đông Hà. Mục tiêu đầu tiên là đánh cụm cứ điểm kiên cố do Trung đoàn pháo binh 56 ngụy chốt giữ. Phía địch gọi là căn cứ Carroll (Cà - ròn), phía ta gọi là cao điểm 241. Trung đoàn này doTrung tá Phạm Văn Đính quê Thừa Thiên làm Trung đoàn trưởng. Trước tình trạng cá nằm trên thớt, Đính liên lạc yêu cầu thương lượng nhưng ta không đồng ý, chỉ chấp nhận đầu hàng. Đính triệu tập các sĩ quan và thông báo ý định đầu hàng Quân Giải phóng. Hầu hết các sĩ quan đồng ý với quyết định này trừ Thiếu tá Tôn Thất Mãn. Trong vụ đầu hàng này có hai chi tiết thể hiện sự nhân đạo của Quân Giải phóng: Một là, khi binh lính kéo cờ trắng đầu hàng ra tập hơp trước sân thì có hai trực thăng Mỹ đến bốc hai cố vấn Mỹ là Thiếu tá Joseph Brown và Trung tá William Camper. Mặc dù ở trong tầm hỏa lực của ta nhưng Sư trưởng Hoàng Đan đã không cho bắn để khỏi giết hại binh lính đầu hàng. Hai là, dù bị bức hàng, dù để cố vấn Mỹ trốn thoát, Phạm Văn Đính và binh lính Trung đoàn 56 vẫn được giữ nguyên quân hàm khi theo Quân Giải phóng và được bố trí công việc thích hợp (BT).
Ở nơi sơ tán được gần 1 tuần, bỗng một buổi sáng, Tiến Dũng, người bạn cùng lớp thân thiết nhất của tôi tìm tới. Tiến Dũng thông báo rằng tôi đã có giấy gọi nhập ngũ, và bố mẹ tôi nhờ Tiến Dũng vào báo tin cho hộ. Tôi vội vàng thu dọn đồ đạc trở về ngay Hà Nội. Trong giấy có nói 9h sáng ngày 27-04-1972 tôi phải có mặt ở Tây Tựu, huyện Từ Liêm để nhập ngũ. Như vậy là chỉ còn vài ngày nữa thôi. Thực sự hồi đó tôi cũng hơi bị bất ngờ. Cho đến những ngày đó, chiến tranh đối với tôi dường như là sự việc của những người khác, ở một nơi nào đó xa lắc, và chỉ tồn tại trong những bản tin của báo, đài. Hơn nữa tôi chưa tròn 18 tuổi, là một trong những học sinh giỏi nhất trường. Những học sinh như vậy sau khi tốt nghiệp lớp 10 thường được các trường đại học của Quân đội hoặc Công an đến chiêu sinh, hoặc được các Binh chủng kỹ thuật như Không quân, tên lửa, xe tăng, pháo
https://thuviensach.vn
binh đến thu nạp, chứ ít khi phải đi lính trơn “Bò binh” như thế này. Tôi tranh thủ lên thăm gia đình cô An ở Nông trường Tam Đảo một ngày. Những ngày còn lại lo mua sắm vài vật dụng cần thiết, và cùng gia đình đi chụp ảnh kỷ niệm. Những bức ảnh chụp đại gia đình hồi đó, gồm bố mẹ tôi, hai em Hà, Hiển cùng bà nội, bà ngoại vẫn còn đến ngày nay. Nhìn nét mặt người nào cũng đượm vẻ lo âu và buồn rười rượi. Buổi sáng ngày 27-04- 1972 cả gia đình đưa tiễn tôi đến nơi tập trung tại xã Tây Tựu, ngoại thành Hà Nội. Đến nơi đã thấy rất đông người.
Cùng lớp tôi có các bạn Chí Thành, Lê Thanh Bình, Phổ Thọ. Bạn Tiến Dũng chạy theo chúng tôi suốt, và rất muốn đi cùng cho vui, nhưng bạn ấy không có giấy gọi mà cũng không có tên trong danh sách. Sau này tôi nghĩ chắc người họ hàng làm trên Khu đội đã ỉm giấy của bạn ấy đi. Nhà tôi gần nhà Quang Vinh nên mẹ bạn ấy bắt hai đứa phải khoác chặt tay nhau để “cùng đi cùng ở”. Tôi còn nhận ra một số khuôn mặt quen thuộc hoặc ở cùng Khu tập thể như Mai Quý Cường, Dũng “Patinhom”, Vân số 6, Bình “Cống”, Châm “thối tai”, Ngô Duy Minh, Bùi Ngọc Toàn 10A….
Có một tay đeo xắc-cốt lụng thụng, đi lại bắng nhắng, làm bộ phỏng vấn mọi người, nói nhiều câu đao to búa lớn, có biệt danh là Nhuận “nhà báo”. Không ngờ sau này hắn là một trong những tên đảo ngũ đầu tiên. Sau khi nhận quân trang gồm quần áo, mũ dép, chăn màn, bi-đông… tôi được phân về Tiểu đội 3, Trung đội 1, C49, D58, E59 Bộ Tư lệnh Thủ đô. Tiểu đội trưởng Thành 19 tuổi, nhập ngũ trước chúng tôi một năm, mới đi học A trưởng về, mặc bộ quân phục bạc phếch, hay cười khoe chiếc răng khểnh, và tỏ ra rất thân thiện với tôi. Buổi tối đầu tiên trong đời bộ đội, toàn Trung đội tập hợp ở sân đình, nghe Quyền Trung đội trưởng Nghĩa huấn thị. Anh Nghĩa 23 tuổi, là người vui tính thích thơ ca hò vè, nhưng cũng rất nghiêm, làm chúng tôi nể sợ răm rắp. Anh bắt nhịp cho chúng tôi đồng ca bài “Vì nhân dân quên mình”, rồi đọc một bài vè rất ngộ về lính mới ở Bãi Nai, Hòa Bình làm mọi người cười vui vẻ. Tôi được chỉ định làm A phó A3.
https://thuviensach.vn
Sáng hôm sau cả lũ kéo nhau ra giếng ao gần đó đánh răng rửa mặt, tôi gặp Lục Thế Bảo và Định, tán gẫu vài câu, rồi mỗi đứa được phát một cái bánh mì để ăn sáng. Đúng 7h30 Đại đội tập hợp điểm danh, phổ biến lệnh hành quân, sau đó theo đội hình hàng dọc lên đường. Sau khoảng hai tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi thấy mình đang đi trên bờ một con kênh quen quen, giống như con kênh ở gần làng Giang Xá. Tôi nghĩ bụng chắc sắp đi qua làng, biết đâu gặp được vài người quen nào đó. Nhưng không, đi một lúc nữa thì thấy mình đang ở vùng Sấu Giá rợp bóng dừa xanh, với những người dân nói tiếng trọ trẹ rất khó nghe. Ngày hôm sau, khi đã tối mịt một lúc lâu thì chúng tôi mới tới nơi. Đó là một sườn đồi thoai thoải trong vùng rừng núi Bãi Nai, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Một lô nhà lán lợp nứa đứng xiêu vẹo. Chúng tôi chia nhau mỗi tiểu đội vào một nhà, đứa nào cũng mệt rũ. Tôi lần mò lấy ra gói sữa bột, hòa vào bát nước chè để uống, rồi rải chiếu ra nằm ngủ như chết.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Huấn Luyện Tân Binh
Sáng hôm sau nghe phổ biến nhiệm vụ: các Tiểu đội chia thành tổ Tam tam vào rừng đẵn gỗ nứa về làm nhà. Tổ Tam tam của tôi ngoài tôi làm tổ trưởng còn có Mai Quý Cường và Tôn, đều to cao như phi công cả. Chỉ tiêu ngày đầu mỗi người một cây gỗ bằng bắp chân, những ngày sau mỗi người 20 cây nứa. Chúng tôi phải leo những con dốc dựng đứng, đi rất sâu vào rừng mới tới nơi nứa mọc. Trai Hà Nội lần đầu thấy những con vắt nâu đen, đứng trên những chiếc lá, quơ quơ cái vòi đánh hơi, thấy người đi qua thì nhảy tanh tách đeo bám. Thấy những vạt rừng thưa có những cây bưởi dại, cây sung, cây vả quả đeo lúc lỉu và cây dương xỉ đầy lông tơ vàng. Tôi chưa có kinh nghiệm chặt nứa nên bị 1 cây xiên xuống trúng mu bàn chân trái, mấy hôm sau mưng mủ, đau nhức. Bắp chân nổi hạch, sưng to, nhưng tôi vẫn cố gắng cà nhắc đi làm, nên được Đại đội biểu dương. Sau hơn một tuần thì nơi ăn chốn ở đã ổn định. Mỗi tiểu đội ở một nhà lợp nứa, vách nứa, và có một chiếc giường tập thể lát nứa chạy dọc căn nhà. Ngoài ra chúng tôi còn làm một hội trường lớn, một nhà ăn tập thể và một khu bếp cạnh suối. Sau đó chúng tôi đi nhận vũ khí, chủ yếu là AK47 và K63 (súng trường Trung Quốc) có gắn lưỡi lê. Tôi được nhận một khẩu AK Ba Lan có tay nắm phụ ở ốp phía trên và một bao xe 3 băng đạn trước bụng. Mỗi người còn phải đeo hai quả lựu đạn tập và tự làm vòng tre để cắm lá ngụy trang sau lưng. Tôi đươc thuyên chuyển sang Trung đội 2 làm A phó A4. Ở Trung đội này tôi gặp lại bạn thân Chí Thành và Ngô Duy Minh.
Mỗi buổi sáng sau kẻng báo thức, chúng tôi xuống suối đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân rồi tập thể dục theo Trung đội. Sau đó xuống nhà ăn ăn sáng, chủ yếu là bánh đúc ngô hoặc bột mì luộc, rồi ra thao trường
https://thuviensach.vn
tập luyện. Đến 11h về nghỉ ăn trưa, cơm độn ngô với bí đỏ xào, hoặc măng nứa xào, hoặc rau muống luộc, thỉnh thoảng mới có chút thịt. Có một tiểu đội “chị nuôi” ở khu nhà bếp gồm các cô gái 18-20 tuổi, thỉnh thoảng thấy mấy vị cán bộ Đại đội, Trung đội xuống tán tỉnh. Buổi chiều lại tiếp tục ra thao trường. Sau bữa tối toàn đại đội tập hợp, sinh hoạt tập thể như nghe đọc báo, văn nghệ cây nhà lá vườn hoặc nghe một vài cá nhân kể chuyện bản thân. 21h kẻng tắt đèn đi ngủ. Các tiểu đội đều có lịch gác đêm. Mỗi lần đến lượt tôi đều chọn một khẩu K63 gắn lưỡi lê, vừa gác vừa tập mấy bài cận chiến bằng lưỡi lê và báng súng. Các bài huấn luyện cứ phức tạp dần, từ xếp đội hình đội ngũ, lăn lê bò toài, kỹ thuật xạ kích, ném lựu đạn, đánh bộc phá…đến kỹ thuật ngụy trang, chiến thuật Tiểu đội, Trung đội giữ chốt…Tóm lại là ngày nào cũng mệt nhoài, nhưng tinh thần chúng tôi rất hăng hái. Có những hôm trên đường đi tập về, nghe mấy cậu lính gốc gia đình buôn bán thất thểu vừa đi vừa rên rỉ mấy câu nhạc vàng: “Ngày mai anh đi/ Lòng xao xuyến xa nơi Hà thành/ Đời lính chiến không mong ngày về/ Héo mòn cả tuổi xanh…” hoặc “Mai mốt anh trở về/ Anh kéo lê chân què/ Cuộc đời anh sẽ bò lê/ Cuộc đời anh sẽ bò lê…” là chúng tôi phản ứng dữ dội. Khi nghe một cậu hát “Yêu anh không phải vì đẹp trai, không phải vì sang giầu, mà cùng chung chí hướng…” tôi quặc luôn: “Chí hướng gì? Chí hướng Bắc tiến diệt Cộng hả?” làm cậu ta tịt ngóm. Đặc biệt là mỗi tuần có hai buổi tập hành quân mang vác nặng. Anh nào cũng phải lèn gạch đá vào ba-lô cho đủ 30kg, mang súng và tất cả trang bị trên người. Quãng đường hành quân càng ngày càng dài, lên núi xuống đèo, băng qua đồng ruộng, sông suối…Nhiều cậu mồ hôi ra như tắm, tôi thì lại không ra mồ hôi mấy. Buổi trưa trời nắng chang chang, khát khô cổ, chúng tôi vục cả nước ruộng để uống, mà không thấy đau bụng gì. Tuy nhiên tôi có cậu bạn nhà ở số 10 Đoàn Trần Nghiệp, một hôm vì quá khát nên uống nước ở một mương nhỏ. Sau đó bị đau bụng khủng khiếp, kêu khóc vật vã, mắt vàng da vàng, phải đưa đi Trạm xá cấp cứu, nghe nói bị xoắn trùng. Có những buổi tập hành quân đêm trời tối đen như mực, người đi sau phải bám vai người đi trước, thế mà vẫn có cậu thụt xuống hố nước. Dần dần những địa danh Dốc Cun, Suối Mon, Bãi Nai… trở thành rất quen thuộc.
https://thuviensach.vn
Ở Bãi Nai được khoảng ba tuần thì một buổi sáng chủ nhật gia đình tôi, gồm bà nội, mẹ tôi và hai em Hà, Hiển lên thăm. Tôi được Trực ban Đại đội gọi ra Trạm đón tiếp cách doanh trại khoảng 200m để gặp gia đình. Tới nơi đã thấy nhiều người lố nhố, mỗi chỗ có một anh lính mới với người nhà ngồi vây quanh, chuyện trò rôm rả. Gặp lại tôi cả nhà mừng rỡ, đặc biệt là bà nội và mẹ tôi, những người có tình thương con cháu vô biên, gần như mù quáng. Những anh lính mới như tôi được gia đình mang đủ thứ lên tiếp tế, nào là xôi chả, thịt gà, thịt lợn, ruốc thịt, bánh dày, bánh giò… thứ ép ăn tại chỗ, thứ cho vào bao để cất ăn dần. Mẹ tôi kể chuyến này cùng đi còn có mẹ Chí Thành và mẹ Phổ Thọ. Phổ Thọ gốc Miền Nam tập kết, mẹ Phổ Thọ là Bác sĩ Bệnh viện Việt Xô, thương con thì thôi rồi. Bà mang đòn gánh trên vai, một đầu treo hai cái bánh tét, đầu kia treo một con vịt, tính lên đến nơi sẽ làm thịt cho thằng Hai (Phổ Thọ) ăn. Ai ngờ khi lội qua Suối Mon, nước lên đến bụng, bà bị trượt ngã, con vịt bơi theo dòng nước đi mất. Nói chung tôi biết các gia đình đều phải tằn tiện chắt bóp để tiếp tế cho chúng tôi, vì tiêu chuẩn thực phẩm tem phiếu thời chiến chẳng dư dả gì. Ngồi bên cạnh gia đình tôi là gia đình Mai Quý Cường, bạn cùng khu tập thể Nguyễn Công Trứ. Mẹ bạn ấy làm ở Quầy đổi bánh mì (thuộc ngành lương thực - đổi bánh mì thu tem gạo) nên tôi rất quen mặt. Cường có cô người yêu mũm mĩm, nghe nói là nhân viên bán hàng ở phố Huế, đang ngồi đút cho Cường ăn từng miếng xôi chả rất tình tứ. Tôi tranh thủ đưa em Hiển, em út của gia đình, vào thăm chỗ chúng tôi ăn ở. Hiển hồi đó 11 tuổi, có khuôn mặt bầu bĩnh, được tôi khoác khẩu AK vào cổ, đi đi lại lại, lấy làm khoái chí lắm. Sau khi tiễn gia đình về, trên đường trở vào doanh trại, tôi đi cạnh Hoàng Hữu Hạnh. Mỗi đứa đều ôm một bọc tiếp tế trước bụng, tôi nhìn sang thấy Hạnh đang ngân ngấn nước mắt (Sau này Hạnh hy sinh ở chốt Làng 8, Thanh hội)...
Những tối thứ bảy, chủ nhật, thường được nghỉ sinh hoạt, chúng tôi hay ra bản người Mường gần đó chơi. Nhiều cậu có tiền thì trèo lên những ngôi nhà sàn, mua rượu sắn ngồi uống, hoặc tán tỉnh trêu đùa các cô gái Mường. Người Mường rất hiền lành, thật thà, các cô gái hay mặc váy đen,
https://thuviensach.vn
áo trắng dài tay nhưng vạt ngắn cũn cỡn. Khi bị chúng tôi buông lời trêu ghẹo “Ủn ơi, ché Ủn có to không?” (Em ơi, l. em có to không?) là các cô thẹn đỏ mặt bỏ chạy hết. Nhiều cậu khác hoặc không có tiền, hoặc không muốn ra ngoài chơi, thì túm tụm đánh bài Tiến lên. Có hôm, tôi cũng ngồi đánh bài cho vui, lúc tàn cuộc, quờ chân xuống giường tìm dép, thì đôi dép đúc Trung quốc được cấp phát đã không cánh mà bay. Chắc bị thằng nào ăn cắp đi đổi rượu uống rồi. Báo hại tôi phải báo về gia đình, nhờ ra Chợ Giời (1) mua cho đôi khác gửi lên. Tôi có thói quen ngày nào cũng viết nhật ký, rồi đem cái kèn Harmonica thổi những bài tôi yêuthích. Người bạn nằm cạnh tôi cũng hay viết nhật ký, nhưng bằng tiếng Nga. Đó là anh Toàn già, người thấp bé, hơn chúng tôi chừng dăm tuổi, để ria mép, khuôn mặt lúc nào cũng rầu rĩ. Anh kể anh đã đi học nghề ở Nga ba năm về, giờ lại bị bắt đi lính, nên rất bất mãn. Anh thường cáo bệnh nằm nhà, không đi tập luyện. Hình như về sau anh được loại ngũ, đúng như mong muốn.
-------------
(1) Chợ Giời (Trời), hay còn có tên là Chợ Hòa Bình, một chợ rất nổi tiếng ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, họp ngoài trời từ năm 1954 ở các phố Thịnh Yên, Chùa Vua, Lê Gia Định, Trần Cao Vân, Nguyễn Công Trứ, Yên Bái 2, Đỗ Ngọc Du. Chợ Giời nổi tiếng vì có bán đủ mọi thứ trên đời, kể cả hàng đặc dụng, hàng cấm (BT).
Từ hồi còn đi học tôi đã luôn nghiêm chỉnh gương mẫu trong mọi việc. Mười năm liền là lớp trưởng, luôn đứng đầu lớp, nhiều lần đoạt giải trong các cuộc thi học sinh giỏi, làm Đội trưởng Đội Cờ đỏ của trường… Tôi thường tâm niệm: đã là học sinh phải học thật giỏi, là công nhân phải sản xuất tốt, là người lính phải chiến đấu dũng cảm. Tuy nhiên cái nhìn và cách hành xử thẳng băng như vậy trong cuộc đời thường gặp phải nhiều chống đối, đặc biệt từ phía những kẻ xuất thân buôn bán, thành phần bất hảo, lưu manh đường phố, vì nhiều đứa như vậy cũng được gọi nhập ngũ đợt này.
https://thuviensach.vn
Chúng cho tôi là một tên “Bôn sệt”, và nhiều khi tỏ ra khó chịu, khi bị tôi với tư cách A phó nhắc nhở chấp hành nghiêm kỷ luật. Thậm chí có tên còn dọa sẽ “trùm chăn đánh hội đồng” tôi. Nhưng sau lưng tôi luôn có nhiều người bạn chí cốt ủng hộ, đặc biệt là anh Long “cồ”. Anh người to cao như gấu, khuôn mặt bèn bẹt có cái mũi sư tử trông rất ngầu. Anh thường rủ tôi lên đồi tập võ Tàu, và lớn tiếng tuyên bố: “Tao với thằng Vinh là anh em kết nghĩa, đứa nào đụng đến nó nghĩa là đụng đến tao, tao sẽ cho ăn quết trầu bét nhè”. Thế là chả đứa nào dám đụng đến tôi cả. Tôi cũng rút ra được phương châm hành xử trong đời lính, là luôn phải “Khôn ngoan đứng đắn/ Thân mật tươi cười/ Nắm được lòng người/ Kịp thời cương quyết”.
Anh bạn Chí Thành của tôi ở A5 cùng nhiều bạn học sinh khác cũng phải chịu cảnh tương tự. Anh bị mấy tên bất hảo ở A5 đe dọa, ton hót nhiều chuyện bịa đặt với A trưởng để cô lập anh. Anh rất buồn và thường gặp tôi để tâm sự. Tình hình A6 cũng chẳng khá hơn. Tôi vẫn nhớ cậu Khánh ở Vân Hồ, người thư sinh mảnh dẻ, có khuôn mặt như con gái, bị lão Lân A trưởng A6 rất ghét, hay kiếm cớ chửi mắng, nhiều hôm bị lão phạt quỳ ở ngoài sân. A6 còn có cậu Lâm Thành, thuộc loại thấp bé nhẹ cân, nhưng lại hay bị sai đi khiêng thực phẩm.
Hòa Bình là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô, nên thỉnh thoảng thấy máy bay Mỹ đi tập kích Hà Nội bay qua. Có những hôm thấy những sợi giấy bạc lấp lánh mỏng manh bay trắng trời, rơi phủ đầy cây cối và mặt đất, về sau tôi mới biết đó là do máy bay Mỹ thả nhiễu thụ động để chống Ra-đa phòng không.
Tình hình chiến sự ở Miền Nam ngày càng căng thẳng. Ngày 01-05- 1972 báo đài đồng loạt đưa tin giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, nhưng sau đó phía đối phương liên tục phản kích trên các mặt trận. Nhu cầu bổ sung sức người sức của cho tiền phương là rất lớn.
https://thuviensach.vn
Chúng tôi đã bắt đầu bước vào giai đoạn huấn luyện nước rút, gồm bắn đạn thật, ném lựu đạn thật, đánh bộc phá thật. Những buổi học về kỹ thuật xạ kích ở hội trường do Đại đội trưởng Mạnh lên lớp rất tẻ nhạt. Trung úy Mạnh gốc người dân tộc Tày thì phải, trình độ văn hóa không cao, nên nói năng có phần lúng túng. Tôi nhớ mãi câu “từ từ lổ cò, từ từ lổ cò” của anh khi hướng dẫn bắn súng. Ngược lại, anh Hồng, Chính trị viên đại đội, ăn nói rất lưu loát. Các buổi học tập chính trị, anh hăng say diễn thuyết, nhiều lúc mắt long lanh. Tôi rất quý anh Xuyên, Chính trị viên phó, người thấp nhỏ tính tình điềm đạm. Tôi hay có dip làm việc với anh, vì tôi được anh em tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng quân nhân đại đội, còn anh là Chủ tịch, chuyên lo chuyện ăn ở, kiểm tra vệ sinh trong đơn vị.
Một hôm chúng tôi tiến hành tập đánh bộc phá thật. Mỗi người được phát 200g chất nổ dẻo, buộc hai khúc cây thành hình chữ thập có cán dài. Sau khi gắn gói thuốc nổ vào giữa chữ thập, chúng tôi cầm cán dài chạy lom khom tới áp nó vào tường lô-cốt, cạnh lỗ châu mai, giật dây cháy chậm, rồi bò trở lại nơi ẩn nấp. Một tiếng nổ chát chúa vang lên, cây chữ thập gỗ bay ngược trở lại đập bốp vào đầu anh Bính B trưởng B2, may mà anh đội chiếc mũ cối Tàu nên không bị sao cả. Anh Bính rất đô con, mặt lúc nào cũng nghền nghệt, quê một cục, nên bị anh em gọi là Bính “tẩm”. Ngược lại với anh Đạm B phó, 20 tuổi, người nhỏ bé, ăn nói lí nhí như trẻ con. Dạo này các B đã hoàn thiện tổ chức, có đầy đủ B trưởng B phó mới bổ sung về. Ví dụ B1 trước kia chỉ có anh Nghĩa phụ trách, nay đã có anh Trọng về làm B trưởng, biệt danh là Trọng “say rượu”. Hồi hộp nhất là hôm ném lựu đạn thật. Quả lựu đạn chày dài khoảng 30 cm, đầu hình trụ bằng gang, chuôi gỗ. Tôi tay phải nắm chuôi, tay trái vặn bỏ nắp bảo vệ, móc ngón tay trỏ vào vòng dây cháy chậm giật “bép” 1 cái, rồi vung tay ngả người lấy đà ném quả lựu đạn về phía trước. Đã có cậu vì quá hồi hộp đánh rơi lựu đạn về phía sau, làm anh em đồng đội hoảng loạn chúi nhủi vào các hố đào. May mà anh A trưởng nhanh tay chộp được ném ra xa, không thì đại họa. Thấm thoát đã đến ngày bắn đạn thật. Mỗi người được phát 7 viên đạn AK, và sẽ nằm bắn 3 viên vào bia cố định tính điểm (bắn phát một).
https://thuviensach.vn
Sau đó làm động tác quỳ bắn liên thanh điểm xạ 2 viên vào bia xuất hiện bất ngờ, rồi tiến lên bắn điểm xạ nốt 2 viên vào bia dưới chiến hào. Nếu ai bắn 3 viên đạt 27 điểm, bắn điểm xạ trúng cả 2 bia còn lại thì được thưởng 3 ngày phép về thăm nhà, nên cậu nào cũng háo hức. Tuy nhiên kết quả phần lớn không được như ý. Sau khi tôi bắn xong, người báo bia báo phát đầu được 10 điểm, phát thứ 2 được 7 điểm, làm anh Hồng - Chính trị viên đứng sau vỗ mạnh vào vai tôi nói: “Khéo thằng Vinh được về Hà Nội rồi”, nhưng phát thứ 3 lại tìm chim, làm cả lũ tiu nghỉu. Như vậy về cơ bản chúng tôi đã hoàn thành tất cả các hạng mục huấn luyện.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Về Phép
Một ngày giữa tháng 7-1972 chúng tôi được lệnh hành quân.
Về mặt tổ chức cũng có một số thay đổi. Các A trưởng được giữ lại để huấn luyện đợt lính khác. Các A phó như tôi được đôn lên làm A trưởng. A tôi nhận thêm một số cậu từ A khác đến như Ngô Duy Minh (từ A5 về làm A phó của tôi), Lâm Thành, Chính “con” từ A6…tổng cộng là 9 người. Hôm rời doanh trại, tôi tặng A trưởng Ninh chiếc kèn Harmonica của mình, mặc dù trong lòng hơi tiếc.
Chúng tôi hành quân qua suối Mon ra Bãi Nai, rồi theo quốc lộ 6 hướng về Hà Nội. Đi được một đoạn thì thấy lố nhố nhiều người dân từ các làng gần quốc lộ kéo ra. Đó là những người dân Hà Nội lên đây sơ tán, ra tìm mong gặp lại người thân của mình. Cậu Lâm A6 nhà ở Chợ Giời, chợt nhận ra mẹ mình cùng các em đang đứng bên đường. Mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi, bác Hồng (mẹ Lâm) cố chạy theo dúi vào tay chúng tôi mỗi đứa một củ sắn lùi, rồi đứng lại nước mắt lưng tròng nhìn đoàn quân đang xa dần.
Vì hành quân mang nặng nên nhiều cậu bị tụt hậu. Cứ tưởng đi đường nhựa là sướng, nhưng không phải vậy. Đường nhựa rất cứng, bàn chân đi cọ miết vào dép lốp, làm phỏng rộp lên từng đám, bỏng rát. A tôi có hai cậu yếu nhất là Lâm Thành và Chính “con”, gần như lê đi không nổi. Đặc biệt là Chính con, thuộc loại thấp bé nhẹ cân, gầy gò ốm yếu, cõng chiếc ba-lô to tướng, bị tụt lại khá xa. Trong khi đó các B trưởng luôn đốc thúc các A trưởng giữ vững đội hình. Cực chẳng đã tôi đành chạy xuống mang hộ ba lô cho Chính con. Ba-lô của tôi đeo sau lưng, ba-lô của Chính con tôi đeo
https://thuviensach.vn
trước ngực, để Chính con đi không. Nhưng sức người có hạn, tôi cũng đâu có béo tốt gì, nên đến chiều tối thì tôi gần như bị xỉu vì quá sức. Cũng may có lệnh ban ra cho bộ đội tản vào các nhà dân ở một làng ven đường nghỉ qua đêm. Anh em dìu tôi vào đến cái phản giữa nhà là tôi ngã vật ra, không còn biết trời đất gì nữa.
Ngày hôm sau chúng tôi lại tiếp tục hành quân, đến khoảng 3h chiều thì tới làng Đại Mỗ, Từ Liêm. Mỗi tiểu đội đươc phân vào một nhà. Sau khi nghe phổ biến lệnh cho về phép 7 ngày, chúng tôi mừng rơn, từng toán lục tục kéo nhau ra đường, chặn các xe tải xin đi nhờ về Hà Nội.
Mấy ngày phép, tôi tranh thủ chụp rất nhiều ảnh. Lúc thì chụp chân dung súng sính trong bộ quân phục mới, lúc thì chụp kỷ niệm cùng gia đình, lúc thì chụp bên nhà Chí Thành. Nhiều đồng đội rủ tôi đi bát phố hoặc về chơi nhà họ. Tôi đã đến chơi nhà anh Long cồ ở Bà Triệu, cùng anh đi ăn kem Bốn Mùa và uống cà phê Quán Gió. Đến nhà Thành “Ma tịt” ở Bạch Mai ăn cơm. Bà mẹ Thành buôn bán ở Chợ Mơ, luôn tay gắp thức ăn cho hai đứa, mắt ngấn lệ, đeo vào tay Thành một chiếc nhẫn vàng, dặn nếu bị lạc trong rừng thì tháo ra mà đổi cho người dân tộc lấy thức ăn. Tôi đã đến nhà Ngô Duy Minh ở 75 Mai Hắc Đế và nhà Chính con ở P18 Hoàng Hoa Thám. Cũng ở phố Hoàng Hoa Thám này, trước đó hai ngày mẹ tôi đã đưa tôi lên thăm nhà cô Hồng Minh, người cùng làm với mẹ tôi ở Sở Xây dựng. Cô Hồng Minh có hai con gái rất xinh, Hồng Liên 17 tuổi và Hồng Vân 15 tuổi, chắc mẹ tôi có ý nhắm nhe gì đó. Cô chị có nước da đậm đà chào hỏi tôi rất niềm nở. Cô em nhỏ hơn nhìn tôi cười bẽn lẽn. Nhưng trái tim tôi hồi đó đã bị choáng ngợp bởi hình ảnh một người con gái 16 tuổi học cùng trường, dưới tôi một lớp. Lần đầu nhìn thấy T. H., tên người con gái đó, trong một buổi lao động ngoại khóa, tôi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục. Khuôn mặt trái xoan trắng hồng, đôi mắt trong veo và đôi môi đỏ thắm, làm tôi sững sờ không nói nên lời, mặc dù tôi là người phụ trách phân công lao động. Về sau dò hỏi được biết T. H. ở cùng khu tập thể với tôi, tôi đã mấy lần làm như tình cờ đi qua gặp em, nhưng không dám tỏ
https://thuviensach.vn
tình. Lần này vì không còn nhiều thời gian, tôi lấy hết can đảm đến thẳng nhà em. Em ra mở cửa và rất ngạc nhiên nhìn tôi trong bộ quân phục mới, rồi mời tôi vào nhà uống nước. Tôi nói: “Anh sắp đi B rồi. Chúc em ở nhà khỏe vui và nhiều hạnh phúc”. Em cũng ấp úng chúc tôi lên đường mạnh khỏe, nhiều may mắn. Thế rồi chúng tôi chia tay nhau không một lời hẹn ước. Khi về đến nhà thì đã thấy một số bạn gái lớp tôi ngồi đợi sẵn:
An, Xuân Mai, Thu Mai, Nga, Giang, Liên…bạn thì tặng tôi túi bàn chải đánh răng, bạn thì tặng khăn mu-soa, sổ lưu niệm…Tôi biết bạn Chí Thành thích Xuân Mai lắm, nhưng cũng chưa dám ngỏ lời. Tất cả các bạn đều chúc chúng tôi lên đường may mắn.
Ngày trả phép, bố tôi mượn chiếc xe com-măng-ca chở cả nhà vào Đại Mỗ. Ngồi trong xe, tôi lơ đãng nhìn cảnh vật trôi vùn vụt, nhíu mày khi thoáng thấy những hố bom kếch sù và những khu nhà đổ nát. Ngồi bên cạnh, bà nội, mẹ tôi cùng bác Quýt vẫn thủ thỉ dặn dò tôi đủ mọi thứ. Bố tôi ngồi đằng trước thỉnh thoảng mới ngoảnh lại góp chuyện. Sau một hồi lạc loanh quanh, cuối cùng chúng tôi cũng tìm tới nơi tập kết. Tôi và anh Vân “số 6” xuống xe đi bộ vào làng. Cả nhà đứng trên đường tàu nhìn theo mãi.
Vào tới nhà bác nông dân mà A4 của tôi đóng quân, tôi thấy vẫn còn thiếu mấy cậu nữa: Đường “cóc”, Phái “con”, Đệ “người Mỹ”… Mãi đến hai hôm sau các cậu ấy mò lên. Đến tối gặp anh Bính B trưởng, tôi cũng chỉ bị phê bình qua loa vì chậm phép 3 ngày. Ấn tượng của mấy ngày phép vẫn choán phần lớn tâm trí chúng tôi. Tôi và Ngô Duy Minh kể cho nhau nghe những cuộc gặp gỡ vừa qua, đặc biệt là của Duy Minh với hai bạn gái Hòa và Dư Loan.
Chí Thành đã lên từ mấy hôm trước, nói với tôi là mẹ Chí Thành và bạn Quốc Hùng sắp lên thăm. Chúng tôi đi lĩnh quân trang mới: một bộ quân phục vải Tô Châu, xanh-tuya, bi-đông có ca, túi bơi… rồi đi lấy gạo, nhận vũ khí. Nhìn những khấu AK kiểu mới (sản xuất năm 1971) sao tôi thích thế: sơn xì đen bóng, thơm phức, đầu nòng trông như bị mẻ, không 1
https://thuviensach.vn
tý mỡ dầu. Riêng khoản dao găm và lưỡi lê thì ban chỉ huy vẫn đình lại, chưa muốn phân phát.
Một số cậu thấy chưa lên đường, lại lẻn về nhà chơi thêm vài hôm. Thành “ma tịt” và Quang “xỉu” ở A tôi cũng vậy. Kể mà diện bộ đồ đi B vào cùng các thứ trang bị rồi về Hà Nội vênh váo thì cũng hay. Tôi đã định về, nhưng nghĩ như thế còn ra thể thống gì nữa nên thôi.
Mẹ tôi lên chơi, nấu miến thịt và mang giò lụa cho tôi ăn, để phần cho cả Duy Minh, Đường cóc, Quang, Duy Minh hình như được cử đi học A trưởng, cậu ta được gọi lên gặp Tiểu đoàn. Tôi lo quá, mất Duy Minh thì A tôi gay. Một hồi sau Minh về kể cho tôi nghe: Tiểu đoàn định giữ Minh lại ngoài Bắc làm liên lạc, hoặc sẽ cử đi học A trưởng (gia đình Duy Minh là cán bộ thuộc loại có cỡ). Nhưng Minh kiên quyết từ chối, một mực xin đi chiến đấu và được toại nguyện. Cũng như tôi, Minh nghĩ: đã là học sinh thì phải cố học, đã là bộ đội thì phải đi chiến đấu, và rất ngại đi học A trưởng. Nghe xong, tuy không nói ra nhưng tôi rất mừng.
Bố mẹ tôi, mẹ Chí Thành và bạn Quốc Hùng lên thăm chúng tôi. Quốc Hùng và bố tôi chăm chú xem những đồ trang bị. Tất cả đều hiện đại, mới cứng, thơm phức: từ khẩu súng, bao đạn, đến mặt nạ, túi bơi… Đúng là chúng tôi được trang bị đến tận răng. Tôi nói đùa: “12 nước nuôi một nước đánh giặc mà lại”. Bố tôi bận nên phải về sớm, sau khi đã dặn dò tôi lần cuối. Được biết chiều nay chúng tôi lên đường, mẹ tôi quyết định ở lại cho đến khi chúng tôi đi. Công tác chuẩn bị thật gấp rút: phát dao găm, lưỡi lê, bật lửa và đá lửa… cho từng cá nhân. Tôi sang chỗ Chí Thành, mẹ bạn ấy cũng đang dặn dò cậu ta, bác nói với tôi cố gắng gần gụi Chí Thành để anh em giúp đỡ lẫn nhau khi có hoạn nạn.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (1)
Chiều một ngày trung tuần tháng 8 chúng tôi lên đường. Đúng 13 giờ. Lúc sắp xuất phát có một việc lôi thôi nhỏ: A4 được phân công mang thùng đạn, tôi đưa cho Tỵ vì cậu ta không có súng, nhưng cậu ta không chịu.
Anh Bính phải quát tháo một hồi mới ổn. Mẹ tôi còn đứng nhìn theo chúng tôi đi mãi.
Chúng tôi tập trung toàn Tiểu đoàn, nghe Thượng tá Ngô Ngọc Dương nói chuyện, rồi đại biểu nhân dân thành phố tiễn đưa. Lệnh hành quân phát ra. Đoàn quân lỉnh kỉnh vũ khí, trang bị lên đường, nom như một con rắn xanh khổng lồ bò qua những con mương, bờ ruộng… Chúng tôi đi xuyên qua các làng mạc để xuống ga Thường Tín. Một em bé gái sơ tán đứng bên đường, chợt nhìn thấy tôi, em hỏi: “Anh Vinh ơi, anh Bình em đâu?”. Tôi đang nghĩ đến Lê Thanh Bình (bạn cùng lớp 10B) nên bảo em chạy lên phía trước. Tôi cũng không hiểu tại sao em biết tôi, và em hỏi Thanh Bình hay Xuân Bình (10C, đang đi phía sau). Tôi nhìn em chạy mà thương quá. Cứ đinh ninh là sẽ đi qua làng Nhị Khê, nơi chúng tôi sơ tán một dạo, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ga Thường Tín đã ở trước mặt.
Có lệnh nghỉ giải lao. Người nhà của anh em đi theo đoàn quân đông quá, ngồi rải rác suốt cạnh đường. Tôi rút dao găm ra mài cho sáng, Lâm A6 thấy vậy cũng làm theo. Các thứ trên người thật lỉnh kỉnh: xanh-tuya đeo Bi-đông, mặt nạ, bao đạn, dao găm, lưỡi lê…nặng trĩu, vậy mà bọn tôi cảm thấy oai. Lính mới có khác. Bảy giờ tối, chúng tôi vào ga Thường Tín lên tàu. Thiếu tá E trưởng huấn luyện Lê Thành Nhân bắt tay từng người:
https://thuviensach.vn
“Các em đi khỏe nhé”. Tàu chuyển bánh, Thành “ma tịt” và Phái “con” khóc, tôi cũng rơm rớm: “Không biết bao giờ mình mới trở lại Thủ đô?”.
Màn đêm đã buông xuống từ lâu. Trong toa tầu chẳng có đèn đóm gì cả. Chúng tôi giở cơm nắm ra ăn với thịt kho. Trước lúc xuất phát, thấy chúng tôi bận chuẩn bị, mẹ tôi đã kho thịt giúp và nắm cho mỗi người một nắm cơm. Những tình cảm chia ly lưu luyến vẫn còn tràn ngập tâm hồn chúng tôi. Khát nước quá. Mấy cậu uống nước ở vòi nước trong toa, lại múc cả vào bi-đông nữa. Hôm sau trời sáng mới biết nước ấy rất bẩn, cặn đỏ lòm. C bộ thông báo có bán bia và nước chanh, nhưng đến khi tôi lên mua thì chỉ còn nước chanh. Tới 12 giờ đêm thì tàu phải tăng-bo. Chúng tôi xuống tàu đi bộ. Quãng đường nhựa có nhiều hố nhỏ và đá lổn nhổn, chắc là vết bom bi. Đi qua một thị trấn nào đó của Nam Hà (1) Nhiều ngôi nhà hai tầng đổ sập, các cửa sổ như những con mắt đen ngòm, đờ dại. Chúng tôi vượt qua một cái cầu, tới nhà ga mới và lại lên tàu đi tiếp. Đoàn tàu này tồi tàn hơn đoàn tàu ban nãy. Tôi cố ngủ mà không được. Thò cổ ra cửa sổ, từng cơn gió lạnh hất tóc bay ra phía sau, thoảng trong gió có những giọt nước phả ra từ đầu tàu. Trăng vàng đục khi ẩn khi hiện sau lớp mây mù. Khoảng 3 giờ rưỡi sáng chúng tôi xuống tầu: đường tàu đến đây là hết.
-----------
(1) Tỉnh Nam Hà thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 nhập thêm Ninh Bình thành Hà Nam Ninh. Nay lại chia ra ba tỉnh như cũ (BT).
Mắt cứ ríu lại. Bước chân khấp khểnh trên con đường đất hai bên trồng cây phi lao. Cái hòm đạn thật sự vướng víu cho tiểu đội, vì không ai muốn khiêng cả. cuối cùng chúng tôi phân công từng đôi khiêng đạn theo giờ. Vào tới làng, tất cả mệt phờ. Tôi nhận chỗ ở của A, phân công nhà cho các tổ, rồi về ở cùng với tổ 2. Gia đình bác chủ rất tốt, nhường cho 4 chúng tôi cái giường to, phủ màn trắng, còn ấm hơi người. Mới đầu chúng tôi cũng thấy ngại, nhưng rồi mệt quá, đành chui vào đánh một giấc quên chết.
https://thuviensach.vn
Tôi dậy đầu tiên, trời sáng đã lâu. Anh Đạm B phó gọi các A đi lĩnh thực phẩm. Tôi sang gọi Duy Minh mang quang gánh cùng đi lĩnh với tôi. Xe ô-tô của binh trạm chở tới gạo, thịt, bí, miến… để phân phát. Tôi gặp Phổ Thọ, hai đứa nói chuyện, tôi mua bánh tai voi mời nhưng Thọ không ăn.
A phó Duy Minh đảm nhiệm việc chia thực phẩm cho các tổ. Tôi lấy giấy bút viết bức thư đầu tiên về nhà. Buổi trưa còn thừa ít gạo hôm trước, Minh đem bán để mua miến chiều nấu với thịt. Anh Bính tập hợp B, sau một hồi kiểm điểm, tới mục đề nghị, tôi xin phát biểu về vấn đề mang đạn. Thùng đạn 12kg, như vậy A tôi phải mang nặng hơn các A khác nhiều (mỗi A khác chỉ phải mang một khẩu B40). Vì A tôi có nhiều người nhỏ yếu, tôi đề nghị mỗi A thay phiên nhau mang đạn một ngày. Anh Bính không tán thành. Tôi bèn phân công luôn cho Phái “con”, Đường “cóc” khiêng thùng đạn, nhưng hai cậu này không chịu. Kết quả, buổi chiều khi chúng tôi đi, hòm đạn vẫn nằm trỏng trơ ở góc sân. Ra đến chỗ tập hợp Đại đội, anh Đạm mới lễ mễ bê đạn chạy theo. Rốt cục anh Bính và C bộ phải đồng ý mỗi A vác đạn một ngày, nếu đi bộ thì mỗi A vác 3 tiếng thay phiên.
Từ 4 giờ chiều chúng tôi bắt đầu hành quân bộ. Trời xám xịt. Tôi cảm thấy khoảng cách ra đường cái rất gần, mà đêm qua sao nó xa thế.
Trên đường đi, Chính con và Đường cóc hay đùa nghịch, có khi chạy ra khỏi hàng quân, đuổi nhau rơi cả xuống hố. Tỵ đi cạnh tôi, luôn mồm kể chuyện tiếu lâm. Tới nửa đêm thì tới một bến phà. Ngồi đợi phà mà bụng ai cũng lo vì phà này hay bị đánh phá. Chắc đây thuộc địa phận Ninh Bình hay Thanh Hóa rồi. Xe, người lộn xộn xuống bến. Anh Mạnh C trưởng có lúc phải rút súng ngắn để ngăn xe lại cho lính của mình lên phà. Sàn phà có nhiều lỗ thủng, thấy nói là vết đạn. Đông quá, đứng chen chúc, tôi cố gắng hết sức để tập trung tiểu đội vào một chỗ. Ca-nô dìu phà từ từ qua sông. Ánh đèn gầm của xe trên bến cũ le lói, xa dần. Thấy mờ mờ mấy khung sắt của cây cầu gãy nhịp. Bóng đen của quả núi trước mặt như muốn đổ sập lên
https://thuviensach.vn
vai, gây cho mọi người cảm giác rờn rợn. Từ phà lên bờ thật nhốn nháo. Tiếng ai đó hô vận động nhanh, vì đây là khu trọng điểm đánh phá, lại trống trải. Tất cả cắm đầu chạy, không còn biết đâu là B, là C mình nữa. Cái xoong của cậu nào đó gõ cành cạch liên hồi. Thỉnh thoảng tôi lại gọi Duy Minh, người chạy cuối cùng của tiểu đội, Minh vẫn trả lời đều đặn. Chúng tôi dần dần giảm tốc độ, rồi gặp anh Bính. Sau khi tập hợp được đơn vị, tất cả được lệnh nghỉ giải lao. Chúng tôi nằm ngả ngốn hai bên đường nhựa, thậm chí nằm cả trên mặt đường, xe ô-tô đến rất gần mới thèm bò dậy. Mặc dù có lệnh cấm hút thuốc lá, khắp nơi vẫn lập lòe đốm đỏ. Sau đó lại đi tiếp, đến 3 giờ sáng mới tới làng trú quân. Chúng tôi lăn ra ngủ li bì.
Có lệnh cử người đi lĩnh thêm quân trang: Tăng, ni-lông và võng bạt, tất cả đều mới cứng, hàng của Trung Quốc. Chúng tôi ở lại làng này nghỉ một ngày. Hôm sau anh Bính cử tôi ra gác ở cổng làng, không cho lính đi ra chợ. Lúc về thấy trong nhà có bác bố của Lâm Thành đến thăm, đang nói chuyện. Bác là Trung tá, Phó Chính ủy một trường quân đội nào đó. Bọn tôi trước đây vẫn nghĩ rằng chắc Lâm Thành không phải đi B, ai ngờ cậu ta vẫn đi. Bác đã đạp xe đuổi theo con tới tận đây mới gặp. Bác xem những khẩu AK kiểu mới, nói rằng quân ngụy gọi AK là trung liên cá nhân. Rồi bác bảo Lâm Thành mang ba-lô ra, tự tay sắp xếp lại cho gọn, lại còn nhờ anh em chú ý giúp đỡ, vì cậu ta rất luộm thuộm.
Buổi tối chúng tôi ra xe. Cậu nào cũng tranh ngồi gần cabin. Tôi lên trước sắp xếp ba-lô, ưu tiên cho các cậu mang nồi. Phái “con” và Thành “ma-tịt” thường trèo ngang thùng vào xe để chiếm chỗ. Cả trung đội hơn 40 người nhồi vào một thùng xe tải nên chật chội quá. Tới 10 giờ đêm thì phải xuống đi bộ để chuyển sang xe khác. Được nghỉ ngơi một lúc, tất cả giở cơm nắm ra ăn. Sau đó lại cuốc bộ trên con đường đất đỏ bùn loãng ngập đến mắt cá chân. Đến khi có xe, lính ta cứ chân cẳng bết bùn leo lên thùng, ngồi bệt xuống ba lô. Xe phóng nhanh kinh khủng, lại xóc nữa, nhiều lúc phải gào vào ca-bin bảo đi chậm lại. Cậu Quý “tiết” A trưởng A5 ngồi cạnh ngủ gật, thỉnh thoảng lại đè cả thân hình hộ pháp của hắn vào tôi, làm tôi
https://thuviensach.vn
nhiều lúc nghẹt thở. Vốn không ưa Quý, tôi dựng khẩu AK lên, quay quy lát về phía hắn. Mỗi lần hắn nghiêng sang, thì cái quy-lát lại đâm sâu vào sườn, làm hắn tỉnh ngủ và không dám đè sang nữa. Xe qua một thị xã, hình như Thanh Hóa thì phải. Xe vẫn chạy điên cuồng. Đêm khuya lắm chúng tôi mới xuống xe, đi bộ vào nơi trú quân. Đi mãi mà không tới nơi, ai cũng mệt và buồn ngủ. Cứ mỗi lần nhìn thấy một vệt sẫm trước mặt, lại tự nhủ “Cố lên, làng kia rồi…”, nhưng lại không phải. Mưa. Mưa nặng hạt, chúng tôi lấy ny-lông ra choàng. Tất cả đã đi lên phía trước, chỉ còn Chính con và Lâm Thành khiêng thùng đạn lẹt bẹt ở phía sau. Cả hai cậu đều nhỏ yếu, mặc dù tôi đã mang hộ hai khẩu súng, nhưng cũng không đi nhanh hơn được. Lội lõm bõm vào tới rìa làng, tôi thoáng nghe: “… B1 rẽ phải!”. Thế là tôi đưa cả hai cậu vào theo luôn. Tìm mãi không thấy B2, ba chúng tôi quyết định ngủ lại một nhà nào đó, mai tìm sau. Chúng tôi gõ cửa một nhà. Một ông cụ ra mở cửa từ chối, nói là trong nhà có bộ đội ngủ rồi. Chúng tôi định quay ra thì từ cái nhà ngang, 1 bà cụ gọi chúng tôi vào nằm tạm. Tôi rút bật lửa châm đèn, thì ra là một cái bếp. Cả ba đứa rút rơm trải ra sàn rồi lăn vào ngủ mê mệt. Sáng hôm sau, để Lâm Thành và Chính nấu cơm, tôi ra khỏi bếp đi tìm đơn vị. Lên tới đầu làng, thấy B1 nằm trong một cái đình, họ cũng bị lạc. Đi xuống cuối làng cũng không tìm thấy, chỉ toàn lính D60. Quay về nhà, thấy Chính đang cãi nhau với một anh bộ đội ở nhà trên. Mấy anh đó đều lớn tuổi hơn bọn tôi nhiều. Chính gân cổ quát: “Anh bộ đội ở nhờ, tôi cũng bộ đội ở nhờ, anh bảo tôi đi đâu?”. Sau được biết đó là anh Chính trị viên phó D60, còn nhà trên là Ban chỉ huy Tiểu đoàn 60, chúng tôi mới sang nhà khác. Ở đây đã có hai cậu liên lạc D60 ở, tôi làm quen với cậu da ngăm đen, vui tính. Cậu ta dạy tôi cách mắc võng với cọc phụ. Rồi những người bị lạc lục tục kéo đến. Tôi gặp C trưởng Mạnh, anh dặn cứ chờ ở đây. Rồi anh Bính dẫn B2 tới, tôi gặp lại tiểu đội. Thực ra Phái, Đường, Thành ma-tịt lạc gần đó mà tôi không biết. Các cậu ấy đã kịp mua con vịt chén rồi. A4 chuyển sang ở hai nhà mới. Tổ 1 gồm Quang, Thành, Phái ở nhà gạch. Còn lại ở một nhà lá. Chúng tôi mua hai con vịt ăn chung cả tiểu đội. Tôi được gọi đi họp cán bộ. Khi về, tôi quyết định củng cố lại tổ chức của tiểu đội, đề ra phương án phân công mỗi ngày một tổ nấu
https://thuviensach.vn
cơm, một tổ mang nồi, một tổ đi lĩnh thực phẩm. Tất cả nhất trí, tôi nhân đà chỉ định luôn Phái con và Thành ma-tịt hôm sau đi lĩnh thực phẩm, vì các cậu này vốn rất lười. Hai cậu cứng lưỡi, đành phải phục tùng. Nhà Tổ 1 ở mới có tang, bàn thờ còn phủ sô trắng với đôi câu đối rất ai oán. Mấy cậu Tổ 1 thấy rờn rợn, cứ gạ tôi xin sang nhà lá ở.
Khoảng 3 rưỡi chiều chúng tôi ra đường cái đợi xe. Các ông xe thồ mang dừa, chanh đến bán cho chúng tôi với giá cắt cổ. Chợt gặp mấy chiếc xe chở lính bị thương từ chiến trường ra. Gặp nhau reo hò. Thấy mấy cậu chạy theo xe để gửi thư, tôi cũng chạy và dúi thư vào tay một anh ngồi ở góc thùng. Hầu như đến trạm nghỉ nào tôi cũng viết thư về nhà.
Mưa lâm thâm, chờ sốt cả ruột mới thấy xe tới. Lại vẫn cảnh ngồi như lèn cá mòi trong thùng xe. Đường trơn, xe đi rất chậm. Bầu trời xám xịt. Những chiếc xe 3 cầu đầy lính nặng nề phun bùn loãng sang 2 bên đường. Không hiểu đây là Đường 15 hay Đường 22? Thật là những con đường gian khổ, hết lên dốc lại xuống đèo. Suốt đêm, xe đi rất thận trọng. Chúng tôi sửng sốt khi thấy trời đã sáng. Hình như đây là dốc Bò Lăn thì phải, vì hai bên đường thấy nhiều xe lật nghiêng ngả. Đã 6 giờ sáng, chúng tôi đành rẽ vào những cánh rừng cao-su gần đấy, giấu xe chờ đến tối.
Lần đầu tiên tôi vào rừng cao-su và nhìn thấy cây cao-su. Tôi ngạc nhiên vì đó là một khu rừng rất sạch sẽ; cây cao-su to bằng thân người, trồng rất thẳng hàng, cách nhau đều đặn. Mặt đất rất sạch, không hề có một ngọn cỏ. Lá cao-su trông như lá sắn, nhưng to hơn và một bản chỉ có 3 phiến lá như 3 ngón tay; ngắt lá là nhựa trắng chảy ra ngay. Thân mỗi cây đều có vết khía như rắn cuốn, ở cuối vết khía gần gốc có gắn cái bát đựng nhựa. Quả là khu rừng đóng quân lý tưởng, mắc võng thuận tiện, củi tốt và dễ kiếm…Chỉ gay nếu bị đánh bom cháy thôi. Buổi sáng, máy bay địch cũng rà qua mấy lần, bay rất thấp. Buổi chiều trời mù nên chúng tôi khởi hành sớm. Hai bên con đường đất đỏ là những nông trường cà-phê và chè bát ngát. Trời bắt đầu mưa. Nhìn chiếc xe đằng trước tôi mới hình dung
https://thuviensach.vn
được đường trơn thế nào. Bánh xe của chiếc Hồng Hà 3 cầu quay tít mà xe vẫn đi rất chậm. Đến chỗ ngoặt thì đít xe hết dệ sang bên này lại trượt sang bên kia, dường như tay lái vô tác dụng. Bên vệ đường mấy chiếc xe Gaz đã nằm chết dí trong vũng lầy. Thật là những con đường gian nan và quả cảm.
Đêm đã khuya chúng tôi mới đến Trạm. Tất cả xuống xe, đi qua một bãi ngổn ngang những cây gỗ rất to. Vào một khu rừng già tối đen, gọi nhau í ới. Tôi nhanh chóng bố trí cho anh em căng tăng mắc võng, rồi ngả người đánh một giấc thẳng cẳng.
Trời vừa sáng, các A đã được báo thức. Việc đầu tiên là tất cả phải đi kiếm củi để nấu ăn. Đây là khu rừng khách đông người, nên việc kiếm củi không dễ. Hôm nay nấu cơm Trung đội, do chưa quen nên nhóm lửa mãi không được. Anh Bính phồng mang trợn mắt, chảy cả nước mắt để thổi mà cũng không ăn thua. Phải đốt rất nhiều giấy và giẻ dầu lau súng mới nhóm được lửa. Người thông khói và quạt. Người ra suối lấy nước túm vào ni lông vác về. Nói là suối, thực ra chỉ là lạch nước nhỏ nhiều bùn và bẩn. Cuối cùng thì cũng nấu được cơm chia cho các tiểu đội. Khu rừng khách này quả là rộng, chứa được cả Tiểu đoàn 58 của tôi cùng mấy đoàn lính Thái Bình nữa. Mặt đất dưới vòm cây cao khá quang đãng. Cọc phụ, dây song buộc cọc lô nhô khắp nơi. Vỏ đồ hộp màu xanh lá cây vứt đủ mọi chỗ. Nhiều bếp Hoàng Cầm hỏng, trơ cành cây lát đen sì.
Chúng tôi lĩnh quân trang bổ sung: quần áo dài vải phin 1 bộ, quần áo lót cộc tay 2 bộ, 2 gói ruốc thịt, 1 hộp đường, 1 kg sữa bột, 1 gói mì chính, rồi mũ mềm, tất, hộp thuốc cá nhân, ruột tượng gạo, túi cơm nắm… Ba-lô bây giờ đầy có ngọn, không còn hở chỗ nào nữa.
Có lệnh tập hợp toàn tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng huấn thị, sau đó y tá tiểu đoàn hướng dẫn cách phòng chống sốt rét và cách sử dụng hộp thuốc cá nhân. Chúng tôi đứng xa nên chả nghe thấy gì mấy.
https://thuviensach.vn
Được lĩnh đồ mới, các đồ cũ lính ta đem cho lung tung cả. Người xin chủ yếu là dân chúng quanh vùng, thuộc địa phận Nghĩa Đàn, Nghệ An. Mai Quý Cường đưa cho một chú bé cái mũ cứng của mình, mặc dù chú ta đã ôm trên tay tới 4-5 cái rồi. Nhiều người dân vào khu rừng bộ đội ở để hốt cơm thừa, nhặt cơm nắm và nhiều thứ linh tinh khác.
Lại có lệnh lên đường. Hành quân bằng xe Giải phóng, lốp to nên chạy khá êm. Trời mới sẩm tối, đoàn xe chạy trên con đường đất đỏ hai bên mọc đầy cây sim. Nhiều sim quá, cây nào cũng đầy quả chín mọng, khiến cho ta có cảm tưởng hai bên đường và các sườn đồi được phủ một lớp thảm mầu tím sẫm (rất lâu sau này tôi mới biết có bài thơ Mầu tím hoa sim). Trời tối đã khá lâu. Ngồi trước mặt tôi, sát ca-bin, là cậu Chính “cá gỗ” liên lạc Đại đội, lúc nãy xe vừa chạy qua đường cái dẫn về quê cậu ta. Giờ đây cậu ta đang ngủ gật, và bị Chính “con” nhẹ nhàng đánh tráo con dao găm, vì dao găm của Chính “con” bị sứt cán. Tôi nhìn thấy hết nhưng không nói gì, vì đang buồn ngủ quá. Chợt chiếc xe dừng lại. Hình như phía trước có bom nổ chậm. Nhưng rồi đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, các chiến sĩ lái xe đã quyết định đưa xe vượt qua bên cạnh quả bom. Gió đêm mát rượi lùa vào thùng xe. Tới những chỗ ngoặt, nhìn ánh đèn pha le lói của những chiếc xe ra tiền tuyến thật đẹp. Rồi xe chợt giảm tốc độ, chúng tôi không hiểu có chuyện gì xảy ra. Thì ra phía trước đoàn xe là một đoàn chiến xa đang ra trận. Các ông bạn này to lớn kềnh càng, lại chạy chậm. Tôi ngó ra phía trước, thấy một chiếc T54 kếch xù đang án ngữ con đường, đèn đỏ sau đít chói lên dưới ánh sáng đèn pha xe tôi. Thấy còi thúc đít ghê quá, chiếc Tank gầm lên dữ dội, khói ma-dút phả ra mù mịt, rồi chồm lên phía trước lao nhanh như một mũi tên. Trong chốc lát chiếc Tank đã bỏ xa xe tôi khiến chúng tôi rất ngạc nhiên. Nhưng rồi đoàn Tank dừng lại, nhường đường cho đoàn xe chở lính. Mỗi lần vượt qua 1 chiếc Tank chúng tôi lại hò hét inh ỏi, vẫy tay chào các cậu lính Tank đang nhô đầu lên. Một vài cậu lính Tank mặc quần đùi áo lót vừa chui ra khỏi xe đang sửa cái gì đó, điện trong thùng xe Tank sáng xanh.
https://thuviensach.vn
Tôi lại ngủ gà ngủ gật. Chiếc xe ngoặt mấy lần. Chợt ai đó nói: “Hình như đây có một thị trấn”. Tôi mở mắt nhìn xuống, chợt thấy tòa nhà quét vôi trắng quen quen, và nhận ra đó là Cửa hàng Ăn uống Đô Lương, bên cạnh có hiệu sách. Chiếc xe rẽ ngoặt xuống đường đi Phố Mới. Tôi kể cho đồng đội nghe đây là nơi ông bà ngoại tôi ở. Tới Phố Mới, tôi nhìn vào nhà bà Ba còn thấy đèn sáng ở quán nước trước nhà, và chỉ kịp thét lên “Bà Ba ơi” thì chiếc xe đã vụt qua. Tiếc quá, giá xe dừng lại nghỉ giải lao thì hay biết mấy.
Chúng tôi chạy thẳng về hướng Vinh, nhưng đến Nam Đàn thì đoàn xe dừng lại. Được lệnh xuống xe hành quân vào làng có binh trạm. Vì quân chưa tới đủ, anh Y Đại đội phó ra lệnh tạt vào một cái sân kho nghỉ để đợi. Sân lát gạch rộng mênh mông, chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Đêm rất khuya, đại đội mới tới chỗ nghỉ. Cô giao liên dẫn đường chỉ cho tiểu đội tôi hai nhà. Tôi bố trí Tổ 1 và Đệ ở một nhà, còn lại ở nhà thứ hai. Nhà hơi chật nên tôi mắc võng ra hè ngủ. Hôm sau Duy Minh đi lĩnh trứng muối, thịt tươi, bí, rau, miến về nấu cơm cho tiểu đội. Binh trạm này nói chung hậu cần khá. Đây là xã Nam Hòa, cách Nam Liên quê Bác khoảng 4-5 km và cách Nam Hùng, nơi hồi bé tí tôi đã ở, khoảng 3-4 km. Ở đây có chợ sơ tán, nghe nói có phở, cà-phê, nước chanh. Lính ta nhiều người đem bán quần áo, mũ, mì chính để lấy tiền ăn uống, và cũng để ba-lô nhẹ bớt. Tôi cũng bán cái mũ cứng và một cái áo lót cùng với Quang “xỉu”, rồi vào quán ở ven chợ ăn miến, uống nước chanh. Sau đó hai đứa đi lên đê chơi. Dòng sông Lam ánh lên chói mắt dưới nắng trưa, bầu trời xanh ngắt. Chúng tôi theo dõi những chiếc máy bay A6A của Mỹ đang nghênh ngang và hùng hổ bổ nhào đánh phá rú Đụn bên kia sông. Không thấy có tiếng súng bắn trả. Tôi nhìn những quả núi lô nhô, và tự hỏi không biết quả nào là rú Chung, rú Thành như trong các sách tả cảnh quê Bác đã nói tới. Và tôi cũng rất muốn đến thăm quê Bác một lần.
Hai giờ chiều, anh Bính báo cho các A nấu cơm nắm và ăn cơm để 4 giờ hành quân. Chúng tôi gấp rút chuẩn bị. Cũng may quần áo tắm giặt đã
https://thuviensach.vn
khô. Còn thừa một quả bí chẳng ai chịu mang, đành biếu gia đình chủ nhà. May mà hòm đạn đã phá ra chia mỗi người mang một ít, không cũng chết dở. Ra đến bến sông thì trời đã tối. Tất cả lên sà-lan ngồi, chiếc ca-nô đi kèm nổ máy phành phạch. Hơn trăm con người ngồi lọt thỏm dưới lòng tàu, một số cậu trèo lên thành đứng. Hình như sà-lan đi ngược dòng sông Lam thì phải. Tôi dựa vào thành tàu ngủ gật, thỉnh thoảng vài giọt nước từ ngoài mạn lại tóe vào lành lạnh. Hơn một giờ sau, chúng tôi lên bờ. Cái cầu tầu nhỏ quá, trời lại tối đen như mực. Tôi gào thét trong đám hỗn độn để tập hợp tiểu đội và tìm trung đội của mình. Chúng tôi như đi trên một con đê rộng, mặt lát đá, hai bên vệ đê là nhà cửa. Một số bà bưng bánh chưng ra bán cho bộ đội, hình như họ làm cái việc bán hàng ban đêm này thường xuyên lắm rồi. Tôi cũng mua một chiếc. Các rổ bánh loáng cái đã hết. Cả đại đội ngồi bên vệ đường nghỉ giải lao. Tôi ngồi ăn cơm nắm với Tỵ, Quang, Thành “ma tịt”, Phái. Kiểm điểm lại quân số, thấy còn thiếu Minh, Đường, Chính. Gay quá, tôi báo cáo anh Bính, rồi chạy ngược chạy xuôi tất tả tìm. Xuống mãi tới cuối Tiểu đoàn mà cũng không thấy. Lúc chạy qua C50 tôi gặp Phổ Thọ, tranh thủ nói với nhau được mấy câu. Tới khi về lại Trung đội thì nghe nói hình như các cậu ấy đã đi lên trước rồi. Đêm đã khuya lắm mà con đường phi lao giữa cánh đồng vẫn như bất tận. Đã nghỉ giải lao tới 2-3 lần. Càng về khuya, lính ta càng mệt mỏi, buồn ngủ, lại mang nặng, nên chỉ đi được khoảng 2 km đã phải nghỉ. Chúng tôi nằm vật xuống vệ cỏ. Lác đác gặp những người đi chợ sớm, gồng gánh nặng trĩu. Khi đã mệt rũ thì có lệnh phía trên truyền xuống: dừng lại nghỉ để đợi dẫn vào nhà dân. Các B khác đã được dẫn đi hết, riêng B tôi phải ngồi đợi tới sốt cả ruột. Gặp lại Chính, Đường, Minh: các cậu đó yếu, lại đau bụng, nên phải đi lên trước theo sát ngay sau cô giao liên. Kinh nghiệm cho thấy: người đi đầu hàng quân sướng nhất, người đi cuối hàng quân thì thật khổ. Trong khi người đi đầu bước rất thong dong, thì người đi cuối luôn phải chạy gằn, nhiều lúc phải chạy hộc cơm ra mới đuổi kịp.
Nhận nhà xong, tôi sang ngủ cùng Tổ 2. Tôi hay đi với Tổ 2, vì Tổ trưởng Lâm Thành còn non nớt quá, và tôi cũng thích tổ này. Hôm sau Tổ 3
https://thuviensach.vn
của Minh mua vịt về không biết làm sao lại dỗi với nhau, làm lông rồi chẳng ai nấu cả. Hình như Chính “con” và Đường “cóc” cãi nhau về việc cắt tiết: Chính áp dụng “phương pháp mới”, cắt tiết ở sườn bên dưới cánh. Kết quả là chả có tý tiết nào mà con vịt chết ngoẻo. Thế là sinh chuyện, tôi phải dàn xếp mãi.
Tôi và Tỵ đi ra giếng tắm. Đây là cái giếng đất có cắm bảng Cấm tắm gần nên tôi và Tỵ phải thay nhau xách nước cho nhau tắm. Vùng này hình như vẫn thuộc địa phận Nam Đàn nhưng xa xa đã thấy núi non làng mạc thuộc Hà Tĩnh. Buổi chiều chúng tôi ngồi nhìn những chiếc máy bay Mỹ vòng lượn rồi bổ nhào về phía Phà Linh Cảm và cầu Thọ Tường. Không gặp hỏa lực bắn trả nào, chúng bay một cách thản nhiên và ngông nghênh như bầu trời là của chúng. Tôi lộn tiết nghĩ: “Nếu chúng mày mà bay chậm như vậy ở ngoài kia thì đã bị bắn tan xác rồi”. Vừa lúc ấy có một đoàn thương binh đi ngược về phía chúng tôi. Một anh hỏi: “Có lính Hà Nội không?”. Chúng tôi đáp: “Toàn lính Hà Nội thôi” rồi xúm lại quanh anh nhờ gửi thư và hỏi chuyện. Lúc nào trong túi tôi cũng có một lá thư đã viết sẵn nên có dịp là gửi được ngay. Hôm qua tôi cũng gặp một đoàn thương binh đi ra, quần áo xộc xệch lem luốc, băng quấn trên đầu, trên tay.
Tuy vẫn mệt nhưng đến chiều tối chúng tôi lại lên đường. Đoàn quân vượt qua một cánh đồng và bắt đầu đi giữa những làng mạc của Hà Tĩnh. Anh Bính hỏi: “Quê cậu ở đây phải không?”. Tôi nói: “Đây là Đức Thọ, quê của bà nội tôi. Còn quê của ông nội thì ở chỗ những dãy núi trọc, thấp, nhấp nhô kia kìa, đó là Hương Sơn”. Chúng tôi nghỉ giải lao trên đê. Tôi nói chuyện với Bùi Ngọc Toàn A12, nhắc lại những kỷ niệm ở Trường PTCN Hai Bà Trưng, nơi tôi là Đội trưởng Cờ đỏ, còn Toàn là đội viên. Tới một xóm nhỏ, chúng tôi ngồi đợi đến lượt qua phà Linh Cảm. Lúc xuống bến tôi rất ngạc nhiên khi thấy đó là một đoàn 4-5 toa như toa xe lửa, ở đầu có một cái ca-nô kéo. Qua khỏi phà khoảng 3 km, đơn vị được lệnh dừng ăn tối bên đường, cơm nắm với ruốc thịt. Mấy cái xe xích chạy qua ầm ầm, nghiến đường ken két, khói bốc mù mịt. Đêm đã khuya lắm, chúng tôi vẫn
https://thuviensach.vn
tiếp tục đi, có đoạn qua làng, có đoạn đi giữa sự mông quạnh dưới ánh trăng mờ. Một số cậu tách khỏi hàng chạy ra cái biển ở ngã ba đường xem chỉ đi đâu. Biết bao lần tự đặt mục tiêu là cái làng trước mặt để phấn đấu, nhưng mãi mà không tới. Chẳng ai buồn nói câu nào. Đoàn quân đi rời rạc, đội hình cách quãng. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải chạy vụt qua, để lại phía sau cả khối bụi khổng lồ. Đoàn quân cứ xuyên bụi mà đi. Rồi chúng tôi bỏ đường cái, xuống con đường dốc thoai thoải dẫn vào làng. Hai bên đường có nhiều xe tải ẩn nấp. Lính ta nhiều anh chẳng còn biết A mình, B mình ở đâu nữa, được nghỉ là quảng ba-lô nằm lăn ra vệ đường. Chúng tôi tập kết ở một bãi cỏ, đợi những người đi sau lục tục kéo đến. Rồi lại đi tiếp. Quanh co một hồi trong làng, đi xuyên qua sân và vườn mấy nhà, cuối cùng cũng đến nơi ở. Quá mệt, tôi trải ni-lông ra sàn, làm một giấc li bì.
Hôm sau tôi đi lấy thực phẩm cho tiểu đội. Từ bãi cỏ hôm qua phải đi men theo làng một quãng khá xa mới tới Binh trạm. Tôi ngồi chờ dưới tán những cây cọ non thấp lè tè, xem mấy người phục vụ Binh trạm đang dựng một khung nhà tre. Rồi chúng tôi vào nhận củi và gạo, tiếp đó đi nhận thực phẩm ở chỗ khác. Dọc đường tôi mua bánh chưng và bưởi ăn vì đang đói. Phải lấy thanh củi làm đòn gánh, dò dẫm qua một cái cầu lát ván hở hoác, chỗ có chỗ không, lạc loanh quanh mãi đến dừ vai mới về được nhà.
Binh trạm này đóng ở xã Đức Lạc, Đức Thọ. Ở đây, chúng tôi khoái nhất đi tắm sông. Thật là một con sông tuyệt đẹp, có cái tên giản dị mà ấn tượng: Sông Ngàn Sâu. Ngàn Sâu từ Hương Khê và Ngàn Phố từ Hương Sơn họp thành con Sông La thơ mộng của Hà Tĩnh. Ngàn Sâu không rộng lắm, nước trong xanh êm đềm, ở dưới toàn cát, lội xuống không một chút vẩn. Sáng có thể lội qua sông một cách dễ dàng. Nhưng đến chiều thì không thể lội qua được vì thủy triều lên. Lâm Thành và Chính suốt ngày lặn hụp, mặc dù trời nắng chang chang. Chúng tôi mang dao găm ra cắm phầm phập xuống cát và lấy cát đánh cho tới khi sáng loáng. Các cậu B3, B4 cởi trần truồng như nhộng, cả bầy tồng ngồng la hét đùa nghịch, lặn hụp, lấy cát vùi nhau chỉ còn thò cổ lên. Anh Hồng Chính trị viên Đại đội
https://thuviensach.vn
ra thấy thế phải giơ tay la trời, hạ lệnh cấm tắm. Tuy vậy chúng tôi vẫn trốn đi một cách kín đáo.
Quang và Tỵ rủ nhau đi chợ, tôi và Minh cũng đi. Chợ khá nghèo nàn: rau, cá, một vài thứ hàng xén, bánh gói, bánh đa… Chúng tôi dừng lại chọn bưởi, mít. Bưởi ở đây rất to, tép cũng rất to, có thể bốc từng nắm bỏ vào mồm ăn như cơm vậy.
Buổi tối, tôi kể chuyện “Hầm bí mật bên bờ sông En-bơ”, cả tiểu đội há hốc mồm ra nghe. Đêm đã khuya và tôi cũng thấm mệt, nhưng bọn Thành, Phái cứ nhất định bắt kể hết mới được yên thân. Chủ nhà chúng tôi ở là một người đàn ông cụt tay tới bả vai. Tuy vậy ông vẫn dùng tay còn lại sử dụng cái vồ đập đất một cách thành thạo. Ông là người thẳng tính, ăn to nói lớn. Còn bà vợ thì lại khó tính và hay cảu nhảu...
Chúng tôi ở đây đến ngày thứ 3 mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Chợt chiều hôm đó có lệnh tập hợp, nghe anh Mạnh - C trưởng, rồi anh Hồng nói chuyện. Máy bay Mỹ đang gào rít trên đầu. Chúng tôi vẫn bình chân như vại, ngồi ngắm những chiếc phản lực bổ nhào xuống ném bom vào một vùng cách khoảng 4-5 km. Từng đụn khói trắng vàng cuộn lên từ từ. Đạn cao-xạ vun vút đi sạt qua những chiếc máy bay, nhưng không chiếc nào trúng đạn. Thật là một cuộc chiến đấu ác liệt mà cũng giống như một trò chơi.
Tới tối mịt vẫn chưa ra xe. Hình như hôm nay chỉ có C50 và C51 đi thôi. Được lệnh trở lại nhà cũ, chúng tôi hơi ngượng vì đã chào từ biệt gia đình lúc chiều.
Tôi đang đứng tập phi dao găm vào mấy cây cọ thì Chí Thành đến. Thành phàn nàn với tôi là A5 đối xử với cậu ta rất tệ, Thành gần như bị cô lập. Tôi rất thương Thành, bèn bàn với cậu ta thử xin anh Bính cho chuyển sang A tôi xem sao. Lúc sau có Long “cồ” sang gọi đi lĩnh thịt và đường cho tiểu đội. Lâm A6 đã chia phần sẵn, chỉ việc lấy. Lâm nói tôi đi qua A5
https://thuviensach.vn
nhắn Quý A trưởng đến nhận, nhưng Quý lại phân công Châm “thối tai” đi, mặc dù Châm phản đối ầm ĩ.
Về đến nhà thấy lính ta đang xôn xao bàn chuyện cậu Tụy B3. Cậu này gây chuyện đáng xấu hổ với dân, bị ông chủ nhà tóm được. Cậu ta còn đâm mấy cậu cùng tiểu đội, rồi bỏ trốn. Đại đội đang cử người truy tìm, cậu này dễ tự tử lắm.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (2)
Buổi chiều anh Bính nói cho các A nắm cơm sẵn. Nhưng đến tối thì anh lệnh cho A tôi để một tổ ở lại, còn tất cả ghép vào B3 lên đường ngay. Tôi quyết định để tổ Minh ở lại. Mấy cậu Thành, Phái như trẻ con, lúc đòi ở lại, lúc đòi đi.
Tôi dẫn Tổ 1 và Tổ 2 lên C bộ tập hợp. Hai cậu liên lạc Đại đội là Chính “cá gỗ” và Toàn chọc bưởi chia cho cả bọn ngồi ăn. Anh Y chính trị viên phó C sẽ phụ trách toán đi trước này. Ban chỉ huy Đại đội nói chung sinh hoạt thoải mái hơn anh em lính nhiều. Cụ chủ nhà ở đây có con đi bộ đội, trên tường thấy treo nhiều Giấy khen và Bằng Huân chương Chiến công hạng 3 tặng cho con của cụ. Rồi B3 đến, chúng tôi ngược đường hôm nọ ra bến ô-tô. Hai bên đường trồng rất nhiều mía. Lại gặp một đoàn thương binh đi ra, tôi vội chạy đến gửi thư về nhà. Trời tối đã lâu, chúng tôi ngồi nghỉ ở một bãi tha ma cạnh đường cái. Rồi xe của binh trạm tới, toàn loại Vọt tiến (xe tải hai cầu của Trung Quốc, theo kiểu Gas 63 của Liên Xô) và Molotova nhỏ nhắn. Chúng tôi được xếp lên ngồi cùng hai tiểu đội của B3. Tôi gặp lại cậu Hòa cùng A4 trước khi đi B. Xe thì chật chội, đường xóc kinh khủng, có lúc chúng tôi bị nhồi lắc tơi bời như nhảy Rum-ba 15 phút liền. Thỉnh thoảng chiếc xe vấp phải „ổ voi“, chúng tôi bị nâng bổng lên rồi dập mạnh đít xuống sàn xe đau điếng. Các bác sĩ mà bị nhét vào đây hẳn phải la lên rằng. “Xương sống người ta sinh ra không phải để cho những cú đập như vậy!”. Còn chúng tôi thì vẫn nghiến răng chịu đựng. Cái mạng chúng tôi còn chả tiếc, tiếc gì đến cái xương sống. Xe nhãn hiệu “Vọtcứt” có khác. Có lúc tôi thấy xe như cắm mõm xuống vực, thực ra là nó xuống ngầm đá qua suối. Có lúc tôi lại nghe tiếng máy phành phạch
https://thuviensach.vn
ngay cạnh, nhìn sang tôi rất ngạc nhiên thấy con đường giờ đây rộng ra hàng trăm mét. Một bãi trống thì đúng hơn, xe đi hàng năm hàng bảy, đất tơi vụn màu trắng xanh dưới ánh trăng, chằng chịt vết bánh xe. Mấy chiếc máy xúc đang bận rộn san ủi những hố bom mới. Biđông của cậu ngồi cạnh tuột nắp, nước đổ ra ướt cả sườn tôi. Tôi sờ lại bi-đông của mình, thấy nắp cũng đã lỏng. Trên ô-tô dù khát tôi cũng không uống nước. Kinh nghiệm cho thấy: trước khi lên xe và trong quá trình đi, không nên ăn uống, vì rất dễ bị nôn do xe xóc. Chiếc xe chợt dừng lại. Tôi ngó ra thấy một ngã ba gần chân núi, bom đánh be bét. Anh lái xe chạy tới hỏi mấy người Thanh niên xung phong ở ven đường cái gì đó, rồi lại lái xe đi tiếp. Mấy cậu xì xào: “Ngã ba Đồng Lộc!”. “Thế à?”. Tôi ngó lại, cái ngã ba đã khuất sau xe mất rồi. Xe vẫn chạy tiếp men theo núi. Chợt có tiếng máy bay: “Bọn săn xe!”. Chúng tôi báo tin cho người lái. Bỗng “xoẹt! xoẹt!” hai chiếc máy bay to như tàu lá chuối rà sát mặt đường, kéo theo màn tiếng động rền rĩ. Xe chúng tôi quặt ngay vào lùm tre ven đường. Tất cả sẵn sàng phóc ra khỏi xe. Có tiếng bom nổ ì ầm. Sau bom, xe chúng tôi chạy tiếp. Qua một quãng đường hai bên là rừng, tôi bỗng cảm thấy ánh trăng như bị màn sương bao phủ, và mùi khét lẹt xộc vào mũi tôi. Thì ra là khói bom. Xe chạy qua một hố bom mới nổ. Để bù vào thời gian phải dừng, xe tôi luôn đòi vượt. Cậu phụ lái xin vượt không được, lôi AK ra bắn chỉ thiên. Lẫn trong tiếng máy xe, tiếng súng AK chỉ nghe: “Pách! Pách”. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật. Rồi xe dừng hẳn: đã đến Binh trạm.
Tôi đứng dậy, thấy chân hơi tê. Kể cũng lạ, trước đây tôi mà ngồi tư thế gò bó như vậy thì sẽ không đứng lên nổi, vì hai chân đờ dại, đau nhói như có trăm ngàn mũi kim châm vào. Thế mà bây giờ không bị nữa, có thể vì trước khi lên xe bao giờ tôi cũng uống vài viên Vitamin B1. Từ các xe khác lính ta cũng đang lục tục nhảy xuống. Kiểm tra trên xe thấy thừa một khẩu AK, anh Y hỏi khắp mà không ai nhận, anh đành phải vác. Chúng tôi im lặng đi thành hàng dọc theo anh giao liên. Cỏ ướt đẫm sương đêm. Anh giao liên kể gần đấy có một tiểu đoàn chủ quan không giữ bí mật, làm lộ nơi đóng quân. Máy bay Mỹ đến đánh trúng vị trí, thương vong nặng, cả
https://thuviensach.vn
Tiểu đoàn trưởng cũng hy sinh. Đi một lúc nữa thì thấy thấp thoáng có nhà trước mặt. Đây là khu đồng bào đi sơ tán nên nhà cửa khá thưa thớt. Tới căn nhà đầu tiên, anh Y quay lại nói: “A4 vào đây!”.
Cả tiểu đội lặng lẽ đi vào sân. Tôi khẽ gọi cửa, bác gái chủ nhà hình như đã quen với chuyện này, mời chúng tôi vào nhà. Nhà nhỏ, nên mọi người chỉ cất súng vào, rồi ra ngoài sân mắc võng ngủ. Hôm sau thức dậy, tôi thấy đây là một xóm nhỏ trên đồi thấp. Nhà cửa bé tí, cây cối mới trồng. Máy bay Mỹ bắt đầu hoạt động, nhìn rất rõ.
Nhà không thấy bác trai, chỉ thấy bác gái trạc 50 tuổi, một chị khoảng 24 tuổi và mấy em nhỏ. Trong nhà có nhiều biđông, hăng-gô và vài thứ lặt vặt khác, chắc của lính để quên rồi biến thành của gia đình. Tổ trực nhật nấu cơm. Tôi đi gánh nước. Sau một hồi quanh co mãi, tôi cũng tìm được khe, nước chỉ láng mặt, có chỗ trơ đất. Bên mép dòng nước, dân khoét những hố nhỏ sâu xuống để chứa nước. Phải lấy gáo múc từng tý đổ vào thùng gánh về. Bác chủ nhà rất tốt, nấu hộ cơm cho bọn tôi, lại nấu cả một nồi nước chè xanh nữa. Ăn xong chúng tôi ngồi nghỉ trong nhà. Chắc chị thanh niên công tác phong trào nên tôi thấy trên giá có vài quyển sách về thanh niên, Điều lệ Đoàn, Kỹ thuật nông nghiệp. Đất ở đây cằn cỗi, cây cối chả ra gì. Đến chiều có lệnh chuẩn bị đi, chúng tôi lại nấu cơm ăn và nắm cơm. Nhà ở đây thưa thớt nên tiểu đội tôi hầu như bị tách ra khỏi nhóm anh Y và B3. Khoảng 6 giờ chiều, trời vẫn sáng, chúng tôi chợt thấy Tiểu đoàn trưởng Khanh đeo ba-lô, cầm gậy đi trước, mấy cậu liên lạc chạy theo sau. Tôi vội hô tiểu đội lên ba-lô, ngó ra đã thấy anh Y tới. Chúng tôi chạy ra đường nhập vào đơn vị. Anh Y cho mọi người ngồi tản mát hai bên đường, vì hình như còn phải đợi C50 ra nữa. Tôi sờ túi quần sau thì thấy bị mất quyển sổ tay bìa ni-lông mầu xanh và chiếc bật lửa của tiểu đội. Chắc là rơi trên xe tối qua rồi.
Trời tối đã lâu mà vẫn không thấy giao liên đến, chúng tôi bèn hành quân ra đường cái. Cứ dò theo lối mòn giữa hai vệ cỏ mà đi, xuống một khe
https://thuviensach.vn
nước bên trên có vòm cây phủ, sang đến bờ bên kia thì hết lối. Lại phải leo ngược dốc lên, dò dẫm mãi mà không thấy đường, chúng tôi ngồi phệt xuống cỏ nghỉ. Rồi giao liên cũng tìm được chúng tôi, may mà lúc nãy không đi vào bãi bom bi nổ chậm. Thỉnh thoảng từ trên đầu hàng quân lại truyền xuống: “Cho C50 vượt lên!” hoặc “Bám sát! Xuống dốc!”. Anh giao liên có khi đi ngược lại hàng quân, vừa đi vừa hỏi: “C50 lên chưa?”… Ra tới đường cái, sau một hồi lộn xộn, rồi chúng tôi cũng leo hết lên yên vị trên các thùng xe. Ai đó nói: “Quãng đường sắp tới có nhiều bãi B52, phải cẩn thận!”. Tạm biệt huyện Kỳ Anh, tạm biệt Hà Tĩnh quê hương!
Tôi ngồi sau anh Y, tay bám chặt vào thùng xe. Nhiều thanh gỗ nẹp thùng xe đã biến mất, nên mỗi lần xe xóc, tôi phải bám thật chặt, vì sợ mình sẽ bị văng ra ngoài. Nhưng mặt khác, nếu có máy bay địch, tôi sẽ có thể tẩu ra ngoài rất nhanh. Anh Y cho tôi nắm Polyvitamin, ngồi nhai rau ráu cũng khoái. Trăng đã lên, mờ mờ sau màn sương. Thỉnh thoảng xe lại bật đèn và tôi có thể nhìn thấy bóng đen to lớn của chiếc xe lướt loang loáng trên những bụi sim mua bên đường. Chợt chiếc xe phanh kít lại. Tôi đứng lên ngó thì thấy phía trước mấy chiếc Zil 3 cầu đang rồ máy chậm chạp tránh nhau. Có người nói: “Bãi B52”. Đây là lần đầu tôi thấy một B52. Hố bom trắng xóa trong đêm, đủ các cỡ to nhỏ chi chít. Chiếc xe đang bò trên khúc cua khuỷa tay, có thể nhìn rõ những chiếc xe khác đang chạy ở phía bên kia. Xe nhảy chồm chồm. Cái bi-đông lúc chiều ở sau lưng, bây giờ đã ra trước bụng, mấy lần tôi phải siết lại nắp cho chặt. Những khẩu súng đặt dưới sàn xe đập lạch cạch tơi bời. Chúng tôi thường tháo băng đạn rồi để ngửa súng xuống sàn như vậy, không biết cái thước ngắm hay cái đầu ruồi liệu có bị biến dạng không? Nhiều cậu lại cho rằng, vào đến nơi người ta sẽ phát cho súng khác để chiến đấu?
Nửa đêm đến nơi trú quân. Chúng tôi nhanh chóng xuống xe. Tiểu đoàn hành quân theo hàng một, có giao liên dẫn đầu. Tới ngôi nhà có rào râm bụt, anh Y nói: “A4 vào đây“.Tôi dẫn A4 tách khỏi đội hình.
https://thuviensach.vn
Cả nhà chủ đã ngủ yên, tôi khẽ gọi. Một bà già lệt sệt đi ra, tôi nói xin ngủ nhờ, rồi cả bọn nhanh chóng mắc võng lăn ra ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, lấy quang gánh đi nhận thực phẩm cho Tiểu đội. Các A của B3 cũng cử người đến. Loanh quanh một hồi mới tìm được kho Binh trạm. Lúc lấy gạo rất lộn xộn, người của C50 ra đông quá, gọi nhau í ới. Tôi phải chạy mệt nhoài để lấy số gạo chung với C50, mỗi B của họ phải san cho một ít. Sau đó tất cả lại sang nhà bên lấy thực phẩm gồm rau, bí đỏ, thịt muối. Không có đường, họ phát cho chúng tôi kẹo bọc giấy bản để thay thế.
Hôm nay đến tổ của Quang “xỉu” xuống bếp nấu ăn. Dưới bếp thấy có rá trứng luộc, sau mới biết bà chủ nhà luộc bán cho lính. Tôi phát cho mỗi cậu 4-5 cái kẹo, cho cả hai đứa con chủ nhà. Nhà có hai gian, chúng tôi được nhường ở một gian. Tôi chợt nhìn thấy khắp nơi trên cánh cửa, trên cột nhà, trên vách gỗ, trên các bức tranh dán tường…chi chít những dòng chữ bằng mực, chì, bút bi, to nhỏ xiên xẹo đủ kiểu chữ. Một hàng chữ viết bằng bút bi: “Đỗ Văn Tính, quê Đồng Tiến, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Đã qua đây ngày 01-08-72. Chúc các đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“. Một hàng khác bằng bút mực: “Lê Tiến Chung, quê La Sản, Lý Nhân, Nam Hà. Qua đây ngày 14.06.72“. Một hàng khác nữa có khung vuông đậm nét:“ Đặng Tài Đức, Phương Liên, Hoài Đức, Hà Tây. Đã ở đây 2 ngày 16-17.07.72“. Tôi cố tìm trong hàng trăm cái tên đó xem có ai quen không, nhưng cả tiếng đồng hồ lò dò trên các bức vách mà không kết quả gì. Bèn rút bút ra, nắn nót viết lên cánh cửa: “Nguyễn Quang Vinh, B1 KTT Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Qua đây ngày.../08/72. Chúc các đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“.
Bữa trưa có bí đỏ xào thịt khá ngon. Ăn xong chúng tôi nằm nghỉ. Hình như có tiếng ai khóc, tôi dỏng tai lên nghe. Đúng rồi, từ ngôi nhà phía sau chúng tôi có tiếng khóc vẳng tới. Vườn cây khuất nên tôi không nhìn thấy gì, chỉ đoán đó là 1 bà mẹ đang khóc, dóng lên từng hồi nức nở nghe
https://thuviensach.vn
rất lạ. Có tiếng ai đó an ủi, tôi nghe câu được câu chăng nhưng cũng hiểu chuyện: Bà mẹ vừa nhận được tin con gái đi Hỏa tuyến (Dân công hỏa tuyến) đã hy sinh. Lòng tôi chợt nao nao. Chiến tranh đã gây đau khổ cho biết bao bà mẹ, biết đâu lại chẳng có mẹ mình… Tôi lắc đầu cố xua đuổi ý nghĩ ghê rợn đó.
Buổi chiều, đùa cợt với Thành “ma tịt” một lúc, tôi tha thẩn tản bộ dọc đường cái. Đây là một cái làng gần sông. Chợt thấy Nghĩa trang Liệt sĩ trên đồi thông tôi bèn rẽ vào. Có nhiều nấm mồ còn mới, mộ chí bằng gỗ hoặc sắt tây. Phần lớn các mộ mới là của Liệt sĩ Thanh niên Xung phong, nữ chiếm đa số. Quê các chị thấy ghi Nam Hà, Thái Bình, Nghệ An…
Từ trên Nghĩa trang tôi nhìn được ra sông. Ở phía dưới ấy có một bến đò. Hố bom nham nhở trên bờ dốc, xới lên mầu đất nâu đen. Hôm nay trời mù, mây xám xịt nên máy bay Mỹ ít hoạt động. Buổi tối cả tiểu đội lại nhao nhao đòi tôi kể chuyện. Từ khi được nghe “Hầm bí mật bên bờ sông En-bơ” ở Đức Thọ, các cu cậu đâm ra mê chuyện kể của tôi. To mồm đòi nhất là Thành “ma tịt” và Phái “con”. Tôi bèn kể cho cả bọn nghe chuyện ngắn “Phát súng” của Pushkin.
Hôm sau, trời vừa sáng đã thấy một chiếc F4 trinh sát đến quần đảo. Tôi giở giấy bút ra viết thư về nhà, mặc cho tiếng máy bay gào điếc cả tai. Rồi 2 chiếc A6A bay tới. Nghe tiếng súng 12,7 ly nổ “pách, pách”, tôi vội chạy ra nhìn. Chiếc A6A thứ nhất đang bổ nhào xuống, to đến nỗi tôi nhìn rõ cái đầu tròn rụt của nó với thanh kim loại cắm ở mũi. Nó bắn một tràng dài rồi ngóc cổ bay lên. Đến lượt chiếc A6A thứ 2 bổ nhào, to nhanh một cách kinh khủng lao xuống phía bờ sông. Tiếng súng 12,7 ly của ta vẫn bắn trả liên hồi. Từ dưới cánh máy bay tách ra 4 đốm đen, nhanh chóng hiện nguyên hình là 4 quả bom vun vút lao xuống. Tôi vội hô tiểu đội nằm và nhoài ra đất. Hơi bom nổ phần phật, ngôi nhà lay chuyển kêu răng rắc. Một mảnh ván thuyền từ phía sông bị văng lên rất cao, quay tít. Mẹ kiếp, nó
https://thuviensach.vn
phát hiện được bến đò của ta rồi. Tôi quay trở vào tiếp tục viết nốt bức thư cho gia đình.
Đến chiều, chúng tôi lên đường, đi qua nghĩa trang rồi xuống bến sông bị đánh lúc sáng. Trời tối sẫm, nhìn thấy lờ mờ hàng quân của Đại đội đi trước. Vượt qua con đê nhỏ, chúng tôi xuống sát mé nước. Mấy cái sà-lan to, kiểu toa tầu điện có ca-nô kéo, đã trực sẵn. Lính đông quá, chen chúc lộn xộn. Tiểu đội tôi cứ chờ đến lượt mình, mặc dù B3 đã xuống hết rồi. Không thể nhét thêm người vào khoang này nữa, người ta chỉ cho chúng tôi lên khoang trên. Chen nhau đi trên miếng ván mảnh mai, bập bềnh như muốn hất mọi người xuống sông. Còn khoảng 2-3 bước nữa, tôi chồm lên chạy bám vào sà-lan, suýt ngã. Trong khoang tối như hũ nút, tôi nhảy đại từ trên cửa xuống sàn tàu. Hai bên mạn có hai hàng ghế, bên trên có chỗ để đồ. Ở giữa, dọc theo tàu, hình như có cái bàn dài cũng đã đầy lính. Tôi dò được một chỗ trống trên bàn, bèn ngồi xuống, ngả người dựa lên ba-lô. Mệt thật, xung quanh toàn là lính xa lạ, A tôi mỗi đứa tản một góc. Tôi nhìn qua cửa sổ trắng đục, thấy cái bóng đen thẫm của bờ xa dần. Cậu phụ trách sà lan kêu mọi người dịch ra để rút cái ván vào, gác từ bậu cửa bên này sang bậu cửa bên kia. Tấm ván dầy, nặng, ướt và bùn nhớp nháp. Con phà trôi đi chậm chạp. Một cậu nào đó ngồi gần cửa rút cái kèn Harmonica ra thổi. Cậu ta thổi liến thoắng, hết bài này sang bài khác. Hắn thổi khá thật, toàn theo bản năng, chỉ vấp váp lần đầu, còn lần sau trở đi bài nào cũng trơn tru. Hết “Nổi lửa lên em” lại “Hoa Chăm pa”, “Niềm hạnh phúc” rồi “Lăm tơi”, tiếng kèn rộn ràng náo nức. Cả khoang tàu bị lôi cuốn, lính ta dậm chân xuống sàn, đấm bàn, gõ vào ghế cành cạch để nhịp theo tiếng kèn, tạo ra những âm thanh ầm ĩ điếc tai. Tôi cũng bị lôi vào vào cái không khí cuồng nhiệt ấy. Không một ai còn cảm thấy hơi lạnh của màn đêm trên sông.
Dòng sông hình như rộng mênh mông ra. Trông giống như ngã ba sông, hay gần ra biển rồi? Đây là sông Gianh chăng? Một chiếc phà đi ngược chiều chúng tôi, chỉ thấy một vệt đen sẫm trên mặt nước nhờ nhờ, nhận ra phà nhờ có hai cái đèn xanh đỏ. Thủy thủ hai bên bắn đạn lửa lên
https://thuviensach.vn
trời báo hiệu cho nhau. Hình như lúc chiều ở đây có bom từ trường. Xa xa một dãy đèn dù vừa bật sáng. Chà, nếu bây giờ máy bay Mỹ chợt đến nhỉ? Kệ, không nghĩ tiếp nữa, muốn đến đâu thì đến.
Chợt trên cao thoáng có những ánh chớp, rồi một loạt tiếng “bụp, bụp” dội xuống. Cái gì thế? Về sau tôi mới biết đó là pháo tăng tốc của Hải quân Mỹ, loại pháo nổ 3 lần. Lần đầu khi đạn ra khỏi nòng. Bay được một quãng đường nhất định, quả đạn lại nổ lần thứ 2 ở trên không, đẩy đầu đạn bay xa nữa. Rồi mới rơi xuống và nổ lần thứ 3. Pháo biển bắn hàng loạt, nên đạn nổ tăng tốc trên không cũng hàng loạt. Như vậy đạn pháo biển có thể đi được rất xa. Từ biển mà chúng bắn lên tới Cồn Tiên, cao điểm 135 và thậm chí tới sườn Trường Sơn.
Tôi mò nắm cơm ra ăn với ruốc thịt. Ăn xong lại ngả người nằm, gối đầu lên ba-lô cậu ngồi sau. Không hiểu hắn nhét cái gì vào đó mà cứng khiếp, tôi ngủ gà ngủ gật.
Tới nửa đêm tàu cập bến. Cả bọn choàng dậy đeo đồ đạc rồi chen chúc nhau trèo ra ván cầu. Trên bờ, một đám đông đang nhốn nháo. Đó là đoàn thương binh đi ngược ra, ăn mặc đủ kiểu lộn xộn. Tiếng thăm hỏi nổi lên rào rào, ai cũng thử tìm đồng hương. Thấy 1 cậu nhận là người Hà nội, tôi dúi vào tay cậu ta mấy lá thư nhờ hắn gửi hộ. Chạy ngược chạy xuôi trên bãi cỏ, gọi khản cả cổ tôi mới tập hợp được Tiểu đội vào 1 góc. Các đại đội khác vẫn đang gọi nhau í ới thì bộ phận của chúng tôi đã lên đường trước. Vượt qua con dốc, nhìn thấy những quả núi nhỏ trước mặt. Chúng tôi đi trên con đường đá đắp cao, chắc là đường xe lửa hay xe goòng ngày xưa. Con đường dài thật, hai bên toàn là những bụi cây lau lách rậm rạp. Chúng tôi nghỉ giải lao đã mấy lần, thỉnh thoảng lại phải dạt vào vệ đường tránh một chiếc xe đi ngược lại. Mệt nhọc, vai nặng trĩu, đôi mắt cứ díp lại. Tôi luôn tự nhủ rằng tất cả nỗi vất vả này rồi sẽ qua đi, và hai chân cứ bước đều đều như cái máy.
https://thuviensach.vn
Chợt thấy đường ô-tô bằng đất. Chúng tôi dừng ở một ngã tư, có mấy cái xe đang đỗ. Cả bọn tản ra nghỉ, đợi những toán đi sau. Khi đã dồn đủ đội hình, chúng tôi lại đi tiếp. Đến một chỗ ngoặt, đoàn quân bắt đầu lội qua sông bằng một ngầm đá. Nước lạnh buốt làm chúng tôi tỉnh ngủ. Dưới ánh trăng mờ tất cả xắn quần lên đến bẹn và lò dò thận trọng lội từng bước. Ngầm đá này làm bằng những hòn đá to như chiếc mũ cối, bị ô-tô qua lại làm xáo lộn lổn nhổn dưới nước. Khi dẫm lên, hòn đá dễ bị lật, hoặc bị thụt chân xuống kẽ đá, làm lính ta với đủ thứ lỉnh kỉnh trên người vất vả lắm mới được thăng bằng. Tất cả vịn vào sợi dây cáp ven ngầm để lội sang. Dây cáp nhiều người bám vào, nên lúc nó chùng xuống, lúc lại căng lên, làm nhiều cậu vồ ếch. Có cậu ngã ngửa, chân rút không lên, cứ đành nằm ngâm nước đợi người sau tới kéo dậy. Sang tới bờ bên kia chúng tôi tranh thủ đi tiếp một quãng dài nữa mới nghỉ. Bên đường là mấy ruộng rau muống lẫn cỏ, cá đớp tí tóp. Sao lâu tới thế nhỉ? Đã tới một ngôi làng, bóng tre phủ tối om. Rẽ ngoặt một hồi, chúng tôi dừng lại cạnh kho binh trạm ở giữa làng, đợi giao liên đưa đi nhận nhà. Hỏi chủ nhà xong, cả lũ nhanh chóng mắc võng và chìm ngay vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau Tỵ và Quang đi lĩnh thực phẩm. Tôi củng cố lại chỗ ngủ, sắp xếp lại đồ đạc cho gọn, rồi ra giếng ở góc vườn rửa mặt. Sau nhà có cái chuồng gà cao như cái lô-cốt, đan bằng nứa. Chủ nhà là một phụ nữ khoảng 37-38 tuổi, có đứa con trai khoảng 13-14, và mấy đứa nhỏ hơn. Cũng như ở trạm trước, tôi thấy trên cửa và vách nhà chi chít những dòng chữ, nên lại rút bút viết mấy dòng lưu niệm. Biết đâu Tiến Dũng đi sau sẽ bắt gặp những dòng chữ này, tôi mỉm cười nghĩ vậy.
Bỗng anh Y và cậu liên lạc đi từ ngoài ngõ vào. Tôi ngạc nhiên thấy anh mang cả ba-lô và đầy đủ lệ bộ cùng những thứ thực phẩm vừa lĩnh. Nét mặt anh vẫn chưa hết bực bội. Thì ra anh có chuyện xích mích với chủ nhà bên kia và hai ông bà già tỏ ý không muốn cho anh ở nhờ nữa. Anh bèn chuyển sang đây, thỉnh thoảng lại lầm bầm nguyền rủa. Lúc này Quang và Tỵ đã về, nhìn thấy đống thực phẩm anh Y mang sang, các cậu nháy nhau
https://thuviensach.vn
có vẻ khoái chí. Quả thật suất thực phẩm của cán bộ bao giờ cũng tươi hơn của anh em nhiều lắm.
Vì đông người, chúng tôi dọn cơm ra ngoài sân ăn. Đứa bé con chủ nhà cầm bát sắt chạy tới. Quang xới cơm và lấy thức ăn cho nó. Hình như chú bé làm việc này đã quen lắm rồi. Nó bê cơm vào buồng với mẹ, ăn hết nó lại chạy ra xin nữa. Anh Y phá cả gói ruốc thịt lợn nửa cân bày ra mâm, làm chúng tôi lác cả mắt. Đến lượt gia đình dọn cơm ăn, họ đến xin chúng tôi mì chính rất tự nhiên.
Trời mây chì. Chợt nghe 3 phát súng, hiệu lệnh báo có B52 tới. Chúng tôi cũng chẳng biết nấp vào đâu, vì cái hầm chỉ đủ chứa gia đình chủ nhà. May quá sau đó không có chuyện gì xảy ra.
Buổi chiều có lệnh đi, lại ngược ra kho binh trạm hôm qua. Tới bãi xe thì trời đã tối, thấy có nhiều bóng người và đốm thuốc lập lòe. Tất cả ngồi nghỉ dọc theo một con hào phòng không. Mãi hai tiếng sau xe mới tới. Chúng tôi khẩn trương lên xe, vừa kịp ổn định chỗ ngồi thì chiếc xe đã bật đèn rồ máy chạy luôn. Đường xóc nghiêng xóc ngửa, nhưng so với loại “Vọt cứt” thì xe này đỡ hơn nhiều. Có thể loại ZIL130 này bánh sau là bánh kép nên êm hơn chăng? Trăng đã lên, tỏa ánh vàng nhợt nhạt qua các đám mây mù. Chợt chiếc xe dừng lại, có lệnh chặt lá ngụy trang cho xe. Anh Y nhảy xuống đường rút dao găm chặt những cành lá to chuyền lên cho chúng tôi cắm vào thùng xe. Trong đêm khuya tĩnh mịch chiếc xe của chúng tôi mở hết tốc lực lao trên con đường giữa những cánh rừng nhỏ.
Đã khuya lắm rồi, xe từ từ giảm tốc độ, hình như đã đến nơi. Chúng tôi dỏng tai nghe đối thoại giữa anh lái xe và 1 người nào đó đứng dưới đường: Binh trạm đã chuyển sang chỗ khác. Anh lái không biết vì hôm nay mới chạy lại đường này. Anh bèn cho xe tách khỏi con đường, chạy đè lên cây cỏ, những bụi sim mua, có người dẫn đường đứng bên ca bin. Có lúc chiếc xe bị dệ xuống hố, bánh sau quay tít mà không lên được, chúng tôi phải xuống đẩy. Rốt cuộc rồi cũng tới được một con đường khác. Chay một
https://thuviensach.vn
lúc nữa thì anh lái tuyên bố hết đường, tất cả phải xuống đi bộ vào binh trạm. Các xe sau chưa thấy cái nào đến cả. Anh lái bèn cho xe thụt lùi để chuẩn bị đón một đoàn khách ra. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy đoàn này toàn là những em bé 6-7 tuổi, đội mũ Giải phóng (mũ tai bèo), cả trai lẫn gái. Giọng Miền Nam của trẻ nhỏ nói nghe hay hay, chắc là con em cán bộ Miền Nam ra đi học.
Có lệnh dừng lại đợi bộ phận đi sau. Đây là một quãng đường đất vắng vẻ, hai bên toàn cỏ và những bụi sim lúp xúp. Chúng tôi đặt ba-lô xuống nghỉ rồi giở cơm nắm ra ăn. Nhưng chỉ được một lúc, mọi người bỗng ồn ào xôn xao cả lên. Muỗi, muỗi tấn công tới tấp. Tiếng phì phạch khắp nơi, vì lính ta lấy cành lá đập vào chân tay hoặc lấy khăn mặt phe phẩy. Không ăn thua gì vì đây là loài dĩn chứ không phải muỗi. Tất cả phải hạ ống quần, ống tay áo, nhưng chúng vẫn không tha các ngón tay, bàn chân, gáy, mặt. Phát điên lên được, tôi chồm dậy đi đi lại lại như một thằng rồ, nhiều người khác cũng vậy. Đến hơn giờ sau mới dồn đủ đội hình, các A tới sau định ngồi nghỉ, nhưng rồi họ bật dậy ngay vì dĩn, và chúng tôi vội vàng đi tiếp. Con đường dốc sỏi lổn nhổn, hai bên là đồi cao. Có tiếng máy bay, rồi đột nhiên hai chiếc F4 xoẹt qua trên đầu, để lại sau một màn tiếng động rền rĩ. Mấy cái pháo sáng bung ra, leo lét trong ánh trăng mờ. Tất cả bì bõm lội qua con suối nhỏ. Sương đêm lạnh buốt, đọng lấp loáng trên lá cây hai bên đường. Nhiều quãng vừa đi vừa phải gạt cành lá sang hai bên lấy lối. Thỉnh thoảng bị tắc đường phải dừng lại hàng nửa giờ. Đang đà đi mà đứng lại lâu thì chồn chân lắm. Nhiều cậu cứ phải dậm chân tại chỗ. Một số khác đưa súng ra sau làm que chống nâng Ba-lô lên cho đỡ nặng. Vài cậu quăng mình nằm xuống vệ đường, đè lên cả ba-lô, để rồi lại vội vã đứng dậy đi tiếp khi có lệnh. Tôi đi như người mộng du. Hình như lại lội qua một lạch nước nhỏ và bắt đầu đi lên quả đồi có nhiều cây cao to, âm u. Bãi khách (1) đây rồi, khắp nơi í ới căng tăng mắc võng. Tôi và Đệ mắc hai võng liền nhau rồi chìm ngay vào giấc ngủ mê mệt.
-------------
https://thuviensach.vn
(1) "Bãi khách“ là tên gọi một kiểu trạm giao liên thời chống Mỹ, nơi nghỉ tạm của của bộ đội, TNXP, cán bộ... giữa rừng, trên đường hành quân vào chiến trường và từ chiến trường ra. Nhà thơ Xuân Sách có bài thơ "Trạm giao liên và bãi khách“ có những câu: Trạm giao liên nhỏ như cái nấm/ Chủ có dăm người khách thì hàng vạn/ Lo ăn lo ở toát mồ hôi/ Mà trước nhà còn có khóm hoa tươi/ Khách toàn những chàng trai trẻ đẹp/ Cô chủ nhà giữ vẻ nghiêm trang:/ - Các anh ngủ, ngày mai còn đi tiếp/ Nhưng cả rừng lại cất tiếng cười vang/ Giữa những khuôn mặt hiền như ánh trăng/ Nào có biết ai sẽ là dũng sĩ/ Ai sẽ tung hoành trong trại đồn giặc Mỹ/ Ai là anh hùng đốt cháy xe tăng?/ Ai ngày sau thám hiểm Trường Sơn/ Có còn nhớ trạm giao liên mọc như cái nấm/ Và bãi khách, rừng cây mòn vết võng/ Đã đi qua một thời đại anh hùng (BT).
Sáng hôm sau tôi cử Đệ nhóm lò nấu ăn, còn mình cầm Ny-lông đi lấy nước. Cái lạch tối qua chúng tôi lội qua rất bẩn, nước tù, xâm xấp mắt cá chân, ngập đầy lá cây mủn đen, hôi thối. Tôi phải đi ngược dòng, tới 1 chỗ lòng lạch rộng hơn, 2 bên vòm nứa âm u, nước khá trong, có rong lượn lờ ở dưới. Tôi vục nước vào Ny-lông túm lại vác về. Đệ đã chọn bếp và nhóm lò xong, chúng tôi nấu cơm rồi hâm thịt hộp. Khắp bãi khách cũng đang ý ới tiếng gọi nhau, tiếng chẻ củi… Bọn B3 mãi không nhóm nổi lò, chắc chọn phải cái bếp Hoàng Cầm tồi quá. Tiểu đội tôi đã đàng hoàng dỡ cơm ra ăn. Anh Y có vẻ hài lòng, mang 1 gói ruốc thịt nữa ra cùng ăn với chúng tôi. Bọn B3 cuối cùng đành phải sang xin nấu nhờ bếp. Thành và Phái nằm 1 góc sát với B3, chúng lười quá, lay mãi mới chịu dậy ăn cơm. Xong xuôi, anh Y đi họp, tôi cầm nilông đi lấy thêm nước. Dọc đường tôi cố để ý xem có gặp Đại Cường, Quốc Hưng hoặc Phổ Thọ (những người bạn cùng trường) không? Hưng tôi đã gặp ở Nghĩa Đàn, đen và khỏe, ở trường cậu ta tập xà kép rất giỏi. Còn Cường và Thọ thì chưa gặp. Khi trở về, anh Y ra lệnh nấu cơm nắm, chuẩn bị hành quân ngay.
Mặc dù còn rất mệt, chúng tôi vẫn phải thu dọn đồ đạc, tập hợp nghe anh Y phổ biến. Sẽ hành quân bộ, lá ngụy trang được cắm vào ba-lô. Tôi lơ
https://thuviensach.vn
đãng nhìn chùm hoa phong lan đuôi sóc màu vàng nhạt bám lủng lẳng trên một thân cây. Chợt nhớ bi-đông mình rỗng không, tôi vội chạy đi lấy nước. Hỏi đường mấy cậu cầm bi-đông đi ngược lại, tôi chạy sâu vào rừng. Tới một hồ nước nhỏ, xung quanh là vách đá, dây leo um tùm, tôi thận trọng trèo xuống. Một tấm ván áo quan sơn đỏ đã phai dùng làm cầu, cạnh cầu có lạch nước tuôn vào hồ làm nước hồ sủi lên ùng ục. Xung quang tĩnh mịch quá khiến tôi rờn rợn: nếu bất chợt một mõm cá sấu nổi lên giữa hồ thì sao? Tôi vục bi-đông thật nhanh rồi vội vã bám dây leo ngược lên, chạy biến về đơn vị.
Đoàn quân lên đường. Đi dưới tán lá của rừng già Trường Sơn, chúng tôi rất yên tâm mặc dù máy bay Mỹ đang quần đảo trên đầu. Khi nghỉ giải lao, cả bọn ngồi dạt vào các lùm cây ven đường cho các C sau vượt lên. Ngồi nhìn từng khuôn mặt lướt qua để tìm người quen. Ba-lô, xanh-tuya, súng đạn, thùng đạn lỉnh kỉnh diễu qua. Một cậu dáng thư sinh đi tới. Đôi mắt cậu ấy đẹp quá, như mắt con gái, lông mi dài cong, lòng trắng trắng xanh. Tôi nhớ ra cậu này là bạn của Duy Minh, tiếc là Duy Minh không có ở đây. Gặp cậu Bình, trước học cùng Trường Đoàn Hoàng Văn Thụ, tay xiết chặt tay, ai ngờ lại gặp nhau ở rừng Trường Sơn này. Chúng tôi lên ba lô đi tiếp. Máy bay Mỹ vẫn quần đảo trên đầu, tôi vừa đi vừa theo dõi chúng. Lính đại đội trước đã dạt vào vệ đường nghỉ, các cậu ấy vừa cười nói vừa ngắm chúng tôi diễu qua. Cảnh như vậy cứ lặp đi lặp lại mãi. Hình như bọn Mỹ đánh phá ở hướng chúng tôi đang đi tới, tiếng bom ình ình, máy bay gào rú trên đầu. Qua vòm lá rừng già tôi thấy một tốp 4 chiếc F4 chui vào mây. Tiếng rít váng óc lao qua cùng với một chiếc F4 bay rất thấp, để lại dải khói đen dài. Tới một chỗ nghỉ khác, cả bọn ngồi ngắm mấy chú sóc đang chuyền cành. Chúng nhỏ bé, màu đen hoặc vàng bẩn, không đẹp như trong sách và phim ảnh thường thấy. Hành quân bộ tốn nước thật, tôi phải uống hết sức dè sẻn. Từ sáng đến giờ thấy toàn lên dốc, hết cái dốc này đến cái khác, chắc đang đi lên đỉnh một quả núi nào đấy. Ở một vài chỗ nghỉ, tôi nói chuyện với anh Ngạn B3, trước là giáo viên cấp II (anh Ngạn về sau hy sinh khi vượt sông Thạch hãn tháng 11.1972). Đội hình trở nên
https://thuviensach.vn
loạc choạc, mạnh ai nấy đi, lính C này lẫn với lính C khác. Một số cậu nằm thẳng cẳng trong các búi cây ven đường. Cái dốc hầu như vô tận, thỉnh thoảng nó chùng xuống để rồi lại cao vút lên. Trước một đoạn dựng đứng, chúng tôi phải nghỉ lấy sức, ngồi ngổn ngang trên các thân cây đổ. Cái dốc khủng khiếp thật. Mũi người sau chạm gót người trước, và cái ba-lô người trước luôn lủng lẳng trên đầu người sau. Phải dùng cả bốn chi, bám vào cây cối hai bên đã tơi tả mà nhích lên. Vô phúc nếu có cậu nào ở phía trên tuột tay, chắc cả một dây người phía dưới sẽ gặp tai họa. Tôi bò lên khỏi dốc, cố đi vài bước nữa rồi ngồi phịch xuống nghỉ. Xung quanh đấy cũng có nhiều lính đang nghỉ. Tôi rút bi-đông nước lã ra, đem pha đường sữa vào và uống luôn. Nhiều cậu khác cũng làm như vậy, mà chả bao giờ thấy đau bụng cả.
Vùng núi chỗ này nhiều cây lá nón quá, mới đầu tôi cứ tưởng lá cọ. Dưới tán lá cây cổ thụ rừng già là giang sơn của lá nón. Sau này tôi mới hiểu câu thơ “...mà rừng lá nón đêm nay ngời ngời” là như thế nào. Tôi và Tỵ uống nước xong lại đi tiếp. Đến chỗ có mấy người nghỉ, thấy một cán bộ đang nói chuyện. Chúng tôi xem khẩu súng lục của anh và tý toáy học cách sử dụng. Hình như đỉnh cao nhất đây rồi, vì sau nó tôi thấy con đường dốc hun hút. Mặt trời đã ngả về tây, như vậy là lên đến đỉnh dốc chúng tôi đi mất nửa ngày. Xuống dốc tốc độ có nhanh hơn một chút. Qua màn lá thoáng thấy đỉnh quả núi bên cạnh, thấp hơn chúng tôi nhiều, đỉnh của nó xanh đen và mờ mờ như phủ khói. Xuống dốc thường có xu hướng chạy, tất cả đồ đạc trên người mình đều muốn kéo mình chạy. Cậu Tỵ lúc đầu còn chạy từ từ, sau mỗi lúc một nhanh và cuối cùng thì vấp vào rễ cây ngã sóng soài ra đất, ba-lô cùng nồi xoong lộn qua đầu bay xa gần chục mét. Tôi chạy lại nâng dậy, may không việc gì cả, chỉ trầy da tí.
Xuống dốc cũng khốn khổ. Những người sống nhiều ở rừng núi đều khẳng định rằng xuống dốc (nhất là dốc cao) khó nhọc hơn lên dốc. Thật vậy, xuống dốc chồn chân không thể tả được, gân cứ phải chùng liên tục, bánh chè muốn rơi ra ngoài. Nhiều đoạn phải ngồi bệt xuống, trượt đi từng tí một. Có những chỗ đường dốc hẳn về một bên, lại nhiều người đi nên đã
https://thuviensach.vn
nhẵn thín, dễ trượt xuống dưới lắm. Thỉnh thoảng lại cảm thấy như đang đi một mình, đằng trước đằng sau chẳng có ai cả. Có đoạn đi bên sườn núi, nhìn ra phía đông xuyên qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp. Rồi những cồn cát trắng nhỏ xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông bạc đang uốn khúc, y như trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự hào vô cùng. Dầu sao đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Tôi đang ngồi nghỉ ở lưng dốc thì thấy một toán lính C50 đi tới, trong đó có Phổ Thọ. Thoáng chút bất ngờ, Phổ Thọ ngồi lại nói chuyện với tôi. Chắc 5h chiều rồi, chúng tôi đứng dậy. Thọ bảo tôi đi sau nhé, vì cậu ta không thể đi lò dò xuống dốc được, chồn chân lắm, mà phải chạy. Tôi chưa kịp can thì Phổ Thọ đã lao xuống dốc, với chiếc ba-lô kếch sù và đủ thứ lệ bộ súng ống trên người. Cậu ta thoăn thoắt nhảy qua các rễ cây với một tốc độ kinh người, và hun hút biến mất ở chân dốc. Một lúc sau tôi lại gặp Thọ đang ngồi nghỉ ở ven đường. Chúng tôi pha nước đường chia nhau, nước hứng ở một mạch đá nhỏ giọt gần đấy. Trời gần tối, xung quanh lính nghỉ ngổn ngang, nhiều cậu mặt mày xanh xám. Một số khác kiếm củi nước tính chuyện nấu cơm ăn nghỉ tại đây. Hình như binh trạm không còn xa lắm. Thọ lại đứng dậy đi trước, cậu ta nói đến nhận chỗ ở để nấu cháo cho tiểu đội.
Trời tối hẳn. Chúng tôi dò dẫm từng bước như đi trong hũ nút. Rồi bỗng nghe thấy nhiều tiếng í ới, thỉnh thoảng lại lóe lên vài đốm sáng của bật lửa. Tôi căng mắt nhìn, thấy cạnh các gốc cây lô nhô nhiều cọc phụ. Tôi gọi to để tập hợp tiểu đội, rồi nhanh chóng căng tăng mắc võng. Đói và mệt, chúng tôi cũng chẳng buồn nấu ăn nữa, leo lên võng ngủ luôn.
Sáng, đi tìm bếp nấu ăn. Hôm nay đến phiên Thành “ma tịt” và Phái “con”, hai cậu lười nhất tiểu đội làm cơm. Qua một ngày mệt nhọc và một
https://thuviensach.vn
đêm li bì, hai cậu không muốn dậy. Tôi kiên quyết dựng cổ hai tên này lên bắt làm việc. Cả A được lệnh đi kiếm củi, giúp nhóm bếp. Tôi xách ni-lông đi xuống suối. Có chỗ dòng suối đang hẹp bỗng phình rộng ra và sâu xuống, bốn xung quanh và đáy toàn đá rất to, màu đen, được nước mài nhẵn thín. Lính ta tụ tập khá đông để rửa mặt và lấy nước. Chúng tôi đào 1 hố gần bếp, lót ni-lông làm bể chứa và đổ nước vào. Sau đó tôi cũng cầm dao đi chặt củi. Nói chung củi khô rất hiếm, những cành nằm dưới đất thì cong queo và còn tươi cả. Chúng tôi phải tìm những cọc phụ cũ, giá ba-lô cũ, và tốt nhất là những bếp Hoàng cầm cũ, phá ra để lấy củi. Nước uống trở thành nhu cầu cấp thiết, có bếp đun, tội gì mà uống nước suối. Mọi người tranh nhau xoong nước sôi để đổ vào Bi-đông. Vài cậu còn lấy ống coóng (ống bơ) đun nước riêng.
Cơm chỉ có món độc nhất là canh đồ hộp, vị gây đến buồn nôn. Tôi ăn chẳng được mấy, cảm thấy hơi mệt. Hôm nay mà đi tiếp thì thật là gay, may quá, anh Y đi họp về tuyên bố hôm nay nghỉ. Tôi thơ thẩn đi ra suối. Lính ta đang tắm khá đông. Nhảy trên các phiến đá, tôi ngược lên phía thượng nguồn, nơi quang cảnh rất vắng lặng. Tôi ném vài hòn cuội đuổi các chú cá con rồi quay về. Mấy hôm nay bắt đầu có triệu chứng đi ỉa lỏng. Tôi sờ đến hộp thuốc cá nhân, sực nhớ còn có con sâm cao-ly gia đình trang bị cho, bèn lấy mấy miếng vụn để ra ngoài để khi cần dùng được ngay. Trên đường về gặp Tiểu đoàn trưởng Khanh đang chỉnh mấy cậu lính ỉa bậy bừa bãi.
Đến chiều có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị sáng mai đi sớm. Tôi cảm thấy mệt vô cùng bèn lên võng nằm. Chợt nghe có ai gọi tên mình, nghe như tiếng của Duy Minh. Đúng thật, bộ phận đi sau đã tới. Tôi ngồi dậy đón Duy Minh với Lâm Thành, Chính, Đường. Họ rất mệt, không hiểu mai có hành quân tiếp được không?. Tôi động viên họ và giúp tìm chỗ căng tăng mắc võng. Tôi nằm nhưng không ngủ được. Mệt quá, có lẽ ta ốm chăng? Hậu quả của mấy ngày leo núi cật lực chăng?. Đêm trong rừng già Trường sơn thật tĩnh mịch. Nhiều lúc mở căng mắt mà không thấy gì, bóng tối đặc quánh tưởng có thể xắn ra được. Tôi nằm nghe tiếng sương rơi lộp
https://thuviensach.vn
độp trên mái tăng mà lòng nhớ nhà da diết. Không biết mình có bao giờ còn được trở về nhìn thấy ngôi nhà bé nhỏ ấm cúng, thấy cái nhà Quàn, thấy phong cảnh Hà nội từ trên gác thượng nhà Tiến Dũng nữa không?. Rồi biết bao hình ảnh cũ lại diễu qua: bạn bè, nhà trường, phố phường… Nhớ nhung đến đau xót, nhiều lúc tưởng không chịu được. Đây chính là lúc đấu tranh tư tưởng căng nhất: Đảo ngũ hay không Đảo ngũ?. Trời ơi, mệt quá, nặng nhọc từng hơi thở, mặc dù người cảm thấy nhẹ tênh, môi khô, miệng đắng. Ở nhà mà hơi mệt một tý thì phải biết, hết mẹ đến bà, nhất là bà, lo cuống lên, nào xông hơi nào cháo hành nào thuốc cảm… Ở đây thì nằm cô đơn co quắp trong 1 xó rừng, chết cũng chẳng ai hay. Nhưng chẳng lẽ vì vậy mà đảo ngũ? Dù sao suốt 10 năm trời tôi đã luôn là học sinh tiên tiến, từng viết những bài văn rất hay với những câu kết hùng hồn, mà tôi thì không quen nói một đằng làm một nẻo. Tôi nhớ đến Bác và những lời hứa trong ngày Quốc tang, nhớ đến danh dự của Gia đình, của bố mẹ… Không, chết thì thôi chứ không chịu làm điều nhục nhã, phải làm 1 người chân chính, có nghị lực như Pavel Corsaghin. Và đâu phải chỉ có mình tôi trải qua cảnh ngộ này. Bao năm nay, hàng triệu người đã từng nằm võng trong đêm tối âm u của núi rừng, cũng đã chịu những dằn vặt âm thầm ghê gớm. Nhưng họ đã đứng vững, để rồi sáng hôm sau những tin chiến thắng vẫn dồn dập gửi về… Không, tôi nhất định không chịu thua kém họ. Càng nghĩ càng thấm thía câu nói đơn giản: “Dân tộc ta là 1 dân tộc anh hùng”. Đúng là 1 dân tộc anh hùng, vì đã có hàng triệu người con anh hùng, mà chỉ cần họ chiến thắng họ trong một đêm như đêm nay cũng đã đủ xứng đáng với danh hiệu đó. Tôi cứ nằm như vậy, mắt mở trừng trừng nhìn vào đêm tối và người mệt mỏi rã rời.
Khoảng 4 giờ sáng có lệnh chuẩn bị, tất cả tất bật cuốn tăng võng xếp vào ba-lô. Người mệt bã, thở phào phào như hết hơi, tôi lo lắng nhấc thử cái ba-lô nặng trịch, rồi mở ví lấy một mảnh sâm cho vào miệng. Trong bóng đêm, chúng tôi lên đường, người nọ bám vào ba-lô người kia. Thỉnh thoảng lại vấp vào rễ cây đau điếng. Quái, sao mà đi nhanh như ăn cướp thế này? Vượt qua một cái lạch nhỏ, lách mấy hòn đá, lính ta đi vội vã, thở hổn
https://thuviensach.vn
hển. Đại đội tôi đi thứ ba nên vất vả, vì vậy khi có lệnh nghỉ 15 phút, tôi tranh thủ vượt lên phía trên đầu đội hình. Đường hẹp, lính nằm ngổn ngang, tôi lách qua rất khó khăn, đi đến đâu tiếng phản đối ồn ào đến đó. May thay có một cán bộ, theo sau là liên lạc, đang cần lên gặp ban chỉ huy Tiểu đoàn ở phía trên. Tôi vội bám luôn vào sau cậu liên lạc, thành ra đi đến đâu người ta nhường đường đến đó. Ban chỉ huy Tiểu đoàn vẫn đang nghỉ, anh Khanh thỉnh thoảng lại nhắc truyền xuống: “C52 lên đủ chưa, báo cáo?!”. Trong bóng tối, mấy cậu liên lạc tiểu đoàn cũng không nhìn rõ mặt nhau, nên tôi đi lẫn vào họ.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (3)
Đường nhiều chỗ trơn, mỗi người một gậy dò chống. Đi đầu là người dẫn đường, rồi đến D trưởng Khanh, một cậu liên lạc và tôi. Đằng sau là mấy cậu liên lạc nữa rồi tới C51. Chúng tôi đi rất chậm, nhưng vẫn biết là ở phía cuối đội hình đang phải đi như chạy, nên thỉnh thoảng anh Khanh cho dừng lại nghỉ một lúc. Ra khỏi cửa rừng, đoàn quân lội trên một con suối, thỉnh thoảng nhô lên vạt cỏ lác. Nước lạnh buốt, nhiều chỗ chảy xiết. Chả hiểu sao mà suối mỗi lúc một sâu hơn, anh Khanh đã bị nước ngập đến bụng. Anh nghi ngờ, gọi cậu dẫn đường lúc này cũng đang ngơ ngác ở phía trên. Cuối cùng rồi cũng ổn, chúng tôi đi theo lối mòn trong thung lũng lớn, hai bên có những bụi cây nhỏ. Chúng tôi ngồi nghỉ khá lâu để chờ dồn đội hình. Cậu dẫn đường đã đi lên trước để liên hệ thuyền, hình như chúng tôi sắp vượt sông thì phải? Tôi cảm thấy người hết mệt mỏi, lúc này mới thấy tác dụng kỳ diệu của sâm Cao-ly. Mảnh sâm trong mồm đã tan hết, tôi lấy tiếp một mảnh nữa ra ngậm. Vị nó nhàn nhạt và ngọt lờ lợ, nhưng nếu không có nó thì đoạn đường vừa qua tôi gay rồi. Đã thấy mặt người mờ mờ, biết không trà trộn được nữa, tôi trở về đại đội của mình. Ra đến bờ sông thì thấy nhiều con thuyền đã đợi sẵn. Mỗi con thuyền trông dường như nhỏ bé ấy không ngờ lại có thể chở gần hết một đại đội cả trăm người. Lính lên thuyền lộn xộn. Tôi thấy có một thuyền ít lính chen lên, bèn trèo vào. Thì ra đây là thuyền chở bộ đội tỉnh Quảng Bình. Chậc! miễn là sang được bờ bên kia, tôi nghĩ. Nghe mấy anh lính này và mấy o Quảng Bình nói chuyện, thăm hỏi và đối đáp nhau với cái giọng miền Trung ríu rít, tôi thấy vui vui. Thuyền chưa cặp bờ, tất cả đã nhảy ào xuống nước. Dưới đáy toàn cát, nước trong vắt, lính ta hăm hở tháo bi-đông nhấn xuống sông lấy nước. Đây là sông Nhật Lệ chăng?
https://thuviensach.vn
Tất cả chạy qua bãi cát lún lên bờ, tập hợp và lại đi hối hả. Bắt đầu leo dốc, luồn lách trong đám lau sậy và những bụi cây nhỏ rậm rạp. Leo được nửa tiếng thì có lệnh nghỉ 15 phút. Chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Anh Bính tuyên bố đi theo đội hình trung đội, anh đi đầu, không ai được vượt. Lại bắt đầu xuống dốc, tới mỗi chỗ nghỉ, ai cũng mệt nhoài. Tôi mò đến chỗ Chí Thành, hai đứa giở cục cơm nắm còn lại ra ăn hết. Anh Bính rất bực với mấy cậu đi chậm. Ở một chỗ nghỉ, chúng tôi ngồi đã khá lâu mới thấy Long “già” A6 lò dò đến, trông thật nhếch nhác. Khẩu súng đập lủng củng vào chân cậu ta, cái nắp xoong sau đít đưa qua đưa lại, mặt thiểu não trông thật “già”. Anh Bính quát tháo, Long “già” cự lại, kết quả là cậu ta bị ăn một cái tát nên thân. Nhìn cảnh ấy chúng tôi ôm bụng cười, tuy thâm tâm không hài lòng lắm.
Lại men theo một khe suối. Chúng tôi uống nước kinh thật. Đây là cái suối tù, nhiều chỗ nước rất bẩn. Nhưng khát quá nhiều cậu vẫn phải múc và cho thuốc lọc vào uống. Tôi cũng định múc, nhưng Long “cồ” ngăn lại và san cho một ít nước sông trong bi-đông của cậu ta.
Chúng tôi lần theo một con đường ô-tô đang mở trong rừng. Một con đường chưa có vết bánh xe, bí ẩn dưới vòm lá cây rừng, đất mới đào màu vàng ướt. Tất cả những gốc cây trên nền đường đều được trốc đi, nhiều chỗ phải cắm lá cây lên mặt đường để ngụy trang. Chúng tôi rất ngạc nhiên và kính cẩn nhìn ngắm con đường, thành quả của sức lao động phi thường. Bắt đầu đi trong rừng lau, hình như ô-tô cũng đi được theo những lối này. Tất cả vừa đi vừa ngắm những hòn núi đá đơn độc nhô lên trên cánh rừng lau bạt ngàn. Chợt gặp hai anh bộ đội Giải phóng (1) mặc bộ đồ vi-ni-lông mầu nâu đi ngược lại, cả bọn trầm trồ khen những con dao găm đẹp của họ.
----------
(1) Trong chiến tranh chống Mỹ, bộ đội chủ lực chia làm hai. Quân Giải phóng do Mặt trận DTGP Miền Nam Việt Nam quản lý, có trang phục riêng khác với bộ đội Miền Bắc; cờ và sao nửa đỏ nửa xanh, nhưng thường
https://thuviensach.vn
không đeo quân hàm, quân hiệu. Trên thực tế, lãnh đạo thống nhất, quân đội thống nhất.
Tôi thấy lính ta xúm quanh một người dân tộc đứng sau hàng rào gỗ. Ông ta bán cam trong vườn. Cam còn non và xanh, ăn như chanh mà ông ta bán những năm hào một quả. Lúc này tôi mới nhận thấy trên vách núi có một hang đá. Mấy người dân tộc và một lũ trẻ con lau nhau đứng ở cửa hang ngắm nhìn bộ đội. Tôi thấy họ có cả súng CKC. Hai anh Giải phóng, một già một trẻ, đang đứng ở phía dưới, tay cầm mấy mớ rau và con gà, đang nói chuyện với họ, ý chừng hai bên trao đổi gì đó cho nhau.
“Người Vân Kiều!”, ai đó nói. À, ra đây là người Vân Kiều. Họ có vẻ nghèo khổ, đen đúa, ăn mặc lam lũ, nhưng tôi đã được nghe nhiều về tinh thần cách mạng của họ.
Dọc lối đi thấy nhiều vết đạn 20ly của máy bay bắn xuống. Lại nghỉ 15 phút, tôi ngồi nói chuyện với Lâm Thành và Chí Thành. Con đường vẫn men theo vách núi đá, nhiều chỗ đá tạo thành những bãi chông nhọn sắc đâm thẳng lên trời, đi qua phải hết sức cẩn thận. Có những hòn đá trên mặt rỗ hoa tạo thành nhiều lỗ có gờ rất sắc, vô ý bám tay vào là chảy máu. Nghe tiếng từ lâu, giờ mới thấy mặt đá tai mèo, quả là ghê thật.
Tôi đang đi chợt thấy phía trước xôn xao. Thì ra có một hàng mía bán ở hốc đá ven đường. Thảo nào lúc nãy đi qua rừng lau thấy con đường phủ kín bã mía. Mía nhỏ như cây sậy mà cũng lăn vào mua, một hào hai tấm. Long “cồ” xông vào mua được sáu tấm, chúng tôi mỗi đứa cướp một tấm.
Đoàn quân đang đi dọc con suối khá rộng, nước trong, hiền hòa. Hai bên bờ có những cây lá giống lá trúc đào, xòa xuống là là mặt nước trông thật đẹp. Gặp một đoàn người đi ngược ra, hóa ra toàn tù binh mặc quần áo rằn ri, mấy cậu vệ binh súng cắm lưỡi lê lăm lăm áp giải. Cậu Hòa “chó” nhặt mấy hòn đá ném tới tấp vào đám tù binh, làm mấy người đó phải giơ tay che đầu. Thấy điệu bộ hoảng sợ của họ, tôi bảo Hòa: “Mày thôi ngay đi.
https://thuviensach.vn
Mày có muốn khi mày bị bắt người ta ném vào đầu mày như vậy không?” Cậu này trước khi nhập ngũ thuộc loại lưu manh đường phố, hay ăn cắp vặt của anh em trong đơn vị.
Đã quá nửa ngày rồi, tất cả đều thở không ra hơi, thì tới một khu vực giống như bãi khách. Chúng tôi tách khỏi con suối lớn, đi men những theo những lạch nước bẩn thỉu. Khắp nơi vỏ đồ hộp lăn lóc, bên các thân cây lô nhô cọc phụ và các giá ba-lô đã khô nỏ. Vẫn chưa có lệnh dừng, đoàn quân đi lê lết, rời rạc. Tôi và Chí Thành tạt sang một bên ngồi. Tôi chạy xuống khe lấy nước rồi đem đường sữa của Chí Thành ra pha uống. Nghỉ cho đỡ mệt một chút, hai đứa lại lên đường.
Mãi gần tối mới tới chỗ dừng chân. Chúng tôi căng tăng mắc võng cạnh đường đi, trên triền đồi, phía dưới là khe nước. Tổ trực nhật mang nồi xuống khe nấu cơm, tôi xuống theo. Nước bẩn thật, thỉnh thoảng mới có một hốc đào bên rìa suối, nước sạch hơn một tí. Dọc khe, các B khác cũng đang nổi lửa. Có lệnh phải nấu bếp Hoàng Cầm, nhưng chả A nào đào, rốt cuộc vẫn kê đá lên nấu. Vất vả lắm rồi cuối cùng cũng được ăn, tôi bảo Duy Minh lấy hai hộp thịt ra chia cho anh em. Võng tôi nằm cạnh Phái “con” và Thành “ma tịt”. Hai cậu này chuyên môn nấu ống coóng, khi thì nước, khi thì cháo. Nấu như vậy là phạm kỷ luật, vì khói lên dễ lộ vị trí, máy bay sẽ đến đánh bom, tôi đã nói mãi mà hai cậu ấy không nghe.
Hôm sau củng cố lại tăng võng. Cậu Phát A5 nằm gần đấy bị đứt dây võng, ngã dúi đầu xuống đất mãi không dậy được. Hình như Lâm và Chí Thành có điều gì đó không bằng lòng nhau. Chí Thành phàn nàn với tôi là mất mũ mà Lâm có hai cái lại không cho mượn. Duy Minh bận túi bụi với bếp nước. Bọn Thành, Phái kiếm củi đun riêng thì giỏi, chứ kiếm củi cho A hoặc làm chung thì rất lười. Sao tôi ghét tụi này thế. Nhưng với tư cách A trưởng, tôi vẫn phải nói cười ngọt nhạt với chúng để động viên chúng lao động. Hình như chúng đã ăn riêng số đồ hộp của A phát cho chúng mang, thật là tồi tệ.
https://thuviensach.vn
Vấn đề đun nấu là một vấn nạn. Từ dưới khe, nhiều lúc khói bay lên làm chúng tôi phải kêu ầm ĩ. Anh Hồng, Chính trị viên đại đội, chạy lồng lộn ngược xuôi quát tháo những cậu đầu bếp. Những cậu này mặt mũi đỏ gay, nước mắt dàn dụa, đang phồng mang trợn mắt thổi mà lửa vẫn không lên, khói bốc mù mịt. Có chỗ như bếp B4, anh đã phải dội nước vào dập vì quá khói, mặc dù mấy cậu đầu bếp nhìn anh đầy căm tức. Biết làm thế nào được, nhiều khi phải tàn nhẫn. Anh từng nói, có mấy cậu Dũng sĩ “đù mẹ đù cha” đun ống coóng, máy bay đến ném bom chết mất xác, lại còn chết thêm cả mấy đơn vị bên cạnh. Giữ được chuyện khói lửa quả là vất vả.
Có lệnh chiều đi. Nấu cơm nắm, nước uống đàng hoàng, sẩm tối tất cả cuốn tăng võng lên đường. Lại những cây lá nón, những cái dốc, những khúc gỗ mục ngang đường. Chúng tôi đi thoăn thoắt, thấy bảo còn 2km nữa thì ra đến đường ô-tô. Sắp được đi ô-tô nữa rồi, tuy có xóc thật, nhưng còn hơn cuốc bộ. Đột nhiên từ phía sau truyền lên: “Phía trước dừng lại”. Thấy cậu liên lạc dẫn đường đi ngược hàng quân, vai vác khẩu AR15, chúng tôi ngồi ngả ngốn bàn tán về khẩu súng lạ. Chợt có lệnh truyền: “Quay lại” làm cả bọn sửng sốt. Chúng tôi trở về cũng nhanh như lúc đi mặc dù không được vui lắm.
Lại căng tăng mắc võng vào chỗ cũ. Sao mà nhớ nhà thế. Biết bao sự việc ngày nào ở trường ở lớp hiện ra như mới hôm qua, vậy mà bây giờ tôi đã nằm đây, trong bãi khách của một cánh rừng Trường Sơn này.
Nửa đêm mưa to, sáng hôm sau thấy hai đầu võng bị ướt. Chẳng sao, đến chiều khô ngay mà. Hình như tối qua Duy Minh bị ướt hết, phải sang nằm chung võng với Đường “cóc”. Lại cảnh đun nấu ầm ĩ về chuyện khói lửa. Mấy hôm nay bắt đầu phải dè sẻn gạo. Nhiều chỗ mấy cậu xúm quanh ống coóng cháo húp xì xụp. Đến chiều lại có lệnh nấu cơm nắm. Tôi và Chí Thành mượn xoong nấu 1 nồi cháo húp với nhau, rồi nấu nước nóng đổ đầy bi-đông 2 đứa.
https://thuviensach.vn
Lại con đường hôm qua. Ra khỏi rừng già, đi giữa rừng thưa, rồi ngồi tản mạn ven đường cái đất đỏ chờ xe. Trời sẩm tối thì xe tới, cả loại Vọt tiến lẫn Hoàng hà. Sau một hồi chạy ngược xuôi, chúng tôi trèo lên 1 chiếc Hoàng hà. Trời tối hẳn, chiếc xe nhảy chồm chồm trên đường. Có chỗ nó bò chậm rì rì, thận trọng. Có chỗ bất ngờ nó chổng mông lên trời, làm tất cả chúng tôi bị dồn tụt xuống phía ca-bin. Rồi nghe có tiếng nước rào rào dưới bánh xe, chắc đang lội qua hố bom hoặc ngầm. Xe có mui bạt nên chẳng nhìn thấy gì, cả bọn ngủ gà ngủ gật. Xe chạy chắc đã lâu lắm rồi. Chúng tôi chợt tỉnh khi thấy xe dừng lại, đến nơi rồi ư? Tất cả xốc lại trang bị rồi nhảy xuống xe. Sương lạnh, cả bọn co ro bên con đường lầy lội. Thì ra xe không vào được nữa vì đường xấu, chúng tôi phải đi bộ đến bãi khách. Muỗi bắt đầu tấn công, đoàn quân men theo ven đường mà bước, bùn lép nhép. Rồi tới một cái bãi rất rộng, có mấy người đang đi ngược lại, họ nói sắp tới bãi khách. Chưa tỉnh ngủ hẳn, lại thêm trời tối đen như mực, nên tôi bước như trong mơ. Mấy vũng nước sáng trắng trong đêm tối.
Chợt có tiếng máy bay ì ầm. Rồi đột nhiên một chiếc máy bay xoẹt qua rất thấp trên đầu chúng tôi, kéo theo màn tiếng động rung óc. Tất cả đang bối rối thì có tiếng “pục!” khô nhẹ phát ra ngay phía trên. Một ánh chớp lóe lên, và lập tức mặt đất bị chiếu sáng đến khủng khiếp. Mọi vật phơi bày trước mắt tôi, rõ đến nỗi tưởng cái kim dưới đất cũng nhìn thấy.
Tôi thấy mình đang đứng dưới lòng đường trống trải, nghĩ bụng: “Thôi hỏng rồi, thế này thì nó nhìn thấy mất, thế là hết!” và chạy vội vào bên đường. Quả pháo sáng vẫn cháy xèo xèo, vừa rơi vừa quay chậm chạp trên đầu chúng tôi, kéo theo một cái đuôi khói trắng lơ lửng. Trước mặt tôi, một toán lính ta đang chạy tán loạn dưới ánh pháo sáng. Tôi bực bội nghĩ: “Sao chúng nó ngu đến thế, chạy vậy thì chết hết!” Tiếng máy bay vẫn rền rĩ. Phía xe chúng tôi lúc nãy xuất hiện hai quả pháo sáng, rồi tiếng bom bi nổ rầm rầm. Không hiểu mấy xe đi sau có làm sao không? Anh Bính quát tất cả tìm hố hai bên vệ đường mà nằm. Quả pháo sáng trên đầu chúng tôi bắt đầu lụi dần, chiếc dù đưa nó đi khá xa. Lợi dụng lúc máy bay vòng xa,
https://thuviensach.vn
ánh pháo sáng chưa tắt, chúng tôi lẩn nhanh vào đường rừng. Lần đầu tiên bị pháo sáng rọi thẳng trên đầu kể cũng hốt thật. Rõ thế, tưởng nó nhìn thấy hết, không ngờ mắt phi công Mỹ cũng thường thôi.
Quái, sao lại dừng hết cả lại thế này? Từng bước nhích lên chậm chạp. Tới nơi thì mới thấy một cái lạch khá sâu, hai bờ bị sụt lở. Anh Bính đang rọi đèn cho từng người một bò xuống, rồi dò dẫm lội qua lạch. Tôi thận trọng bám lấy mấy cái rễ cây chìa ra từ bờ, tụt dần xuống nước. Ô, sao sâu quá, càng đi càng sâu. Tôi loạng choạng lùi lại, kêu anh Bính rọi đèn. Thì ra qua lạch có một gờ đất ngầm, bước chệch khỏi gờ đất sẽ bị thụt sâu. Đi 1 đoạn nữa trong rừng thưa, chúng tôi dừng lại nghỉ để dồn đội hình. Trời bắt đầu mưa, tất cả giở ni-lông loạt xoạt. Lại đi tiếp, gần như chạy. Tối quá, đường lại trơn nữa, nhiều chỗ ngoặt gấp, không cẩn thận rất dễ lạc.
Hình như lạc thật, mỗi C một nẻo rồi, thôi đành mai tìm vậy. Có lệnh nghỉ, chúng tôi tản vào hai bên đường tìm chỗ mắc võng. Cây nhỏ bằng ngón chân cái, mọc san sát, ướt đẫm, chạm vào đâu nước mưa rơi ào ào ở đó. Chọn được cây, tôi đặt ba-lô xuống nền lá mục ẩm ướt lấp lánh ánh lân tinh, căng tăng mắc võng. Không làm cọc phụ nên sáng hôm sau hai đầu võng ướt sũng. Chúng tôi gấp rút cuốn tăng võng đi tiếp. Con đường mòn hai bên thỉnh thoảng có vài bụi lau. Một con suối to chắn ngang, nước chảy cuồn cuộn. Từ bờ này sang bờ kia chăng một sợi cáp, tất cả bám vào lóp ngóp lội qua. Nước suối trong, chảy xiết, đáy toàn cuội sỏi. Chúng tôi vục nước uống, rửa mặt. Sang bên kia lại leo dốc ngay, đi men theo một sườn đồi dựng đứng, rất trơn. Mấy cậu đi trước mất hút, may có vài người ở bếp gần đó chỉ cho bọn tôi đuổi theo. Một cái cầu qua khe sâu, làm bằng thân mấy cây gỗ tròn, đi trên cũng kinh. Đi mãi, nhìn trước nhìn sau chẳng thấy ai, tôi phân vân dừng lại đợi. Thấy anh Nghĩa B phó B1 đi tới, tôi bám theo luôn. Hết men theo sườn dốc đứng rừng già, lại xuống khe đá có dòng nước nhỏ chảy. Hình như C52 đóng ở đây, thấy lính lăng xăng chạy quanh mấy cái bếp mới dựng tạm. Leo qua bờ khe cao như quả đồi bên trái, rồi đi qua
https://thuviensach.vn
mấy cái hầm thùng (hố to như căn nhà, mắc võng nằm dưới đó được) bỏ không, chúng tôi tới nơi.
Tất cả nhốn nháo tìm chỗ mắc võng. Anh Hồng tới, phân bổ khu vực từng B, thế là lại phải di chuyển. Bây giờ mới tính đến chuyện nấu ăn, tôi chạy đi giục Duy Minh. Theo lời chỉ dẫn của anh Đạm B phó, chúng tôi chạy đến một ngôi nhà tranh gần đó. Ngôi nhà thấp, chật, tối, bên trong rất đông người. Giữa nhà là mấy cái bếp đang đỏ lửa, vài cậu A6 ngồi quanh nấu cơm. Đành đợi cho họ nấu xong đã. Ngoài hiên có mấy thùng lương khô đựng nước và hứng nước mưa từ giọt gianh rơi xuống. Không khí ẩm lạnh, buồn tẻ. Đây là nhà của dân công hỏa tuyến, trên sạp nứa bên phải, mấy người đàn ông đang ngủ lăn lóc. Một bác già khoảng 50 tuổi đang ngồi hút thuốc lào cùng hai người nữa. Thấy chúng tôi đến, họ chẳng nói gì, nhưng xem ý họ không đồng ý cho chúng tôi nấu nhờ, gay thật. Bác già nói nhà chật, mấy anh em đi làm suốt đêm giờ đang nghỉ, có người đang sốt rét, đừng vào đông. Chúng tôi đành nói khó với bác xin nấu nhờ. Bác nói phải tự túc củi nước, chúng tôi đồng ý. Bọn A6 bở thật, chúng nấu trước nên cứ sẵn củi khô trong nhà đem đun. Tôi quay ra bảo anh em kiếm củi và đi lấy nước. Trời mưa thế này kiếm đâu ra củi khô bây giờ? Lội xuống con lạch gần đó xem có củi trôi không, cuối cùng cũng chỉ vớ được vài cành nhỏ. Tôi trở vào bếp thì thấy Quang và Duy Minh đã nhóm được lửa, sau khi đốt hết cả mớ dẻ dầu lau súng. Tôi liếc xem mấy ông dân công đánh cờ. Mưa vẫn rơi lác đác, người ướt át, vừa lạnh vừa buồn. Nhìn những ngôi nhà lá khác trên sườn đồi cây, tôi càng thấy phục những con người đã sống bao năm qua giữa cảnh rừng sâu nước độc, heo hút buồn tẻ này.
Cuối cùng cũng nấu xong hai nồi cơm. Chúng tôi khiêng lên chỗ nằm của Đệ, cuốn võng hắn lại và tất cả chui vào dưới mái tăng ngồi. Thế mà khi khiêng, hai cậu lúng túng thế nào để rơi nồi cơm to, đổ mất một ít. Suốt đời không thể nào quên được bữa cơm giữa rừng già ấy. Mưa rào rào, mưa như trút nước. Mái tăng thì hẹp, bên dưới đặt hai nồi cơm và 8 đứa chúng tôi xúm xít chung quanh. Tăng lụp xụp không che đủ kín người, nên đứa
https://thuviensach.vn
nào cũng bị ướt 1 phần. Chúng tôi ngồi ăn, nước mưa ròng ròng trên vai, trên cổ. Mặc, vẫn xúc cơm chén lu bù. Lúc đó tôi đã nghĩ nếu sau này còn sống thì phải tả lại bữa cơm hôm nay mới được. Ăn xong, mỗi đứa xúc thêm một ca để dành.
Tôi đã kiếm được một chỗ mắc võng khá tốt, thì Quý A trưởng A5 đến nói đây là khu vực của A5. Lúc này anh Bính đang chia khu vực cho các A, Quý hét to với anh: A5 ở đây phải không? Anh Bính chưa biết thế nào cứ gật bừa. Tôi không muốn cãi cọ bèn dọn đi, nhưng trong bụng rất tức, nhất là tức Quý, và ghét cả ông Bính nữa. Lâm Thành mắc cạnh đó dứt khoát không đi. Tăng Lâm Thành mắc lụp xụp không tưởng được, nhăn nhúm, võng thì gần trệt mặt đất, tăng thì như đắp lên võng, thế mà hắn ngủ được. Tôi đã giục hắn buộc lại, nhưng hắn lười, không nghe.
Tôi tìm được hai cây để mắc võng khá đẹp, nhưng xung quanh là bụi rậm, bèn rút dao găm chặt lia lịa. Phần lớn là bụi cây lá nón, giống như những tàu cọ cắm xuống đất, nên việc phát quang cũng nhanh. Làm cả cọc phụ đàng hoàng, nhưng khi nằm thử thì dây bị đứt, phải buộc lại. Cuối cùng cũng được chỗ nằm thoáng đãng, thoải mái. Gần võng tôi là võng Châm “thối tai” và Hùng “Di-gan” của A5. Hai chân lấm bùn nên trước khi lên võng bọn tôi phải lấy khăn mặt ra lau, buồn cười thật.
Ở triền đồi bên kia con khe là B1. Có tiếng í óe về gạo củi, tiếng Huy Ninh A trưởng A3 đang phân công gì đó. Đi theo con khe vào sâu hơn 1 tý hình như là C50.
Trời vẫn mưa. Có chỗ mái tăng trũng, nước đọng nhiều, từ từ đè mái tăng nghiêng đi, trút ào 1 cái xuống đất. Tôi nằm trong võng, nhìn cảnh ấy lặp đi lặp lại nhiều lần. Mỗi khi ngớt mưa, lại phải điều chỉnh mái tăng: để doãng quá thì hay bị tạt bụi nước vào mặt, nhưng thoáng đãng; để cụp quá thì không bị hắt nhưng bí hơi. Nhìn nước giọt xuống quanh mái tăng, sao mà nhớ nhà thế.
https://thuviensach.vn
Hôm sau trời nắng. Có lệnh sang tập trung bên quả đồi B1 nghe nói chuyện. Một cán bộ chính trị của mặt trận B5 đăng đàn. Anh cán bộ này người Quảng Trị, trạc ngoài 40, thấp béo, sau hông đeo khẩu K54, và một túi mìn Claymore đựng tài liệu. Anh ta nói hào hứng, sôi nổi, khích lệ tinh thần chiến đấu của chúng tôi. Nghe xong ai nấy đều thấy hừng hực, muốn lao ngay vào mặt trận.
Vừa về đến khu vực của trung đội thì được lệnh chuyển chỗ ở. Chán gớm, thế là phải bỏ chỗ nằm tôi đã tốn nhiều công sức mới có. Chúng tôi cuốn đồ đạc, đi ngược lại đường hôm nọ theo con khe khoảng 200m rồi leo lên một sườn đồi hạ trại.
Võng của tôi, Duy Minh, Lâm Thành mắc liền nhau thành một vệt ven khe nước. Bên dưới gần khe hơn là đường đi, bếp và võng của anh Đạm B phó. Mưa liên tục, chúng tôi phải tốn nhiều sức để làm một cái bếp kiên cố, tất cả ni-lông bếp của các tiểu đội đều được huy động.
Sáng hôm sau chúng tôi xuống khe đánh răng rửa mặt, nước chảy khá xiết. Sau đó tôi và mấy cậu nữa theo anh Đạm đi lấy gạo. Chí Thành đi bên tôi phàn nàn về tệ phân công không hợp lý của A5. Đi ven khe, vượt một cái cầu nhỏ, lên dốc, chúng tôi chợt thấy những chiếc lán của một bệnh viện dã chiến. Các thương bệnh binh đang ngồi ăn quanh những chiếc bàn ghép bằng cây sậy ở ngoài sân. Họ ăn khá sang, có cá khô và bột trứng. Lại xuống dốc, lội khe một quãng dài. Đi qua một túp nhà gianh, tôi tò mò nhìn những cuộn dây điện to nhỏ, đủ loại đồng nhôm, dây cáp, dây trần. Hình như đây là trạm bảo dưỡng đường dây. Những hàng cột điện thẳng tắp chạy ven đồi, ven suối, từ đồi này sang đồi khác, hoặc ở lưng chừng núi, với những ống sứ trắng như những bông hoa, khiến ta phải khâm phục công sức của những chiến sĩ đường dây. Chúng tôi sắp ra khỏi rừng thì máy bay Mỹ đến quần đảo trên đầu ầm ĩ. Đành phải ngồi chờ vậy, bây giờ mà đi ra nơi trống trải thì nguy hiểm lắm. Tôi và Chí Thành ngồi dưới một gốc cây, vừa ăn cơm nắm vừa nói chuyện. Chỗ này rừng toàn cây to, chúng tôi có
https://thuviensach.vn
thể nhìn thấy những chiếc F4 lao sạt ngon cây, phun khói đen kịt và gào tưởng rách màng nhĩ.
Ra khỏi rừng tôi nhập bọn với Mai Quý Cường, Nhuận “nhà báo”, Sinh A3... Chúng tôi đi giữa vùng cỏ gianh, thỉnh thoảng có những bụi de hay bụi tre cao vóng lên, lá phơ phất. Con đường đất đỏ quạch, hai bên có những gốc cây đen sì, thấy gọi là con đường tăng, chắc để xe tăng đi.
Cả vùng này thuộc khu vực Bãi Hà lừng danh mà tất cả chiến sĩ mặt trận B5 đều biết. Bắt đầu rẽ vào rừng có kho quân nhu. Gạo vãi dọc dường nhiều vô kể, chỗ thì mốc xanh, chỗ thì đã thành những hạt đen sì. Trên một bãi mua mọc cao vượt đầu, có một vạt cháy đen: mấy chiếc xe trúng đạn rúm ró, nằm chổng vó. Đi dọc đường ô-tô quang cảnh làm tôi suy nghĩ nhiều. Những viên thuốc đạn pháo vung vãi khắp nơi, ủng nước. Rất nhiều hòm đạn pháo vứt tung tóe hai bên đường, hòm rỗng nằm lẫn với hòm còn nguyên. Vỏ đạn đồng lăn lóc khắp nơi, đủ các cỡ: 85ly, 122ly, 130ly... Những cái vỏ đạn 130ly to tướng, bằng đồng vàng chóe, có in chữ Liên Xô, Trung Quốc ở ngoài, mỗi cái phải nặng tới 7-8kg. Loại này đem đúc mâm hay chậu thì tốt phải biết. Thế mà giờ nằm bừa bộn trong cỏ, có cái đã rỉ xanh. Thậm chí còn có cả quả đạn nguyên vẹn nằm lộn trong đó. Tôi đau lòng vì biết rằng mỗi quả đạn đó trị giá hơn một năm tiền lương của bố tôi. Người ta rất có lý khi nói rằng, dù trong lao động hòa bình có lãng phí mấy đi nữa, thì cũng không thể so sánh nổi với những tổn phí trong chiến tranh. Nhân dân ta còn nghèo khổ lắm. Tôi ao ước nếu những quả đạn kia biến thành tiền phúc lợi cho dân tộc thì hay biết mấy. Đi lạc ra đường 15, lại phải lộn vào, ngồi nghỉ ở một bãi gỗ, những cây gỗ to đùng. Cạnh đó là một bãi xếp những ống thép tròn mầu xám trắng, thấy nói là ống dẫn dầu. Cuối cùng thì chúng tôi cũng tìm được đến kho gạo. Rừng cây ẩm ướt, những thân cây mọc đầy tầm gửi, đẫm nước, đen xì. Sắp đến kho gạo có khác, gạo rắc đầy đường, mốc xanh mốc vàng. Càng gần kho càng nhiều gạo vãi, thậm chí nhiều chỗ gạo còn trắng tinh, mới nguyên. Những đôi dép lính đầy bùn đất dẫm lên gạo mà đi. Nhìn thật đau xót, nhưng không biết biểu lộ thế
https://thuviensach.vn
nào: xung quanh tôi mọi người đều mệt nhoài, nhễ nhại mồ hôi và bận túi bụi. Anh Đạm hét tôi inh ỏi để cùng chia nhau chỗ gạo cuối cùng. Tôi rời khỏi kho gạo với tâm trí nặng nề.
Trên đường về qua bệnh viện, tôi chợt thấy trong lán có một khuôn mặt quen quen. Tôi kêu lên: “Cao Thành!”, anh ta quay lại nhìn. Tôi bèn vẫy Chí Thành cùng chui hàng rào vào thăm anh ta. Cao Thành là học sinh trường tôi, học trên tôi một lớp, lớp của thày Thung dạy thể dục chủ nhiệm. Còn nhớ hồi chúng tôi mới vào lớp 8, anh ta được thầy Thung cử đến điều khiển lớp tôi tập thể dục. Anh ta chơi thể thao rất khá, một lần họp trong Hội trường tròn Bách khoa, anh ta giã giò trên xà kép 32 cái liền làm bọn tôi lác hết cả mắt. Hồi đó nhìn anh ta rất đẹp trai, khỏe mạnh và là học trò cưng của thầy Thung. Cái lán trong bệnh viện trống hoác, sạp nằm được ken bằng thân cây sậy. Cao Thành ngỡ ngàng nhìn tôi nói: “Trông cậu quen lắm mà tớ không nhớ ra”. Giới thiệu là học cùng trường xong, chúng tôi ngồi nói chuyện lúc lâu. Cao Thành bị thương vào mông, vẫn béo tốt dù có hơi chậm chạp. Lớp Cao Thành có 3 cậu cùng đi, đến nay Cao Thành bị thương đi Viện, 1 cậu vẫn ở đơn vị. Còn cậu thứ 3 trong 1 trận đánh phối thuộc với xe tăng ban đêm, bị trúng thương rơi từ xe trước xuống, và chiếc tăng đi sau nghiến lên luôn. Đang nghe chuyện, chợt một cậu lính bước vào làm tôi ngẩn cả người. Má hồng môi đỏ, da trắng, mắt sáng long lanh, anh em sinh đôi với T.H chăng? Tôi phải lắc đầu xua đuổi, định thần nhìn lại. Trông cậu ta dáng lử khử, thì ra đó chỉ là vẻ đẹp bệnh hoạn của một con người đang lên cơn sốt. Cậu ta là trai Hà Nội, nhà ở Hàng Than hay Hàng Gai gì đó, và chả có họ hàng gì với T.H của tôi cả. Tôi săm soi nhìn những chiếc ba-lô ngụy, trông rất lạ mắt, với những đai, những khóa lỉnh kỉnh, và chỉ có hai túi cóc.
Hôm sau tôi và Chí Thành lại tới chỗ Cao Thành để nghe chuyện và hỏi thêm những kinh nghiệm trong chiến trận. Cao Thành cho biết sắp chuyển viện ra ngoài Bắc, mà trong túi chẳng có xu nào. Tôi bèn cho cậu ta 5 đồng và nhờ chuyển hộ mấy phong thư. Kể nhiều chuyện, nhưng rốt cuộc
https://thuviensach.vn
Cao Thành dặn tôi chủ yếu là phải khôn ngoan, trong chiến đấu không chỉ nhìn về phía trước mà còn phải nhìn ngang xem đồng đội như thế nào nữa, phải tùy tình thế để “ứng phó” thì mới mong giữ “gáo” (đầu) được...
Một số cậu lính mới vào đóng gần đó đang ồn ào xem mấy cái màn tuyn của ngụy. Mấy cái màn tuyn này màu xanh đen, mắt tuyn nhỏ, đình bằng vải và thấp tịt. Sở dĩ thấp thế vì phần dưới bằng vải đã bị cắt đi. Đùa chán, mấy cậu đó lại xúm vào ăn nốt thức ăn thừa của các thương bệnh binh bỏ lại trên bàn. Cao Thành nhìn chúng lắc đầu, tôi cũng cảm thấy ngượng lây. Đúng là dạo này chúng tôi sinh hoạt rất kham khổ, ăn uống chẳng có gì. Nhiều cậu lính đã phải đổi thắt lưng đỏ, quần áo mới, võng... lấy mấy cân lương khô. Thương bệnh binh được ra Bắc rất thích những thứ đó, và họ cũng có nhiều lương khô để đổi.
Hôm sau khi chúng tôi lại đến, thì Cao Thành đã chuyển đi rồi. Tôi nhớ cậu ta có nói là ra đến Thanh Hóa sẽ tìm cách trốn về thăm nhà mấy ngày.
Ở Bãi Hà chúng tôi ăn cơm theo Trung đội. Mỗi buổi sáng các A góp gạo, cử người xuống cùng anh Đạm nấu ăn. Tôi cắt việc xuống bếp một cách lần lượt, hai người một ngày. Còn gạo, lúc đầu cũng cắt lần lượt, hôm nay lấy gạo cậu này nấu, mai cậu khác. Về sau để tránh tình trạng người phải mang nặng, người mang nhẹ, tôi quyết định mỗi bữa cậu nào cũng phải bỏ ra một ca gạo. Thức ăn chả có gì, ở đây họ chỉ phát cho mấy hộp ruốc tôm, vừa mặn vừa xáp. Mỗi bữa chỉ có một xoong canh to, nấu bằng ruốc tôm với lá bứa chua chua. Thêm vào đó là món ruốc đi B của từng người. Thế mà chúng tôi ăn khỏe kinh khủng, mỗi đứa 4-5 ca cơm là chuyện bình thường. Ăn xong còn lèn thêm một ca để dành, lúc đói lại dở ra ăn.
Mấy hôm nay tôi không được khỏe vì bị đi ỉa lỏng. Hình như đang có dịch, vì nhiều người cũng bị như vậy. Cảm thấy mệt mỏi, thở không ra hơi.
https://thuviensach.vn
Đành phải giở hộp thuốc cá nhân ra, chọn lọ thuốc đi ỉa uống dần, sau vài ngày thì khỏi.
Anh Bính kêu gọi mọi người đi kiếm củi. Những ngày mưa thế này, củi khô rất khó kiếm. Chúng tôi có kinh nghiệm là đi tìm các bếp Hoàng Cầm cũ, phá ra thì tha hồ.
Một số cậu xuống làm giếng, bằng cách lấy đá xếp cao lên quanh 1 hố nước cạnh khe. Trời mưa nước khe to thì không sao, nhưng bình thường nước khe cạn và bẩn vì nhiều người dùng vô ý thức, thậm chí phóng uế cả xuống khe, nên việc đào giếng là cần thiết.
Mưa liên tục, sao mà buồn thế. Chợt nghe Duy Minh nằm gần đó hát bài “Bạn ơi tôi tin tưởng”. Bài hát Nga lời Việt về nghề phi công nghe cũng hay hay. Ở nhà tôi cũng có đĩa hát này, nhưng lời Nga nên không hiểu gì. Tôi bèn đề nghị Duy Minh dạy hát. Cứ thế Duy Minh đọc câu nào tôi nhắc lại câu ấy cho đến khi thuộc thì thôi. Lâm Thành nằm gần đấy cũng phụ họa theo cho đỡ buồn.
Võng tôi không có cọc phụ nên nước mưa chảy dọc thân cây truyền theo dây võng làm ướt sũng hai đầu. Anh Mùi chính trị viên Tiểu đoàn đi qua thấy vậy dừng lại hỏi: “Tại sao cậu không mắc cọc phụ? Nằm thế này ướt hết không bảo đảm sức khỏe”. Anh ra lệnh cho tôi và Duy Minh phải làm lại chỗ nằm thật tử tế, đi họp về anh sẽ kiểm tra. Báo hại hai thằng phải đi tìm cọc và buộc dây mất cả buổi.
Sau bữa cơm, thấy đám lính xúm xít quanh mấy người đang kể chuyện, tôi lại gần nghe. Mấy người này mặt mũi hốc hác, mặc quần áo lính cộc tay nhem nhuốc, kể về chiến trận và cối cá nhân M79 với một vẻ khiếp đảm. Ai đó rỉ vào tai tôi: “Mấy thằng đảo ngũ đấy”.
Chợt có lệnh thu hết súng và bao xe, chỉ để lại mấy khẩu của các A trưởng. Mấy cậu ngại mang nặng cười hí hửng: “Tớ biết mà, vào chiến đấu
https://thuviensach.vn
phải phát súng khác chứ”! Quả thật vừa rồi trên đường hành quân nhiều cậu quăng quật súng ghê quá, sợ có khẩu bị cong nòng.
Tiểu đoàn 60 đã mang súng đi nộp từ chiều, giờ đến lượt tiểu đoàn tôi. Tất cả phải đi trả súng, mỗi A chỉ để lại một người trông đồ đạc. Anh Đạm gọi tôi xuống, bảo tôi nằm vào cái võng ni-lông của anh mà nghỉ, và trông nồi xoong bếp núc luôn.
Buổi tối nào cũng vậy, khi tất cả nằm vào võng là tiếng chửi nhau vang lên í ới. Thật là một cách giải trí kỳ quặc. Chửi nhau không phải vì xích mích nhau, mà chỉ để cho đỡ buồn. Chửi lẫn nhau chán, lại réo tên B trưởng các B khác để chửi. Chẳng hạn lính B1 đồng thanh hô: “Bính “tẩm“!” (Bính là B trưởng B2), thì lính B2 đồng thanh hô lại: “Trọng “say rượu“!” (Trọng là B trưởng B1). Cán bộ đã nhắc nhở mãi nhưng chẳng ăn thua gì.
Hôm sau anh Bính lệnh cho những người nằm gần khe suối phải di chuyển lên chỗ cao hơn. Anh giải thích là máy bay địch hay đánh dọc khe suối. Như vậy là tôi, Duy Minh và Lâm Thành phải chuyển đi. Chúng tôi rất bực, Lâm Thành chửi đổng ầm ĩ. Tôi và Duy Minh cuốn đồ lề leo tít lên cao, nơi chưa có ai ở cả. Sau một buổi phát quang cật lực, rồi cũng được một chỗ nằm tươm tất, hai đứa mắc võng châu đầu vào nhau. Sau đó tôi đi kiếm củi, nhân dịp nhòm ngó tìm hiểu khu vực xung quanh luôn. Khắp nơi cứt đái vung vãi, toàn cây lá nón, không một bóng người. Tôi nảy ra ý định thử súng, để xem khẩu súng của tôi qua một hành trình như vậy có bị kém chính xác đi không? Thế là nhằm đỉnh đồi bươn tới, luồn qua các bụi cây rậm rạp và nhiều dây leo chằng chịt. Có lúc cũng hơi sợ, nhỡ quơ phải một con rắn hay đạp phải một con trăn thì sao? Đi hồi lâu tới một khe đá cạn, đoán từ đây tiếng súng khó lọt tới nơi đóng quân, tôi bèn dừng lại, rồi chọn một cái cây bằng bắp chân làm đích. “Đoành đoành!”, cây súng nẩy lên trên tay. Tôi chạy tới xem, hai viên đạn đều trúng cây, nhưng lỗ trên cách lỗ dưới tới 50cm. Phấn khởi, tôi bắn tiếp “Đoành đoành”. Mùi thuốc súng tỏa
https://thuviensach.vn
ra khét lẹt, tôi xách súng băng về. Đang tháo súng ra lau, chợt giật mình thấy anh Bính đến. Anh nhìn tôi với cặp mắt dò xét: “Cậu vừa bắn hả?”. Tôi định chối thì anh đã cầm cái kim hỏa lên ngửi làm tôi cứng họng. “...Vâng... Em xin lỗi”. Anh nói: “Cậu thử nghĩ xem, tôi tin tưởng cậu là A trưởng... Thế mà cậu lại làm như vậy...”. Tôi bối rối vô cùng. Vốn không ưa anh Bính, nhưng lần này mình trái lè lè, đành phải xin lỗi anh mãi. Một lúc sau anh bỏ đi.
Hầu như suốt ngày tôi và Duy Minh nằm trên võng trong lãnh thổ riêng của hai thằng. Cả hai đứa đều là học sinh nên rất thông cảm và tâm đầu ý hợp. Trong những ngày lê thê đó, tôi và Duy Minh đã tâm sự cho nhau nghe tất cả những nỗi niềm riêng tư thầm kín, những suy nghĩ ước mơ. Khó mà quên được cảnh hai thằng trên hai cánh võng trong rừng già, bên những bụi lá nón xào xạc, thì thầm kể lại cho nhau nghe về quãng đời học sinh của mình và những ngày nghỉ phép vừa qua.
Hai nhân vật nữ mà Duy Minh nhắc tới nhiều nhất là Hòa và Dư Loan. Hòa đẹp, thông minh, học cùng lớp. Dư Loan là bạn cũ, không đẹp lắm nhưng ngoan, có bố là Đại tá xe tăng. Qua câu chuyện, tôi thấy Duy Minh yêu Hòa hơn, và vẫn còn cay đắng về mấy ngày phép vừa rồi. Khi biết Minh là lính bộ binh, Hòa nói: “Tôi tưởng bạn đi xe tăng, tên lửa, chứ ai ngờ bạn trở thành một anh lính “bò binh ”. Tuy không nói ra, nhưng tôi không tán thành Hòa lắm. Minh còn say sưa kể cho tôi nghe những chuyện trong trường lớp, những tối tập văn nghệ ở ngã năm Trần Hưng Đạo-Lê Thánh Tông, những ngày đi học múa...
Tôi cũng kể hết cho Minh nghe những kỷ niệm trong đời học sinh của mình, nhất là về mối tình thầm lặng với T.H. Hai đứa cùng mơ ước sắp tới vào đánh một vài trận rồi được quay ra đi học lại, biết đâu Tết này còn được ăn Tết ở nhà cũng nên, vì năm 1972 là năm bản lề mà. Gia đình mà thấy con về chắc sẽ mừng lắm. Có lần tôi nói đùa với Minh: “Làm trai thời
https://thuviensach.vn
đại này mà không biết bắn AK, thụt B40, ném lựu đạn, thì không phải là thân trai!”...
Đang mơ màng, tôi không để ý tới những tiếng loạt soạt khả nghi. Chợt thấy Minh nói khẽ, gần như rít lên: “Vinh! Khỉ...!”. Tôi chưa kịp hiểu Minh nói gì, thì cậu ta chỉ lên ngọn cây. Theo hướng đó, tôi nhìn thấy cả một đàn khỉ cộc đuôi, con thì lông vàng, con thì hung hoặc xám... Nhưng bọn chúng tinh lắm, vừa thấy chúng tôi là bọn chúng chuyền cành biến mất hút...
Chợt có tiếng Chí Thành gọi đi ăn cơm. Chúng tôi xuống dốc, đi ngang qua võng cậu ta. Những hôm trời mưa, trông Chí Thành loay hoay trong cái ổ của mình rất buồn cười. Võng mắc ngang dốc nên một bên gần như sệt xuống đất, bùn bắn lên bê bết, phải rải lá nón làm thảm chống bẩn. Xung quanh tăng của Thành lủng củng những dây chằng cọc chống, lại đặt mấy cái thùng sắt tây để hứng nước. Đại khái Thành tìm mọi cách tạo đủ tiện nghi cho chỗ ở. Tôi và Thành ăn xong thường cất thêm một ca cơm để dành, lúc đói lại đem ra ăn. Những lúc chuyện gẫu, hai đứa thường giở ảnh ra xem. Thành có cái ảnh chụp cả lớp 10B quý thật, tôi định xin mà không được.
Buổi tối có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị sáng mai lên đường.
https://thuviensach.vn
QUẢNG TRỊ 1972
Nguyễn Quang Vinh
www.dtv-ebook.com
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Chiến Trường B5
Một ngày thượng tuần tháng 9-1972 chúng tôi rời Bãi Hà. Đoàn quân xuất phát từ sáng sớm, lúc còn chưa rõ mặt người. Xuyên qua nhiều cánh rừng rậm, rừng thưa, tầm trưa chúng tôi tới một con suối cạn khá rộng. Lòng suối đầy sỏi và những hòn đá cuội tròn nhỏ, có vài lạch nước chảy song song, nơi sâu nhất lội chỉ đến đầu gối. Ai đó nói: “Sông Bến Hải!”. Tôi ngạc nhiên ngắm nhìn, không ngờ con sông lừng danh chia cắt đất nước 20 năm trời lại nhỏ bé thế này. Ở thượng nguồn nó không khác gì một con suối, lội hai phút là qua. Nước trong vắt, mát lạnh, lính ta tranh thủ dìm bi-đông lấy nước uống và vục nước rửa mặt. Sang bờ bên kia chúng tôi lẩn nhanh vào cánh rừng thưa mọc đầy cây mua cao ngang đầu người, xen lẫn những bụi lau lách. Những bước chân đầu tiên trên đất Miền Nam làm tôi bồi hồi khôn tả. Dường như trời đất cỏ cây vẫn vậy, mà không phải vậy. Đây là chiến trường, cái đích mà chúng tôi nhắm đến và bây giờ đã đến. Ở đây có thể chạm địch và đổ máu bất cứ lúc nào. Ở Bãi Hà người ta đã cảnh báo chúng tôi về hoạt động của bọn Thám báo, tránh đi chệch đường mòn vì dễ dẫm phải mìn hoặc bom bươm bướm.
-------------
* B5 là mật danh chiến trường Bắc Quảng Trị. Năm 1961, các địa bàn quân sự được quy định: A-Miền Bắc, B-Miền Nam, C-Lào, K-Campuchia. B1 từ vĩ tuyến 17 dến Khánh Hòa, B2 từ Ninh Thuận đến Cà Mau. Sau, do chiến tranh phát triển, chia thành các mặt trận nhỏ hơn: B3 là Tây Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai, Công Tum); B4 là Trị Thiên - Huế; B5 là Bắc Quảng Trị, Đường 9 được thành lập tháng 6-1964. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Nam
https://thuviensach.vn
Long. Tư lệnh chiến dịch Quảng Trị năm 1972 là Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (đến 6-72), sau là Thiếu tướng Trần Quý Hai (BT).
4 giờ chiều, chúng tôi rời cánh rừng thưa, đi xuống một trảng cỏ tranh rộng bát ngát. Mỗi người phải chặt một cành lá che trên đầu để ngụy trang, tránh cặp mắt cú vọ của chiếc máy bay trinh sát OV-10 đang ò ò ở phía xa. Có thể nói suốt thời gian ở chiến trường, tôi đã quen với hình dáng như chiếc bừa và tiếng ò ò lúc xa lúc gần của nó, đến nỗi những hôm thời tiết xấu, OV-10 không bay, cảm thấy như thiếu một cái gì. Có lúc nó rống lên, bổ nhào bắn một trái đạn khói vào đâu đó, chỉ điểm cho máy bay đến ném bom. Trong không gian nghe như có tiếng vọng ì ầm của chiến trường. Trời bắt đầu sẩm tối. Chợt ở phía xa lóe lên ánh chớp, rồi một quả cầu mầu xanh lá cây bùng lên, bắn ra hàng vạn tia sáng mầu lá mạ. “Bom lân tinh đấy”, anh Bính nói. Lại một quả bom lân tinh nữa nổ, sáng rực cả góc trời. Tối mịt thì chúng tôi tới bãi khách, nằm trong một khe cạn, cây cối mọc um tùm. Chúng tôi sẽ đóng quân ở đây, chờ đơn vị mới tới tiếp nhận.
Hôm sau tôi đi vòng quanh bãi khách xem xét địa thế. Thấy nhiều hầm chữ A bỏ không, trong vài hầm có một số vật dụng bỏ lại, đặc biệt cả một hòm lựu đạn. Tôi bèn lấy 2 quả đem về chờ có dịp sẽ dùng.
Tối tối lại diễn ra cảnh tiêu khiển kỳ quái như ở Bãi Hà, đó là lính ta nằm trên võng chửi nhau cho đỡ buồn. Lính B1 đồng thanh réo tên B trưởng B2 ra chửi, lính B2 cũng đồng thanh chửi lại B trưởng B1. Long “cồ” to mồm nhất, tự xưng là “Đài phát thanh A6”, giọng sang sảng liến thoắng bịa đủ thứ chuyện chửi bới lung tung. Một số cậu bị chạm nọc chửi lại, làm Long “cồ” nóng tiết thét lên: “Đ.mẹ thằng nào chửi Đài!”.
Vài cậu khác thì hát nhạc vàng ông ổng suốt ngày. Cậu Phát A5 nằm gần tôi chuyên môn hát bài: “Tôi với nàng, hai đứa nguyện yêu nhau/ Tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu...” và bài: “Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ. Nhiều nét đổi thay tường mái rêu mờ...Thầy đó trường đây bạn hữu đâu rồi?”. Nghe riết rồi tôi cũng đâm thuộc.
https://thuviensach.vn
Có hiện tượng là các cán bộ thi nhau lăn ra ốm. Hôm hành quân đi khỏi Bãi Hà tôi đã thấy Tiểu đoàn trưởng Khanh có vẻ mệt mỏi, đi đứng chậm chạp, thỉnh thoảng ho. Mấy cậu liên lạc rỉ tai nhau: “Thủ trưởng ốm”. Ở đây thì toàn bộ ban chỉ huy đại đội đều ốm, nhưng nhìn anh Y và anh Hồng cố làm điệu bộ rất mệt, tôi đâm nghi ngờ. Bây giờ thì thậm chí anh Bính B trưởng, to khỏe như voi, cũng đổ bệnh, cả ngày nằm trên võng, không quan tâm gì đến Trung đội, thỉnh thoảng ho khúng khoắng, làm tôi thật sự suy nghĩ. Hình như vào đến chiến trường là tất cả các cán bộ huấn luyện đều bị bệnh cũ hoặc vết thương cũ tái phát, họ chỉ chờ bàn giao xong lính cho đơn vị mới là quay trở ra Bắc “điều trị” ngay.
Một sự thật buồn khác là lính Hà Nội ở đây không có “giá”, không được các đơn vị mới săn đón lắm. Chỉ huy các đơn vị đang chiến đấu ở đây không mặn mà với việc nhận lính bổ sung từ Hà Nội. Họ cho rằng lính Hà Nội hay Hải Phòng sướng quen, không chịu được gian khổ, thuộc loại mồm miệng đỡ chân tay, trói gà không nổi. Họ đặc biệt thích lấy lính vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh, vì cho rằng lính vùng này chịu khổ quen, chiến đấu gan dạ, dù có phần bướng bỉnh. Nếu không thì lính từ các vùng nông thôn khác cũng được. Vì vậy các đoàn lính Thái Bình, Hà Tĩnh... vào chiến trường cùng đợt với chúng tôi đã được nhận hết, mà chúng tôi vẫn nằm dài chờ đợi. Và như vậy chúng tôi bị lâm vào hoàn cảnh “chân không đến đất cật không đến trời”: Một mặt chúng tôi đã tách khỏi đường dây binh trạm, không nhận được tiếp tế từ các binh trạm nữa; Mặt khác lại chưa được đơn vị mới tiếp nhận, nên cũng chưa có tiếp tế từ đơn vị mới. Hậu quả là chúng tôi đói, đói dài mỏ, đói quay quắt giữa rừng.
Đã gần tuần nay chưa có hột cơm nào vào bụng. Còn nhúm gạo ít ỏi chúng tôi phải dè sẻn nấu cháo ăn dần. Tôi và Chí Thành hay ra ven suối hái rau vòi voi về độn thêm vào cháo. Nhìn những dây leo giống lá khoai lang bò trên các bụi cây nhưng không dám hái, vì nghe nói rất độc. Nhiều cậu hết sạch gạo, phải ra đứng ven rừng, ngửa tay xin từng nhúm gạo của những cán binh tình cờ đi qua. Tôi là người rất sợ đói, nên thường cất một
https://thuviensach.vn
phong lương khô “Tổng dự bị chiến lược” dưới đáy ba-lô, chỉ khi nào tự vấn lòng thấy không chịu đựng nổi nữa mới đem ra dùng. Nhưng khi lấy ra định ăn, thì nhìn thấy Lê Thanh Bình ngồi ở gốc cây gần đó còn đói hơn tôi, mặt mày xanh xám sắp xỉu. Tôi gọi Bình lại bẻ cho một nửa. Hai đứa ngồi cạnh nhau vừa nhai lương khô vừa khóc.
Một buổi chiều tôi rủ Ngô Duy Minh ra suối La La tắm và ném cá. Tôi lấy hai quả lựu đạn nhặt được hôm nọ, đưa cho Duy Minh một quả. Tắm xong, chúng tôi đi tìm chọn một đoạn suối sâu, nước lặng. Hai đứa thỏa thuận là sẽ cùng rút chốt và cùng ném cả hai quả lựu đạn xuống vũng suối này. Nhưng Duy Minh làm nhanh quá, tôi chưa kịp vặn nắp chuôi thì cậu ta đã giật chốt đánh “bép” một cái rồi ném tòm xuống suối. Tôi hoảng quá cũng quăng luôn quả lựu đạn chưa kịp giật chốt xuống theo. Hai đứa nằm rạp trên bờ suối chờ lựu đạn nổ. Nhưng chỉ có một tiếng “ục” vang lên, sóng nổi cuồn cuộn. Duy Minh vẫn nằm chờ tiếng nổ thứ hai, thì tôi đã bò dậy nói “chắc xịt rồi”, rồi đi xuống suối xem có con cá nào nổi lên không. Chợt một chiếc F4 lao xoẹt qua trên đầu, kéo theo tiếng động xé óc và trải ra một dải khói đuôi đen xám. Trong bóng chiều chạng vạng, thấy có vài viên đạn lửa bắn lên vuốt đuôi chiếc máy bay. Tôi và Duy Minh xem xét kỹ đoạn suối, nhưng không tìm được con cá nào.
Bần cùng sinh đạo tặc, chúng tôi tìm cách ăn trộm gạo của một đơn vị đóng gần đó. Trong một buổi lang thang sục sạo khắp nơi, mấy cậu A6 tình cờ thấy trong rừng le cách chỗ chúng tôi chừng 2-3 km có vài căn nhà lợp cỏ tranh, về sau mới biết đó là hậu cứ của Phẫu 88, Quân y Quảng Trị. Chúng tôi lặng lẽ bò tới gần từng nhà xem có người không, nếu không thì chui vào lục lọi tìm gạo. Khắp nơi không một bóng người, các căn nhà đều trống rỗng. Đang tuyệt vọng thì từ căn nhà cuối cùng có tiếng reo nhỏ. Có anh tìm thấy mấy bao gạo còn nguyên. Cả lũ thay nhau cõng gạo chạy như ma đuổi về chỗ đóng quân để chia nhau.
https://thuviensach.vn
Hôm sau nghe nói có một kho gạo ở chếch về phía Nam, tôi, Duy Minh và Chính “con” bèn lên đường tìm kiếm. Đi mấy tiếng đồng hồ mà chỉ thấy trảng cỏ mênh mông, loại cỏ rất lạ, không phải cỏ tranh, cao ngang thắt lưng, có bông như bông lúa lép. Thấy một đoàn thương binh đi ngược ra, người băng đầu, người băng ngực băng tay, quần áo nhem nhuốc còn dính máu khô. Mặt mũi ai cũng thiểu não, xanh xám. Một anh thở khò khè, dừng lại xin tôi miếng nước. Giọng đầy bất mãn, anh nói anh bị thương thấu phổi mà vẫn phải lê lết tự đi thế này. Xẩm tối thì ba đứa tôi tới bờ suối, gần đó có một túp lều lụp xụp. Trong lều chúng tôi tìm được hai bao gạo, mỗi bao khoảng 50kg, bên ngoài bọc bao tải có in chữ Tàu, bên trong bọc hai lần ni-lông nữa. Chúng tôi đổ mỗi đứa một ba-lô gạo đầy, còn lại đổ ra đất để lấy bao ni-lông đem đi. Lính ta rất thích những bao ni-lông này vì chúng dày dặn, làm bao bơi để vượt sông rất tốt.
Trên đường về trời tối như mực, chúng tôi bị lạc, lại mưa như trút nước. Ba đứa đành chui vào bao gạo, phủ thêm áo mưa lên người, nằm giữa đồng cỏ định ngủ qua đêm. Nhưng mưa vẫn rơi nặng hạt, lại bị ngộp thở trong bao ni-lông, chúng tôi đành bò dậy, đi tới gần sáng mới tìm được đơn vị.
Trong thời gian này rất nhiều người đảo ngũ. Cứ mỗi buổi sáng dậy lại thấy trống vài chỗ mắc võng. Họ âm thầm tích trữ gạo muối, bí mật rủ nhau từng nhóm nhỏ biến mất trong đêm. Tiểu đội tôi có 10 người, thì 5 người đảo ngũ là Thành “ma tịt”, Phái “con”, Đường “cóc”, Tỵ, Đệ, tỷ lệ 50% (1)!. Những tiểu đội, trung đội khác tình trạng cũng tương tự. Sau này có lần gặp lại họ ở Hà Nội, tôi làm lơ không chào hỏi. Tới tận bây giờ tôi vẫn không thể tha thứ cho những người phản bội như họ.
Rồi cuối cùng chúng tôi cũng được đơn vị mới tới tiếp nhận. Đó là Trung đoàn 48 mật danh “Quang Sơn”, sau đổi thành “Thạch Hãn”, thuộc Sư đoàn 320B, đang chiến đấu trong Thành cổ Quảng Trị (2).
---------------
https://thuviensach.vn
(1) Trong mọi cuộc chiến tranh, lính đảo ngũ là hiện tượng phổ biến. Chiến tranh chống Mỹ lâu dài, khó khăn, ác liệt, bộ đội ta dù rất có lý tưởng, rất anh dũng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" nhưng không tránh khỏi có nhiều người sợ chết, nản lòng. Lính Khu Bốn thường trụ lại. Lính Miền Bắc đảo ngũ nhiều hơn. Hồi đó có câu: "Nam (Nam Hà) chuồn, Hà (Hà Tây) lủi, Thái Bình bay/ Hải Hưng anh dũng trốn ban ngày/ Thanh Hóa mất mùa xin ở lại/ Quảng Bình thấy thế cũng giơ tay (BT)
(2) Trung đoàn 48 (Thăng Long) có từ thời kháng chiến chống Pháp cùng với Trung đoàn 64 (Quyết Thắng) là hai đơn vị đầu tiên thành lập nên Đại đoàn Đồng Bằng tháng 1-1951, sau bổ sung thêm Trung đoàn Tây Tiến. Trong chống Mỹ, Đại đoàn sau đổi thành Sư đoàn. Đại đoàn Đồng Bằng đổi thành Sư đoàn 320. Sư 320 sau phát triển thêm có 320B. Trung đoàn 48 trong 81 ngày đêm Thành cổ mang mật danh Quang Sơn với lời thề "Quang sơn còn, Quảng Trị còn. Nói đến bộ đội, nhân dân ta, trong đó có Trung đoàn 48 là nói đến huyền thoại về sức chịu đựng vững vàng của con người, mà như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng đánh giá: “Chúng ta đã chịu được không phải chúng ta là gang thép; vì gang thép cũng chảy với bom đạn địch; mà chúng ta là những con người thực sự, con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại" (BT).
Tới đón chúng tôi là hai cán bộ đại đội người Thanh Hóa: anh Tráng, Đại đội phó khoảng 25 tuổi và anh Nguyễn Viết Thiệu Chính trị viên phó khoảng 21 tuổi. Anh Tráng tính tình vui vẻ, hoạt bát, rất thích làm thơ và đọc thơ cho chúng tôi nghe. Anh Thiệu thì trầm tính hơn, nhưng rất tình cảm. Anh đến ở với Tiểu đội tôi, và thường kể nhiều chuyện về Trung đoàn 48 “Quang Sơn” của mình. Lính Trung đoàn này hầu hết người Thanh Hóa, đã chiến đấu rất gan dạ từ đầu chiến dịch. Nhiều trận đánh giữa đồng cỏ tranh, họ không thèm nằm tránh đạn, mà đứng thẳng người vừa bắn xối xả vừa xông lên dũng mãnh, làm bọn lính Sư đoàn 3 ngụy hoảng sợ chạy tán loạn. Đặc biệt anh rất ca ngợi Trung tá Trung đoàn trưởng Trần Minh Vân,
https://thuviensach.vn