🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quà Đất - Quê Hương - Nguyễn Hồi Thủ Ebooks Nhóm Zalo Lịch sử của lịch sử Tiền sử và lịch sử    Trong hàng chục nghìn năm, các xã hội "cổ sơ " của những người săn bắt-hái lượm đã lan tràn trên các vùng đất địa cầu, họ không hề biết đến nhau vì sự cách biệt địa lý, ngôn ngữ, lễ nghi, tín ngưỡng, phong tục. Không xã hội nào giống xã hội nào, có nơi thì cởi mở, phóng khoáng, nơi khác lại khép kín, câu thúc, có chỗ theo chế độ tản quyền, chỗ theo chế độ tập quyền. Nhưng dù khác biệt, nói chung đó là những loại hình cơ bản ban sơ của xã hội những "con người tinh khôn" (homo sapiens) (1) Qua hàng chục nghìn năm cái cộng đồng lưu lạc (2) của những xã hội tiền sử không hề biết lẫn nhau này đã tạo thành nhân loại.    Sự phát triển của nền văn minh thành thị / thôn quê không những đã không hề biết đến cái nhân loại đó mà còn tiêu diệt nó. Những xã hội có lịch sử đã bành trướng, đẩy lùi xã hội cổ sơ vào trong rừng, trong sa mạc rồi ở chính nơi đó các nhà thám hiểm và thăm dò của thời đại toàn cầu lại tìm thấy họ để rồi cũng lại nhanh chóng đưa họ đến chỗ diệt vong. Cho đến nay, trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, các xã hội này đã vĩnh viễn bị sát hại mà những kẻ sát hại lại không hề thu lượm được những kiến thức họ đã tích luỹ được qua mấy nghìn năm.   Lịch sử rất tàn nhẫn đối với các nền văn minh đã chết vì chiến bại, lại cực kỳ tàn bạo đối với tất cả những gì thuộc về tiền sử. Cái tiền sử này thật ra không phải tự nó chết đi mà chính nó đã bị tiêu diệt. Những kẻ sáng lập ra văn hoá và xã hội "con người tinh khôn" ngày hôm nay đã bị diệt chủng. Mà chính cái nhân loại kia, trong giai đoạn lớn lên đã giết hại kẻ sinh ra nó.    Lịch sử ra đời có lẽ cách đây 10.000 năm ở Lưỡng Hà (Mésopotamie), cách đây 4.000 năm ở Ai Cập, cách đây 2.500 năm ở thung lũng Indus (In-đu) và lưu vực sông Hoàng Hà Trung quốc. Qua một sự hoá thân ghê gớm, những xã hội nhỏ bé không nông nghiệp, không nhà nước, không thành phố, không quân đội đã biến thành những đô thị, những vương quốc, đế quốc với hàng chục, hàng trăm nghìn, rồi hàng triệu dân, có nông nghiệp, thành phố, nhà nước, phân công lao động, giai cấp, chiến tranh, nô lệ, rồi những tôn giáo lớn, những nền văn minh lớn.    Lịch sử, đó là sự hình thành, phát triển và đấu tranh một mất một còn giữa các quốc gia với nhau. Đó là sự chinh phục, xâm lăng, nô lệ hoá và cũng là sự chống trả, nổi loạn, khởi nghĩa. Lịch sử là những trận chiến, những điêu tàn, những cuộc lật đổ chính quyền, mưu phản. Đó là sự ồ ạt của thế lực và sức mạnh, là sự vô chừng mực của quyền hành, sự thống trị kinh rợn của các bạo chúa khát máu, cũng là sự nô dịch, giết chóc quần chúng hàng loạt. Lịch sử là sự xây dựng cung điện, đền đài, kim tự tháp hùng vĩ, cũng là sự phát triển kỹ thuật, nghệ thuật, sự ra đời và hoàn thiện của chữ viết (3), là sự trao đổi hàng hoá, tư tưởng bằng đường biển và trên đất liền. Lịch sử cũng còn là ở nơi này một thông điệp của tình thương và đồng cảm, ở nơi kia một tư tưởng đặt nghi vấn về lẽ huyền bí của trời đất.    Lịch sử, là tiếng ồn ào và lời thịnh nộ, nhưng đồng thời cũng là sự hình thành của những nền văn minh lớn, tưởng mình sẽ đời đời tồn tại, nhưng rồi cũng phải chết : Đó là trường hợp của Ai-cập thời Pha-ra-ông, đế quốc Assyrie (Ax-xê-ri), vương quốc Babylone (Ba bi-lon), đế quốc Mi-no-en, văn hoá Dravida (Dra-vi-da), Etrusci (Ê trux-ci), Olmèque (Ôn-mé-cơ), thành quốc A-ten, đế quốc Ba-tư, đế quốc La-mã, thành quốc Maya (Ma-ya, đế quốc Toltèques (Tôn-téc), văn hoá Zapotèques (Da-pô-téc), đế quốc Byzance (Bi-giăng), vương quốc Angkor (Ăng-co), đế quốc Aztèque (Ax-tec), nước Incas (In-ca), vương triều Sassanides (Xát-xa-nít), đế quốc ốt-tô-man, vương triều Habsbourg (Háp-xbuốc), Đệ Tam Đế Quốc (Troisième Reich), Liên bang Xô viết...    Trong khi đế quốc La-mã chỉ kéo dài được vài thế kỷ thì riêng hai trung tâm văn minh duy nhất vẫn tồn tại qua cả nghìn năm sau bao cuộc xâm lăng và thay đổi triều đại, đó là ấn độ và Trung hoa.    Lịch sử truyền thống kể cho ta nghe âm thanh và cuồng nộ của các trận chiến, các cuộc đảo chính, những tham vọng điên rồ. Nó ở trên đầu sóng ngọn gió, ở nơi mà "lịch sử mới" chỉ thấy được toàn bèo bọt các sự kiện. Cái lịch sử mới này mà hôm nay đã trở thành cũ lắm rồi, cũng tưởng mình đã nắm bắt được thực chất của tương lai nhân loại bằng cái tất định luận kinh tế - xã hội, nhưng rồi nó lại bắt đầu quay về với nhân chủng học, theo phía đa chiều (hướng). Ngày nay các hiện tượng ngẫu nhiên và đột phát vốn dĩ đầy dẫy trong các khoa học vật lý, vi sinh cũng đã trở lại với khoa học lịch sử. Chúng không chỉ còn là bèo bọt mà biến thành thác ghềnh, những khúc ngoặt trong dòng cuồng lưu lịch sử kia.    Mang tính sự kiện, tính kinh tế-xã hội, tính dân tộc học, rồi đôi khi đã trở thành đa chiều (hướng), lịch sử của các nhà sử học lại cũng phải trở thành nhân loại học. Nhân loại học lịch sử phải biết quan sát những trật tự, đảo lộn, tổ chức đối nghịch, liên kết, quyện vào nhau trong quá trình lịch sử, trong tương quan với những thế lực của trật tự - hỗn loạn - tổ chức vốn thuộc về tinh thần, tư tưởng của con người tinh khôn-rồ dại (Homo Sapiens-demens). Nó cần soi rọi những hình thức tổ chức xã hội đã xuất hiện trong quá trình lịch sử, từ Ai-cập dưới thời Pha-ra-ông, thành quốc A-ten thời Périclès (Pé-ri-cléx) cho đến những nền dân chủ và những chủ nghĩa chuyên chế đương đại mà xem đấy là các biểu hiện của tính tiềm tại xã hội nhân loại. Nó phải nhìn rõ vào những cuộc chiến, những cuộc tàn sát, nô dịch, hãm hại, tra tấn, vào lòng cuồng tín cũng như lòng tin với những nhiệt tình ở đỉnh cao của chúng, vào triết học như những biểu hiện đương đại của tính tiềm tại nhân loại học. Nó có lẽ cũng phải thấy được tính cá biệt của các nhân vật từ Aknaton (Ac-na-ton), Périclès (Pê-ri-clex), Alexandre de Macédoine (A-léc-xan-đơ của Ma-xê-đoan) cho đến Na-pô-lê-ông, Xta-lin, Hít-le, Đờ-gôn như sự cụ thể hoá, đương đại hoá những tiềm năng của con người tinh khôn-rồ dại.    Chúng ta cần có một lịch sử đa chiều mang tính nhân loại học, bao gồm cả những thành phần của âm thanh và cuồng nộ, hỗn loạn và chết chóc. Vì về mặt nhân loại học, lịch sử của những sử gia đã tụt hậu so với những bi kịch Hy lạp, kịch thời Ê-li-da-bét, và đặc biệt là kịch thời Sếch-xpia. Những kịch này đã chứng tỏ rằng bi kịch của Lịch sử là bi kịch của đam mê, vô độ và mù quáng của con người.    Vĩ đại lẫn ghê tởm. Rực rỡ và tàn khốc. Huy hoàng cùng khốn khổ. Những thực tại hai mặt và phức tạp của "bản chất con người" (4) đã được diễn đạt một cách hoang đường trong cái Lịch sử mà cuộc phiêu lưu vẫn tiếp diễn, lan ra, tăng thêm trong thời đại toàn cầu của chúng ta. Hiện nay, số phận của nhân loại đang thôi thúc chúng ta trong một câu hỏi then chốt: Chúng ta có thể nào thoát khỏi cái lịch sử đó hay không? Cuộc phiêu lưu đó sẽ vẫn còn là con đường duy nhất của chúng ta ư ?    Những lịch sử trọng đại   Từ thủa gọi là Thời cổ đại và trong 5.000 năm sau đó, Lịch sử đã dàn trải, lan toả ra trên nhiều đại lục. Nhưng cho đến thế kỷ thứ XIV của thời đại chúng ta, nó vẫn chưa có tính toàn cầu. Đó chỉ là những Lịch sử riêng lẻ, giữa chúng không có liên hệ gì với nhau. Nhưng rồi, những văn minh lớn, bành trướng bằng chiến tranh và nghề hàng hải bắt đầu khám phá được quả đất.    Trước kia cũng đã từng có những trào lưu sôi sục thúc đẩy con người đi chinh phục thế giới, những trào lưu to lớn mà ngắn ngủi này còn để lại những tên tuổi như A-léc-xăng-đơ, Thành cát tư hãn, Ta-mẹc-lăng. Đã có những cuộc mạo hiểm trên biển ở quy mô lớn đến những miền đất lạ như chuyến đi của người Vi-king, họ đã đến châu Mỹ mà không hề biết điều đó và có lẽ cả người da đỏ châu Mỹ đã đến Âu châu mà không hề ý thức được cái họ từng khám phá...   Rồi đến lượt những trào lưu khác như trào lưu của những tôn giáo mang tính thế giới, lấy mục tiêu là loài người, từ ấn Độ đã tràn sang viễn đông (Phật giáo), từ Tiểu á sang Tây phương (Thiên chúa giáo), từ A-ra-bi đi về phía Đông, sang Tây, xuống phía Nam (Hồi giáo). Nhưng những đấng thượng đế lớn đó vẫn là những con người tỉnh lẻ, họ còn mù tịt về thế giới, về quả đất, về nhân loại, những thứ tuy vẫn được xem là do các vị ấy đã tạo ra.    Vào thời Trung cổ tây phương, dù lịch sử của các miền vẫn chưa thống nhất, dù những nền văn minh còn khép kín, nhưng hoa quả, rau cỏ, gia súc cũng như tơ lụa, ngọc thạch, gia vị đã được du nhập từ Đông sang Tây, từ á sang Âu. Quả anh đào đã từ vùng biển Cax-piên đi đến Nhật bản và Âu châu. Quả mơ đã từ Trung quốc sang Ba tư, rồi từ Ba tư sang phương Tây. Con gà đã từ ấn độ mà bay khắp lục địa Âu-á. Việc dùng sức kéo súc vật, rồi sự sử dụng thuốc súng, la bàn, giấy, kỹ thuật in đều từ Trung quốc đến Âu châu và cung cấp cho nơi này kiến thức và công cụ cần thiết để cất cánh và đặc biệt đưa nó đến sự khám phá ra châu Mỹ. Những nền văn minh A-rập đã phát hiện con số Zê-rô của ấn độ và đem nó về truyền bá cho phương Tây.    Trước thời hiện đại, các nhà hàng hải Trung quốc, Phê-ni-xi, Hy-lạp, A- rập, Vi-kinh đã khám phá ra những không gian rộng lớn của cái mà họ vẫn chưa biết là hành tinh. Một cách ngây thơ, họ đã vẽ bản đồ về cái phần họ biết và xem đấy là tất cả thế giới. Tóm lại, Tây Âu, cái phần nhỏ của đại lục Âu-á suốt trong thời Trung cổ đã nhận được từ miền Viễn đông rộng lớn những kỹ thuật cho phép nó trang bị được đầy đủ kiến thức và phương tiện để khám phá và chiếm cứ châu Mỹ.    Từ đó một sự lên men dồn dập đã bắt đầu ở nhiều điểm trên quả đất để sửa soạn, báo trước, cho ra đời những công cụ, tư tưởng của cái sẽ trở thành kỷ nguyên toàn cầu. Và, ngay lúc Đế quốc ốt-tô-man, sau khi đã chinh phục By-zan-xơ, đến sát tường thành của thành phố Viên (áo), đe dọa trung tâm Châu Âu thì cái miền viễn tây của Châu Âu này đã xông ra biển để sửa soạn mở ra kỷ nguyên toàn cầu.    Chú thích :        (1). E.Morin, "Phạm thức thất lạc" (Le Paradigme perdu), Paris, Editions du Seuil, "Points Essais". 1979, Tr.165-188    (2). Diaspora: (Tiếng Hy lạp) Lúc đầu để chỉ cộng đồng hoặc khu vực người Do thái lưu lạc ở các nước, nghĩa bóng chỉ tất cả các cộng đồng lưu lạc, tản mạn (Người dịch chú thích :ND).    (3). Khoảng 3.000 năm trước Tây lịch: Văn tự tượng hình của Ai cập, văn tự hình vẽ của Lưỡng Hà (Mêdôpôtami); khoảng 1500- 1400 năm trước Tây lịch: văn tự ghi ý của Trung Quốc, văn tự đường nét của Crète (Cơ-rét) và Hy Lạp, văn tự hình góc ở Anatôli. Khoảng 1100 trước Tây lịch người Phênixi đã làm ra chữ mẫu tự.   (4). Về ý niệm "bản chất con người", xem (Le paradigme perdu), sách đã dẫn (sđd), Tr.148-164.     Tấm Thẻ căn Cước Địa Cầu   Từ năm 1950 đến năm 1970 nhờ vào sự tiến triển đồng thời của khoa vật lý thiên thể, địa cầu học, sinh vật học và cổ sinh vật học, những khái niệm tưởng chừng bền vững nhất về bản chất của thiên nhiên, của trái đất, của sự sống và ngay cả của con người đã bị đánh đổ. Những tiến bộ có tính cách mạng này đã cho phép xuất hiện một ý thức toàn cầu mới.        Từ một vũ trụ đến một vũ trụ   Trong thời gian suốt mấy nghìn năm, trái đất đã là một trung tâm tối cao của vũ trụ. Mặt trời và các hành tinh khác quay xung quanh nó một cách kính cẩn. Các nhà thiên văn học thời cổ đại đã quan sát vũ trụ này, cái hệ thống thiên thể Ptolémée (Ptô-lê-mê) mà giá trị còn tồn tại đến gần đây đã chứng minh điều đó.   Rồi với Copernic, Kepler, Galileo quả đất đã không còn là trung tâm vũ trụ nữa mà thành một hành tinh hình cầu quay xung quanh mặt trời như những hành tinh khác. Nhưng mặt trời vẫn còn ở trung tâm của tất cả mọi thứ. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, vũ trụ vẫn còn tiếp tục vâng theo một trật tự tuyệt vời, chứng tỏ một sự toàn mỹ của đấng sáng tạo. Newton (Niu-tơn) đã đề xuất những định luật bảo chứng cho cái vũ khúc hài hòa của guồng máy thiên thể. Vào đầu thế kỷ XIX, Laplace đã đuổi đấng thượng đế - tạo hoá ra khỏi cái vũ trụ tự lực cánh sinh này, cái vũ trụ tưởng chừng như đã trở thành một bộ máy hoàn hảo cho vạn đại. Đến đầu thế kỷ XX, nó vẫn còn hoàn toàn ở trạng thái tĩnh. Ngay cả khi Einstein (Anh-xtanh) đã bác bỏ tất cả tính trung tâm ưu việt của vũ trụ, nó vẫn còn giữ được tính chất vĩnh hằng, tự mình đầy đủ và tồn tại một cách vô hạn.    Chỉ đến năm 1923 thiên văn học mới khám phá ra sự tồn tại của những thiên hà khác. Những thiên hà này chẳng bao lâu sau lại cũng chỉ là một vài trong hàng triệu những thiên hà khác. Từ lúc đó thiên hà của chúng ta đã bị đẩy ra rìa (mất hẳn tính trung tâm của nó). Vào năm 1929, Hubble (Hub-bơn) phát hiện sự xê dịch về phía đỏ của đường quang phổ chiếu ra từ những thiên hà xa xăm và như vậy đã cung cấp dấu hiệu được kiểm chứng về sự bành trướng của vũ trụ. Những thiên hà xa rời nhau liên tục bằng những vận tốc kinh hoàng, sự xáo trộn này làm đảo lộn trật tự vĩnh hằng của vũ trụ.    Cái vũ trụ không ngừng bành trướng và phân tán này sẽ còn trải qua một cuộc đổi dời lớn hơn nữa trong hậu bán thế kỷ XX. Năm 1965, Penzias (Pen-giax) và Wilson (Win-sân) đã bắt được một tia bức xạ đẳng hướng (cùng từ các hướng - isotrope, ND) đến từ nhiều chân trời vũ trụ, cái âm vang vũ trụ này (bức xạ bối cảnh) chỉ có thể giải thích được bằng những cặn bã hoá thạch của một vụ bùng nổ trước kia và giả thuyết về một vũ trụ mà sự bành trướng phân tán có thể là kết quả của một tai biến ban sơ đã có cơ sở. Từ đó người ta đã giả dụ rằng từ một "sáng quang" (Fiat lux) sơ khởi vũ trụ đã xuất hiện như một hình thức ánh sáng ở một nhiệt độ cao 1011 độ K. Và trong khoảnh khắc, một phần triệu giây đầu tiên đã sinh ra những quang tử cùng với những quác, điện tử, trung vi tử. Rồi, giữa sự xáo trộn kịch liệt và nóng bỏng bắt đầu một quá trình nguội lại từ từ, trong quá trình đó những hạt đã tạo nên những nhân, rồi những nguyên tử khinh khí. Từ nay trở đi vấn đề cần phải làm cho sáng tỏ là: làm sao trong cái vũ trụ ban sơ đồng chất này lại có thể xuất hiện những dị biệt đầu tiên mà chỉ có chúng mới giải thích được sự phân tán của cái vũ trụ ban sơ thành những vũ trụ khổng lồ kích thước không giống nhau, mẹ của các tinh hà và tinh tú. Đó là thông tin mà vệ tinh Cô-bơ (Cobe) đã đem về năm 1992, sau khi phát hiện được những biến hoá cực nhỏ của mật độ vật chất bên rìa vũ trụ xa hằng 15 tỷ năm ánh sáng và có lẽ chỉ ba trăm nghìn năm sau biến cố khai thuỷ (1).    Cũng cùng trong những năm 1960, lúc xẩy ra một biến hoá kỳ diệu của thiên không, người ta thấy trong vũ trụ hiện thời những sự kiện lạ chưa bao giờ tưởng tượng được: chuẩn tinh (quasars) 1963, mạch xung tinh (pulsars) 1968, rồi đến những lỗ đen (trous noirs). Các nhà vật lý thiên văn đã ước đoán rằng chúng ta mới chỉ biết được chừng 10% vật chất, 90% còn lại vẫn nằm ở ngoài tầm đo đạc của các công cụ hiện có. Như vậy chúng ta đang ở trong một thế giới chỉ gồm có một ít tinh tú và hành tinh thấy được, mà thực ra nó còn chứa đựng biết bao thực tại lớn lao chưa thăm dò được.    Và chúng ta đây đang ở vào cuối thiên niên kỷ này trong một vũ trụ mang trong nguyên tắc của nó những "Thần bí", "Khó lường" và "Khó tưởng tượng". Chúng ta đang ở trong một vũ trụ sinh ra từ một tai biến mà tổ chức của nó bắt nguồn từ một sự không toàn mỹ nhỏ nhoi và một sự tàn phá ghê gớm (của phản vật chất). Chúng ta đang ở đây trong một vũ trụ tự sinh, tự sản, tự tổ chức hình thành từ một biến cố ngẫu nhiên ở ngoài tất cả những khả năng hiểu biết hôm nay của chúng ta.    Chúng ta đang sống trong một vũ trụ mà hệ thống sinh thái cần cho sự tổ chức của nó có lẽ là hư vô (tất cả những gì tự tổ chức đều hấp thụ năng lượng, vũ trụ chúng ta thu hút những năng lượng ghê gớm đến từ sự phun nhiệt ban đầu, nhưng những năng lực này từ đâu đến?). Chúng ta hiện sống trong một vũ trụ đang tự tổ chức trên tiến trình tự giải thể của mình. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ đầy dẫy những huyền bí kinh người mà sự huỷ diệt ở ngay giai đoạn hình thành của những phản lạp tử bởi những lạp tử (hạt) nghĩa là sự huỷ diệt gần như hoàn toàn của phản vật chất bởi vật chất, trừ khi, mà điều này còn bí hiểm hơn, có một vũ trụ phản vật chất đi theo một cách bí ẩn cái vũ trụ của chúng ta hoặc là nó chỉ là một nhánh của một thực thể đa hình (plurivers) to lớn.    Chúng ta đang sống trong một vũ trụ (ở biên giới của sự có thể) mà nếu nó không hội đủ mật độ vật chất nhất định nó có thể sau khi ra đời sẽ hoặc co lại hoặc phình trướng mà không sinh ra thiên hà hay tinh tú gì cả. Chúng ta sống đây trong một vũ trụ đầy sự va chạm giữa những thiên hà, đụng và nổ giữa những tinh tú, ở nơi này một vì sao không phải là một quả cầu được định phương vị không gian mà là một quả bom khinh khí nổ chậm, một cỗ máy đầy lửa. Chúng ta ở đây trong một vũ trụ mà sự hỗn mang đang phát huy tác dụng. Trong cái hỗn mang đó, trật tự và vô trật tự liên quan với nhau không chỉ trong sự đối lập mà còn bổ túc cho nhau để sản sinh ra những tổ chức thiên hà, hằng tinh, hạt nhân và nguyên tử. Chúng ta đang ở trong một vũ trụ mà nơi đó có lẽ nhiều điều khó hiểu sẽ được giải đáp, nhưng tính cách đơn thuần máy móc trong quá khứ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được khôi phục, cái việc lấy mặt trời làm trung tâm vũ trụ sẽ vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại, mà rồi những hiện tượng còn kinh hồn hơn những cái mà ta đã biết sẽ vẫn còn tiếp diễn.    Và chúng ta ở đây trong một thiên hà hẻo lánh, dải Ngân hà, sinh ra 8 tỷ năm sau khi thế giới ra đời. Nó cùng với các thiên hà lân cận tựa hồ đều bị hút hởi một khối vô hình khổng lồ gọi là "Khối hấp lực cực lớn" (Grand Attracteur). Chúng ta ở đây trên quỹ đạo của một anh chàng "phó thường dân" trong một đế quốc "Ngân hà". Cái anh "phó thường dân " này bắt đầu xuất hiện 3 tỷ năm sau khi thế giới sinh ra và 5 tỷ năm sau sự hình thành của giải Ngân hà. Chúng ta sống ở đây trên một hành tinh nhỏ bé ra đời cách đây 4 tỷ năm.   Tất cả những điều ấy hôm nay đều được biết, tuy rằng cũng chưa được bao lâu, mặc dù đã được truyền bá rộng rãi qua sách báo và những buổi thuyết trình trên vô tuyến của Hawkins (Hóc-kinx) và Reeves (Rivz), cái vũ trụ không gian ấy vẫn chưa thâm nhập vào được đầu óc của chúng ta. Chúng ta vẫn còn cho rằng mình đang sống ở trung tâm của vũ trụ, trên một miền Đất lớn ở trạng thái tĩnh và dưới một Mặt trời bất diệt. Những triết gia chuyên nghiệp, kể cả những nhà thông thái chuyên nghiên cứu vũ trụ, đối với vấn đề này cũng không hề tỏ ra một chút gì tò mò, ngạc nhiên hoặc bận tâm. Điều này có nghĩa là cái triết học hôm nay đã làm xơ cứng chính sự ngạc nhiên mà từ đó nó sinh ra. Điều này còn có nghĩa là nền giáo dục chúng ta đã làm cho chúng ta tách rời, đóng khung và cô lập thay vì phải chắp nối những tri thức lại với nhau. Nó đã dậy chúng ta nhìn nhân loại với cặp mắt mang lá chắn, tách nhân loại này ra khỏi cái vũ trụ bao bọc nó, ra khỏi cái vật chất đã tạo thành chúng ta.   Cho nên, dù muốn hay không chúng ta vẫn phải hiểu rằng chúng ta từ thế giới này mà ra, rằng tất cả những lạp tử (hạt) trong chúng ta đã được tạo ra ở đó từ 15 tỷ năm, rằng những nguyên tử các-bon của chúng ta đã được hình thành trong một mặt trời sinh ra trước mặt trời hiện nay của chúng ta, rằng những phân tử của chúng ta đã ra đời trên quả đất và có khi đến đây qua những thiên thạch. Chúng ta cũng biết, mặc dù trong thâm tâm chúng ta vẫn muốn phủ nhận, rằng chúng ta là con em của cái vũ trụ này, nó mang trong nó sự ra đời, sự sống và cái chết của chúng ta.    Vì thế chúng ta vẫn chưa thấy rõ vị trí của chúng ta ở nơi nó, vẫn chưa kết nối được những nghi vấn của chúng ta về thế giới này với những nghi vấn trên chính chúng ta. Chúng ta vẫn chưa cố gắng suy nghĩ đến cái số mệnh thuộc về vật chất và địa cầu của chúng ta. Chúng ta chưa thấy được hệ quả của chỗ đứng bên lề, ngoại vi của hành tinh chúng ta và chỗ đứng của chúng ta trên hành tinh đó.    Thế nhưng chúng ta cần phải đặt hành tinh này và vận mệnh chúng ta, đặt cả những tư duy, quan niệm, nguyện vọng, lo sợ, ý chí của chúng ta vào chính cái vũ trụ này.        Hành tinh độc đáo    Hành tinh này là gì, là cái hạt bụi vũ trụ nơi đó sự sống đã nẩy sinh, nơi thảo mộc đã làm ra ôxy cho bầu khí quyển, nơi tất cả động vật lan tràn trên bề mặt, tạo nên một bầu sinh quyển tự tổ chức và tự điều chỉnh về mặt sinh thái, nơi, thoát thai từ một nhánh động vật, nhân loại đã tiến hoá và phát triển?    Cái hạt bụi vũ trụ đó là một thế giới. Một thế giới vẫn bí hiểm từ bao đời nay đối với nhân loại. Nhân loại này tuy lan tràn trên khắp hành tinh mà vẫn ở trong trạng thái cách biệt nhau. Sự thám hiểm có hệ thống trên bề mặt quả đất đã xẩy ra cùng một lúc với sự phát triển của kỷ nguyên toàn cầu và cũng là lúc những thiên đường, người khổng lồ, thần tiên, thượng đế và những thứ ma quỷ khác đều bị đuổi khỏi quả địa cầu để nhường chỗ cho một quả đất của thảo mộc, động vật và con người. Từ thế kỷ XVIII, sự khảo sát khoa học đã xuyên vào lòng đất, con người đã và bắt đầu nghiên cứu bản chất vật lý của quả đất (địa chất học), tính chất của các thành phần quả đất (hoá học), tính chất thần bí của những vật hoá thạch (cổ sinh vật học). Sự hiện hữu của quả đất không chỉ ở bề mặt mà còn ở những chiều sâu. Nó không chỉ ở trạng thái tĩnh mà không ngừng tiến hoá. Người ta khám phá ra là quả đất vốn có một lịch sử riêng của nó (2). Cái lịch sử này hình thành vào thế kỷ XIX (3). Và ở ngưỡng cửa thế kỷ XX, một người Đức, Alfred Wegener (An-phrết Vê-gơ-ne) xây dựng thuyết các lục địa trôi. Cái luận điểm này sau rất nhiều lần bị bác bỏ rồi cũng được công nhận là chính xác nhờ sự thăm dò có hệ thống những đại dương với kỹ thuật đo đạc bằng từ, điện, địa chấn, âm thanh bắt đầu vào những năm 1950.    Chính ở những năm 1960 một quan niệm mới về vũ trụ và quả đất đã ra đời, khoa học địa tầng kiến tạo học về các mảng quả đất đã cho phép tập hợp được những khoa học về địa cầu thành một quan niệm tổng thể. Và trái đất không còn là một quả cầu, một giá đỡ, chân đế mà bắt đầu trở thành một sinh thể phức tạp có đời sống riêng, có quá trình biến đổi và lịch sử phát triển của nó: Cái sinh thể này đồng thời là một động cơ nhiệt không ngừng tự tái tổ chức. Vỏ trái đất bao bọc lớp màng như một lớp trứng mềm, cái màng này lại bọc một hạt nhân nóng bỏng.   Vỏ quả đất chúng ta đã sống và tiếp tục trải qua những biến cố kinh hồn gồm những chuyển động ly khai, tái hợp, tung, hoành, trôi dạt, gặp gỡ, chấn động (động đất), chập mạch (hoả sơn phun lửa), vẩn thạch lớn rơi, đóng băng, tăng nhiệt.   Quả đất từ nơi nào đến? Người ta bắt đầu suy đoán về nguồn gốc của nó chính trong những thập niên cuối của thế kỷ này, người ta không cho rằng nó tách ra từ mặt trời nữa, nhưng là một tập hợp những mảnh vỡ thiên không (4). Như những hành tinh khác, có thể nó đã được tạo thành bởi sự gặp gỡ và kết tụ của bụi bặm vũ trụ chắc là sau khi một siêu sao mới (supernova) nổ, tạo nên "rất nhiều những hành tinh nhỏ". Những hành tinh nhỏ này có lẽ đã gặp nhau rồi kết tụ với nhau ngay trong tiến trình chuyển động của sự hình thành thái dương hệ. Quả đất trên đà hình thành đã trở nên một vệ tinh của cái mặt trời vừa mới sinh ra. Sự tổ hợp lúc đầu còn ở vào tình trạng không đồng chất đã dần tự kết cấu thành lõi và màng rồi trên cái màng này một loại nham tương đã cứng lại mà thành vỏ quả đất.   Quả đất là một bản thể hỗn loạn mà sự tổ chức tự hình thành trong quá trình đối kháng và hợp tác giữa trật tự và phi trật tự. Thời khai thuỷ của nó đã từng bị đầy dẫy những vẩn thạch bắn vào, bị những nham tương trào lên phun khí, những khí này đã tạo ra nước và bầu khí quyển ban sơ, trong khi chất sắt chảy vào trung tâm và ở đấy dưới dạng thể lỏng. Rồi sau đó cũng vẫn ở giữa những sự phun trào và động đất, những cơn bão nổi lên với một nhiệt độ nóng đến 250o. Những cơn hồng thuỷ đã gây ra những xói mòn đầu tiên, đưa đến sự hình thành đá vôi (khí cácbôníc trong khí quyển bị canxi hấp thụ) và làm nhiệt độ giảm xuống.    Từ lúc sinh ra cho đến 2,7 tỷ năm sau, quả đất cực kỳ sôi sục về mặt địa chất, nó phá huỷ và biến đổi tất cả những dấu tích đầu tiên của thuở thành hình. Cái thời kỳ cổ đại này có lẽ là lúc những đại lục đầu tiên đã ra đời và ngay sau đó đã bị xói mòn một cách ghê gớm.   Mãi đến khoảng 560 triệu năm sau, quả đất hình như đã trải qua một thứ Thời trung cổ lâu dài, lúc cái lớp vỏ cổ sơ của nó dần dần được thay thế bởi một lớp vỏ khác làm bằng những trầm tích cứng lại thành nếp rồi bị xói mòn, nhưng được củng cố bằng đá hoa cương, ở trong lớp vỏ mới này là một kết hợp thành mảng, những mảng này vỡ ra thành những lục địa và trôi xa nhau dần. Lý thuyết địa tầng kiến tạo học về các mảng đã cho phép chúng ta hôm nay thấy được hiện tượng phức tạp của sự hình thành bề mặt quả đất với bộ mặt hiện nay sau hai tỷ năm trong đó sự sống phát triển và lan tràn khắp nơi. Thế là một đống rác rưởi vũ trụ đã có một hình thù và được tổ chức để trở thành hành tinh quả đất và trong một cuộc phiêu lưu đầy biến động của bốn tỷ năm, tự nó đã trở thành một hệ thống phức tạp với lõi, màng, vỏ.    Ngày nay hành tinh chúng ta, với các đại lục, đảo, núi, thung lũng, phong cảnh, sông hồ, biển, đại dương, bầu khí quyển, tầng bình lưu, đã trở thành mười phần ôn hoà, chỉ đôi khi mới có vài trận động đất hay hoả sơn phun lửa, vòi rồng, sóng cồn.    Vừa là một hành tinh tuỳ thuộc mặt trời, Quả đất - Thế giới này đồng thời lại được hoàn thiện, cô lập, tự chủ và tìm được sự tự chủ của nó ngay trong tính phụ thuộc của nó. Đó là một hành tinh đã trở thành riêng biệt và cô đơn giữa những hành tinh khác trong thái dương hệ và những tinh cầu của thiên hà. Vì chính ở cái cô đơn riêng biệt ấy, nó đã cho ra đời một cái gì đó cũng cô đơn và riêng biệt trong cả thái dương hệ, trong thiên hà và có lẽ cả trong vũ trụ, đó là: sự sống.    Mảnh đất của sự sống   Trên cái hành tinh tý hon của một mặt trời nhỏ nằm bên bờ dải Ngân hà, một thiên hà lạc lõng trong một đám đang trôi dạt giữa hàng triệu cái khác, những biểu hiện đầu tiên của cái gì đó mà sau này sẽ trở thành sự sống đã ra đời trong những cơn vật vã chuyển mình của dung nham phun chẩy và mưa bão cách đây có lẽ 3,8 tỷ năm.    Người ta sẽ không thể nào hiểu tại sao sự sống lại có thể xuất hiện được giữa một thế giới vật chất nếu vẫn tiếp tục nghĩ rằng cái vật chất sống thì khác về bản chất và mang những đặc tính khác cái vật chất lý-hoá và nó không tuân theo định luật thứ hai của nhiệt động học dẫn đến en-trô-pi (nội chuyển lực), nghĩa là dẫn đến sự phân tán và / hoặc phân giải của tất cả những vật thể vật chất. Song từ năm 1950 trở đi, Watson (Oát-sơn) và Crick (Cờric) khám phá ra mã di truyền ghi trong ADN của những tế bào sống cho thấy rằng sự sống cũng được cấu thành bởi cùng thành phần lý hoá như tất cả mọi thứ của thiên nhiên trên trái đất và nếu có khác thì chỉ khác ở cái tính phức tạp đặc biệt về tổ chức của nó. Vài năm sau, vào đầu những năm 1970, ngành nhiệt động học của Prigorine (Pri-go-rin) đã chứng minh rằng một vài điều kiện bất ổn định nào đó không chỉ có thể tạo nên hỗn loạn và xoáy rối mà còn gây ra những hình thức tổ chức có thể tự tạo và tự tái tạo không ngừng. Do đó, cái việc sự sống đã xuất hiện từ những hỗn loạn và xoáy rối của quả đất là có thể hiểu được.    Vậy là từ đây, ở cuối thế kỷ này, người ta có thể chấp nhận rằng những tổ chức có sự sống là kết quả của sự phức tạp hoá về tổ chức không phải theo đường thẳng nhưng đến từ những gặp gỡ ngẫu nhiên giữa những đại phân tử (5), có lẽ đôi khi ở trên bề mặt của nham thạch (6), nhưng cuối cùng là ở một môi trường lỏng chuyển động xoáy. Nguồn gốc của sự sống vẫn còn là một bí mật mà trên đó không ngừng có những kịch bản mới ra đời (7). Nhưng sự sống chỉ có thể ra đời bằng cách kết hợp ngẫu nhiên và tất yếu mà chúng ta hiện chưa biết được liều lượng ở mức độ nào. Có một sự "liên tục" trong tiến trình phức tạp hoá lý-hoá, nhưng sự liên tục này đã trải qua những bước nhẩy vọt liên tiếp trong đó có sự phân định giữa môi trường bên trong và môi trường bên ngoài, có sự trao đổi năng lượng và sự phân hoá của những trao đổi rồi cuối cùng nhất là bước nhẩy căn bản siêu phức tạp hoá từ tổ chức thuần tuý hoá học đến một tiến trình tự tái tổ chức sinh thái (auto-éco réorganisation). Cái thứ tái tổ chức này lại có khả năng nhận thức (nghĩa là tính toán, thông tin, liên lạc)(8), có thể tự tái tổ chức, tự tu sửa, tự tái tạo, có khả năng tìm được sự tổ chức, năng lượng và thông tin trong môi trường của nó.    Vấn đề ở đây trở thành : làm sao mà một tổ chức như thế lại có thể xuất hiện được trên trái đất? Sự xuất hiện của nó có phải là một sự kiện duy nhất đã xẩy ra nhờ vào những ngẫu nhiên ghê gớm được tích luỹ hay ngược lại chỉ là hiệu quả của một tiến trình diễn biến, nếu không phải là tất yếu thì ít nhất cũng dễ xẩy ra?    Những lý do viện dẫn về hướng có xác suất sẽ như sau:    - Con người có thể làm xuất hiện một cách tự phát những đại phân tử của sự sống trong vài điều kiện nào đó ở trong phòng thí nghiệm.   - Người ta đã tìm thấy các axit amin là chất báo trước sự xuất hiện của sự sống ở những thiên thạch.    - Nhiệt động học Prigorine chứng minh rằng trong những điều kiện bất ổn nào đó, sự tổ chức có thể hình thành một cách tự phát, từ đó các đại phân tử càng ngày càng phức tạp có xác suất được kết tụ với nhau dưới những điều kiện nhiệt động chuyển động xoáy.   - Trong các điều kiện gặp gỡ này sau một thời gian lâu dài sẽ xẩy ra khả năng thúc đẩy một tiến trình chọn lọc dẫn đến những tập thể phân tử bổ túc ARN (axit ribonucleic-ND) hay những protein có năng lực tự sao chép và tự chuyển hoá.    - Trong một vũ trụ với hàng tỷ tỷ tinh tú, cái xác xuất có hàng triệu hành tinh giống quả đất là một khả năng lớn. Nghĩa là khả năng hiện hữu của những sinh vật trong những vùng khác của vũ trụ là một điều có thể xẩy ra.    Về hướng không xác suất thì luận chứng sẽ như sau:    - Bước nhẩy số lượng/ chất lượng (một con vi trùng dù rất nhỏ đi nữa cũng là một dạng phức tạp gồm hàng triệu phân tử) và sự gián đoạn triệt để giữa cái phức tạp nhất trong những tổ chức đại phân tử và sự sống biết tự tái tổ chức sinh thái (mà phải nhắc lại là bản chất nó là biết tính toán, thông tin và liên lạc) làm cho cái sau này có xác suất rất thấp.   - Bản thân tổ chức mang sự sống không có một xác suất nào về mặt vật lý, nghĩa là theo nguyên tắc thứ hai của nhiệt động học, chính sự phân tán những bộ phận phân tử của bản thể sống mới tuân theo xác suất vật chất, điều này đúng là xẩy ra ở lúc chết.    - Nhiều dấu hiệu cho ta nghĩ rằng sự sống đã được sinh ra chỉ có một lần, nghĩa là tất cả những sinh vật chỉ có một và duy nhất một tổ tiên, điều này khiến giả thuyết cho rằng một tình cờ hoàn toàn không có gì chắc chắn đã là nguồn gốc của nó càng có cơ sở.    - Không có một dấu hiệu, một vết tích về sự sống nào trong thái dương hệ, vì chúng ta chưa hề nhận được một tín hiệu nào về nó đến từ vũ trụ.   - Ngoài ra, nếu cho rằng sự sống trên quả đất chúng ta đã là kết quả của một xác suất ghê gớm thì đối với các tinh cầu khác cái khả năng đều được hưởng những điều kiện này là một lý do không đủ vững.   - Chúng ta không thể loại trừ một giả thuyết thứ ba: có lẽ vẫn có những tổ chức rất phức tạp trong vũ trụ, mang những đặc tính như tự chủ, thông minh và ngay cả tư duy, nhưng không được xây dựng trên một cơ sở hạt nhân có protein và có thể sẽ (hiện giờ? không bao giờ?) chúng ta có thể nhận thấy và hiểu rõ được chúng.    Dù sao đi nữa chúng ta vẫn hoàn toàn không có gì chắc chắn về tính ngẫu nhiên hay tất yếu, cần thiết hay diệu kỳ của hiện tượng làm xuất hiện sự sống và điều không chắc chắn này dĩ nhiên có thể ảnh hưởng đến ý nghĩa đời sống con người chúng ta.   Dù sao đi nữa, sự sống xuất hiện cùng một lúc như là một biểu hiện và một sản phẩm của quả đất.    Dù sao đi nữa, ngay cả như Crick đã giả định rằng những mầm sống (cổ vi khuẩn) bắt nguồn từ ngoài trái đất thì quả đất cũng vẫn là cái nôi của nó.   Dù sao đi nữa, ở giữa thái dương hệ và dải Ngân hà, tình cảnh của sự sống trên địa cầu vẫn là một tình cảnh rất cô đơn.    Dù sao đi nữa, hẳn là có một sự sống đầu tiên đã tự tái tạo, nhân lên, biến đổi dưới những hình thái không đếm xuể, rồi sinh sôi nẩy nở trên trái đất.    Những cổ vi khuẩn, rồi những vi khuẩn đã sinh sôi trong nước, trong không khí, trong đất qua hai tỷ năm và tạo thành cái quyển sinh vật mà tất cả những thành viên từ từ liên lạc với nhau (nhất là bằng cách tiêm ADN từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác). Giữa tương quan trên mặt đất này đã nẩy sinh ra hiện tượng cộng sinh, hiện tượng này đưa đến sự hình thành tế bào có nhân, vi khuẩn và rồi vi sinh, những thứ này kết hợp và tổ chức với nhau để trở thành sinh vật đa bào, thực vật và động vật.    Có khả năng là những tảo đơn bào đã sử dụng năng lượng mặt trời trong quá trình quang hợp. Dù sao đi nữa sự phát triển của thảo mộc đã làm lan tràn dưỡng khí trong bầu khí quyển. Điều này cho phép sự sống bằng dưỡng khí xuất hiện và cho phép thế giới động vật phát triển, và vì không có khả năng quang hợp nên nó bắt buộc phải ăn các sinh vật khác để thu hút năng lượng.   Sự sống lan tràn trên các biển, lên đất liền với muôn loài cây cỏ, lên không trung với chim chóc, côn trùng.   Bắt đầu từ 450 triệu năm trước, sự phân chủng lớn đã cho phép một mối tương quan nhiều mặt giữa động và thực vật. Những động vật ăn lẫn nhau và tạo thành những tổ chức sinh thái hoặc những hệ sinh thái qua mối tương tác vừa có tính đối nghịch vừa cạnh tranh lại vừa bổ khuyết cho nhau (9).   Lịch sử sự sống đã bị chi phối bởi những biến đổi và tai biến của vỏ trái đất. Tương lai của nó không thể tách rời khỏi sự hình thành của các biển và lục địa, của sự nhô lên và xói mòn của núi. Đôi khi, những xê dịch nhỏ về địa lý, khí hậu, sinh thái, di truyền có thể có tác dụng dây chuyền trên toàn bộ. Những hệ thống sinh thái tiến triển với sự giải thể rồi sự tái tổ chức. Những kỷ nguyên nối tiếp nhau trong một biện chứng của thay đổi, của tai nạn và tai họa. Sau sự ra đời và bùng lên của các loài hoa, đã có một sự hợp tác lạ lùng giữa chúng và các côn trùng. Một tai biến trên mặt đất vào cuối thời kỳ Trung đại có lẽ đã cho phép loài động vật có vú phát triển mạnh vì thừa hưởng được khoảng không gian rộng rãi sau khi một sao băng từ vũ trụ chạm vào quả đất gây nên một vực thẳm và dấy lên một màn bụi cát khiến thảo mộc đều héo tàn kéo theo sự diệt chủng của các loài ăn cỏ khổng lồ là những con khủng long.    Từ chỗ rẽ đôi đến phân nhánh, sự sống đã toả ra trong 500 triệu năm với một sự đa dạng cực kỳ: thảo mộc, động vật không xương sống, có xương sống, trong loại có xương sống lại chia ra nhiều nhóm: không hàm, cá, bò sát và có vú. Trong số nhóm có vú này những động vật thuộc bộ khỉ (linh trưởng) đã lan tràn từ 70 triệu năm trước trên Cựu và Tân lục địa lúc hai miền này vẫn còn là một và từ những họ khỉ cao cấp xuất hiện từ 35 triệu năm trước ở châu Phi và bán đảo ả- rập, những tổ tiên của loài người đã ra đời cách đây 17 triệu năm.    Thế là trên quả đất đã hình thành và mọc lên một "cái cây của sự sống", cây này dĩ nhiên không có thân đều đặn với những nhánh đối xứng. Đó là sự trổ hoa thành tán, thành chùm, thành cụm đủ màu sắc và hương thơm, một thứ đầy cành nhánh gốc rễ, vừa cuộn vào nhau lại vừa tách rời.    Cái cây của sự sống đồng thời cũng là lĩnh vực của sự sống. Nó tác động qua lại với những điều kiện địa lý- khí hậu, làm thành nhiều môi trường sinh thái nhỏ (tiền sinh cảnh) mà tất cả hợp lại thành bầu sinh quyển.    Con người, nhánh cuối cùng và kỳ diệu trên cái cây của sự sống ấy đã xuất hiện giữa bầu sinh quyển. Bầu sinh quyển kết nối hệ sinh thái này với hệ sinh thái khác, dần dần đã bao trùm tất cả hành tinh. So với các khoảng cách trong vũ trụ thì nó chỉ là một lớp rất mỏng chứa không khí và sự sống. Và, cũng như bản thân quả đất vật lý đã thai nghén ra bầu sinh quyển, thì chính bầu sinh quyển này đã thai nghén ra nhân loại.    Như thế, sự sống, vì đã ra đời trên quả đất, tất phải liên đới với nó. Sự sống tất phải liên đới với sự sống. Tất cả các sự sống sinh vật đều cần vi khuẩn, thảo mộc và những động vật khác. Khám phá ra sự liên đới sinh thái là một phát hiện lớn gần đây. Không có một sinh vật nào, ngay cả con người, có thể sống mà không cần đến bầu sinh quyển.    Căn cước nhân loại    Một khi những chuyện mang tính huyền thoại về sự ra đời của con người bắt đầu bị nghi ngờ thì nguồn gốc và bản chất của nó sẽ trở thành vấn đề cho nhân loại.    Trong thời hiện đại, con người được xem như một bản thể siêu nhiên, nó chiếm dần chỗ trống mà thượng đế để lại, vì Bacon, Descartes, Buffon, Mác đã cho nó một sứ mạng là làm chủ thiên nhiên và ngự trị trên vũ trụ. Nhưng sau Rousseau (Rút-xô), chủ nghĩa lãng mạn lại đặt con người vào giữa lòng người Mẹ - Thiên nhiên của nó. Theo hướng này, những nhà thơ, nhà văn lãng mạn đã mẫu tính hoá quả đất. Ngược lại những nhà khoa học kỹ thuật lại vật tính hoá quả đất xem như nó chỉ gồm những đồ vật mà con người mặc sức thao túng.    Chủ nghĩa duy lý của thời kỳ ánh sáng có khuynh hướng chỉ nhìn thấy một con người duy nhất với những phẩm chất và đam mê cơ bản giống nhau trong nhiều văn minh khác nhau, nhưng chủ nghĩa lãng mạn, với Herder (Hec-đơ) lại bắt đầu nhấn mạnh trên tính đặc thù mà văn hoá ghi khắc lên từng cá nhân. Cứ như thế mà tính thống nhất hoặc tính đa dạng của nhân loại đã được nhận diện, không phải cùng một lúc nhưng luân phiên nhau.    Trong thế kỷ XIX, những nhà khoa học tự nhiên càng ngày càng nhấn mạnh trên bản chất sinh vật của con người, trong khi đó các nhà khoa học nhân văn lại nhấn mạnh trên bản chất tinh thần và văn hoá. Nhưng những phân chia riêng rẽ giữa các khoa học với nhau và sự đối nghịch giữa những trường phái tư tưởng đã bóp chết quan niệm phức tạp bao gồm cả ba tính chất này (sinh vật, tinh thần và văn hoá) và, vì chỉ coi trọng tính chất mà mình xem là cơ bản, nên khi nhìn từ một góc độ riêng người ta sẽ không hề thấy được những cái khác.    Thêm vào đó bản thân sự xác nhận bởi sinh vật học về tính thống nhất của nhân loại cũng chẳng làm giảm đi chút nào sự phân chia đẳng cấp giữa các loại người thành ra chủng tộc ưu tú và chủng tộc hèn kém. Nếu dưới ảnh hưởng của tư tưởng thời kỳ Anh sáng, chủ nghĩa nhân đạo tây phương thừa nhận sự bình quyền cho mọi giống người thì chủ nghĩa Tây phương trung tâm lại không hề thừa nhận cho những kẻ "bán khai" và "chậm tiến" cương vị của một con người hoàn toàn trưởng thành, đầy đủ lý trí.    Cũng trong thế kỷ XIX, khi sự ra đời của con người không còn được xem như sản phẩm của đấng Thượng đế - Tạo hoá nữa nhưng là kết quả của quá trình tiến hoá sinh vật thì con người lại bị xem là hậu duệ của loài khỉ. Người ta cho rằng sau khi rời thuỷ tổ ra, con người đã khác hẳn nó, chỉ còn giống nhau trên phương diện thân thể và diện mạo. Cho đến năm 1960, con người tinh khôn được xem như đã ra đời một cách đột ngột với bộ óc thông minh, công cụ, ngôn ngữ, văn hoá chẳng khác nào nữ thần Minerve (Mi-nẹc-vơ) đầy trí tuệ được thần Jupiter (Giu-pi-te) vô hình tạo dựng nên.    Nhưng đến năm 1960 thì tính biệt lập của nhân loại đã bị hoài nghi. Janet Van Lawick-Goodall (Gia-nết van Lo-uick Gút-đôn) (10) đã khảo sát rồi Gardner (Gác-nê) và Premack (Pri-mác) đã "nói chuyện" với loài khỉ đen Chimpanzé (hắc tinh tinh) (11), đưa chúng ta về phương diện tinh thần đến gần với loài này hơn và thấy rằng nó không còn là thuỷ tổ mà chỉ là một anh em họ của chúng ta thôi. Trong khi những điều này đưa họ khỉ đến gần con người thì những khám phá của Louis và Mary Leakey (Licây) trong hang Ôn-đu-vai năm 1959 và của con trai họ là Richard (Ri-sa) ở hồ Rodolphe (Rô đôn-phơ) năm 1972, rồi của Yves Coppens (Y-vơ Cô-penx) trong thung lũng Omo năm 1974 đã đem ra ánh sáng những phân bộ người hai chân cách đây vài triệu năm, với bộ óc 600 centimét khối, đã có thể chế tạo được những công cụ, vũ khí, chỗ ở. Thế là con người tinh khôn không còn xuất hiện cách đây 50 nghìn năm cùng với "vũ khí từ đầu đến chân" nữa, nhưng đã ra đời sau một tiến trình nhân hoá lâu dài cả triệu năm. Những phân bộ người, bây giờ đều không còn nữa, họ cũng đã biến thành người hết rồi. Và chúng ta là những kẻ cuối cùng trong bọn họ, đặc biệt với bộ óc lớn 1500 centimét khối.    Cũng như cuộc sống đã nẩy mầm trên quả đất, do một hoàn cảnh địa phương đặc biệt, con người xuất hiện từ sự sống, từ một nhánh động vật đặc thù, họ khỉ (động vật linh trưởng) sống trên cây ở những rừng nhiệt đới Phi châu. Con người vừa thuộc loại động vật này mà lại vừa khác nó. Đã có một lúc nào đó mà những điều kiện mới và đặc thù của lịch sử quả đất làm biến đổi thời tiết, thu hẹp rừng nhiệt đới, để cho trảng cỏ phát triển ở miền nam Phi châu. Sự kiện này đã đẩy tổ tiên của chúng ta trở thành phân bộ người trong việc phát triển cách đi bằng hai chân, biết chạy, săn bắt và dùng một cách có hệ thống những dụng cụ. Tiến trình biến hoá lâu dài của con người bắt đầu như thế rồi tiếp tục bởi sự sử dụng được lửa bởi những "con người đứng thẳng" (Homo erectus). Tiến trình này càng trở nên nhanh chóng trong 500 nghìn năm gần đây. Con người càng ngày càng sản xuất ra được dụng cụ thích hợp hơn, phát huy được những kỹ thuật săn bắt, xây nhà, may quần áo tốt hơn. Con người còn phức tạp hoá những liên hệ giữa người và người, làm phong phú hơn những sợi dây tình cảm, bè bạn, tình ái giữa đàn ông / đàn bà, giữa bố mẹ / con cái và trong cái tiến trình đa chiều, phân bộ người này đã hoá thân về mặt thể chất, trí não, tâm lý, tình cảm, xã hội: sự ra đời của ngôn ngữ, có lẽ còn trước sự xuất hiện của bản thân con người tinh khôn, đã hoàn tất sự truyền bá văn hoá có tính quyết định cho nhân loại (12).    Con người trong cả quá trình chuyển biến này không phải vì vậy mà có thể nói rằng đã thoát ra khỏi tính động vật của nó. Con người không phải là một "động vật hậu linh trưởng" nhưng là một "linh trưởng siêu cấp", nó đã phát triển được những năng lực rõ ràng, nhưng còn rời rạc, nhất thời, ngẫu nhiên nơi những động vật linh trưởng cao cấp như chế tạo ra công cụ, biết cách săn bắt và đi bằng hai chân. Con người không phải là một hậu động vật có vú nhưng là một động vật có vú siêu cấp, nó đã phát triển được ngọn lửa tình cảm giữa mẹ-con, giữa anh chị em, và gìn giữ được nó cho đến lúc trưởng thành, còn mở rộng nó ra trên tình yêu và tình bạn. Con người không phải là một siêu động vật có xương sống nhưng một động vật có xương sống trung bình, không biết bay, không biết bơi lặn sâu và chạy chậm hơn nhiều so với hổ, ngựa, nai nhưng cuối cùng nó đã vượt qua tất cả những động vật có xương sống trong mọi thành tích bằng cách tạo ra những kỹ thuật cho phép nó đạt được vận tốc trên bộ, trên mặt biển và dưới biển, chuyên chở ở trên không. Con người là một "con vật may mắn sống còn", bởi vì hàng tỷ tế bào tạo nên nó và luôn luôn tự đổi mới của nó đều cùng một họ với cái sinh vật tối sơ kia. Rồi con cháu của cái sinh vật tối sơ đó bằng cách cộng sinh đã cho ra đời những tế bào sinh vật có nhân của thế giới thảo mộc lẫn động vật. Những tế bào cùng họ này cũng là mẹ của những tế bào mà chúng tự sản sinh ra bằng cách nhân đôi. Cuối cùng con người là một siêu sinh vật bởi vì nó đã phát triển bằng phương thức cao cấp một số lớn những tiềm năng của cái tổ chức sống.   Bản sắc sinh vật của nó hoàn toàn thuộc về quả đất, nơi sự sống đã xuất hiện từ những pha trộn hoá học của đất trong nước xoáy dưới trời bão. Và bản sắc lý-hoá của đất vốn có ở tất cả các tổ chức sống mang trong bản thân nó đặc tính vũ trụ đa chủng loại, bởi vì những nguyên tử các-bon cần dùng cho sự sống ở quả đất đã được hình thành trong cái lò dữ dội của những mặt trời có trước mặt trời chúng ta và hàng tỷ tỷ những hạt làm thành thân thể chúng ta đã ra đời cách đây 15 tỷ năm trong buổi tạo lập huy hoàng của vũ trụ chúng ta.    Trong khi những thần thoại của các văn minh khác đều đặt thế giới loài người vào trong thiên nhiên thì "con người tây phương" (homo occidentalis) cho đến giữa thế kỷ XX vẫn còn hoàn toàn không biết và không có ý thức về việc mình mang trên người bản sắc của địa cầu và vũ trụ. Ngay cả đến ngày hôm nay, triết học và nhân loại học ở địa vị thống trị vẫn còn chối bỏ tất cả ý thức và hậu quả của đặc tính động- sinh vật nơi con người. Đối với họ tất cả mọi thừa nhận gốc gác địa cầu, vật lý và sinh vật nơi chúng ta đều là một loại "sinh cơ luận" (vitalisme) phi lý hoặc chỉ là một tà thuyết gọi là "sinh vật chủ nghĩa" (biologisme).   Cái sinh vật siêu cấp tức là con người này đã tạo nên nhiều lĩnh vực của sự sống: đời sống tinh thần, đời sống thần thoại, đời sống tư tưởng, đời sống tâm thức. Và bằng cách sản sinh những hình thức sống mới, tuỳ thuộc ngôn ngữ, khái niệm và ý niệm, nuôi dưỡng tinh thần và ý thức ; nó dần dần đã trở thành xa lạ đối với thế giới sinh vật và động vật. Từ đó chỗ đứng hai mặt của con người đã xuất hiện, một mặt nó hoàn toàn thuộc về bản chất sinh vật vật chất và vũ trụ, mặt khác nó thuộc về văn hoá, nghĩa là cái vũ trụ của tiếng nói, của thần thoại, tư tưởng, lý tính và lương tâm.    Cũng thế, từ cái bản sắc bám rễ xuống địa cầu và nằm trong vũ trụ, rồi còn vượt xa hơn, con người đã gầy dựng nên những bản sắc nhân loại riêng của mình: gia đình, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo, xã hội, quốc gia.    Tính thống nhất của nhân loại    Mặc dù có khác biệt về nhóm gien, về đất đai, cộng đồng, nghi lễ, thần thoại, tư tưởng, các đại diện của con người tinh khôn đều mang một bản sắc cơ bản chung của giống người. Không nói đến việc nó có được sinh ra bởi một ông thuỷ tổ duy nhất hay không, nhưng chắc chắn nó có cùng một loại gien giống nhau khiến cho giữa nam-nữ của bất cứ chủng tộc nào cũng có thể sinh dục-thụ thai được với nhau. Tính thống nhất về gien này, ngày nay đã quá rõ ràng, còn được kèm theo bởi sự thống nhất về thể trạng, về mặt giải phẫu và sinh lý nữa. Tính thống nhất về trí óc của "Con người tinh khôn" còn được thể hiện trong tổ chức đặc biệt của bộ não của nó so với những động vật thuộc bộ khỉ khác. Cuối cùng là tính thống nhất về tâm lý và tình cảm: dĩ nhiên cười, khóc, mỉm cười đều được điều chỉnh, che đậy hay phô bày nhiều cách tùy từng văn hoá ; nhưng dù có khác biệt rất xa giữa những văn hoá và các hình mẫu của nhân cách điển hình, nụ cười, giọt lệ và cái cười mỉm đều có tính phổ biến và tính bẩm sinh, được thể hiện qua những người câm, điếc, mù từ lúc lọt lòng : họ đã biết mỉm cười, cười, khóc mà không cần bắt chước ai cả (13).    Cái cộng đồng lưu lạc của "con người tinh khôn" xuất hiện từ 130 thế kỷ trước đây đã lan tràn trên lục địa Phi châu và Âu á, đã đi qua eo biển Behring (Bêrinh) lúc nơi đây vẫn còn là đất liền cách đây 100 nghìn năm, đến úc châu và Tân Ghi-nê cách đây 40 nghìn năm, cuối cùng đã cư ngụ trên quần đảo Polynésie (Pô-ly-nê-si) vài nghìn năm trước công nguyên.    Mặc dù con người đã tản mát ra trên nhiều miền đất, mặc dù thân thể, mầu da, mắt mũi đã phân hoá khác nhau, mặc dù những lễ nghi, tập tục không giống nhau, mặc dù khó hiểu nhau vì sự phân biệt về văn hoá, ngôn ngữ. Nhưng khắp nơi đều có thần thoại, nơi nào cũng có tính hợp lý, khắp nơi đều có sách lược, phát minh, đều có vũ điệu, tiết tấu, âm nhạc ; ở khắp nơi hoặc phô bầy hoặc che đậy, tùy theo từng văn hoá, cũng chắc chắn đều có lạc thú, tình yêu, âu yếm, tình bạn, cuồng nộ, hận thù. Khắp nơi đều có sự nẩy nở của trí tưởng tượng và dù có đa dạng về thành phần và liều lượng, ở đâu và lúc nào cũng đều có sự trộn lẫn không thể tách rời của lý trí và sự điên rồ.    Bất cứ loài hữu tính nào cũng đều sinh sản ra những cá thể khác nhau, không phải chỉ vì con số hầu như vô hạn của những tổ hợp giữa hai gia sản di truyền, mà còn bởi sự đa dạng của những điều kiện thức ăn, ảnh hưởng và ngẫu nhiên tác động đến sự hình thành của bào thai, rồi đến đứa trẻ sơ sinh. Các giống càng phức tạp thì những đa dạng cá thể càng lớn. Riêng về phần Con người (Homo), sự đa dạng hoá càng bành trướng, nhân lên, tăng cường độ với biến cố, tai nạn của tuổi thơ và tuổi thiếu niên, tuỳ vào sự theo hoặc chống lại ảnh hưởng gia đình, văn hoá, xã hội. Từ khi có chế độ ngoại hôn và cấm chỉ loạn luân, văn hoá càng khuyến khích và gia tăng sự nhào trộn gien. Rồi chiến tranh, xâm lược đã khuyếch đại sự nhào trộn này với những cuộc cưỡng dâm, bắt cóc, bắt làm nô lệ và pha trộn dân cư. Cuối cùng ngay du lịch, gặp gỡ xác thịt và hôn nhân cũng sẽ đa dạng hoá những gien di truyền của các cá nhân trong nội bộ một chủng tộc.    Sự đa dạng hoá cũng biểu hiện trên phương diện tâm lý-văn hoá. Tuỳ theo từng văn hoá mà những thái độ chủ đạo, những cử chỉ hiếu thắng hoặc ôn hoà được biểu hiện. Ngoài ra, trong tất cả văn minh (và nhất là trong nền văn minh của chúng ta) mỗi cá nhân có thể có nhiều nhân cách khác nhau tuỳ tính khí từng lúc và tuỳ từng người mà cá nhân này gặp, phải đối đầu hay chịu đựng (trẻ con, người thân, vợ, người tình, thượng cấp, thuộc hạ, giầu có, ăn mày v.v...); ngay ở cùng một con người sẽ có hai nhân cách hoàn toàn đối nghịch biểu hiện ra trong giận dữ hay trong tình yêu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng nhân cách khác nhau, bình thường ở trạng thái tiềm ẩn, nhưng có thể biểu hiện ra bất cứ lúc nào. Chính cái tính phong phú, đa dạng và phức tạp này cũng đã tạo thành tính thống nhất của con người.    Mỗi một con người là một vũ trụ thu nhỏ. Mỗi cá nhân là một tập hợp rất đông những nhân cách tiềm ẩn. Mỗi trạng thái tâm lý đều có thể tiết lộ hàng lô ảo giác, mơ mộng, tư duy. Từ khi sinh ra cho đến lúc chết, con người sống một bi kịch sâu thẳm, đầy thống khổ, lạc thú, cười vui, khóc lệ, đau buồn, bi thảm, hùng tráng. Mỗi người mang trong mình những kho tàng, những nhược điểm, những thiếu sót, những vực thẳm. Mỗi người đều mang trong mình cái năng lực yêu thương, hiến thân, cừu hận, oán giận, phục thù, tha thứ. Thừa nhận điều này cũng là thừa nhận bản sắc con người. Nguyên tắc của bản sắc con người là tính thống nhất nhiều mặt (unitas multiplex), một tính thống nhất đa phương, về phương diện sinh vật cũng như văn hoá, cá nhân.    Đó là điều mà thơ ca kể cho chúng ta nghe khắp mọi nơi, lại cũng là điều mà văn chương khắp nơi nói cho chúng ta biết. Và, dẫu chúng ta có xa cách nhau về ngôn ngữ, thời gian, văn hoá, chúng ta vẫn có thể qua văn học, thơ ca, âm nhạc, điện ảnh mà cảm thông với người nước ngoài. Cái chất chung tạo thành chúng ta đó mặc dù có đa dạng thế nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhận diện được nó nơi một người tỵ nạn An-ba-ni, một chàng chăn cừu xứ Sardaigne (Sác-đen-nhơ), một tay Samurai, một vị hoàng đế Trung quốc, một kẻ nô lệ La Mã, một gã khốn cùng ở Pa-ri, một tên thủ phạm ở Pe téc-xbua, cái anh chàng vô tội...   Những khác nhau sinh ra bởi sự đa dạng về ngôn ngữ, thần thoại, văn hoá mang tính chủng tộc trung tâm đã làm lu mờ bản sắc chung có tính sinh vật- nhân loại học. Người cổ sơ nhìn người lạ như thần linh hoặc ma quỷ. Kẻ thù thời hồng hoang, bị giết hay bị bắt làm nô lệ đã trở thành một thứ công cụ sống. Những bức rào che chở của mỗi văn hoá đã tự vây bọc lấy mình trong suốt thời kỳ nhân loại tản cư trên trái đất và từ giờ trở đi vẫn còn để lại những hậu quả ác liệt trong kỷ nguyên toàn cầu của chúng ta. Phần đông những mảnh nhân loại ngày nay đã chạm mặt nhau, đang gờm và đối địch với nhau vì chính sự đụng độ này. Những khác biệt trước kia không ai biết bây giờ đã mang hình thái cổ quái, điên rồ hoặc báng bổ, trở thành lý do của sự hiểu lầm và xung đột. Nhiều xã hội xem nhau như cừu thù và tàn sát lẫn nhau. Những tôn giáo độc thần tiêu diệt các thần linh của tôn giáo đa thần. Và mỗi thượng đế nhất thống, để đánh bại những kẻ cạnh tranh mình s1/2n sàng gửi tín đồ vào nơi dầu sôi lửa bỏng hoặc vào chỗ sát nhân hại mạng. Dân tộc, ý thức hệ đã dựng l ên những rào cản mới, khơi lên những cừu hận mới. Một tín đồ Hồi giáo, một tên tư bản, một tên cộng sản, một thằng phát-xít bỗng không còn là một con người nữa.    Vì vậy trước mắt việc ưu tiên cần làm là thông qua tính đa dạng của nhân loại phải tìm cách phô bầy, công bố tính thống nhất của loài người, bản sắc nhân loại, những điều phổ biến trong lãnh vực nhân loại học.    Chúng ta có thể tìm lại và kiện toàn tính thống nhất của con người, tính thống nhất mà "con người tinh khôn" đã làm mai một trên các nẻo đường di cư qua nhiều đại lục và những đảo, tính thống nhất mà ngay ở kỷ nguyên toàn cầu này vẫn thường bị phủ nhận nhiều hơn được công nhận. Chúng ta phải tìm lại được nó, không phải bằng một sự đồng chất hoá là cái thứ có thể nghiền nát các văn hoá dễ như chơi, nhưng ngược lại bằng cách nhìn nhận đầy đủ và để cho những vẻ đa dạng văn hoá được hoàn toàn phát triển. Điều này không hề ngăn cản tiến trình thống nhất hoá và tái đa dạng hoá ở mức độ rộng lớn hơn.   Vì vậy trong quá trình hình thành một quốc gia, tính đa dạng của các sắc tộc ngoại vi sẽ bị hội nhập, tuy có bị yếu đi, nhưng chúng không hề bị tiêu diệt. Sự đa dạng sẽ đóng góp làm cho tính thống nhất quốc gia được lớn hơn. Đó là nguồn gốc của những đa dạng mới hơn nữa giữa những văn hoá quốc gia. Cũng tương tự, ngay cả vào giai đoạn siêu-quốc gia, chúng ta cũng không nên tiêu diệt những đặc thù quốc gia, nhưng cần phải tước bỏ cái chủ quyền tuyệt đối của guồng máy Nhà nước, khích lệ sự lai giống giữa các chủng tộc và các văn hoá, nhất là ở những đô thị lớn, vốn là nơi thai nghén tính thống nhất mới cũng như những tính đa dạng mới.    Tìm lại và hoàn thiện tính thống nhất của con người có nghĩa là đầu tiên phải làm cho mọi người thấy được một cách cụ thể cái bản sắc chung. Đó là một điều sẽ xẩy ra qua những hình ảnh chớp nhoáng đồng cảm trên vô tuyến về những trẻ con Sômali, nạn nhân của nạn đói, những phụ nữ và trẻ em dưới đạn trái phá ở Sarajêvô. Đó dĩ nhiên cũng là sự phát triển tương ứng của tình thương đến từ con tim, của tinh thần nhân đạo, của một chủ nghĩa phổ quát chân chính và của sự tôn trọng những dị biệt. Nó giúp chúng ta vượt qua sự đui mù gây ra bởi chủ nghĩa chủng tộc trung tâm, bởi ý thức hệ mà thường làm cho chúng ta chỉ thấy người lạ kia là một người không cùng chủng tộc, đang đe dọa ta một cách thực sự hoặc hoang tưởng, nên dưới mắt ta nó chỉ là một con lợn, một con vật bẩn thỉu. Nhưng, như chúng ta sẽ nói ở phần sau, chính những cải cách tư duy và đạo đức sẽ cho phép tất cả và từng người trong chúng ta nhận biết ở tất cả và ở mỗi người cái bản sắc nhân loại của mình.    Bản sắc nhân loại, nghĩa là tính thống nhất / đa dạng phức tạp của con người đã bị che lấp và bóp méo ở ngay trong kỷ nguyên toàn cầu bởi sự phát triển theo hướng chuyên nghiệp hoá/ khu biệt hoá của các khoa học. Những đặc trưng sinh vật của con người đã được phân bố trong những khoa sinh vật và những ngành giáo dục y khoa ; những đặc trưng tâm lý, văn hoá và xã hội đã được chặt ra từng mảnh và sắp xếp lại trong nhiều phân khoa của khoa học nhân văn, theo kiểu làm sao cho khoa xã hội học không thể nào nhìn thấy được một cá nhân, để khoa tâm lý học không có khả năng nhìn thấy một xã hội, để khoa sử học tự tách rời khỏi những phân khoa khác và để khoa kinh tế học chỉ thấy ở con người tinh khôn rồ dại cái cặn bã mất máu của con người kinh tế (Homo economicus). Còn hơn nữa, khái niệm về con người đã bị rơi ra thành từng mảnh rời rạc và thuyết cấu trúc thắng thế đã tin rằng có thể dẹp bỏ một cách vĩnh viễn cái ảo giác lố bịch này. Triết học, bị nhốt trong những trừu tượng cao xa của nó đã chỉ có thể khai thông với nhân loại qua những kinh nghiệm và sự căng thẳng hiện sinh như những thứ của Pascal, Kierkegaard (Kie-cơ-ga), Heidegger (Hây-déc-gơ) nhưng không vì vậy mà rồi nó có thể kết hợp kinh nghiệm về tính chủ quan với một tri thức nhân loại học.    Chúng ta đã không có một tri thức nhân loại học tập trung, điều này không phải là một ngẫu nhiên. Nhưng bởi vì những khu biệt giữa các bộ môn và sự xơ cứng của các đại học đã cản trở sự tập trung và điều này càng trở nên nghiêm trọng khi các dữ liệu cho phép chúng kết hợp lại với nhau đến nay vẫn chưa ra đời. Trong những năm giữa 1955 và 1960 đã xuất hiện gần như cùng một lúc những lý thuyết đầu tiên về sự tự tổ chức (14) về tính phức tạp (15), những bước dọ dẫm của cái biện chứng phổ biến giữa các yếu tố trật tự, hỗn loạn và tổ chức. Từ đó, trên những tư duy về sự tự tổ chức sinh thái và sự sáp nhập những hỗn loạn vào tổ chức trí óc / tinh thần, cũng như từ những tiến bộ gặt hái được trong khoa thần kinh học, chúng ta có thể xem xét cái guồng máy thần kỳ gồm 100 tỷ nơ-ron thần kinh và hàng tỷ tỷ những tác động qua lại giữa những tế bào của bộ óc "con người tinh khôn rồ dại". Cuối cùng từ năm 1970, những điều kiện đã hội đủ để có thể đặt cơ sở cho một khoa nhân chủng học cơ bản (16).   Nhân chủng học, một khoa học nhiều kích thước, liên kết vào một mối tất cả các khoa sinh vật học, xã hội học, kinh tế học, lịch sử và tâm lý học, hầu như đã đưa ra ánh sáng tính thống nhất / tính đa dạng phức tạp của con người. Nó chỉ có thể được xây dựng một cách thực sự trên cơ sở tập trung và liên đới của tất cả các khoa học đã kể trên mà hiện nay chúng vẫn còn rời rạc, biệt lập nhau. Để có được sự tập trung này chúng ta cần chuyển từ cái tư duy đơn giản hoá, phiến diện hoá, cô lập hoá, mục lục hoá, trừu tượng hoá sang tư duy phức tạp (xem chương VII).    YÙ thức địa cầu    Cuộc cách mạng trong những quan niệm về con người, thế giới và vũ trụ xẩy ra ở Tây phương vào thế kỷ XV chỉ là một cuộc khủng hoảng nhỏ bé, cục bộ so với những đảo lộn long trời lở đất mà các thành quả khoa học cuối thế kỷ XX đã đem đến cho loài người.    Chúng ta đã phải từ bỏ một vũ trụ có trật tự, hoàn mỹ, vĩnh cửu để thay vào đó một vũ trụ sinh ra trong bức xạ, không ngừng lan rộng ; ở đó trật tự, hỗn loạn, tổ chức, phát sinh tác dụng lẫn nhau, nghĩa là bổ sung, cạnh tranh và đối lập với nhau. Chúng ta phải từ bỏ quan điểm về một chất liệu sống đặc biệt, có một sức sống riêng và thay vào đó bằng cái tính phức tạp của một tổ chức sống sinh ra trong những diễn biến lý-hoá của địa cầu. Chúng ta cần phải từ bỏ quan niệm về một con người siêu nhiên được tạo lập một cách riêng biệt để đi đến cái quan niệm rằng con người sinh ra theo một tiến trình trong đó nó là một sản phẩm của thiên nhiên và không thể tách rời khỏi môi trường này.   Chính bởi vì chúng ta hiểu rõ được vòm trời mà chúng ta mới có thể bén rễ xuống đất. Chính vì chúng ta hiểu rõ được quả đất mà chúng ta có thể làm sự sống bén rễ được trên đó. Chính vì chúng ta hiểu rõ được sự sống mà chúng ta mới bén rễ được vào nó.    Quả đất không phải là một tinh cầu vật lý, cộng với một sinh quyển, cộng với một nhân loại. Quả đất là một tổng thể phức tạp lý hoá-nhân loại ở đó sự sống là một sản phẩm xuất hiện trong quá trình phát triển của quả đất và con người là một sản phẩm xuất hiện từ quá trình phát triển của sự sống trên quả đất.    Sự sống là một lực lượng tổ chức lý-hoá, hoạt động trong bầu khí quyển mà nó đã tạo nên trên mặt đất, dưới mặt đất, trong các đại dương, ở những nơi nó đã lan tràn và phát triển.    Loài người là một thực thể thuộc địa cầu và sinh quyển    Chúng ta ở cách hàng triệu năm ánh sáng với cái quan điểm con người là trung tâm của vũ trụ và đồng thời chúng ta không thể xem con người, thiên nhiên, sự sống, vũ trụ là những thực thể hoàn toàn tách rời, không liên quan gì với nhau được.    Vào cuối thế kỷ thứ V của kỷ nguyên toàn cầu này đã xuất hiện một số thực tế về thân phận chúng ta mà trước kia chưa hề được biết đến:    - Chúng ta bị lạc lõng trong một vũ trụ vô biên    - Sự sống chỉ hiện hữu có một mình giữa thái dương hệ và có thể ngay cả trong thiên hà.    - Quả đất, sự sống, loài người, ý thức đều là kết quả của một cuộc phiêu lưu kỳ lạ với những diễn biến và đột biến lạ lùng.    - Loài người là một thành phần của cộng đồng có sinh mệnh, mặc dù cái ý thức nhân loại vẫn cô độc.    - Cộng đồng nhân loại cùng số phận, một trong những đặc điểm của kỷ nguyên toàn cầu, phải nằm trong khuôn khổ của cái cộng đồng mang số phận địa cầu.   Những tri thức mới này soi sáng cho chúng ta về số phận địa cầu của mình, nhưng lại dẫn chúng ta đến một sự vô tri khác. Một phần của những điều chúng ta không biết đã được giải đáp, nhưng một phần khác sẽ vĩnh viễn tồn tại vì sự giới hạn của đầu não con người (17). Cũng thế, những điều xác thực mới lại dẫn chúng ta đến chỗ mù mịt. Bây giờ chúng ta đã biết chúng ta từ đâu đến, nhưng chúng ta lại không biết cái mà chúng ta từ đó đến thì ở đâu ra, nghĩa là chúng ta vẫn không có gì chắc chắn đối với xuất xứ của vũ trụ và của sự sống. Chúng ta không biết vì sao đã có một vũ trụ mà lại không có một hư vô và chúng ta không biết cái vũ trụ này sẽ đi về đâu.   Vũ trụ mà chúng ta đang ở là một vũ trụ không phải tầm thường, cũng không phải bình thường, cũng chẳng phải hiển nhiên.    Quả đất là một thiên thể nhỏ bé không đáng kể trong vũ trụ, nhưng ngẫu nhiên đã trở thành không những một tinh cầu rất phức tạp mà còn là một khu vườn, khu vườn của chúng ta. Sự sống mà quả đất sản sinh ra để rồi nó được hưởng, rồi chúng ta được hưởng đã không sinh ra từ một sự cần thiết tiên thiên nào. Có thể nói sự sống này là duy nhất ở trong vũ trụ, duy nhất trong thái dương hệ, nó rất mong manh, hiếm hoi, quý báu bởi vì nó hiếm và dễ vỡ.    Chúng ta đã biết rằng tất cả những gì đang tồn tại chỉ có thể được sinh ra trong hỗn loạn và xoáy lốc, lại phải chống đỡ nhiều sự phá hoại. Vũ trụ đã tự tổ chức trong quá trình tự phân hoá. Mặt trời toả sáng ở nhiệt độ mà nó nổ. Sự sống đã lợi dụng chính nhiệt độ sinh ra trong quá trình tự huỷ hoại để tự tổ chức. Con người có thể đã không phát triển nếu nó đã không phải chống trả lại bao thách thức chết người, từ lúc những trảng cỏ lấn chiếm rừng rậm nhiệt đới cho đến thời băng hà của vùng ôn đới. Cuộc phiêu lưu nhân loại đầy dẫy những thiếu thốn và khốn khổ. "Con người" vốn là con của Poros (Pôrôx) và Penia (Pênia)(18). Tất cả những gì sống đều phải tự tái sinh không ngừng: Mặt trời, sinh vật, bầu khí quyển, xã hội, văn hoá, tình yêu. Nhiều khi đó là nỗi bất hạnh của chúng ta, nhưng đó cũng là ơn huệ và đặc quyền của chúng ta. Tất cả những gì quý báu trên quả đất đều mong manh và hiếm hoi. Ngay cả cái ý thức của chúng ta cũng thế thôi!    Chúng ta ở đây, những con người nhỏ bé, trên một lớp da mỏng của sự sống bao bọc chung quanh một tinh cầu nhỏ bé lạc lõng trong vũ trụ bao la. Chính cái vũ trụ khổng lồ này cũng có thể chỉ là một cái gì nhỏ bé trong một cái gì còn to lớn hơn nữa (19) nhưng cùng một lúc, hành tinh này là cả một thế giới, sự sống là một vũ trụ lúc nhúc hàng tỷ tỷ những cá thể và mỗi cá nhân là một vũ trụ đầy mộng mơ, khát vọng và dục vọng.   Hôm nay vào cuối thế kỷ thứ V của kỷ nguyên toàn cầu, cuối cùng chúng ta đã có thể nhận biết được cái cây phả hệ và tấm thẻ căn cước trên quả đất của mình và chính vào lúc này, lúc mà các xã hội phân tán đã bắt đầu liên lạc với nhau trên mặt đất, lúc mà vận mệnh chung của nhân loại trở thành một vấn đề liên đới thì sự nhìn nhận rằng quả đất là tổ quốc chung của chúng ta mới trở thành một điều có ý nghĩa.    Chú thích:    (1). Có thể được xem như những gì còn lại từ giai đoạn sơ khởi của tiến trình dị chất hoá trong việc phân phối vật chất trước khi hình thành các thiên thể.    (2). Người ý Giovanni Ardaino đã phân loại đá thành ba niên đại: Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (1759), Buffon xác định nền niên đại học đầu tiên của toàn thể quả đất, từ khi quả đất sinh ra với giả thuyết nó là một mảnh của mặt trời bị một sao chổi làm vỡ ra (Những thời đại của thiên nhiên, 1749 - 1778) ; ông ta đề xướng những tiến trình vật lý, động vật, thực vật và cuối cùng là nhân loại, trong tiến trình này "sự sống con người... chỉ là một cái chấm trong độ dài của thời gian.   (3). Nhà tự nhiên học người Mỹ James Dana đề xuất khái niệm về nếp lõm đã cho phép chúng ta hiểu sự hình thành của những lồi lõm địa tầng bởi những nếp gấp. (1873) Nhà địa chất học người úc Edouard Suess giải thích những hiện tượng hải xâm và hải thoái bởi sự thay đổi của mực nước đại dương (1875). Nhà địa chất học người Mỹ Dutton đã đề xướng vào năm 1889 học thuyết đẳng tĩnh của vỏ quả đất, trôi trên một môi trường lỏng.    (4). Xem Cl. Allègre "Nhập môn lịch sử tự nhiên" (Introduction à une histoire naturelle), Paris, Fayard,1992.    (5). Một số những đại phân tử có thể đến từ vũ trụ dưới dạng thiên thạch.    (6). Antoine Danchin đã đưa ra giả thuyết về nguồn gốc sự sống từ nham thạch ("một bình minh của đá" (Une aurore de pierre), Paris. Ed. du Seuil, 1990.    (7). Xem M. Eigen, "Tự tổ chức của vật chất và diễn biến của những đại phân tử sinh vật", (Self-organisation of the matter and the evolution of biological macromolecules), Natur-wissenschaft, t. 58, tr. 65. Thêm vào đó có thể nói đến kịch bản của nguồn gốc sự sống đến từ bên ngoài quả đất do Crick đề xướng.    (8). Đối với những khái niệm này xem E.Morin, "Phương pháp luận" (La méthode). Tập 2, "Sự sống của sự sống" (La vie de la Vie). Paris, Ed. du Seuil, Points essais, 1985, p 177 - 192   (9). Xem Morin (đặc biệt phần chu kỳ nhiệt đới, sự diễn biến sinh thái và những diễn biến sinh thái), Paris, "Phương pháp luận", t. 2, "Sự sống của sự sống" Sđd, tr. 21 - 30 - 34 - 36 - 47 - 56.   (10). J. Van Lawick-Goodall, "Những con tinh tinh và tôi", (Les chimpanzés et moi), Paris, Stock, 1971.    (11). Xem E. Morin, M. Piattelli-Palmarini, "Sự nhất thống của con người", (L unité de l homme), Paris, Ed. du Seuil, Points Essais, 1978, t.1, tr. 15-57.   (12). Đó là toàn bộ những quy tắc, nhận thức, kỹ năng, tri thức, giá trị, huyền thoại cho phép và bảo đảm tính phức tạp cao độ của cá nhân và xã hội con người mà chúng không phải là một cái gì có s1/2n, nên cần được chuyển giao, dạy dỗ cho từng người ở thời kỳ thực tập để có thể tự trường tồn và truyền lại tính phức tạp nhân loại-xã hội cao độ.    (13). L. Eibl - Eibesfeldt, "Yêu và ghét" (Love and hate), Holt, Rinehardt and Winson, New York, 1971. Cùng tác giả : (Similarities and differences between cultures in expressive movements), in Non Verbal Communication, Hinde, Cambridge University Press, Cambridge, 1972; và (Les universaux du comportment et leur genèse), 1974, in L Unité de l homme, sđd.   (14). H. von Foerste, G.w Zopf (eds), "Nguyên tắc tự tổ chức" (Principles of Self-Organisation). Pergamon, New York, 1962.    (15). J. von Neumann, "Lý thuyết về người máy tự tái sinh" (Theory of Self-Reproducing Automats), Illinois University Press, Urbana, 1996. J. Bronowski, "Những khái niệm mới trong diễn biến của tính phức tạp", (New Concepts in the Evolution of the Complexity), American Association for the Advance of Science, Boston, 1989.    (16). E. Morin, "Phạm thức thất lạc", sđd.    (17). Xem E. Morin, "Phương pháp luận", t. 3, "Tri thức của tri thức" Sđd, Ed. du Seuil, "Points Essais" 1992, p 222-223.    (18). Con của Penia (nghèo khó) nên lúc nào cũng phải tìm kiếm một cái gì đó, con của Poros (mưu chước) nên thường vẫn tìm được cách để đạt mục đích (Thần thoại Hy-lạp), (ND).    (19). Đối với khái niệm có nhiều vũ trụ, xem E. Morin "Phương pháp luận", t. 1, "Bản chất của thiên nhiên" (La nature de la nature). Paris, Ed. du Seuil "Point Essais ", 1981.     Sự Hấp Hối Toàn Cầu    Trong suốt thế kỷ XX, kinh tế, dân số, phát triển, sinh thái bắt đầu đã trở thành những vấn đề liên quan đến mọi quốc gia và mọi nền văn minh, nghĩa là đến toàn bộ thế giới.    Giờ đây trong những vấn đề này, một số đã trở thành quá hiển nhiên. Chúng ta hãy điểm nhanh qua trước khi đề cập đến những thứ khác đôi khi ít rõ ràng hơn mà chúng ta gọi là những vấn đề "hiển nhiên thứ yếu", vì sự vướng mắc về chúng vẫn tạo nên " cái vấn đề trong những vấn đề".    Những vấn đề Quá hiển nhiên    Sự rối loạn của kinh tế thế giới   Mặc dầu nhờ vào những hỗn loạn tất yếu, hiển nhiên, thị trường thế giới có thể được xem như một hệ thống tự tổ chức với khả năng sinh ra những điều chỉnh cho chính mình. Vì thế người ta có thể giả định rằng nếu có vài cơ cấu kiểm soát quốc tế là có thể làm dịu xuống những gia tăng quá độ, khắc phục được những tình trạng suy thoái, rồi sớm muộn sẽ chữa chạy và ức chế được những cuộc khủng hoảng.   Nhưng tất cả những hệ thống tự tổ chức thực ra đều có thể tự tổ chức sinh thái, nghĩa là nó vừa độc lập, vừa tuỳ thuộc vào một / những hệ thống sinh thái của bản thân nó. Chúng ta không thể nào xem kinh tế như một thực thể khép kín. Đó là một lĩnh vực vừa tự trị, vừa tuỳ thuộc những lĩnh vực khác (văn hoá, xã hội, chính trị), những lĩnh vực khác này cũng vừa độc lập lại vừa phụ thuộc lẫn nhau. Như thế, tiên đề của kinh tế thị trường là xem như có một tổng thể hoàn chỉnh với những cơ chế ăn khớp nhau. Nhưng cái tổng thể hoàn chỉnh này lại không hề tồn tại trên bình diện toàn cầu.    Chính mối quan hệ với những gì phi kinh tế là cái mà khoa kinh tế hiện còn thiếu. Kinh tế học là một khoa học mà trình độ toán học hoá cùng hình thức hoá càng ngày càng trở nên chính xác, tinh vi. Nhưng những phẩm chất này lại chứa đựng một khuyết điểm là sự trừu tượng làm nó xa rời khỏi bối cảnh (xã hội, văn hoá, chính trị). Nó hơn được về mặt chính xác hình thức vì quên đi tính phức tạp của vị trí thực sự của nó, nghĩa là quên rằng kinh tế vốn tuỳ thuộc vào cái vẫn tuỳ thuộc vào nó. Cũng thế, tri thức kinh tế khi tự giới hạn trong lĩnh vực kinh tế sẽ không còn khả năng dự báo những nhiễu loạn, biến đổi và như vậy sẽ sa vào trạng thái mù loà về mặt chức năng.    Kinh tế thế giới dường như vẫn dao động giữa khủng hoảng và phi khủng hoảng, rối loạn và tái điều chỉnh. Bị rối loạn nghiêm trọng, nó vẫn không ngừng gượng lại bằng những điều tiết từng phần, nhiều khi với giá phải trả là phá huỷ vật chất (ví dụ những thặng dư để bảo tồn giá sản phẩm) và những tổn thất dây chuyền về nhân lực, văn hoá, đạo đức, xã hội (ví dụ thất nghiệp, tăng trồng những cây ma tuý). Từ thế kỷ XIX, sự tăng trưởng kinh tế không phải chỉ trở thành một động lực mà còn là một phương pháp điều tiết kinh tế bằng cách tăng cầu cùng một lúc với cung. Nhưng đồng thời nó đã phá vỡ một cách vô phương cứu chữa những văn minh thôn xóm, văn hóa cổ truyền. Nó đem đến nhiều cải thiện to lớn trên phương diện mức sống, nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều nhiễu loạn trong phương thức sinh hoạt.    Dù sao đi nữa người ta đã thấy hình thành và xuất hiện trên thị trường thế giới những hiện tượng sau:   - Sự hỗn loạn về giá cả nguyên vật liệu với những hậu quả dây chuyền tai hại.    - Tính chất nhân tạo và tạm thời của sự điều chỉnh bằng tiền tệ (can thiệp của những ngân hàng trung ương để điều chỉnh hối suất, ví dụ để ngăn ngừa sự mất giá của đồng đô la).    - Không thể nào tìm được cách điều chỉnh kinh tế cho vấn đề tiền tệ (nợ nước ngoài trong đó là nợ của các nước đang phát triển lên đến hàng trăm tỷ đô la) cũng như không thể nào tìm được cách điều chỉnh tiền tệ đối với các vấn đề kinh tế (để mặc hay tái lập tự do trên giá bánh mì, cút-cút (1) v.v...) bởi vì những thứ này đồng thời cũng là những vấn đề xã hội và chính trị.    - Sự ung thối gây ra bởi bọn ma-phia hoành hành trên tất cả các đại lục    - Tính dễ bị chao đảo của thị trường trước những xáo trộn không chỉ đơn thuần về kinh tế (đóng cửa biên giới, phong toả, chiến tranh)    - Tính cạnh tranh trên thị thường thế giới kéo theo việc chuyên môn hoá của những nền kinh tế địa phương và quốc gia, điều này gây ra sự liên kết càng ngày càng cốt tử giữa mỗi thành viên với tất cả, nhưng nếu chẳng may có khủng hoảng hay đảo lộn xã hội, chính trị, khối liên kết này khi tan vỡ sẽ đưa các thành viên và tất cả lâm vào cửa tử.   Ngoài ra, sự tăng trưởng kinh tế còn gây ra những hỗn loạn mới. Tính chất luỹ thừa (tăng trưởng vô độ - ND) của nó không chỉ tạo nên một tiến trình suy thoái đa dạng của sinh quyển mà còn đưa đến một tiến trình suy thoái nhiều mặt của tâm quyển (psychosphère) tức là đời sống tinh thần, tình cảm, đạo đức của chúng ta và tất cả cái đó kéo theo các hậu quả dây chuyền và tuần hoàn.    Sau nước, biển, nắng, những bộ phận của thân thể con người như máu, tinh trùng, trứng, mô bào thai đã trở thành hàng hoá. Đúng như Mác đã tiên đoán, hậu quả của văn minh, khi tất cả đều trở thành hàng hoá, sẽ đưa đến sự lụi tàn của quà tặng, của sự cho không, biếu xén, phục vụ, giúp đỡ. Tính cách phi tiền tệ cơ hồ đã biến mất, nó kéo theo sự suy thoái của những giá trị nằm ngoài cái bả lợi lộc, lời lãi tài chính và sự khát khao giầu có...    Cuối cùng, một guồng máy đáng sợ đã khởi động như René Passet (Rơ-nê Pa-sê) nói : " một cuộc đua tranh điên cuồng bắt con người dùng trăm phương ngàn kế để tìm lấy sự dư thừa năng suất. Sự dư thừa này thay vì được phân chia cho những người tiêu thụ, người làm công và người đầu tư thì chủ yếu lại bị đem dùng vào việc giảm chi phí để có thêm thặng dư năng suất mới, rồi chính nó lại cũng v.v..."    (1). Trong cuộc cạnh tranh này, sự phát triển công nghệ sẽ được sử dụng ngay tức khắc để nâng năng suất và tăng doanh thu, tạo và tăng chỉ số thất nghiệp (2), làm rối loạn nhịp sống tự nhiên của con người.   Chắc chắn sự cạnh tranh sẽ cùng một lúc là yếu tố kích thích và điều chỉnh đối với kinh tế, ngay cả những hỗn loạn của nó như trong sự hình thành những độc quyền cũng có thể được khắc phục bởi những luật chống tờ-rớt, nhưng cái điều mới là sự cạnh tranh quốc tế bắt đầu nuôi dưỡng một sự tăng tốc mà chúng ta phải hy sinh cho nó sự thoải mái, những khả năng cải cách và nếu không phanh được nó lại, nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ... nổ tung? tan rã? đột biến?    Sự mất quân bình nhân khẩu của thế giới   Năm 1800 chỉ có một tỷ người, hiện nay đã lên đến 6 tỷ. Người ta dự trù sẽ có khoảng 10 tỷ vào năm 2050.    Sự tiến bộ của vệ sinh và y tế ở những nước nghèo làm giảm số trẻ tử vong mà không làm giảm tỷ lệ sinh đẻ. Những phúc lợi và cải thiện do văn minh mang lại làm giảm tỷ lệ sinh đẻ trong những xứ giầu. Nhưng mức độ tăng dân của thế giới người nghèo không những đã bù đắp mà còn vượt quá sự giảm dân ở thế giới người giàu. Cho đến bao giờ ? Những dự kiến thê thảm cho rằng nó sẽ vượt quá khả năng sinh tồn, tạo thành nạn đói lan rộng, đẩy những làn sóng người bần cùng di tản đến các nước Tây phương. Nhưng cũng có những nhân tố làm chậm lại tiến trình này, đó là các chính sách hạn chế sinh đẻ (ấn độ, Trung quốc), khuynh hướng tự nhiên ít con do tiến bộ của phúc lợi và sự hiện đại hoá các tập tục mang lại.    Vì vậy chúng ta không nên có cái nhìn phiến diện đối với tiến trình tiến hoá của vấn đề nhân khẩu mà phải đặt nó vào bối cảnh phát triển tổng thể của xã hội, văn hoá, chính trị.    Sự diễn biến của nhân khẩu vẫn còn tiếp tục có những điều không thể dự đoán được. Đến nay ở Âu châu, các thay đổi lớn trong tăng giảm dân số đã nằm ngoài mọi tiên liệu. Ví dụ có một sự tăng vọt dân số bất ngờ năm 1014 và tiếp tục trong giai đoạn sau chiến tranh, rồi vào những năm cuối thập kỷ 50 bỗng xảy ra một sự giảm dân số đột ngột khởi sự từ Béc-lanh và lan rộng ra khắp châu Âu. Mà cũng không có gì chắc chắn là sự tăng trưởng dân số thế giới hiện nay sẽ nhất thiết tiếp tục tăng với chỉ số nổ bùng như thế.    Nguy cơ sinh thái    Từ năm 1964 khi Ehrlich (Ec-lích) tuyên bố về cái chết của đại dương, đến 1972, năm ra đời của bản báo cáo Meadows (Mí-đâu) do Câu lạc bộ Rôm-ma đặt làm, tính chất siêu quốc gia và toàn cầu của hiểm hoạ sinh thái đã xuất hiện.    Tiếp theo những năm 1969-1972, giai đoạn có nhiều dự báo hãi hùng về ngày tận thế của nhân loại, là một thời kỳ suy thoái sinh thái xẩy ra dồn dập ở mức độ địa phương: đồng ruộng, rừng, hồ, sông, đô thị đều bị ô nhiễm, nhưng chỉ đến những năm 1980 mới xuất hiện những sự kiện sau :   1/ Những tai họa địa phương có tầm cỡ với hậu quả sâu rộng: Seveso (Sêvêsô), Bhopal (Bôpan), Tree Mile Island (Thri Mail Ailân), Tchernobyl (Chécnôbưn), biển d Aral bị khô, hồ Baikal bị ô nhiễm, những thành phố đã đạt đến mức độ bị nghẹt thở (Mêhicô, Aten). Người ta đã hiểu được rằng những hiểm hoạ sinh thái giờ đây không còn biết đến biên giới quốc gia là gì nữa. Sông Rhin (Ranh) bị ô nhiễm liên quan cùng một lúc đến cả Thụy sĩ, Pháp, Đức, Hà lan và biển Bắc Âu. Sự ô nhiễm từ Tchernobyl đã lan tràn và vượt khỏi biên giới lục địa Âu châu.    2/ Những vấn đề tổng quát: Trong các quốc gia công nghiệp vấn đề ô nhiễm nước kể cả những nguồn nước ngầm, vấn đề sử dụng quá mức thuốc trừ sâu và phân hoá học làm đất bị nhiễm độc, vấn đề đô thị hoá hàng loạt những vùng sinh thái mong manh (như các vùng bờ biển), việc tồn trữ những chất thải độc hại, mưa axit. Trong nhiều nước chưa có nền công nghiệp là nạn sa mạc hoá, nạn phá rừng, đất trôi, đất mặn, lụt lội, xây dựng không có kế hoạch trong những đô thị quá lớn bị nhiễm độc bởi dioxyt lưu huỳnh (làm dễ phát sinh bệnh suyễn), bởi cácbon monoxyt (gây ra rối loạn chức năng não và tim) bởi dioxyt nitơ (dẫn đến chứng trầm uất - miễn dịch).    3/ Những vấn đề liên quan đến thế giới như một tổng thể: Khí thải CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm nhiễm độc vi sinh vật ở những nơi thải, phá huỷ quy trình sống trọng yếu, ăn dần tầng ôdôn của đồng ôn quyển (stratosphère), lỗ hổng ôdôn ở trên châu Nam cực, quá nhiều ôdôn ở quyển đối lưu (phần thấp nhất của khí quyển - troposphère).    Từ đó, ý thức sinh thái đã trở thành một nhận thức về vấn đề tổng thể và về cái nguy cơ tổng thể đang đe dọa địa cầu như Jean Marie Pelt (Giăng Mari Pen) đã nói: "Nhân loại đang phá huỷ, từng cái một, những hệ thống phòng ngự của cơ thể trái đất".   ở giai đoạn đầu, những phản ứng đối với các nguy cơ mới chỉ ở mức độ địa phương và mang tính kỹ thuật. Nhưng sau đó nhiều tổ chức, đảng phái đấu tranh cho sinh thái đã xuất hiện và các Bộ bảo vệ môi trường cũng đã được thiết lập trong chính phủ của 70 quốc gia. Năm 1972, hội nghị Stockholm (Xtốc-hôm) đã xúc tiến sự ra đời những tổ chức quốc tế chuyên trách về môi trường (PNUE), những chương trình nghiên cứu và hành động quốc tế đã được tổ chức (Chương trình Liên hiệp quốc cho môi trường, chương trình về con người và về sinh quyển của UNESCO). Cuối cùng năm 1992, Hội nghị Riô đã tụ hợp 175 nước. Chúng ta cần phải dung hoà được nhu cầu bảo vệ sinh thái và nhu cầu tăng trưởng kinh tế của thế giới thứ ba. Quan niệm "phát triển bền vững" phải hàm chứa một sự đối chiếu giữa quan niệm phát triển, nghĩa là gia tăng ô nhiễm, với ý niệm môi trường nghĩa là có nhu cầu giảm ô nhiễm :    Phát triển -------------> Môi trường    <-----------------------------l    Dù sao đi nữa, ngay cả ý niệm về phát triển vẫn chỉ còn là một cái gì lạc hậu ghê gớm (chúng ta sẽ trở lại vấn đề này), nó thật sự vẫn còn chưa được suy gẫm lại, ngay cả trong ý niệm "phát triển bên vững".    Hội nghị Riô đã thông qua một tuyên bố về rừng, một công ước về khí hậu và về bảo hộ sự đa dạng sinh vật. Nó đã soạn thảo chương trình hành động 21 (thế kỷ XXI) nhằm thúc đẩy toàn bộ Liên hiệp quốc trong việc bảo vệ bầu sinh quyển.    Đấy mới chỉ là một bước đầu. Bầu sinh quyển vẫn tiếp tục bị hư hại, nạn sa mạc hoá và nạn phá rừng nhiệt đới vẫn gia tăng, sự đa dạng của sinh vật càng ngày càng giảm. Tốc độ phá hoại vẫn tiếp tục đi nhanh hơn hồi phục.    Đối với viễn ảnh 30 năm sắp tới, hai cách nhìn đang đối nghịch nhau: Những kẻ "bi quan" cho rằng tình thế hư hại lan rộng trên sinh quyển là không thể xoay chuyển được, với khí hậu thay đổi, nhiệt độ và lượng nước biển bốc hơi gia tăng, mực nước biển dâng lên (từ 30 - 40 cm), các vùng hạn hán lan rộng. Những kẻ "lạc quan" cho rằng sinh quyển vẫn có một tiềm năng tự vệ miễn dịch, tự tái sinh, cho phép nó tự cứu lấy mình và rồi số nhân khẩu quả đất sẽ được ổn định vào khoảng 8,5 tỷ người.    Dù sao đi nữa, trách nhiệm chúng ta là phải thận trọng. Chúng ta cần có một tư tưởng sinh thái xây dựng trên quan niệm tự tổ chức sinh thái, lúc nào cũng phải hết sức chú trọng đến mối liện hệ cốt tử giữa mọi hệ thống sinh vật, nhân loại hay xã hội với môi trường của chúng.    Khủng hoảng của phát triển   ý niệm phát triển là một ý niệm then chốt của những năm hậu chiến. Đã có một thế giới gọi là phát triển bị chia ra làm hai, khối "Tư bản chủ nghĩa" và khối "Xã hội chủ nghĩa". Cái này cũng như cái kia đã đem tới cho thế giới thứ ba một kiểu mẫu phát triển riêng của nó. Hôm nay, sau nhiều thất bại của kiểu phát triển "tư bản chủ nghĩa" tây phương, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản máy móc cũng đã dẫn đến sự phá sản của mô hình phát triển "xã hội chủ nghĩa". Hơn thế nữa, một cuộc khủng hoảng phát triển nói chung đang diễn ra trên phạm vi thế giới. "Vấn đề phát triển đã trực tiếp vấp vào vấn đề văn hoá / văn minh và vấn đề sinh thái". Thậm chí nghĩa của chữ phát triển (như người ta đã tiếp thu nó) còn hàm chứa và gợi lên cái nghĩa kém mở mang (chậm tiến). Từ giờ trở đi đối với nghĩa thật của chữ này ta cần phải biết hoài nghi, nhưng để đặt vấn đề, trước hết chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề thuộc loại hai.     Các vấn đề hiển nhiên thứ yếu     Tiến trình đôi: đối địch và liên kết,    Sự liên đới và Ban-căng hoá địa cầu       Hình thức Nhà nước - quốc gia đã rõ nét bắt đầu ở một số nước Âu châu từ thế kỷ XVII đến XVIII. Vào thế kỷ XIX, hình thức này đã lan ra trên lục địa Âu châu và Nam Mỹ. Thế kỷ XX đã phổ biến mô hình này lên khắp châu Âu (với sự sụp đổ của đế quốc Ôt tô-man, đế quốc áo-Hung rồi Liên xô), và trên khắp thế giới (với sự tan rã của các đế quốc thực dân Anh, Pháp, Hà lan, Bồ Đào Nha). Toàn bộ thành viên Liên hiệp quốc hôm nay quy tụ khoảng gần 200 Nhà nước có chủ quyền.    Những Nhà nước - quốc gia đầu tiên (Pháp, Anh, Tây Ban Nha) bắt đầu bằng tập hợp và sáp nhập những chủng tộc khác nhau vào trong một không gian văn minh rộng lớn hơn, ở đó dần dần hình thành và phát triển một tính thống nhất dân tộc. Những quốc gia đa chủng tộc hình thành ở thế kỷ XX đã không có đủ thời gian lịch sử cần thiết để nhất thể hóa và sẽ tan rã khi mất đi sợi dây trói buộc dùng để duy trì sự thống nhất của chúng như trường hợp điển hình là Nam-tư. Nhiều Nhà nước - quốc gia đã được thành lập sau khi các sắc tộc giành được chủ quyền từ ách thống trị của một đế quốc, và trong số những sắc tộc từ bao đời đã đan, quyện vào nhau này, rất nhiều cộng đồng còn mang trong chúng những dân tộc thiểu số. Từ đó bắt nguồn không biết bao nhiêu xung đột và lòng cuồng nhiệt dân tộc chủ nghĩa đôi khi nổ bùng, đôi khi âm ỉ dưới sự đè nén của những cường quốc.    Trong thế kỷ XX, cái khát vọng thành lập một quốc gia với guồng máy Nhà nước ở nơi mà trước kia chỉ có một chủng tộc là một khát vọng ngày càng không cưỡng lại được. Nguyện vọng này thường đi ngược lại những thực tế hoặc những quyền lợi kinh tế, nó chứng tỏ đòi hỏi này còn có những nguyên do khác (nhu cầu tự chủ và tự khẳng định, nhu cầu tìm về nguồn gốc cộng đồng).   Một hiện tượng lạ lùng càng ngày càng phổ biến là sự bén rễ hoặc tái bén rễ về phương diện sắc tộc hay tôn giáo lại kết tinh trên hình thức Nhà nước - quốc gia. Để có thể hiểu được vấn đề này ta phải thấy rằng khái niệm Nhà nước - quốc gia có chất chứa một nội dung thần thoại / tình cảm cực kỳ nóng bỏng. Tổ quốc là một từ ngữ lưỡng tính gồm ở trong nó cả mẫu và phụ hệ. Cái kết hợp mẫu - ái quốc đem đến giá trị của người mẹ cho nước mẹ, đất mẹ và dĩ nhiên cả tình yêu đối với nó và cũng đem lại quyền lực của người cha cho Nhà nước mà đối với nó ta phải phục tùng vô điều kiện. Sự thuộc về cùng một tổ quốc thể hiện được cái hình thức cộng đồng anh em nơi những đứa con tổ quốc (1). Tình cảm anh em thần thoại này có thể tụ hợp lại dưới trướng nó hàng triệu người chẳng có liên hệ huyết thống gì với nhau. Và như thế là quốc gia đã phục hồi được trong kích thước hiện đại cái tình cảm ấm áp của quan hệ gia đình, họ tộc hay bộ lạc đã mất đi vì chính nền văn minh hiện đại vốn có khuynh hướng phân hoá con người thành những cá nhân riêng rẽ. Nó khôi phục lại nơi người lớn cái liên hệ của đứa trẻ giữa gia đình đầm ấm và che chở. Cùng một lúc, nhà nước đem lại bạo lực, vũ khí, uy quyền, tự vệ. Lúc đó, những cá nhân đang không biết mình ở đâu trước những nguy cơ hiện tại hoặc tương lai đã tìm thấy được ở Nhà nước - quốc gia sự an toàn và cái cộng đồng mà họ chờ đợi.   Thật là ngược đời khi chính bản thân kỷ nguyên toàn cầu lại cho phép và thúc đẩy sự manh mún hoá thế giới này thành những Nhà nước - quốc gia. Thật vậy, sự đòi hỏi thành lập quốc gia được thúc đẩy bởi một phong trào tìm về với nguồn gốc bản sắc tổ tiên, một trào lưu nhằm chống lại khuynh hướng đồng chất hoá của văn minh toàn cầu. Và sự khủng hoảng tương lai đang lan rộng lại càng đẩy mạnh đòi hỏi này. Cùng một lúc với phong trào tìm về với nguồn gốc gia đình / thần thoại trong quá khứ, Nhà nước - quốc gia còn cho phép tổ chức hiện tại và đương đầu với tương lai. Chính qua nó mà kỹ thuật, bộ máy hành chính, quân đội sẽ thực hiện được thế lực và quyền uy cho cộng đồng. Vì vậy, Nhà nước - quốc gia đáp ứng một đòi hỏi xa xưa mà thời hiện đại đã mang về, đồng thời đáp ứng một thôi thúc hiện đại đang muốn làm sống lại cái đòi hỏi cổ sơ.    Dĩ nhiên, qua sự đổ vỡ của các đế quốc, kể cả đế quốc Liên xô gần đây, sự tan rã thành nhiều quốc gia và ngay cả những quốc gia cực nhỏ đã có tính cách giải phóng và sự tìm về với nguồn gốc chủng tộc hay dân tộc cũng chứa đựng những tiềm năng đổi mới. Nhưng những Nhà nước - quốc gia nhiều sắc tộc, vừa thoát thai từ những đế quốc tan vỡ, lại chưa có đủ thời gian lịch sử để dung hợp các sắc tộc hoặc các dân tộc thiểu số của chúng, điều này cũng trở thành nguồn gốc của xung đột và chiến tranh. Cái mà các thành quốc hoặc các đế quốc có thể dung dưỡng thì bây giờ Nhà nước - quốc gia lại chà đạp, đánh đuổi hoặc tiêu diệt: đó là dân tộc thiểu số. Tính chất tuyệt đối về chủ quyền, sự chối từ tất cả các quyết định đến từ những cấp cao hơn chúng, tính cách mù quáng, xung đột và nhiều khi điên rồ của những quan hệ giữa các Nhà nước với nhau, cộng với sự yếu kém cơ bản của mầm mống một cơ cấu siêu quốc gia, vừa phiến diện vừa thiên vị là Liên hiệp quốc; tất cả những thứ này đã gây ra khắp nơi một sự Ban-căng hoá ngay vào lúc mà kỷ nguyên toàn cầu không những đòi hỏi một sự liên kết các Nhà nước - quốc gia lại mà đối với những vấn đề sinh tử liên quan đến nhân loại về mặt tổng thể còn cần vượt qua cả cái chủ quyền tuyệt đối của chúng nữa.    Trên thực tế, sự sinh sôi nẩy nở của Nhà nước - quốc gia mới này đã ngăn chặn sự thành lập những hình thức hợp bang hoặc liên bang lớn rất cần thiết cho các vấn đề hỗ tương liên đới càng ngày càng gia tăng. Vì vậy sau khi đã làm xong nhiệm vụ lịch sử phong phú là dựng lên những không gian văn minh lớn hơn các thành quốc và chặt chẽ hơn các đế quốc, Nhà nước - quốc gia với chủ quyền tuyệt đối là một sức mạnh cưỡng chế trên mọi mặt, lại bẻ gẫy gần như khắp nơi những khả năng kết hợp (3) và cản trở sự hình thành những cơ cấu hợp tác siêu quốc gia.    Dù sao đi nữa, các Nhà nước - quốc gia, ngay cả những Nhà nước - quốc gia lớn gồm nhiều chủng tộc từ đây đã trở thành quá bé nhỏ đối với những vấn đề bắt đầu trở thành liên và siêu quốc gia: vấn đề kinh tế, phát triển, văn minh kỹ thuật công nghiệp, vấn đề đồng chất hoá những lối và cách sống, vấn đề tan vỡ của một thế giới nông dân có lịch sử lâu đời, vấn đề sinh thái, ma tuý v.v.. là những vấn đề toàn cầu vượt khỏi tầm tay một dân tộc. Vì vậy sự bế quan toả cảng, sự Ban-căng hoá khắp nơi đã gây nên một vài trong những hiểm họa chính của cuối thiên niên kỷ này.   Qua những đối kháng giữa các quốc gia, những đối kháng tôn giáo lại tái sinh, nhất là trong những vùng vừa chồng chéo vừa đứt đoạn như ấn độ/Pa-kít-xtan và Trung đông. Đối kháng giữa hiện đại/truyền thống càng trở thành trầm trọng hơn và biến thành đối kháng giữa tính hiện đại/ nguyên giáo chủ nghĩa. Đối kháng chính trị dân chủ/ cực quyền cũng giảm thiểu để nhường chỗ cho một đối kháng ác liệt hơn: dân chủ/ độc tài. Đối kháng Tây phương/Đông phương vừa sống nhờ vào những đối kháng này lại vừa nuôi dưỡng nó, cũng như đối kháng Bắc/Nam mà trên đó còn chồng chéo thêm những xung đột kinh tế, quyền lợi chiến lược của những cường quốc. Tất cả những đối kháng này đã gặp nhau trong những vùng động đất lớn của quả đất (trong đó có vùng kéo từ Acménia/Azecbaizan đến Xu-đăng) và tập trung ở khắp nơi có những tôn giáo và chủng tộc xen kẽ, có biên giới giữa các nước bị chia cắt một cách tuỳ tiện, có tình thế đối địch cuồng nhiệt và bất chấp mọi trật tự như ở Trung đông.    Cuối cùng chúng ta cũng có thể nhắc đến ba cuộc khủng hoảng đã tạo ra một vùng áp thấp từ Gdansk (Gơ-đanxk) đến Vladivostok (Vla-đi-vô-xtốc):    - Khủng hoảng chính trị ở những nơi mà chế độ cực quyền sau khi tan rã chỉ đưa đến tình trạng tập quyền thống trị bất quá chỉ nhường chỗ cho vài mầm mống dân chủ rất mờ nhạt và bấp bênh.    - Khủng hoảng kinh tế làm người dân đột nhiên bị mất đi sự an toàn và đời sống tối thiểu mà thể chế cũ đã bảo đảm cho họ, trong khi họ vẫn chưa thấy được những lợi ích mơ ước từ lâu.    - Khủng hoảng quốc gia nơi những sắc dân sau khi đã đòi được chủ quyền quốc gia lại quay ra chống đối và đàn áp những thiểu số ở trong nội bộ của chúng vì những thiểu số này cũng đòi hỏi những quyền tương tự. Điều này làm chủ nghĩa dân tộc bùng nổ đến cực độ. Ba cuộc khủng hoảng này nuôi dưỡng lẫn nhau: khủng hoảng kinh tế đẩy mạnh những cuồng loạn dân tộc chủ nghĩa và cả hai thứ đều tạo cơ hội cho những chính thể độc tài lên nắm quyền. Như triết gia người It-xra-en Leibovitz (Lây-bô-vít) đã nói: "Người ta dễ dàng từ chủ nghĩa nhân đạo ngả sang chủ nghĩa dân tộc, lại từ chủ nghĩa dân tộc sang chủ nghĩa thú vật"   Chúng ta mới chỉ ở vào lúc đầu của giai đoạn hình thành cơn bão lịch sử về khủng hoảng, thổi ở mức độ chưa ác liệt lắm, và người ta chưa biết cái gì cuối cùng sẽ xẩy ra ở Âu châu khi trào lưu kết hợp của Tây phương gặp làn sóng phân liệt từ Đông phương đến.    Cùng lúc đó, Phi châu đã khủng hoảng (4) càng thấy tình thế của mình trở nên tệ hại hơn vì sự sụp đổ của các chính thể độc tài kiểu xã hội chủ nghĩa, vì bất lực trong việc dân chủ hoá chúng, vì sự rút lui của vốn đầu tư Tây phương, vì sự yếu kém hay thối nát của bộ máy hành chính, và vì không khí chiến tranh không ngừng nghỉ giữa các bộ lạc hay tôn giáo, tất cả đưa đến một tình cảnh điêu tàn, đói khổ ngày càng trầm trọng ở Sô-ma-li, Ê-ti-ô-pi, Xu-đan, Mô-dăm bíc.    Lục địa châu á cũng không thoát khỏi những bất ổn và biến động hoặc chiến tranh sắc tộc tại Trung quốc hay ấn-độ thường vẫn kéo theo những tai biến nhân loại lớn lao.    Như vậy thế kỷ XX đã cùng một lúc tạo nên và xé ra thành từng mảnh cái mạng lưới tổ chức duy nhất của quả đất, những mảng này tự cô lập, gây hấn, đánh lẫn nhau như thể chỉ muốn huỷ diệt cái hệ thống tổ chức mà nếu không có nó chúng sẽ không thể nào tồn tại và phát triển được.   Trên vũ đài thế giới, những quốc gia chiếm được vị thế chủ đạo không kể hùng mạnh hay yếu đuối đều đóng vai thô bạo và điên dại. Làm sao có thể vượt qua được cái thời đại dã man này?    Khủng hoảng về tương lai lan rộng    Châu Âu đã gieo rắc trên toàn thế giới niềm tin vào sự tiến bộ. Những xã hội bị tách rời khỏi truyền thống không còn nhìn tương lai với đôi mắt đã nhìn những bài học quá khứ nữa, chúng chỉ thấy trước mắt một tương lai huy hoàng và hứa hẹn. Thời gian là một chuyển động đi lên. Sự tiến bộ được đồng hoá với chính bước tiến của lịch sử nhân loại và nó được dương cao bằng sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, của lý tính. Sự mất mát những liên hệ với quá khứ được thay thế, bù lại bằng món lợi của việc thu ngắn được đoạn đường trước mặt. Lòng tin mới mẻ vào sự phát triển, tiến bộ, vào tương lai đã trùm lên khắp quả đất. Lòng tin này là nền móng chung cho hệ tư tưởng dân chủ-tư bản chủ nghĩa Tây phương, nơi sự tiến bộ mang lại cho con người của cải, sự sung túc ở trên đời và cũng là nền móng cho hệ tư tưởng cộng sản, một thứ tôn giáo cứu thế đến độ nó đã hứa hẹn một thiên đường xã hội chủ nghĩa.    Sự tiến bộ đã bị khủng hoảng đến hai lần trong tiền bán thế kỷ XX, qua hai trận thế chiến man rợ làm đụng độ và suy thoái những quốc gia tiên tiến nhất. Nhưng cái tôn giáo tin tưởng vào tiến bộ vẫn lại tìm thấy được phương thuốc giải độc để củng cố niềm tin của nó ở ngay chỗ mà đáng lẽ phải làm cho nó sụp đổ. Những ghê rợn của hai trận thế chiến chỉ được xem như phản ứng của hành vi man rợ kiểu cũ. Thậm chí như những báo hiệu ghê rợn của một tương lai chân hạnh phúc. Đối với những nhà cách mạng thì bao ghê rợn đó chỉ là hậu quả gây ra do những cơn vật vã của chủ nghĩa tư bản cùng chủ nghĩa đế quốc và điều này chẳng ảnh hưởng gì đến hứa hẹn của tiến bộ. Đối với những nhà theo thuyết tiến hoá, những cuộc chiến tranh này chỉ là những giai đoạn lệch hướng, chúng chỉ làm ngưng bước tiến lại một thời gian. Rồi khi chủ nghĩa quốc-xã và chủ nghĩa cộng sản kiểu Xta-lin nắm được quyền hành thì tính chất man rợ của nó lại được ngụy trang bởi những điều hứa hẹn kiểu xã hội chủ nghĩa của chúng về phồn vinh và hạnh phúc.   Sau chiến tranh 1945 lại bắt đầu tái hiện một cách mạnh mẽ những hy vọng về tiến hộ. Một tương lai tuyệt vời được phục hồi trong viễn tượng huy hoàng như chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn, hoặc trong viễn tượng một tương lai yên bình và phồn vinh như viễn ảnh một xã hội công nghiệp hứa hẹn. Khắp nơi ở thế giới thứ ba, ý niệm phát triển đã cho con người cái cảm tưởng là nó sẽ tất yếu giúp họ trong tương lai phá bỏ hết tất cả những gông cùm đang đè nặng lên thân phận con người.    Nhưng tất cả đều bắt đầu lung lay từ năm 1970. Cái tương lai sán lạn bị đổ nhào : cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã cho thấy bộ mặt dễ sợ của nó tại Liên xô, Việt nam, Căm-pu-chia và ngay cả ở Cu-ba, từ lâu vốn được xem là thiên đường của chủ nghĩa xã hội thu nhỏ. Rồi sau đó hệ thống cực quyền ở Liên-xô đã nổ bùng và khắp nơi lòng tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa đều thối rữa. Về phía Tây phương, tiếp theo cuộc khủng hoảng văn hoá năm 1968, sự sa lầy kinh tế năm 1973 đã đưa đến một giai đoạn suy thoái lâu dài. Cuối cùng ở thế giới thứ ba, những thất bại trên đường phát triển đã đưa đến những thoái bộ, dẫm chân tại chỗ, chết đói, nội chiến, chiến tranh giữa các bộ lạc và giữa các tôn giáo. Những cột mốc nhắm về tương lai bỗng biến mất. Những nhà tương lai học không còn tiên đoán gì nữa và một vài người đã hạ biển (5). Con tầu trái đất bắt đầu đi trong đêm và sương mù.    Trong cùng thời gian đó, ngay cái cốt lõi của lòng tin vào sự tiến bộ khoa học/ kỹ thuật / công nghiệp càng ngày càng bị xói mòn một cách nặng nề. Khoa học cho thấy một tính mâu thuẫn hai mặt: sự chế ngự được năng lượng nguyên tử bằng vật lý học không chỉ có thể đưa con người đến tiến bộ mà cũng có thể đưa đến huỷ diệt. Sau hai quả bom Hi-rô-si-ma và Na-ga-da-ki, phong trào chạy đua vũ trang nguyên tử của những cường quốc lớn, rồi trung bình đã làm cho sự đe dọa đè nặng lên tương lai quả đất. Tính mâu thuẫn hai mặt này lại cũng đến với sinh vật học vào những năm 1980. Sự nhận dạng các gien và những tiến trình hình thành phân tử sinh vật đã đưa đến những thí nghiệm về thao tác di truyền đầu tiên và hứa hẹn các thao tác trên bộ não để kiểm soát và khống chế đầu óc con người.    Cũng trong thời gian trên, những phó sản trong các chất thải công nghiệp cùng những ứng dụng phương pháp công nghiệp vào canh nông, ngư nghiệp, chăn nuôi đã gây ra ô nhiễm cùng nguy hại càng ngày càng nghiêm trọng, lan rộng đến độ đe dọa sinh quyển quả đất và cả tâm quyển con người.    Chính vì thế, ở khắp nơi, sự phát triển của bộ ba khoa học/ kỹ thuật/ công nghiệp đã không còn cái tính trời cho nữa. Quan niệm về tính hiện đại vẫn ngự trị và đầy hứa hẹn khắp nơi khi con người còn mơ ước đến phúc lợi và những phương tiện kỹ thuật giải phóng con người. Nhưng quan niệm này đã bắt đầu bị nghi ngờ ở thế giới đã đạt được phúc lợi. Hiện đại tính đã và vẫn còn là một phức hệ văn minh (complexe civilisationnel) sống bằng một động lực lạc quan. Mà khi bộ ba (khoa học/ kỹ thuật/ công nghiệp) đang nuôi dưỡng cái động lực lạc quan này cũng đã có vấn đề thì bản thân tính hiện đại cũng trở thành vấn đề. Tính hiện đại mang trong nó sự giải phóng cá nhân, sự thế tục hoá toàn bộ những tiêu chuẩn giá trị, sự phân hoá của chân, thiện, mỹ. Nhưng từ nay chủ nghĩa cá nhân không chỉ có nghĩa là tự chủ và giải phóng mà còn có nghĩa là bị phân tử hoá (atomisation) và vô danh hoá (anonymisation). Thế tục hoá không chỉ có nghĩa là thoát khỏi những giáo điều tôn giáo, nhưng cũng có nghĩa là mất những nền tảng, là nỗi âu lo, nghi ngờ, nuối tiếc những niềm tin lớn. Sự phân hoá các giá trị không chỉ đưa đến sự tự chủ tinh thần, phấn chấn thẩm mỹ và tự do truy tìm chân lý, nhưng cũng có thể đưa đến sự bại hoại đạo đức, chủ nghĩa duy mỹ nông cạn và chủ nghĩa hư vô. Quan niệm chuộng cái mới vốn có hiệu năng đổi mới đã không còn hiệu lực (mới = tốt hơn = cần thiết= tiến bộ), nó chỉ còn dùng được cho bột giặt, cho màn hình vô tuyến và phương diện tính năng của ô-tô (xe hơi). Sẽ không còn có nào là tiểu thuyết mới, cách nấu nướng mới, triết học mới nữa.    Cho dù ở Tây phương người ta đã ý thức được tính mâu thuẫn hai mặt của tất cả những tiến trình đồng thời đưa đến tính hiện đại mà lại do tính hiện đại sinh ra. Nhưng sự phê phán tính hiện đại này không những khó có thể vượt được nó, mà lại còn sinh ra một chủ nghĩa hậu hiện đại thảm hại mà khả năng duy nhất là sự bất lực trong việc dự kiến một tương lai.   Từ đây khắp nơi đều có một cảm giác hoặc mơ hồ hoặc dữ dội về một sự đánh mất tương lai. Nơi nơi đều sinh ra một ý thức rằng con người chưa phải ở ngưỡng cửa giai đoạn lịch sử cuối cùng, nơi lịch sử sẽ kết thúc trong sự viên mãn to lớn. Khắp nơi mọi người tuy đều cảm thấy không phải mình đang đi về một tương lai sán lạn cũng không phải về một tương lai hạnh phúc, nhưng vẫn chưa ý thức rằng chúng ta đang ở vào thời kỳ đồ sắt toàn cầu, vào thời kỳ tiền sử của đầu óc nhân loại.    Cái bệnh tương lai còn thâm nhập cả vào trong hiện tại và gây ra một sự cùng quẫn tâm lý, nhất là khi cái vốn lòng tin của một nền văn minh đã được đem đầu tư cho tương lai.    Đời sống ngày qua ngày cũng có thể làm vơi đi phần nào cái tâm tư khủng hoảng tương lai này, và làm cho con người mặc dù trước bao bấp bênh vẫn tiếp tục hy vọng riêng tư cho bản thân mình, tiếp tục sinh con đẻ cái và hoạch định cho chúng một con đường trước mặt.   Nhưng cùng lúc đó, sự khủng hoảng tương lai lại khơi dậy một trào lưu hoài cổ vĩ đại và chuyện này càng trở nên mạnh mẽ khi thực tế càng trở nên phũ phàng, đầy lo sợ và bất hạnh. Cái quá khứ đã bị tương lai làm khánh tận lại cháy lên từ những điêu tàn của tương lai. Từ đó xuất hiện một phong trào tìm về cội nguồn đa dạng, mạnh mẽ, quay lại với những nền tảng sắc tộc, dân tộc, tôn giáo đã mai một boặc bị lãng quên. Chính vì thế mới sinh ra nhiều thứ "nguyên giáo chủ nghĩa" (6).   Hậu quả của các đảo lộn ghê gớm từ sau ra trước, từ quá khứ lộn ra tương lai chưa có vẻ gì là chấm dứt và vẫn còn hứa hẹn đầy bất ngờ.    Dù sao đi nữa, sự tiến bộ không hề được bảo chứng một cách đương nhiên bởi bất cứ một quy luật lịch sử nào. Đổi thay chưa chắc gì sẽ mang lại phát triển. Tương lai từ giờ trở đi được gọi là mù mịt.    Bi kịch của "Phát triển"    Phát triển là một từ chủ đạo, đã trở thành ngôn ngữ của Liên hiệp quốc. ở hậu bán thế kỷ của chúng ta hầu như tất cả những kinh điển tư tưởng đều dính dáng đến nó. Cơ sở tư tưởng chủ đạo của phát triển hàm chứa một kiểu mẫu lớn của Tây phương về sự tiến bộ. Sự phát triển tất yếu phải đem lại tiến bộ, tiến bộ phải đảm bảo phát triển.    Phát triển mang hai sắc thái. Một mặt nó là một thứ thần thoại toàn diện, nghĩa là xã hội sau khi công nghiệp hoá có thể đem lại phúc lợi, làm giảm những bất công thái quá và phân phát cho mọi người tối đa hạnh phúc mà một xã hội có thể đem lại. Mặt khác đó là một quan niệm tối giản đơn, lấy tăng tưởng kinh tế làm động cơ cần và đủ cho tất cả phát triển xã hội, tâm lý, đạo đức. Cái khái niệm kỹ thuật-kinh tế này không biết đến những vấn đề thuộc bản sắc, cộng đồng, liên đới và văn hoá của con người. Vì thế khái niệm phát triển tự nó vẫn còn ở vào một giai đoạn rất kém phát triển. Và khái niệm kém phát triển này là một sản phẩm nghèo và trừu tượng của chính cái khái niệm phát triển cũng nghèo và trừu tượng kia.    Dính liền với niềm tin mù quáng rằng sự tiến bộ phải tất yếu đi về phía trước, cái niềm tin mù quáng vào phát triển đã cho phép, một mặt loại bỏ được những nghi ngờ, mặt khác che lấp những dã man đã được đem dùng để phát triển sự phát triển.    Cái thần thoại về sự phát triển đã khiến con người tin rằng họ phải hy sinh tất cả cho nó. Nó đã cho phép những chế độ độc tài tàn nhẫn, dù là kiểu "xã hội chủ nghĩa" (độc đảng) hay theo kiểu Tây phương (độc tài quân phiệt) viện dẫn để tự bào chữa. Những sự tàn bạo của các cuộc cách mạng phát triển đã làm trầm trọng thêm những bi kịch của sự kém mở mang.    Sau 30 năm dành cho phát triển, sự mất thăng bằng giữa Bắc/ Nam vẫn tiếp diễn và sự bất bình đẳng này ngày càng trở nên nghiêm trọng. 25% dân chúng của quả đất sống trong những nước giầu có, tiêu thụ 75% năng lượng. Những cường quốc lớn giữ độc quyền về khoa học công nghệ cao và chiếm giữ ngay cả quyền lực nhận thức và thao túng cái vốn di truyền của các loại sinh vật, kể cả của con người. Thế giới phát triển phá huỷ thặng dư nông nghiệp của mình, để đất hoang, trong khi nạn thiếu ăn, chết đói lan tràn trong thế giới người nghèo. Nơi này, hễ cứ có một cuộc nội chiến hay một thiên tai thì cái viện trợ nhân đạo nhất thời lại bị bọn ăn bám, quan liêu hay áp-phe nuốt mất. Thế giới thứ ba vẫn tiếp tục phải chịu đựng sự bóc lột kinh tế, nhưng nó còn phải chịu đựng thêm sự mù loà, tư duy què quặt, sự kém mở mang về tinh thần và trí thức của chính cái thế giới phát triển kia.    ở Phi châu, đất đai không còn mầu mỡ. Khí hậu suy thoái, dân số tăng, bệnh Sida tàn phá. Một chế độ độc canh tuỳ thuộc vào những may rủi của thị trường thế giới đã thay thế một chế độ đa canh có thể đáp ứng những nhu cầu gia đình và địa phương. Vì lệ thuộc vào may rủi, chế độ độc canh liên tiếp bị khủng hoảng, và vốn đầu tư vào những khu vực khủng hoảng đã bỏ đi nơi khác. Nông dân tràn vào các khu nhà ổ chuột của đám người thất nghiệp trong thành phố. Tiến trình tiền tệ hoá, thương phẩm hoá tất cả mọi thứ trên đời đã phá vỡ những tương trợ và hoà mục trong đời sống tập thể. Những nét ưu tú nhất của văn hoá địa phương lại bị đào thải để nhường chỗ cho cái hủ bại nhất của văn minh tây phương.    ý niệm phát triển chủ nghĩa đã và vẫn đang còn nhìn đời với con mắt kinh tế và số lượng, nên không thể nào thấy được của cải văn hoá của những xã hội cổ sơ hay truyền thống. Nó chỉ nhìn thấy ở những văn hoá đó những tư tưởng lệch lạc, ngu muội, dị đoan mà không thể nghĩ được rằng chúng có thể chứa đựng những trực giác sâu sắc, những hiểu biết tích tụ từ hàng nghìn năm, những khôn ngoan về cuộc sống và những giá trị đạo đức đã suy sụp nơi chúng ta (Tây phương-ND). Chủ nghĩa phát triển, kết quả của một sự hợp lý hoá lấy Tây phương làm trung tâm, không thể nào thấy được một sự thực là cái văn hoá nơi những xã hội phát triển của chúng ta, ngoài những chân lý và những đức tính sâu sắc (ví dụ cái lý tính tự phê phán giúp chúng ta nhìn thấy những khuyết điểm và yếu điểm của chính nền văn hoá chúng ta), nó còn chất chứa cũng như tất cả những văn hoá khác, nhưng theo một kiểu riêng, những ý tưởng chủ quan tuỳ tiện, những huyền thoại vô căn cứ (trong đó có thể kể các huyền thoại về sự tiến bộ có tính trời cho), nhiều ảo tưởng lớn (có thể kể cả cái ảo tưởng đang ở trên đỉnh cao của lý tính và cho mình là kẻ duy nhất nắm được nó), những sự mù quáng ghê gớm (có thể kể cả cái tư duy manh mún, khu biệt, giản đơn hoá và máy móc).    Ngay cả ở Âu châu, nơi khởi thuỷ của nó, sự phát triển tính hiện đại đô thị và công nghiệp đã kéo theo sự phá huỷ những văn hoá thôn làng từ hàng nghìn năm và nó bắt đầu tấn công đến lớp vỏ của nhiều văn hoá địa phương, mà sức đề kháng mỗi nơi một khác. Trong những văn hoá lịch sử lớn của châu á và của thế giới Hồi giáo, con người đã chống lại tiến trình Tây phương hoá bằng cách đôi khi phải cáng đáng một bản sắc song hành (Nhật bản, Ma-rốc), đôi khi bằng cách tái sinh nội dung tôn giáo và sắc tộc. Như chúng ta đã nói ở trên, việc chống lại tiến trình Tây phương hoá cũng được tiến hành bằng chính những vũ khí và công cụ mượn của Tây phương: hình thức Nhà nước - quốc gia, kỹ thuật công nghiệp, hành chính, quân sự, hệ tư tưởng khai phóng về quyền lợi các dân tộc. Từ đó, trong cùng một tiến trình sinh ra một chuyển động đôi, một mặt bám rễ vào quá khứ và một mặt vươn đến tương lai. Một tính năng động phức tạp, nơi các yếu tố như bản sắc tôn giáo, dân tộc, nhà nước, kỹ thuật tác động lẫn nhau, nơi mà chủ nghĩa tư bản, những hệ tư tưởng tây phương, hệ tư tưởng cách mạng, văn hoá đại chúng cũng khơi dậy những cuộc nổi loạn, hy vọng, rồi nhẫn nhục, tuyệt vọng, tái nổi loạn. Tất cả những thứ ấy không phải không đầy dẫy những đau thương, xung đột nội bộ, thoả hiệp khập khiễng; dù sao đi nữa, tiến trình Tây phương hoá một mặt thông qua kỹ thuật hoá, thương phẩm hoá, thương nghiệp hoá và hệ tư tưởng hoá, một mặt ngược lại, như chúng ta đã thấy ở trên, lại đi về sự Ban-căng hoá và quay về những bản sắc tôn giáo - chủng tộc.   ở phần còn lại của thế giới, sự phát triển có khuynh hướng đưa những văn hoá cổ đến chỗ tan rã hoàn toàn. Cái văn hoá cổ này đã từng bị phá huỷ từ thời có lịch sử và lại tiếp tục bị phá huỷ trên một quy mô lớn bởi chế độ thực dân. Thế giới của những văn hoá thổ dân ngày hôm nay đã bị thu hẹp lại, chỉ còn khoảng 300 triệu người, xem ra khó có thể thoát khỏi sự diệt vong.   Chúng ta đang chứng kiến màn cuối của sự triệt hạ các nền văn hoá săn bắt - hái lượm còn đang tồn tại trong những rừng nhiệt đới, những núi hoang, những khoảng rộng sa mạc. Tiến bộ của y học đã đem lại vệ sinh và trị bệnh nhưng đã làm mất những phương thuốc và cách chữa của các thầy lang, thầy phù thuỷ. Phong trào xoá nạn mù chữ đem đến văn hoá chữ viết, nhưng lại tiêu diệt những văn hoá truyền khẩu chứa đựng những tri thức và sự khôn ngoan từ nghìn đời. Các kết cấu những loại hình truyền thống của nhân cách đã bị phá vỡ một cách triệt để.   Kinh nghiệm gần đây ở vịnh James (Gêmx) đã là một hình ảnh thu gọn của tiến trình này. Theo lôgíc của phát triển, Cục thuỷ điện tỉnh Que-béc đã tiến hành xây dựng một đập thuỷ điện lớn nhằm cung cấp điện rẻ tiền và cũng nhằm lôi kéo các nhà máy nhôm đến tỉnh này. Một phần đất được mua lại từ đất của những người Anh điêng (da đỏ) Kris, tiền bán đất này đã cho phép thổ dân có đủ phương tiện để định cư, tậu nhà, mua sắm máy gia dụng chạy điện, thích ứng theo mô hình công việc - năng lượng - tăng trưởng v.v.. Nhưng trong những vùng đất Điện cục Que-béc đã mua, các hồ nhân tạo đã cắt đứt đường di trú của loài tuần lộc (một loài nai ở Canađa-ND) và phốt-pho thải từ nước các hồ đã làm cho cá bị nhiễm độc không còn ăn được nữa. Thổ dân bắt buộc phải từ bỏ những hoạt động sinh nhai cũ của dân săn bắn, câu cá để đi làm việc xây đập, rồi sau đó trở thành những kẻ thất nghiệp. Những người già vô công rồi nghề chết dần mòn. Còn người trẻ tuổi thì đắm chìm trong men rượu và có cả những đứa trẻ 4 tuổi say sưa vì men bia. Phụ nữ vì bỏ cá một cách đột ngột để ăn những thức ăn bằng bột và đường đều trở thành phì nộn. Cộng đồng xã hội ngày trước hoàn toàn bị phá huỷ mà trên đó không có một cái gì mới được xây dựng. Lòng vị tha bị thay thế bởi tính ích kỷ. Một lối sống cũ, một thế giới sinh hoạt cũ đã bị mất. Những tiện nghi gia đình đã đến cùng một lúc với bệnh nghiện rượu, ma tuý và nỗi buồn phiền. Người Kris hôm nay thì rất giầu hàng hoá, nhưng linh hồn thì nghèo nàn, bất hạnh và đang trên đường bị tiêu diệt.    Trong bất cứ trường hợp nào, ngay cả ở châu Âu, nhưng ngoài châu Âu thì trầm trọng hơn, sự phát triển đã làm mất đi khá nhanh tình đoàn kết địa phương, những nét đặc thù thích hợp với những điều kiện sinh thái riêng của từng vùng.   Dĩ nhiên không nên quá lý tưởng hoá các văn hoá. Phải biết rằng tất cả tiến hoá đều chứa chấp sự đào thải, tất cả sáng tạo đều mang sự huỷ diệt và tất cả những lợi lộc lịch sử gặt hái được đều phải trả giá bằng những mất mát. Phải hiểu rằng rồi tất cả những gì sống đều phải chết, mỗi một văn hoá đều đáng sống và phải biết chết. Chúng ta cũng phải tin rằng xây dựng một văn hoá toàn cầu là một điều cần thiết. Thật ra tính đa dạng của các văn hoá, thích ứng tuyệt vời với các điều kiện và vấn đề địa phương, ngày hôm nay lại có thể ngăn cản mọi người vươn lên mức độ toàn cầu. Nhưng chúng ta không thể nào rút ra và phổ cập hoá từ mỗi nền văn hoá cái mà nó cống hiến phong phú nhất hay sao? Làm sao tổng hợp được những giá trị và kho tàng văn hoá của những nền văn hoá đang giải thể ? Có quá muộn hay không? Như thế là chúng ta phải đối đầu với hai đòi hỏi cấp bách mà mâu thuẫn: Cứu lấy tính cực kỳ đa dạng của văn hoá địa phương mà nhân loại đã làm nên, nhưng cùng một lúc vẫn nuôi dưỡng được cái văn hoá toàn cầu chung cho tất cả. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy rằng song song với tiến trình đồng chất hoá văn minh mà làn sóng kỹ thuật công nghiệp đang đẩy con người đến còn có một tiến trình gặp gỡ và hoà tan văn hoá: Không ngừng, tính đa dạng văn hoá lại tái sinh ở nước Mỹ, ở châu Mỹ la tinh và ở Phi châu. Nhưng chúng ta cũng không thể không nghĩ rằng sự phát triển kỹ thuật - công nghiệp là một mối đe doạ cho thế giới về mặt văn hoá.    Khắp nơi, kỹ thuật hoá lan tràn, công nghiệp hoá lan tràn, đô thị hoá lan tràn với những hậu quả hai mặt mà ta chưa biết mặt nào sẽ thắng. Tất cả những thứ đó sẽ đưa văn hoá nông nghiệp đến chỗ phá sản và thế giới nông dân đến ngày tàn với một vận tốc cực kỳ nhanh chóng. Vào năm 1800 mới chỉ có 3% dân chúng thế giới sống trong các thành phố, thế mà bây giờ 88% dân số Tây phương Âu châu đang là cư dân trong các đô thị. Các siêu đô thị như Mê-hi-cô, Thượng hải, Bom-bay, Gia-các-ta, Tôkyô, Ôsaka không ngừng tăng trưởng. Những con quái vật đô thị đó chịu (và bắt những cư dân của nó phải chịu) những nạn kẹt xe, tiếng ồn, thần kinh căng thẳng ô nhiễm đủ loại. Sự nghèo khó vật chất lan tràn trong các khu nhà ổ chuột, sự cùng quẫn tinh thần không phải chỉ tập trung trong những khu đầy ma tuý, tội phạm mà còn ngự trị trong những khu sang trọng được bảo vệ bởi những lính gác tư và vệ sĩ.    Chuyên gia nhân khẩu học của Liên hiệp quốc đã tiên đoán đến năm 2.000 hơn 50% dân số toàn cầu sẽ sống trong các thành phố, cư dân của 60 siêu đô thị sẽ vượt qua con số 650 triệu người, nghĩa là 8,3% dân số toàn cầu sẽ tập trung trên một khoảng không gian chiếm 1/2.000 tổng diện tích đất địa cầu. Trong số 21 siêu đô thị có hơn 10 triệu dân thì 17 cái sẽ nằm trong những nước nghèo.    Sự phát triển thế giới sẽ đi về đâu?   Một số người đang đi đến tai hoạ, một số khác thì đang vùng vẫy cố thoát ra khỏi tình trạng chậm tiến kinh tế, nhưng rồi cũng sẽ rơi vào những vấn đề về văn minh của thế giới phát triển. Trong nội bộ nhiều quốc gia phát triển, một sự chậm tiến kinh tế cũng lại đang phát triển: ở Mỹ 35 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Hình như chúng ta đang đi vào một thứ xã hội "đối ngẫu". Một thứ xã hội đang vứt bỏ những kẻ bị loại ra bên lề sự phát triển vào trong những ghét tô (khu biệt cư), trong số đó có từ 10 - 20% là những người thất nghiệp.   Có phải chúng ta đang đi đến một cuộc khủng hoảng phát triển của thế giới?    Dù sao đi nữa, chúng ta cũng phải bác bỏ khái niệm kém phát triển của phát triển, khái niệm cho rằng sự tăng trưởng kỹ thuật - công nghiệp sẽ là phương thuốc bách bệnh cho mọi phát triển nhân loại, xã hội. Và chúng ta cũng phải từ bỏ ý niệm thần thoại về một sự tiến bộ cứ tăng mãi một cách vô cùng tận mà không thể nào cưỡng lại được.    Một sự khó ở hay căn bệnh của văn minh?       Nền văn minh của chúng ta, kiểu mẫu của phát triển, phải chăng chính nó cũng đang mắc phải căn bệnh phát triển?   Sự phát triển của văn minh chúng ta đã tạo nên những kỳ tích như: sử dụng được năng lượng vật lý, các máy móc công nghiệp càng ngày càng tự động hoá và tin học hoá, những máy gia dụng chạy điện đã giải phóng các gia đình khỏi những công việc cực nhọc, phúc lợi và tiện nghi, những sản phẩm tiêu thụ nhiều chủng loại, xe ô-tô (như tên nó ám chỉ, đã cho con người quyền tự chủ trong việc đi lại), máy bay đã giúp chúng ta nuốt được không gian, truyền hình như cái cửa sổ mở ra thế giới của thực tại và mộng tưởng.    Sự phát triển này đã cho phép cá nhân con người thăng hoa, tìm được sự thân mật trong tình yêu, tình bạn, sự giao lưu giữa cái ta với mình, sự thông tin từ xa giữa những con người với nhau. Nhưng chính sự phát triển này lại cũng manh mún hoá những cá nhân, làm họ bị mất đi những liên đới cũ mà không đem đến những liên đới mới nào khác ngoài những thứ liên hệ vô danh và hành chính.   Sự phát triển của khu vực kỹ thuật - quan liêu đã phổ biến loại công việc vụn vặt mất tính chủ động, trách nhiệm hoặc hứng thú. Thời gian bị đo lường, chắt bóp làm biến mất sự s1/2n sàng, nhịp sống an nhiên tự tại. Sự vội vã đuổi mất tính trầm tư mặc tưởng. Bộ máy vĩ đại quan liêu - kỹ thuật - công nghiệp bao trùm càng ngày càng nhiều hoạt động. Nó bắt các cá nhân phục tùng những quy định, mệnh lệnh, thể thức của nó. Người ta không còn biết phải đối thoại như thế nào với những thứ quyền lực vô danh này. Người ta không biết phải làm thế nào để sửa chữa những sai lầm, không biết phải đến công sở nào, bàn giấy nào. Cơ giới hoá đã khống chế cả cái không phải là cơ giới: sự phức tạp của con người. Cuộc sống trên thực tế bị nhục mạ. ách thống trị vô danh của tiền bạc đi kèm với với ách thống trị của chế độ quan liêu kỹ thuật vô danh. Những nhân tố kích thích đồng thời cũng lại là những nhân tố phân rã: Tinh thần cạnh tranh và ý chí thành công lại đẩy mạnh lòng ích kỷ và càng làm tiêu tan tình đoàn kết.    Kinh thành-ánh sáng đem đến tự do và lạc thú lại cũng là cái thành phố bạch tuộc mà những gò bó bắt đầu bằng cái vòng luẩn quẩn: chen xe - đi làm - đi ngủ (Métro, boulot, dodo), đè nát cả cuộc đời và nơi đó sự căng thẳng thần kinh dồn đập làm hao mòn cân não.    Đời sống dân chủ thoái bộ. Các vấn đề càng có chiều hướng kỹ thuật thì lại càng thoát khỏi tầm tay của những công dân để rơi vào thẩm quyền của những chuyên gia. Các vấn đề văn minh càng trở thành chính trị thì các nhà chính trị lại càng ít khả năng đưa chúng vào ngôn ngữ và chương trình hành động của họ.    Con người sản xuất phụ thuộc vào con người tiêu thụ. Kẻ tiêu thụ lại phụ thuộc vào sản phẩm bán trên thị trường và cái thị trường này lại tuỳ thuộc vào nhiều lực lượng phóng đãng, càng ngày càng khó kiềm chế trong một tiến trình quay vòng, nơi người ta tạo nên một kẻ tiêu thụ cho một sản phẩm chứ không còn chỉ tạo một sản phẩm cho kẻ tiêu thụ. Cá nhân con người một khi thoát khỏi sự khống chế nô dịch của công việc đều rơi vào một trạng thái náo động bề ngoài. Sự tiêu thụ bị rối loạn trở thành sự tiêu thụ quá mức và vô độ để rồi lại xen kẽ với những đợt nhịn ăn, nhịn tiêu. Nỗi ám ảnh về dinh dưỡng và hình dáng làm tăng niềm lo toan có tính luyến kỷ (tự yêu mình) và những đòi hỏi ngông cuồng về ăn uống. Nỗi ám ảnh này còn nuôi dưỡng cả tính ưa chuộng vitamin và các nguyên tố vi lượng khá tốn kém. Nơi lớp người giầu có, sự tiêu thụ trở thành như điên dại, gàn dở vì còn dính dáng đến những vấn đề địa vị xã hội, nhãn hiệu, mỹ quan, thuần khiết và sức khoẻ. Họ chạy đôn chạy đáo khắp các tủ kính, cửa hàng lớn, tiệm đồ cổ, chợ trời. Còn phải kể cả sự mê mẩn những đồ lỉnh kỉnh đi đôi với thói sính những vật vô giá trị.    Những cá nhân sống qua ngày, tiêu thụ hiện tại, tự để mình bị lôi cuốn bởi hàng ngàn thứ tầm phào, không ngừng tán gẫu mà chẳng bao giờ hiểu được nhau trong toà tháp ngà của những chuyện lặt vặt. Không thể nào ngồi yên một chỗ, họ loăng quăng khắp mọi nơi. Bản chất của du lịch rồi chẳng phải là đi khám phá kẻ khác, cũng chẳng phải là mối liên hệ vật chất đối với địa cầu mà là một đoạn đường mộng du được hướng dẫn trong một thế giới nửa thực nửa hư, trang hoàng bằng những phôn-klo và đền đài. Sự giải trí hiện đại trên thực tế lại làm tăng thêm nỗi trống rỗng mà nó muốn trốn tránh.    Chính vì thế mà tiến trình nâng cao mức sống lại có thể đi kèm với sự xuống dốc của chất lượng đời sống. Sự gia tăng các phương tiện truyền thông có thể đi cùng với sự nghèo nàn về truyền thông giữa các cá nhân. Một con người có thể cùng một lúc có cái tự chủ của mình nhưng lại trở thành một hạt cát rời, là hoàng đế mà lại là