🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phương Pháp Dạy Con Không Đòn Roi - Daniel J. Siegel & Tina Payne Bryson
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Trước khi bạn đọc cuốn sách này - Đặt câu hỏi
Giới thiệu - Relational, low-drama discipline: khuyến khích hợp tác khi xây dựng trí não trẻ
Chương 1 - Nghĩ lại về kỷ luật
Chương 2 - Bộ não trong vấn đề kỷ luật
Chương 3 - Từ cơn thịnh nộ đến sự thanh thản
Chương 4 - Sự kết nối không-rắc rối trong hành động
Chương 5 - Kỷ luật 1-2-3: định hướng lại cho hôm nay, và cho ngày mai
Chương 6 - Xử lý hành vi
Lời kết - Không có cây đũa thần, hãy là con người, tái kết nối, và thay đổi: bốn thông điệp hy vọng
Khi một chuyên gia nuôi dạy trẻ thất bại - Bạn không phải là người duy nhất
Một số lưu ý cho những người Chăm sóc trẻ - Phương pháp kỷ luật của chúng ta một cách tối giản
20 sai lầm của kỷ luật - Ngay cả những phụ huynh vĩ đại cũng phạm phải
Một đoạn trích từ - Bộ não-toàn diện của trẻ: 12 chiến lược mang tính cách mạng để nuôi dưỡng trí tuệ đang phát triển của trẻ
Lời cảm ơn
Trước khi bạn đọc cuốn sách này ĐẶT CÂU HỎI
B
át ngũ cốc bị ném qua căn bếp, làm sữa và Cheerios bắn tung tóe khắp tường.
Con chó chạy vào từ sân sau nhà và chẳng hiểu sao bị phủ sơn xanh lét.
Đứa lớn thì dọa nạt đứa bé.
Văn phòng thầy hiệu trưởng gọi điện yêu cầu gặp phụ huynh lần thứ ba trong tháng.
Bạn sẽ làm gì?
Trước khi đưa ra câu trả lời, chúng tôi muốn bạn quên hẳn tất cả mọi thứ bạn từng biết về kỷ luật. Hãy quên ý nghĩa của từ đó, và quên đi việc những phụ huynh khác sẽ phản ứng thế nào khi bọn trẻ làm những điều sai trái.
Thay vào đó, hãy tự hỏi mình điều này: Ít nhất, bạn có thấy thoải mái nếu nghĩ về một cách tiếp cận khác với kỷ luật không? Cách mà sẽ giúp bạn đạt những mục tiêu tức thì khiến cho lũ trẻ làm điều đúng đắn, cũng như mục tiêu lâu dài nhằm giúp chúng trở thành người vui vẻ, thành công, tốt bụng, có trách nhiệm và thậm chí là tự giác?
Nếu có, cuốn sách này dành cho bạn.
Giới thiệu
RELATIONAL, LOW-DRAMA DISCIPLINE: KHUYẾN KHÍCH HỢP TÁC KHI XÂY DỰNG TRÍ NÃO TRẺ
B
ạn không đơn độc.
Nếu bạn thấy hoang mang khi cố gắng dạy lũ trẻ bớt cãi hay nói năng lễ phép hơn… Nếu bạn không biết làm thế nào để bé không trèo lên giường tầng trên, hoặc mặc quần áo cho bé trước khi bạn ra mở cửa… Nếu bạn bực mình vì phải nói đi nói lại một câu (“Nhanh lên! Con sẽ muộn học đấy!”) hay lại phải tranh cãi về giờ đi ngủ, bài tập về nhà hoặc xem tivi… Nếu bạn đã trải qua bất cứ tình huống rắc rối nào kể trên, bạn không hề đơn độc.
Thực tế, bạn chẳng có gì bất bình thường. Bạn có biết mình là ai không? Một người cha, người mẹ. Là con người, và là cha hoặc mẹ.
Khó mà tìm cách khép lũ trẻ vào kỷ luật. Lúc nào cũng khó. Thông thường sự việc diễn ra như thế này: Bọn trẻ làm điều gì đó không nên làm. Chúng ta phát điên lên. Chúng buồn bã. Nước mắt chảy ròng ròng. (Đôi khi nước mắt là của bọn trẻ.)
Thật sự rất mệt mỏi. Và bực mình kinh khủng. Tất cả những rắc rối, la hét, cảm giác bị tổn thương, cảm giác tội lỗi, sự đau tim, sự xa cách.
Có bao giờ bạn tự hỏi mình, đặc biệt là sau mỗi cuộc đối thoại tuyệt vọng với bọn trẻ, “Mình không thể làm tốt hơn được sao? Mình không thể cư xử đúng mực hơn và là một người cha mẹ có sức ảnh hưởng hơn ư? Mình không thể kỷ luật chúng theo hướng làm dịu tình hình đi thay vì làm rối lên?” Bạn muốn loại bỏ những hành vi không tốt, nhưng bạn muốn phản ứng theo cách sẽ nâng giá trị và thắt chặt tình cảm với bọn trẻ chứ không phải điều ngược lại. Bạn muốn ít rắc rối đi, chứ không nhiều hơn.
Bạn có thể.
Thực tế, đó là thông điệp trung tâm của cuốn sách: Bạn thực sự có thể kỷ luật theo cách đầy tôn trọng và mang tính giáo dục, nhưng đồng thời cũng giữ những giới hạn nhất quán và rõ ràng. Nói theo cách khác, bạn có thể làm tốt hơn thế. Bạn có thể kỷ luật theo hướng đề cao mối quan hệ và sự tôn trọng, bớt rắc rối và tranh cãi – và trong quá trình, bạn có thể bồi dưỡng những kỹ năng xây dựng mối quan hệ tốt và cải thiện khả năng đưa ra quyết định đúng đắn của bọn trẻ, biết suy nghĩ đến người khác, và chuẩn bị hành trang cho chúng được hạnh phúc và thành công suốt cuộc đời.
Chúng tôi đã nói chuyện với hàng nghìn hàng vạn cha mẹ trên khắp thế giới, dạy cho họ những kiến thức cơ bản về bộ não và sự ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa họ và con cái, và chúng tôi chứng kiến các bậc phụ huynh khao khát học hỏi cách chấn chỉnh hành vi của bọn trẻ một cách tôn trọng và hiệu quả hơn. Họ đã mệt mỏi vì phải la hét quá nhiều, mệt mỏi khi nhìn thấy bọn trẻ buồn, mệt mỏi vì chúng tiếp tục hỗn láo. Những bậc cha mẹ này biết họ không muốn dùng hình thức kỷ luật nào, nhưng thay vào đó họ cũng chẳng biết phải làm gì. Họ muốn kỷ luật một cách tử tế và yêu thương, nhưng
họ phát mệt và quá tải khi bắt tay vào việc bảo bọn trẻ làm điều nên làm. Họ muốn kỷ luật phát huy tác dụng và họ cảm thấy đúng đắn vì điều đó.
Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu hướng tiếp cận kỷ luật Không-Rắc rối, Bằng cả não bộ, đưa ra những nguyên tắc và chiến lược loại bỏ hầu hết các cảm xúc cao trào và kịch tính sẽ định rõ đặc trưng hình thức kỷ luật. Kết quả là cuộc sống của bạn sẽ dễ dàng hơn, việc nuôi dạy con cái cũng hiệu quả hơn. Quan trọng hơn nữa là bạn sẽ tạo ra những mối liên kết với bộ não của trẻ và xây dựng các kỹ năng xã hội cũng như cảm xúc sẽ phục vụ chúng ở hiện tại và suốt cuộc đời sau này – trong khi bạn củng cố mối quan hệ với chúng. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ thấy được rằng những lúc cần đến kỷ luật là một trong những thời điểm quan trọng nhất khi nuôi dạy con, đó là thời gian chúng ta có cơ hội gọt giũa con cái hiệu quả nhất. Khi đối mặt với những thách thức này, bạn sẽ nhận thấy đó không chỉ là những tình huống kỷ luật khiếp sợ đầy giận dữ, bực bội và rắc rối, mà còn là cơ hội để kết nối với bọn trẻ và hướng chúng đến hành vi tốt đẹp hơn cho bản thân chúng cũng như cả gia đình.
Chúng tôi viết cuốn sách này dành cho bất kỳ ai quan tâm đến trẻ em và những chiến lược hiệu quả, khoa học và đầy yêu thương nhằm giúp con bạn phát triển tốt. Chúng tôi sẽ dùng từ “cha mẹ” xuyên suốt cuốn sách, nhưng nếu bạn là ông bà, giáo viên, hay một người quan trọng đối với cuộc đời một đứa trẻ, cuốn sách này cũng dành cho bạn. Cuộc sống sẽ có ý nghĩa hơn nếu chúng ta đồng lòng, và sự hợp tác này có thể bắt đầu với những người lớn đồng lòng nuôi dưỡng đứa trẻ từ những ngày đầu đời cho đến về sau.
Chúng tôi hy vọng tất cả trẻ em đều có những người quan tâm chăm sóc có chủ đích về cách tương tác với chúng, và kỷ luật chúng khi cần thiết theo những cách giúp xây dựng kỹ năng và củng cố mối quan hệ với bọn trẻ.
Phục hồi nghĩa của từ “Kỷ luật”
Hãy bắt đầu với mục đích thực sự của việc kỷ luật. Khi con bạn cư xử không đúng đắn, bạn muốn đạt được điều gì? Mục đích cuối cùng có phải là hậu quả không? Hay nói cách khác, mục đích là để phạt bọn trẻ?
Tất nhiên là không. Khi chúng ta tức giận, chúng ta có thể cảm thấy muốn trừng phạt con mình. Sự giận dữ, mất kiên nhẫn, bực bội, hay chỉ là không chắc chắn khiến cho ta cảm thấy điều đó. Điều này hoàn toàn dễ hiểu – thậm chí rất phổ biến. Nhưng khi bình tĩnh lại và gột sạch trứng sống dính trên tóc, chúng ta biết rằng đưa ra hậu quả không phải là mục tiêu cuối cùng.
Vậy chúng ta muốn gì? Mục tiêu của kỷ luật là gì?
Hãy bắt đầu với định nghĩa về mặt hình thức. Từ “discipline” bắt nguồn trực tiếp từ tiếng Latin “disciplina”, được dùng nhiều ở thế kỷ mười một với ý nghĩa dạy dỗ, học hỏi, và chỉ dẫn. Vì vậy, khởi đầu trong tiếng Anh của từ “discipline” là “dạy dỗ”.
Ngày nay, nhiều người chỉ liên tưởng đến sự trừng phạt hay hậu quả của việc kỷ luật. Giống như một người mẹ có cậu con trai mười tám tháng tuổi đã hỏi Dan: “Tôi đang dạy Sam rất nhiều, nhưng khi nào tôi nên bắt đầu kỷ luật nó?” Người mẹ này thấy rằng cô ấy cần
phải chấn chỉnh hành vi của con trai mình, và cô cho rằng trừng phạt nghĩa là kỷ luật.
Khi bạn đọc phần còn lại của cuốn sách này, chúng tôi muốn bạn ghi nhớ những gì Dan đã giải thích: bất cứ khi nào chúng ta kỷ luật con mình, mục đích bao trùm không phải để trừng phạt hay chỉ ra hậu quả, mà để dạy dỗ. Gốc của từ “discipline” là “disciple”, nghĩa là “sinh viên”, “học sinh,” và “học viên”. Một học viên, người nhận hình thức kỷ luật, không phải là một tù nhân hay người phải chịu sự trừng phạt, mà là người học hỏi thông qua chỉ dẫn. Hình phạt có thể ngừng một hành vi trong khoảng thời gian ngắn, nhưng dạy dỗ sẽ mang lại những kỹ năng tồn tại suốt cuộc đời.
Về cơ bản, chúng tôi muốn những người chăm sóc trẻ bắt đầu nghĩ đến kỷ luật như một trong những việc có tính giáo dục và yêu thương nhất chúng ta có thể làm cho bọn trẻ. Con cái của chúng ta cần học những kỹ năng như kiềm chế sự bốc đồng, điều khiển những cảm xúc giận dữ, và cân nhắc ảnh hưởng từ hành vi của mình đối với người khác. Học hỏi những điều căn bản trong cuộc sống và các mối quan hệ là những gì chúng cần, và nếu bạn có thể dạy chúng, bạn sẽ tặng chúng một món quà quan trọng không chỉ cho bọn trẻ, mà còn cho cả gia đình và thậm chí cả thế giới. Nghiêm túc đấy. Chúng tôi không cường điệu đâu. Kỷ luật Không-Rắc rối, như chúng tôi sẽ mô tả trong các trang tiếp theo, sẽ giúp con cái bạn trưởng thành đúng bản chất của chúng, cải thiện khả năng kiểm soát bản thân, tôn trọng người khác, có những mối quan hệ sâu sắc, và sống có đạo đức. Hãy nghĩ đến sự ảnh hưởng mang tính thế hệ, bọn trẻ sẽ lớn lên với những món quà và khả năng này, rồi nuôi dạy
con cái của chúng, rồi chúng sẽ tiếp tục tặng lại món quà này cho các thế hệ tương lai!
Mục tiêu song hành của Kỷ luật Không-Rắc rối
Kỷ luật hiệu quả nhắm đến hai mục tiêu cơ bản. Đầu tiên đương nhiên là khiến bọn trẻ hợp tác và làm điều đúng đắn. Khi sự việc lên đến cao trào, một đứa trẻ ném đồ chơi trong nhà hàng hay hỗn láo và không chịu làm bài tập về nhà, chúng ta đơn giản chỉ muốn con bé làm việc phải làm. Chúng ta muốn bé không ném đồ chơi nữa. Chúng ta muốn bé nói năng tôn trọng hơn.
Chúng ta muốn bé hoàn thành bài tập về nhà.
Với một đứa bé, đạt được mục tiêu đầu tiên, hợp tác, tức là bắt bé cầm tay chúng ta khi sang đường, hay giúp đặt chai dầu olive mà bé đang quay vòng như cây gậy đánh bóng chày ở gian hàng số 4 trong siêu thị xuống. Với một đứa trẻ lớn hơn, điều đó nghĩa là cùng giải quyết vấn đề để bé làm việc nhà nhanh hơn, hay thảo luận liệu chị em gái của bé cảm thấy thế nào về cụm từ “con bé cô đơn mông béo ị”.
Bạn sẽ thấy chúng tôi nhắc đi nhắc lại trong cuốn sách này: mỗi đứa trẻ đều khác nhau, và không có phương pháp dạy dỗ hay chiến lược nào luôn luôn phát huy tác dụng. Nhưng mục tiêu rõ ràng nhất trong mọi tình huống là gợi sự hợp tác và giúp đứa trẻ cư xử theo cách chấp nhận được (như dùng từ ngữ tốt đẹp, hay để quần áo bẩn vào thùng giặt) và tránh những hành vi ngược lại (như đánh nhau, hay sờ vào miếng kẹo cao su dính dưới gầm bàn thư viện). Đó là mục tiêu ngắn hạn của kỷ luật.
Tuy vậy mục tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng, trong khi đạt được sự hợp tác là mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu thứ hai dài hạn hơn. Nó tập trung hướng dẫn bọn trẻ phát triển các kỹ năng và khả năng giải quyết linh hoạt những tình huống thách thức, sự giận dữ, và cơn bão cảm xúc có thể khiến chúng mất kiểm soát. Đó là những kỹ năng về mặt nội tâm có thể suy rộng ra ngoài hành vi tức thời và được dùng đến sau này trong nhiều tình huống khác. Mục tiêu thứ hai mang tính nội tâm của việc kỷ luật nhằm giúp bọn trẻ phát huy sự tự giác và mở rộng phạm vi đạo đức, để khi không có người lớn ở bên thì chúng vẫn thận trọng và chu đáo. Mục tiêu là giúp chúng lớn lên thành những người có trách nhiệm và tử tế, tận hưởng những mối quan hệ và sống có ý nghĩa.
Chúng tôi gọi đây là hướng tiếp cận kỷ luật Bằng cả não bộ vì như đã giải thích, khi những bậc cha mẹ như chúng ta sử dụng cả não bộ của mình, chúng ta có thể tập trung dạy những phản ứng tức thời bên ngoài và cả những bài học nội tâm lâu dài. Và khi bọn trẻ được giáo dục có chủ đích như vậy, chúng cũng sẽ sử dụng cả bộ não của mình.
Ngày nay chúng ta biết cách giúp trẻ phát triển tối ưu là tạo ra các mối liên kết với não bộ của trẻ - toàn não bộ - nhằm phát triển những kỹ năng hoàn thiện mối quan hệ, tốt cho sức khỏe tâm thần và sống có ý nghĩa hơn. Bạn có thể gọi là điêu khắc não bộ, giáo dục não bộ, hay xây dựng não bộ. Dù với bất cứ cách gọi nào, vấn đề chủ yếu và gây hứng thú là: tùy theo cách gọi và hành động của chúng ta, bộ não trẻ sẽ thực sự thay đổi và được xây dựng dần theo mỗi trải nghiệm mới.
Kỷ luật hiệu quả tức là chúng ta không chỉ dừng một hành vi xấu hay động viên cử chỉ tốt, mà còn dạy những kỹ năng và nuôi dưỡng mối liên kết với bộ não trẻ nhằm giúp chúng đưa ra quyết định đúng đắn và xử sự đúng mực trong tương lai. Một cách hoàn toàn tự giác. Bởi vì đó là cách bộ não của chúng được dẫn dắt.
Một điểm cộng nữa là khi càng giúp bọn trẻ xây dựng trí não, bản thân chúng ta sẽ bớt phải vật lộn để đạt mục tiêu ngắn hạn về sự hợp tác. Khuyến khích hợp tác và xây dựng trí não: hai mục tiêu song hành – cả bên ngoài và nội tâm – sẽ dẫn dắt cho việc kỷ luật tiếp cận bằng cả não bộ, hiệu quả và yêu thương. Đó chính là nuôi con bằng trí não!
Đạt mục tiêu: Nói Không với hành vi, nói Có với trẻ
Làm thế nào cha mẹ thường đạt được mục tiêu kỷ luật? Phổ biến nhất là qua doạ dẫm và phạt. Trẻ con cư xử không đúng mực, và phản ứng tức thì của các vị phụ huynh là đưa ra hậu quả và nổi cơn tam bành.
Bọn trẻ cư xử sai quấy, cha mẹ phản ứng, rồi chúng phản ứng lại. Xoa dầu, xối nước, lặp lại. Và với nhiều vị phụ huynh – có thể với hầu hết phụ huynh – hậu quả (đi kèm với một bài la hét vừa phải) gần như là chiến lược kỷ luật hiệu quả: hết giờ chơi, tước đi một quyền lợi, phạt cấm túc, và vô số thứ khác. Chẳng trách có lắm rắc rối đến thế! Nhưng như chúng tôi sẽ giải thích, có những cách kỷ luật sẽ loại bỏ rất nhiều lý do vì sao chúng ta bắt bọn trẻ phải chịu hậu quả ngay từ đầu.
Bên cạnh đó, hậu quả và những phản ứng nhằm trừng phạt thật ra lại phản tác dụng, không chỉ trong việc xây dựng não bộ cho trẻ, mà thậm chí còn khiến trẻ không chịu hợp tác. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân và từ phòng khám của chúng tôi, cũng như khoa học mới nhất về phát triển trí não, chúng tôi khẳng định rằng tự động đưa ra hậu quả không phải là cách tốt nhất để đạt được mục tiêu của việc kỷ luật.
Vậy cái gì mới là tốt nhất? Đó là nền tảng nghiên cứu của cuốn Phương pháp dạy con không đòn roi và có thể tóm gọn bằng cụm từ: kết nối và đổi hướng.
Kết nối và đổi hướng
Một lần nữa, mỗi đứa trẻ, cũng giống như mỗi tình huống nuôi dạy con cái, đều khác nhau. Nhưng một điều bất biến luôn đúng trong hầu như bất cứ tình huống nào là bước đầu tiên để kỷ luật hiệu quả chính là kết nối cảm xúc với con. Mối quan hệ với con cái luôn là trung tâm cho mọi thứ chúng ta làm. Bất kể ta đang chơi với chúng, nói chuyện hay cười cùng với chúng, hoặc thậm chí kỷ luật chúng, ta cũng muốn bọn trẻ cảm nhận được mức độ sâu sắc của toàn bộ tình yêu thương và thiện ý của chúng ta, dù chúng ta đang công nhận một hành động tử tế hay chỉ ra hành vi sai trái. Kết nối nghĩa là chú ý đến bọn trẻ, đủ tôn trọng để lắng nghe chúng, là coi trọng sự đóng góp của chúng vào việc giải quyết vấn đề, và cho bọn trẻ biết chúng ta luôn ở bên – dù ta có thích hành động của chúng hay không.
Khi kỷ luật, chúng ta thực lòng muốn tham gia cùng bọn trẻ và chỉ ra ta yêu chúng biết nhường nào. Thực tế, khi bọn trẻ cư xử sai
quấy, đó là lúc chúng cần liên kết với chúng ta hơn cả. Những phản ứng kỷ luật nên thay đổi tùy theo độ tuổi, tính khí, và giai đoạn phát triển của trẻ, cùng với tình huống. Nhưng điều bất biến xuyên suốt vấn đề kỷ luật là sự giao tiếp rõ ràng về mối liên hệ sâu sắc giữa cha mẹ và con cái. Mối quan hệ là con át chủ bài cho bất kỳ hành vi cụ thể nào.
Tuy nhiên, mối liên hệ không đồng nghĩa với sự dễ dãi. Liên kết với con trong khi kỷ luật chúng không có nghĩa là để chúng làm bất cứ thứ gì chúng muốn. Thực ra là ngược lại. Một phần của tình yêu thương chân thành với con cái và cho chúng những gì chúng cần, tức là đặt ra những giới hạn nhất quán và rõ ràng, tạo kết cấu dễ đoán biết trong cuộc sống của chúng, cũng như kỳ vọng vào chúng. Bọn trẻ cần hiểu cách thế giới này vận hành: cái gì dễ dãi được và cái gì không. Hiểu biết thấu đáo về luật lệ và ranh giới sẽ giúp bọn trẻ đạt thành công trong các mối quan hệ và những lĩnh vực khác trong cuộc sống. Khi học về kết cấu hành vi an toàn ở nhà, chúng có thể bay nhảy ở môi trường bên ngoài – trường học, công sở, các mối quan hệ - nơi sẽ đối mặt với vô số kỳ vọng vào hành vi thích hợp. Sẽ rất căng thẳng nếu không có những giới hạn và ranh giới, những đứa trẻ căng thẳng thì càng phản kháng mạnh mẽ. Vì vậy khi chúng ta nói không và đặt ra giới hạn, chúng ta giúp chúng khám phá ra điều dễ đoán biết và quy tắc an toàn trong thế giới hỗn loạn này. Và ta xây dựng kết nối với não bộ của trẻ khiến chúng xử lý tốt những khó khăn trong tương lai.
Nhưng hãy nhớ rằng, đổi hướng ít khi có tác dụng khi cảm xúc của trẻ đang lên đến cao trào. Hậu quả và những bài học sẽ không hữu ích chừng nào trẻ còn buồn bã và không lắng nghe bạn dạy dỗ.
Cũng giống như cố gắng dạy một chú chó ngồi xuống khi nó đang đánh nhau với con chó khác. Một con chó hung hăng sẽ không chịu ngồi yên. Nhưng nếu bạn có thể giúp trẻ bình tĩnh lại, trẻ sẽ nhanh chóng tiếp thu và hiểu những gì bạn đang cố gắng truyền đạt hơn là phạt và lên giọng dạy dỗ.
Đó là những gì chúng tôi giải thích khi mọi người hỏi về nhu cầu kết nối với trẻ. Có người nói: “Nghe có vẻ là cách kỷ luật tôn trọng và đầy tình yêu thương, tôi cũng thấy tác dụng lâu dài và khá dễ thực hiện. Nhưng thôi nào! Tôi phải làm việc! Rồi còn những đứa khác nữa! Tôi phải nấu bữa tối, cho bọn trẻ học piano và ballet, rồi đi xem giải Little League và hàng trăm việc khác. Khó khăn lắm mới không chìm nghỉm! Làm sao tôi có thời gian để kết nối và đổi hướng bọn trẻ khi kỷ luật chúng?”
Chúng tôi hiểu, rất hiểu điều này. Hai chúng tôi đều phải làm việc, vợ hay chồng của chúng tôi cũng vậy, và chúng tôi là những bậc cha mẹ tận tụy vì con cái mình. Nhưng những gì chúng tôi học hỏi được khi thực hiện các nguyên tắc và chiến lược được thảo luận ở những chương sắp tới là Kỷ luật không rắc rối không phải là việc làm xa xỉ với người rảnh rỗi. (Chúng tôi cũng không chắc có cha mẹ nào rảnh rỗi trên đời không.) Hướng tiếp cận Bằng cả não bộ không yêu cầu bạn dành thật nhiều thời gian để ngồi bàn luận với bọn trẻ làm điều đúng đắn. Thực tế, Kỷ luật không rắc rối hướng đến những tình huống rất bình thường khi nuôi dạy trẻ và coi đó là cơ hội để kết nối và dạy chúng cái gì là quan trọng. Có thể bạn nghĩ rằng khi hét lên “Thôi đi!” hay “Nín khóc ngay!” hoặc bắt trẻ dừng chơi ngay lập tức sẽ nhanh gọn, đơn giản và hiệu quả hơn là kết nối với cảm xúc của trẻ. Tuy nhiên chúng tôi sẽ sớm giải thích rằng chú ý tới cảm
xúc của trẻ thường sẽ khiến chúng bình tĩnh và hợp tác hơn, biện pháp này nhanh chóng hơn nhiều so với việc bộc phát quá đà khiến cho cảm xúc leo thang.
Và sau đây là phần tốt đẹp nhất. Khi tránh mang những hỗn loạn và rắc rối vào các tình huống kỷ luật – nói cách khác, khi chúng ta kết hợp giới hạn nhất quán và rõ ràng với sự thấu cảm thương yêu – ai cũng là người thắng cuộc. Vì sao? Chỉ đơn giản là Kỷ luật không rắc rối, tiếp cận bằng cả não bộ khiến cuộc sống của cả cha mẹ và con cái đơn giản hơn. Trong lúc tức giận cực độ - ví dụ như lúc bọn trẻ dọa ném điều khiển tivi vào toilet chỉ vài giây trước tập cuối bộ phim truyền hình về bệnh viện mà bạn thích – bạn có thể khuyến khích phần chức năng suy nghĩ cao hơn của não, hơn là kích thích phần chức năng phản ứng thấp hơn. (Chúng tôi sẽ giải thích chiến lược này cụ thể ở Chương 3.) Kết quả là bạn sẽ tránh được phần lớn những la hét, khóc lóc và giận dữ mà kỷ luật thường gây ra, chưa kể đến chiếc điều khiển khô ráo và bạn được chờ đợi trước khi chương trình bắt đầu với chiếc xe cứu thương lăn bánh trên màn hình.
Quan trọng hơn, theo một cách đơn giản nhất có thể, kết nối và đổi hướng sẽ giúp bọn trẻ trở thành người tử tế hơn, cả trong hiện tại và khi trưởng thành, thông qua xây dựng những kỹ năng nội tâm mà chúng cần đến trong suốt cuộc đời. Chúng không chỉ chuyển từ trạng thái phản ứng sang phương diện chấp nhận để học hỏi – đó là phần bên ngoài, phần hợp tác – mà những kết nối trong bộ não chúng cũng được xây dựng. Những kết nối này sẽ cho phép chúng lớn lên trở thành người biết tự kiểm soát, nghĩ đến người khác, điều chỉnh cảm xúc cá nhân, và đưa ra lựa chọn thích hợp. Bạn sẽ giúp
chúng dựng một chiếc la bàn nội tâm để chúng học cách dựa vào đó. Hơn là bảo chúng phải làm gì và yêu cầu bọn trẻ thực hiện nguyện vọng của bạn, bạn sẽ trao cho chúng những kinh nghiệm củng cố chức năng thực thi và phát triển các kỹ năng liên quan đến sự thấu cảm, hiểu rõ bản thân và đạo đức. Đó là phần xây dựng trí não, phần nội tâm.
Nghiên cứu rõ ràng ở điểm này. Những đứa trẻ đạt được nhiều thành tựu trong cuộc sống – về mặt cảm xúc, quan hệ, hay giáo dục – đều được cha mẹ nuôi dạy với sự kết nối và dưỡng dục sâu sắc, trong khi vẫn trao đổi và giữ vững giới hạn rõ ràng cùng với kỳ vọng cao. Cha mẹ của những đứa trẻ này luôn giữ thái độ nhất quán trong lúc tỏ rõ tình yêu thương, sự tôn trọng và quan tâm. Vì thế bọn trẻ hạnh phúc hơn, thể hiện tốt hơn ở trường lớp, ít vướng vào rắc rối, và tận hưởng những mối quan hệ có ý nghĩa.
Bạn sẽ không thường xuyên kết nối và đổi hướng khi kỷ luật trẻ. Chúng ta cũng không phải là những người cha mẹ hoàn hảo. Nhưng càng nỗ lực kết nối và đổi hướng, càng ít rắc rối xảy ra khi ta phản ứng với những hành vi sai quấy của con. Thậm chí chúng còn học hỏi được nhiều hơn, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và những kỹ năng giải quyết xung đột, và chúng sẽ có mối quan hệ ngày càng bền chặt với chúng ta khi chúng lớn lên.
Chương 1
NGHĨ LẠI VỀ KỶ LUẬT
Sau đây là một vài câu nói thực tế chúng tôi nghe được từ các phụ huynh. Bạn có thấy câu nào quen không?
Những lời nói này nghe có quen thuộc không? Rất nhiều
bậc cha mẹ đều cảm thấy như vậy. Họ muốn xử lý mọi chuyện ổn thỏa khi bọn trẻ gắng sức làm điều đúng đắn, nhưng hầu hết họ thường phản ứng ngay khi tình huống xảy ra mà không dựa vào bộ nguyên tắc và chiến lược rõ ràng. Họ đổi sang chế độ lái tự động và từ bỏ việc điều khiển những quyết định nuôi dạy con cái có chủ đích.
Chế độ lái tự động là công cụ hữu ích khi lái máy bay. Chỉ cần gạt cần, ngả lưng và thư giãn, để máy móc đưa bạn đến nơi được lập trình sẵn. Nhưng trong việc kỷ luật con cái, bật chế độ lái tự động đã được lập trình sẵn không phải là điều tốt. Nó có thể dẫn ta bay thẳng vào vùng tối tăm với đám mây đen vần vũ, và cả cha mẹ lẫn con cái sẽ trải qua một chuyến đi khá xóc.
Thay vì phản ứng, chúng tôi muốn bạn thông cảm với bọn trẻ. Chúng ta muốn kỷ luật có chủ đích và đưa ra quyết định sáng suốt dựa vào những nguyên tắc đã suy nghĩ và đồng thuận trước đó. Có chủ đích nghĩa là cân nhắc nhiều lựa chọn và chọn ra hướng đi thấu
đáo để đạt được mục tiêu dự kiến. Đối với Kỷ luật không rắc rối, mục tiêu bên ngoài ngắn hạn về giới hạn và kết cấu hành vi, và mục tiêu dài hạn nội tâm là dạy kỹ năng sống.
Ví dụ, cậu con trai bốn tuổi đánh bạn. Có thể bé giận dữ vì bạn nói mình phải viết xong email rồi mới chơi Lego với bé được, và bé phản ứng bằng cách đánh vào lưng bạn. (Thật ngạc nhiên khi anh chàng bé bỏng này có thể đánh bạn đau đến vậy phải không?)
Bạn làm gì? Nếu đang bật chế độ lái tự động mà không dựa vào triết lý cụ thể làm thế nào để xử lý hành vi không tốt, có thể bạn sẽ phản ứng ngay lập tức mà không xem xét và cân nhắc. Có lẽ bạn sẽ túm lấy bé, mạnh hơn là bạn nghĩ, và nghiến răng nói với bé rằng “Đánh là không tốt!” Rồi bạn sẽ chỉ ra một vài hậu quả như dẫn bé vào phòng và bắt ngồi yên ở đó.
Đó có phải là phản ứng tệ nhất khi dạy con không?
Không phải. Nhưng có thể tốt hơn được không? Chắc chắn. Điều cần thiết là bạn phải hiểu rõ mình muốn đạt được gì khi con cư xử sai quấy.
Đó là mục tiêu bao trùm chương này, nhằm giúp bạn hiểu tầm quan trọng của triết lý có chủ đích và có chiến lược rõ ràng, nhất quán khi phản ứng với hành vi không tốt. Như đã nói trong phần Giới thiệu, mục tiêu song hành của kỷ luật là khuyến khích hành vi tốt đẹp bên ngoài trong khoảng thời gian ngắn và xây dựng cấu trúc não bộ bên trong nhằm phát triển hành vi tốt và kỹ năng trong mối quan hệ cho thời gian dài. Vì vậy khi bạn nghiến răng, bật ra một luật lệ và bắt trẻ chịu hậu quả, liệu những điều đó có ích khi dạy dỗ con bạn về việc đánh người khác không?
Có và không. Có thể bạn sẽ đạt được mục tiêu ngắn hạn là bé không đánh mình nữa. Sự sợ hãi và hình phạt có thể phát huy tác dụng ngay lúc đó, nhưng không được lâu dài. Và liệu bạn có muốn dùng nỗi sợ hãi, hình phạt và rắc rối như những động lực cơ bản cho con cái không? Nếu có, chúng tôi cho rằng quyền lực và sự kiểm soát là những công cụ tốt nhất để sai khiến người khác làm điều ta muốn.
Xin nhắc lại, phản ứng khi chúng ta giận dữ là chuyện rất bình thường, đặc biệt khi ai đó khiến chúng ta đau đớn hoặc bị tổn thương. Nhưng có những phản ứng tích cực hơn giúp đạt mục tiêu trước mắt nhằm giảm bớt hành vi không mong muốn trong tương lai, đồng thời xây dựng các kỹ năng. Vì vậy thay vì sợ phản ứng của bạn và kiềm chế cơn bốc đồng sau này, con bạn sẽ học được kỹ năng nội tâm không liên quan gì đến nỗi sợ hãi thông qua trải nghiệm tình huống. Và tất cả những bài học này có thể diễn ra trong lúc giảm bớt rắc rối khi tương tác với con, đồng thời thúc đẩy mối liên kết giữa cha mẹ và con cái.
Hãy bàn về cách bạn có thể phản ứng để tránh biến kỷ luật thành nguyên nhân gây ra nỗi sợ hãi, hơn thế lại là cách xây dựng kỹ năng cho trẻ.
Ba câu hỏi: Tại sao? Cái gì? Thế nào?
Trước khi bạn phản ứng lại những cư xử sai quấy, hãy dừng lại và tự vấn bản thân ba câu hỏi đơn giản:
1. Tại sao bé lại làm như vậy? Trong cơn giận dữ, câu trả lời của chúng ta có thể là “Vì thằng bé là một đứa trẻ hư hỏng” hay “Vì thằng bé cố tình chọc tức mình đây mà!” Nhưng khi chúng ta tiếp
cận với sự tò mò thay vì giả định, nhìn sâu hơn nữa vào điều đang diễn ra đằng sau mỗi hành động sai trái, thường thì chúng ta có thể nhận ra rằng đứa trẻ đang cố gắng thể hiện hoặc đạt được điều gì đó nhưng chỉ là bé không thực hiện đúng cách. Nếu chúng ta hiểu điều này, chính chúng ta sẽ có thể phản ứng một cách hiệu quả hơn - và đồng cảm hơn.
2. Mình sẽ dạy bé bài học gì trong tình huống này? Một lần nữa, mục tiêu của kỷ luật không phải để trừng phạt. Chúng ta muốn dạy một bài học – có thể là về sự kiềm chế, tầm quan trọng của sự sẻ chia, hành động có trách nhiệm, hoặc bất kỳ điều gì khác.
3. Làm thế nào để dạy bé bài học này một cách hiệu quả nhất? Hãy cân nhắc độ tuổi và giai đoạn phát triển của bé, cùng với bối cảnh của tình huống (bé có biết chiếc loa cầm tay đã được bật trước khi dí vào tai của con cún?), làm thế nào để chúng ta thể hiện hiệu quả nhất điều mà chúng ta muốn truyền tải? Chúng ta thường xuyên phản ứng lại những cư xử sai quấy như thể trừng phạt là mục tiêu của kỷ luật. Đôi khi sự trừng phạt tự nhiên do đứa trẻ tự quyết định, và bài học được truyền đạt mà chúng ta không cần phải làm gì nhiều. Nhưng thường thì chúng ta có nhiều cách hiệu quả và trìu mến hơn để giúp bọn trẻ hiểu điều chúng ta muốn truyền đạt hơn là ngay lập tức đưa ra hình phạt áp- dụng-cho-mọi-tình-huống.
Bằng cách đặt ra ba câu hỏi trên – tại sao, cái gì, và thế nào – khi con cái chúng ta làm điều gì đó khiến chúng ta phật ý, chúng ta có thể tránh sự mất kiểm soát dễ dàng hơn. Điều này có nghĩa rằng chúng ta có thể phản ứng theo cách thức hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn hành động đó một cách nhanh chóng đồng thời dạy những bài học cuộc sống to lớn và lâu dài, cùng với những kỹ năng
xây dựng tính cách và làm tiền đề cho đứa trẻ có thể đưa ra những quyết định đúng đắn trong tương lai.
Hãy cùng xem xét kỹ hơn làm thế nào mà ba câu hỏi này có thể giúp chúng ta xử lý tình huống đứa bé 4 tuổi đập vào lưng bạn khi bạn đang soạn thảo email. Khi bạn nghe tiếng đập và cảm thấy vết hằn đau đớn hình bàn tay bé xíu đằng sau lưng, bạn cần một lúc để bình tĩnh và tránh việc phản ứng lại ngay lập tức. Điều đó không phải lúc nào cũng dễ dàng phải không? Trên thực tế, não bộ chúng ta được lập trình để nhận biết cơn đau vật lý như một hiểm họa, điều này kích thích dây thần kinh khiến phản xạ nhạy bén hơn và đặt chúng ta trong trạng thái “chiến đấu”. Vì vậy bạn sẽ cần một chút nỗ lực, đôi khi là rất nhiều sự nỗ lực, để kiểm soát bản thân và thực hành Kỷ luật Không-Rắc rối. Khi đó chúng ta phải chế ngự sự phản xạ theo bản năng của mình. Thật không dễ dàng. (Nhân đây, điều này sẽ càng khó khăn hơn khi bạn đang thiếu ngủ, đói, dễ xúc động, hay thiếu sự chăm sóc bản thân.) Khoảng dừng giữa phản xạ và phản ứng là khởi nguồn của sự chọn lựa, định hướng, và sự khéo léo của một bậc phụ huynh.
Như vậy, bạn cần cố gắng dừng lại và tự đặt cho mình ba câu hỏi trên càng nhanh càng tốt. Sau đó bạn có thể quan sát rõ ràng hơn nhiều điều đang diễn ra trong sự tiếp cận của bạn với con mình. Mỗi hoàn cảnh đều khác nhau và phụ thuộc nhiều yếu tố, tuy nhiên câu trả lời cho những câu hỏi có thể sẽ giống như dưới đây:
1. Tại sao bé lại làm như vậy? Bé đánh bạn vì bé muốn sự chú ý của bạn mà không được. Nghe có vẻ khá điển hình đối với một cậu bé 4 tuổi phải không? Đáng mong đợi? Không. Phù hợp với sự phát triển? Hiển nhiên. Thật khó để chờ đợi đối với một đứa trẻ ở tuổi đó,
và bị những cảm xúc mạnh mẽ bộc lộ lại càng làm điều đó khó khăn hơn. Cậu bé chưa đủ lớn để tự kiềm chế bản thân mình một cách hiệu quả hoặc nhanh chóng tới mức có thể dừng hành động của mình lại. Bạn ước gì bé có thể tự xoa dịu và tuyên bố một cách bình tĩnh, “Mẹ, con cảm thấy bực bội vì mẹ bắt con phải tiếp tục đợi, và con đang cảm thấy một sự thôi thúc to lớn và mạnh mẽ muốn đánh mẹ ngay lập tức – nhưng con đã quyết định không làm vậy và thay vào đó là sử dụng lời lẽ.” Tuy nhiên điều đó sẽ không xảy ra. (Nếu thực sự xảy ra thì hẳn là khá nực cười.) Trong thời điểm đó, việc bé đánh bạn là một hành động mặc định để thể hiện cảm xúc tức tối và mất kiên nhẫn một cách mạnh mẽ. Bé sẽ cần thời gian và thực hành xây dựng kỹ năng để học cách trì hoãn sự thỏa mãn và kiểm soát cơn giận một cách hợp lý. Đó chính là lý do bé đánh bạn.
Đây không còn là vấn đề của riêng bạn phải không? Bọn trẻ thường không đánh chúng ta chỉ đơn giản vì chúng vô lễ, hay vì chúng ta là những bậc cha mẹ thất bại. Chúng thường hành xử như vậy vì chúng chưa có đủ năng lực để điều hòa cung bậc cảm xúc và kiềm chế cơn bốc đồng. Và chúng cảm thấy an toàn với chúng ta đủ để biết chúng sẽ không đánh mất tình yêu của chúng ta ngay cả khi chúng tệ hại nhất. Trên thực tế khi một đứa trẻ 4 tuổi không vùng vằng và lúc nào cũng cư xử “đúng mực”, chúng ta sẽ quan ngại về mối quan hệ giữa bé và bố mẹ. Khi bọn trẻ gắn bó chặt chẽ với bố mẹ, chúng sẽ cảm thấy đủ an toàn để thử thách mối quan hệ đó. Nói cách khác, việc bé cư xử sai quấy thường là một dấu hiệu của sự tin tưởng và an tâm của bé đối với bạn. Nhiều bậc phụ huynh nhận thấy rằng con cái họ “để dành tất cả cho họ”, cư xử ngoan ngoãn hơn hẳn khi ở trường hoặc với những người lớn khác hơn là khi ở
nhà. Đây chính là lý do. Những trận bùng nổ đó thường là biểu hiệu của sự an tâm và tin tưởng, hơn là sự nổi loạn nào đó.
2. Mình sẽ dạy bé bài học gì trong tình huống này? Bài học không phải là cư xử sai quấy sẽ phải nhận hình phạt, mà là có nhiều cách tốt hơn để thu hút sự chú ý và kiểm soát cơn nóng giận hơn là dùng tới bạo lực. Bạn
muốn bé hiểu rằng việc đánh người là không tốt, và rằng có nhiều cách thích hợp để thể hiện cảm xúc của bé.
3. Làm thế nào để dạy bé bài học này một cách hiệu quả nhất? Mặc dù cấm túc hay một hình phạt không liên quan nào đó khác có thể có hoặc không khiến con trai bạn cân nhắc việc đánh người vào lần tiếp theo, chúng ta có một phương thức khác hay hơn. Nếu như bạn tiếp cận bé bằng cách kéo bé vào lòng để bé biết bạn đang hoàn toàn chú tâm đến bé? Sau đó bạn có thể nắm bắt cảm giác của bé và thiết lập phương thức để liên kết với những cảm xúc đó: “Chờ đợi thật khó khăn. Con thực sự muốn mẹ chơi cùng, và con giận vì mẹ ngồi máy tính. Có phải vậy không?” Hẳn là bạn sẽ nhận được một câu trả lời giận dữ “Đúng!”. Điều đó không tệ, bé sẽ hiểu bạn đang quan tâm đến bé. Và bé cũng quan tâm đến bạn. Giờ thì bạn có thể nói chuyện với bé, khi bé đã bình tĩnh hơn và sẵn sàng lắng nghe, giao tiếp bằng mắt, giải thích rằng không bao giờ nên đánh người, và chỉ cho bé những cách thức khác mà bé có thể chọn khi muốn thu hút sự chú ý của bạn vào lần tới – như sử dụng lời lẽ để thể hiện sự bực bội của mình.
Cách tiếp cận này hiệu quả với cả những đứa trẻ lớn hơn. Hãy cùng xem xét một trong những vấn đề phổ biến nhất mà các bậc
phụ huynh khắp nơi phải đối mặt: cuộc chiến bài tập về nhà. Hãy tưởng tượng đứa con 9 tuổi của bạn đang đấu tranh dữ dội khi đến giờ học, và mẹ con bạn đang luẩn quẩn trong thói quen thường lệ. Ít nhất một tuần một lần cô bé sẽ ngã gục. Cô bé sẽ nổi khùng lên và kết thúc trong nước mắt, hét lên với bạn và gọi giáo viên của cô bé là “xấu xa” vì đã giao bài tập về nhà khó đến vậy và gọi bản thân là “ngu ngốc” vì gặp rắc rối với chúng. Sau tuyên bố đó, cô bé sẽ vùi mặt vào khuỷu tay và đổ gục xuống bàn trong vũng nước mắt.
Đối với một phụ huynh, tình huống như vậy có thể cũng dễ phát điên như khi bị đánh vào lưng bởi một đứa trẻ lên bốn. Phản ứng tự động của bạn có thể sẽ là bị khuất phục bởi sự tức tối và, trong cơn nóng giận, bạn sẽ tranh cãi với con gái và lên lớp cô bé, đổ tội cô bé không biết cách quản lý thời gian và không lắng nghe bài giảng tốt khi ở trên lớp. Có lẽ bạn sẽ thấy quen thuộc với câu lên lớp “Nếu con bắt đầu sớm hơn lúc mẹ bảo con làm, lẽ ra giờ con đã xong rồi”. Chúng ta chưa từng nghe thấy đứa trẻ nào trả lời câu đó rằng “Bố đã đúng, bố ạ. Đáng ra con nên bắt đầu khi bố bảo. Con sẽ chịu trách nhiệm vì đã không làm khi đáng lẽ ra con phải làm và con đã học được một bài học. Con sẽ làm bài tập về nhà sớm hơn vào ngày mai. Cảm ơn bố vì đã khiến con hiểu điều này.”
Thay vì lên lớp, nếu bạn tự đặt ra ba câu hỏi tại sao- cái gì-thế nào thì sao?
1. Tại sao bé lại làm như vậy? Một lần nữa, các cách tiếp cận mang tính kỷ luật sẽ thay đổi tùy theo con bạn là người như thế nào và tính cách của bé ra sao. Có thể bài tập về nhà là một sự đấu tranh với cô bé và cô bé cảm thấy tuyệt vọng, như thể đó là một cuộc chiến mà cô bé không bao giờ chiến thắng được. Có thể điều gì đó ở nó quá khó hoặc quá sức với bé và làm cho bé cảm thấy bản thân mình kém cỏi, hoặc cũng có thể cô bé chỉ đơn giản cần nhiều hoạt động thể chất hơn. Cảm giác chủ yếu trong tình huống này có thể là sự tuyệt vọng và bất lực.
2. Mình sẽ dạy bé bài học gì trong tình huống này? Có thể là bạn cần dạy về việc quản lý thời gian hợp lý và trách nhiệm. Hay về cách ra quyết định chọn lựa những hoạt động nào nên tham gia. Hoặc làm thế nào để thích nghi cảm xúc tuyệt vọng tốt hơn.
3. Làm thế nào để dạy bé bài học này một cách hiệu quả nhất? Dù cho câu trả lời cho câu hỏi số 2 là gì, hiển nhiên việc lên lớp khi cô bé đang buồn không phải là cách hay. Đây không phải thời điểm để dạy dỗ, bởi phần xúc động và chống đối của não bộ đang dữ dội, lấn át phần não bộ bình tĩnh, lý trí, suy luận và tiếp thu. Vì vậy thay vì giáo dục, bạn nên giúp cô bé với những phân số và vượt qua sự khủng hoảng này: “Bố hiểu tối nay đã quá đủ với con và con mệt. Con có thể làm được. Bố sẽ ngồi với con và chúng ta có thể đánh bại nó.” Rồi khi cô bé đã bình tâm trở lại và hai bố con đang cùng chia sẻ một bát kem lạnh – hoặc thậm chí là ngày hôm sau – bạn có thể thảo luận xem có phải lịch trình của cô bé đã quá tải, hay cân nhắc xem có phải cô bé đang thực sự vật lộn với việc hiểu một khái niệm nào đó, hoặc khám phá liệu có phải cô bé mải nói chuyện với bạn trên lớp và phải mang phần việc chưa hoàn thành về nhà, đồng nghĩa với việc cô bé có nhiều bài tập về nhà hơn. Hãy hỏi cô bé, và cùng nhau giải quyết vấn đề để tìm hiểu điều đang diễn ra. Hỏi xem điều gì cản trở bé hoàn thành bài tập về nhà, tại sao cô bé lại cảm thấy chuyện này chẳng đi đến đâu cả, và cô bé có thể đề xuất gì. Hãy nhìn tất cả điều này như một cơ hội hợp tác để cải thiện công cuộc làm bài tập về nhà. Cô bé có thể sẽ cần giúp đỡ xây dựng các kỹ năng đưa ra giải pháp, nhưng hãy khiến cô bé tham gia vào quá trình càng nhiều càng tốt.
Nên nhớ hãy lựa chọn thời điểm mà tinh thần cả hai đang trong trạng thái tốt, sẵn sàng tiếp thu, rồi bắt đầu bằng cách nói điều gì đó như “Có vẻ như bài tập về nhà không được thuận lợi lắm phải không con? Bố cá là chúng ta có thể có cách hay hơn. Con có nghĩ ra cách nào hiệu quả không?” (Nhân đây, chúng tôi sẽ đưa cho bạn rất nhiều gợi ý cụ thể, thực tiễn để giúp bạn với những hội thoại kiểu này
trong Chương 6, khi chúng tôi thảo luận về chiến lược điều hướng Không-Rắc rối.)
Những đứa trẻ khác nhau sẽ cần những phản hồi khác nhau cho câu hỏi tại sao-cái gì-thế nào, vì vậy chúng tôi không nói rằng bất kỳ câu trả lời cụ thể nào ở đây là cần thiết áp dụng cho con bạn vào thời điểm nào đó. Vấn đề là phải có một cái nhìn mới về việc kỷ luật, phải suy nghĩ lại về nó. Sau đó bạn có thể được chỉ dẫn bởi một triết học tổng quát khi tiếp xúc với trẻ, hơn là chỉ đơn thuần phản xạ với bất kỳ điều gì nảy ra khi các bé làm phật ý bạn. Các câu hỏi tại sao cái gì-thế nào cho chúng ta một phương thức mới để cải thiện từ việc dạy dỗ con cái theo phản xạ đến những chiến lược dạy dỗ bằng Cả-Não bộ một cách có nhận thức và định hướng.
Phải thừa nhận rằng không phải lúc nào bạn cũng có thời gian để nghĩ hết ba câu hỏi. Khi cuộc đấu vật vui vẻ tại phòng khách biến thành trận chiến máu lửa trong lồng sắt, hay khi bạn có một cặp sinh đôi đang muộn giờ đến lớp múa ballet, thật không dễ dàng để thực hiện nghi thức 3 câu hỏi. Chúng tôi hiểu điều đó. Trong tình trạng nóng nảy đó việc bạn có thời gian để lý trí như vậy có vẻ hoàn toàn không thực tế.
Chúng tôi không cho rằng lúc nào bạn cũng có thể thực hiện một cách hoàn hảo, hoặc bạn có thể ngay lập tức nghĩ ra câu trả lời khi con bạn gặp vấn đề. Nhưng bạn càng suy nghĩ và thực hành phương pháp này nhiều thì việc tiếp cận nhanh và phản hồi một cách có chủ ý sẽ càng trở nên tự nhiên và dễ dàng hơn. Nó thậm chí có thể trở thành phản xạ mặc định và túc trực của bạn. Cùng với
thực hành, những câu hỏi này có thể giúp bạn giữ vững sự chủ động và lý trí trước những tương tác dẫn đến phản ứng trước đó. Đặt câu hỏi tại sao, cái gì, và thế nào có thể giúp tạo ra sự minh mẫn nội tâm cho dù bạn đang phải đối diện với một mớ hỗn độn bên ngoài.
Nhờ đó, phần thưởng của bạn sẽ là ngày càng ít phải áp dụng kỷ luật hơn, vì bạn không chỉ định hình cho não bộ của con bạn đưa ra quyết định tốt hơn và hiểu được sự liên kết giữa cảm xúc và hành động, mà bạn còn cảm nhận rõ hơn điều đang diễn ra với con mình – tại sao lại làm thế và điều bé làm là gì – đồng nghĩa rằng bạn sẽ định hướng cho bé tốt hơn trước khi mọi việc trở nên nghiêm trọng. Thêm vào đó, bạn còn tăng cường khả năng nhìn nhận từ quan điểm của bé, điều này giúp bạn nhận ra khi nào bé cần sự trợ giúp của bạn, thay vì sự phẫn nộ.
Không thể và không: Kỷ luật không thể áp dụng cho mọi tình huống
Nói một cách đơn giản, đặt ra câu hỏi tại sao-cái gì- thế nào giúp chúng ta nhớ lại con chúng ta là ai và chúng cần điều gì. Những câu hỏi này đòi hỏi chúng ta ý thức được độ tuổi và những nhu cầu riêng biệt của mỗi cá nhân. Sau cùng thì cách hiệu quả với một đứa trẻ có thể hoàn toàn trái ngược với điều mà anh trai bé cần. Và cách hiệu quả với một đứa trẻ vào lúc này chưa chắc đã hiệu quả với chính bé 10 phút sau đó. Vì vậy đừng nghĩ rằng kỷ luật là một giải pháp áp dụng được cho mọi tình huống. Thay vào đó, hãy nhớ tầm quan trọng của việc kỷ luật một đứa trẻ vào một thời điểm cụ thể.
Thường xuyên khi chúng ta áp dụng kỷ luật một cách tự động, chúng ta sẽ phản ứng lại một tình thế theo cách nghĩ chung chung của chúng ta thay vì theo điều mà đứa trẻ cần vào chính lúc đó. Chúng ta dễ dàng quên mất rằng con cái của chúng ta chỉ là trẻ con và đòi hỏi cách hành xử trên mức khả năng phát triển của chúng. Đơn cử, chúng ta không thể kỳ vọng một đứa bé 4 tuổi kiểm soát cảm xúc tốt khi bé đang tức giận vì mẹ của bé vẫn đang làm việc với máy tính, chúng ta cũng không thể kỳ vọng gì hơn ở việc một đứa bé 9 tuổi thỉnh thoảng phát cáu vì bài tập về nhà.
Mới đây Tina gặp một bà mẹ và bà ngoại đi mua sắm. Họ đặt trong xe đẩy một bé trai khoảng 15 tháng tuổi. Trong khi bà và mẹ đi chọn đồ, xem xét túi và giày, đứa bé khóc liên tục, rõ ràng là muốn ra khỏi xe đẩy. Bé cần được di chuyển, đi lại và khám phá. Người trông trẻ đãng trí đưa bé những món đồ để làm bé sao nhãng, nhưng điều này chỉ làm bé thêm cáu bẳn. Cậu bé không thể nói, nhưng điều bé muốn thể hiện quá rõ ràng: “Mọi người yêu cầu quá đáng rồi! Con muốn mọi người hiểu điều con cần!” Hành động và tiếng khóc thảm thiết của bé là hoàn toàn có thể hiểu được.
Trên thực tế, chúng ta nên giả định rằng bọn trẻ đôi khi sẽ trải qua và biểu hiện những phản ứng theo cảm xúc, và cả những hành động “chống đối”. Theo tiến trình phát triển, chúng không hoạt động dựa trên bộ não đã hoàn thiện (như chúng tôi sẽ diễn giải trong Chương 2), vì vậy về lý thuyết chúng không thể lúc nào cũng đáp ứng được kỳ vọng của chúng ta. Điều này có nghĩa là khi chúng ta thực hiện kỷ luật, chúng ta luôn phải cân nhắc khả năng phát triển của đứa bé, đặc biệt là tính khí, và kiểu cảm xúc, cũng như hoàn cảnh.
Một sự phân biệt quan trọng là khái nhiệm giữa không thể và không được. Sự giận dữ của phụ huynh giảm triệt để và mạnh mẽ khi chúng ta phân biệt được giữa không thể và không. Đôi khi chúng ta cho rằng bọn trẻ không cư xử theo cách chúng ta muốn, trong khi thực tế là chúng đơn thuần không thể, ít nhất là trong thời điểm cụ thể đó.
Sự thật là phần lớn những hành động sai quấy là do không thể hơn là không. Lần tới khi con bạn gặp khó khăn trong việc kiểm soát
bản thân, hãy tự hỏi mình, “Liệu cách bé cư xử có phải bình thường không khi xét độ tuổi và hoàn cảnh?” Câu trả lời thường sẽ là có. Đi loanh quanh hàng giờ với một đứa bé 3 tuổi trong xe, và bé chắc chắn sẽ phát cáu. Một đứa trẻ 11 tuổi thức khuya xem pháo hoa vào đêm hôm trước và rồi phải dậy sớm vào sáng hôm sau để tham gia hoạt động rửa xe của hội học sinh chắc hẳn sẽ phải gục ngã một lúc nào đó trong ngày. Không phải vì cậu không mà vì cậu không thể chịu nổi.
Chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh vấn đề này với các bậc phụ huynh. Điều này đặc biệt có tác dụng với một ông bố đơn thân đã tới văn phòng của Tina. Ông ấy rất bối rối vì đứa con trai 5 tuổi của ông bình thường thể hiện rõ khả năng cư xử đúng mực và ra quyết định đúng đắn. Nhưng thỉnh thoảng, cậu bé lại suy sụp vì một điều vô cùng nhỏ nhặt. Và đây là cách Tina đã tiếp cận câu chuyện.
Tôi bắt đầu bằng cách cố giải thích với người bố đó rằng đôi khi con trai của ông không thể tự điều chỉnh bản thân, điều này nghĩa là cậu bé không lựa chọn trở nên cứng đầu hoặc ngang bướng. Ngôn ngữ cơ thể của ông bố phản ứng trước lời giải thích của tôi rất rõ ràng. Ông ấy khoanh tay lại và ngả lưng vào ghế. Mặc dù ông không trợn mắt một cách thẳng thừng, nhưng hẳn là ông ấy sẽ không mở câu lạc bộ hâm mộ Tina Bryson. Vì thế tôi đã nói, “Tôi nhận thấy là ông không đồng tình với tôi về chuyện này.”
Ông trả lời: “Điều đó thật vô nghĩa. Đôi khi thằng bé rất giỏi tiếp nhận ngay cả những sự thất vọng to lớn. Như tuần trước thằng bé không được đi chơi khúc côn cầu. Hay như những lần khác thằng bé hoàn toàn mất trí khi không được dùng chiếc cốc màu xanh vì nó đang ở trong máy rửa bát! Không phải vì thằng bé không làm được.
Đơn giản là nó hư hỏng và cần kỷ luật nghiêm khắc. Thằng bé cần học cách vâng lời. Và nó có thể! Thằng bé đã chứng minh là nó hoàn toàn có thể chọn lựa cách tiết chế bản thân mình.”
Tôi quyết định mạo hiểm trong việc tư vấn – làm một điều bất thường mà không chắc nó sẽ đi đến đâu. Tôi gật đầu, rồi hỏi, “Tôi dám chắc hầu như lúc nào ông cũng là một người bố dịu dàng và kiên nhẫn phải không?”
Ông đáp, “Phải, hầu hết mọi lúc. Dĩ nhiên là thỉnh thoảng tôi không như vậy.”
Tôi cố gắng tỏ ra hài hước và dùng giọng điệu vui vẻ khi nói, “Vậy là ông có thể kiên nhẫn và dịu dàng, nhưng có đôi lúc ông lựa chọn không như thế?” Thật may mắn, ông ta mỉm cười, bắt đầu quan tâm đến điều tôi đang hướng tới. Vì vậy tôi tiếp tục. “Nếu ông yêu con trai mình, tại sao ông không đưa ra lựa chọn tốt hơn và luôn luôn là một ông bố tuyệt vời?” Ông ấy bắt đầu gật gù và cười lớn hơn nữa khi nhận thấy sự khôi hài của tôi khi đề cập đến vấn đề.
Tôi tiếp lời. “Điều gì khiến ông khó giữ bình tĩnh?”
Ông đáp, “Chà, còn tùy thuộc tâm trạng của tôi lúc đó như thế nào, nếu như tôi đang mệt mỏi hay có một ngày làm việc vất vả hoặc điều gì đó khác.”
Tôi mỉm cười và nói, “Ông hiểu tôi đang muốn nói gì phải không?”
Dĩ nhiên ông ấy hiểu. Tina tiếp tục giải thích rằng khả năng xử lý tốt các tình huống và đưa ra quyết định đúng đắn của một người thực sự có thể dao động tùy từng trường hợp và bối cảnh của một
tình huống cụ thể. Đơn giản vì chúng ta là con người, khả năng tiết chế bản thân của chúng ta không ổn định và bền bỉ. Và đương nhiên trường hợp của đứa bé 5 tuổi cũng vậy.
Ông bố đã hoàn toàn hiểu điều Tina đang nói: thật sai lầm khi cho rằng chỉ vì con trai của ông có thể tiết chế bản thân tốt vào một thời điểm nào đó thì bất cứ lúc nào cậu bé cũng có thể làm được điều đó. Và khi cậu không kiểm soát được cảm xúc và hành động, không có nghĩa là cậu hư hỏng và cần thắt chặt kỷ luật hơn. Hơn nữa, cậu bé cần sự thấu hiểu và giúp đỡ, thông qua mối liên hệ cảm xúc và đưa ra giới hạn, người bố có thể tăng cường và mở rộng khả năng của bé. Sự thật là với tất cả chúng ta, khả năng dao động tùy thuộc trạng thái trí óc và cơ thể, và trạng thái đó chịu tác động của rất nhiều yếu tố - đặc biệt là trong trường hợp một bộ não đang phát triển của một đứa trẻ đang phát triển.
Tina và người bố thảo luận kỹ hơn, và rõ ràng ông ấy đã hoàn toàn thấu hiểu quan điểm của Tina. Ông ấy đã hiểu sự khác nhau giữa không thể và không, và ông nhận ra ông đã áp đặt những kỳ vọng cứng nhắc và không phù hợp với sự phát triển (áp dụng cho mọi trường hợp) lên con trai của mình, và cả em gái của cậu bé nữa. Cái nhìn mới này đã giúp ông loại bỏ phương pháp dạy dỗ con cái tự động của mình và bắt đầu đưa ra những quyết định mang tính định hướng, thay đổi theo hoàn cảnh cho con mình, mỗi bé có tính cách và nhu cầu riêng biệt vào mỗi thời điểm khác nhau. Người bố đã nhận ra rằng ông không chỉ vẫn có thể đặt ra những giới hạn rành mạch và chắc chắn mà ông còn thực hiện điều đó một cách hiệu quả và được tôn trọng hơn, vì ông đã xét đến tính khí và khả năng dao động của từng đứa trẻ, cùng với hoàn cảnh của mỗi tình
huống. Do đó, ông có thể đạt được cả hai mục tiêu của kỷ luật: sự bất hợp tác của bé giảm dần, và dạy bé những kỹ năng và bài học cuộc sống quan trọng sẽ giúp bé trưởng thành trở thành một người đàn ông.
Người bố này đã học cách thách thức chính những định kiến trong suy nghĩ của mình, ví dụ như việc cư xử sai quấy luôn là sự chống đối ngang ngạnh thay vì là một khoảnh khắc khó khăn trong kiềm chế cảm xúc và hành động. Những cuộc thảo luận sau này với Tina đã khiến ông không chỉ nghi vấn riêng giả định đó, mà còn cả sự kiên quyết bắt con trai và con gái của mình nghe lời một cách vô điều kiện và không ngoại lệ. Phải, cũng hợp lý và chính đáng khi ông muốn kỷ luật của mình khuyến khích sự hợp tác từ phía con mình. Nhưng kết quả luôn là sự vâng lời hoàn toàn và không lý do? Không lẽ ông ấy muốn con cái mình lớn lên và cả đời nghe lời mọi người một cách mù quáng? Hay ông muốn chúng phát triển cá tính và đặc điểm cá nhân, đồng thời hiểu rằng điều ấy có nghĩa là phải hòa hợp với mọi người, quan sát giới hạn, đưa ra quyết định đúng đắn, tự kiểm điểm bản thân, vượt qua những hoàn cảnh khó khăn bằng cách tự suy nghĩ. Một lần nữa, ông ấy đã hiểu ra vấn đề, và điều đó đã mang lại sự khác biệt hoàn toàn cho các con của ông.
Người bố cũng bắt đầu nghi ngờ một giả định khác trong ông rằng có một viên đạn bạc hoặc cây đũa thần nào đó có thể dùng để xử lý bất kỳ vấn đề hay mối quan ngại nào về cách hành xử. Chúng ta đều ước có một phương thức chữa mọi bệnh như vậy, nhưng nó không tồn tại. Thật là hấp dẫn khi có thể đầu tư vào một hình thức kỷ luật hứa hẹn hiệu quả mọi lúc và mọi hoàn cảnh có thể thay đổi triệt để một đứa trẻ trong vài ngày. Nhưng động lực của sự tương
tác với bọn trẻ luôn phức tạp hơn thế. Những vấn đề trong cách cư xử đơn giản là không thể giải quyết được bằng một cách tiếp cận áp dụng cho tất cả mà chúng ta sử dụng cho mọi hoàn cảnh hay mọi môi trường hay mọi đứa trẻ.
Hãy cùng dừng lại ít phút và thảo luận về hai cách thức kỷ luật áp dụng cho tất cả phổ biến nhất mà các bậc phụ huynh dựa vào: đánh đòn và cấm túc.
Việc Đánh đòn trẻ và Bộ Não
Một phản ứng tự động mà rất nhiều phụ huynh viện tới là đánh các bé. Chúng tôi thường được hỏi quan điểm về chủ đề này.
Mặc dù chúng tôi là những người ủng hộ nhiệt tình việc đưa ra ranh giới và giới hạn, chúng tôi đều phản đối kịch liệt việc đánh bé. Hình phạt thể chất rất phức tạp và là một chủ đề vô cùng nhạy cảm, và một sự thảo luận hoàn chỉnh về các nghiên cứu, những hoàn cảnh khác nhau mà hình phạt thể chất áp dụng, và ảnh hưởng tiêu cực của việc đánh trẻ nằm ngoài nội dung cuốn sách này. Tuy nhiên dựa trên quan điểm thần kinh học và nhận định của các tài liệu nghiên cứu, chúng tôi tin rằng việc đánh trẻ em rất có thể sẽ phản tác dụng trong việc xây dựng một mối quan hệ tôn trọng với con cái, trong việc dạy trẻ những bài học mà ta muốn bé hiểu, và khuyến khích sự phát triển tối ưu. Chúng tôi cũng tin rằng trẻ em có quyền giải phóng khỏi mọi hình thức bạo lực, đặc biệt là dưới bàn tay của những người mà chúng tin tưởng là sẽ bảo vệ chúng.
Chúng tôi biết có vô vàn kiểu phụ huynh, trẻ con và vô vàn tình huống mà kỷ luật sẽ được áp dụng. Và đương nhiên chúng tôi cũng hiểu rằng sự tức giận, song hành với nguyện vọng muốn làm điều gì
đó tốt cho bọn trẻ, dẫn đến việc một số bậc cha mẹ sử dụng việc đánh đòn như một hình thức kỷ luật. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên tục chỉ ra rằng dù rằng cha mẹ có dịu dàng, yêu thương và săn sóc, việc đánh trẻ không chỉ kém hiệu quả trong việc thay đổi cách cư xử về lâu dài mà nó còn đi kèm với những hậu quả tiêu cực trong nhiều phạm trù. Chúng tôi thừa nhận có nhiều hình thức kỷ luật không sử dụng bạo lực nhưng vẫn gây tổn thương tương tự như vậy. Cô lập bọn trẻ trong một thời gian dài, làm chúng bẽ mặt, làm chúng hoảng sợ bằng cách hét lên đe dọa, và sử dụng những cách công kích khác bằng lời nói hoặc tâm lý là ví dụ của những hình thức kỷ luật khiến tinh thần của trẻ bị tổn thương ngay cả khi bố mẹ chúng chưa từng chạm tới cơ thể chúng.
Do đó, chúng tôi khuyến khích các bậc phụ huynh tránh mọi cách tiếp cận thô lỗ, gây ra sự đau đớn hoặc lo lắng hay sợ hãi. Sự chú ý của đứa trẻ sẽ chuyển từ hành động của mình và việc thay đổi nó sang cách phản ứng của người chăm sóc bé trước hành động đó, đồng nghĩa với việc bé không còn cân nhắc hành động của mình. Thay vào đó, bé chỉ nghĩ tới việc bố mẹ mình thật bất công và xấu xa khi làm bé tổn thương – hay thậm chí là họ đã trở nên đáng sợ như thế nào trong thời điểm đó. Cách phản ứng của phụ huynh khi đó đã hủy hoại cả hai mục tiêu cơ bản của kỷ luật – thay đổi thái độ và phát triển trí não – vì nó đã gạt đi cơ hội để bé suy nghĩ về hành động của mình và thậm chí cảm giác tội lỗi hoặc ăn năn hợp lý.
Một vấn đề quan trọng khác về việc đánh trẻ là những tác động đối với bé về mặt sinh lý và tâm lý. Bộ não sẽ nhận biết sự đau đớn như một mối hiểm họa. Vì thế khi phụ huynh gây ra nỗi đau về thể xác cho một đứa trẻ, bé sẽ phải đối mặt với một nghịch lý sinh học
không thể giải quyết nổi. Một mặt, chúng ta đều sinh ra với một bản năng là tìm đến người chăm sóc để được bảo vệ khi chúng ta bị đau hoặc sợ hãi. Nhưng khi chính những người chăm sóc chúng ta lại là nguồn gốc của cơn đau và sự sợ hãi, khi phụ huynh tạo ra cảm giác kinh sợ bên trong đứa trẻ qua hành động mà họ đã làm, điều đó sẽ khiến bộ não của trẻ bối rối. Một bên thôi thúc bé cố gắng trốn khỏi cha mẹ bé, người đã gây ra sự đau đớn; một bên khác thúc đẩy bé về phía đối tượng gắn bó để tìm kiếm sự an toàn. Do đó khi phụ huynh là nguồn gốc của nỗi sợ hay đau đớn, bộ não có thể trở nên hỗn loạn chức năng, vì không có giải pháp nào cả. Chúng tôi gọi điều này là một biểu hiện nguy hiểm của sự rối loạn mối quan hệ gắn bó. Hormone chống căng thẳng cortisol, tiết ra khi trạng thái nội tâm rối loạn và liên tục chịu đựng cơn thịnh nộ và sợ hãi khi tương tác với người khác, có thể dẫn tới những tác động tiêu cực lâu dài lên sự phát triển của não bộ, vì cortisol độc hại đối với bộ não và kiềm chế sự phát triển lành mạnh. Hình phạt nghiêm khắc và gay gắt có thể thực sự dẫn đến những biến động đáng kể trong não bộ, như hủy diệt dây thần kinh và ngay cả tế bào não.
Một vấn đề nữa của việc đánh trẻ em là nó dạy bé rằng bố mẹ không còn cách thức hiệu quả nào khác ngoài gây ra đau đớn thể xác. Đây là một bài học trực tiếp mà mọi phụ huynh cần cân nhắc một cách sâu sắc: chúng ta có muốn dạy bọn trẻ rằng cách để giải quyết mâu thuẫn là gây ra nỗi đau thể chất, đặc biệt là đối với những người không có khả năng phòng ngự và chống cự lại?
Hãy nhìn từ phương diện của bộ não và cơ thể, chúng ta biết rằng con người được trang bị bản năng tránh sự đau đớn. Và chính phần não bộ điều hòa những cơn đau thể xác sẽ tạo ra sự xa lánh
xã hội. Việc tạo ra sự đau đớn thể xác đồng thời tạo ra sự xa lánh xã hội trong bộ não của bé. Vì bọn trẻ không hoàn hảo, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của những phát hiện chỉ ra rằng mặc dù việc đánh bé thường ngăn chặn một hành động vào một thời điểm nhất định, nó không hiệu quả trong việc thay đổi hành động đó về lâu dài. Thay vào đó, bọn trẻ sẽ ngày càng giỏi che giấu những điều chúng làm. Nói cách khác, mối nguy hiểm là bọn trẻ sẽ làm mọi thứ để tránh hình phạt thể xác (và sự xa lánh xã hội), điều này thường đồng nghĩa với việc nói dối và giấu giếm nhiều hơn – thay vì nói chuyện một cách hợp tác và sẵn sàng học hỏi.
Một điểm cuối cùng về vấn đề đánh trẻ liên quan tới việc phần nào của bộ não chúng ta muốn thu hút và phát triển bằng kỷ luật. Như chúng ta sẽ giải thích trong chương tiếp theo, các bậc phụ huynh có lựa chọn tiếp cận phần cao hơn, phần tư duy trong bộ não thông minh của bé, hoặc phần thấp, thiên về phản xạ, não bò sát. Nếu bạn đe dọa hoặc tấn công một con bò sát, bạn cho là mình sẽ nhận được phản ứng như thế nào? Hãy tưởng tượng một con rắn hổ mang bị dồn ép, đang phun nọc độc vào bạn. Việc phản kháng không phải là một quyết định thông thái.
Khi chúng ta bị đe dọa hoặc tấn công thể xác, não bò sát hay não nguyên thủy của chúng ta sẽ giành phần chỉ đạo. Chúng ta sẽ chuyển sang trạng thái sinh tồn nhanh chóng thích nghi, thường được gọi là “chiến đấu, chiến đấu, hoặc bất động”. Chúng ta cũng có thể sẽ ngất xỉu, một phản ứng xảy ra với một vài người khi họ hoàn toàn cảm thấy bất lực. Tương tự, khi chúng ta khiến cho bé trải qua sự sợ hãi, nỗi đau, và sự giận dữ, chúng ta đã kích thích tăng cường năng lượng và thông tin đến bộ não nguyên thủy, phản xạ,
thay vì dẫn nguồn năng lượng và thông tin đó tới những phần não bộ nhận thức, tư duy, phức tạp hơn và tiềm năng thông thái hơn mà có thể giúp các bé đưa ra lựa chọn lành mạnh, linh hoạt và kiểm soát cảm xúc tốt hơn.
Bạn muốn kích hoạt khả năng phản xạ trong bộ não nguyên thủy của bé hay muốn kích thích phần não lý trí, tư duy trong việc nhận thức và sẵn sàng tiếp cận với thế giới? Khi chúng ta kích hoạt trạng thái phản xạ của não, chúng ta bỏ lỡ cơ hội phát triển phần tư duy của não. Đó là một cơ hội bị đánh mất. Thêm nữa, chúng ta có rất nhiều những lựa chọn khác, hiệu quả hơn để đưa con mình vào khuôn phép – những cách thức mang lại cho bọn trẻ cơ hội rèn luyện “phần não bên trên” để nó trở nên mạnh mẽ hơn và phát triển hơn, đồng nghĩa với việc bọn trẻ sẽ có nhiều khả năng trở thành những người có trách nhiệm làm những điều đúng đắn hơn. (Chương 3 đến chương 6 sẽ đề cập nhiều hơn về vấn đề này.)
Vậy còn Cách ly? Đó có phải là một công cụ Kỷ luật hữu hiệu?
Ngày nay, hầu hết các bậc cha mẹ quyết định không đánh con họ cho rằng cách ly là lựa chọn khả dĩ tốt nhất. Nhưng có phải như vậy không? Cách đó liệu có giúp chúng ta đạt được mục tiêu của việc kỷ luật?
Nhìn chung, chúng tôi không nghĩ vậy.
Chúng tôi biết rất nhiều phụ huynh yêu thương con cái sử dụng cách ly như là hình thức kỷ luật chủ yếu. Tuy nhiên sau khi xem xét nghiên cứu, nói chuyện với hàng nghìn phụ huynh, và nuôi dạy chính con mình, chúng tôi đã rút ra một số lý do chính khiến chúng
tôi tin rằng cách ly không phải là cách kỷ luật tốt nhất. Thứ nhất, khi phụ huynh sử dụng biện pháp cách ly, họ thường sử dụng liên tục, và do cơn giận dữ. Tuy nhiên các bậc cha mẹ có thể cho con cái mình những trải nghiệm tích cực và có ý nghĩa hơn mà có thể đạt được tốt hơn mục tiêu song hành là khuyến khích sự hợp tác và phát triển trí tuệ. Như chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn trong chương tiếp theo, các dây thần kinh được hình thành qua những trải nghiệm lặp lại. Và cách ly mang lại cho trẻ trải nghiệm gì? Sự cô lập. Ngay cả khi bạn yêu cầu phạt cách ly một cách nhẹ nhàng, bạn có muốn việc liên tục bắt bé ở một mình khi mắc lỗi, điều mà thường xuyên xảy ra, sẽ trở thành sự hắt hủi?
Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu bạn cho bé trải nghiệm cảm giác làm mọi việc đúng cách là như thế nào? Vì thế thay vì phạt cách ly, bạn nên yêu cầu bé tập xử lý tình huống theo một cách khác. Nếu cô bé sử dụng giọng điệu và từ ngữ thiếu tôn trọng, bạn có thể yêu cầu bé thử lại và truyền đạt điều bé muốn nói một cách lễ phép. Nếu cô bé tỏ ra ích kỷ với em trai của mình, bạn có thể yêu cầu cô bé làm 3 việc tốt cho cậu bé trước giờ đi ngủ. Bằng cách đó, việc lặp đi lặp lại hành động tích cực sẽ bắt đầu được hình thành trong não của bé. (Xin nhắc lại, chúng tôi sẽ đi vào sâu hơn trong các chương tiếp theo.)
Nói ngắn gọn, phạt cách ly thường không đạt được mục tiêu của nó, lẽ ra nó phải giúp cho trẻ bình tĩnh và tự kiểm điểm cách cư xử của chúng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, cách ly thường xuyên chỉ khiến trẻ cáu giận và rối loạn hơn, làm cho bé thậm chí khó khăn hơn trong việc kiểm soát bản thân hoặc suy nghĩ về điều bé vừa làm. Thêm nữa, theo bạn thì có mấy khi bọn trẻ mới dùng thời gian
cách ly để kiểm điểm hành động của mình? Chúng tôi có tin mới cho bạn đây: điều chủ yếu mà bọn trẻ suy ngẫm trong thời gian cách ly là bố mẹ chúng thật là quá đáng khi bắt phạt chúng.
Khi trẻ em suy nghĩ về sự thiếu may mắn kinh khủng của mình vì có một ông bố hoặc bà mẹ xấu tính và bất công, các bé đã bỏ lỡ một
dịp để xây dựng nhận thức, sự cảm thông, và kỹ năng giải quyết vấn đề. Đặt các bé vào thời gian cách ly đã tước đi của bé cơ hội để tập làm những người ra quyết định nhạy bén và đồng cảm, người có sức mạnh để chỉ ra vấn đề. Chúng ta muốn cho bé cơ hội để trở thành người tự giải quyết vấn đề, đưa ra những lựa chọn đúng đắn, và cảm thấy được an ủi khi các bé bị suy sụp. Bạn có thể mang lại nhiều điều tốt cho con mình chỉ đơn giản bằng cách hỏi, “Con có ý tưởng nào để cải thiện và giải quyết vụ này không?” Được trao cho cơ hội khi đã bình tĩnh trở lại, bọn trẻ thường làm đúng và học hỏi trong quá trình đó.
Ngay cả khi phụ huynh có ý định tốt, cách ly thường được sử dụng một cách không hợp lý. Chúng ta có thể muốn áp dụng cách ly để cho bé cơ hội nguôi ngoai và tỉnh táo, giúp bé có thể thoát khỏi sự hỗn loạn nội tâm, trở nên bình tĩnh và hợp tác. Tuy nhiên nhiều khi, phụ huynh sử dụng cách ly như một sự trừng phạt, khi đó mục tiêu không còn là giúp đứa trẻ quay trở về sự bình tĩnh vốn có hoặc để nhận ra một bài học quan trọng, mà là để trừng trị bé vì một hành động sai quấy nào đó. Phương diện xoa dịu và giáo dục của cách ly đã hoàn toàn bị lệch lạc.
Thế nhưng lý do lớn nhất khiến chúng tôi nghi ngờ giá trị của phương pháp cách ly là vì nhu cầu kết nối sâu thẳm bên trong đứa trẻ. Thông thường, hành vi sai quấy là hệ quả của việc bé xúc động quá mức, vì vậy bé có thể biểu hiện nhu cầu hoặc một cảm xúc theo cách thô bạo, vô lễ, hoặc không hợp tác. Có lẽ bé đang đói hoặc mệt, hoặc có một lý do nào đó khiến bé không thể tiết chế bản thân và đưa quyết định đúng đắn tại thời điểm đó. Cũng có thể lời giải
thích đơn giản là bé mới chỉ 3 tuổi, và bộ não của bé chưa tinh tế đến mức có thể hiểu và thể hiện cảm xúc một cách bình tĩnh. Vì vậy thay vì cố gắng hết sức diễn đạt sự thất vọng ê chề và buồn bực khi không còn chút nước nho nào sót lại, bé bắt đầu ném đồ chơi vào bạn.
Chính những lúc như thế này đứa trẻ sẽ cần đến sự hiện diện của chúng ta nhất để xoa dịu và nguôi ngoai. Bắt ép bé đi ra chỗ khác và ngồi một mình có thể khiến bé cảm thấy mình bị bỏ rơi, đặc biệt khi bé đã đang sẵn mất kiểm soát. Điều đó thậm chí còn thể hiện một lời nhắn ý nhị rằng khi bé “mắc sai lầm” bạn sẽ không muốn ở bên bé nữa. Bạn sẽ không muốn bé nghĩ rằng bạn chỉ giữ mối quan hệ với bé khi bé “ngoan” hoặc vui vẻ, còn nếu không thì bạn sẽ rút lại tình cảm và lòng yêu thương. Bạn có muốn mối quan hệ trở nên như thế hay không? Vậy khác nào chúng ta đang gợi ý cho những thanh thiếu niên của chúng ta rằng chúng nên nghĩ tới chuyện né tránh bạn bè hoặc cộng sự, những người đã đối xử với chúng như thế khi chúng mắc lỗi?
Chúng tôi không nói một buổi cách ly ngắn là hình thức kỷ luật tồi tệ nhất, rằng nó gây ra tổn thương, hay rằng nó không áp dụng được vào bất kỳ thời điểm nào cả. Nếu được sử dụng hợp lý cùng với sự tiếp cận dịu dàng, như ngồi cùng với bé và nói chuyện hoặc xoa dịu – thường được gọi là “thời gian tâm sự” – ở một thời điểm nào đó, việc xoa dịu có thể trở nên hữu hiệu đối với bé. Trên thực tế, việc dạy trẻ làm thế nào để tạm ngừng và dành thời gian tự kiểm điểm, một chút “thời gian tâm sự”, rất cần thiết để xây dựng chức năng điều hành của não nhằm giảm sự bốc đồng và làm chủ sức mạnh tập trung tinh thần. Tuy nhiên, sự tự kiểm điểm đó được tạo
nên từ mối quan hệ, không phải trong sự cách ly hoàn toàn, đặc biệt đối với trẻ nhỏ. Khi bọn trẻ lớn khôn, chúng có thể hưởng lợi từ việc tự kiểm điểm trong những lần “tâm sự”, để tập trung tinh thần vào thế giới nội tâm của mình.
Một chiến lược chủ động hữu hiệu là giúp bé tạo ra một “khu vực trấn tĩnh” với đồ chơi, sách, hay thú nhồi bông yêu thích, nơi mà bé có thể đến khi bé cần thời gian và địa điểm để nguôi ngoai. Đó là sự tự điều chỉnh nội tâm, một kỹ năng nền tảng cho chức năng điều hành của não. (Đây cũng là một ý tưởng hay cho các bậc phụ huynh nữa! Có thể là một ít chocolate, tạp chí, âm nhạc, rượu vang…) Vấn đề không phải là sự trừng phạt hay bắt đứa trẻ phải trả giá cho sai lầm của mình. Vấn đề là đưa ra một lựa chọn và một nơi có thể giúp bé tự chỉnh đốn và điều hòa sự ức chế, điều này liên quan tới việc giảm bớt áp lực cho bé thoát khỏi sự xúc động quá mức.
Như bạn sẽ thấy trong những trang tiếp theo, còn có hàng tá những phương pháp khác, có tính giáo dục, củng cố tình cảm và hiệu quả hơn để đáp lại bọn trẻ hơn là tự động bắt bé cách ly như là
một hình phạt mặc định áp dụng cho mọi trường hợp khi bé mắc bất cứ lỗi nào trong cách cư xử. Tương tự với việc đánh đòn, và thậm chí là các hình phạt nói chung. May mắn thay, như chúng tôi sẽ sớm giải thích, có nhiều lựa chọn khác ngoài đánh đòn, cách ly, hoặc lấy đi một món đồ chơi hay đặc quyền. Đó là những cách thức liên hệ một cách logic và tự nhiên tới hành vi của trẻ, hình thành trí tuệ, và duy trì một sự kết nối mạnh mẽ giữa phụ huynh với con trẻ.
Triết lý Kỷ luật của bạn là gì?
Điểm chính mà chúng tôi vừa truyền tải trong chương này đó là các bậc phụ huynh cần có định hướng trong cách họ phản ứng lại hành vi sai quấy của con mình. Thay vì phản xạ đột ngột và xúc động, hoặc xử lý mọi vi phạm bằng một hình thức áp dụng mọi trường hợp mà không tính đến hoàn cảnh hay giai đoạn phát triển của bé, phụ huynh có thể rút ra cách phản ứng từ những nguyên tắc và chiến lược vừa phù hợp với hệ thống niềm tin của mình vừa thể hiện sự tôn trọng con mình với tư cách là cá thể độc lập. Kỷ luật Không-Rắc rối không chỉ tập trung tiếp cận những hoàn cảnh trước mắt và hành vi ngắn hạn, mà còn tập trung vào việc xây dựng kỹ năng và hình thành những kết nối trong não bộ mà về lâu dài có thể giúp trẻ tự động đưa ra những quyết định chín chắn và kiểm soát cảm xúc tốt, đồng nghĩa với việc kỷ luật ngày càng trở nên không cần thiết.
Bạn đang thực hiện điều đó như thế nào? Mức độ định hướng khi kỷ luật con mình của bạn như thế nào?
Ngay bây giờ hãy dành chút thời gian và suy nghĩ về cách phản ứng thông thường của bạn trước hành vi của trẻ. Bạn có ngay lập
tức đánh đòn, cách ly, hoặc la hét? Bạn có sử dụng những phương pháp thường trực tức thời nào khác không khi bé quấy rối? Có thể bạn chỉ đơn giản làm điều mà chính bố mẹ bạn từng làm – hoặc ngược lại. Câu hỏi thực sự là, phương pháp kỷ luật của bạn mang tính định hướng và kiên định đến đâu, nếu so sánh với phản xạ đơn thuần hoặc phụ thuộc vào thói quen cũ và những nguyên tắc mặc định?
Dưới đây là một số câu hỏi tự đặt ra cho bản thân khi bạn suy nghĩ về triết ký kỷ luật tổng thể của mình:
1. Tôi có triết lý kỷ luật hay không? Khi không hài lòng với cách cư xử của con mình thì tôi phản ứng có mục đích và kiên tính tới mức nào?
2. Cách tôi làm có hiệu quả không? Cách tiếp cận của tôi liệu có giúp tôi dạy cho bé bài học mà tôi muốn truyền tải hay không, cả về hành vi trước mắt và về cách mà bé sẽ lớn và trưởng thành? Và tôi có thấy ngày càng ít phải xử lý những hành vi của bé không, hay tôi đang phải kỷ luật cùng những hành vi đó hết lần này đến lần khác?
3. Tôi có hài lòng về cách tôi đang làm không? Phương pháp kỷ luật của tôi có giúp tôi cảm thấy dễ chịu hơn trong quan hệ với bọn trẻ không? Tôi có thường nhìn lại những lúc kỷ luật bé và cảm thấy hài lòng với cách xử lý của bản thân? Tôi có thường xuyên phân vân có cách nào hay hơn không?
5. Tôi có hài lòng về lời nhắn mà tôi truyền đạt cho con mình không? Liệu có lúc nào đó tôi dạy bé những điều tôi không muốn bé tiếp thu không – ví dụ như việc tuân theo điều tôi nói quan trọng hơn việc học cách ra quyết định đúng đắn về việc làm điều tốt? Hay là
sức mạnh và sự kiểm soát là cách tốt nhất để khiến người khác làm điều mình muốn? Hay rằng tôi chỉ muốn ở bên bé khi bé ngoan?
6. Phương pháp của tôi giống với phương pháp của chính bố mẹ mình tới mức nào? Bố mẹ tôi đã thực hành kỷ luật tôi như thế nào? Tôi có nhớ một trải nghiệm cụ thể về kỷ luật và cảm giác của tôi lúc đó không? Có phải tôi đang lặp lại những cách thức cũ? Hay là đang đi ngược lại chúng?
7. Phương pháp của tôi đã bao giờ khiến con mình nhận lỗi một cách chân thành? Mặc dù điều này không xảy ra thường xuyên, nhưng liệu phương pháp của tôi ít nhất có cơ hội cho điều đó?
8. Phương pháp ấy có giúp tôi chịu trách nhiệm và nhận lỗi về những hành động của chính mình? Tôi thẳng thắn với con mình tới mức nào về việc thực tế là tôi cũng mắc lỗi? Tôi có sẵn sàng làm gương cho bé về ý nghĩa của việc thừa nhận sai lầm của mình?
Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã tự vấn mình những câu hỏi trên? Nhiều bậc cha mẹ đã cảm thấy tiếc nuối, tội lỗi, hổ thẹn, hay thậm chí tuyệt vọng khi họ nhận ra điều gì không hiệu quả và lo lắng rằng họ đã không làm tốt nhất có thể. Nhưng sự thật là, bạn đã làm tốt nhất có thể rồi. Nếu bạn có thể làm tốt hơn thì bạn đã làm rồi. Khi bạn học những nguyên tắc và chiến lược mới, mục tiêu không phải để mắng nhiếc bản thân vì những cơ hội đã bỏ lỡ, mà để nỗ lực tạo ra những cơ hội mới. Khi chúng ta hiểu biết hơn, chúng ta làm tốt hơn. Có những điều mà chúng tôi, với tư cách là chuyên gia, đã học được qua nhiều năm mà chúng tôi ước đã biết hoặc nghĩ đến khi con mình vẫn còn là đứa trẻ. Bộ não của con chúng ta vô cùng mềm dẻo – nó thay đổi kết cấu dựa trên trải nghiệm – và con chúng ta có
thể phản ứng rất mau lẹ và hiệu quả trước những trải nghiệm mới. Chúng ta càng thông cảm cho bản thân mình, thì chúng ta càng thông cảm cho trẻ. Ngay cả những ông bố bà mẹ tuyệt vời nhất cũng nhận ra rằng luôn có những lúc mà họ có thể tỏ ra định hướng, hữu ích, và tôn trọng hơn trong việc thực hành kỷ luật với con cái mình.
Trong những chương còn lại, mục tiêu của chúng tôi là giúp bạn nghĩ về điều mà bạn muốn dành cho con mình khi liên quan tới việc hướng dẫn và dạy dỗ các bé. Không ai trong chúng ta có thể trở nên hoàn hảo. Nhưng chúng ta có thể tiến từng bước tới việc làm gương về sự bình tĩnh và kiểm soát bản thân khi các bé quấy rối. Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi tại sao-cái gì-thế nào. Chúng ta có thể lánh xa phương pháp kỷ luật một áp dụng cho tất cả. Chúng ta có thể đạt được hai mục đích vừa uốn nắn hành vi bên ngoài vừa giúp bé học những kỹ năng nội tâm. Và chúng ta có thể cố gắng hạn chế những lần chúng ta chỉ đơn thuần phản xạ (hoặc phản xạ quá đà) trước một tình huống, và tăng số lần chúng ta phản ứng bằng nhận thức rõ ràng và có ý thức về điều chúng ta tin rằng con mình cần – trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, và trong suốt quá trình các bé đi qua thời thơ ấu đến thời niên thiếu và trưởng thành.
Chương 2
BỘ NÃO TRONG VẤN ĐỀ KỶ LUẬT B
uổi sáng của Liz đang diễn ra ổn thỏa. Hai cô nhóc đã ăn sáng, quần áo chỉnh tề, cô và chồng cô, Tim, đang tiến về phía cửa để đưa bọn trẻ đến trường của mỗi đứa. Rồi bất chợt, khi Liz thốt lên một câu nói tưởng chừng như vô hại nhất trong lúc cô đóng cánh cửa ra vào phía sau cô – “Nina, con lên xe bố, còn Vera, con lên xe mẹ” – mọi chuyện trở nên rối tinh lên.
Tim và đứa bé 7 tuổi, Vera đang tiến ra đường vào gara, và Liz đang khóa cửa trước thì một tiếng hét vỡ òa ngay sau lưng khiến tim cô ngừng đập. Cô nhanh chóng quay lại và thấy Nina, đứa con gái 4 tuổi của cô, đang đứng trên bậc cuối hiên nhà, hét lên “Không!” với âm lượng chói tai đáng kinh ngạc.
Liz nhìn Tim, rồi đến Vera, cả hai đều nhún vai, mắt mở to bối rối. Tiếng “Không!” dài, liên tục của Nina đã được thay thế bởi tiếng “Không! Không! Không!” ngắt quãng lặp đi lặp lại, âm lượng không đổi. Liz nhanh chóng quỳ xuống và kéo Nina lại gần, tiếng hét inh tai của cô bé giảm dần một cách nhân nhượng và chuyển thành nức nở.
“Con yêu, có chuyện gì thế?” Liz hỏi. Cô chết lặng trước sự bùng nổ này. “Chuyện gì thế?”
Nina tiếp tục khóc nhưng cô bé thổn thức, “Hôm qua mẹ đã đưa chị Vera đi rồi mà!”
Liz lại nhìn Tim, anh đã tiến về phía họ và nhún vai một cách khó hiểu “Anh chịu”. Liz, tai vẫn còn đau nhức, cố gắng giải thích: “Mẹ biết, con yêu. Đó là vì trường chị Vera ngay bên cạnh chỗ làm của mẹ.”
Nina vùng ra khỏi mẹ và hét lên, “Nhưng hôm nay tới lượt con!”
Giờ thì cô đã biết con gái mình không gặp nguy hiểm gì, Liz hít sâu và thoáng tự hỏi một tiếng hét chói lói cần lên đến bao nhiêu đề xi ben để thực sự làm vỡ kính.
Vera, đặc biệt tỏ ra không thông cảm khi liên quan tới nỗi buồn của em gái, sốt ruột tuyên bố, “Mẹ, con muộn mất.”
Trước khi chúng tôi miêu tả Liz đã xử lý tình huống nuôi dạy con điển hình này như thế nào, chúng tôi cần giới thiệu một vài đặc tính đơn giản của não người và cách thức nó tác động tới quyết định kỷ luật của chúng ta khi trẻ cư xử sai quấy hoặc mất kiểm soát bản thân như trường hợp này. Hãy bắt đầu với ba khám phá căn bản về não bộ - chúng tôi sẽ gọi là 3 “Chữ C” – những khám phá có thể trở nên vô cùng có ích trong việc trợ giúp bạn thực hành kỷ luật một cách hiệu quả và ít rắc rối hơn, cùng lúc đó dạy con bạn những bài học quan trọng về tự chủ và mối quan hệ.
“Chữ C” thứ nhất: Bộ não luôn Thay đổi
(Changing)
Chữ C đầu tiên – nghĩa là bộ não luôn thay đổi – nghe có vẻ đơn giản, nhưng ý nghĩa của nó vô cùng rộng và giới thiệu gần như tất cả những gì mà chúng ta thực hiện với bọn trẻ, bao gồm cả việc kỷ luật.
Bộ não của một đứa trẻ giống như một căn nhà đang hoàn thiện. Não bộ ở tầng dưới được tạo ra bởi cuống não và vùng hệ biên, chúng cùng nhau tạo thành phần dưới của não, thường được gọi là “não bò sát” và “não động vật có vú cổ xưa.” Vùng thấp này tồn tại bên trong hộp sọ từ khoảng sống mũi xuống tới phần đầu cổ, và một phần của nó, cuống não, được hình thành từ khi sinh ra. Chúng tôi cho là não bộ ở tầng dưới này phần nhiều mang tính nguyên thủy, vì nó đảm nhiệm các hoạt động thần kinh và tinh thần cơ bản nhất: cảm xúc mạnh mẽ, các bản năng như bảo vệ con cái; và những chức năng cơ bản như thở, điều tiết chu kỳ giấc ngủ, thức dậy, và tiêu hóa. Não bộ ở tầng dưới chính là thứ khiến cho một đứa trẻ chỉ mới biết đi ném đồ chơi hoặc cắn ai đó khi bé không được thỏa mãn. Đó có thể là nguồn gốc phản xạ của chúng ta, và phương châm của nó là “Bắn! Chuẩn bị! Ngắm mục tiêu!” một cách hấp tấp – và thường thì nó bỏ qua cùng lúc cả phần “chuẩn bị” và “ngắm mục tiêu”. Chính não bộ ở tầng dưới của Nina đã chỉ đạo khi cô bé nghe nói rằng mẹ sẽ không đưa cô bé tới trường.
Nếu là một phụ huynh thì hẳn bạn biết rõ, não bộ ở tầng dưới, với tất cả những chức năng nguyên thủy của mình, rất sống động và hoạt động tốt ngay cả đối với trẻ em nhỏ tuổi nhất. Tuy nhiên, não bộ ở tầng trên, vốn chịu trách nhiệm về những suy nghĩ tinh vi và phức tạp hơn, lại chưa hoàn thiện khi sinh ra và bắt đầu phát triển trong suốt thời kỳ nằm nôi và thơ ấu. Não bộ tầng trên được tạo
thành bởi vỏ não, là lớp ngoài cùng của bộ não, nó nằm ngay sau trán và vươn về phía sau đầu như thể một mái vòm bán nguyệt bao trùm não bộ tầng thấp bên dưới nó. Đôi khi người ta nhắc đến vỏ não như là “lớp da ngoài của não.” Không giống như não tầng dưới nguyên thủy, với tất cả những chức năng thô sơ của nó, não tầng trên chịu trách nhiệm về cả một danh sách dài dằng dặc những kỹ năng suy tư, cảm xúc, và liên hệ để giúp chúng ta có thể sống một cuộc sống cân bằng, có ý nghĩa và tận hưởng những mối quan hệ lành mạnh:
• Ra quyết định và lên kế hoạch hợp lý
• Điều chỉnh cảm xúc và cơ thể
• Khả năng thấu hiểu cá nhân
• Sự linh hoạt và khả năng thích nghi
• Sự đồng cảm
• Đạo đức
Trên đây là những phẩm chất mà chúng ta muốn giúp trẻ thấm nhuần và chúng đều đòi hỏi một bộ não tầng trên phát triển tốt.
Vấn đề là bộ não tầng trên cần thời gian để phát triển. Một thời gian dài. Chúng tôi rất tiếc phải báo cáo – đặc biệt nếu hôm nay chẳng may là lần thứ 3 trong tuần cậu con trai 12 tuổi của bạn để quên tập bài về nhà trong tủ khóa – rằng bộ não tầng trên thực chất chưa hoàn thiện hoàn toàn cho tới khi một người lên tới giữa đầu hai. Điều này không có nghĩa chúng ta không phải làm gì với nó cho tới lúc ấy – nó đơn giản nghĩa là trong khi bộ não của bé hình thành, bộ não trẻ trung ấy đang trong thời kỳ tự điều chỉnh và sẽ thay đổi cấu trúc cơ bản của não bộ tầng trên đã được tạo nên trong 12 năm đầu cuộc đời. Dan đã nghiên cứu tỉ mỉ tất cả những điều này trong cuốn sách của mình và nói về những người trẻ tuổi có tên là Động não. Tin tuyệt vời là việc hiểu về bộ não – cho bạn và con bạn – có thể thay đổi cách thức mà mỗi người các bạn tiếp cận việc học hỏi và cư xử. Khi chúng ta hiểu về bộ não, chúng ta có thể định hướng cho đầu óc của chúng ta – cách chúng ta tập trung, suy nghĩ, cảm nhận, tiếp xúc với người khác – theo những cách thức củng cố sự phát triển não bộ vững chắc và khỏe mạnh suốt đời.
Tất cả những điều này có nghĩa rằng, dù chúng ta có muốn con mình cư xử nhất quán như thể chúng đã phát triển hoàn thiện, như thể chúng là những người lớn có ý thức, với logic hoạt động đáng tin cậy, thăng bằng cảm xúc và đạo đức đến thế nào, các bé cũng chưa thể đạt điều đó được khi còn trẻ. Vì vậy, chúng ta phải theo đó mà hành động và điều chỉnh kỳ vọng của mình. Chúng ta sẽ muốn quay sang đứa con 9 tuổi của mình và hỏi rằng, trong lúc xoa dịu đứa em
5 tuổi bị bắn bởi một viên đạn đồ chơi Nerf vào mắt ở cự ly rất gần, “Con đã nghĩ gì vậy?”
Câu trả lời của cậu bé dĩ nhiên là “Con không biết” hoặc “Con không nghĩ gì cả.” Và thường thì cậu bé nói thật. Bộ não tầng trên của bé không được hoạt động khi bé nhắm vào đồng tử của em gái, cũng giống như bộ não tầng trên không được hoạt động vào ngày hôm trước khi cô bé yêu cầu bữa tiệc bãi biển của anh họ phải chuyển vào trong nhà vì cô bé bị xước ở gót chân và không muốn bị cát dính vào. Kết luận ở đây là dù con bạn có thông minh, có trách nhiệm, có ý thức tới cỡ nào, thật không công bằng khi trông đợi bé luôn luôn tự chủ tốt, hay luôn luôn phân biệt được giữa lựa chọn tốt và xấu. Thậm chí người lớn cũng không thể lúc nào cũng làm được điều đó.
Một ví dụ hay về sự phát triển dần dần này có thể được tìm thấy ở một vùng cụ thể trong não bộ tầng trên, được gọi là mối tiếp giáp giữa thùy đỉnh và thùy thái dương bên phải (TPJ).
TPJ bên phải đóng một vai trò đặc biệt khi liên quan tới việc giúp chúng ta hiểu điều đang diễn ra trong đầu của người khác. Khi chúng ta xem xét một tình huống hay một vấn đề như cách một
người nào khác có thể làm, TPJ bên phải sẽ được kích hoạt và làm việc với những vùng ở vỏ não phía trước, ngay đằng sau trán, cơ bản cho phép chúng ta đồng cảm với người khác. Những vùng này và những vùng khác là một phần của bộ máy gọi là “mạch điều hòa thần kinh” vì chúng có liên quan tới trí nhãn – nghĩa là, nhìn thấu suy nghĩ của người khác, và thậm chí của chính chúng ta! Chúng ta có thể xây dựng trí nhãn trong trẻ nhỏ khi chúng ta dẫn dắt bé tiến tới việc suy nghĩ thấu đáo, đồng cảm, và có đạo đức. Sự đồng cảm đương nhiên sẽ tác động tới đời sống đạo đức và quan hệ theo những cách thiết yếu và nền tảng. Chúng ta sẵn lòng mở đường cho bé nếu bé có ý hối cải sau khi quấy phá. Chúng ta sẵn lòng trao niềm tin nếu chúng ta tin tưởng vào động cơ của bé.
Mặc dù vậy, một đứa trẻ khi vẫn đang phát triển và não bộ tầng trên – bao gồm TPJ bên phải và vùng trước trán – vẫn còn chưa hoàn thiện, thường không có khả năng cân nhắc động cơ và mục đích khi bé nhìn vào một tình huống hay vấn đề. Những quyết định có đạo đức sẽ rõ phân biệt hơn, và mối quan tâm về những vấn đề như công lý và sự công bằng sẽ dễ cắt nghĩa hơn. Ví dụ như Nina, cô bé không quan tâm tới việc thảo luận về hoàn cảnh xem trường của chị gái có gần nơi làm việc của mẹ hay không. Mảnh thông tin logic và thực tế đó không liên quan gì tới bé cả. Cô bé chỉ quan tâm là hôm qua chị gái đã được đi với mẹ, và để công bằng thì hôm nay Nina phải được đi với mẹ. Vì thế để Liz có thể hiểu được quan điểm của con gái mình, cô cần nhận ra rằng Nina nhìn nhận sự việc thông qua lăng kính của não tầng trên vẫn còn đang phát triển, khi đó nó không thể luôn luôn cân nhắc thông tin về tình huống và hoàn cảnh.
Như chúng tôi sẽ giải thích trong các chương tiếp theo, khi chúng ta sử dụng chính mạch trí nhãn của mình để cảm nhận suy nghĩ đằng sau hành vi của trẻ, chúng ta định hình cho bé làm thế nào để cảm nhận suy nghĩ trong chính bản thân bé và người khác. Trí nhãn là một kỹ năng có thể truyền dạy được với trái tim đồng cảm và thấu hiểu, có đạo đức và cảm thông. Trí nhãn là nền tảng của trí thông minh xã hội và cảm xúc, và chúng ta có thể định hình điều này cho trẻ trong khi chúng ta giúp dẫn dắt sự phát triển của bộ não luôn biến đổi của bé.
Vấn đề là khi chúng ta dạy dỗ con cái, và nhất là khi thực hiện kỷ luật, chúng ta cần cố gắng hiểu quan điểm của trẻ, giai đoạn phát triển, và những gì bé có khả năng làm. Đây là cách mà chúng ta sử dụng chính kỹ năng trí nhãn của mình để nhìn thấu suy nghĩ đằng sau hành vi của bé. Chúng ta không chỉ đơn thuần phản xạ lại những hành động bên ngoài, chúng ta hòa quyện với suy nghĩ đằng sau hành vi của bé. Chúng ta cũng phải nhớ rằng điều bé có thể làm không phải lúc nào cũng giống nhau; khả năng của bé thay đổi khi bé mệt mỏi, đói, hoặc quá sức chịu đựng. Nếu lĩnh hội được chữ C đặc biệt này, rằng bộ não luôn biến đổi và còn đang phát triển, chúng ta có thể đạt đến cảnh giới lắng nghe trẻ với sự thấu hiểu và cảm thông hơn, và nhận biết đầy đủ hơn lý do khiến bé buồn và gặp khó khăn trong việc tự chủ. Chúng ta đơn giản thật không công bằng khi cho rằng các con mình đang ra quyết định bằng bộ não đã phát triển hoàn toàn, với chức năng hoàn thiện và có thể nhìn nhận thế giới giống như chúng ta.
Hãy nghĩ đến danh mục những chức năng mà bộ não tầng trên phải đảm nhiệm. Đó có phải là một mô tả thực tế về tính cách của
bất kỳ đứa trẻ nào không? Dĩ nhiên chúng ta muốn nhìn thấy con mình thể hiện những phẩm chất đó mọi lúc trong cuộc sống. Ai mà không muốn một đứa con có thể lên kế hoạch trước và thường trực đưa ra những quyết định đúng đắn, kiểm soát cảm xúc và cơ thể, thể hiện sự linh hoạt, đồng cảm và thấu hiểu bản thân, và hành động dựa trên ý thức tốt về đạo đức? Nhưng điều đó sẽ không xảy ra. Ít nhất là không phải lúc nào cũng vậy. Tùy thuộc vào đứa trẻ và độ tuổi, thậm chí điều đó còn không thường xuyên.
Vậy đây có phải là một cái cớ cho hành vi sai quấy? Liệu có phải chúng ta chỉ cần giả ngơ khi con cái chúng ta cư xử không tốt? Đương nhiên là không. Trên thực tế, bộ não đang phát triển của trẻ đơn thuần chỉ là một lý do mà chúng ta cần vạch ra ranh giới rõ ràng và giúp bé hiểu rằng điều gì là chấp nhận được. Sự thật rằng bé không có một bộ não tầng trên lúc nào cũng hoạt động nhất quán để tạo ra những ràng buộc bên trong nhằm kiểm soát hành vi của bé, có nghĩa là bé cần được đặt cho những ràng buộc bên ngoài. Và hãy đoán xem những ràng buộc bên ngoài đó đến từ đâu: bố mẹ bé và những người chăm sóc khác, cùng với sự hướng dẫn và kỳ vọng mà họ truyền đạt cho bé. Chúng ta cần trợ giúp cho sự phát triển não bộ tầng trên của trẻ - cùng với tất cả những kỹ năng mà nó đảm nhiệm – và trong suốt quá trình đó, chúng ta có thể sẽ cần hoạt động như một não bộ tầng trên bên ngoài, làm việc với bé và giúp bé đưa ra những quyết định mà bé chưa có đủ khả năng để tự làm.
Chúng ta sẽ sớm đi vào sâu hơn ý tưởng này, và đưa ra những đề xuất thực tiễn để biến nó thành sự thật. Còn hiện tại, hãy nhớ chữ C đầu tiên này trong đầu: bộ não của một đứa trẻ luôn thay đổi và phát triển, vì vậy chúng ta cần kìm hãm những kỳ vọng của mình
và hiểu rằng những thách thức về cảm xúc và hành vi là hoàn toàn bình thường. Tất nhiên chúng ta vẫn nên dạy và trông đợi hành vi ngoan ngoãn. Nhưng trong lúc làm điều đó, chúng ta cần luôn ý thức được rằng não bộ đang biến động và phát triển. Một khi đã hiểu và chấp nhận thực tế căn bản này, chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc phản ứng lại một cách tôn trọng bé và mối quan hệ, cùng lúc đó vẫn tiếp cận bất kỳ hành vi nào mà chúng ta muốn chỉnh đốn.
“Chữ C” thứ hai: Bộ não có thể thay đổi được
(Changeable)
Chữ C thứ hai vô cùng thú vị và mang lại hy vọng cho các bậc phụ huynh khắp mọi nơi: bộ não không chỉ thay đổi – nó phát triển qua thời gian – mà còn thay đổi được – nó có thể được uốn nắn theo định hướng qua trải nghiệm. Nếu gần đây bạn đọc nhiều về não, hẳn bạn có lướt qua khái niệm về “tính mềm dẻo của thần kinh”, khái niệm này nói về cách mà bộ não thay đổi một cách tự nhiên dựa vào những kinh nghiệm mà chúng ta trải qua. Như các nhà khoa học giải thích, bộ não rất mềm dẻo, hay có thể uốn nắn. Phải, kiến trúc vật lý thực sự của bộ não thay đổi dựa trên những điều xảy ra với chúng ta.
Bạn có thể đã từng nghe về những nghiên cứu khoa học mô tả bằng chứng của tính mềm dẻo thần kinh. Trong cuốn Bộ não Toàn diện của Trẻ, chúng tôi nhắc đến nghiên cứu cho thấy các trung tâm thính giác phát triển hơn trong não của những động vật săn bắt dựa vào thính giác, và các nghiên cứu thể hiện rằng đối với các nghệ sĩ violin, vùng vỏ não điều khiển tay trái – bàn tay bấm dây nhạc cụ với tốc độ đáng kinh ngạc – có kích thước lớn hơn bình thường.
Các nghiên cứu khác gần đây cũng chứng minh rằng những đứa trẻ được dạy cách đọc nhạc và chơi nhạc cụ trải qua những thay đổi đáng kể trong não bộ của mình và nâng cao hơn khả năng được gọi là “xác định giác động không gian”. Nói cách khác, khi trẻ được dạy dù chỉ là nền tảng của việc chơi piano, bộ não của bé phát triển theo cách khác so với các bé không học, nhờ đó bé có thể hiểu đầy đủ hơn về cơ thể của chính mình trong mối quan hệ với những vật thể xung quanh. Chúng tôi cũng đã thấy những kết quả tương tự trên những người thiền. Các bài tập tâm thức tạo ra những thay đổi thực sự trong các dây thần kinh, tác động đáng kể đến khả năng tương tác của một người với những người khác và khả năng thích nghi với các tình huống khó khăn.
Hiển nhiên, điều này không có nghĩa rằng mọi đứa trẻ đều nên học piano, hay rằng mọi người nên ngồi thiền (mặc dù chúng tôi không phản đối bất kỳ hoạt động nào!). Vấn đề là trải nghiệm khi
học, cũng giống như trải nghiệm khi tham gia tập luyện tâm thức (chơi violin hay thậm chí là tập karate), về cơ bản và về vật lý học làm thay đổi bộ não mềm dẻo – đặc biệt khi nó đang phát triển trong thời thơ ấu và thành niên, và thậm chí là trong suốt cuộc đời. Một ví dụ rõ ràng hơn, bạo hành thời thơ ấu có thể dễ khiến người ta về sau bị mắc bệnh tâm thần. Những nghiên cứu gần đây đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI), hay quét não, để phát hiện ra những thay đổi cụ thể trong những vùng nhất định của hồi hải mã trong não bộ của những người trưởng thành trẻ tuổi đã từng trải qua bạo hành. Họ mang tỷ lệ cao hơn về trầm cảm, nghiện, và rối loạn stress sau sang chấn (PTSD). Não bộ của họ đã thay đổi về cơ bản trước những tổn thương mà họ đã phải đối mặt khi còn nhỏ.
Sự mềm dẻo của thần kinh mang lại nhiều kết quả lớn lao đối với những gì chúng ta làm với tư cách là phụ huynh. Nếu những trải nghiệm lặp lại thực sự thay đổi kiến trúc vật lý của não bộ thì việc chúng ta định hướng những trải nghiệm cho con cái trở nên tối quan trọng. Hãy nghĩ về cách mà bạn tương tác với con mình. Bạn tiếp xúc với bé như thế nào? Bạn giúp bé kiểm điểm hành động và hành vi của bé như thế nào? Bạn đã dạy bé điều gì về mối quan hệ - về sự tôn trọng, tin tưởng, và nỗ lực? Bạn đã cho bé những cơ hội gì? Bạn đã mang những người quan trọng nào bước vào cuộc sống của bé? Mọi thứ các bé nhìn, nghe, cảm nhận, sờ nắn, hay thậm chí là ngửi, tác động tới bộ não của bé và do đó ảnh hưởng tới cách thức bé nhìn nhận và tương tác với thế giới – bao gồm cả gia đình, hàng xóm, người lạ, bạn bè, bạn cùng lớp, và ngay cả chính các bé.
Tất cả những điều này diễn ra ở cấp độ tế bào, trong các nơron thần kinh và trong các mối nối giữa những tế bào não được gọi là
khớp nối thần kinh. Một cách mà các nhà thần kinh học thể hiện ý tưởng này là “những nơron thần kinh hoạt động cùng nhau thì sẽ liên kết với nhau.”
Câu nói này được biết đến như là “Tiên đề Hebb”, đặt tên theo nhà tâm lý học thần kinh Donald Hebb, về cơ bản giải thích rằng khi các nơ ron thần kinh kích hoạt cùng một lúc để phản hồi trước một sự việc, những nơron thần kinh đó sẽ liên kết với nhau, tạo thành một mạng lưới. Và khi sự việc đó lặp lại hết lần này đến lần khác, kết nối giữa các nơron đó sẽ càng sâu sắc và mạnh mẽ hơn. Vì vậy khi chúng hoạt động cùng nhau, chúng sẽ liên kết với nhau.
Tiên đề Hebb chính là căn nguyên khiến một đứa bé vươn tay ra và nói “Bế con?” khi bé muốn được bế. Bé chắc hẳn không hiểu nghĩa của từng từ, và rõ ràng là chưa hoàn toàn chỉ ra được đại từ nhân xưng. Nhưng bé biết rằng khi bé được hỏi, “Con có muốn mẹ bế con không?” thì bé sẽ được bế lên. Vậy nên khi muốn được bế, bé sẽ hỏi: “Bế con?” Đó chính là sự kích hoạt và liên kết.
Vấn đề tuy đơn giản nhưng mang tính quyết định: những trải nghiệm dẫn đến thay đổi trong kiến trúc của bộ não. Do đó, thực tế chúng ta cần ghi nhớ về tính mềm dẻo của thần kinh khi chúng ta đưa ra quyết định về cách tương tác với trẻ và cách các bé sử dụng thời gian của mình. Chúng ta cần cân nhắc xem những kết nối thần kinh nào sẽ được hình thành và vai trò của chúng trong tương lai.
Ví dụ, bạn muốn cho con mình xem những bộ phim như thế nào, và bạn muốn bé dành thời gian để tận hưởng những hoạt động gì? Khi đã biết bộ não mềm dẻo sẽ bị biến đổi cùng với trải nghiệm, chúng ta sẽ kém thoải mái hơn khi bé bỏ hàng giờ để xem những chương trình ti vi nhất định hay chơi trò chơi điện tử bạo lực. Thay vào đó chúng ta có thể khuyến khích bé tham gia những hoạt động xây dựng khả năng giao tiếp và khả năng thấu hiểu người khác – có thể là đi ra ngoài với bạn, chơi trò chơi cùng gia đình, hoặc chơi thể thao và những hoạt động nhóm khác đòi hỏi bé hợp tác với những người khác với tư cách là đồng đội. Chúng ta thậm chí có thể cố ý tạo thời gian nhàn rỗi vào một ngày mùa hè, để các bé phải chui vào gara và xem chúng có thể làm gì vui vẻ với một cái ròng rọc, dây thừng, và một cuộn băng dính. (Nếu có ai đó quay trở vào để Google cụm từ “dù bằng băng dính cho bé”, có thể bạn sẽ muốn nhảy khỏi bàn cờ Tỷ phú.)
Chúng ta không thể và cũng không muốn bảo vệ hoặc cứu con mình khỏi tất cả những nghịch cảnh và trải nghiệm tiêu cực. Những trải nghiệm mang tính thách thức đó là một phần quan trọng của sự trưởng thành và phát triển khả năng phục hồi, cùng với việc đạt được những kỹ năng nội tâm cần thiết để đối phó với sự căng thẳng, thất bại, và phản ứng linh hoạt. Điều chúng ta có thể làm là giúp con
mình ý thức được về những trải nghiệm của bản thân để những thách thức đó được khắc sâu vào não bộ một cách có chủ ý với tư cách là “những trải nghiệm học hỏi,” chứ không phải là sự liên tưởng vô thức hay thậm chí là sự tổn thương mà có thể sẽ kìm hãm trẻ trong tương lai. Khi các phụ huynh thảo luận về trải nghiệm và hồi ức với con mình, các bé có xu hướng tiếp cận ký ức của những trải nghiệm đó tốt hơn. Các bé nói chuyện với bố mẹ về tâm trạng của mình cũng sẽ có một trí thông minh cảm xúc phát triển lành mạnh hơn và do đó nhạy cảm hơn trong việc nhận biết và thấu hiểu cảm xúc của chính mình và người khác. Những nơron thần kinh kích hoạt cùng nhau sẽ liên kết với nhau, thay đổi bộ não có thể uốn nắn được.
Tất cả những điều này quay lại luận điểm rằng bộ não thay đổi theo trải nghiệm. Bạn muốn con mình có những trải nghiệm ảnh như thế nào để tác động lên bộ não có thể thay đổi được? Những kết nối thần kinh nào bạn muốn nuôi dưỡng? Và liên quan nhiều hơn tới nội dung của cuốn sách này: khi đã biết bộ não của trẻ có thể uốn nắn được, bạn sẽ muốn ứng phó với hành vi sai quấy như thế nào? Sau cùng thì những trải nghiệm lặp lại của trẻ với kỷ luật rồi cũng sẽ tạo thành một mạng lưới thần kinh trong bộ não.
“Chữ C” thứ ba: Bộ não rất Phức tạp (Complex)
Vậy là bộ não luôn thay đổi và có thể thay đổi được. Nó cũng rất phức tạp, đây là chữ C cuối cùng của chúng ta. Bộ não có nhiều mặt, với những bộ phận khác nhau đảm trách những nhiệm vụ khác nhau. Một vài bộ phận chịu trách nhiệm về trí nhớ, một số về ngôn ngữ, số khác về sự đồng cảm, và cứ tiếp tục như vậy.
Chữ C thứ ba này là một trong những thực tế quan trọng nhất cần ghi nhớ khi nhắc đến việc kỷ luật. Sự phức tạp của bộ não nghĩa rằng khi con chúng ta buồn, hoặc khi các bé cư xử trái với ý chúng ta, chúng ta có thể thu hút những “bộ phận” khác nhau trong não bé, những vùng và những cách thức khác nhau mà bộ não thực hiện chức năng của nó, bằng những phản ứng của cha mẹ khác nhau kích hoạt những mạch khác nhau. Do đó chúng ta có thể thu hút bộ phận này của não để có được kết quả quả này, một bộ phận khác để thu được kết quả khác.
Thí dụ, hãy quay lại vấn đề về não tầng trên và tầng dưới. Nếu con bạn đang suy sụp và mất kiểm soát, bạn muốn thu hút bộ phận nào của não? Bộ phận nguyên thủy và mang tính phản xạ? Hay bộ phận tinh vi và có khả năng nhận biết logic, sự cảm thông, và tự hiểu biết? Liệu chúng ta có cố gắng kết nối với phần não phản ứng theo cách của loài bò sát – bằng sự phòng ngự và tấn công – hay là kết nối với phần não có tiềm năng trấn tĩnh, giải quyết vấn đề, và thậm chí là nhận lỗi? Câu trả lời quá rõ ràng. Chúng ta muốn tiếp cận khả năng tiếp thu của bộ não tầng trên, chứ không muốn kích hoạt khả năng phản xạ của bộ não tầng dưới. Sau đó phần cao hơn của bộ não có thể tương tác và giúp kiềm chế phần thấp hơn, bốc đồng và mang tính phản xạ hơn.
Khi chúng ta kỷ luật bằng sự đe dọa – dù thẳng thừng bằng lời nói hay ám chỉ qua phương tiện phi ngôn ngữ đáng sợ như giọng nói, cử chỉ, và biểu cảm khuôn mặt – chúng ta kích hoạt mạch phòng ngự của bộ não tầng dưới của bé mang tính phản xạ như loài bò sát. Chúng tôi gọi đó là hành động “chọc con thằn lằn” và chúng tôi không khuyến nghị điều này vì hầu như lúc nào nó cũng dẫn tới việc kích động cảm xúc, cho cả phụ huynh và con trẻ. Khi đứa con 5 tuổi của bạn nổi điên lên ở tiệm tạp hóa, và bạn đứng cao hơn hẳn cậu bé, chỉ thẳng ngón tay và rít lên qua kẽ răng rằng cậu bé phải “yên lặng ngay lập tức” bạn đang chọc vào con thằn lằn rồi đấy. Bạn đang khơi gợi phản xạ của não bộ tầng dưới, điều mà hầu như không bao giờ dẫn đến điều gì tốt đẹp cho bất kỳ ai liên quan. Bộ máy trực giác của bé tiếp nhận ngôn ngữ cơ thể và lời nói của bạn và phát hiện ra mối đe dọa, điều này trên phương diện sinh học đã bật công tắc cho hệ thống phản xạ thần kinh giúp bé sinh tồn trước mối đe dọa từ môi trường – chiến đấu, chạy trốn, đông cứng, hoặc ngất xỉu. Não bộ tầng dưới của bé nhảy vào hành động, chuẩn bị đáp trả nhanh chóng thay vì cân nhắc cẩn thận những lựa chọn
khác trong một trạng thái nhạy bén và có nhận thức hơn. Cơ bắp của bé căng ra khi bé chuẩn bị bảo vệ bản thân và nếu cần, tấn công lại bằng cách gồng mình lên và chống trả. Hoặc cậu bé có thể chạy biến đi mất, hoặc ngất đi. Tất cả những điều đó đều là cách thức phản xạ của não bộ tầng dưới. Và não bộ tầng trên mang tính tư duy, tự chủ một cách lý trí bị mất tín hiệu, trở nên không khả dụng vào thời điểm đó. Đó chính là điểm then chốt – chúng ta không thể cùng một lúc ở cả hai trạng thái phản xạ của não tầng dưới và trạng thái tiếp thu của não tầng trên. Tính phản xạ của não tầng dưới đã giành quyền thống trị.
Trong tình huống đó, bạn có thể thu hút bộ não tầng trên tinh vi hơn của trẻ, và thúc đẩy nó kiểm soát bộ não tầng dưới thuần phản xạ. Bằng cách bày tỏ sự tôn trọng con mình, dạy dỗ bé với sự đồng cảm vô bờ, và sẵn sàng mở lòng cho những cuộc thảo luận mang tính hợp tác và tự kiểm điểm, bạn đang thể hiện rằng “không có mối đe dọa nào cả” nhờ đó não bò sát có thể thả lỏng phản xạ của nó. Trong khi đó, bạn kích hoạt não tầng trên, bao gồm cả phần vỏ não trước trán vô cùng quan trọng, vốn đảm trách nhiệm vụ ra quyết định điềm tĩnh cũng như kiểm soát cảm xúc và sự bốc đồng. Đó là cách mà chúng ta chuyển từ trạng thái phản xạ sang tiếp thu. Và đó chính là điều mà chúng ta muốn dạy bọn trẻ.
Như vậy, thay vì hung dữ ra lệnh cho cậu bé 5 tuổi bình tĩnh, bạn có thể giúp vỗ về và xoa dịu não bộ tầng dưới và đưa não bộ tầng trên hoạt động trở lại bằng cách nhẹ nhàng gọi bé tiến đến gần bạn và lắng nghe bất cứ điều gì làm bé khó chịu. (Nếu bạn đang ở nơi công cộng và con bạn đang quấy rầy mọi người xung quanh, có thể
bạn sẽ cần đưa bé ra ngoài trong khi cố gắng khêu gợi não bộ tầng trên.)
Nghiên cứu đã ủng hộ chiến lược tiếp cận bộ não tầng trên thay vì chọc giận bộ não tầng dưới. Ví dụ, chúng ta biết rằng khi một người được đưa cho xem bức hình một bộ mặt tức giận hoặc sợ hãi, hoạt động được đẩy mạnh tại một vùng thuộc não bộ tầng dưới được gọi là hạch hạnh nhân, hạch này chịu trách nhiệm nhanh chóng phân tích và biểu hiện những cảm xúc mạnh mẽ, đặc biệt là sự tức giận và sợ hãi. Một trong những công việc chính của hạch hạnh nhân là luôn cảnh giác và phát tín hiệu báo động bất kỳ lúc nào chúng ta bị đe dọa, cho phép chúng ta phản ứng mau lẹ. Thật thú vị, chỉ đơn thuần là nhìn thấy ảnh một người với bộ mặt giận dữ hoặc hoảng sợ cũng có thể khiến cho hạch hạnh nhân của người xem được kích hoạt. Trên thực tế, ngay cả khi người xem nhìn thoáng qua bức ảnh nhanh đến mức anh ta hoặc cô ta còn không kịp nhận thức rằng mình đã nhìn thấy bức ảnh thì một phản xạ tiềm thức, bản năng, mang tính cảm xúc đã khiến cho hạch hạnh nhân bị kích thích, hoặc bắt đầu hoạt động.
Điều thú vị hơn nữa về nghiên cứu này đó là khi người xem được yêu cầu gọi tên biểu hiện cảm xúc trong ảnh, là sợ hãi hay giận dữ, hạch hạnh nhân của họ ngay lập tức kém linh hoạt hơn. Tại sao lại như vậy? Bởi vì một phần của não tầng trên – được gọi là vỏ não trước trán bên – sẽ đảm nhận việc đặt tên và phân tích cảm xúc, cho phép phần tư duy, phân tích của bộ não kiểm soát và xoa dịu vùng dưới đang bị kích động, thay vì để cho não tầng dưới mang tính phản xạ và dễ xúc động thống lĩnh và chỉ đạo cảm giác và phản ứng của người đó. Đây là ví dụ điển hình về phương pháp “đặt tên để thuần hóa” mà chúng tôi đã thảo luận chi tiết trong cuốn Bộ não Toàn diện của Trẻ. Chỉ đơn giản bằng cách đặt nên cho cảm xúc, một người có thể cảm nhận mức độ sợ hãi và giận dữ giảm xuống. Đó chính là cách mà não bộ tầng trên trấn tĩnh não bộ tầng dưới.
Và đó là một kỹ năng có thể sử dụng suốt đời.
Như chúng tôi đã nhắc tới trong cuốn Bộ não Toàn diện của Trẻ, chúng tôi muốn tiếp cận não tầng trên thay vì chọc giận não tầng dưới. Tiếp cận, chứ không chọc giận. Khi chúng ta chọc giận não tầng dưới, thường thì là do chính hạch hạnh nhân của chúng ta đang bị kích động. Và hãy đoán xem hạch hạnh nhân muốn gì. Chiến thắng! Vì vậy khi hạch hạnh nhân ở cả phụ huynh và đứa trẻ đang kích thích ở mức độ cao nhất, cả hai đều muốn chiến thắng, đó hầu như sẽ là một trận chiến kịch liệt mà kết thúc sẽ là cả hai bên đều thua cuộc. Không ai sẽ chiến thắng, và những mất mát trong mối quan hệ sẽ rải rác chiến trường. Tất cả chỉ vì chúng ta đã kích động não tầng dưới, thay vì tiếp cận não tầng trên.
Nếu sử dụng một phép ẩn dụ khác, nó giống như khi bạn có một cái điều khiển từ xa cho con mình, và bạn có quyền lực đến một mức độ nào đó trong việc quyết định phản ứng bạn sẽ nhận được như thế nào khi cả hai tương tác. Ấn nút tiếp cận – nút “bình tĩnh và
suy nghĩ” – và bạn sẽ thu hút não tầng trên, kích hoạt phản ứng trấn an. Nhưng nếu ấn vào nút kích động – nút “hoảng hốt và gia tăng cảm xúc” – bằng cách sử dụng sự đe dọa và mệnh lệnh, bạn đang van xin phần não hiếu chiến động thủ rồi đấy. Bạn sẽ chọc vào thằn lằn và nhận lại phản ứng mang tính phản xạ giống như loài bò sát. Ấn vào nút nào là hoàn toàn phụ thuộc vào bạn.
Hãy nhớ, những điều trên đây không hề miễn cho các bậc phụ huynh khỏi trách nhiệm đặt ra ranh giới và truyền đạt kỳ vọng một cách rõ ràng. Chúng tôi sẽ đưa ra rất nhiều những đề xuất thực tiễn để làm được điều đó trong các trang tiếp theo. Tuy nhiên trong khi bạn đặt ra ranh giới và thể hiện nguyện vọng của mình, bạn sẽ khiến mọi thứ dễ dàng hơn nhiều với chính bạn, con bạn và bất kỳ ai khác trong phạm vi tiếng la hét nếu bạn có thể khơi gợi được cái tôi khôn ngoan và sẵn sàng tiếp thu của bé và não bộ tầng trên, thay vì đặc tính phản xạ của loài bò sát và não bộ tầng dưới của bé.
Điều thậm chí tuyệt vời hơn nữa xảy ra sau khi chúng ta thu hút được não bộ tầng trên. Khi nó liên tục được hoạt động, nó sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Những nơron kích hoạt cùng nhau thì sẽ liên kết với nhau. Vì thế khi một đứa trẻ đang trong trạng thái tinh thần buồn bực và chúng ta mời gọi não tầng trên hoạt động, chúng ta đã tạo ra một mối liên hệ chức năng giữa trạng thái rối loạn và sự kích hoạt của phần não bộ sẽ đưa bé trở về trạng thái điều hòa. Chúng ta có thể phát triển những sợi thần kinh xoa dịu đó để chúng lan tỏa từ não bộ tầng trên trước trán đi sâu vào não bộ tầng dưới.
Điều này nghĩa là chúng ta càng thu hút đặc tính hợp nhất ở mức độ cao hơn của trẻ - chúng ta càng đòi hỏi bé tư duy nhiều hơn trước khi hành động hoặc phải cân nhắc cảm xúc của người khác, và đòi hỏi bé phải cư xử có đạo đức và cảm thông – do đó bé sẽ càng dùng đến não tầng trên nhiều hơn, và nó sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, vì nó đang xây dựng những kết nối và ngày càng tích hợp cao hơn với những vùng tầng dưới. Việc sử dụng não bộ tầng trên ngày càng trở thành phương thức dễ tiếp cận và tự động mặc định của bé, ngay cả khi cảm xúc dâng trào. Nhờ vậy mà bé sẽ ngày càng trở
nên giỏi hơn trong việc ra quyết định đúng đắn, tự chủ cảm xúc, và quan tâm đến mọi người.
Ứng dụng ba C của Bộ Não
Hãy cùng thảo luận xem ba C của Bộ não – không ngừng thay đổi (changing), có thể thay đổi được (changeable), và phức tạp (comlex) được ứng dụng như thế nào trong thực tiễn hành động. Khi Nina vỡ òa ở bậc thềm, bản năng trước hết của Liz là phân tích một cách logic tại sao lại quyết định việc chuyên chở như thế:
“Trường chị con ở ngay cạnh chỗ làm của mẹ.” Cô cũng có thể tiếp tục giải thích thêm rằng Tim có nhiều thời gian hơn để đưa Nina tới trường của cô bé, và rằng vừa mới hôm qua Nina đã đòi hỏi có nhiều thời gian hơn với bố mình. Tất cả những luận điểm đó đều đúng, và có lý.
Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, khi đứa trẻ đang vật lộn với sự suy sụp, logic thường không hiệu quả, đôi khi thậm chí còn phản tác dụng. Liz đã nhận ra điều đó khi cô nhìn con gái đang chìm trong cơn thịnh nộ của mình. Ngay lập tức, cô nhận ra đặc tính C đầu tiên: Bộ não của Nina đang thay đổi. Nó đang phát triển. Không phải đã phát triển, mà là đang phát triển. Điều này nghĩa là Liz cần phải kiên nhẫn với cô bé và đừng mong đợi bé có thể kiểm soát bản thân một cách nhất quán như người trưởng thành, hay thậm chí là như một đứa trẻ lớn hơn. Cô hít thật sâu và cố gắng giữ bình tĩnh, bất chấp sự căng thẳng gây ra bởi cô em 4 tuổi bất chấp lý lẽ, cô chị 7 tuổi mất kiên nhẫn, và chiếc đồng hồ vẫn chạy không ngừng.
Đặc tính C thứ hai cũng quan trọng không kém trong tình huống này, rằng bộ não có thể thay đổi được. Liz hiểu rằng cách thức vợ
chồng cô xử lý mỗi tình huống với các con sẽ ảnh hưởng tới bộ não đang phát triển của bé, theo hướng tốt hoặc xấu. Vì thế khi nhận thức được điều này, Liz kiềm chế ham muốn mà cô vừa cảm thấy, đó là nhanh chóng và thậm chí là hung hãn tóm lấy cô bé đang gào khóc, huỳnh huỵch áp tải bé tới ô tô của Tim, khóa chặt bé vào chỗ ngồi trong xe, và đóng sầm cửa lại.
Nhân đây, nếu bạn nhận ra chính mình trong cách thức đầy giận dữ mà Liz đã muốn làm để xử lý tình huống, bạn không hề đơn độc. Tất cả chúng ta đều đã trải qua điều đó. (Xem đằng sau cuốn “Khi chuyên gia nuôi dạy trẻ thất bại”.) Những bậc phụ huynh tận tâm thường lên án chính mình vì mọi lỗi lầm vụn vặt mà họ mắc phải, hay vì mỗi lần mà họ bỏ lỡ một cơ hội xử lý một thời điểm khó khăn từ góc độ Bộ não Toàn diện. Chúng tôi mong bạn sẽ lắng nghe lời chỉ trích nội tâm này đủ lâu để có được một số nhận thức để làm tốt hơn trong lần tới, rồi sau đó hãy rộng lượng mà tha thứ cho bản thân. Lẽ tất nhiên bạn muốn cố gắng hết mình và dành điều tốt đẹp nhất cho bé. Tuy nhiên như chúng tôi sẽ giải thích cụ thể trong phần kết của cuốn sách này, ngay cả những lỗi lầm trong nuôi dạy bé cũng có thể trở nên vô cùng giá trị - chúng ta có thể dạy bé biết rằng chúng ta đều là con người, và chúng ta có thể chịu trách nhiệm về sự việc đã diễn ra và có thể sửa chữa. Đó là một trải nghiệm nuôi dạy cần thiết cho tất cả các bé.
Liz là con người và là một phụ huynh, vì thế đương nhiên cô cũng mắc lỗi sai, như tất cả chúng ta. Nhưng lần này cô đã sử dụng phương pháp kỷ luật Không-Rắc rối, với tư tưởng Não bộ-Toàn diện và đưa ra một quyết định có chủ đích là dành chút thời gian và chia sẻ cảm xúc với cô con gái bé nhỏ. Bằng cách này cả gia đình chỉ
chậm hơn dưới 1 phút so với lịch trình. Và Liz nhận ra rằng mặc dù những cảm xúc của Nina có vẻ kịch tính, nhưng chúng là thật. Ngay lúc đó cô bé cần mẹ của mình. Vì vậy Liz đã khước từ thôi thúc làm điều gì đó đơn giản nhất và nhanh nhất, một lần nữa cô kéo con gái gần hơn về phía mình.
Nếu Nina là con bạn, bạn có thể xử lý tình huống này theo một trong số vài cách khác, phụ thuộc vào phong cách của bạn và tính cách của bé. Cũng như Liz, mục tiêu đầu tiên của bạn có lẽ sẽ là tìm cách giúp bé bình tĩnh lại, sao cho não bộ tầng trên của bé trở lại hoạt động và bé có thể lắng nghe lời giải thích. Bạn có thể hứa sáng mai sẽ dậy sớm để có thời gian đưa bé tới trường. Hay bạn có thể đảm bảo với bé rằng chiều nay bạn sẽ xin phép nghỉ làm sớm hơn để đón cô bé và sau đó sẽ dành thời gian đặc biệt chỉ riêng cho bé. Hoặc bạn có thể đề nghị kể chuyện qua loa điện thoại cho bé nghe khi bố đưa bé tới trường.
Thực tế là Liz đã thử một vài trong những cách trên, tất cả đều không đem lại kết quả. Không có sự khích lệ sáng tạo nào đạt được mục tiêu. Nina chẳng có lựa chọn nào trong số đó.
Có phải bạn đang mừng rỡ vì chúng tôi không đưa ra một ví dụ mà trong đó câu chuyện diễn biến tốt đẹp và hoàn hảo? Bạn đang thở phào nhẹ nhõm phải không, vì bạn biết không phải lúc nào sự việc cũng có thể tốt đẹp và hoàn hảo. Cho dù chúng ta xử lý tình huống điêu luyện tới mức nào, và cho dù chúng ta có cố nhắc nhở bản thân ý thức những thông tin quan trọng như 3 C của Bộ não, vẫn có những lúc con chúng ta không cư xử như chúng ta muốn. Chúng sẽ không nhặt đồ chơi lên. Chúng sẽ không tự động xin lỗi cậu em trai. Chúng sẽ không bình tĩnh. Đó chính là điều đang diễn
ra ở đây. Nina không thỏa hiệp. Lắng nghe cảm nhận của cô bé, ôm bé vào lòng, lên kế hoạch bù đắp… không cách nào thành công cả.
Nhưng Liz vẫn phải đi làm, và bọn trẻ phải đến trường. Vì thế, giữ bình tĩnh và cảm thông – đó là mục tiêu của chúng ta – cô giải thích rằng họ phải đi thôi, và rằng sáng nay Tim sẽ đưa bé đến trường như dự định: “Mẹ biết là con buồn, và mẹ hiểu rằng con muốn đi với mẹ. Mẹ cũng muốn thế. Nhưng hôm nay thì không được. Giờ thì con muốn tự vào trong xe hay muốn Bố giúp con? Bố sẽ ở bên con và an ủi con trên đường tới trường. Mẹ yêu con và chúng ta sẽ gặp nhau chiều nay nhé.” Và bằng cách đó, câu chuyện ở hiên nhà kết thúc, với việc Tim ôm Nina đang khóc khi anh đưa bé ra xe.
Hãy lưu ý điều mà chúng ta cần biết ở đây. Kỷ luật Không-Rắc rối không thể đảm bảo rằng con bạn sẽ cư xử theo cách bạn muốn mỗi lần bạn tiếp cận hành vi của bé. Phương pháp Bộ não-Toàn diện chắc hẳn sẽ cho bạn một cơ hội tốt hơn để đạt được mục tiêu ngắn hạn là khích lệ sự hợp tác từ con mình. Nó cũng giúp loại bỏ hoặc ít ra xoa dịu những cảm xúc bùng nổ nhất trong lúc đó, giảm bớt sự rắc rối và nhờ đó tránh những tác hại và tổn thương gây ra khi một phụ huynh mắng nhiếc hoặc cá nhân hóa vấn đề. Tuy nhiên cách này không phải lúc nào cũng hiệu quả trong việc đạt được chính xác kết quả hành vi mà bạn mong muốn. Sau cùng thì trẻ em cũng là con người, chúng cũng có cảm xúc, khao khát, và kế hoạch của mình; chúng không phải máy tính mà chúng ta có thể lập trình làm những điều ta muốn. Nhưng rồi đến cuối cùng, như chúng tôi chắc chắn rằng bạn sẽ đồng tình sau khi đọc các chương tiếp theo, Kỷ luật Không-Rắc rối sẽ mang lại cho bạn cơ hội tốt hơn trong việc