🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phố Wall Một Las Vegas Khác
Ebooks
Nhóm Zalo
NICOLAS DARVAS
PHỐ WALL MỘT LAS VEGAS KHÁC
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách.
Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản
LỜI NÓI ĐẦU
Mười năm trước, tôi bắt đầu mua những cổ phiếu đầu tiên của mình. Sáu năm sau, tôi đã đạt được rất nhiều thành công, tôi đã kiếm được hơn 2 triệu đô-la từ thị trường chứng khoán.
Một nhà xuất bản đề nghị tôi viết một cuốn sách về những gì bản thân tôi đã trải qua. Cuốn sách đầu tiên Tôi đã kiếm được 2 triệu đô-la trên thị trường chứng khoán như thế nào đã ra đời và
nhanh chóng được độc giả đón nhận với hơn 400 nghìn bản được bán ra.
Cuốn sách đã có tác động rất lớn đến thị trường chứng khoán Mỹ, khiến cho sàn giao dịch Hoa Kỳ phải thay đổi các luật lệ của mình.
Và rồi một trong những ngân hàng đầu tư và môi giới lớn nhất Phố Wall, đề nghị tôi thành lập một quỹ đầu tư mang tên tôi - Quỹ tương hỗ Darvas.
Attoney - General - một nhân vật đầy tham vọng chính trị, dưới sự khuyến
khích của một nhà môi giới thất bại đã viết bài báo với những điều sai trái về tôi trên trang đầu của một số tờ báo. Nhưng rồi viên chánh lý này cũng phải chính thức đăng tin cải chính khi tôi đồng ý sẽ không kiện anh ta vì tội phỉ báng, và anh ta phải đồng ý với tôi rằng, tôi không phải là một nhà môi giới chứng khoán.
Tôi đã nhận hàng nghìn bức thư. Hầu hết những bức thư đó đều muốn hỏi tôi về các mánh khóe và những lời khuyên trong đầu tư. Tôi luôn nói với họ rằng: “Tôi không biết bạn có thể kiếm tiền bằng
cách nào. Tôi chỉ biết rằng tôi đã kiếmtiền như thế nào và làm cách nào để kiếmđược nhiều hơn nữa”. Và nhà xuất bản trước đây giúp tôi thực hiện cuốn sách đầu tiên đã gợi ý tôi nên viết cuốn sách thứ hai về những kinh nghiệm và những gì tôi quan sát được trên thị trường chứng khoán.
Tôi quyết định sẽ viết cuốn sách đó, bởi lẽ tôi đã gia nhập thị trường chứng khoán từ hơn chục năm nay nên tôi còn học được vô số điều khác nữa ngoài việc kiếm tiền.
Khi đứng sang một bên để quan sát, tôi bắt đầu nhìn Phố Wall đúng với bản chất của nó - một sòng bạc đích thực, một bên là người tráo bài, hồ lì và những kẻ mách nước, một bên là người thắng, kẻ thua. Tôi từng là người thắng cuộc và quyết định sẽ duy trì vị trí là kẻ thắng cuộc. Vì vậy, tôi bắt đầu làm quen với các hoạt động cùng những người tham gia, những huyền thoại cũng như tấm màn bí ẩn bao quanh “Las Vegas thứ hai” - nhưng lại lớn hơn cả Las Vegas đích thực.
Tôi đã cố gắng tính toán các thiệt hại có
thể có và tìm cách giảm thiểu chúng đi, và đây là câu chuyện của tôi: Một con bạc dám chống lại cả sòng bạc lớn nhất thế giới.
Nào, hãy cùng tôi bước vào sòng bạc...
Nicolas Darvas
Geoges V - Paris, Pháp 1963
Chương 1. Sòng bạc
Câu chuyện diễn ra tại Oak Room - Phòng Cây sồi đông đúc thuộc khách sạn Plaza thời thượng ở New York. Đó là ngày 28 tháng 5 năm 1962, mọi người đang thưởng thức một bữa tiệc cocktail. Bên ngoài, tiếng gót giày gõ ngược xuôi dọc theo công viên trung tâm phía nam. Xe cộ ồn ào. Bên trong, bị bao quanh bởi đám đông đang bàn tán sôi nổi, tôi hoàn toàn im lặng. Tôi ngồi trong cái góc yêu thích của mình, đối diện với cánh
cửa ra vào, nhấp từng hớp rượu Planter’s Punch và lẩm nhẩm một phép tính nhỏ.
Bên lề của tờ báo đặt trên bàn, tôi viết lên một con số và bao quanh nó một hình chữ nhật thật vuông vắn với màu mực xanh nhạt:
2.450.000 đô-la
Gần 2.5 triệu đô-la. Thật không thể tin nổi rằng đó chính là số tiền tôi đã kiếmđược từ Phố Wall chỉ sau vẻn vẹn có bảy năm ngắn ngủi. Hơn thế nữa, phần
lớn số tiền đó, khoảng 2.2 triệu đô-la, tôi đã kiếm được chỉ trong vòng có mười tám tháng. Thật sự không thể tin nổi!
Lẽ ra, tôi đã phải làm quen với ý nghĩ rằng tôi là một triệu phú. Tôi đã hoàn thành một cuốn sách đang bán chạy nhất nước Mỹ viết về những kinh nghiệm đầu tư của mình trên Phố Wall. Tôi còn trở thành chủ đề chính của công chúng và các bài báo trên tạp chí Times uy tín, và trên cả tạp chí Barron’s, chuyên san của Phố Wall. Một vài tạp chí giải trí còn đưa vào những trang báo của mình các
tranh hoạt họa về “vũ công thiên tài” trên thị trường chứng khoán. Tác giả của những mẩu chuyện ngộ nghĩnh, hài hước, các nhân viên phụ trách chuyên mục, các nhà bình luận, cũng như doanh số bán ra đáng kinh ngạc của cuốn sách đầu tiên của tôi đã khiến tên tuổi tôi trở nên quen thuộc với độc giả - những người chưa bao giờ chứng kiến các điệu nhảy của tôi tại khu phố Latin ở New York, hay ở Coconut Grove tại Los Angeles.
Đó thực sự là một trò chơi tuyệt vời, vô cùng thú vị và có một vài điểm nhấn vui
vẻ. Nó cũng giống như lần tôi nhận thấy mình hết sạch tiền lẻ ở quán bar Reuben’s, và dạy cho Warren, trưởng bộ phận phục vụ quầy bar một mánh nhỏ trên thị trường chứng khoán thay cho số tiền bo là bảy mươi lăm cent mà tôi dự định cho anh ta. Đó là một mánh đầu tư vào cổ phiếu của hãng AUTOMATIC CANTEEN. Anh ta đã nghe theo lời tôi mua cổ phiếu của hãng này với giá là 31 5/8 đô-la, bán ra với giá là 40 đô-la và anh ta kiếm được khoản lợi nhuận là 800 đô-la. Đây thật sự không phải là một mánh đầu tư tồi khi đó!
Tôi đã từng làm dấy lên một cuộc tranh luận về chủ đề đầu tư cổ phiếu. Liệu một người không chuyên như tôi, một vũ công hoàn toàn chẳng biết gì về thị trường chứng khoán như tôi có thể lao vào một nơi mà thậm chí các chuyên gia kinh tế còn ngại ngần khi phải dấn thân và ra về với hơn hai triệu đô-la trong túi. Liệu điều này là có thể?
Không chỉ là có thể, nó đã xảy ra. Và còn nhiều điều khác cũng đã xảy ra. Sàn giao dịch chứng khoán Mỹ đã phải thay đổi các quy định hoạt động của mình và đình
chỉ việc sử dụng các lệnh Stop - loss (Stop loss order: mệnh lệnh này cho phép bạn bán ra các cổ phiếu một cách tự động nếu cổ phiếu rớt giá hơn mức mà bạn chấp nhận được - ND). Có vẻ như đây là một động thái nhằm hạn chế những kẻ đầu cơ định chơi trò “đi theo người mở đường” hay “đi theo các vũ công” trong trường hợp này.
Thế nhưng động thái này cũng chỉ như muối bỏ bể. Hôm nay, khi ngồi tại Phòng cây sồi vào buổi tối một ngày tháng Nămcủa năm 1962, có một điều đã đánh thức
tâm trí hãy còn đang “mơ màng” của tôi. Đó chính là trang đầu tờ tạp chí mà tôi đã viết nguệch ngoạc lên con số ấn tượng về tài sản của mình. Và giờ đây, ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi là, “Davas à, mi thật là một anh chàng quá ư may mắn”.
Ý nghĩ đó không chỉ bởi số tiền trong tài khoản của tôi, còn một lý do quan trọng hơn. Bởi lúc này, đập vào mắt tôi là dòng chữ to in đậm trên trang đầu của tờ New York Post:
Thị trường chứng khoán đối mặt với làn sóng bán ra tồi tệ nhất trong vòng ba
mươi năm nay.
Có thể coi tiêu đề đó là “tấm bia mộ” kết thúc giai đoạn tăng giá liên tục, dài nhất và cao nhất trong lịch sử Phố Wall. Đối với khoảng 2 triệu nhà đầu tư nhỏ - những người thậm chí còn chẳng hề biết rằng thực ra họ đang chơi đỏ đen, thì từng từ trong dòng tiêu đề đó thực sự là một thảm họa. Hàng nghìn tài khoản bị mất trắng bởi những gì đã xảy ra trong suốt ngày đầu tiên của vụ sụt giá năm1962, tựa như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1929 lại tái diễn
một lần nữa (vào năm 1929, giá cổ phiếu sụt giảm liên tục, kéo theo việc các nhà đầu tư đua nhau bán ra các cổ phiếu của mình để giảm thiểu thiệt hại, thị trường cổ phiếu đã sụp đổ nhanh chóng - ND).
Nhưng sự sụp đổ của thị trường vào tháng 5 thậm chí còn gây thiệt hại lớn hơn những gì mà tờ New York Post công bố trên số báo ngay sau khi sàn giao dịch New York bị đóng cửa. Và tôi đã phát hiện ra rằng, khoảng 20.8 tỷ đô-la của cái được gọi là “giá trị trên giấy” đã bị xoá sạch trên Big Board (một tên gọi
khác của sàn giao dịch New York - NYSE - ND) chỉ trong vẻn vẹn một ngày ngắn ngủi, và con số này đã là 40 tỷ đô la chỉ sau một tuần.
Nhưng tất cả mới chỉ là sự khởi đầu. Sau một giai đoạn hồi phục ngắn ngủi, sự sụt giảm lại bắt đầu tăng tốc. Rất nhiều loại cổ phiếu như Blue-chip (cổ phiếu của các công ty lớn, có giá trị ổn định - ND) trị giá 600 đô-la của người khổng lồ IBM thực sự không thể chấm dứt thời kỳ giảm giá cho đến tận tháng 6. Rất nhiều người mà tôi có cơ hội tiếp xúc hiện vẫn
chưa thể phục hồi lại sau cú chấn động này.
Và khi cơn sốt bán ra đang làm rung động thị trường cổ phiếu như một vụ lở tuyết trên dãy An-pơ, thậm chí cả các nhà môi giới cũng phải lao đao, thì tôi ngồi đây, thưởng thức món đồ uống mát lạnh và bình thản đọc dòng tiêu đề đó. Bởi vì - yếu tố đặc biệt ở đây là - tôi đã thoát ra khỏi thị trường chứng khoán.
Tôi đã đóng tài khoản môi giới cuối cùng của mình hơn bốn tháng trước!
Có một số điều cần phải suy xét. Đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Hoàn toàn không phải như vậy. Nhưng mặt khác, tôi không đòi hỏi được ghi nhận như một nhà tiên tri. Không có một quả cầu chiêm tinh. Không có những lá chè bói toán. Không một lời ám chỉ bí truyền nào trong các bảng biểu và sơ đồ, không có sự giúp đỡ nào của những người trong nội bộ sàn giao dịch Phố Wall.
Sự thật chỉ đơn giản là, dù tôi - Nicolas Darvas - một con người bình thường đã
dự đoán được vụ sụp đổ Tháng Năm hay không thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.
Tôi hoàn toàn ý thức được khả năng về một vụ “lở tuyết” từ khoảng tháng 12, và tôi đã bắt đầu tự động dừng việc sở hữu cổ phiếu của mình mà tôi không phải nhúng một ngón tay vào việc đó!
Thực sự không mấy khó khăn để đưa ra những quyết định sống còn. Các lệnh Stop - loss của tôi được sắp xếp cẩn thận vào hệ thống lệnh mua mà tôi mới biết sử dụng đã thay tôi đưa ra các quyết định. Nếu tôi khăng khăng đi ngược lại xu
hướng, nhất định mua lại và tái gia nhập thị trường sau khi đã bán ra các cổ phiếu của mình, thì khi có dấu hiệu của một vụ dao động bất thường và có chiều hướng đi xuống, các lệnh Stop - loss của tôi sẽ lại tự động tiến hành các điều chỉnh an toàn, và một lần nữa tôi lại thoát ra ngoài an toàn.
Và hôm nay, bốn tháng rưỡi sau chuyến phiêu lưu cuối cùng của mình trên Phố Wall, tôi ngồi đây tại chỗ ngồi quen thuộc trong Phòng Cây sồi, đọc tờ New York Post, một lần nữa, bánh xe vĩ đại
của Phố Wall lại mắc vào điểm chết. Và một lần nữa, những người trong nội bộ Phố Wall thu về các thẻ đánh bạc với khoản khấu hao rất hời; một lần nữa, rất nhiều người ở Main Street đang phải bỏ chạy trong đau khổ và hoảng loạn với số tài sản ít ỏi sau thảm họa mới nhất trên phố Wall.
Thực sự, tôi không nghĩ rằng tôi không hề có cảm giác tự mãn. Vâng, tôi hạnh phúc. Tôi đã thắng và an toàn rời khỏi chiếu bạc. Trong hoàn cảnh như vậy có ai mà không cảm thấy mình may mắn
chứ? Nhưng đồng thời, tôi bắt đầu nhớ đến những người bạn cùng chơi với mình trong Sòng bạc vĩ đại này - sàn giao dịch New York.
Liệu họ có hiểu được chuyện gì đang diễn ra hay không? Liệu họ có biết đó chính là một ván bài đỏ đen không? Một ván bài “được ăn cả, ngã về không”? Đó là trò chơi mà ai tham gia cũng mong giành phần thắng về mình, nhưng vẫn luôn phải chuẩn bị tâm lý đón nhận thất bại. Và liệu họ có biết rằng trò chơi đó hoàn toàn có thể giáng vào nguồn tài
chính của họ một đòn chí mạng?
Tôi vẫn luôn phải để tâm đến những câu hỏi đó, không phải chỉ sau khi “giữ một chân” trong thị trường chứng khoán. Và giờ đây, khi nhận thức được tính nghiêm trọng của vụ sụp đổ đối với hàng triệu con người - những người đã tham gia ván bài này nhưng họ sẽ chẳng thể nào gượng dậy nổi nếu thua cuộc - tôi quyết định sẽ kể lại toàn bộ câu chuyện, bởi lẽ tôi biết rõ câu chuyện đó, và bởi lẽ nó đã xảy ra với tôi. Ý nghĩ nhất thiết phải miêu tả cái sòng bạc lấp lánh ánh hào quang này, cái
sòng bạc thậm chí còn lớn hơn cả Monte Carlo, cái sòng bạc đã biến Las Vegas thành một gã lỗi thời, lạc hậu - cứ bámriết lấy tôi. Tôi muốn kể lại câu chuyện về những kinh nghiệm của mình.
Tôi đã quyết định rằng, cuốn sách này sẽ miêu tả Phố Wall đúng với bản chất của nó: một sòng bạc chuyên nghiệp đầy những người thắng, kẻ thua - chính là những nhà đầu tư giao dịch trên thị trường.
Theo thông báo mới nhất của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái, có khoảng 17
triệu chủ sở hữu cổ phiếu tại Mỹ. Con số này còn đôi chút thấp hơn so với thực tế.
Thứ nhất, không phải bất cứ người nào sở hữu cổ phần “trực tiếp” trong một công ty đều trực tiếp tham gia thị trường chứng khoán. Phần lớn trong số họ là không tham gia. Chủ sở hữu cổ phiếu có thể được sắp xếp vào hai nhóm chính: những người tham gia mua bán, giao dịch trên thị trường - giống như tôi, và những người chỉ có mặt trên thị trường chứng khoán thông qua số cổ phiếu mà họ sở hữu - với họ số cổ phiếu đó chính là
những khoản tiền dự trữ, nhưng nói chung phần lớn lượng cổ phiếu họ sở hữu thường không lớn. Họ thường là:
Hàng triệu nhân viên của những tập đoàn khổng lồ, như General Electric - những người sở hữu một số cổ phiếu mà họ mua theo nghĩa vụ của công ty mà họ làm việc - thường được bán với chiết khấu đặc biệt. (Có thể coi đây là một biện pháp khá thông minh để thắt chặt mối quan hệ giữa nhân viên với công ty, thế nhưng những cổ phiếu này sẽ không tạo ra nhiều sự khác biệt trên thị trường chứng khoán,
rồi bạn sẽ thấy say này).
Trong khi đó, các nhà quản lý cấp cao coi việc tham gia thị trường chứng khoán là một biện pháp để nâng cao thu nhập của mình (thường là sau khi họ về hưu) và cũng là để “qua mặt” các viên chức ngành thuế.
Ngoài ra, còn nhóm những người may mắn được thừa kế những cổ phiếu blue chip từ những người họ hàng biết lo xa. Và họ thật quá may mắn, hạnh phúc vì có khoản cổ tức định kỳ.
Đó là chưa tính đến thành viên quản trị của các tập đoàn, những người này thường không đầu cơ, tích trữ. Họ hiếmkhi mua vào và cũng hiếm khi bán ra trừ trường hợp đặc biệt. Tôi có rất nhiều người quen thuộc về nhóm này, và có thể là chính bạn cũng thuộc về nhóm này.
Chẳng hạn, tôi có biết một người phụ nữ làm đại diện bán hàng cho hãng hàng không PAN AMERICA WORLD AIRWAY. Cô ấy sở hữu khoảng 100 cổ
phiếu của hãng này. Hiện nay, có lẽ do có thông tin về vụ sát nhập giữa PAN
AMERICA WORLD AIRWAY và hãng hàng không TRANS WORLD AIRLINES, cổ phiếu của hãng này bắt đầu có xu hướng tăng nhẹ - đây là lần đầu tiên cổ phiếu hãng này tăng giá trong nhiều tháng nay. Cô bạn của tôi, cô X, trước đây đã mua những cổ phiếu đó với giá 20 đô-la/cổ phiếu. Đến tháng 1 nămnay, chúng tăng lên thành 27 đô-la/cổ phiếu. Và đột nhiên, giá cổ phiếu của hãng này tăng mạnh. Khi giá đã lên đến 32 đô-la, tôi hỏi cô rằng, liệu cô có nghĩ đến chuyện bán cổ phiếu đi để kiếm một khoản lời không.
“Ôi, không đâu” - cô ấy nói. “Số cổ phiếu này sẽ thường xuyên mang lại cho tôi một khoản cổ tức nhỏ. Vả lại, nói gì đi nữa thì khi tôi còn làm việc ở PAN AMERICA WORLD AIRWAY thì việc
sở hữu một số cổ phần của nó sẽ rất có lợi cho tôi”.
Nhưng tình cảm đôi khi lại quan trọng hơn tiền bạc. Như tôi đã nói lúc đầu, không phải bất cứ ai sở hữu cổ phiếu đều “thực sự tham gia” vào thị trường chứng khoán.
Một người bạn khác đã hỏi ý kiến tôi về
một số cổ phiếu mà vợ anh ta được thừa kế từ một người cậu. Đó là cổ phiếu của công ty nào? Đó là cổ phiếu của hãng SIBONEY CORPORATION, một công ty chuyên khai thác dầu và khí đốt ở Cuba, được niêm yết trên sàn giao dịch Hoa Kỳ.
Nhưng thật không may, cổ phần của SIBONEY mà vợ chồng bạn tôi sở hữu được mua vào từ năm 1957, tức là trước cuộc chính biến ở Cuba do Fiden Castro khởi xướng.
Hiện nay, cổ phiếu của hãng này được
bán với giá ¼ đô-la, hay 25 cent/cổ phiếu vì rất ít người quan tâm đến nó.
Đây là một ví dụ khác về một chủ sở hữu cổ phiếu - một trong số khoảng 17 triệu người tham gia thị trường cổ phiếu không có mục đích. Nhóm người này chiếm số đông trong tổng số chủ sở hữu cổ phiếu của các công ty ở Mỹ. Họ không mua vào, họ không bán ra, họ cũng chẳng đánh bạc, và với Phố Wall, điều quan trọng nhất ở đây là họ chẳng trả bất kỳ khoản hoa hồng nào cả. Thỉnh thoảng, họ nhận cổ tức của mình, những lúc khác,
như trên đây tôi đã đề cập, họ chỉ đơn giản là sở hữu cổ phần của mình mà thôi.
Thế nhưng, chỉ những người thực sự trả phí môi giới, cũng như những người hy vọng sẽ kiếm được tiền trên Phố Wall mới là đối tượng mà cộng đồng môi giới chứng khoán cũng như cuốn sách này nhắm tới - do nhiều lý do khác nhau.
Tôi cũng khám phá ra rằng, thực ra khá kỳ lạ, bởi lẽ các bà quả phụ và những đứa trẻ mồ côi - những người thường bị xem là sống dựa vào khoản lợi tức từ các cổ phiếu blue-chip, lại là những
người thực sự có mặt trên thị trường chứng khoán, mặc dù sự góp mặt của họ là thông qua người uỷ nhiệm. Đó là do tài chính của họ thường nằm trong cổ phiếu của các quỹ tương hỗ hoặc nằmtrong tay các nhà quản lý quỹ đáng tin cậy - những người sẽ giám sát danh mục vốn đầu tư của khách hàng với những khoản phí nhất định.
Tuy nhiên, luôn có một vài lần điều chỉnh định kỳ đối với “các danh mục đầu tư”, nghĩa là người ta sẽ bán đi một số cổ phiếu đang có và rồi mua lại những
cổ phiếu khác để thay thế. Và sau đó, điều cần làm là đánh cuộc rằng loại cổ phiếu nào sẽ hạ giá, và cổ phiếu nào giá sẽ tăng. Như vậy, nói một cách đơn giản nhất thì cùng với rất nhiều người khác, các bà quả phụ, những đứa trẻ mồ côi cũng là những con bạc, dù rằng họ không trực tiếp tham gia đặt cược.
Do bị hấp dẫn bởi mọi khía cạnh của “sòng bạc” này, tôi đã tìm được một vài con số. Tôi nhận ra rằng, số lượng người đánh bạc thực tế trên thị trường luôn thay đổi. Trong đó: (1) Có khoảng hơn 105
nghìn cá nhân mua các cổ phiếu thuộc kế hoạch đầu tư hàng tháng của sàn giao dịch New York với chi phí trung bình một tháng là từ 40 đô-la trở lên. Các cổ phiếu trong Kế hoạch đầu tư hàng tháng này thường dành cho những cá nhân không đủ khả năng đầu tư một khoản lớn vào loại cổ phiếu họ muốn sở hữu. Và trong nhiều trường hợp, những cổ phiếu này thường dành cho những người tin rằng, khi giá tăng lên họ sẽ nhận được những phần lợi tức đáng kể trong việc mua cổ phiếu của các kế hoạch ngắn hạn.
(2) Có khoảng 3 triệu người sở hữu cổ phiếu của các quỹ tương hỗ. Như tôi đã trình bày ở trên, họ thường thuê người đặt cược thay cho mình. Ván bài đó sẽ do các chuyên gia, những người quản lý quỹ chủ trì. Canh bạc duy nhất của một chủ sở hữu cổ phiếu là liệu giá của những cổ phiếu quỹ tương hỗ của anh ta khi cần bán ra có xứng đáng với số tiền mà anh ta đã phải bỏ ta để mua chúng vào hay không?
(3) Đây là nhóm những người được gọi là “cộng đồng lô lẻ”. Họ là những người,
vì rất nhiều lý do khác nhau nhưng thường là do hạn chế về nguồn vốn, mua cổ phiếu với số lượng ít hơn 100 cổ phiếu “lô chẵn”.
Thực sự là rất khó để có thể đưa ra con số chính xác về “cộng đồng lô lẻ”.
Một trong số những người bạn làm môi giới của tôi tiết lộ rằng, khoảng 60% số vụ làm ăn môi giới của công ty môi giới nơi anh ta làm việc là các vụ giao dịch với những nhà đầu tư nhỏ với số lượng ít hơn 100 cổ phiếu. Như vậy, trước cuộc khủng hoảng ngày 28 tháng 5, những vụ
mua lô lẻ chiếm khoảng 60% lượng giao dịch trên thị trường.
Thậm chí kể cả những nhà đầu tư tầm cỡ không phải lúc nào cũng đủ giàu có, hoặc là đủ tự tin để cùng một lúc mua 100 cổ phiếu, với những cổ phiếu như cổ phiếu của XEROX, hiện được bán với giá 416 đô-la, hoặc cổ phiếu của IBM đang ở mức 510 đô-la. Ai sẽ mua 100 cổ phiếu của SUPERIOR OIL với giá 1.435 đô la/cổ phiếu?
Ví dụ như vào tháng 12 năm 1962, số lượng các vụ bán lô lẻ vượt qua số
lượng các vụ mua lô lẻ hơn 2.659.092 cổ phiếu. Rất nhiều các nhà đầu tư cỡ nhỏ bán đi những cổ phiếu hiện có của mình, và sự kiện này đã lý giải điều mà có thể bạn đang nghĩ đến - chúng ta gọi sự kiện tháng 12, những nhà đầu tư cỡ nhỏ bị mắc kẹt bởi sự sụp đổ của giá cổ phiếu vào tháng 5, hiện đang vùng vẫy tìm cách “thoát khỏi” phố Wall.
Góp gió thành bão - đó là điều mà chúng ta sẽ thấy khi chúng ta thắc mắc về lợi nhuận của các nhà môi giới.
Liệu rồi các nhà đầu tư cỡ nhỏ sẽ quay
lại? Lời nhận xét về thị trường chứng khoán của J.P.Morgan đã được công nhận là một nhận xét kinh điển về điều duy nhất chắc chắn trên thị trường chứng khoán ấy là: “Nó sẽ vẫn tiếp tục lên xuống thất thường.”
Theo tôi, lời nhận xét ngắn gọn nhưng rất chính xác của Morgan cũng phải được áp dụng cho giới “cờ bạc” - yếu tố tạo nên thị trường chứng khoán. Kẻ đến, người đi, và như vậy thị trường chứng khoán vẫn sẽ luôn “lên xuống thất thường.”
Phải chăng hiện nay, xu hướng tăng giá
của thị trường vẫn đang diễn ra, một thị trường giá tăng vẫn sẽ tiếp tục tồn tại?
Tôi nhận thấy một vấn đề nan giải trong mục quảng cáo các dịch vụ tư vấn đầu tư của tạp chí New York Times. Đó không phải là một mục quảng cáo mới, cũng hoàn toàn không phải là một mục câu hỏi mới. Tôi đã nhìn thấy nó mấy tháng nay rồi, thậm chí ngay cả khi thị trường kẹt ở “điểm chết” và số lượng giảm xuống chỉ còn gần mức 3 triệu cổ phiếu.
Vậy đâu là câu trả lời?
Thành thật mà nói thì tôi cũng không biết. Cũng như tôi không thể biết được các vòng quay roullete trong sòng bạc ở Las Vegas sẽ dừng lại ở đâu. Sự thật là, kể cả những người trực tổng đài tư vấn đầu tư cũng không biết trừ khi họ là những nhà triệu phú về hưu, chứ không phải là những tay trực tổng đài dịch vụ tư vấn 5 đô-la rẻ tiền.
Tuy nhiên, lịch sử của Phố Wall cho thấy một điều rất rõ ràng là, thị trường chứng khoán nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung (mặc dù hai vấn đề này không
trùng lặp) có quy luật “thịnh” - “suy” của riêng nó. Sau một thời gian suy sụp sẽ đến giai đoạn phục hồi. Giá cả đi xuống, giá cả lại tăng lên. Những kẻ thua cuộc bỏ đi, hoàn toàn trắng tay. Những con bạc mới lại đến.
Tuy nhiên, những câu hỏi thực sự quan trọng đối với tôi lại là: (1) Làm sao để kiếm được tiền trên thị trường chứng khoán? và (2) Làm sao để tránh được thiệt hại? Tôi kiếm được tiền trong sòng bạc. Tôi đã đánh bại mọi mánh khóe. Đó chính là thành quả trong chuyến phiêu
lưu của tôi - “trận đột kích” vào pháo đài tiền bạc, vào ván bài lấp lánh, vào trò chơi may rủi vĩ đại này.
Ở điểm khởi đầu...
Tôi cũng bị coi là một con bạc, xét về một phương diện nào đó thì điều này hoàn toàn đúng. Nói chung, bất cứ người nào đem đặt một khoản tiền là X đô-la với hy vọng sẽ thu lại khoản đầu tư X này với chút lợi nhuận nào đó đều là đánh bạc.
Nhưng tôi có thể nói ngay từ đầu, mục
đích của tôi là phải loại bỏ các yếu tố rủi ro, hoặc phải giảm nó đi càng nhiều càng tốt. Tôi yêu sự chiến thắng. Ai mà không mong mình chiến thắng cơ chứ? Nhưng tôi vốn rất thận trọng; khi tôi thấy các con số trên bảng điện tử của thị trường chứng khoán giảm một điểm, rồi hai điểm, rồi ba điểm, trái tim tôi dường như ngừng đập. Tôi thực sự lo sợ!
Chính bởi nỗi lo sợ ấy, cuối cùng tôi đã rút ra một vài nguyên tắc làm việc cho bản thân. Một khi đã chơi bạc, mối quan tâm chính của tôi là phải giảm thiểu thiệt
hại đến mức tối thiểu có thể.
Nhưng nguyên tắc này chỉ để dự đoán về những điều đã không xảy ra từ lâu. Khi bắt đầu, tôi nắm bắt được rất nhiều cơ hội. Vậy nhưng điều tồi tệ nhất ở đây là, tôi nắm bắt lấy chúng mà không hề biết rằng tôi đang đánh bạc. Tôi khởi đầu với những ý nghĩ mới lạ về thị trường chứng khoán, và với một sự tự tin đến mức thái quá - điều mà tôi cần phải thay đổi trước khi có thể bắt đầu học bất cứ điều gì.
Chuyến phiêu lưu đầu tiên của tôi trên thị trường chứng khoán là hoàn toàn tình cờ,
không phải ở Phố Wall mà ở tận Canada. Tôi được đề nghị mua một số cổ phiếu của một công ty khai thác mỏ của Canada trong một vụ thỏa thuận thuê mướn không bình thường. Số cổ phiếu tôi có là tiền công tôi được trả cho màn vũ đạo của mình tại Toronto thay vì trả tôi bằng tiền mặt. Tôi không chú ý lắm đến thỏa thuận này vì khi đó tôi đang khiêu vũ tại khu phố Latin ở New York và còn một số việc khác nữa. Thế nhưng, tôi vẫn mua những cổ phiếu mà người ta mời, và thật là ngạc nhiên, tôi trở thành chủ sở hữu của số cổ phiếu trị giá 3 nghìn đô-la của
một công ty có tên là BRILUND.
BRILUND? Tên công ty nghe giống như một hãng chuyên sản xuất thiết bị làmsạch nhà bếp đời mới vậy. Tôi không mấy tin tưởng vào chúng. Vì vậy, tôi đặt chúng sang một bên và thậm chí là quên bẵng đi khá lâu, bởi lẽ tôi rất bận rộn với chuyến lưu diễn ở Mandrid và một vài nơi khác nữa.
Thế rồi, một lần do tính tò mò lúc nhàn rỗi tôi đọc mục thị trường chứng khoán trên một tờ báo, và tôi đã thực sự choáng váng. Dòng chữ về BRILUND đập vào
mắt tôi. Tôi đã mua chúng chỉ với giá 50 cent một cổ phiếu. Thế nhưng, theo tờ báo đó, giá của nó hiện đã là 1,9 đô-la! Phải mất một lúc tôi mới dám tin chắc rằng đây không phải là lỗi in ấn của tờ báo. Giá cổ phiếu của BRILUND - một công ty mà bạn có thể hiểu nhầm là chuyên kinh doanh xà phòng bột, nhưng thực tế nó đang thực hiện một số dự án khai thác mỏ không mấy khả quan ở Canada, đã tăng lên gần 4 lần!
Tôi đã bán những cổ phiếu này ngay lập tức. Bằng phép mầu nào đó, 3 nghìn đô-
la ban đầu của tôi đã tăng lên thành hơn 11 nghìn đô-la. Và đúng như bạn có thể dự đoán, tôi đã bị cuốn hút thực sự. Và từ giờ phút đó, tôi trở thành một tay chơi cổ phiếu thực thụ. Rút ra bài học kinh nghiệm từ vụ BRILUND, với tôi, thị trường chứng khoán thực sự giống như một con đường trải đầy hoa hồng đối với những ai muốn trở thành triệu phú.
Tôi thấy mình giống như một anh chàng lạc trong một bí mật lớn. Tôi thấy mình tràn đầy tự tin và sức mạnh. Không có ai nói với tôi về cổ phiếu cũng như thị
trường chứng khoán, nhưng giờ đây tôi đã biết về sự tồn tại của chúng, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng mình đã tìm thấy chìa khóa dẫn đến sự giàu sang. Vấn đề bây giờ chỉ là làm sao để kiếm được một người môi giới đáng tin cậy, chọn được loại cổ phiếu có giá trị, và rất có thể những gì mà tôi đã có được với cổ phiếu BRILUND sẽ được lặp đi lặp lại.
Tại sao mọi người lại không tham gia vào cái phát minh tuyệt vời - thị trường cổ phiếu này. Ồ đó chỉ là vấn đề của họ mà thôi, tôi không quan tâm. Tôi bắt đầu
tìm kiếm những loại cổ phiếu có giá trị khác. Tìm ở đâu? Chắc chắn là những người giàu có phải biết chứ, và vì tôi làm việc tại các câu lạc bộ đêm nên thường xuyên được tiếp xúc với các nhân vật giàu có, tôi có thể hỏi họ lắm chứ - và tôi đã làm như vậy.
Ai cũng có những mánh khóe riêng, có những nguồn tin riêng, có hiểu biết riêng, và có một loại cổ phiếu yêu thích - loại cổ phiếu chắc chắn sẽ tăng giá. Dường như sự tồn tại của thị trường chứng khoán không phải là một bí mật được cất
giấu cẩn thận. Nhưng khi tôi bắt đầu sử dụng một vài mánh nhỏ mà tôi đã học được với khoản tiền riêng của mình (khoản tiền công mà BRILUND đã trả), tôi mới lờ mờ nhận ra rằng con đường dẫn tới sự giàu sang trên thị trường chứng khoán không hoàn toàn rộng mở như mọi người thấy.
Năm tiếp theo, tôi tiến hành hàng tá vụ đầu tư, cố gắng kiếm tìm một BRILUND thành công khác. Tôi bắt đầu tại thị trường nhỏ ở Canada, và có vẻ là tôi nên ở lại đó, cố gắng tìm cách lặp lại vụ đầu
tư phi thường ban đầu. Thế nhưng, kết quả là con số không. Tôi nhận ra rằng mình đang đi ngược lại khẩu hiệu của giới kinh doanh “năng nhặt chặt bị”, - vì tôi đã ném tiền của mình vào hàng nghìn loại cổ phiếu của những tên tuổi không mấy tin tưởng như công ty dầu và khí đốt OLD SMOKEY, REXPAR, KAYRAND MINES.
Những gì tôi trải qua vào lúc đó chắc hẳn sẽ làm nhụt chí bất kỳ ai, trừ số ít những người mới nhập môn lạc quan nhất: mua với 19 cent, bán ra với 10
cent..., mua với 12 cent, bán với 8 cent..., mua vào 130 cent, bán ra với 110 cent... Khi đã cân đối được tài khoản môi giới của mình, tôi nhận ra rằng, trung bình mỗi tuần tôi mất đi 100 đô-la, rồi dần dần từng đồng từng đồng một của tôi lại ra đi - mà tôi còn phải mất thêm một khoản để trả phí môi giới trong các vụ đầu tư thua lỗ đó nữa chứ.
Các vụ đầu tư mua vào của tôi thực sự rất lung tung không có cơ sở. Tôi giống như một con bạc tập tễnh học chơi, bị nhử mồi bằng một ván thắng nhỏ, để rồi
sau đó cứ lao vào với mong muốn vận may sẽ quay lại. Thật là kỳ lạ, tôi hoàn toàn không hề mất tinh thần. Tôi chắc một điều rằng vấn đề của tôi chỉ đơn giản là phải tìm ra chìa khóa, và từ đó, tôi sẽ tìm ra bí mật giúp tôi mua vào, bán ra rồi thu những khoản lãi lớn trên thị trường chứng khoán.
Và hiển nhiên, tôi phải đi một chặng đường dài để đến được với những điều mình tìm kiếm. Thậm chí ban đầu, vấn đề trả phí môi giới đơn giản đối với tôi cũng hoàn toàn là một vấn đề xa lạ, hóc
búa như tôi sẽ trình bày ở phần sau.
Dễ dàng giành được thành công với cổ phiếu của BRILUND, tôi bắt đầu theo dõi cổ phiếu của một công ty khai thác mỏ khác. Một người nào đó gợi ý cho tôi về công ty khai thác KAYRAND. Khai thác gì đây? Tiền, tôi hy vọng như vậy. Tôi không có hiểu biết những gì về tên tuổi công ty này nhưng cổ phiếu của nó chỉ có 10 cent một cổ phiếu, chắc chắn nghe có vẻ rất hời. Để kiếm được tiền nhanh hơn, kiếm lời lớn hơn, tôi quyết định mua 10 nghìn cổ phiếu của hãng này
và tôi phải trả 1.000 đô-la.
Một nghìn đô-la thực sự là một khoản tiền lớn đối với tôi, kể cả khi tôi đã có vài nghìn đô-la sau vận may với cổ phiếu của BRILUND. Đây là một ván bài và tôi theo dõi KAYRAN MINES với cảm xúc mãnh liệt của một giáo viên dám dặt cược tỷ lệ 1 ăn 30 ngay trong lần đầu tiên đến trường đua.
Tôi đinh ninh rằng, KAYRAND MINES chắc chắn đang khai thác một cái gì đó. Trong vòng 24 giờ đồng hồ, giá cổ phiếu của nó đã tăng lên tới 11 cent.
Nếu như lúc này tôi đi xa đâu đó thay vì ở ngay gần trung tâm chứng khoán, thì có lẽ tôi đã để mặc cho nó đến đâu thì đến, và cầu trời cho tôi lặp lại vụ BRILUND một lần nữa trong khi tôi tìm kiếm hướng đi khác. Giờ đây, khi ngày càng tiếp cận thị trường nhiều hơn, tôi mới nhận ra rằng, tôi không có đủ tố chất của một con bạc - tôi vốn quá dè dặt - và như vậy sẽ chẳng thể theo đuổi một cơ hội lâu dài. Hoàn toàn tự nhiên, những lập luận của tôi lại theo đúng một thành ngữ trên Phố Wall: “Bạn sẽ luôn tìm thấy các khoản lợi nhuận của mình.”
Bạn đừng tin vào điều đó!
Và đây là phép toán nhẩm của tôi trong trường hợp cổ phiếu của KAYRAND MINES:
Mua vào 10 nghìn cổ phiếu với giá 10 cent mỗi cổ phiếu, hết 1.000 đô-la
Bán ra 10 nghìn cổ phiếu
với giá 11 cent mỗi cổ phiếu, được 1.100 đô-la
Lời: 100 đô-la
Thế nhưng, tôi đã bỏ sót một chi tiết tuy nhỏ song lại rất quan trọng, đó là khoản phí môi giới. Và rồi người môi giới của tôi đã thông báo cho tôi một tin chẳng tốt lành gì. Tiền phí tôi phải trả cho anh ta sau khi mua 10 nghìn cổ phiếu của KAYRAND MINES là 50 đô-la. Ôi trời,
vâng, và tôi phải trả anh ta thêm 50 đô-la nữa tiền phí để bán 10 nghìn cổ phiếu đó.
Sau khi trừ đi hai khoản phí trên, cộng thêm một khoản thuế nhỏ nữa, và như vậy, tôi gần như - tất nhiên là không đến nỗi - khánh kiệt, chỉ vì “muốn kiếm chút lời”.
Thực sự mà nói, chỉ mỗi mình anh chàng môi giới của tôi kiếm được lời trong vụ đó với 100 đô-la mà chỉ phải thực hiện hai cuộc điện thoại giao dịch. Anh ta chẳng mất mát gì cả, bởi lẽ những khách
hàng như tôi sẽ phải trả tiền công cho anh ta.
Tôi mất một khoảng thời gian khá dài mới tìm được cách để không mất phí tổn đều đặn này từ nguồn vốn của mình, đó là những phí tổn nhỏ nhưng liên tục bao gồm phí môi giới, thuế chuyển khoản... trong rất nhiều các vụ giao dịch nhỏ của tôi với những khoản lời khiêm tốn (hay là những thiệt hại nhỏ).
Thậm chí sau khi đã chuyển phạm vi hoạt động tới New York và Phố Wall (Tuyệt vời! giai đoạn thịnh vượng cuối cùng
cũng đến!), tôi tiếp tục tham gia rồi lại rút lui khỏi thị trường, tựa như một ngôi sao biểu diễn ở rạp xiếc nhỏ. Và tất nhiên, mỗi một lần biểu diễn, tôi lại nhận được tràng vỗ tay tuy dè dặt song hoàn toàn chân thành từ người môi giới của mình, anh chàng có mọi lý lẽ khả thi để tôi chấp nhận.
Bản báo cáo vào tháng tháng 7 năm1954 của tôi, chỉ một năm rưỡi sau vụ mạo hiểm với cổ phiếu của KAYRAND MINES, đã chỉ ra những vấn đề khó khăn mà tôi tiếp tục phải đối mặt khi muốn lái
sự nghiệp của mình theo hướng đầu cơ không chuyên ở Phố Wall. Bản báo cáo đã đưa ra số lượng mua vào và lượng bán ra sau đó của cổ phiếu thuộc 4 tập đoàn lớn sau:
ĐÀI TRUYỀN HÌNH TRUNG ƯƠNG HOA KỲ ĐƯỜNG SẮT TRUNG TÂM NEW YORK TỔNG CÔNG TY VẬT LIỆU CHỊU LỬA HÀNG KHÔNG HOA KỲ
Cổ phiếu của hai tập đoàn đầu tiên lên được khoảng gần một điểm, và tôi đã bán ngay để thu lời nhanh hơn.
Cổ phiếu của hai tập đoàn còn lại có xu hướng giảm nhẹ, và tôi cũng bán ngay lập tức, đề phòng trường hợp chúng tiếp tục giảm nữa, và nếu vậy tôi sẽ thiệt hại khá lớn.
Cả bốn vụ giao dịch này cộng lại tiêu tốn của tôi tất cả là 19.311 đô-la. Cho đến giờ phút này, tôi đã lún sâu vào thị trường với số tiền lớn hơn hẳn con số 3 nghìn đô-la ban đầu, khi vô tình mua các cổ phiếu của BRILUND và vụ đó đã mang về cho khoản lợi nhuận gần 8 nghìn đô-la, khiến tôi tưởng như đã tìm được
đường đến đỉnh cao giàu sang. Nhưng sự thật là giờ đây, tôi đã tiêu tốn hết sạch số tiền mình có, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Tổng số tiền chi cho bốn loại cổ phiếu lên đến 19.311 đô-la. Sau khi hoàn thành bản cân đối cộng và trừ lời lãi, tôi nhận ra rằng, tổng số lãi ròng của tôi chỉ vẻn vẹn có 1,89 đô-la!
Trong khi đó, anh chàng môi giới cho tôi lại bỏ túi tổng cộng số tiền phí môi giới lên đến 236 đô-la.
Thôi vậy, lãi tất nhiên lúc nào cũng hơn lỗ, mặc dù chỉ lãi có 1,89 đô-la mà thôi.
Thực tế là, tôi đang ngày càng lún sâu vào ván bài này, bởi vì giờ đây, tôi mới học được bài học quan trọng đầu tiên về thị trường chứng khoán. Đó chính là nguyên tắc hoạt động của tôi từ đó đến nay, tất cả gói gọn trong vài từ ngắn ngủi!
Bịt ngay các lỗ rò!
Nói cách khác, những từ đó có nghĩa là phải giảm các khoản phí trả cho môi giới bằng cách tránh ngay những kiểu đầu tư như “gây tai nạn rồi bỏ trốn”, hay những vụ đầu tư mang lại những khoản lời nhỏ mà chỉ các thành viên của sàn giao dịch
chứng khoán - những người không phải trả bất kỳ một khoản phí môi giới nào, mới có khả năng áp dụng.
Tôi vừa nghe một nhà đầu tư trên sàn giao dịch Hoa Kỳ nói về việc “lấy 1 phần 8 ở chỗ này, rồi lấy thêm 1 phần 8 nữa ở chỗ kia”, nghĩa là 1/8 của một điểm, tương đương với 25 cent một cổ phiếu từ các vụ giao dịch mua vào và bán ra ngắn hạn đối với số lượng nhỏ các cổ phiếu giá thấp.
Vậy nhưng chỉ các thành viên của các sàn giao dịch mới có thể làm như vậy.
Tôi thì không thể. Tôi phải trả một khoản phí môi giới khi mua vào, và một khoản môi giới nữa khi bán ra. Thêm vào đó, tôi còn phải đóng các khoản thuế chuyển khoản. Nếu tôi mua bán các “lô lẻ” thì vẫn sẽ có các nhân viên môi giới lô lẻ với mức phí là 1/8 hay 1/4 lợi nhuận từ cổ phiếu của tôi dựa trên giá được kê khai trên bảng. Tất cả đều sẽ được cộng vào. Tôi càng tham gia vào nhiều vụ giao dịch thì anh chàng môi giới cho tôi sẽ càng vui mừng - và tất nhiên, số tiền tôi kiếm được sẽ lại càng ít đi, dù rằng thị trường có đang ở trong giai đoạn
tăng giá tốt nhất đi chăng nữa. Dù rằng khoản phí môi giới không cao lắm - theo sàn giao dịch New York thì trung bình chỉ khoảng 1%, song nó lại là một trong các yếu tố khiến tôi có thể bị “lột sạch túi” và trên thị trường chứng khoán, điều này diễn ra còn nhanh hơn tôi đã tưởng tượng.
Tôi vẫn luôn nói rằng thị trường chứng khoán nói chung giống như một trò may rủi, một sòng bạc chính hiệu. Đây không phải là cách sử dụng từ ngữ để hấp dẫn người đọc đơn thuần, đó cũng không phải
là một hình tượng ngôn từ. Bất cứ một người đọc bình thường nào cũng có thể nói rằng, vâng, chắc chắn rồi, chúng tôi luôn hiểu rõ một điều rằng, luôn có các yếu tố rủi ro khi mua các cổ phiếu, thậmchí cả các chuyên gia môi giới cũng phải thừa nhận điều này.
Nhưng không - cái tôi đề cập đến không chỉ là các yếu tố rủi ro. Điều tôi thực sự muốn nói đến là “đánh bạc” với đầy đủ nghĩa đen và nghĩa bóng của nó - đó chính là thứ cờ bạc mà bạn vẫn luôn thấy ở Las Vegas. Ở đó, bạn đặt cược vào sự
thay đổi của các lá bài, sự di chuyển của những viên bi màu ngà quay xung quanh các vòng quay, hay là khi bạn đặt 5 đô-la hay 50 đô-la vào các bàn chơi xóc đĩa.
Ở Las Vegas, ông chủ của các sòng bạc luôn có những khoản lãi trực tiếp từ mỗi vòng quay của các bàn chơi hay từ mỗi lá bài. Họ luôn đặt cược ngược với bạn. Tất nhiên xác suất thắng bạc lớn hơn luôn thuộc về phía họ; nếu không họ đã phá sản từ lâu rồi.
Và đây là những gì tôi khám phá ra. Thị trường chứng khoán không khác mấy so
với các sòng bạc, ngoại trừ một đặc điểm riêng vô cùng quan trọng: chủ nhân của sòng bạc Phố Wall chính là các nhân viên môi giới, các hãng môi giới của thị trường chứng khoán. Và mặc dù một vài người trong số họ cũng tham gia đặt cược ngược lại so với cộng đồng các nhà đầu tư, song hầu hết các khoản lời của cộng đồng môi giới lại đến từ những khoản phí môi giới chứ không phải từ việc “đánh bạc”.
Các chi phí môi giới là lý do cơ bản cho sự tồn tại của các sàn giao dịch chứng
khoán có tổ chức chặt chẽ; nếu không có những khoản phí môi giới này, sòng bạc Phố Wall sẽ không tồn tại.
Tôi đã sớm nhận ra quy luật này của ván bài, và tôi không hề bị lừa bịp bởi những lời tuyên truyền cho “các vụ đầu tư hoàn hảo và an toàn”, “cổ phần trong các doanh nghiệp Hoa Kỳ”, và những điều tương tự được các phóng viên, nhà báo, tác giả sách... nhắc đến thường xuyên và liên tục.
Tôi phải công nhận rằng, những anh chàng cơ hội ở đại lộ Madison (tượng