🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Patton - Danh Tướng Thiết Giáp Hoa Kỳ Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn PATTON - DANH TƯỚNG THIẾT GIÁP HOA KỲ —★— Tác giả: Alan Axelrod Người dịch:Nguyễn Tư Thắng Phát hành : Văn Lang Nhà xuất bản Hồng Đức 5/2017 ebook©vctvegroup 16-10-2018 https://thuviensach.vn LỜI TỰA CỦA TƯỚNG WESLEY K. CLARK Thế giới, cũng như cách con người tiến hành chiến tranh, đã thay đổi đáng kể từ thời đại của Tướng George Patton. Cuộc chiến giành quyền bá chủ dẫn tới Thế chiến I vẫn tiếp diễn khi nước Đức nỗ lực để tìm cách hồi sinh và phục thù trong Thế chiến II. Nhưng sự ra đời của bom nguyên tử đã đánh dấu khởi đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh. Những rủi ro của việc leo thang hạt nhân trở nên quá đáng sợ đến độ cuộc chiến giành quyền thống trị thế giới được tiến hành phần lớn bởi sự lẩn tránh và các cuộc chiến ủy nhiệm tại những vùng bên lề của nền văn minh phương Tây. Nhưng một mặt, thế giới không còn đại chiến nữa, thì mặt khác, Hoa Kỳ tham gia vào hết hành động này đến hành động khác, một số khó khăn và đẫm máu, còn số khác bằng sự ngụy trang và diễn tập quân sự. Tuy nhiên, đây là những chiến dịch mà Patton chắc chắn sẽ nhận ra là mang dấu ấn của mình - những lực lượng với xe bọc thép và sự hỗ trợ của không quân thường tham gia vào trận chiến dữ dội trên bộ. Thực tế, có những trận đánh ở bán đảo Triều Tiên - trận phá vòng vây ở tỉnh Pusan - và tại Việt Nam - cuộc xâm nhập vào Campuchia - có lẽ đã được rút ra từ kế sách của Patton. Quyền lợi quân sự của Hoa Kỳ trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài 40 năm, ở nhiều góc cạnh, là di sản không chỉ của thế hệ Patton, mà còn là của chính Patton. Tầm nhìn chiến thuật về chiến tranh cơ động của Patton ảnh hưỏng nhiều lên quân đội Hoa Kỳ sau Thế chiến II. Những thuộc cấp và gia đình ông vẫn nhớ tới không chỉ uy tín mà còn những nguyên tắc và tinh thần của ông. Khi quân đội Mỹ chế tạo chiếc chiến xa thời hậu chiến đầu tiên, nó đã được gắn tên Patton. Và nhiều căn cứ quân sự xây dựng những toà sảnh mang tên Patton, doanh trại mang tên Patton, hoặc có cả một bảo tàng Patton. Tinh thần của chiến tranh cơ động và cấp tập (maneuver warfare), sự kết hợp sử dụng các lực lượng chiến đấu, bao gồm không lực, như đã được chỉ dẫn bởi Patton, đã trở thành chuẩn mực của học thuyết chiến https://thuviensach.vn tranh. Chê độ huấn luyện khắc nghiệt của Patton trở thành chất liệu cho huyền thoại, với toàn bộ một thế hệ sĩ quan cam kết sẽ mang theo ngọn đuốc của ông. Là một trong những vị tư lệnh vĩ đại nhất của quân đội Mỹ, ông được biết đến nhiều nhất qua năng lực chỉ đạo đơn vị thiết giáp xung kích của Tập đoàn quân số 3 trong trận Bastogne, trong suốt chiến dịch mang tên Battle of Bulge (Trận Lỗ hổng). Trong những điển cứu về chiến trận và chỉ huy ở Trường Thiết giáp Fort Knox, Patton được coi như một danh nhân. Tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ, có đến 50 lớp sĩ quan West Point hàng ngày đi qua bức tượng truyền cảm hứng của Patton đặt trước thư viện. Với ấn tượng về những chiến công lừng lẫy, họ mơ ước rằng mình sẽ có cơ hội và sự can đảm để sống theo di sản của ông. Sau thập niên khó khăn của cuộc chiến Việt Nam, các nhà lãnh đạo quân đội Mỹ quay trở lại những nền tảng mà Patton đã xây dựng. Chỉ cách vài dặm nơi mà Patton thành lập trại huấn luyện vào năm 1942, quân đội Mỹ đã xây dựng một Trung tâm Huấn luyện Quốc gia, chuyên dạy nghệ thuật kết hợp lực lượng và vận động chiến. Tôi có vinh dự được phục vụ ở đó 2 lần, lần sau cùng trong vai trò chỉ huy Trung tâm. Tại Trung tâm, chúng tôi đảm bảo rằng, theo đúng phong cách của Patton, quân đội dạy những kỹ thuật chiến đấu tốt hơn và phát triển những nhu cầu đối với trang thiết bị tốt hơn. Kết quả là một quân đội được huấn luyện, biến đổi, và sẵn sàng chiến đấu. Dĩ nhiên là công nghệ hiện đã rất tiến bộ. Máy bay không người lái bay trên cao và gửi những bức hình xuống căn cứ dưới mặt đất, xe tăng thông tin liên lạc bằng Internet, và với công nghệ hồng ngoại, chúng ta chiến thắng bóng đêm. Nhưng có lẽ Patton sẽ xem tất cả những thứ này như là sự tiến hóa tự nhiên của nghệ thuật chiến tranh theo hướng ông đã thiết kế. Sẽ là sai lầm nếu giới hạn tầm ảnh hưởng của Patton vào một dạng thức chiến tranh. Trên thực tế, cũng chính tính cách của ông là một thỏi nam châm thu hút đội ngũ sĩ quan. Cung cách “đánh nơi được bảo đánh, chiến thắng nơi mình đánh” của ông đã ghi đậm nét đạo đức nghề nghiệp mà https://thuviensach.vn nhiều sĩ quan đã và đang làm theo, ông là một chiến binh chuyên nghiệp hoàn hảo, cam kết đào luyện nghề nghiệp của mình, trở thành “bậc thầy kiếm thuật” (master of sword)[1]. Dù vẻ ngoài đầy tự tin, Patton vẫn có nhiều sự hoài nghi. Nhưng chỉ những kẻ ngớ ngẩn mới luôn chắc chắn trong lãnh đạo và chiến tranh, hai hoạt động khó tiên đoán nhất của nhân loại, sẵn sàng thừa nhận sự hoài nghi của mình có lẽ đã là một yếu tố chính trong sự trưỏng thành nghề nghiệp không ngừng của ông, như bạn sẽ đọc trong các trang sau, Patton có thể nhìn thấy “phía bên kia vách đá”, và biết tránh những thất bại thấy trước. Nhiều người tại West Point thường cố gắng để tạo ra một lối suy nghĩ “hơn cả Patton” (Patton-plus) - gan lì trong chiến đấu, mà còn có thể giải quyết những phức tạp của chiến lược và kỹ năng quản lý các vấn đề nhà nước. Ngày nay, trước những thách thức mà chúng ta đốì mặt trong các chiến dịch gìn giữ hoà bình, chúng ta cần tới lối suy nghĩ “hơn cả Patton” hơn bao giờ hết. Patton là bậc thầy của truyền thông (ít nhất là hầu như mọi lúc), như các bạn sẽ đọc thấy trong cuốn sách của Alan Axelrod. Tuy nhiên, đối với sự coi trọng và sử dụng truyền thông, ông cũng khám phá ra rằng nó là một con dao hai lưỡi - sự thông tin ra công chúng có thể tạo nên một sự nghiệp nhưng cũng có thể chấm dứt nó. Không ai hoài nghi rằng Patton sẽ thất vọng với cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố và gìn giữ hoà bình. Trong các trang sách, Axelrod mô tả những khó khăn của Patton ở Đức thời hậu chiến, những khó khăn được phản ánh trong sứ mệnh gìn giữ hoà bình hiện tại của chúng ta. Nhưng Patton đã không ngừng nghiên cứu làm cách nào tốt nhất để hoàn thành mỗi sứ mệnh. Và chính lối suy nghĩ ấy, hơn bất kỳ những thứ khác, là điều mà Patton đã trao tặng cho các nhà lãnh đạo ngày nay. Ông là một người chiến thắng, một người xây dựng đội ngũ và tinh thần chiến binh, có khả năng thích nghi nhanh chóng và biết cách làm chủ mọi thách thức. Ngày nay, chúng ta cần các nhà lãnh đạo như vậy. https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU MỆNH LỆNH VÀ SỰ TRANH CÃI Thống chế Gerd von Rundstedt là một tư lệnh quân Đức xuất sắc trong Thế chiến II, bị thảm bại trước Tập đoàn quân số 3 của Tướng George S. Patton trong cuộc tấn công táo bạo có tên gọi là trận Lỗ hổng “The Bulge” tại khu rừng Ardennes của Pháp, sát biên giới Bỉ và cách Đức không xa. Sau cuộc chiến, khi được hỏi vị tướng chỉ huy người Mỹ nào gây ấn tượng nhất, Rundstedt không do dự: “Patton là người giỏi nhất của các ngài”. Trong một lời ca ngợi thành thật đến không ngờ, Nguyên soái Joseph Stalin tuyên bố: “Hồng quân không thể hình dung và chắc chắn cũng không thể thực hiện cuộc tiến quân như của Tập đoàn quân số 3 băng qua nước Pháp”. Người dân Mỹ cũng hết lời ca ngợi ông. Thuộc cấp của Tướng Patton, Lucian Truscott, một tư lệnh kỵ binh già điềm tĩnh lạnh lùng từng tranh cãi với vị chỉ huy của mình trong những chiến dịch quân sự ở Sicily, đã gọi ông “có lẽ là người đa dạng nhất, vì ông chắc chắn là người lãnh đạo chiến dịch xuất sắc nhất của Thế chiến II”. Còn đối với các quân nhân Mỹ thì nhiều người sẽ không yêu thích vị tướng này. Biệt danh có phần tự đặt của Patton, “Old Blood and Guts”[2], được nghe gọi ở khắp nơi trong suốt cuộc chiến, và nhiều người phàn nàn, với sự châm biếm tiêu biểu của lính Mỹ, “Vâng đúng, sắt của ông ta và máu của chúng tôi”. Tuy nhiên, với tư cách một người đàn ông, những người lính của Tập đoàn quân số 3 Hoa Kỳ lại tỏ ra rất sốc trước tin tướng Patton qua đời vào ngày 21 tháng 12, năm 1945. Như một binh nhì viết cho bố mẹ anh ta, mọi chàng trai mặc quân phục đều “than khóc cho... một trong những người đàn ông vĩ đại nhất từng https://thuviensach.vn có mặt trên cõi đời này... Hầu hết thế giới hình dung ông như là một tướng lĩnh. Tuy nhiên, những người phục vụ dưới quyền ông biết ông là một nhà lãnh đạo được binh sĩ yêu mến. Con tự hào nói rằng con đã phục vụ dưới quyền ông trong Tập đoàn quân số 3. Một số người Mỹ khác có những cảm xúc rất khác. Nhà phê bình và sử gia văn hóa Dwight Macdonald, người từng phục vụ trong Thế chiến II, gọi Patton là “một kẻ lớn tiếng hung hăng, một nhà quí tộc có đầu óc phát-xít... tàn nhẫn và lỗ mãng... So với những người bình thường, Tướng Patton quả thực là điên rồ”. Andy Rooney, một phóng viên chiến trường trẻ mà ngày nay được biết tới nhiều nhất trong vai trò người bình luận chương trình 60 phút của đài truyền hình CBS, thẳng thắn nói rằng anh ta “ghét Patton và mọi thứ trong cách sống của ông. Có lẽ là vì chúng ta có quá ít người lính như ông để chiến thắng cuộc chiến... Patton là loại sĩ quan mà những thanh niên nhập ngũ thời chiến của chúng ta còn khôn ngoan hơn”. Dễ dàng tìm thấy vô số những lời ca ngợi George S. Patton III[3], và cũng dễ dàng thấy nhiều lời buộc tội nhằm vào ông. Những gì không thể tìm thấy là những thứ nằm ở phần giữa. Dường như không có một nhận xét chừng mực, chưa nói là khách quan, về vị tướng này. Lý do nào khiến các ý kiến nhận xét về Patton phân cực quá mạnh mẽ như vậy và thực ra, tại sao ông tiếp tục làm như vậy? Các sử gia, các tướng lĩnh phòng trà, và các binh sĩ chuyên nghiệp thường mổ xẻ và tranh luận về những chiến dịch của Napoleon, Grant, và Lee, khen hoặc chê, dựa trên những sách lược và cách điều binh khiển tướng. Điều này không đúng với trường hợp của Patton. Không ai tranh cãi về những thành quả mà ông đạt được. Patton là một nhà tiên phong, người cổ vũ, và biểu tượng rất hiệu quả của chiến tranh cơ giới hóa hiện đại cũng như học thuyết về tấn công cơ động cao, đã giúp các lực lượng bộ binh Mỹ chiến thắng đạo quân đã sáng tạo ra cách đánh ồ ạt chớp nhoáng (blitzkrieg). Ngay trước khi quân đội Mỹ tham gia vào Thế chiến II, bước vào một cuộc chiến tham vọng nhất và lớn lao nhất thì Patton đã được công nhận rộng rãi là vị tướng giỏi so với các https://thuviensach.vn đồng nghiệp của ông. Sau khi được giao quyền lập ra trung tâm huấn luyện chiến tranh sa mạc bên ngoài thành phố Indio, California, Patton đã trở thành thế hệ chiến binh sa mạc người Mỹ đầu tiên. Khi Quân đoàn 2 Hoa Kỳ, trong thử thách lớn đầu tiên chống lại quân Đức, bị đánh bại nhục nhã ở đèo Kasserine, Tunisia, thì Tướng Dwight D. Eisenhower, tư lệnh quân đội Mỹ ở Bắc Phi, cho gọi Patton. Trong vòng mấy ngày, ông đã biến lực lượng Mỹ vừa bị đánh tan tành thành hạt nhân của một đội quân chiến thắng để rồi đánh bại Quân đoàn châu Phi của Đức lúc đó rất được ca tụng. Khi lực lượng Anh-Mỹ rút khỏi Bắc Phi để chiếm Sicily, Patton đơn phương thay đổi vai trò thuộc quyền mà Tập đoàn quân số 7 của ông được giao và với tốc độ tia chớp, chiếm Palermo và rồi ra tay trước vị tướng người Anh Bernard Law Montgomery để chinh phục Messina. Sau khi đổ bộ lên Normandy vào Ngày D, Patton được giao nhiệm vụ tư lệnh Tập đoàn quân số 3 và ông đã mở rộng chiến dịch Rắn hổ mang - là kế hoạch khiêm tốn của tướng Omar Bradley nhằm phá vòng vây ở vùng quê Normandy - thành một cuộc tiến quân ngoạn mục và có hiệu quả nhất trong Thế chiến II. Báo cáo chiến quả của Tập đoàn quân số 3, tài liệu chính thức có đoạn mở đầu như sau: “Sau 9 tháng và 8 ngày của chiến dịch, Tập đoàn quân số 3 Hoa Kỳ đã thực hiện được một kỷ lục về những chiến dịch tấn công mà có thể chỉ được đo lường ở những cấp độ cực cao, vì không chỉ những thành tựu của quân đoàn làm kinh ngạc thế giới mà những con số của nó còn thách thức mọi trí tưởng tượng”. Trong suốt thời kỳ ngắn ngủi này, binh sĩ của Patton đã giải phóng hoặc chiếm được 81.522 dặm vuông ở Pháp, 1.010 ở Luxembourg, 156 ở Bỉ, 29.940 ở Đức, 3.485 ở Tiệp Khắc, và 2.103 ở Áo. Quân đoàn 3 đã giải phóng hoặc chiếm giữ khoảng 12.000 thành phố, thị trấn, và làng mạc, 27 trong số này có nhiều hơn 50.000 dân. Nó đã bắt giữ 1.280.688 tù binh chiến tranh từ ngày 1 tháng 8 năm 1944 đến ngày 13 tháng 5 năm 1945. Nó đã tiêu diệt 47.500 và làm bị thương 115.700 quân địch. Cũng trong thời kỳ này, các binh sĩ hậu cần của Tập đoàn quân số 3 đã vận chuyển bằng tàu hỏa, xe tải, và hàng không 1.234.529 tấn hàng tiếp tế, trong đó có 533.825 tấn vũ khí. Công binh của https://thuviensach.vn nó đã xây dựng 2.498 cây cầu - dài khoảng 8,5 dặm - sửa chữa 2.240 dặm đường bộ và 2.092 dặm đường xe lửa. Các đơn vị thông tin của nó đã kéo 3.747 dặm đường dây liên lạc và 36.338 dặm cáp ngầm. Các nhân viên tổng đài của nó đã xử lý trung bình 13.986 cuộc gọi mỗi ngày. Các xe cứu thương của nó đã di tản 269.187 bệnh nhân. Các sĩ quan và binh lính của nó đã giải quyết những sự vụ dân sự ở Bỉ, Tiệp Khắc, Pháp, và Luxembourg, cũng như cung cấp các chính quyền quân sự cho nhiều phần lãnh thổ của Đức và Áo, cuối cùng là chăm sóc đời sống và sức khoẻ của khoảng 30 triệu người bao gồm cả đàn ông, phụ nữ, và trẻ em. Giữa lúc Đồng minh tiến quân ào ạt về phía đông, Thông chế von Rundstedt đã tung ra cuộc tấn công Ardennes, đánh vào phòng tuyến Mỹ tại điểm yếu nhất của nó và đe dọa chia tách các lực lượng Hoa Kỳ thành 2 phần bằng một cuộc tiến quân tổng lực nhắm vào khu cảng Antwerp do phe Đồng minh chiếm giữ. Patton thực hiện một chiến thuật không tưởng, kể cả về công tác hậu cần và sức chịu đựng của con người khi ông quay ngoắt 90° về phía bắc phần lớn đạo quân của mình - những người lính kiệt sức sau 3 tháng liên tục chiến đấu - để rồi tung ra một cuộc phản công táo bạo vào cánh đông nam của quân Đức đang tiến lên. Trận Bulge, lúc đầu là thảm hoạ của phe Đồng minh, được biến thành một chiến thắng của quân Mỹ, đánh gãy lưng quân Đức. Cho dù làm được những điều phí thường như thế, Patton gần như luôn cận kề nguy cơ bị loại bỏ khỏi chức tư lệnh. Đó là một trong nhiều mâu thuẫn xoay quanh người đàn ông này. ông là một sĩ quan kỵ binh thuộc một truyền thống quân sự lãng mạn, là người nắm giữ danh hiệu huy hoàng truyền thống của quân đội Hoa Kỳ mang tên “Master of the Sword” được đặt ra đặc biệt dành cho ông. Tuy nhiên, chính ông là tác nhân kéo quân đội Mỹ thủ cựu và do dự vào những lãnh vực tiên tiến nhất của chiến tranh thiết giáp cơ động. Là con cháu của tầng lớp quí tộc California cổ xưa và thậm chí là Virginia cổ xưa hơn nữa, pha trộn dòng máu New England, Patton vẫn biết cách tạo ra mối quan hệ hài hoà tuyệt vời với binh lính dưới quyền. Tuy là một người phân biệt chủng tộc công khai, ông vẫn dựa chủ https://thuviensach.vn yếu vào những binh sĩ Mỹ gốc Phi, trong khi hầu hết các nhân vật cùng thời ông lại đẩy họ xuống những đơn vị hỗ trợ và phục vụ. Tuy ăn nói báng bổ, nhưng ông là một người vô cùng mộ đạo, tin rằng Chúa đã an bài vai trò của ông trong quân đội. Ông tự nhận là mình có mối quan hệ cá nhân với Chúa, và là người tin vào sự hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Patton bị mắc chứng khó đọc làm trầm trọng thêm những bất an của tuổi thơ ấu và, khi đã trưởng thành, ông bị dằn vặt bởi những biểu hiện hèn nhát tự mình tạo ra. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt ở tuổi trung niên, ông chịu đựng sự phiền muộn sâu sắc và những thời kỳ mà người khác mô tả là chứng quá kích động (ông gọi nó là “dễ nổi cáu”); tuy thế, ông vẫn truyền cảm hứng cho binh sĩ thuộc Tập đoàn quân số 7 và rồi Tập đoàn quân số 3 của mình tới mức tự tin tuyệt đối và chiến thắng không ngừng. Là tư lệnh mặt trận Bắc Phi, và sau đó là tư lệnh tốĩ cao lực lượng Đồng minh ở châu Âu, Dwight David Eisenhower - người mà Patton kết bạn vào năm 1919 khi cả hai đóng quân tại Trại Meade, Maryland - là cấp trên của Patton, mặc dù kém tuổi đời và tuổi quân hơn Patton. Không ai nhận thức một cách đau đớn về những thất bại của Patton hơn là Eisenhower. Với các đồng đội thân thiết, ông bày tỏ nỗi sợ về những gì ông gọi là “sự bất ổn” của Patton. Đối với công chúng, trong những trang viết về ký ức hậu chiến của cuốn Crusade in Europe (Thập tự chinh ở châu Âu), ông viết về “những căng thẳng cảm xúc và bốc đồng” của Patton, nét tính cách dẫn Patton tới những phát biểu gây tổn thương và những câu nói thô tục làm vui một số người nhưng làm đỏ mặt một số người khác. Nổi bật nhất là “tính bốc đồng” của Patton khiến ông tát tai 2 người lính đang bị kiệt sức vì các trận chiến (xem Chương 9), và đáp lại, những sự cố đó khiến các chính trị gia, giới truyền thông, và công chúng đòi loại bỏ ngay Patton. Eisenhower đành phải nhượng bộ áp lực của những đòi hỏi đó và thậm chí còn xin ý kiến cấp trên của mình, George C. Marshall, tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ. Marshall chuyển quyền quyết định lại cho Eisenhower. Sau một quãng thời gian tự vấn, Eisenhower viết cho Marshall: “Tôi muốn Patton là một trong những người chỉ huy quân đội của tôi” cho cuộc chiến xâm nhập https://thuviensach.vn sắp tới vào châu Âu. Ông viết: “Với một số loại hành động” thì George S. Patton “là người lính xuất sắc nhất mà đất nước chúng ta từng sản sinh ra”. Tuy nhiên, Eisenhower xem Patton như là một vị anh hùng của bi kịch Hy Lạp - những yếu tố tạo nên sự vĩ đại của ông luôn đe dọa sẽ phá hủy ông. “Sự căng thẳng cảm xúc và tính bốc đồng của ông chính là những phẩm chất đã giúp ông, trong những hoàn cảnh mở, trở thành một chỉ huy kiệt xuất của quân đội. Trong hành quân truy kích và khai thác thời cơ, đòi hỏi phải có một sĩ quan chỉ huy không nhìn thấy gì khác ngoài nhu cầu phải tiến lên phía trước; ông càng thúc đẩy binh sĩ của mình nhiều bao nhiêu thì sẽ càng cứu cuộc sống của họ nhiều bấy nhiêu”. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1943, Eisenhower trả lời bức thư từ June Jenkins Booth. Bà Booth, sau khi đọc thấy Patton tát tai binh sĩ bị mệt vì chiến trận, đã viết rằng bà có một người con đang trong quân ngũ và một người con khác sắp lên đường nhập ngũ vào năm sau, và rằng bà ta hy vọng Patton sẽ không còn giữ chức tư lệnh nữa, nơi ông ta có thể sẽ “lặp lại những cơn thịnh nộ vào một nạn nhân kém may mắn khác”. Bà kêu gọi tư lệnh tốĩ cao, rằng bà sẽ “chết vì lo lắng” nếu con trai bà phải phục vụ dưới quyền một “sĩ quan độc ác, thô bạo, thiếu kiên nhẫn”. Eisenhower trả lời: ... Bà rất đúng trong việc phàn nàn về những hành động như của Patton và cảm thấy tức giận vì chúng lại có thể xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Nhưng ở Sicily, tướng Patton đã cứu hàng ngàn mạng sổng của binh sĩ Mỹ. Nhờ vào sự táo bạo, tốc độ, sự hối thúc của mình, ông đã góp phần vào chiến thắng của chiến dịch bằng cách tiến quân hơn cả những hành động chiến đấu. Ông tự thúc đẩy mình và binh sĩ vượt quá sức chịu đựng của con người, nhưng nhờ vào điều này, ông đã giảm tối đa bi kịch có thể xảy ra ở các gia đình Mỹ. ... Tôi quyết định rằng Patton không nên bị gạt ra khỏi quân đội chúng ta trong cuộc chiến này... cho dù điều dễ dàng hơn cho tôi có lẽ là gửi trả tướng Patton về lại quê nhà. Tôi hy vọng rằng, như mẹ của hai binh sĩ Hoa Kỳ kia, bà sẽ cảm thông. Về căn bản, Eisenhower đang đề nghị mẹ của binh sĩ này hãy làm như ông đã làm: nhắm mắt lại trước mọi việc ngoại trừ thành quả cứu sống https://thuviensach.vn nhiều mạng người mà “vị sĩ quan độc ác, thô bạo, thiếu kiên nhẫn này” đã tạo ra. Đó là đòi hỏi quá quắt đối với một bà mẹ - hoặc đối với tư lệnh tối cao quân đội Đồng minh. Trên thực tế, đó là đòi hỏi quá quắt đốì với một đất nước với truyền thống dân chủ đang gửi đi những đứa con của nó để chiến đấu chống lại thế lực tàn ác và hủy diệt nhất mà thế giới từng chứng kiến. Nhờ Eisenhower tự buộc mình phải chấp nhận Patton với tất cả những vấn đề của Patton, cho nên ngày nay, các lãnh đạo quân sự tiếp tục coi trọng di sản của vị tư lệnh gây nhiều tranh cãi này. Cả hai cuộc chiến tranh lớn mà Patton tham gia, hai cuộc thế chiến, được dựa trên một chiến lược quân sự và sách lược chính trị là nỗ lực tối đa cho chiến thắng toàn diện, nhưng các cuộc chiến theo sau Thế chiến II đều là những cuộc xung đột “giới hạn” bị chi phối bởi nguyên tắc “ngăn chặn”, một nhu cầu phải đạt được thắng lợi mà không kích hoạt một thế chiến thứ ba có tiềm năng hủy diệt toàn bộ nền văn minh. Tuy nhiên, trong phạm vi bối cảnh của chiến tranh có giới hạn, nỗ lực tối đa kết hợp với tốc độ cao, tấn công dữ dội và mạnh mẽ, sự linh hoạt của đáp ứng, và mức độ vận động nhanh nhất có thể là những gì thường được đòi hỏi. Patton đã đặt nền tảng cho những điều này, như được thấy trong cuộc tấn công vào Inchon của Tướng Douglas MacArthur trong cuộc chiến Triều Tiên, việc sử dụng “kỵ binh không vận” trong chiến tranh Việt Nam, tấn công càn quét thiết giáp vận đã hình thành hành động chủ yếu của cuộc chiến vùng Vịnh (Chiến dịch Bão táp Sa mạc) vào năm 1991, và cuộc chạy đua tiến vào Baghdad trong giai đoạn mở đầu của Chiến dịch Iraq năm 2003. Những chiến dịch như thế hình thành nên di sản chiến thuật của George S. Patton III, nhưng không có vị tư lệnh hiện đại nào nghiên cứu danh sách này và nói rằng nó tóm tắt thoả đáng vị trí của Patton trong lịch sử sống động của quân đội Hoa Kỳ. Patton cũng làm lan toả trong quân đội Hoa Kỳ một cam kết chiến thắng thông qua sáng kiến của mỗi người lính và năng lực lãnh đạo cá nhân. Chắc chắn là khía cạnh ấy từ của di sản của ông kém hữu hình hơn là những bài học chiến https://thuviensach.vn thuật, nhưng, đối với những vị tư lệnh của ngày hôm nay và ngày mai, nó thậm chí còn vô cùng cần thiết và bức thiết nữa. Không ai chất vấn những thành quả mà Patton đã tạo ra, nhưng trong thế giới ngày nay, một người được sinh ra và nuôi dưỡng để là một chiến bỉnh luôn thấy mình là đối tượng của những câu hỏi, những hoài nghi, sự xem thường, nỗi lo sợ, thậm chí sự căm ghét. Chúng ta ngưỡng mộ vị tư lệnh Patton, chúng ta say mê huyền thoại Patton, nhưng chúng ta lại khó chấp nhận con người Patton. Cuốn tiểu sử ngắn này muốn tìm một sự thấu hiểu công bằng về một nhân vật vĩ đại với nhiều sai lầm to lớn, có những đóng góp cho học thuyết quân sự hiện đại và lịch sử thế giới hiện đại một cách sâu sắc và sự vĩ đại cũng như sai lầm hé lộ nhiều về thế giới ngày nay - chúng ta đã là ai, chúng ta hiện là ai, và chúng ta đã và đang hình dung chúng ta là ai - như chúng đã hé lộ về George Smith Patton III. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 1 SINH RA ĐỂ LÀ MỘT QUÂN NHÂN George Smith Patton III là một quân nhân bẩm sinh, sinh ngày 11 tháng 11, năm 1885, tại Lake Vineyard, ngôi nhà của gia đình ông ở ngoại ô Los Angeles. Ông được đặt tên theo cha ông, George William Patton (là người đổi tên lót của mình ra Smith để vinh danh cả người cha lẫn người dượng là George Hugh Smith), và ông nội của ông, George Smith Patton. Ông nội ông tốt nghiệp Học viện Quân sự Virginia năm 1852 (từng là một học trò của tướng Liên quân miền Nam Thomas “Stonewall” Jackson) và lên tới chức chỉ huy Trung đoàn 22 Bộ binh Virginia trong cuộc Nội chiến. Bị thương, rồi bị bắt làm tù binh trong chiến dịch Shenandoah, ông được trao đổi, rồi tử trận vào ngày 19 tháng 9, năm 1864, tại Winchester. Tương tự, em trai của ông nội ông, Waller Tazewell Patton, bị thương rồi ngã xuống tại Pickett’s Charge trong trận chiến Gettysburg. George William - con cái nhà Patton gọi ông là Papa - là một người gốc Virginia từng theo học tại Học viện Quân sự Virginia, như cha mình. Khi tuổi đã cao, trong năm 1876, năm kỷ- niệm 100 năm ngày thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, George William dẫn đầu đoàn học viên trong một cuộc diễu hành ở Philadelphia như một sĩ quan cấp cao. Nó là đội hình quân sự miền Nam đầu tiên tham gia diễu binh ở miền Bắc sau cuộc Nội chiến. Papa đã không theo đuổi sự nghiệp quân sự, mà rời Virginia và trở thành một luật sư ở California, nơi ông là luật sư cấp quận của Los Angeles trước khi từ bỏ hoàn toàn công việc này để quản lý đất đai, tài sản và vườn nho của gia đình bên vợ. George Smith Patton III nhớ rõ tên ông bà tổ tiên của mình, cùng với tên họ của nhiều anh chị em quyến thuộc, những người từng nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong Liên quân miền Nam, và trước đó nữa. Ông kỵ nội Robert Patton là cư dân tại Fredericksburg, Virginia năm 1771. Robert Patton cưới https://thuviensach.vn Anne Gordon Mercer, con gái của Hugh Mercer, người từng chiến đấu tại Culloden ở quê hương Scotland xa xưa. Mercer di cư tới Mỹ và chiến đấu trong cuộc chiến chống người Pháp và thổ dân da đỏ, và cuối cùng, là bạn chiến đấu thân thiết của Tướng George Washington trong cuộc Cách mạng Mỹ, ông đã ngã xuống tại trận chiến ở Princeton. George rất cân nhắc trong việc thờ phượng. Được mê hoặc bởi vinh quang chiến tích của tổ tiên bên nội, ông ít chú ý tới gia đình bên bà mẹ Ruth Wilson Patton. Ông cố ngoại của ông, David Wilson, từng là một thiếu tá lục quân trong cuộc Cách mạng Mỹ, một người khai phá Tennessee, và sau này là người phát ngôn của hội đồng vùng Tennessee; ông ngoại ông, Benjamin Davis Wilson làm nghề săn bẫy thú ở Mississippi và New Mexico, thương nhân và chủ cửa tiệm trước khi dọn tới Nam Caliíornia, nơi ông mua một trang trại và làm giàu bằng việc buôn bán da và mỡ động vật. Ông cưới một phụ nữ Mexico có tổ tiên là người Tây Ban Nha và trở thành thẩm phán hoà giải ở San Bernardino, được gọi kính trọng là Don Benito. Sau này, khi dọn tới Los Angeles, ông sống trên một vườn nho nhỏ và ở một nơi mà sau này trở thành nhà ga chung cho nhiều tuyến tầu khác nhau, rồi trở thành một thương nhân giàu có, chủ tiệm rượu, chủ khách sạn, và sở hữu nhiều bất động sản nhỏ. Góa vợ vào năm 1849, Don Benito lấy người nữ quản gia của mình, Margaret Hereford (sau khi chồng bà chết); bà là người sinh ra mẹ của George. Cuối cùng, Wilson đạt được vinh quang ở địa phương, trở thành thị trưởng đầu tiên của Los Angeles và mua một trang trại rộng 14.000 mẫu tây (1 mẫu tây bằng 4.050m2), bao gồm những nơi hiện giờ là Pasadena, San Marino, Alhambra, và San Gabriel. Ông biến trang trại gia đình mình, Lake Vineyard, thành hãng sản xuất rượu vang và rượu mạnh lớn nhất California. Tuy là một nhà khai phá, nhà chính trị và nhà tư bản, nhưng Don Benito đã thất bại trong việc làm mê hoặc đứa cháu ngoại như các vị tổ tiên theo binh nghiệp bên nội đã có thể làm. Tệ hơn nữa, khi Don Benito qua đời, người con rể và đốỉ tác kinh doanh của ông, James de Barth Shorb, người có phong cách sống xa hoa, đã quản lý kém gia sản qua những thời kỳ kinh https://thuviensach.vn tế khó khăn, đưa việc sản xuất kinh doanh vào nợ nần nghiêm trọng. Quyết tâm cứu vãn công ty, Papa của George từ bỏ nghề luật sư và đưa gia đình về Lake Vineyard. George thần tượng cha mình, và ông oán hận việc hãng rượu và vô số những công việc kinh doanh khác trên con tàu tài chính đang chìm đắm của Shorb đã lấy hết toàn bộ thời gian của ông. Một trong những hoạt động mà Papa dành ít thời gian hơn cho là đọc sách cho cậu con trai nghe. Những ai quen biết chàng thanh niên Patton đều không thể không quan sát thấy rằng ông là một người say mê đọc sách. Tuy nhiên, khi còn là một cậu bé, những khó khăn của ông trong việc học đọc tệ đến độ cha ông vẫn phải tiếp tục đọc sách lớn tiếng cho ông nghe dù ông đã ngoài tuổi được cha mẹ đọc sách cho. (Nỗ lực của ông trong việc học không chỉ để đọc mà còn để yêu thích đọc sách là một minh chứng cho sức mạnh của ý chí và lòng quyết tâm). Những cuốn sách cả hai cha con ưa thích là các tiểu thuyết của Sir Walter Scott, những gì đã nuôi dưỡng khả năng thưởng thức loại văn chương hư cấu và lãng mạn hiệp sĩ ngày càng lớn trong người con trai đang trưởng thành, cũng như là một sự biết ơn đối với di sản của Scotland; trường ca Iliad và Odyssey, gợi lên những lý tưởng anh hùng cổ điển; những bi kịch của Shakespeare; những câu chuyện và thơ của Rudyard Kipling; Kinh Thánh Cựu ước. Không cần ai bảo, George nhớ những đoạn dài từ các cuốn sách mà Papa đọc cho ông nghe. Bất kỳ ai dành nhiều thời gian với “cậu bé”, cái tên cha ông thương mến đặt cho ông, đều nhận ra rằng ông rất thông minh. Tuy nhiên, gia đình ông - và không ai khác hơn là chính George - bị ngăn trở và thất vọng bởi sự vật lộn với việc đọc và viết. Ngày nay, khiếm khuyết ấy dễ dàng được chẩn đoán là chứng khó đọc, một rốỉ loạn phổ biến có đặc tính là khó nhận biết và hiểu chữ viết. Trong thời trai trẻ của Patton, những cậu bé bị chứng này được gọi là “chậm lụt”. Quyết tâm tránh điều xấu, cha mẹ ông thuê gia sư tới dạy ông tại nhà cho tới khi ông lên 11. Vào tuổi này, họ cho rằng ông đã sẵn sàng để đi học trường tư thục và đăng ký cho ông vào trường nam sinh Stephen Cutter Clark’s School ở Pasadena. Ngay từ đầu, môn ông ưa thích là lịch sử. Ông đắm mình trong những câu chuyện về các nhà lãnh đạo thời https://thuviensach.vn cổ, đặc biệt là những vị tướng vĩ đại như Scipio Africanus, Hannibal, và Caesar. Bước vào kỷ nguyên hiện đại hơn, những vĩ nhân ông ưa thích bao gồm Joan Arc và Napoleon Bonaparte. Với cậu học sinh này, những nhân vật trên đã hoà quyện vào các vị anh hùng gần với thời đại của mình hơn, trong có có thể kể Robert E. Lee và Stonewall Jackson. John Singleton Mosby, biệt danh “Con ma xám” của quân đội Liên minh miền Nam, từng là luật sư cho Công ty Đường sắt Nam Thái Bình Dương và thỉnh thoảng, trong thời thơ ấu của Patton, đến thăm gia đình, làm cho George mê mẩn bằng những câu chuyện chinh chiến của các kỵ sĩ can trường. Bắt đầu vào tuổi thơ, quá khứ, dưới dạng những bóng ma sinh động của chủ nghĩa anh hùng và những tấm gương của các chỉ huy quân sự, luôn hiện diện trong Patton. Những nhân vật lịch sử ngày càng nhiều thêm trong trải nghiệm của ông. Trong suốt cuộc đời, ông tới các thư viện để đọc ngấu nghiến những tác phẩm lịch sử, đặc biệt là lịch sử các cuộc chinh phục xa xưa, lịch sử quân sự tổng quát, và hồi ký của các vị tướng lừng danh. Trước khi bay tới Normandy để nhận chức tư lệnh Tập đoàn quân số 3 một tháng sau Ngày D, ông đã đọc cuốn Cuộc chinh phạt của người Norman của tác giả Freeman, chú ý đặc biệt tới những con đường mà William “Nhà chinh phạt” sử dụng trong những chiến dịch tại vùng Normandy và Brittany. Khi ông đề nghị băng qua sông Seine ở Melun, hoàn toàn là tự nhiên rằng ông đã nhận thấy “băng qua sông ở Melun cũng tương tự như cách mà Labienus sử dụng với Quân đoàn Lê dương thứ 10 vào năm 55 trước Công nguyên”. Sự hoà mình vào lịch sử quân sự mang ý nghĩa trí tuệ, hoặc thậm chí nghề nghiệp, vì ông không giấu giếm niềm tin về sự đầu thai. Vào năm 1943, trước khi quân Đồng minh rời Bắc Phi để tiến vào Sicily, tướng Anh Sir Harold Alexander có nhận xét với sự ngưỡng mộ: “George, anh có lẽ sẽ trở thành một thống soái vĩ đại dưới trướng Napoleon nếu như anh sống vào thế kỷ 19”. Patton trả lời khô khan: “Nhưng tôi thực sự đã như vậy rồi, còn nếu như gì nữa”. Ông không bao giờ ngượng ngùng khi thú nhận niềm tin về sự đầu thai, rằng ông đã tiến quân cùng với Napoleon hoặc với tướng John “Người mù” của xứ Bohemia chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ https://thuviensach.vn 14, hoặc hơn nữa, như là một người lính lê dương La Mã, “Có thể tôi đã đâm Chúa Jesus / Vào bên mạng sườn thiêng liêng của Ngài”. Quá khứ, đối với Patton không hoàn toàn nằm trong sách hoặc ngay cả trong những con người đã sống trước thời ông. Nó chính là đặc quyền của dòng tộc. Sau khi cầu hôn Beatrice vào ngày lễ Giáng sinh năm 1908, ông viết một bức thư cho cha cô, Frederick Ayer, biện minh cho chọn lựa sự nghiệp của mình. Patton thừa nhận rằng không có lý do hợp lý cho việc đeo đuổi một cuộc sống quá nghèo nàn về tiền bạc như sự nghiệp của một sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, nhưng ông giải thích: “Cháu chỉ cảm thấy nó ở nội tâm. Cháu trở thành một người lính là điều tự nhiên như chúng ta hít thở và sẽ rất khó khăn nếu từ bỏ mọi ý nghĩ về nó; làm như vậy cũng như là thôi không hít thở nữa”. Trò chơi đầu tiên của thời thơ ấu mà ông nhớ mình đã chơi là “những người lính”, với cô em gái Anne, còn có tên là Nita, đóng vai thiếu tá “trong khi tôi vào vai binh nhì mà tôi cho là cao cấp hơn”, Patton nhớ lại. Cha của họ cũng tham gia, giơ tay chào hai anh em mỗi sáng và hỏi “binh nhì và thiếu tá có khoẻ không”. Không lâu sau, George mới hiểu ra “binh nhì” là cấp bậc thấp nhất, và ông bắt đầu gán cho mình cái tên “Georgie s. Patton, III, Trung tướng”. Trong ánh nắng vàng của vùng California, George học cưỡi ngựa từ rất sớm. Một mặt, Papa vui vẻ đẽo những thanh gươm gỗ và dạy con trai cách xây dựng trại, thì mặt khác ông không thể nào theo kịp sự năng nổ, động lực, và niềm say mê vô biên của cậu con luôn muôn tập luyện và hoạt động không mệt mỏi. Di sản gia đình, việc đọc những câu chuyện anh hùng và lịch sử quân sự, tình yêu dành cho các chú ngựa, sinh lực vô biên, và chơi đùa say mê - là những yếu tố thời thơ ấu của George Patton, và khi trưởng thành, Patton sẽ không bao giờ bỏ chúng lại sau lưng qưá xa. Không có chứng cứ cho thấy ông nghiêm túc suy nghĩ về việc mình sẽ trở thành cái gì nếu không là người lính. Ngoài ra, mọí chứng cứ hé lộ một khao khát đầu đòi và không ngừng lớn mạnh là ước muôn trở thành một nhà lãnh đạo, một vị tư lệnh, https://thuviensach.vn một người chiến thắng trong vinh quang chói lọi và được mọi người ghi nhận. Trong suốt 6 năm học tại trường nam sinh Claris School, ông đã cố gắng để trở nên xuất sắc cho dù bị chứng khó đọc, và bị bạn bè chế giễu bất kỳ khi nào ông va vấp về từ vựng lúc phải đọc hoặc viết trên bảng. Chắc hẳn ông đã đau khổ, nhưng không bao giờ nản lòng. Được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện lãng mạn của các tổ tiên là người Scotland và phục vụ trong Liên minh miền Nam, những người bị thua trận nhưng không hèn yếu cúi đầu, ông thấy thất bại như là một thách thức để chiến thắng trong lần sau hoặc chiến thắng trong trận cuối. Sau này, khi đã là một tư lệnh đã chín chắn, ông nắn nót, với các từ viết hoa, ở một trong những cuốn vở mang theo ra chiến trường: “BẠN KHÔNG BỊ HẠ GỤC CHO TỚI KHI BẠN THỪA NHẬN NÓ, VÌ THẾ HÃY ĐỪNG”. Trong bất kỳ sự kiện nào, bất kể điều gì xảy ra cho ông, người cha và người mẹ yêu quí của ông không bao giờ cho phép ông cảm thấy mình bị đánh gục. Nhưng ngoài những hạn chế do chứng khó đọc, George Smith Patton III luôn, như chính ông nhớ lại sau này, “là đứa trẻ hạnh phúc nhất trên thế giới”, và cánh đồng quê được làm cho hoàn hảo bởi những mùa hè ông trải qua trên đảo Catalina, nơi đối tác kinh doanh Phineas Banning của gia đình ông đã mua vào năm 1892 để biến thành một khu nghỉ mát cao cấp. Đó là nơi mà gia đình Patton nghỉ hè, và cũng chính nơi đó, vào năm 1902, chàng George 17 tuổi gặp Beatrice Banning Ayer, cô con gái nhiều đặc quyền của một nhà công nghiệp vùng Boston tên là Frederick Ayer và bà vợ sau, Ellen Barrows Banning, cháu gái của Phineas Banning. Beatrice đã tới California với cha mẹ cô để thăm gia đình Banning, George bị tiếng sét ái tình, ở một số khía cạnh, đó là một khoảnh khắc của sự thu hút với người khác giới. George cao, vạm vỡ, và thô kệch, còn Beatrice 16 tuổi thì nhỏ nhắn, thon thả, và duyên dáng. Tuy nhiên, ở những khía cạnh khác, họ hoàn toàn ăn ý; điều duy nhất cô yêu thích hơn dong buồm là cưỡi ngựa, thứ mà cô thực hiện với sự ham thích mãnh liệt và không hề sợ hãi, cho dù cô bị cận thị nặng đến nỗi có thể không nhìn thấy mình đang đi tới đâu. https://thuviensach.vn Sau kỳ nghỉ hè ở Catania, khi trước đó, Beatrice đã quay về Boston, cả hai bắt đầu viết thư cho nhau, và tới ngày Giáng sinh, Beatrice gửi cho George một chiếc kẹp cà-vạt. “Hãy tin anh khi anh nói rằng chính đây là thứ mà anh mong muốn nhất”, Patton đã viết như vậy trong một bức thư đề ngày 10 tháng 1 năm 1903, “và khi anh lần đầu tiên ngắm trong gương để xem liệu nó đã chỉnh tề chưa, thì anh vô tình nhấc mũ lên”. Trước khi gặp Beatrice, George đã bắt đầu tỏ ra chú ý tới các cô gái. Rõ ràng là George đang trưởng thành. Ông không chỉ có một người bạn gái mà 8 năm sau đó ông lấy làm vợ, mà vào mùa thu năm 1902, ông đã sẵn sàng nói với cha mẹ rằng ông đã quyết định dứt khoát về công việc ông sẽ làm trong đời. Ông sẽ trở thành một sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ. Từ khoảnh khắc con trai đưa ra quyết định, Papa bắt đầu một cuộc vận động để xin cho con vào trường quân sự West Point. Vào ngày 29 tháng 9, ông viết thư cho Thượng nghị sĩ Thomas R. Bard, người có quyền tiến cử con trai ông. Sau đó, ông bắt đầu nhờ những người bạn nổi tiếng và có thế lực thuyết phục Thượng nghị sĩ Bard giúp con trai mình. Dù có vận động gì đi nữa, điều tốt nhất có thể rút ra được từ Bard là một lời hứa sẽ cho phép George cạnh tranh với những thanh niên khác trong một cuộc thi quyết định sự chọn lựa người mà ông ta sẽ đề cử. Ông Patton yêu quí con trai, nhưng ông là người thực tế. Chỉ riêng việc đọc, George cũng có khả năng rớt kỳ thi. Để có những chọn lựa khác, ông đã nghiên cứu trường Đại học Arizona, nơi những nhóm sinh viên dự bị làm sĩ quan sau này (corps of cadet) được chỉ huy bởi người em bà con của ông, và ỏ những chương trình đào tạo cấp đại học chuẩn bị và bổ sung nguồn nhân lực cấp bậc sĩ quan cho quân đội Mỹ tại các trường đại học Princeton và Cornell. Ông cũng tìm cách xin cho con trai học một năm dự bị tại trường Morristown Preparatory School ở New Jersey. Và sau đó là Học viện Quân sự Virginia (VMI) - ngôi trường của chính ông và cũng là ngôi trường của cha ông và hai người chú. Ban giảng huấn gồm nhiều người bạn và họ hàng của ông, và với ông, có lẽ Học viện Quân sự Virginia sẽ là nơi lý tưỏng cho George có được một năm rèn luyện, giáo dục, và cả https://thuviensach.vn sự chín chắn trước khi nộp đơn vào trường West Point đường đường chính chính, từ đó cho phép bỏ qua kỳ thi tuyển đầu vào. Nếu Bard đột nhiên gọi vào dự kỳ thi tuyển, con trai ông luôn có thể quay trở lại California vào mùa xuân. Chuyến đi tới Virginia vào tháng 9 đó, về ngôi nhà tổ tiên và suối nguồn tinh thần, cũng như sự tập trung thời xa xưa vào những tưởng tượng con nít của mình, chính là chuyến du hành đầu tiên ra khỏi California của chàng thanh niên Patton. Hai năm sau, Patton nhớ lại: “Ngay trước khi rời nhà để tới VMI, tôi có nói chuyện với chú Glassell Patton rằng tôi sợ mình sẽ có thể trở nên nhu nhược, ông bảo tôi rằng không có con cháu nào nhà Patton lại có thể là một kẻ nhu nhược”. Với tính cách tiêu biểu của mình, George tâm sự lần trao đổi ấy với cha, và muốn được trợ giúp, ông đã diễn giải lời của người chú cho cha nghe. “Một mặt, dòng dõi hàng bao năm có thể làm cho một người đàn ông trong dòng dõi ấy trở nên do dự không muốn tham gia vào một trận đấu chân tay, thì mặt khác, cũng cái dòng máu sôi sục khiến anh ta hoàn toàn sẵn sàng đối mặt với cái chết do súng đạn với một nụ cười”, người cha nói với con trai. Điều đó đã gần như chấm dứt mọi tranh cãi về những vấn đề liên quan tới sự can trường. Chàng thanh niên Patton sẽ tự chất vấn, và thậm chí còn tự hoài nghi, về chủ đề này trong toàn bộ cuộc đời mình. Tuy nhiên, khoảng 24 năm sau, ông viết về lời giải thích của Papa như sau: “Tôi nghĩ rằng điều đó là đúng”. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 2 HỌC VIỆN SĨ QUAN, NGƯỜI LÍNH, VẬN ĐỘNG VIÊN, KIẾM SĨ Là một người lính, George S. Patton III sống và chiến đấu trong nhiều xứ sở và nhiều quốc gia, nhưng chuyến du hành ấn tượng nhất diễn ra vào năm 1903 đưa ông từ những ngọn đồi mầu nâu gắt của miền nam California xuống tới những khe núi thấp, xanh rì, nhấp nhô của dãy Blue Ridge, tạo nền cho khuôn viên gồm nhiều toà nhà xây theo kiểu gothic có những lỗ châu mai của Học viện Quân sự Virginia (VMI) nằm bên ngoài Lexington. Về sau này, Patton nhớ lại, “Cha mẹ tôi đã chở tôi trực chỉ theo hướng đông để tới VMI... Papa đi với tôi để báo cáo. Ragland, sĩ quan trưởng của trường ngồi ở phòng phía trái của hành lang ra vào, nơi Papa từng làm việc khi ông còn là một thượng sĩ”. Tại nơi mới mẻ và lạ kỳ này là sự hiện diện của quá khứ, Papa (VMI, năm 1877) và cha của Papa (VMI, năm 1852) trước thời ông, từng là những học viên sĩ quan, như nó đã từng là nơi rèn luyện của ông chú John Mercer Patton Jr. (VMI, năm 1846) và Waller Tazewell Patton (VMI, năm 1855). George ký tên vào hồ sơ nhập học, và Ragland nhìn về phía Papa: ‘“Anh Patton, dĩ nhiên là con trai anh chỉ là lính mới, chưa là gì cả’. Papa nói: ‘Đúng vậy’. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình thấp kém như thế trong đời”. Nói về ban huấn luyện và các học viên sĩ quan của VMI, cảm giác thích hợp với một học viên năm thứ nhất khi được gọi là những con chuột cống. Nhưng George còn có một bất lợi khác nữa. Chứng khó đọc khiến ông sai chính tả về nhóm từ “no hazing pledge” được viết tay mà mọi học viên nhập học bị buộc phải đọc to trong một buổi họp toàn thể. Như thường lệ, ông thổ lộ điều này cho cha và người cha viết trong một bức thư ngày 27 tháng 9, năm 1903: “Bố không thấy có cách nào vượt qua khó khăn ấy https://thuviensach.vn ngoại trừ bằng cách luyện đọc mọi bài viết”. Và những từ dưới đây có lẽ đã có thể được viết bởi chính Tướng Patton. Papa viết: “Đừng đầu hàng, nhưng khi con bắt đầu đọc bất kỳ văn bản nào thì hãy miệt mài cho tới khi con đọc suôn sẻ”. Ông tiếp tục, với niềm hy vọng và óc thực tế, bằng cách chỉ ra rằng “hazing” đã bị viết sai chính tả thành “hazeing” trong bức thư của con trai. “Động từ là ‘to haze’ và con nên nhớ qui tắc chung là chữ này phải bỏ ‘e’ trước khi thêm hậu tố ‘ing’”. Không có gì kêu và rỗng trong những lời Papa dạy bảo con trai, mà luôn là một pha trộn giữa sự khích lệ ấm áp và lời khuyên thực tế. Đây là căn bản của phong cách ra lệnh của riêng Patton. Tuy ông hiện diện với sự nghiêm khắc và gây sợ hãi, nhưng Patton ăn mừng thành tích cao của các thuộc hạ và, khi sửa lỗi của họ, ông làm như vậy với lời phê phán cụ thể và lời khuyên thực tế. Do sự trao đổi giữa ông và cha mình mang tính an ủi, học viên sĩ quan Patton thậm chí còn vui mừng khi tới người thợ may của nhà trường, người không chỉ nhận ra ông như là một thừa kế của dòng họ Patton, mà còn nhận xét rằng số đo bộ quân phục của ông giống y chang của cha ông và ông nội ông. Chẳng bao lâu, ông cảm thấy như thể mình thuộc về nơi đó, xem nó gần như là ông đã về với gia đình mình. Papa khuyên ông (như Patton nhớ lại nhiều năm sau đó) “điều đầu tiên là phải trở thành một người lính giỏi, sau đó là một người có học thức cao”. Học viên Patton trở thành một người lính gương mẫu, không tì vết trong vẻ ngoài và trong cách thực hiện mọi sự di chuyển ở mỗi bài tập thực hành. Ông nhớ qui định của VMI và tuân theo tới từng chi tiết. Một người quan sát bên ngoài có thể đã nghĩ sự toàn tâm toàn ý của ông là sự ám ảnh, thậm chí cuồng tín, nhưng không có người ngoài nào tại VMI cả. Là một học viên sĩ quan thế hệ thứ ba, ông bước vào đặc quyền của dòng họ, cũng như nhiều bạn học khác. Họ không nghĩ ông là một con mọt sách hoặc một kẻ cuồng tín; họ tôn trọng và ngưỡng mộ ông. Ông có tài bẩm sinh là biết ăn ở như “một chiến hữu tốt”, nhưng không bao giờ phá vỡ qui định hoặc, như ông từng vui sướng thừa nhận với Papa, không bao giờ tự cho phép mình mắc lỗi. Ông là người đầu tiên trong lớp được ghi tên vào “K.A.”, một tổ chức bằng hữu bí mật, ngay lập tức https://thuviensach.vn dẫn tới việc những người thuộc tầng lớp trên đối xử với ông “gần như một người ngang hàng”. Hoàn toàn hiểu rõ và thông cảm với hệ thống giai tầng tại VMI, George viết cho Papa: “Về mặt lý thuyết, con không đồng tình” về việc mình được chiều chuộng bởi những người thuộc tầng lớp trên, nhưng “về mặt thực tế, con chấp nhận”. Trong chuyện này, trong khả năng của ông là không làm sai bất kỳ qui định nào để có thể được mọi người ưa thích, đã báo trước rằng ông sẽ là một vị tư lệnh trong tương lai. Tướng Patton là người khởi xướng việc tuân thủ qui định, mặc quân phục không tì vết, và thực hành tác phong quân sự không sai sót, tuy ông nuôi dưỡng trong bản thân một sự táo bạo phi truyền thống và một khao khát vinh quang không bao giờ thoả mãn. Ngay cả khi thành công tại VMI, George cũng như Papa không bao giờ ngừng để mắt tới giải thưởng đích thực: một cái hẹn với trường West Point. Vô số bức thư gửi cho Thượng nghị sĩ Bard và những người có thể gây ảnh hưởng lên vị thượng nghị sĩ này cuối cùng mang lại thành quả khi, vào tháng Hai năm 1904, Bard mời George tới văn phòng ở Los Angeles để làm một cuộc kiểm tra không chính thức. George sử dụng chuyến đi tàu hỏa dài ngày về phía tây để nghiên cứu, tập trung vào địa lý và chính tả. Ở nhà, ông chào từ biệt gia đình thật nồng nhiệt, sau đó 1ại cắm đầu vào các cuốn sách, không ngẩng lên cho tới khi bài kiểm tra hoàn tất tốt đẹp. Sau đó, ông quay trở lại VMI, ôn lại bài kiểm tra trong đầu cho tới khi có thư báo vào ngày 18 tháng 2 rằng George S. Patton III nằm trong số 3 ứng viên được đề cử tới Thượng nghị sĩ Bard. Ông qua được vòng đầu. Lúc này, Papa lại ra tay, nhờ một số bè bạn nổi tiếng và có sức ảnh hưởng gửi thư cho Bard. Cuối cùng, vị thượng nghị sĩ vẫy cờ trắng dưới hình thức một điện tín gửi cho Papa vào ngày 3 tháng 3 năm 1904, tuyên bố đề cử con trai ông. Papa vui sướng và gửi điện tín báo tin vui cho con trai rồi sau đó là một bức thư: “Con không thể biết chúng ta tự hào đến chừng nào - và hài lòng ra sao qua tin vui rằng con đã được vinh thăng lần đầu tiên trong trận chiến cuộc đời... Con có dòng máu lính thật tuyệt trong người”. George S. Patton III rời VMI để tới trường West Point https://thuviensach.vn với một học bạ có giá trị, các số điểm đều trung bình trên 90%, và được thiếu tá L. H. Strother chỉ huy VMI nhận xét là “một thanh niên có những thói quen gương mẫu và khả năng xuất sắc, với những thành tựu tuyệt vời..., cậu ta có tư chất cho một cuộc đời binh nghiệp”. Hơn nữa, thiếu tá Strother còn thông báo rằng nếu Patton ở lại học viện thì ông sẽ có thể được phong hạ sĩ nhất, sự vinh phong cao nhất dành cho những học viên sĩ quan vào năm học thứ hai. Những học viên năm đầu được gọi là plebe tại đây, và nhiều plebe bị sốc bởi năm học đầu tiên - những qui định, kỷ luật, sự siêng năng cưỡi ngựa của các chiến hữu thuộc giới thượng lưu, và trên hết là nhịp điệu hoạt động không ngừng. Tuy nhiên, điều duy nhất gây khó chịu cho học viên sĩ quan Patton, như ông viết trong bức thư đầu tiên gửi về gia đình, là phải thức dậy lúc 5 giờ sáng và họ “bắt chúng con cạo râu mỗi ngày và thời gian duy nhất mà chúng con phải làm điều này là trước hiệu lệnh buổi sáng”, cũng là “thời gian duy nhất mà chúng con được phép hoặc có thời gian để viết lách, ngoại trừ ngày Chủ nhật”. Người ta cũng buộc học viên tắm đêm, và các học viên “chỉ được tắm trong vòng 8 phút”. Thức ăn thì “ngon” với “nhiều thực phẩm đa dạng”, và “khăn bàn được thay mỗi ngày”. Điều đó rõ ràng là quan trọng với học viên Patton, dân quý tộc miền Nam tử tế mà ông tự xem mình là như vậy, nhưng những gì khiến ông thất vọng là sự khan hiếm thấy rõ những “quí ông” tương đương tại học viện. Hai người bạn cùng phòng thì “rất dễ chịu và chăm chỉ, cố giữ cho căn phòng và bản thân họ luôn sạch nhưng họ không phải là những quí ông theo nghĩa được tinh luyện và biết sử dụng đúng văn phạm. Họ chỉ là những chiến hữu thuộc tầng lớp trung lưu đáng kính của lớp”. Patton không bao giờ là người biết dung thứ. Suốt cuộc đời ông, những trang nhật ký và thư từ đều có mầu sắc phân biệt chủng tộc, bài Do Thái, và bài ngoại pha tạp. Với lương tri và ý thức hiện đại thì những thái độ này thật đáng ghét, tuy nhiên chúng hé lộ nhiều về môi trường xã hội mà trong đó Patton được nuôi dưỡng - một gia đình gốc Anh ở California giàu có, nuôi gia nhân là người Mexico, một phả hệ có nguồn gốc ở vùng đất https://thuviensach.vn Virginia hiệp sĩ, nuôi nô lệ - nước Mỹ thời đó đã tạo ra người đàn ông Patton. Là một học viên tầm thường, nhưng ông thực sự là một kẻ trưởng giả; đó là những gì toàn bộ thời thơ ấu của ông và những năm tháng tại VMI đã tạo ra. Nhưng theo George, bản sắc xã hội của ông ăn sâu hơn là do được rèn luyện hoặc nuôi dưỡng. Nó là vấn đề của dòng dõi, theo nghĩa đen; nó là vấn đề của huyết thống. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1904, ông viết cho Papa về một bài diễn văn trịnh trọng vào ngày Quốc khánh 4 tháng 7 mà ông tham dự ở Hội trường Cullum. Chủ đề là “người lính hiện đại và những gì anh ta bênh vực”. Toàn bộ khán phòng vỗ tay hoan hô, và “con tin rằng tất cả đều đồng tình với người đọc diễn văn. Còn con thì không”. Trên thực tế, từ những gì con chứng kiến ở đây và tại Học viện [Quân sự Virginia], thì con thuộc về một tầng lớp khác, một giai cấp có lẽ gần như tuyệt chủng hoặc có lẽ đã chưa bao giờ tồn tại, cách biệt xa với những người lính hoà bình, lười biếng, yêu nước, như thiên đàng với địa ngục. Con biết rằng tham vọng của con là ích kỷ và lạnh lùng nhưng nó không phải là một loại ích kỷ thay vì miễn thứ cho con, nó lại làm con phải vận động bản thân ở mức tối đa để đạt được mục tiêu mà chẳng đem lại lợi ích gì cho con cũng như bất kỳ ai. Dĩ nhiên, có lẽ con là một người mơ mộng nhưng con có niềm tin mãnh liệt là con không phải như vậy và trong bất kỳ trường hợp nào, con sẽ làm hết sức để đạt được những gì con xem là - có lẽ là sai - số mệnh của con. Sự hiểu biết về chính mình của cậu thanh niên Patton rõ ràng là trưởng thành trước tuổi và, trên thực tế, ở một mức độ mà ít có người đàn ông nào đạt được. Tính trưởng giả của ông chỉ là triệu chứng của nhận thức về một “số mệnh” đặc biệt (số mệnh là một từ mà ông thường sử dụng trong khi nói về bản thân), một số mệnh pha trộn giữa cổ xưa và cũ kỹ (có lẽ là đã gần như tuyệt chủng) hoặc là hoàn toàn huyền bí (có lẽ đã không tồn tại), một số mệnh tách biệt ông ra khỏi bất kỳ thứ gì chẳng hạn như người lính hiện đại (xa cách như là giữa thiên đàng và địa ngục), một số mệnh khiến ông trở nên đầy tham vọng một cách lạnh lùng, thực sự là ích kỷ, nhưng lại hoàn toàn không miễn thứ cho ông. https://thuviensach.vn Dường như nhận thức về số mệnh của mình đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn mà học viên sĩ quan Patton không có nhiều. Mục tiêu của ông là tốt nghiệp trong tư cách một hạ sĩ quan trợ tá, người thuộc giai cấp thượng lưu, và trước khi hết năm thứ nhất, ông muốn trở thành một hạ sĩ học viên. Trước tiên, Patton nghĩ rằng điều này có thể không khó thực hiện, vì ông phán xét các bạn học viên của mình rất gắt gao. Đối với ông, họ dường như lười biếng, trĩu nặng một “thái độ uể oải” - hoặc thờ ơ lơ đễnh hoặc sự không chắc chắn mơ hồ. Trong khi ông, học viên Patton, luôn sắc sảo như một lưỡi dao cạo. Nhưng chẳng bao lâu, ông khám phá ra rằng công việc học tập tại West Point khó hơn nhiều so với tại VMI. Trước tháng 11, ông viết thư cho cha: “Con thực sự nghĩ rằng nếu không được thăng vào cấp bậc hạ sĩ học viên thì con sẽ chết... Con cho rằng không ai trong lớp con muốn bị cầm đèn đỏ hoặc cố gắng hết sức để được hạng nhất và rồi chỉ là những người luôn thi rớt. Trên thực tế, con người thực của con là một người mơ mộng ngớ ngẩn, lười biếng, phi tính cách nhưng nhiều tham vọng; là người sẽ thoái hóa thành một thiếu uý hạng xoàng và không bao giờ chỉ huy bất kỳ thứ gì ngoại trừ một trung đội”, (ở tuổi người lớn, sự kiêu ngạo màu mè điệu bộ và sự tự tin đến độ hung hăng của ông thường - đôi khi thấy rõ - che đậy sự tự hoài nghi không ngừng). Báo cáo lớp của ông vào ngày 1 tháng 12 đã xếp ông hạng thứ 42 về toán, 71 về tiếng Anh, và 30 về qui tắc huấn luyện trong sĩ số 152 học viên. Vào tháng Giêng, ông viết cho Papa rằng nó đã “làm thoái chí một cách ghê gớm khi nhận được những điểm số xấu hơn những người mà ba biết là có ít chất xám hơn và không nhiều tham vọng”. Vào tháng 6, ông rớt kỳ thi cuối khóa tiếng Pháp, điều này có nghĩa là (theo qui định khó hiểu của Học viện) ông cũng phải dự thi môn toán. Vào ngày 12 tháng 6, ông gửi một bức điện tín cho Papa: “Đã không qua được môn toán và lưu ban, có lẽ về phép mùa hè này sẽ dứt khoát làm việc hết sức mình”. Ông Patton gửi lại ngay một bức điện tín vào hôm sau: “Không sao đâu, con trai của bố, và Chúa ban cho con mọi sự tốt lành”. Patton trở về California để nguôi ngoai vết thương, và, trong khi nghỉ hè cùng gia đình ở Catania, ông tự học và cũng học với một gia sư. Như thể https://thuviensach.vn quyết tâm đưa vào kỷ luật mọi suy nghĩ của mình, ông đã mua một cuốn vở để không một ý nghĩ nào có thể thoát khỏi ông. Đề mục đầu tiên là: “Hãy luôn làm hết sức mình”. Khi ông quay trở lại West Point để học lại năm thứ nhất, ông thử chơi bóng đá học đường, thực hành quá mạnh bạo đến độ bị thương ở cánh tay và rồi bị loại ra khỏi đội. Đó là khi ông cầm lên thanh gươm và thử gia nhập đội điền kinh. Ông thường vượt trội ở cả hai môn. Ông tự bù lại cho việc học - một cách xứng đáng, nếu không là một cách ngoạn mục - và được phong hạ sĩ nhì học viên vào năm thứ hai. Thế là vừa thất vọng vừa nhẹ nhõm. Trong suốt mùa hè, ông được giao nhiệm vụ đưa các học viên năm thứ nhất vào khuôn phép tại trại hè. Hạ sĩ nhì Patton nhận nhiệm vụ như một người đang khát nước. Mặc dù ông chỉ huy một đại đội khi hạ sĩ nhất vắng mặt, Patton đảm nhận thay toàn bộ tiểu đoàn. Những học viên của ông thực hành không một sai sót, nhưng, với tư cách người đàn ông, họ rất căm ghét Patton. Ông đòi hỏi ở họ không kém ông đòi hỏi ở chính mình, và như vậy đơn giản là quá nhiều. Ông kiềm chế không đưa ra lời khen ngợi, nhưng ghi nhận và báo cáo những lỗi vi phạm nhỏ nhất. Tuy nhiên, nó ảnh hưởng tới những học viên năm thứ nhất, vì đối với ông, kết quả là một bài học quí báu về sự khác biệt giữa một chỉ huy đòi hỏi nhiều và một người nghiêm khắc. Vào hôm kết thúc trại hè, các sĩ quan chiến thuật đã giáng Patton từ hạ sĩ nhì xuống hạ sĩ sáu. Như giải thích của ông trong bức thư gửi cho Beatrice, ông đã “quá chán quân đội”. Sau này, khi là một tư lệnh chín chắn, ông thường học cách pha trộn lời khen với lời phê bình, mặc dù thường tỏ ra là người quá khắt khe đốĩ với mọi phép lịch sự và tập quán quân đội. Trong suốt năm thứ hai (thực ra là năm thứ ba của ông tại West Point, nếu tính luôn năm thứ nhất bị lưu ban), Patton từng bước đạt được mức trung bình của lớp, lại thử chơi bóng đá một lần nữa, và lại bị gạt ra vì những chấn thương trong luyện tập, nhưng trở thành ngôi sao khi sử dụng gươm hoặc cưỡi ngựa. Mặc dù ông có thể không vượt trội trong lớp học https://thuviensach.vn hoặc không có cơ hội để làm như vậy trong môn bóng đá Mỹ, nhưng ông ắt hẳn lấy làm hài lòng vì đã đạt những thành tích võ thuật hơn với thanh gươm và con chiến mã. Patton tự đẩy mình vào những loại thử nghiệm lòng can đảm mạo hiểm và liều lĩnh mà ông thường lặp đi lặp lại trong suốt sự nghiệp. Là một vị tướng, Patton tin rằng quan trọng là tự làm cho mình nổi bật ở tuyến đầu, “để cho binh sĩ thấy rằng những vị tướng cũng có thể bị trúng đạn”. Là một học viên sĩ quan, trong khi bò dưới công sự nằm trong tầm súng trường - công việc của ông là nâng những tấm bia để bắn, rồi hạ chúng xuống để tính điểm - Patton quyết định khám phá cho chính mình như thế nào là bị trúng đạn. Liệu ông có sự can đảm mà cha ông đã từng nói với ông, sự can đảm để “đối mặt cái chết với một nụ cười” không? Ông đột nhiên đứng bật dậy khỏi sự an toàn của chiến hào và đối mặt với làn đạn đang rít xung quanh mà không sợ hãi. Những gì những người khác nghĩ về thử nghiệm này đã không được ghi chép lại. Trước mùa xuân của năm thứ hai, Patton được nhận lại vị trí hạ sĩ nhì và, vào năm thứ ba, được thăng lên chức trung sĩ. Điều này đặt ông vào vị trí sẽ được đề bạt xứng đáng vào chức thượng sĩ. Sau đó, vào tháng 2 năm 1908, số phận tốt đẹp của ông được báo trước. Ông được thăng cấp sĩ quan học viên quản trị cấp tiểu đoàn trong năm sau đó, năm học cuối. Nó không chỉ là chứng cứ cho thấy sự thành đạt, mà còn là một cơ hội để gặt hái thêm nhiều vinh quang khác. Sĩ quan học viên quản trị cấp tiểu đoàn là một lãnh đạo có vai vế và là nhân vật trung tâm trên khu đất duyệt binh, người học viên mà, mọi ngày, đi tối chính giữa bãi đất và đọc to những khẩu lệnh của ngày hôm ấy. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía ông và chỉ một mình ông thôi. Gần như đồng thời với việc vinh thăng vào chức sĩ quan học viên quản trị cấp tiểu đoàn là sự hé lộ rằng ông đã yêu Beatrice Ayer. Hai sự kiện dường như quyện chặt vào nhau. Đáp lại lời chào mừng của Beatrice dành cho sự đề bạt của ông, ông viết như sau vào ngày 22 tháng 2: “Em có nhớ cách nay đã lâu khi anh nói anh muốn trở thành sĩ quan quản trị cấp tiểu đoàn nhưng sợ là mình sẽ không bao giờ được và em nói rằng anh sẽ https://thuviensach.vn được?” Và trong khi có những cô gái khác suốt những năm học ở West Point - trong đó có thể kể Kate, một nữ thừa kế xinh đẹp sông ở vùng Vassar, người mà ông bị thu hút ngắn ngủi bởi vẻ đẹp cũng như túi tiền - ông viết cho cha rằng Beatrice chính là người ông yêu. Tuy nhiên, chàng thanh niên có chức vụ chỉ huy thường quyết định mau chóng trên chiến trường lại không thể tự mình ngỏ lòi cầu hôn. Trong một lần viếng thăm gia đình Ayer vào dịp nghỉ lễ Giáng sinh, ông thổ lộ tình yêu với Beatrice và nói rằng ông muốn cưới cô, nhưng ông yêu cầu cô đừng trả lời - chưa trả lời vội. Ông tạm hoãn chuyện hôn nhân, và Beatrice vâng theo; đó là khi ông hoàn tất năm cuối và rối ren với chuyện nên theo binh chủng nào. Trong quân đội vào thời của ông, có bộ binh, kỵ binh, pháo binh, và công binh. Hai ngành cuối dễ dàng bị xem thường. Patton không có năng khiếu cũng như điểm học lực cao cho vị trí kỹ sư công binh, và đối với pháo binh, những khẩu súng to lớn thường được đặt ở sau tuyến đầu, mà tuyến đầu lại là vùng đất của sự nguy hiểm nhiều hơn nhưng vinh quang cũng lớn hơn. Như vậy chỉ còn bộ binh và kỵ binh. Bộ binh là “nữ hoàng của trận chiến”, binh chủng mà trong đó sự thăng cấp có thể được kỳ vọng sẽ tới nhanh nhất, tuy kỵ binh dường như phù hợp một cách tự nhiên hơn với Patton, một người yêu ngựa và một kỵ sĩ xuất chúng. Binh chủng này ưu tú hơn bộ binh, những sĩ quan của nó tiêu biểu cho một giai cấp của những “quí ông” giỏi giang hơn, đồng đều hơn, như chính ông vậy. Và rồi có yếu tố lịch sử là các hiệp sĩ luôn cưỡi ngựa trong khi lớp dân đen thì tiến lên trên đôi chân. Tuy nhiên, Patton cân nhắc hơn thiệt. Ông sẽ là một kỵ binh. * * * Vào ngày 11 tháng 6, năm 1909, George Smith Patton III tốt nghiệp Học viện Quân sự với hạng 46 trên tổng số 103, một thứ hạng không chỉ dựa trên (như trong các trường đại học dân sự) học lực, mà còn “phụ thuộc vào phẩm chất chung”. Thứ hạng xoàng xĩnh của học viên Patton dĩ nhiên không nói trước được binh nghiệp của ông. J. C. H. Lee, với cung cách bất https://thuviensach.vn hợp tác và hống hách trong vai trò chỉ huy trưởng lực lượng phục vụ và tiếp liệu của Tướng Eisenhower trong Thế chiến II đã tìm được cho mình biệt danh “Chúa Jesus”, tốt nghiệp hạng 12 vào năm 1909 Jacob L. Devers, hạng thứ 39, người mà những học viên khác cho là lười biếng hết thuốc chữa, lên chức tư lệnh Cụm tập đoàn quân số 6 ở châu Âu. Robert Eichelberger, xếp hạng 68, trở thành tướng xuất sắc nhất của Douglas MacArthur, tư lệnh Tập đoàn quân số 8 ở Thái Bình Dương; và William H. Simpson, hạng 101 trong số 103 học viên tốt nghiệp, lên tới chức tư lệnh Tập đoàn quân số 9 ở chiến trường châu Âu. Trên cả những con số hoặc sự tự đánh giá về mình của Patton là cách những bạn học của ông đánh giá về ông. Khó mà không ngưỡng mộ nhiệt huyết và nỗ lực của Patton, nhưng cũng khó mà tin vào những câu chuyện tràng giang đại hải về vinh quang của ông. Việc nó được kể với sự vô tư và nghiêm chỉnh làm cho người ta khó có thể chấp nhận mà không nở một nụ cười hoặc một cái nhăn mặt. Trong số những người bạn, ông không có bạn thân nào nhưng có sự thân thương được thấy ở một trong những biệt danh của ông ở West Point, Georgie (biệt danh này cũng được sử dụng sau đó bởi các bạn bè là tư lệnh cao cấp trong Thế chiến II); biệt danh khác nữa của ông, Tên mách lẻo, cũng không làm ai oán giận. Trong biệt ngữ của học viên, “mách lẻo” là vô cớ “lột da” một bạn học viên khác - có nghĩa là báo cáo cấp trên về một vi phạm của anh ta. Điểm mấu chốt không phải học viên Patton là một kẻ chỉ điểm hoặc hận thù hoặc thích nhìn thấy người khác đau khổ mà là ông cứng rắn một cách khó chịu với các bạn thuộc tầng lớp dưới, đòi hỏi một mức độ hoàn thành công tác mà rất ít người, nếu có, có thể thực hiện được. Điều mà ông cực kỳ cứng rắn với chính mình có lẽ đều được các bạn cùng lớp nhận thấy, và nó đã giúp ông không bị mọi người kết tội. Nói một cách không thiên vị thì Patton gần như thừa nhận mọi khía cạnh trong lời nhận xét của bạn cùng lớp, cũng như ông dường như đã chấp nhận cần phải có sự bênh vực cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mình. Cha của Beatrice, Frederick Ayer, quan tâm một cách thích đáng về tương lai mờ mịt của con gái trong tư cách vợ của một quân nhân, kẻ luôn dọn nhà từ https://thuviensach.vn một trại quân sự hẻo lánh này tói một trại khác, thường sống chung với những người thuộc tầng lớp xã hội thấp kém hơn, và như thế là gắn bó số phận với một người đàn ông không bao giờ có nhiều tiền. Vào ngày 16 tháng 2, năm 1909, trong bức thư gửi cho Beatrice, Patton giải thích rằng đôi khi “anh nổi giận với chính mình khi bênh vực cho nghề nghiệp mà với anh dường như rất tốt đẹp. Nó là một nghề xưa nhất và từng là nghề duy nhất đúng đắn... Anh dám nói rằng cứ 1 người đàn ông được người ta nhớ đến bởi những hành động hoà bình thì có 15 người trở nên bất tử bởi chiến tranh và vì trong tâm trí anh, mọi cuộc đời đều là một sự vật lộn để làm cho tên tuổi mình thành vĩnh cửu thì chiến tranh đương nhiên là sự chọn lựa của anh”. Patton không có nhiều chọn lựa sự nghiệp vì ông đã chọn một nghề sẽ cho phép ông bước vào chiến tranh. Mục tiêu của ông là đạt đến vinh quang duy nhất có khả năng làm tên tuổi trở nên bất tử. Thậm chí với những bạn cùng lớp ở West Point, đây là thái độ không được ưa thích. Tuy nhiên, nếu nó làm cho Beatrice lo âu thì cô đã chẳng bao giờ chấp nhận. Nhưng vào năm 1909, không có cuộc chiến nào xảy ra. Sau khi tốt nghiệp, về Trại Sheridan ngái ngủ, phía bắc Chicago, thiếu uý Patton được phân một căn phòng tồi tàn dành cho người độc thân trên tầng 3 tương tự như một nhà tập thể quân đội. Đồ đạc của ông bao gồm một chiếc bàn giấy gỗ gụ và một chiếc giường sắt. Nó tiêu biểu cho một quân đội vật lộn trong kinh phí hàng năm eo hẹp là 150 triệu USD (phần lớn số tiền được chia cho hải quân với những chiến hạm to lổn) để duy trì một lực lượng 80.672 người dưới sự chỉ huy của 4.299 sĩ quan. Quốc gia nhỏ nhất châu Âu còn có những đội quân kích cỡ lớn hơn nhiều lần, nhưng ít người ở Hoa Kỳ trước Thế chiến I nhìn thấy nhu cầu lớn cần phải có quân đội thường trực đông đảo. Patton ý thức rõ rằng chỉ có một cách duy nhất để thoát ra khỏi lò luyện ngục đáng sợ của thói quen quân sự đang hiện hữu tại những nơi như Trại Sheridan là leo lên cấp bậc cao hơn. Nhưng ông cũng biết rằng sự thăng chức trong quân đội thời bình thường rất chậm. Hy vọng duy nhất là, ngay https://thuviensach.vn từ lúc đầu, giành được sự chú ý tích cực của cấp trên. Ông làm mọi cách để cầu cạnh vị sĩ quan chỉ huy, đại úy Francis c. Marshall, người (như Patton nhận xét) ít nhất là một quí ông, trái ngược với những sĩ quan khác tại Trại Sheridan, nhiều người là những cựu dân quân được đưa vào quân đội chính qui nhờ vào sự phục vụ trong chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha năm 1898. Để gây ấn tượng với Marshall, Patton tận dụng những kết nối gia đình và di sản quân sự, ông không chỉ thực hiện nhiệm vụ một cách hoàn hảo và hết sức hăng say, sao cho Marshall xếp hạng ông là một sĩ quan “có triển vọng đặc biệt” và “người quân nhân hăng say nhất mà tôi từng biết”, người “không bỏ lỡ dịp để làm cho tốt hơn”. Trong trường hợp của West Point, Patton chẳng bao lâu giành được uy tín về sự thúc đẩy các thuộc cấp làm việc thật chăm chỉ như ông tự thúc đẩy mình - mà, như đa số các chàng trai đăng ký nhập ngũ nhìn nhận, chăm chỉ hơn mức cần thiết. Một buổi chiều trong khi làm nhiệm vụ ở chuồng ngựa, ông nhận thấy có một chú ngựa không được buộc trong chuồng, Patton tức giận đi tìm người chịu trách nhiệm về sự vi phạm này. Đứng tại một đầu dãy chuồng ngựa, ông quát tháo anh ta, rồi như là một hình phạt, ra lệnh cho anh ta chạy tới chuồng ngựa, buộc con thú thật chắc, rồi chạy trở lại chỗ ông đứng. Người lính vâng lệnh quay lại, rồi đi bộ - dù là nhanh - về phía cái chuồng. Patton khó chịu quát lớn: “Chạy, mẹ kiếp, chạy!” Người lính vụt chạy nhưng sự cố làm cắn rứt lương tri của vị thiếu uý trẻ. “Mẹ kiếp” có lẽ là chấp nhận được, nhưng văng tục, đơn giản là sai. Khi người lính chạy trở về sau khi đã buộc chặt con ngựa, Patton cho gọi mọi người chứng kiến sự việc tới quanh ông và xin lỗi người lính, không phải vì ông đã chửi thề, mà là vì ông đã nguyền rủa anh ta. Nếu Patton không làm gì hơn là quát tháo người lính, thì thuộc cấp của ông có lẽ sẽ chỉ nhìn nhận ông như một viên thiếu uý nào đó hay bực dọc cáu gắt. Tuy nhiên, qua việc quát tháo và rồi xin lỗi công khai vì đã làm sai, Patton khởi sự một hành trình đều đặn vào vương quốc của huyền thoại và truyền thuyết quân đội. https://thuviensach.vn Dĩ nhiên đó là một sự cố nhỏ, nhưng Patton mau chóng khám phá ra rằng ông có tài bẩm sinh trong việc biến những sự cố nhỏ thành chất liệu cho huyền thoại. Một ngày kia, khi rèn quân, Patton đột nhiên nhảy ra khỏi lưng ngựa nhưng rồi ngay lập tức lại nhảy lên lưng nó, chỉ để buộc con ngựa phải lùi lại. Nhưng lần này, Patton ngồi yên khi con ngựa ngã. Patton rút chân mình ra khỏi bụng nó và đứng bật lên cùng lúc con ngựa cất mình, hất đầu về phía sau, đập vào phía trên lông mày của Patton, gây ra một vết cắt dài và sâu. Máu chảy xuống mặt ông và lên ống tay áo, Patton mất thêm 20 phút nữa để hoàn thành bài tập. Ông thậm chí không dừng lại để lau mặt. Theo lịch làm việc, ông giải tán nhóm lính, quay về để tự lau sạch máu, rồi theo lịch, dạy một lớp ở trường cho lính thường, rồi cũng theo lịch, tham dự một lớp học cho các sĩ quan cấp dưới. Chỉ sau khi hoàn tất những nhiệm vụ này, ông mới đi tới vị bác sĩ của trại, người với sự ngưỡng mộ to lớn dành cho chàng trai, đã may lại vết thương. Với một sĩ quan, bị ngựa quăng xuống đất là nỗi xấu hổ, và Patton đã mất kiểm soát đối với con vật không chỉ một lần mà là hai lần. Tuy nhiên, bằng cách từ chối không công nhận vết thương của mình, ông đã biến sự nhục nhã tiềm năng thành ra một câu chuyện được kể trong một thời gian dài ở những doanh trại tại Sheridan. Ngoài sự cố ấy, không có gì là ngẫu nhiên trong những hành động của Patton. Ông cố ý tự mình làm gương như một sĩ quan xuất sắc. Vào dịp khác, ông tỏ ra khó chịu “vì là một chiến binh dữ tợn, cần có một vẻ bề ngoài ôn hoà”, và ông bắt đầu thực hành trước một tấm gương để trau chuốt những gì mà sau này ông thường gọi là “khuôn mặt chiến tranh” của mình: hình ảnh khắc khổ với vẻ giận dữ thường thấy từ những bức ảnh của vị tướng thời chiến. Patton được biết đã thể hiện khuôn mặt chiến tranh ấy trong suốt cuộc đời, trong những lần xuất hiện trước binh lính, không khác gì diễn viên hóa trang trước khi ra sân khấu. Patton dành kỳ nghỉ Giáng sinh với gia đình nhà Ayer và thảo luận chuyện cưới hỏi với ba của Beatrice. Nhưng ông chưa cầu hôn. Vào ngày 28 tháng 2 năm 1910, quay trở lại Trại Sheridan, cuối cùng Patton gửi cho https://thuviensach.vn Beatrice một bức thư trong đó ông cố gắng vượt qua tật nói lắp, “Nếu em lấy [anh] vào tháng Sáu - thì hãy đồng ý”. Beatrice hiểu ý, trả lời qua điện tín của hãng Western Union: “Bố và mẹ sẵn sàng cho tháng Sáu nếu anh muốn”. Cặp đôi thành hôn tại nhà thờ St. John’s Episcopal tại Beverly Farms, Massachussetts, vào ngày 26 tháng 5, năm 1910, và một bữa tiệc chiêu đãi hoành tráng tiếp theo tại nhà của gia đình Ayer ở Pride’s Crossing. Gia đình Patton trải qua những ngày vui vẻ ở Boston, rồi đi du lịch tới New York, nơi họ đáp tàu Deutschland, để đi hưởng tuần trăng mật kéo dài một tháng ở châu Âu. Patton ghi lại một ít kỷ niệm trong nhật ký, mặc dù ông không ghi chép việc mua cuốn sách của Karl von Clausewitz On War (Bàn về Chiến tranh) không lấy gì làm lãng mạn cho lắm lúc ở London. Patton cũng lần đầu tiên mở rộng tầm mắt trước cảnh thôn quê nước Pháp, trong đó có một số vùng mà sau này sẽ trở thành Mặt trận phía Tây chằng chịt những chiến hào của Thế chiến I. Sau tuần trăng mật, đôi vợ chồng dọn vào ngôi nhà lớn bằng một nửa ngôi nhà dành cho 2 gia đình mà Patton đã thuê ngay bên ngoài Trại Sheridan. Mặc dù quen sông ở nơi có những vùng lân cận rộng hơn nhiều, nhưng Beatrice vẫn dễ dàng thích nghi với cuộc sông trong vai trò vợ một quân nhân. Bà xem sứ mệnh của mình như là xoa dịu những khía cạnh xã hội gian khổ và làm mọi thứ khác trong khả năng để thăng tiến sự nghiệp của chồng. Trước mùa thu năm 1910, bà mang thai, và do nói trôi chảy tiếng Pháp, bà sử dụng thời gian để cộng tác với chồng viết bản dịch tiếng Anh của một bài báo quân sự Pháp. Nó là bài báo đầu tiên trong số nhiều bài báo mà Patton dịch cho những tạp chí quân sự chuyên nghiệp. Ông viết không nhiều lắm, từ niềm khao khát cháy bỏng bày tỏ các ý tưởng về học thuyết quân sự và chiến thuật, để gợi sự chú ý. Tuy nhiên, thông điệp của ông rất thu hút, và trong suốt sự nghiệp dài, nó đa dạng về chi tiết nhưng không bao giờ thay đổi về nguyên tắc: hầu như mọi thứ ông viết đều là những là biến thể của tấn công, tiến quân, và tái tấn công. Theo cách này, ngay từ đầu sự nghiệp, thậm chí trước khi có chiến tranh, tên tuổi của https://thuviensach.vn Patton đã gắn vũ trụ nhỏ của quân đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ với học thuyết chiến tranh tấn công. Vào ngày 11 tháng 3, năm 1911, gia đình Patton sinh hạ một cô con gái. Họ đặt tên là Beatrice. Lúc này, Patton suy nghĩ ngày một kỹ hơn về cách nâng sự nghiệp của mình lên một tầm cao mới. Ông thuyết phục cha giúp dọn đường cho ông thăng tiến bằng cách khai thác những kết nối, tới tận văn phòng của vị tướng chuyên trách tổ chức, thiếu tướng Fred C. Ainsworth, một người bạn của gia đình. Patton cũng khai thác những liên kết của gia đình bên vợ với Tổng thống William Howard Taft và giới quen biết. Trước cuối năm 1911, Patton đã được thuyên chuyển tới Trại Myer, bên ngoài thủ đô Washington D.C. Trong quân đội của giai đoạn này, Trại Myer vừa là một nơi để công chúng tham quan vừa là một trung tâm quyền lực. Nó là nơi làm việc của Tham mưu trưởng, và nó thu hút loại sĩ quan mà Patton từng thấy là không có nhiều tại Pháo đài Sheridan: những quí ông. Những người đàn ông này dành nhiều thời gian để hoàn hảo kỹ năng cưỡi ngựa, điều mà họ thường phô bày trong những trận đấu polo cạnh tranh dữ dội. Trại Myer chính là trung tâm của lực lượng quân đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ và là nơi mà từ đó một số sự nghiệp hứa hẹn nhất được khởi sự. Gia đình Patton rời bỏ một nửa căn nhà khiêm tốn ở vùng trung tây và dọn tới khu gia binh đẹp đẽ tại Trại Myer. Họ mau chóng được giới thiệu để làm quen với xã hội Washington, Patton ăn trưa với những nhân vật quyền thế tại các câu lạc bộ tốt nhất của Washington. Một ngày, khi đang cưỡi ngựa dọc theo một con đường dành cho ngựa của trại, ông gặp bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson. Là một người say mê cưỡi ngựa, Stimson thường cưỡi ngựa bất kỳ khi nào thời tiết cho phép. Hai người đàn ông - một là viên thiếu uý trẻ còn người kia là bộ trưởng Chiến tranh - bắt đầu tình bạn kéo dài suốt cuộc đời họ. Chẳng bao lâu, Patton thấy mình đang phục vụ như một trợ lý chính thức của vị bộ trưởng tại những cuộc chiêu đãi xã giao và được giao chức sĩ quan tiếp liệu cho trung đoàn. Bổn phận này giải phóng Patton khỏi những sự vụ tiểu tiết của quân đội và cho ông nhiều thời gian để mài giũa kỹ năng https://thuviensach.vn cưỡi ngựa tối mức ông giành được một chỗ trong đội bóng polo của Trại Myer và cho phép ông thi đấu trong những cuộc đua ngựa vượt rào, mà ông tham gia với sự buông thả. Kỹ năng cưỡi ngựa và kỹ năng đấu kiếm của Patton đã dẫn dắt ông tới việc được đề cử đại diện cho Quân lực Hoa Kỳ tham gia vào một môn thể thao Olympic hoàn toàn mới, cuộc thi điền kinh 5 môn phối hợp, được đưa vào kỳ Thế vận hội Olympic lần thứ năm tổ chức năm 1912 tại Stockholm, Thụy Điển. Cuộc thi điền kinh 5 môn phối hợp hiện đại này bao gồm 5 sự kiện - cưỡi ngựa vượt rào 5.000 mét, bắn súng ngắn cự li 25 mét, đấu kiếm, bơi 300 mét, và chạy 4.000 mét - tất cả đều có mục tiêu là tượng trưng cho một kịch bản quân sự rõ rệt mà trong đó, một sĩ quan mang thông điệp trên lưng ngựa, gặp một lực lượng thù địch và phải bắn, đấu kiếm, rồi trốn thoát bằng cách bơi qua một dòng sông và chạy băng qua pháo đài. Mặc dù Patton có thể trạng tuyệt vời nhưng ông vẫn cấp tốc tập luyện, bỏ rượu và thuốc lá và sử dụng khẩu phần gồm thịt bò và salad cũng như chạy thật nhiều. Patton, Beatrice (cùng với bé Beatrice), cha, mẹ, và em gái Nita của ông lên tàu Finland để tới Bỉ vào ngày 14 tháng 6, rồi đi từ Bỉ sang Thụy Điển, cặp bến vào ngày 29. Papa theo sát George ở mọi buổi tập luyện trước cuộc tranh tài. Cuối cùng, Patton vượt trội về môn đấu kiếm, hạ 20 trên 29 đối thủ (một kết quả đáng ngạc nhiên đối với bất kỳ người nào, đặc biệt là người Mỹ), và đứng hạng 3 ở môn cưỡi ngựa vượt rào. Thành tích tệ nhất của ông, đủ để ngạc nhiên, là ở môn bắn súng ngắn, trong đó ông xếp hạng 21 trong tổng số 42 đấu thủ. Trước sự kiện cuối cùng, chạy 4.000 mét, chỉ còn lại có 15 vận động viên trong số 42 vận động viên ban đầu tham gia. Mặc dù ông không bao giờ nghĩ mình giỏi về chạy, nhưng Patton về đích thứ ba. Sau đó, ông bất tỉnh. Papa hỏi huấn luyện viên của Patton: “Liệu nó có sống nổi không?” Đó là một câu hỏi nghiêm túc, và huấn luyện viên trả lời: “Tôi nghĩ cậu ta sẽ tỉnh lại nhưng không nói trước được điều gì”. Dĩ nhiên là ông hồi tỉnh và được sắp hạng 5 chung cuộc, nhận nhiều lời khen từ báo chí Thụy Điển, những tờ báo gọi sinh lực của ông là kỳ diệu và https://thuviensach.vn nhận xét về phần thi môn đấu kiếm của ông là “sự bình tĩnh của Patton thật kỳ lạ và có suy tính trước. Ông rất khéo léo khai thác mọi nhược điểm của đối thủ”. Trước khi rời châu Âu, Patton và vợ đi du lịch tới Saumur, nơi đặt trường kỵ binh Pháp, và là nơi Patton dành ra 2 tuần lễ để thụ giáo một sĩ quan chỉ được biết với tên gọi sĩ quan phụ tá Cléry, huấn luyện viên của trường về môn đấu kiếm và là người thường được thừa nhận là kiếm sĩ giỏi nhất châu Âu. Patton không chỉ làm việc với chính kỹ năng sử dụng kiếm của mình mà còn học những nét đại cương của phương pháp Cléry, thứ mà ông muốn mang về cho quân đội Hoa Kỳ. Khi quay trở lại Trại Myer, Patton được Tham mưu trưởng lục quân, Tướng Leonard Wood, mời ăn tối cùng với bộ trưởng Stimson. Patton cũng gia nhập Câu lạc bộ Metropolitan, nơi tập trung những người ưu tú đầy quyền lực của Washing ton, và xây dựng một uy tín ngày càng cao trong tư cách một vận động viên đua ngựa, trong những cuộc tỷ thí bình thường lẫn có chướng ngại. Patton cưỡi ngựa như một con ma, tự đẩy mình tới bờ vực của nguy hiểm và xa hơn thế, trên hết là đảm bảo những ai thấy ông nỗ lực là đúng những đối tượng ông muốn họ thấy, ông gọi hành động này là: “Quảng cáo”. Tận dụng tối đa ảnh hưởng của Beatrice về tiếng Pháp, Patton đã viết một báo cáo chi tiết về kinh nghiệm của ông với sĩ quan phụ tá Cléry và từ đó bắt đầu cách mạng hóa kỹ thuật đánh gươm thay cho cách truyền thống vẫn được dạy cho kỵ binh Hoa Kỳ. Kỵ binh Hoa Kỳ được huấn luyện để chém trong khi, Patton báo cáo, người Pháp đâm bằng mũi kiếm. Patton tin rằng cách này có hiệu quả hơn là chém, vì nó rất phù hơp hơn với động từ tấn công. Nó giúp kỵ binh nhanh chóng tiếp cận kẻ thù. Vì gươm cong theo tiêu chuẩn quân đội Mỹ có chủ đích là chém, chứ không phải là đâm, nên Patton mạnh dạn đề nghị thay bằng một lưỡi kiếm thẳng để giúp tấn công bằng mũi kiếm. Bài báo cáo của Patton được chuyển tới viên tướng trợ lý quân lực, người này phát đi theo các kênh. Sau đó, nó được xuất bản trong một tạp https://thuviensach.vn chí quân sự, gây chú ý đáng kể, và Patton tung ra một chiến dịch nhỏ để làm cho thanh kiếm quân đội chính thức được thay đổi. Được giao một chức vụ tạm thời tại Bộ Tổng tham mưu, Patton liên hệ với hầu hết các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng tham mưu. Đầu năm 1913, bộ trưởng Chiến tranh Stimson, thông qua Bộ Tổng tham mưu lục quân, chỉ đạo Cục Quân nhu sản xuất 20.000 thanh gươm kỵ binh mới theo thiết kế của thiếu uý George S. Patton. Thanh gươm của quân lực Hoa Kỳ, M-1913, được khai sinh. Hiện vẫn còn được sử dụng, nó được gọi thân ái là “Gươm Patton”. Patton yêu thích kiếm thuật và, thậm chí mãi tới năm 1913, vẫn chân thành tin rằng thanh gươm còn có vai trò quan trọng trong chiến đấu thời hiện đại. Ông xuất bản một bài báo được nhiều người đọc về lịch sử của thanh gươm trong chiến tranh trên tờ tạp chí của binh chủng kỵ binh Cavalry Journal, cẩn thận rút ra những bài học từ quá khứ để áp dụng vào hiện tại. Tuy nhiên, người ta không thể không cảm thấy rằng, trong sự ủng hộ của ông đối với vũ khí, Patton ít chú ý tới chính thanh gươm hơn so với khai thác sự đồng cảm chuyên nghiệp và ưa thích của ông với nó. Thanh gươm là một phương tiện độc đáo để giành được sự nổi tiếng, và sự nổi tiếng là một phương tiện để thăng tiến bản thân. Ông cố gắng rất nhiều để tìm được sự cho phép của quân đội nhằm đi qua Pháp bằng tiền túi trong 6 tuần làm việc ở cấp độ nâng cao tại Saumur, để hoàn hảo kiếm thuật của mình với sự trợ giúp của Cléry và để mang về cho Trường Kỵ binh tại Trại Riley, Kansas, những chi tiết về phương pháp giảng dạy của Cléry. Sau khi trở về Mỹ, ông và Beatrice mau chóng xếp hành trang dọn tới Trại Riley. Ở một số phương diện, Kansas sẽ là một sự đi xuống thấy rõ sau nét thanh lịch gây phấn khích của thủ đô, nhưng Patton, sẽ là một học viên tại Trường Kỵ bỉnh cũng như là một huấn luyện viên đấu kiếm, được trao một danh hiệu đường bệ mà quân đội đặt ra đặc biệt cho ông: Master of Sword. Danh hiệu này là độc nhất vô nhị trong quân đội Hoa Kỳ, và nó chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý về phía viên sĩ quan trẻ có được nó. Dĩ nhiên, điều đó thật là hiển hách, nhưng thậm chí thu hút với Patton hơn là vòng hào quang lãng mạn, gợi lại nét cao quí lỗi thời phảng phất thời kỳ kỵ binh. https://thuviensach.vn Nó quá lạc hậu so với một thế giới đang ở đỉnh điểm của hiểm hoạ chiến tranh mà trong đó gươm và kỵ binh đều không tìm thấy chỗ đứng. Nhưng Patton hầu như chắc chắn là sẽ tìm thấy. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 3 ĐUỔI BẮT PANCHO VILLA Vào ngày 23 tháng 9, năm 1913, Patton báo cáo cho Trường Kỵ binh, Trại Riley, Kansas, để ghi danh như một học viên và, đồng thời, như một Master of Sword, để dạy các kỵ binh đàn em về nghệ thuật và khoa học của thanh gươm. Mặc dù Patton sẽ nổi lên sớm trong Thế chiến I như là một huấn luyện viên vĩ đại, nhưng ông không thích dạy kiếm thuật cho các sĩ quan mà phần lớn là những sĩ quan đàn anh và ít nhiều rõ ràng là rất ghét sự hướng dẫn từ một thiếu uý kênh kiệu về những gì họ có lẽ đã cho là một kỹ năng lỗi thời. Ông cũng cảm thấy mình có lỗi vì đã kéo Beatrice ra khỏi chốn mê hoặc của Trại Myer để đến một nơi như Trại Riley ở miền Trung Tây nước Mỹ. Mặc dù khu gia binh mà ông và gia đình dọn tới ở không đến nỗi nhếch nhác, nhưng chúng cũng khá ảm đạm. “Em chắc chắn đã từ bỏ nhiều thứ để hy sinh vì anh”, là lời ông thú nhận với Beatrice. Nếu Patton nản lòng thì ông không bao giờ cho phép những cảm xúc của mình xen vào công việc. Ông học tập chăm chỉ, giảng dạy nhiệt tình, và khi Ban phụ trách Kỵ binh yêu cầu ông soạn một cẩm nang nội qui cho kiếm M-1913 mà chính ông đã thiết kế, thì ông lao ngay vào công việc. (Tuy mắc chứng khó đọc nhưng Patton cũng chứng tỏ mình có kỹ năng viết tốt). Patton ngửi thấy mùi súng đạn phảng phất trong không khí vào tháng 4 năm 1914 khi Tổng thống Woodrow Wilson ra lệnh chiếm đóng thành phố cảng Veracruz của Mexico. Để tái lập một nền dân chủ thân hữu ở Mexico, Wilson muốn gạt Tướng Victoriano Huerta, người đã tiếm quyền tổng thống sau cuộc ám sát Francisco Madero vào năm trước. Wilson đang cân nhắc can thiệp quân sự khi sự cố bắt giữ một nhóm nhỏ những thủy thủ Hoa Kỳ tại Tampico buộc ông ra tay. Vào ngày 21 tháng 4, với sự chấp thuận của Quốc hội, Wilson gửi đi một lực lượng đổ bộ nhỏ để nắm quyền kiểm soát cảng Veracruz nhằm ngăn chặn sự đổ bộ của quân Mexico và https://thuviensach.vn những trang thiết bị khác được chuyển tới Huerta trên một con tàu của Đức. Sau khi đổ bộ, lực lượng này gặp phản kháng dữ dội. Wilson ra lệnh mở rộng việc chiếm đóng thành phố. Patton cầu cho chiến tranh toàn diện nổ ra. Trong một bức thư gửi cho cha mình ngày 19 tháng 4, ông viết: “Nếu chiến tranh ngắn ngủi thì sẽ không có cơ hội cho một người ở chức vụ của con có thể tạo lập danh tiếng..., nhưng nếu chiến tranh kéo dài,... một người đàn ông có danh tiếng về năng lực cá nhân nên xung phong hoặc trở thành một người chỉ huy”. Tướng Huerta từ chức tổng thống vào ngày 15 tháng 7, và mặc dù việc chiếm đóng Veracruz vẫn tiếp tục tới ngày 23 tháng 11, nhưng những hy vọng của Patton về một cuộc chiến tranh, dù ngắn hoặc dài, mau chóng phai dần. Tuy nhiên, ngay khi những triển vọng này trở nên nhạt đi thì tất cả châu Âu đã gia ơn cho vị thiếu uý trẻ bằng sự khởi đầu một cuộc tàn sát sau khi Gavrilo Princeps, một thiếu niên bị bệnh lao người Bosnia-Serb, bắn chết Đại công tước Áo-Hung và vợ khi họ đang đi qua những con phố của Sarajevo vào ngày 28 tháng 6, năm 1914. Như hầu hết người Mỹ khác, Patton không chắc rằng sự tranh chấp mờ nhạt ở châu Âu có liên quan gì tới Hoa Kỳ, nhưng chiến tranh mau chóng nổ ra, nhận chìm lục địa châu Âu. Chắc chắn, Patton nghĩ, nước Mỹ chẳng sớm thì muộn sẽ phải can thiệp. Và tốt hơn hết là nên can thiệp sớm. Vào ngày 11 tháng 11, năm 1914, sinh nhật lần thứ 29 của ông, Patton viết cho Papa: “Con chắc chắn là mình đang già đi... Con đặt mục tiêu vào tuổi 27 là chuẩn tướng vậy mà bây giờ con 29 tuổi vẫn chưa là trung úy”. Tuy nhiên, đối với Beatrice, ông đã đặt sự thật này trong ánh sáng huy hoàng mà ông có thể làm được: “Khi rụng bớt tóc so với bây giờ, anh sẽ trông như một kiếm sĩ đánh đôi người Đức”. Dù là Master of Sword, viên thiếu uý 29 tuổi thất vọng sâu sắc bởi thiếu cơ hội để giành lấy vinh quang. Đến bây giờ, với bất kỳ ai biết lắng nghe, ông trút sự giận dữ của mình lên Tổng thống Woodrow Wilson, người đã quyết định giữ cho Hoa Kỳ không tham chiến, thậm chí cả khi nhiều người https://thuviensach.vn Mỹ bị mất tích khi một tàu ngầm Đức bắn ngư lôi đánh chìm tàu buôn Lusitania của Anh. Tâm trạng của Patton bừng sáng vào ngày 28 tháng 2, năm 1915, khi Beatrice sinh con gái thứ hai, Kuth Ellen. Nhưng việc ông tốt nghiệp Trường Kỵ binh Mounted Service School vào tháng 6 có nghĩa là ông sẽ quay trở lại trung đoàn của mình, và sau đó nhận được tin là sẽ triển khai tới quần đảo Philippines. Kể từ năm 1898, khi Hoa Kỳ lấy được quần đảo Philippines từ tay người Tây Ban Nha như một phần chiến lợi phẩm của cuộc chiến Mỹ - Tây Ban Nha, một chuyến đi công tác ở đây gần như là cần thiết đốỉ với mọi sĩ quan trẻ nếu muốn được mọi người chấp nhận. Patton lo lắng vì ông biết rằng Philippines không phải là nơi mình sẽ trưởng thành và trở thành, trên thực tế, một ngõ cụt cho sự nghiệp của một sĩ quan. Luôn sẵn sàng nắm lấy bất kỳ cơ hội có lợi nào, Patton xin nghỉ phép 11 ngày để tới Washington, nơi ông thuyết phục các bạn bè có sức ảnh hưởng để được giao một nhiệm vụ khác. Họ cô gắng thu xếp một sự thuyên chuyển tới Trại Bliss, ở El Paso, bang Texas, trên biên giới Mexico. Chắc chắn đó không phải là một vườn hoa và chắc chắn là kém thoải mái hơn so với Manila, nhưng những rắc rối mới đang âm ỉ giữa Mexico và Hoa Kỳ, và Patton ngửi thấy khả năng hành động thực sự tại trại này. Mexico đang rối tung. Nhiều nhà lãnh đạo tương lai tranh giành quyền lực, trong đó có viên sĩ quan Victoriano Huerta tàn ác và nhà lãnh đạo cách mạng Venustiano Carranza ôn hoà hơn. Trong cuộc đấu tranh, những người ủng hộ của nhà lãnh đạo này hoặc nhà lãnh đạo kia đôi khi vượt biên giới vào nước Mỹ để bổ sung vũ khí với tiền mặt và hàng hóa “được giải phóng” từ những thị trấn ở Texas, New Mexico, và Arizona. Những đồn bốt biên giới của quân đội được kỳ vọng là sẽ tuần tra và giám sát vùng đất này và ngăn chặn những cuộc xâm nhập như thế. Hy vọng của Patton là các hành động tuần tra và giám sát sẽ mau chóng nổ ra thành một cuộc chiến tranh mở. Nó sẽ sớm nổ ra sau mấy tháng. Nhưng lúc này, Patton không thể tìm thấy ai ở Trại Bliss để nói với ông những gì ông được kỳ vọng sẽ làm. Cuối https://thuviensach.vn cùng, ông được báo tin rằng thực sự không có gì để ông làm cho tới khi cả trung đoàn tới. Giữa lúc đó, người ta đề nghị ông tìm hiểu để dự một cuộc thi sẽ giúp ông có đủ tư cách thăng tiến từ thiếu uý lên trung uý. Ông xin thêm thời gian để chuẩn bị, và vì không có gì lấy đi thời gian của ông, ông được gia hạn. Patton sử dụng thời gian này không chỉ để nghiên cứu mà, thật trơ trẽn, để bợ đỡ vị chủ tịch tiểu ban xét duyệt thăng chức bằng cách giúp ông ta huấn luyện những chú ngựa dùng cho môn thể thao polo của ông ta. Biết rằng vị tư lệnh của Trại Sheridan trước đây của mình là đại úy – giờ đây đã là thiếu tá - Francis Marshall, đang trú ở tại Trại Bliss trong một chuyến viếng thăm chính thức và là khách của một thành viên trong tiểu ban xét duyệt thăng chức, Patton đã lập tức tới thăm Marshall và người mời ông ta, tự tin rằng “thiếu tá Marshall sẽ khen ngợi khả năng và những thành đạt của anh”. Không hoài nghi gì là Marshall đã làm như vậy, vì Patton đã tham dự kỳ thi và mau chóng có đủ tư cách để được thăng chức. Việc thăng chức thực sự sẽ tới vào ngày 23 tháng 5, năm 1916. Chẳng bao lâu sau khi ông đậu kỳ thi, trung đoàn của Patton, Trung đoàn Kỵ binh số 8, đến Trại Bliss. Patton cùng các binh sĩ của mình được phái tới Sierra Blanca, một thị trấn biên giới Texas sơ khai với có lẽ khoảng 20 ngôi nhà cộng với một quán rượu. Nó là một thị trấn thường thấy trong những tiểu thuyết rẻ tiền, dân cư là những anh chàng cao-bồi và được cai quản bởi một cảnh sát trưởng thô lỗ tóc bạc trắng tên là Dave Allison, người sẽ mau chóng đánh bạn với viên sĩ quan trẻ tuổi. Bên ngoài vài con phố thô sơ của thị trấn là một phong cảnh tiêu điều, Patton dẫn lính tuần tra biên giới qua đó và, phi nước kiệu, ông săn thỏ. “Tôi rất thích loại công việc này”, ông viết với sự hài lòng. Một điều gây phấn khích hơn việc săn thỏ đã hé lộ một chân trời vào hôm trước ngày lễ Tạ ơn. Trong khi ở Sierra Blanca với Đội A của Trung đoàn Kỵ binh số 8, Patton nhận được một điện tín từ Trại Bliss cảnh báo về một cuộc tấn công vào thị trấn của khoảng 200 tên cướp Mexico. Vì tất cả các sĩ quan cấp trên đã ra ngoài trại để tuần tra, Patton là người chỉ huy. Ông viết cho cha mình rằng ông không tin vào “lời đồn” là sẽ có một cuộc https://thuviensach.vn tấn công, nhưng, trong bất kỳ trường hợp nào, ông vạch ra một kế hoạch chống trả, giao các điểm chiến đấu cho từng người trong số 100 binh sĩ, và lệnh cho mọi người ngủ cùng vũ khí. Ông viết: “Con ước gì chúng sẽ tới. Con có thể cho chúng một nghi thức chào đón thật tử tế’. Tuy nhiên, như Patton tiên đoán, không có gì xảy ra. Vào ngày lễ Tạ ơn, ông được lệnh tiến công một cứ điểm có 8 tên cướp Mexico được báo cáo là đã dựng trại trên phía sông Rio Grande thuộc phần đất Hoa Kỳ. Ông quyết định tung ra một cuộc tấn công cổ điển, với gươm tuốt trần vào lúc hoàng hôn, thời điểm mà kẻ địch dễ bị tổn thương nhất. Tuy nhiên, có rất ít thời gian để thưởng thức triển vọng của cuộc tấn công. Trước khi Patton dẫn lính của mình ra trận, viên đại úy và trung uý quay trở về và ra lệnh cho binh sĩ bỏ gươm của họ ở trại. Không có gươm, Master of Sword dẫn đội tuần tra trong một chuyến đi bằng ngựa buồn tẻ kéo dài 11 giờ dọc theo sông Rio Grande, không tìm thấy một người Mexico nào, rồi quay trở lại Sierra Blanca. Chẳng bao lâu, ông được lệnh trở lại Trại Bliss, nơi mà Beatrice và các con đã tới theo kế hoạch bà vạch ra như một chuyến tạm trú dài 2 tháng. Trước hết, kinh ngạc bởi những điều kiện sống ở đó và bị khủng hoảng bởi một cơn giông bụi kinh khiếp, bà yêu cầu chồng xin từ bỏ nhiệm vụ. Người viết tiểu sử đầu tiên của Patton, Ladislas Farago, mô tả Beatrice như một phụ nữ “hết sức giỏi giang trong hoàn cảnh phải đưa ra những quyết định khó khăn”, và bà đã chứng minh đỉều đó, mau chóng biết kiểm soát bản thân và bình tĩnh ứng xử. Thực ra, khi bắt đầu khai thác E1 Paso, bà đã kết luận rằng trước hết nó không đến nỗi quá tệ. Bà quyết tâm cùng con cái dọn vào khu nhà ở trong trại lính ảm đạm này. Khi gia đình nhà Patton ổn định trong ngôi nhà khiêm tốn của họ, cô em gái Nita đến thăm. Patton giới thiệu cô với một chỉ huy cao cấp hơn tại Trại Bliss, chuẩn tướng John J. Pershing. Nita Patton lúc đó 29 tuổi, chưa lập gia đình, chưa hẹn hò, và là một người rất biết gây ấn tượng giông như ông anh, được một trong những nhà viết tiểu sử của Pershing mô tả là “một cô gái vùng Amazon tóc vàng cao ráo”. Pershing đẹp trai, võ biền, ở tuổi 55, góa vợ một cách bi kịch vào ngày 27 tháng 8, năm 1915, khi một trận hoả https://thuviensach.vn hoạn quét qua khu gia binh ở Presidio tại San Francisco, giết chết vợ ông và 3 cô con gái trong khi ông đang làm nhiệm vụ tại Texas. Có một sự thu hút qua lại giữa Pershing và Nita, cô đã lưu lại Trại Bliss lâu hơn dự kiến. Theo sự quan tâm của Patton, triển vọng của việc hình thành tình cảm giữa em gái mình và vị tướng là nguồn gốc của một sự tốt lành sẽ đến trong tương lai. * * * Doroteo Arango, người sau này tự gọi mình là Francisco Villa, nhưng lại nổi danh thế giới với tên Pancho Villa, là con trai mồ côi của một công nhân đồn điền nghèo. Khi một trong những ông chủ đồn điền cưỡng hiếp chị gái ông, Pancho Villa đã giết ông ta, rồi trốn tới vùng rừng núi, nơi ông sống qua những năm thiếu niên như một kẻ lánh nạn. Ông học cách tồn tại, và cũng khám phá ra là mình sở hữu một sức hấp dẫn cá nhân cũng như tài năng bẩm sinh để tiến hành chiến tranh du kích. Vào năm 1909, ông gia nhập cuộc nổi dậy thành công của Francisco Madero chống lại chế độ độc tài của Porhrio Diaz. Trong quá trình đó, Villa bắt đầu toả sáng đến mức không thể phù hợp với những đồng nghiệp cao cấp hơn, và vào năm 1912, ông bị kết án tử hình bởi người đồng chí là Victoriano Huerta. Madero can thiệp và tống Villa vào tù. Ông trốn thoát tới Hoa Kỳ, và sau khi Madero bị ám sát vào năm 1913, quay trở lại Mexico, tập hợp một băng đảng gồm hàng ngàn người, sáp nhập vào Sư đoàn phương Bắc. Tự sáp nhập mình và quân lính dưới quyền vào đội quân của Venustiano Carranza, Villa chiến đấu chống tên độc tài Huerta, cùng với Carranza đi tới thắng lợi huy hoàng vào tháng 6 năm 1914. Ngay sau khi Villa và Carranza cưỡi ngựa vào Mexico City như những lãnh đạo chiến thắng của cuộc cách mạng, họ bắt đầu bất hoà, và Villa trốn tối vùng rừng núi của phía bắc với Emiliano Zapata. Những gì ông làm sau đó chưa bao giờ được giải thích một cách thoả đáng. Có lẽ ông oán giận sự ủng hộ của Tổng thống Wilson dành cho Carranza, người từng là đồng chí https://thuviensach.vn nhưng giờ đây là kẻ thù của ông. Có lẽ ông chỉ muốn chứng tỏ với đồng bào của mình và thế giới rằng chính ông, chứ không phải Carranza, mới là người kiểm soát phía bắc Mexico. Cho dù động cơ của ông là gì, trong suốt tháng Giêng năm 1916, Villa xử tử 17 công dân Mỹ ở thị trấn Santa Isabel của Mexico và, vào ngày 9 tháng 3, vượt qua biên giới với khoảng 500 “chiến sĩ Villistas” tấn công Columbus, New Mexico, ở đó, ông chiến đấu với cư dân địa phương cũng như với binh lính của Trung đoàn Kỵ binh số 13. 10 thường dân Mỹ và 14 lính Hoa Kỳ bị giết trong cuộc tấn công, trong khi thương vong của lực lượng của Villa cao hơn đáng kể, ít nhất 100 người chết. Đáp lại cuộc tấn công vào Columbus, Tổng thống Wilson ra lệnh cho Pershing thực hiện một “Cuộc viễn chinh trừng phạt”, vào Mexico với mục tiêu là bắt sống hoặc giết chết Pancho Villa. Điều này quả là gây phấn khích, nhưng Patton lo sợ rằng Pershing sẽ không gọi trung đoàn của ông, Trung đoàn Kỵ binh số 8, vào cuộc viễn chinh vì viên đại tá chỉ huy nó bị bệnh béo phì và có thể bị xem là không phù hợp. Trong bức thư gửi cha mình ngày 12 tháng 3, năm 1916, ông viết: “Nên có một điều luật xử tử những tên đại tá mập”. Những nỗi lo sợ của Patton chứng tỏ có cơ sở vững chắc: Pershing quyết định để Trung đoàn Kỵ binh thứ 8 ở lại pháo đài. Trong nỗi lo sợ bị loại bỏ khỏi hành động, Patton thuyết phục viên sĩ quan trợ lý hành chính tiến cử ông vào vị trí sĩ quan phụ tá cho Pershing. ông cũng nài xin thiếu tá John L. Hines, trợ lý hành chính được chỉ định của đoàn quân viễn chinh, và níu áo một trong những trợ lý thường trực của vị tướng là thiếu uý Martin C. Shallenberger. Sau đó, đích thân ông tìm tới Pershing, nói rằng ông sẽ làm bất kỳ việc gì, cho dù vụn vặt, nếu được phép gia nhập đoàn quân viễn chinh. Biết Pershing không thích báo chí, Patton đề nghị giao cho mình việc giao thiệp với các phóng viên báo đài, một điều, ông nói, mà ông đặc biệt thông thạo. (Trên thực tế, vào lúc đó, ông chưa bao giờ làm việc nhiều với cánh báo chí). Pershing loại Patton mà không cho ông biết quyết định của mình. Tuy nhiên, sáng hôm sau, Patton nhận một cú điện thoại từ vị tướng. https://thuviensach.vn “Thiếu uý Patton, anh mất bao lâu mới chuẩn bị xong?” Patton trả lời rằng ông đã xếp xong ba-lô. Ngạc nhiên, Pershing đáp: “Anh được chỉ định làm sĩ quan phụ tá”. Đoàn quân viễn chinh trừng phạt là một lực lượng gồm 2 lữ đoàn kỵ binh và một lữ đoàn bộ binh - tổng số lên tới 15.000 người - được bổ sung bởi Phi đội I với nửa tá máy bay Curtiss JN-2 “Jennies”, loại máy bay hiện đại của lực lượng Không lực Hỗ trợ Hoa Kỳ, nhưng hoàn toàn lỗi thời so với tiêu chuẩn hàng không thế giới. (Mặc dù các máy bay này tỏ ra rất không đáng tin cậy, nhưng chúng mê hoặc Patton, và trong Thế chiến II, ông sẽ tiên phong sử dụng máy bay để do thám và xác định mục tiêu trong suốt cuộc tiến quân dũng cảm của Tập đoàn quân số 3 băng qua nước Pháp). Qua gần một năm, từ tháng 3 năm 1916 cho tới tháng 2 năm 1917, Pershing dẫn đoàn quân của ông vào trong những vùng chân đồi phía đông lởm chởm đất đá của rặng núi Sierra Madres của Mexico. Là một sĩ quan hầu cận, Patton làm đủ mọi việc, từ đảm bảo vị tướng được ăn uôhg tốt cho tới trợ giúp ông ta kiểm tra chăm sóc sức khoẻ các chú ngựa, đoàn xe cơ giới, và binh sĩ; và phục vụ như một giao liên. Công việc sau cùng là một vai trò nguy hiểm, và Patton nhiệt tình chấp nhận nó. Vào tháng 4, ông tình nguyện đưa một bức thư tới Trung đoàn Kỵ binh số 11, mà trước đó đã tiến về phía nam và hiện không biết đang ở đâu. Patton viết rằng nó như “tìm một cây kim trong đống rơm”. Lúc chia tay, Pershing bắt tay ông và nhắc nhở: “Hãy cẩn trọng, có nhiều thảo khấu Villiastas’ lắm. Sau đó, vẫn cầm tay, ông nói: “Patton này, nhưng nên nhớ là nếu anh không giao được bức thư đó thì đừng quay về”. Dĩ nhiên là thông điệp được giao tới nơi. Thất vọng vì sự thất bại của cuộc viễn chinh là không thể bắt gặp, chứ chưa nói tới bắt giữ Pancho, Tướng Pershing quyết định nhắm vào một số thuộc hạ tin cẩn của Villa, trong đó cái tên quan trọng nhất là Julio Cardenas. Patton nài xin Pershing cho ông một cơ hội để tham gia vào cuộc săn lùng, và ông được tạm thời ghép vào Toán C, Trung đoàn Kỵ binh số 13. Biết rằng Cardenas đang sống trên một nông trại gần San Miguelito, Patton và một nhóm của Toán C lên ngựa ra đi vào giữa tháng 4. Họ không tìm thấy https://thuviensach.vn Cardenas, nhưng xác định được nơi ở của vợ và con, cũng như người chú của hắn. Trong một bức thư gửi cho cha ngày 17 tháng 4, Patton cho biết rằng “người chú là một người đàn ông can đảm và gần như đã chết trước khi khai cho con nghe”. Rõ ràng là Patton và binh sĩ của ông đã tra tấn người chú của Cardenas để lấy thông tin về nơi ẩn náu của hắn. Cũng rõ ràng là họ đã không thành công. Như Patton ghi lại trong nhật ký: “Đã cố lấy thông tin từ tên chú. Thất bại”. Vào tháng sau đó, ngày 14 tháng 5, Pershing phái Patton vừa đi lục soát vừa để mua bắp từ những nông gia người Mexico. Patton và nhóm của ông gồm 10 binh sĩ, 2 dẫn đường dân sự, và 2 tài xế dân sự ra đi trên 3 chiếc xe lính. Họ dừng lại tại hai ngôi làng, Coyote và Salsito, và mua những nhu yếu phẩm. Sau đó, Patton tiếp tục tới Rubio, nơi ông nhìn thấy một nhóm 60 người Mexico, một trong những người dẫn đường từng là thủ hạ của Villa nhận ra những người kia là tay chân của Villa và Cardenas. Điều này cho Patton thấy Cardenas đang ở gần đấy, ông và cả nhóm lái xe đi tiếp về phương bắc 6 dặm nữa để tới San Miguelito và cũng cái nông trang đó, nơi mà trước đó ông đã tìm thấy chú, vợ và con của Cardenas. Nhiều lần trong đời mình, Patton mô tả những gì xảy ra sau đó. Khoảng một dặm rưỡi về phía nam của ngôi nhà, mặt đất thấp xuống. Và người ta không thể bị nhìn thấy cho tới khi lên tới phía trên của chỗ đất nhô lên cao. Ngay khi vượt qua nó, tôi nhấn ga cho xe chạy thật nhanh qua khỏi ngôi nhà... 4 người được nhìn thấy đang lột da một con bò ở phía trước. Một người chạy vào nhà và ngay lập tức quay trở lại tiếp tục làm việc. Tôi dừng xe ở phía tây bắc ngôi nhà và 2 chiếc kia dừng lại ỏ phía tây nam. Tôi nhảy ra khỏi xe, tay trái cầm khẩu súng, vội vã đi tới cánh cửa hình vòm lớn dẫn tới khoảng sân trong... Tôi đi vòng qua góc sân và bước gần tới cánh cổng. Khi tôi còn cách cánh cổng khoảng 14 mét thì 3 tên cầm súng cưỡi ngựa chạy ra, và bắt đầu tiến về góc sân phía đông nam. Được dặn là không bắn, nên tôi chỉ rút khẩu súng lục và chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra... Khi cưỡi ngựa tới góc sân, chúng nhìn thấy người của tôi đang đi đến theo hướng đó nên quay trở lại và tất cả cùng nã súng vào tôi. Một viên đạn làm đất sỏi bắn tung toé. Tôi bắn trả 5 phát bằng khẩu súng lục báng ngà mới toanh của mình. Sau đó, người của tôi chạy vòng qua góc https://thuviensach.vn sân và bắt đầu nã đạn. Tôi không biết có ai ỏ trong nhà. Có nhiều cửa sổ ở cách phía tay phải tôi chừng mấy bước. Ngay khi tôi chạy tới góc sân, 3 phát đạn cắm xuống mặt đất cách tôi khoảng 2 mét và làm văng nhiều mảnh đất đá lên người tôi. Patton trước đó đã triển khai lực lượng nhỏ của mình một cách cẩn thận sao cho mọi lối thoát ra khỏi ngôi nhà đều bị bao vây. Tôi lắp đạn vào súng và lùi lại khi thấy một gã cưỡi ngựa ngay phía trước mặt. Tôi bắt đầu bắn vào hắn nhưng nhớ rằng Dave Allison luôn nói là nên bắn vào con ngựa của kẻ tẩu thoát và tôi đã làm như vậy, phát súng trúng ngay vào hông con ngựa. Hắn ngã xuống và ở khoảng cách chừng 9 mét, tất cả chúng tôi nã đạn vào hắn. Hắn đổ gục. Trong suốt cuộc đấu súng, một tên lính của Villa chạy ra khỏi nông trại gần như thoát được nhưng Patton và một số người đã xả đạn đuổi theo hắn. Hắn cũng gục ngã. Hai tên bị hạ, nhưng Patton cần biết có bao nhiêu tên lính Villa còn ở trong nhà và đâu đó trong nông trại. Ông leo lên mái nhà để quan sát. Khi ông định bước xuống từ mái nhà đầy bụi bặm, nó rách toạc và Patton rơi lọt qua chỗ rách nhưng không rơi xuống đất vì ông khuỳnh hai cánh tay để ghì lại. Patton cố thoát ra khỏi lỗ thủng. Giữa lúc đó, một trong những người dẫn đường của ông bắn hạ thêm một tên lính Villa nữa. Trong suốt cuộc phiêu lưu, Patton chú ý thấy 4 gã đàn ông đang lột da con bò cái vẫn tiếp tục làm công việc của họ, hoàn toàn phớt lò sự rối loạn. Patton ra lệnh dẫn họ lại, ông và 3 binh sĩ mỗi người túm lấy một gã trong khi lục soát bên trong nông trại. Những cặp mắt đầy căm thù của mẹ và vợ Cardenas (trong tay là đứa con gái sơ sinh của cô ta) khi họ đi theo những người đàn ông này. Một cách cẩn trọng, mở cánh cửa gỗ nặng nề, Patton tìm thấy nhiều phụ nữ già héo hon đang túm tụm cầu nguyện. Tóm lại, 3 người Mexico bị giết trong “Trận San Miguelito”. Một trong những kẻ bị bắn hạ là Julio Cardenas. Hai kẻ kia là một đại úy và một binh nhì của Villa. https://thuviensach.vn Patton ra lệnh buộc 3 cái xác lên phía trước mỗi chiếc xe hơi, tương tự như chiếc cúp thắng giải. Lúc chuẩn bị ròi đi, Patton đột nhiên thấy một nhóm có lẽ khoảng 50 tên lính Villa đang phi ngựa lại gần. Hai bên đấu súng qua lại, bên Hoa Kỳ trội hơn về quân số nhấn ga rồi rầm rầm chạy xuống con đường tới Rubio. (Hoặc như Patton mỉa mai ghi lại: “Chúng tôi rút lui một cách lịch sự”.) Với sự cẩn trọng, Patton ra lệnh cho một binh sĩ cắt đứt những đưòng dây điện tín dọc con đường để ngăn không cho tin tức về cuộc đấu súng được chuyển về thị trấn trước khi họ về tới. Sau khi chạy với tốc độ cao, nhóm binh sĩ không dừng lại cho tới khi về tới sở chỉ huy của Pershing. Ở đó, Patton bị vây quanh bởi đám đông các nhà báo đang đói tin về những gì đã xảy ra trong chuyến đi dài ngày và đơn điệu vào vùng đất của người Mexico, khô cằn như sa mạc xung quanh. Các tít báo nêu tên Patton, và, thậm chí những bài báo quân đội chính thức còn lặp đi lặp lại tên ông nhiều lần. George S. Patton giờ đây là một anh hùng - ít nhất trong mấy tuần lễ. Về lâu về dài, chuyến viễn chinh trừng phạt tạo ra nhiều hệ quả quan trọng hơn đối với ông. Chuyến đi bằng cơ giới của Patton tới San Miguelito trên thực tế là lần đầu tiên một đơn vị của quân lực Hoa Kỳ được chở vào trận đánh bằng xe cơ giới. Trong cuộc tấn công vào nông trại của Cardenas, Patton, người sẽ bênh vực cho xe tăng trong Thế chiến I và sẽ là người Mỹ đi đầu cho vận động chiến trong Thế chiến II, ít nhiều đã vô tình trở thành tiên phong trong chiến tranh cơ giới hóa. Thậm chí quan trọng hơn, câu chuyện San Miguelito - và sự thực là toàn bộ cuộc viễn chinh trừng phạt - đã tạo ra một môi liên hệ gắn bó giữa Patton và Pershing. Patton nhìn thấy ở Pershing một vị tướng lý tưởng, khuôn mẫu mà từ đó các chỉ huy quân đội nên được đúc theo. Ông ta không chỉ có sự hiểu biết vững vàng về chiến lược và chiến thuật, mà còn đưa ra những mệnh lệnh sáng suốt, đòi hỏi tính kỷ luật tuyệt đối, giành được và đáp lại sự trung thành tuyệt đối, và, trong khi không bao giờ quên bức tranh toàn cảnh, ông ta cũng không bỏ qua những chi tiết tế vi nhất. Ngoài ra, ông ta tỏ ra thích hợp với binh nghiệp. Từng nét, ông ta đều toát lên phong thái của một vị tướng tư lệnh. Patton https://thuviensach.vn ngưỡng mộ và học tập ông ta. Ông quả quyết là mình cũng sẽ trở thành một vị tướng - tương tự như John J. Pershing. Nhưng San Miguelito chứng tỏ là đỉnh cao của cuộc viễn chinh trừng phạt. Muốn tránh một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn, Tổng thống Wilson ra lệnh cho Pershing rút về trong phạm vi 150 dặm cách biên giới Mỹ Mexico, và, từ thời điểm đó, tâm trạng chán nản xâm nhập Patton. Vào ngày 18 tháng 5, Patton ghi lại trong nhật ký: “Tôi không làm gì hết mà chỉ đi tắm”. Vào ngày hôm sau: “Gió thổi kinh khiếp cả ngày. Không ai làm việc gì cả”. Và như thế, những ngày buồn chán cứ trôi qua. Thiếu uý Patton cuối cùng được thăng cấp trung uý vào ngày 23 tháng 5, năm 1916, và ông dành nhiều thời gian nhàn rỗi để viết thư cho gia đình, bao gồm những bức thư khích lệ Papa vừa quyết định chạy đua vào ghế Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Vào tháng 8, Patton tháp tùng Pershing trở lại Columbus, New Mexico, để nghỉ hè trong mấy ngày. Beatrice gặp chồng ở đó, và Nita cũng có mặt để chào đón Pershing. Mọi người bắt đầu cho rằng, cho dù có cách biệt về tuổi tác, cả hai sẽ lấy nhau. Như Patton nhận xét với Beatrice: “Nita chưa thể ở bậc trên chúng ta”. Chẳng bao lâu Patton quay trở lại sở chỉ huy tại Mexico, nơi vào đầu tháng 10, ông gặp một tai nạn kỳ lạ. Trong khi viết một báo cáo trong lều, chiếc đèn đốt bằng xăng phát nổ, hất ngọn lửa vào mặt và tóc ông. Sau này, ông giải thích cho Beatrice như sau: “Anh chạy ra ngoài và tự dập tắt ngọn lửa”. Những vết bỏng rất nghiêm trọng và gây đau đớn, nhưng Patton không bị sẹo vĩnh viễn và thị lực của ông cũng không bị ảnh hưởng. Ông được cho nghỉ bệnh, gặp Beatrice ở Columbus, rồi đi du lịch bằng tàu hỏa về vùng quê thời thơ ấu của mình ở Lake Vineyard và, ở Los Angeles, được bác sĩ Billy Wills, một người chú dượng, tiếp đãi. Kỳ nghỉ bệnh giúp ông được ở bên cạnh Papa khi ông biết rằng cha mình đã thảm bại trước đối thủ thuộc đảng Cộng hòa cùng ứng cử vào ghế thượng nghị sĩ. Đối với Tướng Pershing, Patton đã gây ấn tượng rõ rệt và sâu đậm như một nhân vật quan trọng; tuy nhiên, ông đã làm như vậy theo nhiều cách hơn dự tính. Pershing thường chứng tỏ sự quan tâm dành cho Patton qua https://thuviensach.vn việc đưa ông vào trong giới của mình hầu như ngay sau khi Hoa Kỳ bước vào Thế chiến. Tuy nhiên, trước đó, trong bức thư đề ngày 16 tháng 10, năm 1916, gửi cho Patton đang trong giai đoạn hồi phục, Pershing không chỉ chúc ông mau lành bệnh, mà còn cảm động khi đưa ra một lời nhắc nhở về những hiểm hoạ của tính tư lợi: “Đừng quá khư khư với những quan điểm cá nhân. Anh phải nhớ rằng khi bước vào quân ngũ, chúng ta làm như vậy với sự hiểu biết rõ rằng bổn phận đầu tiên là dành cho đất nưốc, hoàn toàn không màng tới những quan điểm riêng của mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào”. Với rất nhiều những gì ông học và chưa học được từ tấm gương của Tướng Pershing, Patton có lẽ không bao giờ thực sự ghi nhớ chúng. Chắc chắn là ông không bao giờ thấy mình có khả năng đưa chúng vào thực tế. https://thuviensach.vn Chương 4 ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI VÀ VŨ KHÍ MỚI George S. Patton III đã gặt hái được không ít danh tiếng khi truy lùng Pancho Villa mà không được; danh tiếng ấy có sức quyến rũ tuy rất ngắn ngủi, nhưng ông cũng đã chịu đựng nhiều sự buồn chán. Đây không phải là cuộc chiến mà Patton mong muốn, nhưng ông gặt hái được lợi ích cho sự nghiệp không thể ước tính được khi bước vào quĩ đạo của John J. Pershing. Sau khi được gắn thêm một sao nữa để trở thành trung tướng từ trận thắng ở Mexico, Pershing bắt đầu con đưòng thăng tiến. Patton tiếp tục phục vụ như một phụ tá thường trực của ông ta cho tới khi Pershing thay thiếu tướng Frederick Funston để trở thành trưởng Phòng tham mưu phương Nam (Southern Department) và rời tới sở chỉ huy mới ở San Antonio. Patton ở lại El Paso với trung đoàn kỵ binh và được giao chỉ huy một toán kỵ binh. Ông cũng dễ dàng thi đậu kỳ thi thăng chức để lên cấp đại úy. Nó không hại gì tới viễn cảnh của Patton là Pershing và Nita tiếp tục đến gần nhau hơn. Hôn nhân dường như rất là có thể, thậm chí sắp xảy ra. Vào cuối cuộc viễn chinh trừng phạt, viễn cảnh của Patton trở nên sáng sủa. Sau đó, chúng còn sáng sủa hơn. Vào ngày 6 tháng 4, năm 1917, chỉ hai tháng sau khi Patton trở về từ Mexico, Tổng thống Wilson, sau khi tái đắc cử vào nhiệm kỳ thứ 2 với khẩu hiệu tranh cử là “Người giữ cho chúng ta đứng ngoài chiến tranh”, nay lại quyết định rằng Hoa Kỳ không còn chịu đựng được những cuộc tấn công của người Đức cho dù vẫn là nước trung lập. Những cuộc tấn công của tàu ngầm Đức vào các tàu của Anh chở hành khách người Mỹ (trong đó có vụ đắm tàu Luisitania ngày 7 tháng 5, năm 1915) và sự tiết lộ bức điện tín lừng danh có tên là Zimmermann Telegram, trong đó chính phủ Đức đề nghị với Mexico một liên minh quân sự chống Hoa Kỳ, cũng như nhận thức của quần chúng ngày càng tăng rằng bản thân sự xâm lược của đế quốc Đức tượng trưng cho một mối đe dọa dai dẳng https://thuviensach.vn cho nền dân chủ Mỹ, khiến tổng thống yêu cầu Quốc hội tuyên chiến chống Đức và những “Thế lực Trung tâm” khác. Tuy nhiên, người đầu tiên cố tham gia vào cuộc chiến không phải là George mà là Papa. Hy vọng được chính phủ giao cho một chức vụ xứng đáng, ông lên tàu hỏa hướng về Washington. Đi cùng ông là vợ và cô con gái Nita. Vì Nita, họ dừng ở San Antonio để thăm Pershing, và khám phá ra rằng Bộ Chiến tranh vừa triệu tập ông ta về thủ đô. Cả bốn người đón cũng chuyến tàu hỏa đó để đi nốt phần đường còn lại tới Washington. Tại Bộ Chiến tranh, Pershing nhận lệnh tổ chức một sư đoàn, chỉ huy nó, và rồi đi với nó sang Pháp trong tư cách là sự đóng góp đầu tiên của Hoa Kỳ cho nỗ lực chiến tranh của lực lượng Đồng minh. Pershing mau chóng lên một danh sách các sĩ quan, gồm cả Patton, người mà ông muốn có mặt trong ban tham mưu của mình. Nhưng trước khi lệnh có thể bị thu hồi thì Bộ Chiến tranh lại mở rộng trách nhiệm giao phó cho Pershing. Ông ta sẽ không chỉ lãnh đạo một sư đoàn tới Pháp mà ông còn sẽ lãnh đạo toàn bộ “Lực lượng Viễn chinh Hoa Kỳ” và chỉ huy mọi người lính mà đất nước gửi tới châu Âu. Cùng lúc đó, Pershing biết rằng Bộ Chiến tranh sắp chỉ định Patton tới Front Royal, Virginia, để mua ngựa cho quân đội. Tới đây, sự quan tâm tới Patton của cá nhân vị tướng là ông ta đã nỗ lực hủy lệnh đó và rồi đòi sĩ quan trợ lý gửi cho Patton một bức điện tín vào ngày 18 tháng 5, lệnh cho ông phải báo cáo cho mình, Pershing, ở Washington. Trách nhiệm đột nhiên đặt lên vai Pershing thật kinh khủng. Quân đội của năm 1916, rút ra từ cuộc viễn chinh trừng phạt, gồm khoảng 133.000 sĩ quan và binh sĩ, và chỉ huy cao cấp của nó không những bận rộn với những kế hoạch chiến tranh lớn mà còn với những sự vụ như bản thiết kế thanh gươm mới của Patton và tập sách cẩm nang kèm theo. Bây giờ, thông qua một sự kết hợp giữa chế độ cưỡng bách tòng quân với đăng lính vì lòng yêu nước, quân đội sẽ gia tăng tới 4,5 triệu người trước tháng 11, năm 1918. Khoảng 2 triệu lính sẽ được gửi tới châu Âu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Pershing. Sự tập trung của Patton là làm cách nào khai thác tốt nhất vận may tuyệt vời này để trở thành một thành viên trong giới thân cận của Pershing. Có lẽ https://thuviensach.vn phải mất hàng tháng trời mới đưa được toàn bộ quân qua châu Âu, nhưng ông, George Patton, vừa được thăng lên cấp bậc đại úy vào ngày 15 tháng 5, sẽ “qua đó” gần như ngay lập tức như là một phần đợt sóng đầu tiên của người Mỹ. Papa không gặp may. Không ai giao việc cho ông ở Washington, vì thế ông, vợ ông và Nita quay trở lại California, nơi Nita chia thời gian của mình giữa công việc tình nguyện viên phục vụ quân đội và viết những bức thư dài cho Perhing. Patton là một trong số 60 sĩ quan và một nhóm hỗn hợp 120 người mới đăng ký nhập ngũ và một vài thư ký dân sự khác cùng vị tướng của họ đi Liverpool trên chiếc tàu khách Baltic vào ngày 28 tháng 5. Tàu khách Baltic cập bến ở Liverpool ngày 8 tháng 6. Từ đó, Pershing và ban tham mưu lên tàu hỏa tới London và được chào đón tại nhà ga Euston bởi vị đại sứ Mỹ và nhiều người khác. Pershing vào trú tại khách sạn sang trọng Savoy Hotel, trong khi Patton và 67 người khác dưới quyền ông được đưa tới một khu gia binh, trong số nhiều khu, ở Tháp London. Ngày 13 tháng 6, Pershing và ban tham mưu rời London đi Paris. Patton không vui tại Kinh đô Ánh sáng, vì ở đó, cuộc chiến tranh của ông ngay lập tức bị trì trệ, trở thành một sự vụ nhàm chán là quản lý đám lính cần vụ, trông coi vệ binh và điều lái xe. Vào tháng 7, trước khi Pershing tiến gần tối mặt trận thực sự và yêu cầu đại úy Patton đi theo trong vai trò sĩ quan phụ tá. Cùng với Pershing, Patton kiểm tra một toán quân Mỹ mới tới đang rèn luyện tại St. Dizier, đông bắc nước Pháp. Trong mắt Patton, các sĩ quan này dường như lưòi biếng và binh lính thì nhếch nhác. Thấy những viên sĩ quan hờ hững đang vờ chỉ đạo những người lính nửa vời, với Patton, là một sự biện minh cho việc quát tháo và huấn luyện sắt đá của ông đối với binh sĩ tại West Point trong thời gianngắn ngủi ở vai trò hạ sĩ học viên. Tại đây sẽ diễn ra những hệ lụy của việc thất bại trong cách cư xử “quá quân sự”. Một hệ lụy đáng kể khác nữa là: trước tháng 9, Pershing cảm thấy mình đã huấn luyện đủ một lực lượng để có thể bắt đầu triển khai chiến đâu. Ồng đã sắp đặt đưa những người Mỹ đầu tiên vào khu Lorraine tương đốĩ yên https://thuviensach.vn tĩnh, và vì vậy, vào ngày 1 tháng 9, Pershing chuyển sở chỉ huy và ban tham mưu từ Paris tới Chaumont. Thành phô' nhỏ này mau chóng trở thành một khu phức hợp gồm những trại huấn luyện và trường quân sự đặc biệt, qua đó những lớp lính Mỹ không ngừng gia tăng chẳng bao lâu sẽ hành quân. Ngoài việc tiếp tục phục vụ trong vai trò phụ tá cho Pershing, Patton còn được chỉ định vào ngày 13 tháng 9, phụ trách đại đội bảo vệ sở chỉ huy gồm 250 binh sĩ và một đoàn xe gồm 90 chiếc xe hơi. Đó không phải là một công việc khiến ông hài lòng, và anh chàng Patton nóng tính luôn nghiêm khắc quát nạt, khăng khăng đòi các thuộc cấp phải có hiệu suất làm việc và tuân thủ kỷ luật không sai sót, phải có phong thái quân nhân và sự nhã nhặn lịch thiệp. Bất chấp binh lính nghĩ ra sao về Patton, Pershing rất ấn tượng, và vì chắc chắn là sở chỉ huy ở Chaumont sẽ mau chóng mở rộng, lúc này Patton ở vào một vị trí hoàn hảo để tiếp nhận quyền chỉ huy lớn hơn và sẽ mau chóng thăng cấp thiếu tá. Gần gũi với giới quyền lực, mau chóng thăng cấp - xét về bề mặt, đây là những gì Patton luôn hy vọng có được. Nhưng ông ngày càng cảm thấy chán ghét. Lúc ngắm nhìn và suy ngẫm về những khẩu súng phòng không mà ông sẽ chỉ huy - nhưng không bao giờ được phép bắn - ông thú nhận vói Breatrice rằng ông “chán công việc của mình” và rằng “anh sẽ đổi công việc này để lấy hầu như bâ't kỳ công việc nào khác”. Vì thế, ông bắt đầu tìm kiếm “bất kỳ công việc nào”, và chẳng bao lâu những gì ông tìm thây là một vũ khí mới mẻ, xấu xí, và chưa được chứng minh là có hiệu quả hay không mà người Anh gọi là “xe tăng”. Khi đại tá LeRoy Eltinge đột nhiên hỏi ông là liệu ông có muốn là một sĩ quan thiết giáp hay không, Patton buột miệng trả lời là muốn. Sau đó, ông thảo luận về điều này với một sĩ quan khác, đại tá Frank McCoy, “người đã khuyên anh viết thư xin rằng trong trường hợp lực lượng xe tăng được tổ chức thì tên anh sẽ được cân nhắc. Anh đã làm như vậy”. Theo một cách gần như là không chủ định, George S. Patton III đã tiến tới đúng lĩnh vực mà với nó, tên tuổi của ông sẽ được kết nối gần gũi nhất. Ông viết cho Pershing, tự tiến cử mình như là người có đủ năng lực cho lực lượng xe tăng vì cách sử https://thuviensach.vn dụng chúng “tương tự như bổn phận được thực hiện bởi kỵ binh trong những cuộc chiến bình thường” và “tôi là một kỵ binh”. Hơn nữa, “tôi luôn có một toán lính biết bắn giỏi vì vậy hãy nghĩ rằng tôi là một nhà huấn luyện giỏi về bắn súng. Người ta nói rằng bắn chính xác rất cần thiết đối với người sử dụng xe tăng”. Ngoài ra, Patton còn nêu kinh nghiệm của ông với các máy móc chạy xăng dầu, sử dụng và sửa chữa “xe chạy xăng”, khả năng lưu loát tiếng Pháp (“vì thế tôi có thể nhận thông tin trực tiếp từ người Pháp”), tinh thần ham chiến đấu và sẵn sàng nắm lấy cơ hội. Ông kết thúc bằng việc nhắc Pershing về cuộc đấu súng ở San Miguelito: “Tôi tin rằng tôi là người Mỹ duy nhất từng thực hiện một cuộc tấn công bằng xe máy”. Vì ngành bảo trì xe tăng Mỹ chưa được mở ra, Pershing không vội trả lời trực tiếp bức thư của Patton, nhưng thay vào đó hỏi Patton liệu sau khi thăng cấp thiếu tá (sẽ xảy ra vào ngày 23 tháng 1 năm 1918), ông có muôn tiếp tục làm việc trong ban tham mưu hay là chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh. Patton đáp ngay: ông muốn chiến đấu với những người lính. Vào giữa tháng 10, Patton bắt đầu cảm thấy đau yếu. Tự khám bệnh trước gương, thấy nước da của mình đã chuyển qua màu vàng, ông mau chóng báo cáo với bệnh viện của căn cứ, nơi ông được chẩn đoán bị bệnh “vàng da”. Ông được đưa vào cùng phòng với đại tá Fox Conner, người đang hồi phục sau giải phẫu vì “tắc ruột”. Là một sĩ quan tử tế có ảnh hưởng sớm lên Pershing cũng như George c. Marshall và Dwight D. Eisenhower, Conner khuyên Patton quên xe tăng đi và cố gắng trở thành một thiếu tá bộ binh. Patton đồng ý, nhưng ngay đêm hôm sau, đại tá Eltinge tới thăm, báo tin rằng một trường thiết giáp Mỹ sẽ được mở ở Langres vào ngày 15 tháng 11, và hỏi lại Patton về vấn đề đó. “Liệu tôi có nên nhận hay không. Dù quyết tâm của tôi là ngược lại, tôi vẫn trả lời là nhận. Nhưng tôi cũng thảo luận về những được và mất của nó với đại tá E. Conner và lại quyết định nghiêng về bộ binh”. Patton rời bệnh viện ngày 3 tháng 11 và khi được lệnh vào ngày 10 tháng 11 nhận trách nhiệm phụ trách trường thiết giáp, ông lo rằng mình đã đưa ra quyết định sai lầm. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, ông chấp nhận những gì bấy giờ ông cho là https://thuviensach.vn “số mệnh”. Bên cạnh đó, điều thực sự quan trọng không phải là liệu ông sẽ chỉ huy bộ binh hoặc xe tăng, mà là ông không còn gắn bó với nhóm ảnh hưởng của Pershing. Sự liên kết với người chỉ huy của Lực lượng Viễn chinh Hoa Kỳ đã mang lại cho ông con đường thăng tiến, nhưng thời cơ đã tới, Patton quyết định, ông sẽ tự lập để thành công. Như để tạo điều kiện cho số mệnh, Patton tính toán những lợi điểm của việc gia nhập vào binh chủng thiết giáp. Trước tiên là ông có sự độc nhất. Bộ binh có nhiều thiếu tá. Patton sẽ là viên thiếu tá duy nhất trong binh chủng thiết giáp. Thứ hai là vị thế của binh chủng này. Bộ binh trong Thế chiến I chỉ là những ngày lạnh lẽo và những đêm khốn khổ trong các chiến hào đầy bùn. Lính thiết giáp chỉ chiến đấu khi có tấn công. Giữa những hành động quân sự, họ sống trong tiện nghi thoải mái ở sở chỉ huy ấm áp và khô ráo. (Patton thích chiến đấu. Ông không quan tâm nhiều tới bị lấm bùn đất). Cuối cùng là các xe tăng sẽ thực sự có thể làm nên chuyện. Vào lúc đó, ông chỉ có mấy suy nghĩ như trên. Xe tăng ồn ào, khó coi, và không đáng tin cậy về mặt cơ khí. Tuy nhiên, về nguyên tắc, chúng có thể băng qua chiến hào, ủi sập hàng rào kẽm gai, và đánh bạt hỏa lực súng trường và súng máy trong khi nã pháo và súng máy đáp trả. Những khả năng này cho chúng những gì mà các tay súng trong chiến hào bị bế tắc còn thiếu - sự cơ động. Xe tăng có thể là câu trả lời cho thế bế tắc người ta phải chịu đựng trên Mặt trận phía Tây từ hồi năm 1914. Ít nhất, nó là những gì được gọi là nguyên tắc. Patton viết cho Papa vào ngày 16 tháng 11, năm 1917: “Dĩ nhiên có 50% khả năng là xe tăng sẽ không làm được gì cả nhưng nếu làm được thì chúng sẽ mang lại hiệu quả rất to lớn”. Và ông tiếp tục phác thảo những gì mà ông gọi là “giấc mơ vàng”. “1. Đầu tiên, con sẽ lãnh đạo trường thiết giáp. 2. Sau đó, nó sẽ tổ chức thành một tiểu đoàn. Con sẽ chỉ huy nó. 3. Rồi nếu con thành công và các xe tăng cũng làm nên chuyện và chiến tranh sẽ kéo dài thì con sẽ thành lập trung đoàn (xe tăng) đầu tiên. https://thuviensach.vn 4. Cũng với từ “NẾU” như trên, nó sẽ trở thành một lữ đoàn và con sẽ được gắn sao [của một vị chuẩn tướng]. Patton viết thêm: “Ngoài ra, xe tăng sẽ là một quân bài tuyệt vời trên báo và các tạp chí ảnh”. Còn có một lợi điểm nữa. Mặc dù bản thân những chiếc xe tăng có tỷ lệ thương vong cao đến 25%, nhưng tỷ lệ thương vong trong một khẩu đội lính xe tăng chỉ là khoảng 7,5%, “thấp hơn nhiều so với bộ binh”. Trong xe tăng, “bạn không dễ gì bị thương. Bạn hoặc là bị bắn nát bởi một phát súng trực diện hoặc là không bị chạm tới chân lông”. Trước khi tới trường thiết giáp Hoa Kỳ, Patton dành ra 2 tuần tại trường thiết giáp Pháp gần Compiegne để nhồi nhét vào đầu mình mọi thứ về cách hoạt động của xe tăng và những gì chúng có thể và không thể làm. Không như các xe tăng nặng nề của người Anh, mà cơ bản là những khẩu pháo tự hành chậm chạp, xe tăng Pháp nhẹ nhàng, khá giống một hiệp sĩ trên lưng ngựa được cơ giới hóa: cơ động, được bọc thép, và có khả năng sát thương. Ông đâm ra mê mẩn những cỗ máy đó. Vào lúc này, từ ngày 20 tháng 11 cho tới ngày 5 tháng 12, năm 1917, trong khi Patton đang ở tại Compiegne, trận chiến Cambrai xảy ra. Đây là lần đầu tiên xe tăng được sử dụng trong chiến đấu một cách nghiêm chỉnh. Gần 500 xe tăng Anh dẫn bộ binh tiến quân hơn 7 dặm chỉ trong 4 tiếng đồng hồ, một thành tựu ngoạn mục trong cuộc chiến giao thông hào mà sự tiến quân được đo lường theo những lít máu đổ ra trên mỗi thước đất. Tuy nhiên, trước khi trận đấu chấm dứt, bên Đức phản công đẩy lui quân Anh về lại phòng tuyến ban đầu. Đối với Patton, xe tăng đã tự chứng tỏ khả năng của chúng. Bây giờ, mọi thứ cần có là một vị tư lệnh có khả năng sử dụng chúng một cách thích hợp, biết dẫn dắt chúng với sự hăng say chiến đấu không biết sợ và đảm bảo rằng cuộc tấn công tiếp theo sẽ đột phá những lỗ hổng mà xe tăng đã tạo ra trong tuyến phòng thủ của kẻ địch. Patton không chỉ quan tâm tới những bài học rút ra từ Cambrai. Ngay sau trận chiến này, binh chủng xe tăng mới bị tràn ngập bởi những tờ đơn gửi tới xin thuyên chuyển. Patton, người đầu tiên của thứ mà ông tin là sẽ trở thành một truyền thông mới, trên hết, tự chúc mừng mình về việc đã https://thuviensach.vn đưa ra một quyết định đúng đắn. Sau đó, trong niềm hân hoan cao độ, ông đột nhiên thú nhận với Beatrice rằng ông sợ hãi và lo lắng. Khi sắp mở trường thiết giáp, ông bị một cơn khủng hoảng lòng tự tin gợi nhớ lại năm đầu tiên tại West Point và lường trước được rằng mình sẽ bị tấn công bởi sự tuyệt vọng và ngã lòng phải chịu đựng giữa 2 cuộc thế chiến. Ông biết công việc này “là to tát vì mọi thứ phải được tạo ra và không có gì để bắt đầu, không có gì ngoài anh để bắt đầu”. Nói như vậy là không ngoa. Mặc dù một sĩ quan cao cấp, đại tá Samuel D. Rockenbach, được chỉ định là tư lệnh binh chủng thiết giáp (cũng được gọi là Quân đoàn Thiết giáp) và phụ trách huấn luyện lính tăng Hoa Kỳ để sử dụng những xe cơ giới nặng của Anh, Patton được kỳ vọng đơn độc tạo ra một lực lượng Mỹ thành thạo trong việc sử dụng những xe tăng nhẹ của Pháp. Vào ngày 15 tháng 12, năm 1917, ông ghi trong nhật ký như sau: “Đây là ngày cuối cùng [của tôi] trong vai trò sĩ quan tham mưu. Bây giờ, tôi tự mình đứng lên hoặc té ngã”. * * * Địa điểm được chọn để lập trường thiết giáp Hoa Kỳ phù hợp đến hoàn hảo với nhận thức sâu sắc về lịch sử của Patton. Langres từng là một trại Lê dương La Mã và, sau hàng thế kỷ, là một pháo đài Trung cổ. Mặc dù Rockenbach là sếp của ông, nhưng Patton có sự hiểu biết về chiến thuật và kỹ thuật cao hơn và mau chóng thuyết phục vị đại tá bảo thủ làm hầu hết mọi việc theo cách của ông. Ông cũng mau chóng áp đặt ý chí của mình lên các sĩ quan Quân đoàn Pháo bờ biển số 24 là những học viên đầu tiên của ông. Đối với họ, bài học thứ nhất không có gì liên quan tới xe tăng và mọi thứ chỉ liên quan tới kỷ luật và phong thái của người lính. Patton quả quyết rằng những người được giao cho ông sẽ là những người lính giỏi và lính thiết giáp giỏi - theo chính trật tự đó. Mặc dù thái độ này làm nhớ về những ngày ông còn là một hạ sĩ học viên, nhưng ý niệm của ông về tính kỷ luật đã trưởng thành đáng kể. Kỷ luật không phải là điều về bản chất cần phải https://thuviensach.vn đạt được, mà như Patton tin tưởng, là điều thiết yếu để cứu mạng sống trong trận đánh vì nó là phương tiện để đảm bảo có “sự phục tùng ngay lập tức, vui vẻ, không do dự” trước các mệnh lệnh. Hơn nữa, Patton không bao giờ đòi hỏi thành tích đỉnh cao từ binh sĩ mà không cho lại họ một thứ gì xứng đáng. Ông đảm bảo rằng những khu gia binh tiện nghi và những bữa ăn nóng sốt đang chờ đợi mỗi người lính mới khi họ đến, từ 24 người đầu tiên tới những con số ngày càng gia tăng sau đó. Từ đầu, Patton muốn binh sĩ của mình là những người giỏi nhất, và như ông thấy, buộc ông phải đảm bảo rằng họ được đối xử như những người giỏi nhất. Sự kết hợp giữa đòi hỏi sự cống hiến cao nhất với cho lại nhiều nhất đã tạo ra một mối hên hệ đặc biệt giữa Patton và các thuộc cấp. Dù có ý chí mạnh mẽ, Patton cũng biết khi nào phải lịch sự với cấp trên của mình. Tại Langres, ông hiểu rằng phần lớn quân đội hoặc là dè bỉu vũ khí mới hoặc là cảm thấy bị đe dọa. Khi nói chuyện với các sĩ quan cao cấp về xe tăng, ông luôn định nghĩa và mô tả vai trò của chúng như sự hỗ trợ cho bộ binh, một sự hỗ trợ và bổ sung cho công việc quan trọng hơn hết của lính bộ binh. Nếu như có tầm nhìn là sẽ hun đúc Quân đoàn Thiết giáp thành một binh chủng tự trị thì ông đã giữ bí mật, và thay vào đó là tập trung vào việc khiến các sĩ quan bộ binh có truyền thống nhất phải coi trọng tiềm năng của thứ vũ khí mới mẻ, ồn ào, cục mịch này. Rất lo lắng khi bước vào lãnh vực mới, Patton dành thời gian nghỉ ngơi để theo học Trường Cao đẳng Tham mưu ở Langres. Ông khao khát phiêu lưu và vinh quang, nhưng ông tự xem mình, trên hết, là một người lính chuyên nghiệp. Kinh nghiệm tại trường cao đẳng giúp ông liên lạc với những người như George C. Marshall và Adna Romanza Chaffee Jr., cả hai viên tướng này đều sẽ nắm giữ những vị trí cao cấp trong quân đội, và chính Patton tiếp tục tiến lên, mau chóng gặt hái được sự đề bạt thời chiến tới cấp bậc trung tá vào ngày 3 tháng 11, nãm 1918, sau khi chỉ ở cấp bậc thiếu tá 3 tháng. Vào ngày 20 tháng 8, năm 1918, trong khi tham dự một bài giảng ở Trường Cao đẳng Tham mưu, Patton nhận được một bức thư ngắn triệu tập https://thuviensach.vn ông tới văn phòng của đại tá Rockenbach. Quân đội Mỹ sắp tung ra cuộc tấn công độc lập lớn lần đầu tiên trong chiến tranh. Một đạo quân Đức chĩa mũi dùi vào phòng tuyến của Đồng minh, mũi dùi St. Mihiel từng là, từ năm 1914, đối tượng của hết cuộc tấn công này đến cuộc tấn công bất thành khác của quân Đồng minh. Giờ đây, cuối cùng, người Mỹ được trao cơ hội tấn công bẻ gãy nó - và xe tăng sẽ là một phần của cuộc tấn công. Ngày 24 tháng 8, Patton chính thức tổ chức Lữ đoàn Thiết giáp 304 (cũng được gọi là Lữ đoàn Thiết giáp số 1). Người Pháp điều khoảng 225 xe tăng nhẹ để trang bị cho 2 tiểu đoàn Hoa Kỳ. Trong số này, lữ đoàn của Patton nhận 144 xe tăng. Trước khi họ tới, Patton đã chuẩn bị thật tỉ mỉ. Ông không chỉ vạch ra mọi chi tiết của việc tiếp nhận các xe tăng được kỳ vọng, từ lúc đưa xe xuống các trạm xe lửa tới việc triển khai chúng ra tuyến đầu, mà ông còn điều một toán tuần tra trinh sát mạo hiểm đánh giá các phòng tuyến của quân Đức và cũng để xác nhận một cách cá nhân rằng nền đất ở vùng đệm giữa 2 đạo quân là đủ chắc chắn để xe cơ giới có thể chạy qua. Như một cung cách tiêu biểu trong chiến tranh, sau khi các kế hoạch được vạch cẩn thận, cấp trên lại đưa ra những lệnh thay đổi quan trọng. Một cách dũng cảm, bản thân Patton tự mình đi trinh sát địa hình được sắp xếp cho trận đánh, lập ra có hiệu quả một bản kế hoạch mới, và cả quyết rằng mọi thứ cần thiết, bao gồm khoảng 40.000 lít xăng, đều đã được đưa tới điểm tập kết. Vào ngày 11 tháng 9, trước ngày chiến dịch khởi sự, Patton nói chuyện với các binh sĩ. Mặc dù hãy còn sớm trong sự nghiệp chỉ huy của mình, thông điệp của ông cho thấy một Patton xuất sắc. Nó là một thông điệp của tấn công, tiến quân và tấn công, sử dụng xe tăng như những con chó chiến đấu của các chiến binh thời xưa. Không xe tăng nào được phép đầu hàng hoặc bỏ lại cho kẻ thù. Nếu bạn bị bỏ lại một mình giữa kẻ thù thì hãy liên tục nã đạn. Nếu súng của bạn kẹt thì hãy sử dụng súng ngắn và nghiền nát kẻ thù bằng sợi xích xe của mình. Bằng cách thay đổi hướng mau chóng, hãy băm nhỏ chúng bằng sức mạnh cơ giới của xe tăng. Nếu xe của bạn bị hư và súng của bạn bị hỏng... cứ chờ ở đó, sự trợ giúp sẽ tới... https://thuviensach.vn Các bạn là những chiếc xe tăng Mỹ đầu tiên [trong chiến đấu]. Các bạn phải nhớ rằng XE TĂNG MỸ KHÔNG ĐẦU HÀNG... Nếu một chiếc xe tăng có thể di chuyển thì nó chỉ tiến lên. Sự hiện diện của nó sẽ cứu mạng sống của hàng trăm bộ binh và giết nhiều kẻ thù. Cuối cùng, đây là cơ HỘI LỚN của chúng ta: NHỮNG GÌ CHÚNG TA ĐÃ LÀM... THÌ HÃY LÀM CHO XỨNG ĐÁNG. Patton và những chiếc xe tăng là một phần của cuộc tấn công khổng lồ liên quan tới 550.00 lính Mỹ và 110.000 lính Pháp. Như Pershing đặt kế hoạch cho chiến dịch, người Pháp sẽ buộc người Đức phải đối phó ở phía tây, trong khi các đơn vị Mỹ tấn công lên phía bắc và phía đông của mũi dùi. Mục đích là nhổ bỏ mũi dùi từ 3 hướng. Các xe tăng Mỹ tấn công từ phía nam. Một tiểu đoàn xe tăng Pháp hỗ trợ cánh tấn công bên phải của bộ binh, trong khi các xe tăng của Patton (cũng bao gồm một tiểu đoàn Pháp đặt dưới sự chỉ huy của ông) hỗ trợ cánh tấn công bên trái. Patton giao cho đại úy (sau này là đại tá) Sereno Brett sử dụng chiếc xe tăng được giao để dẫn đầu bộ binh của Sư đoàn 1. Tiểu đoàn người Pháp dưới sự chỉ huy của Patton sẽ theo sau bộ binh. Một bộ phận ghép nữa của lực lượng xe tăng Hoa Kỳ, được Patton giao cho đại úy Ranulf Compton, sẽ theo sau Sư đoàn Bộ binh 42, sau đó vượt qua đội hình và tiến lên dẫn đầu. Đây là một kế hoạch rất khôn ngoan, và Patton đặt trọn niềm tin vào Brett. Ông ít chắc chắn hơn về Compton, vì vậy ông quyết định mình sẽ đi gần với Compton trong suốt cuộc tấn công. Cuộc tấn công vào ngày 12 tháng 9 được khởi sự 4 giờ sau khi pháo binh bắn yểm trợ, rồi tràn lên lúc 5 giờ sáng. Trước 6 giờ 10, Patton đứng tại một điểm quan sát trên đỉnh đồi, từ đó ông có thể theo dõi các hành động quân sự. Tuy nhiên, 20 phút sau, thấy một số các xe tăng bị sa lầy trong những chiến hào đầy bùn, Patton đi bộ 2 dặm để tự mình tham gia vào cuộc giải thoát. Khi làm xong, ông không quay trở về điểm chỉ huy trên ngọn đồi, mà, với ban tham mưu và đi bộ, ông thúc quân tiến lên. Điều này sẽ trở thành một thương hiệu của Patton. Ông luôn lãnh đạo từ tuyến đầu. Khi được bảo, vào lúc 9 giờ 15, rằng một số xe tăng bị lún trong đất xấu, ông tới chỗ họ cùng với một sĩ quan khác và 3 người lính giao liên. Đạn nổ https://thuviensach.vn khắp chung quanh. Dĩ nhiên là họ cúi đầu né. Patton không chấp nhận điều này, kết án nó là “sự vô ích của việc tránh né số mệnh”. Ông cũng chú ý thấy mình là sĩ quan duy nhất tiên phong trong cuộc tấn công, đã không lột bỏ cầu vai mang biểu tượng lá sồi của cấp bậc sĩ quan. Chắc chắn biểu tượng cấp tá là một mục tiêu không thể cưỡng lại được của những tay bắn tỉa, nhưng Patton muốn binh sĩ của ông thấy rằng ông không sợ trở thành mục tiêu. Patton tiếp tục đi bộ tiến lên phía trước, luôn dưới bom đạn. Khi gặp chuẩn tướng Douglas MacAthur trên một ngọn đồi nhỏ, ông đến đứng cạnh. Sau này, Patton viết: “Hỏa lực súng cối yểm trợ bắn về phía chúng tôi. Tôi nghĩ mọi người muốn tháo chạy, nhưng không ai muốn hành động như vậy, vì thế chúng tôi để mặc cho đạn bay qua đầu. Chúng tôi đứng đó và nói chuyện nhưng không ai quan tâm nhiều tới những gì người kia nói”. Từ ngọn đồi này, Patton di chuyển - luôn luôn về phía trước – tới một ngọn đồi khác, từ đó, ông nhìn thấy các binh sĩ Đức đang rút chạy ở phía đằng sau ngôi làng Essey. Thị trấn đã tới lúc được giành lại, Patton ra lệnh cho 5 trong số những chiếc xe tăng của Compton tiến vào làng. Khi một người lính Pháp quay đầu xe tăng vì, anh ta nói, ngôi làng đang bị dội bom nặng nề thì Patton chặn lại, ra lệnh cho các xe tăng phải tiếp tục tiến lên trong khi ông đi bộ trước chúng, băng qua cầu vào ngôi làng. Khi ông đặt chân lên cây cầu, Patton nhận thấy rằng nó có thể bị gài chất nổ, nhưng ông vẫn dẫn đầu đoàn xe tăng băng qua. Sau khi Essey rơi vào tay Patton, ông ra lệnh cho các xe tăng tiến thêm 2 dặm nữa tới Pannes. Tuy nhiên, khi gần tới ngôi làng thì một chiếc xe cạn xăng. Không có xe tăng để dẫn đầu và cung cấp vật che chắn, bộ binh theo sau không muốn tiến. Patton tới gần chiếc xe vẫn còn xăng và ra lệnh cho viên trung sĩ dẫn đầu toán bộ binh tiến vào. Khi viên trung sĩ do dự, Patton, dưới làn đạn từ ngôi làng bắn ra, nhảy lên nắp xe tăng để thúc anh ta tiến lên. Patton cưỡi chiếc tăng này xuyên qua Pannes, nhảy khỏi nó vào một hố bom chỉ sau khi hỏa lực của quân địch trở nên mãnh liệt đủ để gọt lớp sơn ra khỏi thân chiếc tăng. Sau đó, nhận thấy bộ binh rơi lại sau mình khoảng https://thuviensach.vn 300 mét, Patton bò ra khỏi hố bom và tránh né hỏa lực để quay lại với nhóm bộ binh. Ông gặp viên chỉ huy đơn vị và bảo anh ta tiến lên phía sau chiếc xe tăng. Khi viên chỉ huy từ chối, Patton chạy trở lại chiếc xe tăng và dùng cây gậy chống mà các sĩ quan Anh và Mỹ thường mang theo ra chiến trường gõ vào cửa sau. Viên trung sĩ nhô lên, Patton ra lệnh cho anh ta quay lại sứ mệnh, như ông biết rõ, là hỗ trợ bộ binh, thậm chí nếu điều đó có nghĩa là rút lui. Tuy nhiên, khi 4 chiếc tăng khác xuất hiện, với bình xăng được đổ đầy, Patton ra lệnh cho chúng tiến qua Pannes và vào Beney, thị trấn kế tiếp. Patton đi bộ theo sau khi thị trấn lọt vào tay người Mỹ. Hài lòng vì tiểu đoàn của Compton đang thực hiện đúng ý đồ, Patton đi bộ tới những chiếc xe tăng của Brett mà ông thấy bị kẹt trong làng Nonsard vì hết xăng. Là chỉ huy, niềm tin cơ bản nhất của Patton là làm tất cả những gì cần được làm, và những gì cần được làm bây giờ là tiếp tế xăng. Vì vậy, ông đi bộ trở lại phía sau, ra lệnh vận chuyển xăng tới Nonsard, rồi báo cáo với sở chỉ huy quân đoàn rằng mọi đơn vị thiết giáp đã đạt được các mục tiêu của họ và, trên thực tế, còn nhiều hơn nữa. Do có phần nào vượt xa các đơn vị bộ binh, họ rút lui trước buổi tối, cách phòng tuyến bộ binh một khoảng ngắn. Sau ngày đầu tiên của trận đánh, chỉ có 2 xe tăng bị phá hủy bởi hỏa lực của pháo binh. Có thêm 3 chiếc bị hỏng máy và có 2 chiếc bị đứt xích. 40 bị sa lầy trong các chiến hào, và 30 bị nằm một chỗ do thiếu nhiên liệu. 80 xe tăng Mỹ và 25 xe tăng Pháp chiến đấu vào ngày hôm sau. Khi trận chiến chấm dứt, thành quả của việc tiến quân là rất đáng kể, quân Đức tháo chạy hoàn toàn, và mũi dùi St. Mihiel tồn tại từ đầu cuộc chiến đã không còn. Các lực lượng Hoa Kỳ bắt làm tù binh 150.000 lính Đức. Sự kháng cự của quân Đức ở khu vực của Patton không còn dữ dội, nhưng Patton đã chứng minh được sự hữu hiệu của xe tăng lẫn sự hiệu quả của mình trong vai trò chỉ huy. Việc ông đứng trên nắp một chiếc xe tăng được các tờ báo mau chóng đăng tải, khi hành động dũng cảm này xuất hiện trong các báo cáo chính thức. https://thuviensach.vn * * * Đại tá Rockenbach không thuận cho Patton rời khỏi vị trí chỉ huy để một mình tiến lên với cuộc tấn công, nhưng một bức thư chúc mừng gửi cho ông từ Tướng Pershing đã nhắc nhở vị đại tá phải thay đổi giọng điệu. Ông ta ca ngợi cả Patton lẫn viên chỉ huy, rồi mau chóng đưa họ trở lại trận đánh, cách 60 dặm về phía bắc, tới một vị trí phía tây của Verdun để trợ giúp Tập đoàn quân số 1 trong cuộc tấn công Meuse-Argonne. Nếu có bất kỳ điều gì mà Patton lo sợ, thì đó chính là chiến tranh kết thúc trước khi ông tham gian nhiều trận đánh nữa. Không chờ quân Mỹ chính thức giải phóng người Pháp trong khu vực tấn công được giao cho mình, Patton mau chóng mặc một bộ quân phục Pháp, tiến lên tuyến đầu, và, như ông đã làm khi chuẩn bị cho trận St. Mihiel, trinh sát địa thế mà những chiếc xe tăng của ông sẽ hoạt động. Sau đó, ông lên kế hoạch một cuộc tấn công đặc biệt mạnh mẽ với đoàn xe tăng là một cú thọc sâu thật sắc bén trên địa hình gồ ghề băng qua những phòng tuyến của lính Đức được phòng thủ chắc chắn, sâu khoảng 12 dặm. Một khi vượt qua những tuyến phòng thủ này, các xe tăng sẽ là mũi nhọn đuổi theo lính Đức đang tháo lui. Patton có 140 xe tăng để sử dụng. Theo trình tự tiêu chuẩn, trước cuộc tấn công là “sự chuẩn bị của pháo binh”, một đợt nã pháo đều đặn và qui mô lớn bắt đầu lúc 2 giờ 30 sáng ngày 26 tháng 9. Sương mù sáng sớm giúp ẩn giấu những chiếc xe tăng khỏi tầm nhìn của kẻ địch, nhưng nó cũng khiến điểm quan sát của Patton trở nên vô ích. Mặc dù ông biết Rockenbach sẽ không chấp thuận cho ông làm như vậy, nhưng ông vẫn rời điểm quan sát cùng với 2 sĩ quan và khoảng một tá giao liên để xem cận cảnh những gì đang xảy ra. Như những người lính vẫn làm kể từ khi phát minh ra thuốc súng, ông đi theo tiếng súng và chẳng bao lâu khám phá ra rằng các xe tăng đã tiến lên thật xa, khoảng 5 dặm. Tuy nhiên, vào khoảng 9 giờ sáng, trong làng Cheppy, Patton tình cờ gặp một nhóm binh sĩ hoảng loạn tháo lui trước hỏa lực dữ dội của kẻ địch. Sử dụng quyền chỉ huy, ông chặn họ, tập hợp họ lại, và dẫn https://thuviensach.vn họ tiến lên đằng sau những chiếc xe tăng đang tấn công. Sau đó, ông chú ý thấy rằng nhiều xe tăng bị hỏng máy trong các chiến hào. Ông phái một số lính tới giúp họ di chuyển, nhưng, như ông thấy, các xe tăng vẫn bất động. Lại một lần nữa, Patton tới tận nơi. Ông mau chóng khám phá ra vấn đề; các binh sĩ đào đất để xe tăng thoát ra, nhưng lại chạy tán loạn tìm chỗ ẩn nấp bất kỳ khi nào họ nghe thấy tiếng đạn pháo bay tới hoặc khi súng máy bắn. Niềm tin tự đáy lòng của Patton là binh sĩ luôn cần được lãnh đạo, mà với ông là cần được lãnh đạo bằng việc làm gương. Sau khi vội vã tổ chức những nhóm làm việc hiệu quả hơn, chính Patton đã tháo những chiếc xẻng từ các xe tăng bị sa lầy, tự phơi mình ra trước hỏa lực của kẻ địch, ông phân phát xẻng, và khi một người lính chùn bước dưới hỏa lực, ông dùng sẻng đánh vào mũ sắt của anh ta. Năm chiếc tăng chẳng bao lâu lại có thể di chuyển, và rồi Patton giơ cao gậy, quơ nó thành hình vòng tròn trên đầu, và la to cho những binh sĩ bộ binh ở phía sau nghe: “Chúng ta hãy tiến lên. Ai sẽ đi với tôi?” Thế là họ tiến lên. Khi nhô đầu lên, họ được chào đón bởi một loạt đạn súng máy dữ dội. Mọi người lại nằm rạp xuống. Sau này, Patton thú nhận là ông “muốn bỏ chạy”. Run rẩy vì sợ hãi, đột nhiên ông nghĩ “về tiền kiếp của tôi và dường như thấy chúng trong một đám mây bên trên phòng tuyến quân Đức đang nhìn chằm chằm vào mình”. Hình ảnh này khiến ông bình tĩnh, và thấy mình “nói lớn tiếng: Đã tới lúc có thêm một Patton nữa chết”. Sau đó, lớn tiếng hơn, ông gọi những người quanh ông: “Chúng ta hãy tiến lên”. Nửa tá binh sĩ tập hợp quanh ông. Hết người ngày tới người khác bị bắn hạ. Người cần vụ của Patton, Joe Angelo, gọi vị chỉ huy của mình: “Chúng ta đơn độc”. Patton trả lời: “Chỉ có tiến lên thôi”. Đó là khi một viên đạn ghim vào đùi trái của ông, khoét một lỗ xuyên qua cơ bắp, và trổ ra gần phía trực tràng. Patton đổ xuống. Angelo kéo ông vào một hố bom, cắt chiếc quần của ông và băng chặt vết thương đang phun máu. Ngay khi Angelo cầm được máu, Patton lệnh cho anh ta chạy về https://thuviensach.vn phía một số xe tăng đang tiến gần và chỉ đường cho hỏa lực của họ bắn trả những ổ súng máy của kẻ địch. Sau khi Angelo thi hành xong và quay trở lại, một viên hạ sĩ tới chỗ Patton. Ông ra lệnh cho anh này tìm Brett, bảo ông ta rằng ông bị thương, và ông ta phải chỉ huy. Ông yêu cầu viên hạ sĩ đừng phái ai tới chăm sóc ông, vì hỏa lực đang rất dữ dội. Sau đó, quay sang Angelo, ông yêu cầu anh ta chỉ thêm nhiều mục tiêu cho các xe tăng đang tiến lên. Khi một lính cứu thương tới, Patton ra hiệu cho anh ta thay băng, nhưng rồi bảo anh ta tiếp tục chăm sóc những người lính bị thương khác. Hơn một giờ trôi qua trước khi hỏa lực của kẻ địch bị dập tắt đủ để cho phép 3 lính cáng thương tiến tới. Được cáng đi 2 dặm đến một chiếc xe cứu thương, Patton ra lệnh cho chiếc xe dừng lại ở sở chỉ huy sư đoàn để ông có thể báo cáo trước khi được đưa tới một bệnh viện lưu động. Ngay trước khi Patotn được chuyển từ bệnh viện đó tới một bệnh viện căn cứ gần Dijon, báo chí tường thuật ông đã chỉ huy trận đánh trong khi chảy máu dưới một hố bom. Bị thương vào ngày 30 tháng 9, ông được thăng cấp đại tá (với sự ủng hộ nhiệt tình của Rockenbach) vào ngày 17 tháng 10 và không được ra viện cho tới ngày 28 tháng 10, khi vết thương lành lặn. Các chiến sĩ xe tăng, được ông huấn luyện, tiếp tục chiến đấu trong chiến dịch Meuse-Argonne đến hết tháng này. Patton quay trở lại lữ đoàn xe tăng tại Bourg, đặt dấu ấn cho ngày trở về bằng một trong những mệnh lệnh mang thương hiệu Patton là yêu cầu chấp hành phong thái quân sự, sau đó bắt tay vào phác thảo những đề xuất thăng thưởng cho các anh hùng xe tăng của trận Meuse-Argonne. Trong khi vẫn còn nằm viện, ông viết cho Beatrice: “Hoà bình là rất có thể, nhưng anh thà hy vọng là không, vì anh muốn có thêm nhiều trận đánh khác”. Tuy nhiên, ông sẽ không tiếp tục tham dự các trận đánh ở cuộc chiến này nữa. Vào ngày sinh nhật thứ 33 của Patton, ngày 11 tháng 11, năm 1918, tiếng súng ngưng bặt sau một thoả thuận ngừng bắn, mang lại cho thế giới một nền hoà bình tuy được chào đón nhưng quá ngắn ngủi và, với Patton, là một nền hoà bình đáng ghét kéo dài quá lâu. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 5 TRONG THỜI BÌNH VẪN NGHĨ ĐẾN CHIẾN TRANH Những chiến tích anh hùng và các nhược điểm kỳ lạ tới mức huyền thoại của Patton trong Thế chiến II đã làm lu mờ những thành tựu phi thường của ông trong suốt Thế chiến I ngắn ngủi và bị nhiều hạn chế. Trong trận chiến, ông đồng thời chứng tỏ khả năng chiến đấu tốt của xe tăng như một loại vũ khí và thử nghiệm tính hiệu quả của học thuyết và những chiến thuật mà ông đã thiết lập và hướng dẫn chỉ mấy tháng, mấy tuần, thậm chí mấy ngày trước đó. Ông tự chứng tỏ mình là một chỉ huy có hiệu quả và có sức thu hút. Và ông được công nhận - ông bước vào cuộc chiến là một đại úy và bước ra là một đại tá. Ông được thưởng huân chương - cho vết thương, sẽ là chiếc Huân chương Purple Heart (Trái tim Tím là huân chương của Hoa Kỳ được trao cho những ai bị thương hoặc thiệt mạng khi phục vụ quân đội sau ngày 5 tháng 4 năm 1917) mặc dù việc trao nó bị hoãn lại trong hơn một thập niên - không phải là hiếm thấy trong tình trạng ùn tắc của thói hành chính quan liêu sau Thế chiến I. Với năng lực lãnh đạo trường thiết giáp và trên trận địa, ông nhận được Huân chương Distinguished Service Medal (Huân chương Công trạng Xuất sắc). Để ghi nhận lòng can đảm của ông, ông được trao tặng Huân chương Distinguished Service Cross (Huân chương Chữ thập Xuất sắc). Những thành tựu của Patton là có thật. Các huân chương của ông là có thật. Cuộc chiến là có thật. Nhưng có một thực tế khác: quân đội thời bình. Khi quay trở lại Hoa Kỳ, chẳng bao lâu Patton thấy mình chìm đắm trong nó. Sau đình chiến, nước Mỹ không chỉ mệt mỏi mà còn bão hoà bởi chết chóc tang thương và không còn muốn hy sinh nữa, cho dù mục tiêu cao quí đến đâu. Khi Tổng thống Wilson nỗ lực ở Paris để xây dựng lại thế giới https://thuviensach.vn thời hậu chiến và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ là một lực lượng kiểm soát, đa số người Mỹ quay lưng với châu Âu, rút lui vào điều mà ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa hứa là “một sự quay trở lại với cuộc sống bình thường”. Tổng thống Warren Gamaliel Harding, một người bệ vệ, hiền hoà, dễ bị gây ảnh hưởng, được bầu vào năm 1920, nói với nhân dân Mỹ rằng họ không cần có sự liên hệ gì với chủ nghĩa lý tưởng của Hội Quốc liên, và trên thực tế, tuyên bố ý định của ông là làm đúng những gì mà đảng Cộng hòa đã đưa ông vào Nhà Trắng để làm: đảm bảo rằng nước Mỹ chỉ quan tâm tới công việc của chính mình. Vì một đất nước chỉ biết tới công việc của chính mình sẽ không có nhu cầu một đội quân lớn, nên nhiều lực lượng quân đội tự giải giáp. Trước tháng 6 năm 1920, một đội quân 4,5 triệu người đã giảm xuống chỉ còn 280.000 người và trước năm 1922, quân số chỉ khoảng 140.000 người. Bây giờ, ở tuổi 33, Patton lo sợ rằng điều này có thể là cuộc chiến “của mình”. Cuộc chiến duy nhất của ông. Thế là quá đủ. Patton rời Pháp vào ngày 2 tháng 3, năm 1919, về tới Brooklyn vào ngày 17. Ông mau chóng được giao cho Trại Meade, Maryland, rồi được thuyên chuyển vào nhiệm vụ tạm thời ở Washington. Chiếc huân chương Distinguished Service Medal được trao vào tháng 6, ông quay lại Trại Meade vào mùa thu, và vào ngày 30 tháng 6, năm 1920, như nhiều sĩ quan khác, mau chóng được thăng cấp ở nước ngoài nhưng rồi trở về với quân hàm đại úy quân thường trực hồi trước chiến tranh. Tuy nhiên, một ngày sau đó, ông được thăng lên cấp thiếu tá. Bây giờ, ông làm việc như một sĩ quan tham mưu và rất ghét công việc này. Các sĩ quan tham mưu giỏi rất cần cho hoạt động của một đội quân hiện đại, vì họ phục vụ như là một tầng lớp trung gian, giữa các viên tư lệnh ở sở chỉ huy và những sĩ quan chỉ huy ở chiến trường, đảm bảo rằng quyết định của cấp trên được thi hành ở tuyến đầu. Nhưng George S. Patton III không mong muốn là một “cấp trung gian”. Các sĩ quan tham mưu ít khi được huân chương. Trong quân đội Hoa Kỳ giữa các cuộc chiến, nhân sự, tiền bạc và thiết bị thiếu thốn. Tuy nhiên, thời gian thì rộng rãi, và Patton sử dụng nó một cách https://thuviensach.vn có hệ thống để duyệt xét lại kinh nghiệm chiến trận của chính mình và mọi thứ khác mà ông đã nhìn và nghe thấy trong suốt cuộc chiến. Ông viết những bài báo kỹ thuật và nói chuyện tại Trường Cao đẳng Tham mưu. Trong công việc này, ông đi đến một kết luận quan trọng và gây nhiều ảnh hưởng liên quan tới học thuyết xe tăng: sẽ là một sai lầm nếu gắn chặt xe tăng vào bộ binh. Trong suốt cuộc chiến, chính ông đã rao giảng sự phụ thuộc của xe tăng vào bộ binh, nhưng chính kinh nghiệm chiến đấu đã dạy ông rằng sẽ là ngớ ngẩn nếu để xe tăng tiến chậm như bước chân của bộ binh. Tốt hơn là giải phóng cho xe tăng, cho phép chúng chọc thủng phòng tuyến của kẻ địch và tàn phá mọi vị trí phía sau của chúng, không chỉ tạo ra một sự chia cắt ở tuyến đầu mà còn tạo ra sự rối loạn, làm mất tinh thần chiến đầu ở tuyến sau, để rồi khối bộ binh khổng lồ theo sau có thể khai thác. Patton không biết là những nhà tư tưởng quân sự Đức, ngay cả khi đã bị thua trận, bắt đầu theo đuổi chính xác luồng suy nghĩ này. Sản phẩm sau cùng, trong trường hợp của quân đội Đức, được gọi là blitzkrieg - có nghĩa là “chiến tranh chớp nhoáng” - và rồi nó sẽ đốt cháy châu Âu. Những bài viết của Patton đã chuẩn bị cho các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ hiểu được blitzkrieg là gì khi nó diễn ra, và vì thế Hoa Kỳ có thể bước vào Thế chiến II với một lực lượng xe tăng và một học thuyết khả dụng để theo đó hướng dẫn sự triển khai của nó. Tuy nhiên, ngoài sự hiểu biết thấu đáo. Patton chưa bao giờ phát triển thành một nhà lý thuyết. Những bài viết kỹ thuật của ông luôn thực dụng, thực tế, và có phạm vi giới hạn. Ông đọc một cách háo hức, thu thập từ các sĩ quan Anh và Pháp những tài liệu huấn luyện mà họ sử dụng và ngấu nghiến những bản báo cáo tổng kết chiến dịch, luôn luôn tìm cách sử dụng xe tăng hiệu quả nhất trong tương lai. Ông cũng nghiền ngẫm những bài khóa có các trích dẫn về lòng can đảm được phát hành trong suốt cuộc chiến. Mục tiêu của ông là phân tích và chắt lọc bản chất của chủ nghĩa anh hùng, ông biết rằng nếu nghiên cứu những sự di chuyển và kết quả của trận đánh thì có thể biết cách tận dụng lợi thế của chiến tranh cơ giới hóa. Qua https://thuviensach.vn việc nghiên cứu những báo cáo chính thức về hành vi anh hùng, có lẽ ông cũng nghĩ rằng ông có thể học cách tạo ra chính chủ nghĩa anh hùng. Trong khi làm nhiệm vụ tạm thời ở Washington vào mùa xuân năm 1919, Patton được giao một ủy ban có trách nhiệm viết ra cẩm nang tổng quát cho các chiến dịch xe tăng, và một ủy ban có trách nhiệm đưa ra những khuyến nghị để cải thiện chính những chiếc xe tăng. Trong khi làm nhiệm vụ tại ủy ban, Patton gặp J. Walter Christie, một cựu kỹ thuật viên làm việc cho Ban Quân nhu quân đội Hoa Kỳ và hiện là một nhà chế tạo xe hơi đua và nhà phát minh không chuyên. Patton và cựu thuộc cấp, Sereno Brett, nằm trong một nhóm đi công tác tới Hoboken, New Jersey, để quan sát chiếc M1919 của Christie, một chiếc xe tăng có thể đạt vận tốc 60 dặm một giờ, leo lên một bức tường cao 75 cm, và vượt qua một đường hào có chiều ngang tới 2,1 mét. Patton và những người khác rất ấn tượng, và cá nhân Patton ủng hộ thiết kế của Christie tại Bộ Chiến tranh. Tuy nhiên, trước năm 1924, những lần cắt giảm tài trợ giữa 2 cuộc chiến đã chấm dứt sự liên hệ của ủy ban trong việc phát triển chiếc M1919 thành một vũ khí khả dụng. Tuy nhiên, có thể (mặc dù không có chứng cứ tài liệu nào cho thấy điều này là có thực) cá nhân Patton vẫn tiếp tục trợ giúp tài chính cho công việc đang tiến hành của Christie bằng tiền túi của mình. Dù có thật hay không, nhưng Patton vẫn là nhân tố phát triển những ý niệm cơ giới mà sau này sẽ nổi bật ở các loại xe thiết giáp có xích của quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiên II, bao gồm xe tăng lội nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong những chiến dịch từ bờ biển Normandy tới các đảo ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, dù làm việc với Christie, người bạn rất được Patton ưa thích và ngưỡng mộ, ông cũng không thể có được một chỗ đứng trong chiến tranh - bởi với ông, chiến tranh là “nơi duy nhất một người đàn ông thực sự sống”. Patton lo rằng ông sẽ ngày càng mập ra và lười biếng đi. Ông than là thấy khó tỉnh dậy vào buổi sáng. Tình trạng bất ổn của ông có lẽ bị trầm trọng thêm một phần là do những tin tức về Pershing và Nita. Cặp đôi này đã chia tay trong suốt cuộc chiến, rồi lại tái hợp ngắn ngủi ở London sau khi đình chiến. Bây giờ, Patton nghe tin rằng mối quan hệ của họ đã tan vỡ. https://thuviensach.vn Dù quyết định chấm dứt cuộc tình là do cả hai phía hay một phía, nhưng sự thực là Pershing không bao giờ gặp lại Nita, ông vẫn là một người góa vợ đơn thân, và cô sống phần còn lại của cuộc đời mình như một phụ nữ chưa lập gia đình. Patton sôi nổi lao vào môn polo, thứ gần gũi nhất mà ông tìm thấy để có thể chiến đấu, và như nhiều người khác sớm lao vào cuộc khủng hoảng giữa tuổi trung niên, ông mua một chiếc xe hơi rất mạnh. Nó là chiếc Pierce Arrow, đắt tiền và đẹp (Tôi “tin vào sự tận hưởng giữa những cuộc chiến”, Patton nhận xét), và sử dụng nó để đi thăm Joe Angelo, người cần vụ trung thành từng cứu sống ông tại Meuse-Argonne. Ngoài những bài viết về kỹ thuật ông viết trong những tháng sau khi quay trở về từ Pháp, Patton cũng giảng cho các sĩ quan trẻ một bài học có tựa đề là “Nghĩa vụ của một sĩ quan”. Người đàn ông mà theo nghĩa đen có liên quan tới mọi chi tiết của những loại vũ khí tiên tiến và hiện đại nhất lại nói về sĩ quan quân đội ngày này như là “những người đại diện cho các á thần và anh hùng của đời xưa”, là “người có những hành động dũng cảm, biết hy sinh và phụng sự, từng là chủ đề của âm nhạc và chuyện kể trước khi có sách sử”. Bài giảng của ông đạt tới đỉnh cao của tài hùng biện lãng mạn - “Lời kêu gọi của chúng ta là cổ xưa nhất và tương tự như những thứ cổ xưa khác, nó tích lũy qua nhiều thời đại với những tập quán và truyền thống tô điểm cho nó và làm nó trở nên cao quí’ - chỉ để thấm sâu vào nền móng vững chắc của thực tế không thể tránh khỏi: những tập quán và truyền thống này “làm đẹp cho nghề nghiệp của những người lính chuyên nghiệp: những kẻ giết người”. Điểm nổi bật nhất của những chiến binh Hoa Kỳ từng chiến đấu trước Patton - như Grant, Sherman, và Nathan Bedíord Forrest - là họ sẵn sàng đối mặt với thực tế, nhưng Patton chấp nhận cả thực tế lẫn tính lãng mạn trong lời kêu gọi của mình. Đạo luật Phòng vệ Quốc gia năm 1920 dọn chỗ cho sự lãng mạn trong quân đội. Sức mạnh của quân đội được giới hạn ở mức 280.000 quân, và xe tăng được sáp nhập, theo luật mới, vào bộ binh, nơi sự phát triển của chúng chắc chắn vẫn tiếp tục bị coi nhẹ như một khí cụ bổ trợ cho trận đánh. Tại https://thuviensach.vn Trại Meade, Patton gặp một người đề xướng khác muốn cải cách xe tăng, trẻ tuổi hơn ông, thiếu tá Dwight David Eisenhower, tốt nghiệp West Point khóa 1915. Mặc dù Eisenhower (trước sự kinh ngạc của ông) đã được giao nhiệm vụ huấn luyện trong nước suốt cuộc chiến và chưa từng phục vụ ở hải ngoại, Patton nhận thấy ở ông ta một sĩ quan đầy sinh lực và xuất sắc, một người đồng cảm, và cả hai xây dựng một tình bạn nồng ấm. Trong những tháng trước khi các biện pháp cắt giảm chi phí của Đạo luật Phòng vệ Quốc gia được thi hành, cả hai đã thảo luận sôi nổi về tương lai hứa hẹn của xe tăng. Nhưng sau khi lưỡi rìu ngân sách chém xuống, cả Ike (tên thân mật của Eisenhower) lẫn Patton rời khỏi Quân đoàn Xe tăng bị thiếu kinh phí nặng nề, và bây giờ dường như là ngõ cụt cho bất kỳ một sự nghiệp nào trong quân đội. Ngày 30 tháng 9, năm 1920, Patton chính thức không chỉ huy Lữ đoàn Xe tăng 304 và vào ngày 3 tháng 10, quay trở lại chức vụ chỉ huy Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Kỵ binh 3, Đồn Myer, Virginia. Lúc đó hẳn là không có chiến tranh, nhưng nó là một trong những nơi tốt nhất cho một sĩ quan chuyên nghiệp sử dụng thời gian giữa các cuộc chiến. Patton và Beatrice gia nhập xã hội thượng lưu ở Washington, thứ họ đã bỏ lại sau lưng năm 1913, khi rời Trại Myer để tới Trại Riley, Kansas. Vào năm 1923, Patton theo học khóa sĩ quan chiến trường của Trường Kỵ binh tại Trại Riley. Beatrice và các con đến ở với cha mẹ bà tại Massachusetts, nơi mà vào đêm Giáng sinh 1923, bà hạ sinh một cậu con trai, và đặt tên cho nó là George Smith Patton IV. Patton tiếp tục việc học ở Trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu tại Trại Leavenworth, tốt nghiệp ở tốp trên của khóa 1924. Điều này mang lại cho ông một nhiệm vụ tạm thời tại Ban tham mưu ở Boston, nơi ông có thể gặp gỡ Beatrice và các con. Quan trọng hơn, đây là một nhiệm vụ có uy tín dành cho những sĩ quan hứa hẹn là sẽ sớm được thăng lên cấp bậc cao. Vào ngày 23 tháng 3, năm 1925, Patton được tái bổ nhiệm vào Sư đoàn Hawaii tại doanh trại Schofield Barracks, Honolulu, chức vụ G-l (sĩ quan phụ trách nhân sự) và G-2 (sĩ quan phụ trách tình báo). Beatrice, còn đang hồi phục sau lần sinh khó https://thuviensach.vn khăn, vẫn sống ở Massachusetts với các con. Rõ ràng là sự phân công tới một thiên đàng nhiệt đới quả là điều hấp dẫn, và Patton đã tận hưởng cơ hội này. Khí hậu tuyệt vời đến độ ông có thể cưỡi ngựa và chơi polo gần như mọi ngày trong năm, không chỉ làm thoả mãn ham muốn của Patton đối với việc rèn luyện mạnh bạo và thể thao dạng chiến tranh, mà còn đưa ông vào mối quan hệ với giới quí tộc Mỹ nhiều tiền của ở hòn đảo. Với Patton, một chỉ huy quân sự là một sĩ quan và là một quí ông, và điều đó có nghĩa là người được chào đón tại những tầng lớp cao nhất và chọn lọc nhất của xã hội. Trong suốt giai đoạn này, Patton thư từ qua lại với Eisenhower, người mà ông hào phóng gửi toàn bộ những ghi chép tại Leavenforth khi Ike đăng ký theo học sau khóa của ông tại Trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu. Cả hai thư từ qua lại về bản chất của chiến trận, nghệ thuật chỉ huy, và đề tài Patton ưa thích, lòng can đảm. Patton viết rằng lòng can đảm là sản phẩm của năng lực lãnh đạo và rằng công việc của người chỉ huy là biến những người lính đơn thuần thành những anh hùng. Binh sĩ sẽ không đơn phương trở thành anh hùng. Dù Eisenhower suy nghĩ ra sao về lý thuyết của ông, ông ta vẫn say mê nghiên cứu những ghi chép và sau cùng tốt nghiệp thủ khoa. Patton chúc mừng Ike, nhưng mau chóng qui sự thành công của người bạn ông là nhờ những bài ghi chép của mình. Cuối năm 1925, Beatrice và các con tới Hawaii để sống với Patton, và năm sau, ông nhận thêm nhiệm vụ phụ trách G-3 vào trong danh sách những bổn phận của mình ở Bộ tham mưu Hawaii. Là giám đốc kế hoạch và huấn luyện, G-3 là vị trí tham mưu duy nhất mà Patton thực sự ưa thích, một vị trí mà từ đó ông có thể khiến mọi người phải lắng nghe mình giảng về học thuyết, chiến lược, và chiến thuật. Tuy nhiên, trong vị trí này, Patton, giờ đã ở tuổi 41, ăn ở như khi còn là một hạ sĩ học viên ở West Point. Ông trở nên “quá quân sự”, quát tháo thuộc cấp và đồng đội một cách không thương tiếc vì mọi sai sót hoặc sự chỉ trích đáng ngờ. Trong vòng mấy tháng, người ta đã loại G-3 ra khỏi những trách nhiệm của ông. Ngoài sự giáng chức này, ông còn chịu một cú sốc khác là cái chết của Papa, vào tháng 6 năm 1927, do mắc hai https://thuviensach.vn thứ bệnh là lao và xơ gan. Patton “hoàn toàn bị hạ gục” bởi bức điện tín thông báo cái chết của cha mình, và ông bày tỏ như Beatrice gọi là “đau buồn quá mức”. Khi mẹ ông, Ruth Wilson, qua đời vào năm sau, Patton dường như không bị ảnh hưởng sâu sắc; tuy nhiên, sau này ông tỏ sự hối tiếc rằng bà và Papa không thể sống để thấy ông thực sự tự chứng minh mình là một người lính. Dù nhiệm vụ G-3 bị tước khỏi ông, nhưng các sĩ quan chỉ huy của Patton vẫn xem ông là một sĩ quan xuất sắc, mặc dù có người còn ghi nhận rằng ông “vô giá trong chiến tranh... nhưng là một yếu tố gây phiền hà trong thời bình”. Patton xem điều đó như một sự tán dương, nhưng không nghi ngờ gì, nó không có chủ đích như vậy. Trong bất kỳ trường hợp nào, nó cũng là một sự đánh giá không tự nhiên. Vào tháng 5, không bao lâu sau khi ông mất chức chỉ huy G-3, Patton được thuyên chuyển tới Văn phòng Tư lệnh Kỵ binh ở Washington D.C. Đây vẫn lại là một công việc tham mưu, nhưng nó cũng đặt ông về phía trước và vào trung tâm những tranh cãi về kỵ binh Hoa Kỳ giai đoạn giữa chiến tranh: sự cơ giới hóa sẽ tiến xa tới đâu? Trong chiến tranh giữa ngựa và máy móc, cái nào sẽ thắng? Nó là một vấn đề đau đớn cho Patton, người rất yêu thương ngựa và coi trọng truyền thống kỵ binh. Trái tim ông luôn bên cạnh lũ ngựa và những người cưỡi chúng tiến vào trận đánh, nhưng đầu óc ông lại ngày càng dành cho máy móc. Hơn nữa, ông tin rằng sự độc quyền của bộ binh đối với thiết giáp sẽ bóp nghẹt kỵ binh để rồi binh chủng này trở thành không thích đáng. Trước đầu thập niên 1930, Patton thuyết phục các kỵ binh đồng ngũ mở đầu óc của họ ra để hướng về phía máy móc mới. Ông bảo họ rằng chỉ kỵ binh mới có thể sử dụng xe tăng nhẹ theo cách chúng nên được sử dụng - tương tự như các chú ngựa cơ giới, vì sự cơ động trên địa hình hiểm trở. Ông lập luận rằng xe tăng sẽ tồn tại và nếu không giành lấy quyền kiểm soát thứ vũ khí mới này, kỵ binh sẽ mãi mãi bị gạt ra ngoài lề. Nhưng ngay khi ông bắt đầu thuyết phục các đồng nghiệp của mình, thì Quốc hội, lúc đó đang vật lộn với cuộc Đại suy thoái, lại thắt chặt chi tiêu hơn nữa. Một thí nghiệm không kéo dài lâu có tên là “Lực lượng https://thuviensach.vn Cơ giới hóa”, kết hợp binh sĩ từ các binh chủng kỵ binh, bộ binh, và pháo binh để vận hành xe tăng, xe bọc thép, và các loại xe khác, chấm dứt chỉ vài tháng sau khi nó bắt đầu. Cứu vãn những gì có thể với ngân sách eo hẹp mà ông có, Tham mưu trưởng lục quân Douglas MacArthur ra lệnh cả 3 binh chủng phải tiếp tục thử nghiệm công tác cơ giới hóa với mọi khả năng có thể. Điều này có nghĩa là bộ binh duy trì sự hoạt động của một ít xe tăng, kỵ binh làm điều tương tự với một số xe bọc thép. Nhưng trang thiết bị quá hiếm hoi đến độ những cuộc diễn tập đơn vị có ý nghĩa đều không thể được thực hiện. Patton rời Văn phòng của Tư lệnh Kỵ binh trong mùa hè năm 1931, nghỉ phép với vợ và các con tại Green Meadows, ngôi nhà lớn mà Beatrice đã mua cho họ bên bờ dòng sông Ipswich ở South Hamilton, Massachussetts. Vào tháng 9, ông đăng ký nhập học Trường Cao đẳng Chiến tranh, lúc đó đặt tại Washington. Chỉ những sĩ quan ưu tú mới được chọn cho khóa học tại học viện cao cấp của quân đội. Patton nổi lên từ ngôi trường như một “sinh viên tốt nghiệp hạng xuất sắc” vào tháng 6 năm 1932. Sự xuất sắc về học tập ngày càng phát triển của ông, cũng như niềm đam mê không mệt mỏi dành cho sách vở, chứng tỏ rằng Patton đã có thể sống chung với chứng bệnh khó đọc bẩm sinh. Tuy nhiên, ông không bao giờ hoàn toàn xoá hết khiếm khuyết ấy. Trong suốt sự nghiệp, Patton thực hành hoặc là nói chuyện tự nhiên, không gò bó hoặc là học thuộc lòng các bài diễn văn. Việc đọc lớn toàn bộ bài diễn văn trước công chúng vẫn còn để lộ ra nhiều chỗ va vấp gây ngượng ngùng. Trong tháng 7, Patton được bổ nhiệm làm sĩ quan quản trị của Trung đoàn 3 Kỵ binh, tại Trại Myer. Sau 3 tuần trong chức vụ mới, ông thấy mình bị lôi kéo vào tập đầu tiên trong nhiều tập sẽ làm hại và thậm chí đe dọa sự nghiệp của ông. Những cựu chiến binh Hoa Kỳ của Thế chiến I được qui định bởi luật là được nhận tiền - tạm gọi là trợ cấp - trả vào năm 1945. Vấn đề là, trước năm 1932, cuộc Đại suy thoái đã khiến nhiều cựu chiến binh mất việc làm. Một phong trào của các cựu chiến binh cấp binh sĩ đã phát triển đòi hỏi Quốc hội phải chi trả ngay những khoản trợ cấp và vào https://thuviensach.vn tháng 5, 15.000 tới 20.000 “người biểu tình đòi trợ cấp” đã xuống đường ở Washington trong một cuộc biểu tình được thiết kế để thuyết phục các nhà làm luật phải giải ngân tiền trợ cấp nếu không muốn bị xấu mặt. Các thành viên của “Đội quân Trợ cấp”, trong đó có cả người giao liên anh hùng của Patton, Joe Angelo, dựng trại trong thành phố và bên ngoài nó, tại Anacostia Flats, Maryland. Mặc dù Hạ viện đã thông qua luật trợ cấp vào ngày 15 tháng 6, nhưng Thượng viện lại phủ quyết. Trước đó, trại Anacostia Flats đã phát triển thành một dãy ngổn ngang những lều, lán, chòi, một kiểu thị trấn “Hooverville” lụp xụp (tên gọi của những thị trấn tồi tàn của thời Đại suy thoái) lấp ló dưới bóng của vòm toà nhà Quốc hội. Vào ngày 28 tháng 7, sau khi Thượng viện từ chối dự luật trợ cấp, sự náo loạn nổ ra trong thành phố. Tổng thống Herbert Hoover ra lệnh cho Douglas MacArthur giải tán người biểu tình ra khỏi Đại lộ Pennsylvania và khu trung tâm, nhưng không đụng tới trại Anacostia. MacArthur ra lệnh cho Trung đoàn 3 Kỵ binh vào thành phố và chờ Trung đoàn 16 Bộ binh. Là một sĩ quan quản trị, Patton không được kỳ vọng lãnh đạo binh sĩ trong nhiệm vụ dẹp loạn, nhưng lời hứa hành động lại có sức cám dỗ quá lớn. Ông cưỡi ngựa dẫn đầu 217 binh sĩ và 14 sĩ quan. Trong khi trung đoàn chờ đằng sau Nhà Trắng, Patton cưỡi ngựa một mình dọc theo Đại lộ Pensylvania để đánh giá tình hình. Ông được hoan hô bởi một số trong hàng ngàn người biểu tình đứng dọc hai bên đường. Họ nhận ra ông từ những tấm hình trên báo chí xuất hiện trong thời Thế chiến I và thậm chí trong những năm 1930. Những người khác reo hò la ó. Dù họ nhận ra George S. Patton hay không, họ biết bộ quân phục của một sĩ quan cao cấp. Vào khoảng 4 giờ chiều, Trung đoàn Kỵ binh số 3 và Trung đoàn Bộ binh số 16 vào đội hình, và kỵ binh dẫn bộ binh xuôi theo Đại lộ Pennsylvania. Nó không phải là một bức tranh đẹp: đầu đội mũ sắt, được trang bị súng và gươm tuốt ra khỏi vỏ, một đơn vị kỵ binh của quân lực Hoa Kỳ đang hành động chống lại những người cựu chiến binh của cùng đội quân đó trên một con phố ở thủ đô của một nền dân chủ lâu đời. Đáp lại sự bối rối của đám đông, Patton và binh sĩ của ông dẹp đường bằng việc đe https://thuviensach.vn dọa những người biểu tình hỗn loạn với những thanh gươm mà vị sĩ quan quản trị của họ đã thiết kế ra. Những ai từ chối di chuyển đều bị đập vào mông bằng sống gươm. Cá nhân Patton thực hiện nhiều cú đánh. Đại lộ mau chóng được giải tỏa. Khi hoàn tất nhiệm vụ, MacArthur ra lệnh cho Patton băng qua sông Anacostia để dẹp khu lều lán của người biểu tình. Đó là sự vi phạm chỉ thị trực tiếp của Tổng thống, nhưng MacArthur, sợ rằng những phần tử “cấp tiến” trong đám người biểu tình sẽ kích động một cuộc nổi dậy qui mô lớn, đã từ chối thực thi chỉ thị. Theo đó, Patton và Trung đoàn Kỵ binh số 3 dọn sạch khu lán lều. Trong quá trình, một số lều và chòi bắt lửa. Nguyên nhân của đám cháy không bao giờ được xác định, nhưng những người biểu tình tin rằng nó là một phần của cuộc tấn công có chủ ý của quân đội. Câu trả lời tệ hại của chính phủ với những người biểu tình mãi mãi làm hoen ố nhiệm kỳ tổng thống vốn đã lắm rắc rối của Herbert Hoover. về phần mình, MacArthur hoàn toàn không biện giải, cho rằng đã làm những gì cần làm để bảo vệ thành phố và chính phủ. Patton không chắc lắm. Ý nghĩ phải ra tay chống lại những cựu chiến binh, bao gồm một số người có lẽ ông đã lãnh đạo trong chiến đấu và một người, Joe Angelo, từng cứu mạng mình, không phải là “khó chịu nhất”. Tuy nhiên, Patton tin như MacArthur rằng một cuộc bạo loạn có thể xảy ra, và sau này ông bảo vệ những hành động mạnh tay bằng lập luận rằng họ đã cứu nhiều cuộc sống và tài sản. Đối với công chúng, nhiều người Mỹ sẽ nhớ mãi hình ảnh của một sĩ quan quân đội Hoa Kỳ quất bằng gươm vào những người không tấc sắt trong tay từng phục vụ đất nước và bây giờ thất nghiệp, đói khát, không thể nuôi sống gia đình. Ngoại trừ sự cố biểu tình trợ cấp, cuộc Đại suy thoái hầu như không chạm tới Patton. Thực ra, trong suốt giai đoạn 3 năm làm nhiệm vụ tại Trại Myer, Patton đã sống cuộc sống của một địa chủ miệt vườn, chơi polo và cưỡi ngựa đi săn - và làm cả hai với sự sự bất cần liều lĩnh có thể gây ra thương tích hoặc chết chóc. Được thăng lên cấp trung tá trong quân đội thường trực vào ngày 1 tháng 3, năm 1934, Patton lại được thuyên chuyển https://thuviensach.vn