🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Núi Thần
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Xin chân thành cảm ơn
cô Johanna Ahrens
cô Christine Fadler
cô Trần Thị Hoa
ông Christian Scharf
đã tận tình giúp đỡ dịch giả tra cứu và chuyển ngữ các đoạn tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Latinh
để cuốn sách này có dịp ra mắt độc giả Việt Nam.
- Nguyễn Hồng Vân -
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Khi tới nhà điều dưỡng để thăm anh họ của mình, kỹ sư Hans Castorp không biết trước rằng, thay vì ở đó một vài tuần như dự định, anh sẽ ở lại nhiều năm, suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết dày ngàn trang của Thomas Mann.
Với những người bạn Âu châu mà tôi trở nên đủ thân thiết để hỏi: cuốn tiểu thuyết nào là cuốn bạn thích nhất, câu trả lời “Núi thần” xuất hiện với một tần suất lớn đáng ngạc nhiên. Tôi thử tự lý giải như thế này:
Các nhân vật chính hay phụ trong sách: từ Hans Castorp người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời trong khu điều dưỡng cho những người lao phổi, Joachim Ziemßen người anh họ ốm yếu nhưng chỉ có một hoài bão là được ra trận, bà Chauchat người phụ nữ mà Hans Castorp yêu trong tâm tưởng và ghen tuông, bác sĩ trưởng Behrens, nhà hiền triết Settembrini cho đến ông Pepperkorn, chồng của bà Chauchat người chỉ xuất hiện vào nửa cuối của truyện, đều là những nhân vật vô cùng đặc sắc.
Đây là một cuốn sách đậm đặc phong vị của châu Âu, đầy sự lịch lãm và hài hước, những gì mà người châu Âu coi là sự biểu đạt của văn hóa. Nhưng cái quan trọng nhất có lẽ lại là cái khác. Đó là thái độ của Hans đối với một cuộc sống tù túng và vô nghĩa, cuộc sống của người bệnh nằm dài ngoài ban công của tòa nhà điều dưỡng, mình cuộn trong tấm chăn mỏng dệt từ lông lạc đà, miệng ngậm hàn thử biểu, nằm để chờ đợi một cái gì khủng khiếp xảy ra, có thể là cái chết, có thể là chiến tranh. Cả chiến tranh và cái chết sẽ đều tới thật. Tiếp nhận cuộc sống như một tấn bi kịch tàn độc và vô nghĩa, với một nụ cười tủm tỉm là lựa chọn của Hans, có lẽ của Thomas Mann và của nhiều người trong số chúng ta.
Ngô Bảo Châu
https://thuviensach.vn
NHẬP ĐỀ
Câu chuyện của Hans Castorp mà chúng tôi dự định kể hầu quý vị - không phải kể về bản thân chàng ta (vì quý độc giả sẽ gặp ở đây một chàng trai trẻ rất đỗi bình thường, mặc dù cũng không kém phần đáng mến), mà kể về câu chuyện theo thiển ý của chúng tôi rất đáng lưu truyền (có lẽ cũng nên vì Hans Castorp xin lưu ý quý vị rằng đây là câu chuyện của chàng ta, và không phải bất kỳ ai cũng có được một câu chuyện để kể): một câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, có thể nói rằng những lớp rỉ sét lịch sử đã phủ đầy lên đó, và vì vậy phải được kể bằng thời quá khứ xa xưa nhất.
Điều này chẳng phải là một điểm bất lợi cho câu chuyện, đúng ra phải coi đó là lợi điểm; vì đã là chuyện kể thì phải xưa cũ chứ, và có thể nói không ngoa rằng chuyện càng lùi xa vào dĩ vãng lại càng hấp dẫn, càng có lợi cho bản thân câu chuyện lẫn cho người kể chuyện, kẻ rì rầm đọc thần chú gợi lên một thời quá khứ chưa khép lại. Tuy nhiên đối với câu chuyện này, cũng như giờ đây đối với mọi người và dĩ nhiên trong số họ bao gồm cả những người kể chuyện, phải hiểu rằng: nó già cỗi hơn rất nhiều so với tuổi của mình, sự già nua tuổi tác không thể tính bằng ngày bằng tháng, không thể tính bằng những vòng quay của trái đất quanh mặt trời; nói một cách ngắn gọn: mức độ xa xưa của nó đúng ra không được đo bởi thời gian - một nhận định kín đáo ám chỉ và lưu ý ta về tính khả nghi và bản chất tráo trở của cái yếu tố bí hiểm tên gọi thời gian.
Để cho sự việc không bị bao phủ dưới bức màn thiếu tự nhiên, xin được giải thích: tính cổ xưa của câu chuyện này bắt nguồn ở chỗ, chuyện xảy ra trước một ranh giới đồng thời là bước ngoặt lịch sử, một vực thẳm xẻ ra trống hoác trong cuộc sống và trong tiềm thức… Chuyện xảy ra, hay, để tránh dùng thời hiện tại một cách có dụng ý, chuyện đã xảy ra và đã từng xảy ra khi ấy, trước kia, vào những ngày xa xưa, trong một thế giới đứng trước cuộc chiến tranh lớn mở đầu cho biết bao nhiêu sự kiện, và sự mở đầu
https://thuviensach.vn
này cho đến nay vẫn còn chưa kết thúc. Vậy là câu chuyện này đã xảy ra trước đó, mặc dù trước đó chẳng bao lâu. Nhưng phải chăng tính xưa cũ của một câu chuyện càng sâu đậm, trọn vẹn và thần thoại khi diễn biến của nó càng xích lại gần thời điểm “trước đó”, trước cái mốc lịch sử kia? Như vậy thì rất có thể câu chuyện của chúng ta, với nội dung của nó, cũng có chút hơi hướng liên quan với thần thoại.
Chúng tôi sẽ kể câu chuyện này một cách thật tỉ mỉ, chính xác và kỹ lưỡng - vì từ bao giờ một câu chuyện được đánh giá là thú vị hay vô vị tùy theo độ ngắn dài, phụ thuộc vào không gian và thời gian mà nó chiếm chỗ? Không sợ hổ thẹn vì quá dài dòng, chúng tôi thiên về nhận định cho rằng chỉ có cách kể chuyện đầy đủ, chi tiết mới thực sự mua vui được cho độc giả.
Và như thế người kể chuyện sẽ không thể kết thúc câu chuyện của Hans nhanh như trở bàn tay. Bảy ngày của một tuần sẽ không thể đủ, và bảy tháng cũng không. Có lẽ tốt nhất người kể chuyện không nên tiết lộ từ bây giờ, rằng bao nhiêu thời gian trên trái đất sẽ trôi đi trong khi câu chuyện kết dần thành cái kén bao bọc lấy nhân vật chính của chúng ta. Biết đâu, nhân danh Chúa, nó lại chẳng kéo dài tới bảy năm! Vậy ta hãy bắt đầu câu chuyện.
https://thuviensach.vn
I
https://thuviensach.vn
ĐẾN NƠI
Một chàng trai trẻ bình dị rời Hamburg, quê cha đất tổ của mình, vào giữa lúc mùa hè cao điểm để đến DavosPlatz[1] ở Graubünden. Chàng định đến thăm nơi đó ba tuần.
Từ Hamburg lên tới đó là cả một hành trình dài; đúng ra là quá dài đối với thời gian lưu lại ngắn như vậy. Chuyến đi xuyên qua nhiều quốc gia, lên dốc xuống đèo, từ vùng cao nguyên miền Nam Đức xuôi xuống bờ hồ lớn xứ Schwaben[2], đáp tàu thủy cưỡi trên những ngọn sóng nhấp nhô, lướt qua những vực sâu thăm thẳm trước nay vẫn được coi là không thể dò tới đáy.
Cuộc hành trình cho tới giờ thông đồng bén giọt từ đây trở đi bị gián đoạn nhiều lần. Lữ khách phải dừng lại vài nơi, gặp một vài trắc trở. Ở Rorschach trên đất Thụy Sĩ chàng lại phó thác mạng mình cho ngành đường sắt, nhưng cũng chỉ đi được đến Landquart, một ga nhỏ trên dãy núi Alps, thì bắt buộc phải đổi sang một loại xe lửa đặc biệt chạy trên đường ray hẹp. Sau một thời gian chờ đợi khá lâu nơi cái ga nhỏ đìu hiu chàng bước lên chuyến tàu mới để nó đưa mình đến một vùng đèo heo hút gió. Và từ lúc cái đầu máy bé hạt tiêu nhưng sức kéo mạnh khác thường rùng mình chuyển động thì phần phiêu lưu mạo hiểm nhất của cuộc hành trình cũng bắt đầu, một chuyến đi lên cao, cao mãi tưởng như chẳng bao giờ tới đích. Ga Landquart đã tương đối cao rồi; nhưng giờ đây chàng mới thực sự dấn thân lên chặng đường cheo leo hiểm trở nhất kẹp giữa những vách đá sừng sững của vùng núi non hoang dã.
Hans Castorp - đó là tên chàng trai trẻ - ngồi một mình trong khoang riêng bốn bề lót đệm xám êm ái, hành trang chỉ có cái xắc tay bằng da cá sấu, quà tặng của ông trẻ đồng thời là cha đỡ đầu chàng, ông lãnh sự[3] Tienappel - tiện đây cũng xin nhắc đến danh tánh vị này luôn - với chiếc áo ấm mùa đông móc trên cao lúc lắc theo nhịp tàu đi, và chiếc chăn dạ ủ chân kẻ ô
https://thuviensach.vn
vuông sặc sỡ; chàng ngồi bên cửa sổ toa tàu hạ hết kính, và vì trời chiều càng lúc càng lạnh lẽo nên chàng, vốn là một công tử bột mảnh khảnh, phải dựng cổ chiếc áo khoác lụa mùa hè rộng rãi may đúng mốt thời trang lên cao. Nằm lăn lóc trên ghế cạnh chỗ chàng là một cuốn sách không đóng gáy nhan đề ‘Tàu thủy viễn dương’, trong giai đoạn đầu của cuộc hành trình thỉnh thoảng chàng có lôi ra đọc nhưng nay bị bỏ rơi, bìa sách nhem nhuốc những hạt bụi than tạt vào từ hơi thở phì phò của chiếc đầu tàu.
Hai ngày trời tách biệt lữ khách - một người còn rất trẻ, chưa bén rễ ăn sâu bám chắc vào đời - khỏi cuộc sống thường ngày, khỏi những gì được coi là nghĩa vụ, quyền lợi, nỗi lo, niềm hy vọng, tất cả lùi xa hơn hẳn mức độ chàng có thể mơ tưởng ra lúc ngồi trên xe ngựa đến nhà ga. Khoảng không gian vùn vụt xoay vần chia cắt chàng và nơi chôn rau cắt rốn bỗng mang một sức mạnh mà thông thường chỉ thời gian mới có; từng giờ từng giờ nó tạo ra những biến đổi nội tâm rất giống tác động của thời gian, nhưng trên một phương diện nhất định còn mãnh liệt hơn. Giống như thời gian, khoảng cách biệt ấy làm ta quên lãng; nhưng đó là một sự quên lãng xảy ra đột ngột do cá nhân con người được giải thoát khỏi các mối quan hệ vốn có và được đặt vào một tình trạng tự do sơ khởi không ràng buộc, thật vậy, trong trường hợp này thậm chí một người chỉn chu, một công dân gương mẫu cũng có thể bỗng chốc trở thành kẻ lãng tử giang hồ. Thời gian, như người ta thường nói, là liều thuốc lú; nhưng bầu không khí viễn phương cũng là một thứ rượu thần, mà nếu như nó không ngấm sâu bằng liều thuốc kia thì bù lại tác động của nó nhanh hơn gấp bội.
Hans Castorp đang trải qua đúng tâm trạng đó. Chàng không dự định coi chuyến đi là một dịp đặc biệt, không muốn để tâm nhiều vào cuộc hành trình. Hơn thế ý đồ của chàng là đi chóng vánh cho xong, như giải quyết một việc chẳng đặng đừng, rồi trở về nguyên vẹn vẫn con người cũ và nhập lại cuộc đời cũ đúng ở thời điểm tạm dừng trước đó. Mới hôm qua đây chàng còn hoàn toàn bị chi phối bởi những suy nghĩ thường ngày, mải ôn lại sự kiện trọng đại là kỳ thi tốt nghiệp vừa xong, và chuẩn bị cho khởi đầu sự nghiệp là giai đoạn thực tập ở hãng Tunder & Wilms (xưởng đóng tàu, sản xuất máy và nồi hơi), với bao nhiêu nao nức hồi hộp, khác hẳn bản tính
https://thuviensach.vn
điềm đạm của mình trong những dự định tương lai chàng đã nôn nóng nhảy cóc không tính tới ba tuần trước mắt. Nhưng giờ đây chàng có cảm tưởng bị thu hút toàn tâm toàn ý vào cuộc hành trình này và không thể coi nhẹ bất cứ điều gì. Chuyến đi cao, cao mãi lên đến cổng trời - nơi có bầu không khí loãng nhẹ chàng chưa bao giờ hít thở, nơi chàng biết rằng dân cư thưa thớt và các điều kiện sống khắc nghiệt một cách lạ lùng - bắt đầu khiến chàng xốn xang, lòng dạ hoang mang. Quê hương và cuộc sống nền nếp quy củ không chỉ lùi lại đằng sau, đáng ngại nhất là nó nằm sâu bên dưới xa tít tắp, ấy vậy mà chàng vẫn còn đang tiếp tục bò lên cao nữa. Lơ lửng giữa trời và đất, giữa thế giới quen thuộc và miền xa lạ, chàng tự hỏi ở trên kia không biết rồi mình sẽ ra sao. Phải chăng chàng đã hành động một cách hồ đồ, thiếu khôn ngoan và bất lợi cho sức khỏe, vì vốn là người sinh trưởng dưới đồng bằng và quen hít thở bầu không khí chỉ vài mét trên mực nước biển, nay chàng hấp tấp đi liền một mạch lên vùng cao nguyên nghiệt ngã này mà không dừng chân ít nhất mấy ngày ở một chặng nào đó lưng chừng? Chàng nóng lòng mong tới đích, chắc mẩm rằng lên tới đấy người ta có thể dừng chân để bình tâm thu xếp một cuộc sống tạm ổn như ở khắp mọi nơi và rũ bỏ được cảm giác bồn chồn khắc khoải khi leo dốc, tâm trạng luôn nhắc nhở chàng rằng mình đang ở vào một hoàn cảnh bất thường. Chàng nhìn ra ngoài cửa sổ: đoàn tàu uốn mình bò quanh một đoạn đèo; có thể nhìn thấy cả mấy toa đằng trước, nhìn thấy cái đầu máy vất vả ì ạch phì ra từng cụm khói nâu xỉn đặc kịt bay cuồn cuộn. Nước réo ào ào dưới vực sâu phía bên phải; bên trái loáng thoáng những cây thông mọc lên cao vút từ khe đá, in bóng đen sẫm trên nền trời xám xịt như vạc vào đá tảng. Tàu chui vào những đường hầm tối như hũ nút, ở đầu bên kia mở ra những thung lũng rộng, dưới đáy lác đác làng mạc nằm trong ánh sáng mặt trời chan hòa. Các thung lũng khép lại, tiếp theo là những ngọn đèo mới, tuyết lưu cữu còn đọng trong khe sâu. Có những chặng nghỉ tại các ga xép tồi tàn, có những ga cụt mà sau khi vào đoàn tàu phải lộn đầu chạy trở ra làm người ta ngơ ngác, mất phương hướng và không còn biết mình chạy về đằng nào nữa. Những bức tranh phong cảnh hùng vĩ với những đỉnh núi cao chất ngất, mái nhà của châu Âu mà chàng đang liều lĩnh xâm nhập vào, hiện ra trước con mắt kính cẩn của
https://thuviensach.vn
lữ khách để rồi lại biến đi sau mỗi khúc quanh. Hans Castorp nhận ra vùng sinh trưởng của các loài cây lá bản đã tụt lại phía sau, nếu chàng không nhầm thì chim chóc cũng bặt tiếng hót, và ý nghĩ thiên nhiên cũng phải chùn bước và trở nên nghèo nàn ở độ cao này khiến chàng bâng khuâng choáng váng, bất giác đưa tay lên che mắt hai giây. Rồi cảm giác ấy qua đi. Chàng nhận ra mình không tiếp tục leo lên cao nữa, tàu đã tới đỉnh đèo và đang ung dung trườn vào lòng một thung lũng phẳng.
Bấy giờ khoảng gần tám giờ tối, ngày vẫn chưa tàn. Một cái hồ hiện ra phía xa xa với mặt nước xám sóng sánh và dải rừng thông đen thẫm kéo từ bờ hồ lên vách núi bao quanh, càng lên cao càng thưa thớt rồi dứt hẳn để lộ ra sườn đá trần trụi trong sương mù. Tàu dừng lại một ga nhỏ, Davos-Dorf như Hans Castorp nghe người ta xướng to bên ngoài, chàng sắp tới đích rồi. Thình lình chàng nghe vang lên ngay bên tai tiếng Joachim Ziemßen, với giọng Hamburg chậm rãi hơi ngân nga không lẫn vào đâu được, bảo mình: “Xin chào, thôi xuống đi cậu”; và khi ngước mắt trông ra chàng thấy Joachim bằng xương bằng thịt đã đứng dưới sân ga ngay cạnh cửa sổ chỗ chàng ngồi, trong chiếc áo khoác dài màu nâu có hai hàng cúc, đầu không mũ không nón và tươi tắn khỏe mạnh như chưa bao giờ được thế. Anh họ chàng vừa cười vừa nhắc lại:
“Thôi xuống đi nào, còn ngại ngần gì nữa!”
“Nhưng đã tới đâu”, Hans Castorp chưng hửng nói, vẫn ngồi nguyên tại chỗ.
“Tới rồi. Đây là Làng Davos. Từ đây đi đến viện an dưỡng gần hơn. Tớ có mang xe ra đón. Đưa đồ đạc tớ cầm cho.”
Và vừa cười bối rối, hồi hộp vì không ngờ đã tới nơi và gặp người anh họ, Hans Castorp vừa chuyền qua cửa sổ đưa cho anh chiếc xắc tay và áo khoác mùa đông, cái chăn dạ với cây ba toong và cây dù đi mưa, cuối cùng cả cuốn ‘Tàu thủy viễn dương’. Rồi chàng chạy qua hành lang hẹp ra cửa toa và nhảy xuống sân ga để chính thức chào anh họ, thủ tục chào hỏi diễn ra không có ôm hôn thắm thiết hay tay bắt mặt mừng nồng nhiệt, mà tương đối khách sáo như bản tính của người miền Bắc. Nói ra thì hơi kỳ, nhưng từ xưa tới giờ họ đã tránh gọi nhau bằng tên và xưng anh em, chỉ vì ngại bày tỏ cảm tình
https://thuviensach.vn
một cách quá lộ liễu. Tuy nhiên đã là anh em thì cũng không thể gọi nhau bằng họ, thế nên hai người vẫn xưng hô cậu tớ với nhau. Đó là thói quen bén rễ từ lâu giữa họ.
Một người đàn ông mặc đồng phục, đội mũ gắn ngù kim tuyến đứng đợi hai anh em hấp tấp và hơi ngượng ngập bắt tay nhau, chàng trai trẻ Ziemßen đứng nghiêm theo tư thế quân ngũ, rồi tiến lại gần hỏi phiếu gửi hành lý của Hans Castorp; lão tự giới thiệu là người gác cổng của an dưỡng đường quốc tế ‘Sơn trang’ và đề nghị để mình đến ga ‘Phố’ nhận giùm chiếc vali lớn của ông khách, trong khi ấy hai người có thể đi xe về an dưỡng đường ăn tối cho sớm. Người đàn ông bước khập khiễng một cách khó nhọc, và như thế câu đầu tiên mà Hans Castorp hỏi Joachim Ziemßen là:
“Lão là cựu chiến binh à? Chân lão làm sao thế?”
“Hừ, cám ơn cậu khéo thi vị hóa!” Joachim đáp lại giọng thoáng chút cay đắng. “Cựu chiến binh gì đâu! Lão bị lao xương ở đầu gối, lâu rồi, và sau đó đã phải mổ tháo xương bánh chè.”
Hans Castorp vội tìm cách sửa chữa sự vô ý của mình. “À ra thế!” Chàng bảo, vừa đi vừa quay đầu nhìn nhanh lại phía sau. “Nhưng chẳng lẽ cậu định ám chỉ rằng cậu vẫn còn chưa khỏi hẳn hay sao? Trông cậu không khác gì sĩ quan đã được đeo lon vừa từ một cuộc tập trận trở về.” Và chàng liếc nhìn sang người anh họ.
Joachim cao lớn hơn Hans, cứ như người mẫu minh họa cho tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống và được sinh ra chỉ để khoác lên mình bộ quân phục. Chàng vốn có nước da ngăm ngăm, tuýp người cũng không hiếm gặp trên quê hương tóc vàng của họ, và giờ đây làn da ấy bắt nắng nâu bóng lên như đồng thau. Với cặp mắt đen to và hàng ria mép sẫm màu trên cặp môi đầy đặn sắc nét có thể nói là chàng rất đẹp trai, nếu như không có đôi tai vểnh. Đôi tai lừa này là nỗi khổ tâm và niềm đau đớn duy nhất trong đời chàng cho đến một thời điểm nhất định. Nay chàng mang trong lòng những lo lắng khác. Hans Castorp tiếp tục:
“Cậu sẽ về cùng tớ chứ? Chắc cậu khỏe hẳn rồi.”
“Về cùng cậu?” Joachim hỏi lại và quay sang nhìn chàng bằng cặp mắt to xưa nay vẫn hiền hậu, nhưng trong năm tháng trời xa cách đã mang thêm
https://thuviensach.vn
một nét mệt mỏi, thậm chí hơi rầu rĩ. “Khi nào?”
“Thì ba tuần nữa.”
“À, hóa ra trong đầu cậu đã nghĩ đến lúc quay về rồi”, Joachim bảo. “Cứ đợi đấy, cậu mới chỉ vừa đặt chân đến đây thôi. Ba tuần đúng ra chẳng là gì cả đối với người trên này, nhưng đối với cậu, chỉ là khách ghé qua chơi, cũng là khối thời gian. Trước tiên cậu hãy cứ làm quen với khí hậu ở đây đã, rồi cậu sẽ thấy, không dễ đâu. Và lạ thung lạ thổ cũng chẳng phải là trở ngại duy nhất ở trên này. Cậu sẽ gặp nhiều điều mới lạ, cứ tin lời tớ. Còn về phần tớ, cậu phải biết rằng bệnh này không thể ngày một ngày hai chữa cho khỏi được đâu - ‘ba tuần nữa về nhà’ - đó là nói theo cách nghĩ của người dưới kia. Trông thế này thôi nhưng tớ vẫn chưa khỏe hẳn, đừng để cho làn da bắt nắng gắt trong ánh tuyết vùng núi cao đánh lừa mắt, Behrens vẫn bảo thế, trong lần kiểm tra sức khỏe vừa rồi ông ấy còn phán tớ phải ở lại thêm nửa năm nữa.”
“Nửa năm? Cậu có khùng không?” Hans Castorp kêu lên. Họ vừa mới rời nhà ga nhỏ xíu như cái chòi gác cu leo lên chiếc xe mui trần màu vàng đậu ngoài bãi trống lổn nhổn đá sỏi bên cạnh đường tàu, Hans Castorp chau mày bực bội loay hoay xoay trở trên băng ghế bọc đệm mỏng cứng ngắc. “Những nửa năm nữa? Cậu ở đây cũng đã gần nửa năm rồi còn gì! Người ta đâu có nhiều thời gian đến thế!”
“Phải, thời gian”, Joachim đáp và gật gật đầu, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, không đếm xỉa đến cơn bất bình chính đáng của em họ. “Thời gian ở đây ỡm ờ lắm, chẳng như thời gian thông thường của người đời, cậu không tưởng tượng được đâu. Ba tuần đối với người trên này chỉ ngắn ngủi như một ngày. Rồi cậu sẽ thấy. Cậu sẽ được làm quen với tất cả những cái đó”, chàng bảo và còn thêm vào: “Ở đây mọi nhận thức bị đảo lộn cả.”
Hans Castorp chăm chăm nhìn ngang sang phía người anh họ. “Nhưng trông cậu khỏe lắm rồi mà”, chàng lắc đầu cãi.
“Cậu thấy thế à?” Joachim hỏi lại. “Mới đầu tớ cũng tưởng thế!” chàng vừa nói vừa vươn vai ngồi thẳng người lên trên ghế; nhưng lại lập tức đổi tư thế xoay nghiêng sang bên. “Tớ cảm thấy trong người đã khá hơn”, chàng giải thích, “nhưng vẫn chưa bình phục hẳn. Phía trên phổi trái, chỗ hồi trước
https://thuviensach.vn
tiếng kêu rất nhám, bây giờ đã dịu bớt, không tệ mấy nữa, nhưng ở dưới vẫn còn khá nặng, và ở gian liên sườn thứ hai lại có tiếng rít.”
“Cậu ăn nói cứ như bác học ấy”, Hans Castorp bảo.
“Đúng thế, có Chúa chứng giám, đó là cả một môn khoa học. Giá mà tớ thải hết được những điều cao siêu ấy ra khỏi đầu”, Joachim trả lời. “Nhưng tớ vẫn ho ra đờm”, chàng nói thêm và nhún vai rất mạnh với một thái độ bất cần đời không mấy phù hợp với nét mặt hiền hậu của mình, và hé cho người em họ nhìn thấy một vật chàng rút ra phân nửa từ túi áo khoác rồi lại đẩy thụt vào ngay: một cái chai dẹt hình ô van bằng thủy tinh màu xanh cô ban có nắp kim loại[4]. “Đa số những người sống trên này đều phải cặp kè với nó”, chàng bảo. “Người ta còn đặt tên cho nó nữa, một biệt hiệu rất quấy. Cậu thấy phong cảnh thế nào?”
Hans Castorp nhìn quanh gật gù: “Tuyệt vời!”
“Thật chứ?” Joachim hỏi lại.
Họ theo con đường khấp khểnh dọc đường tàu chạy một đỗi về hướng trục thung lũng, rồi rẽ trái vượt qua khúc đường ray hẹp, lội qua một con suối nhỏ và lọc cọc nhằm hướng vạt rừng mọc trên sườn dốc thoai thoải chạy lên cao. Nơi đó, trên một khoảng đồng cỏ phẳng phiu như bậc thềm rộng mở về hướng tây nam, tọa lạc một dãy nhà dài có đỉnh tháp tròn, mặt ngoài vô số hốc ban công lõm vào chẳng khác gì một miếng bọt biển lỗ chỗ, bắt đầu le lói thắp lên những ngọn đèn đầu tiên. Trời sụp tối rất nhanh. Một ráng hoàng hôn mỏng mảnh mới lúc nãy còn khởi sắc cho bầu trời đầy mây phủ nay đã lịm tắt, tình trạng nhá nhem nhạt nhòa, trống vắng và ảm đạm bao trùm khắp thiên nhiên trước khi màn đêm sập xuống hẳn. Trong lòng cái thung lũng hẹp và dài hơi uốn cong, dưới đáy và hai bên sườn dốc rải rác nhà cửa, cũng nhấp nháy lên đèn khắp nơi, nhất là mé bên phải nơi có lưỡi đất bậc thang nhô ra với dãy nhà dài. Bên trái có những lối mòn xuyên qua đồng cỏ chạy mất hút vào bóng đen câm lặng của những dải rừng lá kim. Xa xa, chỗ sườn núi hai bên khép lại ở cuối thung lũng, những rặng núi màu xanh xám lạnh lùng nổi lên lởm chởm răng cưa, sắc nét như in lên một tấm phông. Gió quất ào ào, và trời đêm trở nên giá buốt.
https://thuviensach.vn
“Thú thật tớ hơi thất vọng vì quang cảnh ở đây chẳng có vẻ hùng vĩ mấy”, Hans Castorp bảo. “Đâu rồi băng hà vĩnh cửu và tuyết lưu niên và những đỉnh núi sừng sững chọc trời? Những núi non này chừng như không cao mấy.”
“Có chứ, cao lắm đấy”, Joachim bảo. “Cậu thấy chỗ cây ngừng mọc ở khắp nơi đó không, nó vạch thành một đường ranh giới rõ rệt, từ độ cao ấy trở lên thông không mọc được nữa, và tất cả dừng lại ở đó, không còn gì ngoài đá, như cậu thấy đấy. Ở đó, bên phải đỉnh Schwarzhorn, cái đỉnh nhọn kia kìa, có băng hà cậu ước đấy, thấy nó ánh lên xanh mờ không? Chẳng lớn lắm, nhưng đó là một dải băng hà vĩnh cửu thực sự, nó có tên gọi là băng hà Scaletta. Piz Michel và Tinzenhorn khuất trong kẽ hở đằng kia, từ đây cậu không nhìn thấy mấy đỉnh núi ấy được đâu, cũng được bọc trong tuyết quanh năm.”
“Bọc trong tuyết vĩnh cửu”, Hans Castorp mơ màng.
“Ừ, vĩnh cửu, nếu cậu muốn thế. Thật vậy, những ngọn núi ấy cao lắm. Nhưng chỗ mình đứng cũng đã cao kinh khủng rồi, cậu phải biết thế. Một ngàn sáu trăm mét trên mực nước biển. Vì vậy nên những đỉnh núi kia không đủ gây ấn tượng mạnh cho cậu.”
“Ờ nhỉ, leo mãi mới lên được đến đây! Thú thật là dọc đường có lúc tớ đã thấy hơi ngán. Một ngàn sáu trăm mét! Thế là gần năm ngàn foot[5], nếu tớ qui đổi đúng. Cả đời tớ chưa bao giờ lên đến độ cao này.” Và Hans Castorp tò mò hít vào một hơi dài, nếm thử bầu không khí loãng trên cao. Không khí trong lành - nhưng tất cả chỉ có thế. Nó mất đi mùi vị đặc trưng, không còn độ ẩm, nó trong suốt và nhẹ tênh và chẳng nói lên được điều gì với linh hồn.
“Tuyệt!” chàng khen lấy lệ.
“Ừ, không khí trên này nổi tiếng là có tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên tối hôm nay quang cảnh ở đây còn chưa khoe ra hết vẻ đẹp của nó đâu. Thỉnh thoảng nó đẹp mê hồn, nhất là khi có tuyết. Nhưng tuyết cũng là một cái nạn. Tất cả mọi người ở trên này, cậu cứ tin lời tớ, đều đã chán tuyết lên đến tận cổ rồi”, Joachim nói, và nhếch mép tỏ vẻ ngán ngẩm, cử chỉ có vẻ quá cường điệu, thiếu tự nhiên, và vì vậy cũng không mấy phù hợp với chàng.
“Cậu nói lạ quá”, Hans Castorp bảo.
https://thuviensach.vn
“Tớ nói lạ thế nào?” Joachim quay sang nhìn em họ hỏi lại với vẻ quan tâm đặc biệt…
“Không, không, tớ xin lỗi, đấy chỉ là cảm giác trong chốc lát thôi!” Hans Castorp vội vàng xoa dịu. Nhưng ý chàng muốn nói cụm từ “mọi người ở trên này” mà Joachim đã dùng đến lần thứ ba hay thứ tư rồi, không hiểu sao mấy chữ ấy gợi lên trong lòng chàng cảm giác u uất lạ lùng.
“Viện an dưỡng này còn nằm cao hơn khu dân cư, như cậu thấy đấy”, Joachim tiếp tục giảng giải. “Năm chục mét. Trong quảng cáo để là một trăm, nhưng thực ra chỉ có năm chục mét thôi. Cao nhất là viện an dưỡng Schatzalp trên kia cơ, từ đây không nhìn thấy họ được. Mùa đông họ phải đặt xác chết vào xe trượt tốc độ cao bobsleigh[6]thả trôi xuống núi, vì đường xe ngựa không đi được.”
“Xác chết? Ý cậu nói… Ơ kìa!” Hans Castorp kêu lên. Và đột nhiên chàng phá ra cười khanh khách, tiếng cười bồng bột thoát ra bất ngờ làm ngực chàng co thắt lại và gương mặt phơi ngoài gió lạnh cứng đờ nhăn nhúm đến phát đau. “Đặt vào xe trượt thể thao! Mà cậu kể cho tớ nghe một cách tỉnh bơ như vậy? Năm tháng ở trên này đã biến cậu thành con người nhẫn tâm mất rồi!”
“Có gì là nhẫn tâm”, Joachim nhún vai đáp lại. “Tại sao? Đối với mấy người chết thì đằng nào cũng thế… Mà cũng có thể cuộc sống ở đây làm người ta trở nên nhẫn tâm thật đấy. Bác sĩ Behrens chẳng hạn, cũng là một lão già ưa nhạo báng - phải nói thêm ông ấy là một tay rất sành điệu, cựu thành viên hội sinh viên và một nhà giải phẫu tài ba, thật đấy, rồi cậu sẽ thích ông ta. Ngoài ra còn có Krokowski, bác sĩ trợ lý nữa, cũng đáng ngại lắm. Trong quảng cáo có đặc biệt đề cập đến chuyên môn của ông này. Ông ta chuyên mổ xẻ tâm hồn bệnh nhân.”
“Ông ta chuyên cái gì? Mổ xẻ tâm hồn? Khiếp quá!” Hans Castorp lại kêu lên, và giờ thì trận cười bung ra hoàn toàn không kiểm soát được nữa. Chàng không tài nào nín cười được, nhất là cái trò mổ xẻ tâm hồn làm chàng khoái chí vô cùng, và chàng cười đến nỗi nước mắt tèm lem tràn qua kẽ bàn tay chàng đưa lên che mắt. Joachim cũng cất tiếng cười sảng khoái, có vẻ chàng đã thực sự lây niềm vui của người em họ, và như thế, sau khi cỗ xe ngựa túc
https://thuviensach.vn
tắc đi nốt đoạn cuối khúc đường dốc uốn lượn dừng lại trước cổng, hai chàng trai trẻ xuống xe trong tâm trạng hào hứng vô tư, sóng đôi bước vào viện an dưỡng quốc tế tên gọi ‘Sơn trang’.
https://thuviensach.vn
SỐ 34
Ngay bên phải, nằm lọt giữa cổng vào và mái chắn gió là quầy tiếp tân, ở đó một nhân viên dáng vẻ như người Pháp mặc đồng phục màu xám giống lão già khập khiễng ngoài ga đang ngồi đọc báo cạnh cái máy điện thoại, thấy họ tới liền niềm nở chạy ra đón và đưa vào một gian sảnh rộng thắp đèn sáng trưng, bên trái giáp dãy phòng giải trí. Lúc đi ngang qua cửa Hans Castorp ngó vào thấy phòng nào phòng nấy trống không. Khách của an dưỡng đường đâu cả rồi, chàng hỏi và nhận được câu trả lời của người anh họ:
“Đang nằm dưỡng bệnh. Hôm nay tớ được miễn vì bận đi đón cậu. Nếu không sau bữa tối tớ cũng phải nằm ngoài ban công.”
Thiếu chút nữa thì Hans Castorp lại lăn ra cười.
“Hả, đêm hôm sương gió thế này các cậu cũng nằm ngoài ban công hay sao?” chàng hỏi giọng rung rung…
“Đúng thế, đấy là quy định. Từ tám giờ đến mười giờ. Nhưng đi nào, lên xem phòng cậu và rửa ráy cái đã.”
Họ vào thang máy, gã nhân viên người Pháp điều khiển bảng điện cho thang chạy lên. Hans Castorp lau khô mắt.
“Tớ sắp bể bụng và hoàn toàn kiệt sức vì cười”, chàng bảo và hé miệng ra thở. “Cậu kể toàn những chuyện giật gân… Lại còn mổ xẻ tâm hồn nữa, thật quá hạn lệ, lẽ ra cậu không được trút lên đầu tớ nhiều thế một lúc. Với lại tớ cũng hơi mệt vì chuyến đi. Cậu có bị lạnh chân không? Chân tớ lạnh cóng mà mặt lại nóng như hơ lửa, thế mới khó chịu chứ. Mình ăn tối liền phải không? Tớ thấy kiến bò bụng rồi. Ở đây các cậu có được nuôi nấng tử tế không?”
Họ bước đi không một tiếng động, tấm thảm xơ dừa trải dọc hành lang hẹp như nuốt hết mọi âm thanh. Những bóng đèn hình quả chuông bằng kính mờ tỏa xuống một thứ ánh sáng nhợt nhạt từ trên trần. Vách tường sáng
https://thuviensach.vn
trắng lạnh lẽo được quét một nước vôi bóng như sơn dầu. Ở một quãng họ chạm trán một cô y tá đội mũ trắng, mang kính không gọng kẹp trên mũi, sợi dây quàng ra sau tai. Chắc cô ta là nữ tu nhà thờ Tin Lành, không nhẫn nại và tận tụy chăm sóc bệnh nhân như những bà phước Công giáo, mà luôn tò mò và nhấp nhổm không yên vì buồn tẻ. Ở hai chỗ cạnh lối đi có những bình to ngắn cổ, bụng phình ra như bong bóng đặt trên sàn cạnh cánh cửa phòng đánh số sơn màu trắng. Hans Castorp quên hỏi anh họ công dụng của những cái bình này.
“Cậu ở đây”, Joachim bảo. “Số ba mươi tư. Tớ ở phòng bên phải, còn bên trái là một đôi vợ chồng người Nga, biết nói thế nào nhỉ, hơi bê bối và khá ồn, nhưng cũng đành phải chịu thôi. Sao, cậu thấy thế nào?”
Cửa vào có hai lớp, lớp trong gắn móc treo áo. Joachim bật đèn trần lên, trong ánh điện chói chang run rẩy căn phòng có vẻ sáng sủa và bình yên. Đồ gỗ trong phòng hạn chế ở mức vừa đủ phục vụ mục đích sử dụng, sơn toàn màu trắng; tường cũng dán giấy trắng, loại không thấm nước để có thể lau rửa được; sàn nhà trải vải nhựa sạch sẽ tinh tươm; mấy tấm màn cửa vải lanh thêu những hình thù đơn giản và ngộ nghĩnh theo phong cách hiện đại. Cửa ban công để ngỏ, qua đó có thể thấy ánh đèn lập lòe dưới thung lũng và nghe loáng thoáng một điệu nhạc nhảy. Chàng Joachim đôn hậu còn cắm cả mấy bông hoa vào một cái bình đặt trên mặt tủ thấp, thứ hoa dại mọc đầy đồng, mấy nhánh cỏ thi và vài bông hoa chuông chàng tự hái ngoài sườn dốc.
“Cậu chu đáo quá”, Hans Castorp bảo. “Phòng đẹp đấy chứ! Ở đây mấy tuần thì nhất.”
“Ngày hôm kia có một cô người Mỹ qua đời trong phòng này”, Joachim kể. “Behrens tuyên bố ngay là sẽ dọn dẹp kịp để cậu vào ở. Vị hôn phu của cô ta cũng có mặt, đó là một sĩ quan hải quân Anh, nhưng ông ta tỏ ra nhu nhược quá. Chút chút lại chạy ra ngoài hành lang đứng khóc như trẻ con. Rồi ông ta phải xoa kem mát lên mặt, vì những chỗ cạo râu bị nước mắt làm cho xót cứng. Tối hôm ấy cô người Mỹ còn phun máu hai lần xối xả, sau đấy là chấm hết. Nhưng sáng hôm qua cô ấy đã được chở đi rồi, sau đó dĩ nhiên người ta đã xông hương kỹ lưỡng khắp phòng, dùng cả formaldehyde
https://thuviensach.vn
sát trùng nữa, cậu biết không, chất ấy vẫn hay được dùng vào mục đích này.”
Hans Castorp nghe chuyện với một thái độ hồi hộp hơi lơ đãng. Tay áo xắn cao, đứng trước cái bồn rửa mặt rộng với vòi nước mạ kền sáng loáng trong ánh điện, chàng chỉ thoáng liếc mắt nhìn về phía chiếc giường khung kim loại trải ga trắng tinh.
“Sát trùng rồi, tuyệt”, chàng nói cho có nói, không đầu không cuối, vừa nói vừa rửa hai bàn tay rồi lau cho khô. “Ừ, methylaldehyde[7], H2CO ấy mà, khử được cả loài vi trùng khỏe nhất, nhưng nó có mùi gắt lắm, phải không? Tất nhiên vệ sinh là điều kiện không thể thiếu…” Chàng nói “vệ sinh” với chữ s phát âm thành x, trong khi anh họ chàng, kể từ khi vào đại học đã quen nhấn mạnh chữ s cho đúng chính tả. Hans Castorp tiếp tục: “Tớ muốn nói là… Có lẽ ông sĩ quan hải quân cạo râu bằng máy gắn lưới an toàn, tớ đồ chừng như thế, với cái của ấy người ta dễ bị xước hơn là dùng một con dao mài tốt, chí ít thì kinh nghiệm của tớ là như vậy, tớ dùng thay đổi lúc cái này lúc cái kia… Chà, da bị trầy mà gặp nước muối thì dĩ nhiên là xót, chắc ông ta đã có thói quen dùng kem làm dịu da từ khi ở trong quân ngũ, tớ thấy chuyện ấy không có gì là lạ…” Và chàng cứ nói tràng giang đại hải, chuyện nọ xọ chuyện kia, kể rằng chàng có hai trăm điếu Maria Mancini - loại xì gà ưa thích của chàng - để trong vali - lúc qua cửa khẩu họ kiểm tra dễ dãi vô cùng - và chuyển đến Joachim lời hỏi thăm của người này người nọ dưới quê nhà. “Ở đây không được sưởi ấm hay sao?” Đột nhiên chàng hỏi và chạy đến bên những cái ống lò sưởi đặt tay lên kiểm tra…
“Không, chúng tớ ở đây như cá bị ướp lạnh”, Joachim trả lời. “Phải có lý do ghê gớm lắm người ta mới đốt lò sưởi trung tâm vào tháng tám.” “Tháng tám, tháng tám gì mà lạnh thế này!” Hans Castorp kêu ca. “Tớ chết cóng đến nơi rồi! Cả người tớ như một tảng băng, chỉ riêng mặt lại nóng bừng bừng, đây, cậu sờ thử xem, có phải nóng như bốc lửa không!” Đề nghị người khác sờ lên mặt mình thật là một điều trái hẳn với bản tính Hans Castorp, tự chàng cũng cảm thấy ngượng ngùng sau khi buột miệng thốt ra câu ấy. Joachim tế nhị lơ đi và chỉ nói:
https://thuviensach.vn
“Đấy là tại không khí ở đây, chẳng sao đâu. Bản thân bác sĩ Behrens cũng mặt mày tím tái cả ngày. Có những người mãi vẫn không quen được thung thổ. Thôi, go on[8], kẻo chẳng còn gì nữa mà ăn.”
Bên ngoài cô y tá cận thị lại xuất hiện, tò mò liếc mắt nhìn theo hai người. Xuống đến tầng hai Hans Castorp đột nhiên đứng sững, như bị thôi miên bởi một tiếng động rùng rợn, phát ra sau khúc ngoặt hành lang gần đấy, một tiếng động không lớn, nhưng vang lên một cách đáng sợ đến nỗi Hans Castorp bất giác nhăn mặt và mở to mắt nhìn người anh họ. Đó là tiếng ho, không còn nghi ngờ gì nữa, tiếng ho của một người đàn ông; nhưng mà là một tiếng ho không giống bất kỳ tiếng ho nào Hans Castorp đã từng nghe trong đời, thật vậy, so sánh với nó thì những tiếng ho mà chàng biết phải là những tiếng động vui tươi lành mạnh nhất của cuộc sống, đây là một tiếng ho không còn chút gì hứng thú và cảm xúc, không thực sự bật lên thành tràng, mà chỉ như được uể oải khuấy lên trong đám cơ quan nội tạng vữa nát.
“Ừ”, Joachim bảo, “ca này nặng lắm. Đó là một nhà quý tộc Áo, cậu biết không, một người lịch lãm, một hiệp sĩ bẩm sinh. Bây giờ thì thế đấy. Nhưng ông ấy vẫn còn đi lại được.” Trong khi họ đi tiếp xuống dưới Hans Castorp không nhịn được cứ phải bình luận về tiếng ho của ông hiệp sĩ. “Cậu phải thông cảm”, chàng bảo, “rằng cả đời tớ chưa bao giờ nghe thấy cái gì giống thế, nó hoàn toàn mới lạ, dĩ nhiên nó phải gây ấn tượng mạnh đối với tớ. Có biết bao nhiêu kiểu ho, ho khan và ho có đờm sòng sọc, và như người ta thường bảo ho có đờm lại còn khá hơn là ho khan như xé vải. Hồi còn trẻ” (thật vậy, chàng nói là “hồi còn trẻ”) “tớ bị bệnh bạch hầu, khi ấy tớ ho như sói hú, và mọi người trong nhà mừng húm khi đờm bắt đầu long và tớ không ho khan nữa, tớ còn nhớ rõ lắm. Nhưng một tiếng ho như thế này thì trong đời tớ chưa từng gặp bao giờ, đó không còn là tiếng ho của người sống nữa. Nó chẳng phải là ho khan, mà cũng không thể gọi là ho có đờm, thật không có lời nào để tả. Tớ có cảm giác như vừa được nhìn vào gan ruột ông kia, thấy tất cả các cơ quan bộ phận, chỉ còn là một đám nhão nhoét…”
https://thuviensach.vn
“Thôi”, Joachim bảo, “ngày nào tớ cũng phải nghe ông ấy ho, cậu không việc gì phải tả nữa.”
Nhưng Hans Castorp không thể nào bình tâm được về tiếng ho vừa tình cờ nghe thấy, chàng cứ nhắc đi nhắc lại rằng qua tiếng ho người ta gần như nhìn thấu được cả lục phủ ngũ tạng ông hiệp sĩ, và khi họ bước vào gian phòng liền với bếp ăn được gọi trang trọng là khách sạn thì cặp mắt mệt mỏi sau cuộc hành trình của chàng sáng rực lên đầy kích động.
https://thuviensach.vn
TRONG KHÁCH SẠN
Trong khách sạn đèn đuốc sáng trưng, sang trọng và tiện nghi. Khách sạn nằm ngay bên phải gian đại sảnh, đối diện với dãy phòng giải trí, và theo lời Joachim thực khách chủ yếu là người mới đến hoặc những người có khách, dùng bữa ngoài giờ ăn thông thường. Nhưng ở đây người ta cũng tổ chức sinh nhật hoặc tiệc tùng chia tay trước khi ra viện, hay là ăn mừng kết quả khả quan của một kỳ kiểm tra sức khỏe. Đôi khi họ bày vẽ hoành tráng lắm, Joachim kể, mở cả rượu sâm panh. Giờ thì trong khách sạn không có ai ngoài một thiếu phụ khoảng chừng ba chục tuổi ngồi đọc một cuốn sách, miệng ngân nga khe khẽ và ngón giữa bàn tay trái không ngừng gõ gõ xuống khăn trải bàn. Khi hai chàng trai trẻ ngồi xuống thì bà ta đổi chỗ để xoay lưng lại phía họ. Bà ấy rất ngại tiếp xúc, Joachim hạ giọng giải thích, và luôn luôn dùng bữa trong khách sạn với một cuốn sách. Thấy bảo bà ấy đã vào nhập viện từ khi còn là một cô gái trẻ, và từ hồi ấy tới giờ không trở về cuộc sống đời thường nữa.
“Chà, thế thì với thâm niên vỏn vẹn năm tháng trời cậu chỉ là nhi đồng, thậm chí nếu có phải ở lại tròn một năm cũng chẳng nhằm nhò gì so với bà ấy”, Hans Castorp pha trò; nhưng Joachim chỉ nhún vai, cử chỉ trước kia không phải là thói quen của chàng, và với tay lấy tấm thực đơn.
Họ chọn cái bàn cao gần cửa sổ, chỗ đẹp nhất trong khách sạn. Hai anh em ngồi đối diện nhau kế bên tấm màn cửa màu kem, mặt hồng hào trong ánh sáng ngọn đèn bàn bọc chao màu đỏ. Hans Castorp chắp hai bàn tay mới rửa sạch sẽ lại với nhau xoa xoa một cách khoan khoái và đầy mong đợi, cử chỉ quen thuộc của chàng khi ngồi vào bàn ăn, có lẽ vì tổ tiên chàng trước kia vẫn thường chắp tay cầu nguyện trước bữa ăn. Một cô gái niềm nở giọng nói giòn tan, mặc váy đen quàng yếm trắng, với gương mặt to hồng hào khỏe mạnh đến phục vụ họ, và trong lúc cao hứng Hans Castorp học thêm được rằng các cô phục vụ ở đây được gọi là “tiểu nữ”. Họ bảo cô ta mang ra
https://thuviensach.vn
một chai rượu đỏ hiệu Gruaud Larose, Hans Castorp còn bắt đem đi để cho đúng nhiệt độ rồi mới khui uống. Các món ăn rất ngon. Có súp măng tây, cà chua nhồi, thịt quay với các loại gia vị, một món tráng miệng tuyệt hảo, một đĩa pho mát và hoa quả. Hans Castorp ăn rất nhiều, mặc dầu chàng không thấy ngon miệng như lẽ thường sau chặng đường dài. Nhưng chàng đã quen ăn uống đầy đủ, ngay cả khi không thấy đói, và coi đó là kỷ luật bản thân.
Joachim không chiếu cố nhiều đến các món ăn. Chàng đã chán đồ ăn ở đây rồi, chàng bảo thế, tất cả mọi người ở đây đều đã ngán lên tận cổ, và chê bai đồ ăn đã trở thành tục lệ ở trên này; vì khi người ta bị nhốt triền miên ngày này qua ngày khác… Bù lại chàng uống say sưa, có thể nói là dành cho chai rượu một sự chiếu cố quan tâm đặc biệt, và trong khi vẫn cố tránh dùng những từ ngữ để lộ nhiều cảm xúc chàng thận trọng bày tỏ sự vui mừng của mình khi có được một người tri kỷ để chuyện trò.
“Cậu đến thế này thật hay quá”, chàng bảo, và giọng nói chậm rãi của chàng thoáng lạc đi xúc động. “Có thể nói rằng đây là cả một sự kiện đối với tớ. Một sự thay đổi, tớ muốn nói rằng, đây là một bước ngoặt, một dấu ấn trong chuỗi ngày dài lê thê đơn điệu…”
“Nhưng đối với các cậu ở trên này thời gian chắc phải trôi nhanh lắm chứ”, Hans Castorp nhận xét.
“Nhanh và chậm, tùy ý cậu”, Joachim đáp. “Tớ thì muốn bảo cậu rằng nó hoàn toàn không trôi đi, đó không còn là dòng thời gian, cũng không phải cuộc đời, không, chẳng là gì cả”, chàng lắc đầu và lại với lấy ly rượu.
Hans Castorp cũng uống, mặc dù mặt chàng bây giờ phừng phừng như bốc lửa. Nhưng thân thể chàng vẫn lạnh buốt, và một nỗi bồn chồn đặc biệt vừa hứng khởi vừa dằn vặt rậm rật khắp người. Chàng nói dồn dập câu nọ xọ câu kia, chững lại nửa chừng và phẩy tay bỏ qua không nói tiếp nữa. Thêm vào đó Joachim cũng rất vui, và câu chuyện của họ lại càng tự do thoải mái khi thiếu phụ vừa ngân nga vừa gõ nhịp đột nhiên đứng dậy bỏ đi. Hai người vừa ăn vừa khua khua thìa nĩa diễn tả ý mình, vừa phồng má nhai vừa làm nét mặt đầy quan trọng, cười nói, gật gù, nhún vai, và chưa kịp nuốt hết đã vội lên tiếng nói tiếp. Joachim muốn nghe chuyện Hamburg và lái sang đề tài dự án vét sông Elbe.
https://thuviensach.vn
“Một bước ngoặt lịch sử”, Hans Castorp nói. “Mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành vận tải thủy của chúng ta, đánh giá như thế cũng không hề cao quá mức. Chúng ta đã dành ra năm chục triệu trong ngân sách để làm chi phí tức thời một đợt, và cậu cứ tin rằng chính quyền biết rõ họ làm gì.” Nhưng rồi, mặc dù dự án nạo vét lòng sông Elbe có tầm quan trọng chiến lược theo như nhận định của chính chàng, Hans Castorp vẫn bỏ rơi đề tài ấy để đòi Joachim kể thêm về cuộc sống “trên này” và những người khách ở viện an dưỡng. Chàng được chiều ý ngay, vì Joachim cũng mừng là có dịp để xả hơi và trút bầu tâm sự. Chuyện tử thi được đưa xuống núi bằng xe bobsleigh chàng phải kể thêm lần nữa, và phải thề thốt đó là sự thật hoàn toàn. Vì Hans Castorp lại phá lên cười, chàng cũng cười theo, có vẻ thực sự cao hứng và kể thêm vài mẩu chuyện khôi hài để mua vui. Ngồi cùng bàn ăn với chàng có một bà, tên là bà Stöhr, mang bệnh khá nặng, là vợ một nhạc công ở Cannstatt, bà ta là người dốt nát nhất mà chàng từng thấy dưới gầm trời. Thuốc tiệt trùng thì bà ta gọi là “tuyệt trùng”, mà rất là nghiêm túc, không đùa một tí nào. Và ông bác sĩ trợ lý Krokowski thì bà ta gọi là ông “trị lý”. Tất cả những cái ấy khi nghe người ta chỉ có thể bấm bụng cười thầm chứ không được phép thay đổi nét mặt. Thêm vào đấy bà ta lại còn nghiện buôn chuyện, giống như phần lớn người ở trên này, và một phụ nữ khác, bà Iltis, bị bà ta kể xấu sau lưng là có đeo trong người một thanh “đoảng đao”. “Bà ta gọi con dao găm là đoảng đao, thế có chết không!” Và nửa nằm nửa ngồi dựa vào lưng ghế họ cười nghiêng ngả, đến nỗi cả hai cùng bị nấc.
Giữa chừng Joachim sực nhớ ra thân phận mình và lại trở nên buồn bã. “Ừ, mình ngồi đây cười cợt thế này”, chàng nói ngắt quãng, vẻ mặt vẫn nhăn nhó vì thỉnh thoảng cơ hoành vẫn còn một cơn co thắt, “mà chẳng biết đến bao giờ tớ mới thoát ra được, vì nếu Behrens đã nói: nửa năm nữa, thì phải hiểu rằng đó chỉ là mức tối thiểu thôi và phải chuẩn bị tinh thần ở lâu hơn. Thế có chán không, số phận sao mà bất công quá. Tớ đã được tiếp nhận rồi, lẽ ra tháng sau đã có thể thi tốt nghiệp khóa sĩ quan. Thế mà bây giờ tớ phải ngồi chết dí ở đây, ngậm một cái nhiệt kế trong miệng, kể chuyện tiếu lâm về thói dốt lại hay nói chữ của bà Stöhr và nhìn thời gian trôi đi mất hút. Một năm ở tuổi chúng mình đóng vai trò lớn lắm, nó có thể mang đến cho
https://thuviensach.vn
cuộc đời dưới kia biết bao nhiêu thay đổi và tiến bộ. Vậy mà tớ phải chịu cảnh tù túng ở đây, chính thế, không khác gì một vũng nước tù tanh tưởi, thật ra so sánh như vậy cũng chẳng có gì là quá…”
Lạ là Hans Castorp chỉ đáp lại bằng câu hỏi, liệu ở đây có bia đen hiệu Porter không, và khi Joachim kinh ngạc nhìn em họ thì chàng nhận ra cậu em đã buồn ngủ rũ ra rồi, đúng ra chàng ta đã gật vài cái.
“Nhưng mà cậu ngủ gật rồi kìa!” Joachim bảo. “Thôi nào, đã đến giờ cả hai chúng mình phải lên giường.”
“Chưa đến giờ gì cả”, Hans Castorp líu lưỡi phản đối. Nhưng chàng vẫn đứng dậy đi theo anh, lưng khòm xuống và chân kéo lê, như một người bị cơn mệt mỏi hút chặt xuống đất. Tuy nhiên, lúc họ ra đến gian đại sảnh, giờ này chỉ còn được thắp sáng mờ mờ, chàng cũng gom hết sức vươn thẳng người lên khi nghe tiếng Joachim nói khẽ:
“Krokowski ngồi ở đằng kia. Chắc tớ phải giới thiệu cậu với ông ấy cho phải phép.”
Bác sĩ Krokowski ngồi chăm chú đọc báo dưới ánh đèn, bên bệ lò sưởi phòng giải trí, ngay cạnh cánh cửa kéo. Ông ta đứng dậy khi hai chàng trẻ tuổi bước lại gần và Joachim đứng nghiêm trong tư thế chào lên tiếng:
“Thưa bác sĩ, xin được giới thiệu em họ tôi là Castorp từ Hamburg lên. Em tôi vừa mới đến nơi.”
Bác sĩ Krokowski chào thành viên mới với một thái độ đặc biệt niềm nở, xuề xòa và đầy khuyến khích như thể muốn nhấn mạnh rằng, trong quan hệ với ông có thể bỏ qua mọi nghi thức rườm rà và giữa họ chỉ cần một sự tin cậy vui tươi là đủ. Ông ta khoảng chừng ba mươi lăm tuổi, vai rộng, tướng ngũ đoản, thấp hơn hẳn hai thanh niên đứng trước mặt cho nên phải ngửa cổ ra mới nhìn được vào mặt họ, và đặc biệt xanh xao - có thể nói không ngoa là xanh lè như ánh lân tinh - nước da nhợt nhạt càng làm nổi bật đôi mắt đen như than, cặp lông mày chổi xể và bộ râu cằm khá dài tẽ ra thành hai chòm đã có điểm vài sợi bạc. Ông ta mặc một chiếc áo khoác màu đen hai hàng cúc đã hơi sờn cũ, đi một đôi nửa giày nửa dép rọ thủng lỗ chỗ màu đen với tất len màu xám, đập vào mắt là một cái cổ áo mềm rộng phủ xuống vai như Hans Castorp trong đời mới thấy một lần duy nhất trong trang phục của một
https://thuviensach.vn
tay thợ chụp ảnh ở Danzig[9], cái cổ áo này làm cho tướng mạo bác sĩ Krokowski mang một vẻ đặc biệt rất triển lãm. Ông ta cười nhiệt tình đến mức bộ râu hé ra để lộ hàm răng vàng, và vừa bắt tay chàng trẻ tuổi lạ mặt vừa nói bằng giọng nam trung ề à hơi pha âm hưởng ngoại quốc:
“Xin trân trọng đón chào, ông Castorp! Mong rằng ông sớm làm quen với cuộc sống trên này và thấy vui khi ở với chúng tôi. Xin ông thứ lỗi, có phải ông đến nhập viện để điều trị?”
Thật cảm động khi chứng kiến cảnh Hans Castorp cố gắng xua cơn buồn ngủ để cư xử cho đúng phép xã giao. Chàng bực bội vì phải ra mắt ông bác sĩ trợ lý đúng lúc kém phong độ thế này, và với sự nghi ngại thiếu tự tin của người trẻ tuổi chàng thấy trong nụ cười cùng thái độ khuyến khích của ông ta có ẩn giấu một vẻ châm biếm độ lượng. Chàng trả lời bằng cách nói về ba tuần thăm viếng, nhắc đến cả kỳ thi tốt nghiệp của mình và chêm vào rằng chàng, nhờ ơn Chúa, hoàn toàn mạnh khỏe.
“Thực thế?” bác sĩ Krokowski vừa hỏi vừa nghiêng đầu như trêu chọc và nụ cười của ông ta càng nở rộng… “Nhưng như thế thì ông là một hiện tượng đặc biệt rất đáng được nghiên cứu! Đúng ra tôi chưa từng gặp một người nào hoàn toàn mạnh khỏe. Ông vừa mới trải qua kỳ thi gì vậy, nếu ông cho phép tôi được hỏi?”
“Tôi là kỹ sư, thưa bác sĩ”, Hans Castorp trả lời với vẻ khiêm nhường đầy tự trọng.
“A, kỹ sư!” và nụ cười của bác sĩ Krokowski lập tức teo lại, trong khoảnh khắc giảm bớt phần nào sức mạnh và sự nồng nhiệt. “Thế thì ông phải sáng dạ lắm nhỉ. Vậy là ông hoàn toàn không có ý định tận dụng các quyền lợi về mặt y tế ở đây, dù là để chăm sóc thể lực hay tinh thần?”
“Không, ngàn lần cám ơn ông!” Hans Castorp đáp và thiếu chút nữa thì còn lùi lại một bước.
Nụ cười của bác sĩ Krokowski lại xòe ra đắc thắng, và vừa đưa tay lần nữa cho chàng trai trẻ ông ta vừa nói to:
“Chà, vậy xin chúc ông ngủ ngon, ông Castorp, ông hãy ăn ngon ngủ kỹ nhờ sức khỏe đáng khen ngợi của mình! Chúc ngon giấc và hẹn gặp lại!”
https://thuviensach.vn
Bằng cách đó ông ta chia tay hai chàng trai trẻ và quay lại với tờ báo của mình.
Không còn ai điều khiển thang máy nữa nên hai người leo cầu thang bộ về phòng, im lặng và còn hơi hoang mang vì cuộc gặp gỡ với bác sĩ Krokowski. Joachim đưa Hans Castorp về lại phòng số 34, nơi lão già khập khiễng đã đem hành lý của chàng lên xếp gọn ghẽ, và họ còn trò chuyện khoảng mười lăm phút nữa trong lúc Hans Castorp dỡ đồ dùng vệ sinh và quần áo ngủ ra, vừa làm vừa hút một điếu thuốc lá nhẹ vấn to. Hôm nay chàng không có hứng hút xì gà, bản thân chàng cũng thấy ngạc nhiên và coi đây là một sự bất thường.
“Ông ta có vẻ trịnh trọng quá nhỉ”, chàng nói và phà ra một hơi khói thuốc. “Da trong như nặn bằng sáp. Nhưng giày dép của ông ấy thì không thể tiêu hóa được, khiếp quá. Tất len xám, lại còn cái thứ xăng đan ấy nữa chứ. Này cậu, cuối cùng ông ấy có vẻ phật ý phải không?”
“Ông ấy tương đối nhạy cảm”, Joachim thừa nhận. “Lẽ ra cậu không nên từ chối thẳng thừng như thế mà có thể nhận lời đi khám, chí ít là làm một trắc nghiệm tâm lý. Ông ấy không hài lòng khi người ta lẩn tránh món tủ của mình. Tớ cũng không được lòng ông ấy đâu, vì tớ không chịu dốc hết bầu tâm sự với ông ấy. Nhưng thi thoảng tớ cũng kể một vài giấc mơ để ông ấy có cái mà mổ xẻ.”
“Thôi, thế là chưa gì tớ đã làm mất lòng ông ấy rồi”, Hans Castorp cau có nói; chàng không hài lòng với bản thân vì đã làm phật ý người khác, và thế là cơn mệt mỏi lại tràn đến mạnh hơn nhấn chìm lấy chàng. “Chúc cậu ngủ ngon”, chàng bảo. “Tớ sắp gục rồi.”
“Tám giờ tớ sang đón cậu đi ăn sáng”, Joaschim bảo rồi đi ra. Hans Castorp chỉ rửa ráy qua loa. Ngọn đèn nhỏ đầu giường vừa tắt phụt thì giấc ngủ đã ào đến trùm lên chàng, nhưng chàng còn giật mình choàng tỉnh một lần nữa, vì chàng chợt nhớ ra trên chiếc giường này hai ngày trước có một người vừa mới qua đời. ‘Chắc chẳng phải là lần đầu tiên’, chàng nhủ thầm, như muốn tự trấn an. ‘Một chiếc giường quàn tử thi, nhưng cũng chỉ là một chiếc giường hết sức bình thường mà tử thần có lần đảo qua.’ Rồi chàng ngủ thiếp đi.
https://thuviensach.vn
Nhưng vừa chìm vào giấc ngủ là chàng bắt đầu mơ, và các giấc chiêm bao kéo dài gần như liên tiếp cho tới sáng hôm sau. Đại khái chàng mơ thấy Joachim Ziemßen nằm co quắp một cách kỳ quái trong chiếc xe bobsleigh trôi vùn vụt từ trên sườn dốc cao xuống. Anh chàng xanh lè ánh lân tinh như ông bác sĩ Krokowski, và ngồi điều khiển xe trượt là ông hiệp sĩ, ông này tướng mạo mơ hồ như một người mới chỉ được biết đến qua tiếng ho. “Đối với chúng tớ, những người ở trên này, thì đằng nào cũng thế”, Joachim nằm co quắp nói, và rồi chính chàng cất tiếng ho vữa nát rùng rợn chứ không phải ông hiệp sĩ. Hans Castorp cay đắng khóc như mưa và phải chạy đến hiệu thuốc để mua kem mát xoa mặt. Nhưng dọc đường chàng chạm trán bà Iltis chu mỏ ngồi cầm vật gì đó trong tay, chắc là thanh “đoảng đao”, lại gần té ra là một cái máy cạo râu bọc lưới an toàn. Thế là Hans Castorp lại phì cười, và chàng cứ lúc cười lúc khóc cho đến khi được ánh ban mai len vào qua cánh cửa ban công hé mở đánh thức dậy.
https://thuviensach.vn
II
https://thuviensach.vn
CHIẾC THAU RỬA TỘI VÀ NGƯỜI ÔNG TRONG HAI HÌNH HÀI
Hans Castorp chỉ còn giữ được những ký ức mơ hồ về ngôi nhà tuổi thơ; chàng gần như chưa kịp làm quen với cha mẹ. Họ lần lượt qua đời trong một khoảng thời gian ngắn giữa lúc chàng lên năm và lên bảy tuổi, đầu tiên là người mẹ, hoàn toàn bất ngờ lúc bà đang chờ ngày ở cữ, do một mạch máu bị tắc nghẽn, hậu quả của chứng viêm tĩnh mạch, theo sự giải thích của bác sĩ Heidekind thì nó làm đứng tim đột ngột. Bà vừa mới cười vui đấy trong lúc ngồi trên giường, tưởng đâu bà ngả người xuống gối vì cười, nhưng kỳ thực bà lăn ra chết. Điều đó không dễ gì lĩnh hội đối với Hans Hermann Castorp, người cha, và phần vì ông rất tha thiết gắn bó với vợ, phần vì thể chất chẳng lấy gì làm mạnh, nên ông không sao gượng dậy nổi. Từ lúc ấy tinh thần ông sa sút và mất đi sự sáng suốt; vì quá đau buồn ông có nhiều quyết định sai lầm trong công cuộc kinh doanh, gây ra cho hãng Castorp & con trai những tổn thất đáng kể; mùa xuân năm thứ hai sau khi vợ mất, trong một lần đi kiểm tra kho bãi ngoài bến cảng lộng gió ông mắc chứng sưng phổi, và trái tim đau khổ của ông đã đầu hàng, mặc dầu được sự tận tâm cứu chữa của bác sĩ Heidekind ông vẫn không qua khỏi cơn sốt dữ, chỉ sau năm ngày ông đã theo gót vong linh bà, giữa sự tiếc thương của đông đảo người làm trong hãng thi hài ông được đưa vào hầm mộ dòng họ Castorp, một công trình rất mỹ thuật tọa lạc tại nghĩa trang nhà thờ Thánh Katharina trông ra phong cảnh vườn bách thảo.
Thân phụ ông, cụ thượng nghị sĩ, sống trong cảnh lá vàng còn ở trên cây cũng chẳng được bao lâu. Và cho tới lúc cụ qua đời - cũng tại căn bệnh sưng phổi, nhưng với cụ đó là một cuộc vật lộn dai dẳng rất khổ sở, bởi khác hẳn con trai, thượng nghị sĩ Hans Lorenz Castorp là một người đã bám rễ thâm căn cố đế vào đời, không dễ gì gục ngã - trong khoảng thời gian ngắn ngủi
https://thuviensach.vn
một năm rưỡi ấy cậu bé mồ côi Hans Castorp về ở nhà ông nội, ngôi nhà được xây từ đầu thế kỷ trước theo trường phái Bắc Âu cổ điển, trên một mảnh đất hẹp. Đó là một ngôi nhà quét vôi u ám như bầu trời lúc có dông, tọa lạc trước quảng trường nhỏ Esplanade, với hàng cột đứng song song hai bên cánh cửa lớn nằm chính giữa năm bậc thang dẫn tới tầng trệt, trên là ba tầng lầu trong đó tầng hai được thiết kế đẹp nhất với những khung cửa sổ cao kéo dài xuống tận dưới sàn, có chấn song sắt đúc.
Tầng thứ hai này bố trí chủ yếu là những phòng khánh tiết, kể cả gian phòng ăn sáng sủa tường đắp thạch cao với ba khung cửa sổ treo màn màu rượu chát trông ra khoảng vườn nhỏ sau nhà, nơi suốt mười tám tháng trời ngày nào vào lúc bốn giờ hai ông cháu cũng ngồi ăn bữa trưa do lão Fiete phục vụ, lão đầy tớ già Fiete đeo khuyên tai và mặc lễ phục có hàng cúc bạc, bao giờ cũng kèm theo một cái cổ áo thắt nơ lụa trắng giống như ông chủ, và cái cách lão giấu chiếc cằm cạo râu nhẵn nhụi của mình trong đó cũng hệt như chủ lão, người vẫn có thói quen dùng thổ ngữ địa phương mày tao nói chuyện với lão; không phải là đùa giỡn - ông thượng nghị sĩ không có lấy một giọt hài hước trong máu - mà chẳng qua đó là cách cư xử ông cho là phù hợp với đám dân đen, người làm công trong kho bãi, người đưa thư, người đánh xe ngựa và người ở. Hans Castorp rất thích lắng nghe ông nói, cũng như nghe lão Fiete trả lời bằng thổ ngữ địa phương, trong lúc lão đứng hầu bên trái người ông, nghiêng mình về phía sau cúi xuống nói to vào tai phải của chủ, vì thính giác ông thượng nghị sĩ bên tai này tốt hơn tai kia. Ông hiểu ra lão nói gì, gật đầu và tiếp tục ăn, ngồi thẳng, lưng như tấm ván đặt giữa lưng dựa cái ghế bằng gỗ gụ và mép bàn, gần như không cúi xuống đĩa, và đứa cháu nội ngồi đối diện lặng lẽ quan sát chăm chú và kính cẩn những cử động gọn gàng lịch thiệp của hai bàn tay ông nội, hai bàn tay rất đẹp tuy gầy guộc vì tuổi tác, trắng trẻo với những móng thon dài cong cong và chiếc nhẫn mang gia huy màu xanh lục trên ngón trỏ bàn tay phải, xem ông xiên từng miếng thịt, miếng rau hay khoai tây lên đầu nĩa rồi kết hợp với một cử động nhẹ của mái đầu đưa lên miệng. Hans Castorp nhìn xuống hai bàn tay còn vụng về của mình và cảm thấy được những mầm mống kỹ
https://thuviensach.vn
năng ủ kín trong đó, tin chắc rằng sau này mình cũng sẽ sử dụng dao nĩa tài tình như ông nội.
Một câu hỏi khác là, liệu có bao giờ nó học được cách giấu cằm vào trong cái nơ giống như ông nội không, để cái cằm lấp đầy chỗ mở ra của chiếc cổ áo hình thù kỳ dị, với hai ve nhọn nhô lên cọ vào hai bên má. Vì muốn làm được như vậy thì người ta cũng phải già như ông nó, mà ngày nay ngoài ông nó và lão Fiete ra chẳng bói được người nào đeo nơ cùng cổ áo như thế. Thật đáng tiếc, vì cậu bé Hans Castorp đặc biệt thích cái cách người ông tựa cằm vào chiếc nơ thắt cao trắng như tuyết; khi đã thành người lớn mỗi khi nhớ lại cậu vẫn thấy thích: đó là một cử chỉ được Hans đánh giá cao từ trong tiềm thức.
Khi họ đã ăn xong và xếp tấm khăn ăn lại lồng vào chiếc vòng bằng bạc, một công việc không phải là dễ đối với cậu bé Hans Castorp vì chiếc khăn ăn rộng như một tấm khăn trải bàn nhỏ, lão Fiete kéo chiếc ghế của ông thượng nghị sĩ để ông đứng dậy bước lệt xệt sang ‘văn phòng’ phía bên kia lấy xì gà ra hút; thỉnh thoảng ông cho cả thằng cháu nội đi theo.
Cái ‘văn phòng’ này được hình thành nhờ người ta thiết kế gian phòng ăn rộng chiếm hết một mặt bên ngôi nhà với ba ô cửa sổ, vì vậy, không giống như những ngôi nhà khác loại này vẫn thường có ba phòng khách, họ chỉ có hai phòng khách trong đó một cái nằm vuông góc với phòng ăn chỉ có một cửa sổ trông ra phố và thiếu cân đối vì chiều dài quá áp đảo so với chiều ngang. Do đó người ta đã ngăn khoảng một phần tư căn phòng này làm thành cái ‘văn phòng’, một gian hẹp lấy ánh sáng từ trên mái nên lúc nào cũng mờ mờ tối và chỉ được trang bị vài đồ vật: một cái kệ nhiều tầng trên xếp tủ xì gà của ông thượng nghị sĩ, một cái bàn đánh bài trong ngăn kéo chứa rất nhiều thứ hấp dẫn: bộ bài, chíp để đặt cửa, những tấm cạc nhỏ để đánh dấu có răng cưa mở ra đóng vào được, một cái bảng đá với cán để gài phấn vào viết, đầu xì gà bằng giấy và vài thứ linh tinh khác; cuối cùng là một cái tủ kính kiểu Rococo bằng gỗ tử uy kê trong góc, mặt trong cánh cửa căng rèm lụa vàng nhạt.
“Ông ơi”, cậu bé Hans Castorp thường đứng trong văn phòng, kiễng chân ghé sát lên tai người ông xin, “ông chỉ cho cháu xem cái thau rửa tội đi!”
https://thuviensach.vn
Và người ông không ngần ngừ vén vạt áo khoác đuôi dài về đằng sau, rút từ túi quần ra một chùm chìa khóa mở cửa chiếc tủ kính, từ trong lòng tủ phả vào mặt cậu bé một luồng hơi thơm tho dễ chịu lạ lùng. Trong đó chứa tất cả những đồ vật đã trở nên vô dụng, nhưng cũng chính vì thế lại có sức thu hút đặc biệt: một cặp chân nến bằng bạc nhiều nhánh cong cong, một cái phong vũ biểu vỡ với những hình chạm trổ bằng gỗ, một cuốn album gài những tấm ảnh chụp bằng máy Daguerre[10], một hộp đựng rượu mùi bằng gỗ tuyết tùng, một thằng người Thổ Nhĩ Kỳ với lớp áo xống lòe loẹt và cái đồng hồ dây cót trong bụng, trước kia khi lên dây cót nó có thể túc tắc đi trên mặt bàn nhưng nay đã tàn phế và thất nghiệp từ lâu, một cái mô hình tàu thủy cổ lỗ sĩ, và tận dưới cùng thậm chí có cả một cái bẫy chuột. Ông cụ lấy ở ngăn giữa ra một cái thau tròn bằng bạc đã mờ xỉn, đặt trên một cái đĩa lớn cũng bằng bạc, và đưa cả hai cho cậu bé xem, từng cái một, với lời giải thích đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần cho từng món đồ.
Đầu tiên cái thau và cái đĩa không phải là một bộ, như người ta có thể nhận thấy qua hình thức của chúng, cậu bé được giảng giải thêm lần nữa; tuy nhiên, người ông bảo, từ gần trăm năm nay, chính xác là từ khi có chiếc thau, hai món đồ đã được dùng chung vào một mục đích. Chiếc thau rất đẹp, dáng dấp đơn giản nhưng tao nhã, được làm theo thị hiếu nghiêm trang thời đầu thế kỷ trước. Thau đúc trơn bằng bạc ròng, đáy tròn, trong lòng mạ vàng; nhưng lớp vàng đã phai nhạt với thời gian trở thành loang lổ và xỉn đi như mốc. Đường nét trang trí duy nhất là một chuỗi hoa hồng xen những chiếc lá răng cưa chạm nổi quanh miệng thau. Còn cái đĩa có tuổi thọ cao hơn nhiều, có thể đọc thấy trong lòng đĩa con số “1650” chạm theo lối cầu kỳ bay bướm, xung quanh quấn quít đủ thứ hoa văn rườm rà theo ‘mốt hiện đại’ thời bấy giờ, loằng ngoằng uốn lượn, chi chít hình gia huy và những hình trang trí nửa giống ngôi sao nửa giống bông hoa. Nhưng ở mặt sau của đĩa, được chạm trổ bằng nhiều kiểu chữ khác nhau, là tên những người đứng đầu gia đình đã sở hữu chiếc đĩa này trong từng thời kỳ: cả thảy có bảy cái tên, kèm theo là năm được thừa kế món đồ gia bảo. Và ông già với chiếc cổ áo đặc biệt đưa ngón tay trỏ đeo chiếc nhẫn gia huy chỉ cho đứa cháu nội từng cái tên một. Tên của người cha có ở đó, cả tên ông nội và ông cố nội,
https://thuviensach.vn
rồi chữ “cố” được lặp lại hai lần, ba bốn lần từ miệng người giải thích, và cậu bé lắng nghe đầu nghiêng về một bên, đôi mắt nhìn bất động trầm tư hay là trống rỗng, miệng kính cẩn thẫn thờ trễ xuống theo những tiếng “cố” - tiếng động âm u của hầm mộ được vùi sâu chôn chặt bởi thời gian, nhưng đồng thời cũng là mối dây liên hệ thành kính giữa hiện tại, cuộc đời của chính nó với những gì đã chìm vào quá khứ, tạo nên một tác động lạ lùng nơi đứa bé: nhận thức ấy được thể hiện rõ ràng trên nét mặt nó. Cùng với tiếng gọi ấy cậu bé như hít thở được làn hơi khô lạnh mốc meo của nhà thờ Katharina hoặc hầm mộ Michaeli, cảm nhận được bầu không khí của những chốn người ta ngả mũ cầm tay, nhón gót bước đi nghiêm trang đầu cúi về phía trước; nó như nghe thấy cả những tiếng động âm vang trong sự tĩnh lặng thanh thản và tách biệt của những nơi ấy; những cảm thụ tâm linh hòa trộn với cảm nhận về cái chết và câu chuyện với âm “cố” ròn tan, tất cả những điều đó không hiểu sao làm cậu bé thấy dễ chịu lạ lùng, thật vậy, có lẽ nó chỉ năn nỉ người ông xin xem cái thau rửa tội để được nghe và được tròn miệng lặp lại tiếng “cố” ấy mà thôi.
Rồi người ông đặt chiếc thau trở lại trên cái đĩa và để cậu bé nhìn vào trong lòng thau hơi lấp lánh ánh vàng dưới ánh sáng mờ mờ rọi xuống từ trên mái.
“Thế là đã sắp được tám năm rồi”, ông nói, “kể từ khi cháu được nâng lên trên chiếc thau này và dòng nước rửa tội cho cháu chảy xuống lòng thau… Thầy trợ tế Lassen ở nhà thờ Thánh Jacobi rót nước vào lòng bàn tay mục sư Bugenhagen tốt bụng của chúng ta, rồi từ đó nước chảy qua chỏm đầu cháu tong tong nhỏ xuống thau. Nước đã được hâm âm ấm để cháu khỏi giật mình khóc toáng lên, và quả thực cháu không hề khóc, ngược lại là đằng khác, mặc dầu trước đó cháu đã kêu la inh ỏi khiến mục sư Bugenhagen vất vả lắm với bài diễn thuyết của ông ta, nhưng khi nước được dội xuống thì cháu im thin thít, đó là niềm kính Chúa thể hiện trước bí tích thiêng liêng này, ta hy vọng như vậy. Và vài ngày nữa là tròn bốn mươi bốn năm, kể từ khi cha cháu là đứa trẻ được rửa tội, và nước thánh cũng chảy từ đầu cha cháu xuống cái thau này. Lễ rửa tội cho cha cháu diễn ra ở đây, trong ngôi nhà của cha mẹ nó, ở phòng ăn bên kia kìa, trước khung cửa sổ giữa, và khi
https://thuviensach.vn
ấy do ông mục sư già Hesekiel làm lễ, chính là ông mục sư lúc còn trẻ đã suýt bị tụi Pháp xử bắn vì dám giảng đạo chống lại hành vi đốt nhà cướp của của chúng, vong linh ông ta cũng đã về bên Chúa từ lâu lắm rồi. Bảy mươi lăm năm trước thì chính ta lại là đứa trẻ được rửa tội, cũng ở phòng ăn bên kia, và đầu ta cũng được nâng lên trên chiếc thau này, chiếc thau cũng để trên đĩa như bây giờ, và vị mục sư cũng nói những lời giống như với cháu và với cha cháu, làn nước ấm trong vắt cũng thấm ướt chỏm tóc ta (hồi đó cũng không nhiều hơn chỗ còn lại trên đầu ta bây giờ là bao nhiêu) rồi chảy xuống lòng thau tráng vàng này đây.”
Cậu bé ngước nhìn mái đầu bạc teo tóp của người ông, hiện giờ cũng nghiêng xuống trên chiếc thau như trong thời xa vắng mà ông vừa gợi về, và một cảm giác quen thuộc lại dâng lên trong nó, cảm giác lạ lùng nửa khao khát, nửa sợ sệt, vừa thúc đẩy vừa trì hoãn, luôn luôn dao động giữa lặp lại và bất biến đến chóng mặt - một cảm giác mà trước đây nó đã có dịp làm quen, mà nó luôn mong đợi và ước ao thấy lại: đó phần nào cũng là lý do khiến nó muốn xem đi xem lại món bảo vật gia truyền kia.
Sau này nghĩ lại chàng trai trẻ thấy hình ảnh người ông in vào ký ức mình sâu đậm và nhiều ý nghĩa hơn hẳn hình ảnh cha mẹ đẻ: cũng có thể đó là do thiện cảm và sự gắn bó đặc biệt giữa hai người, vì đứa cháu nội giống ông như hệt, tất nhiên không kể những khác biệt vật lý giữa chàng trai mặt búng ra sữa và ông già lọm khọm ngoài bảy mươi. Nhưng chủ yếu phải kể đến ảnh hưởng tinh thần của ông thượng nghị sĩ, nhân vật chủ chốt có cá tính nổi bật và uy tín không thể chối cãi được trong gia đình.
Nói về mặt xã hội thì cái thời Hans Lorenz Castorp có quyền hô phong hoán vũ đã chấm dứt từ lâu trước khi ông từ giã cõi đời. Xưa kia ông là vị chính khách một lòng kính Chúa ở một giáo khu đạo Tin Lành, rất mực coi trọng dòng dõi gia đình, bo bo giữ gìn quyền lợi của một nhóm quý tộc tự cách ly mình trong thế giới riêng, chẳng khác gì ông vẫn còn sống ở thế kỷ thứ mười bốn, khi tầng lớp thợ thủ công mới bắt đầu nổi lên chống lại giai cấp phong kiến thống trị giành ghế ngồi và tiếng nói trong nghị viện; và vì vậy cái mới khó lòng nhận được sự ủng hộ của ông. Ông nắm quyền hành trong những thập niên có các biến động dữ dội và thay đổi lớn về nhiều
https://thuviensach.vn
phương diện, những thập niên diễn ra bước tiến bộ nhảy vọt liên tục đòi hỏi người ta phải có những quyết định mạo hiểm, dám hy sinh cho lợi ích chung. Nhưng có Chúa chứng giám, chắc chắn không phải nhờ ông, thượng nghị sĩ Castorp, mà tinh thần thời đại mới thu về những thắng lợi vẻ vang được ca tụng khắp nơi. Ông đã tin tưởng ủng hộ truyền thống ông cha và các thế lực cũ chống lại những kế hoạch liều mạng mở mang hải cảng và những trò hề đô thị báng bổ vô thần, đã kìm hãm và cản trở ở mọi chỗ mọi nơi, và nếu cứ theo đúng ý ông thì chính quyền thành phố cho tới bây giờ cũng vẫn còn trì trệ và lạc hậu như văn phòng làm việc của ông thuở ấy.
Đó là hình ảnh của ông thượng nghị sĩ già lúc còn tại thế và sau khi qua đời trong con mắt người dân, và nếu như cậu bé Hans Castorp có chưa hiểu gì những việc quốc gia đại sự thì đôi mắt trẻ thơ của cậu cũng âm thầm tiếp thu những nhận thức ấy về cơ bản, không lời và không mảy may nghi ngờ sự đúng đắn của nó, nghiễm nhiên ghi vào ký ức, và sau này được chủ động gợi lên như những kinh nghiệm sống thì rất có thể thái độ thù địch với cái mới và tiến bộ đã được củng cố sẽ lại chiếm thế thượng phong. Như đã nói ở trên, thiện cảm có đóng một vai trò nhất định, mối thiện cảm và sự gần gũi nhảy cách một thế hệ cũng không phải trường hợp hiếm thấy. Con cháu nhìn các thế hệ trên để mà ngưỡng mộ, và chúng ngưỡng mộ để mà học hỏi, để tự hình thành tính cách của mình, những tính cách phần nhiều đã được nhào nặn từ trước trong vô thức.
Nghị sĩ Castorp dáng vóc cao lớn nhưng gầy gò. Những năm tháng chồng chất làm lưng ông chỗ gáy và cổ hơi khum xuống, nhưng ông phản kháng lại bằng cách mím chặt cặp môi móm mém không còn hàm răng làm chỗ dựa (vì răng giả ông chỉ mang vào lúc ăn), hai mép trễ xuống tạo một vẻ mặt khó đăm đăm đầy cao ngạo, và dần dà ở ông, cũng có thể hiểu đấy là một cách để giữ cái đầu đã không còn ngồi vững trên cổ, hình thành tư thế nghiêm khắc với cái cằm tựa vào cổ áo mà cậu bé Hans Castorp đặc biệt ngưỡng mộ.
Có một cái hộp mà ông rất quý - một cái hộp dài bằng đồi mồi khảm vàng ông dùng để đựng thuốc lá hít - và chỉ vì nó ông ưa sử dụng những chiếc khăn tay màu đỏ hay luồi thuồi thò ra từ túi sau chiếc áo khoác dài của ông.
https://thuviensach.vn
Nếu như đó là một nhược điểm ngộ nghĩnh trong tác phong của ông, thì nó cũng được châm chước bởi tuổi tác như là một sự cẩu thả cố ý hoặc giả sự đãng trí đáng kính của tuổi già; dù gì chăng nữa đó cũng là chi tiết lôi thôi duy nhất mà con mắt quan sát trẻ thơ của Hans Castorp ghi nhận được ở người ông. Đối với cậu bé bảy tuổi ngày ấy cũng như trong ký ức chàng thanh niên mới lớn sau này thì hình ảnh ngày thường của người ông không phải là con người chính và con người đích thực. Trong thực tế ông nó phải khác, đẹp đẽ uy nghi hơn nhiều so với ngày thường - cụ thể là như một bức tranh kích thước bằng người thật trước kia treo trong phòng khách ngôi nhà của cha mẹ nó, rồi đã cùng Hans Castorp chuyển đến ngôi nhà ở Esplanade và được dành cho một chỗ bên trên chiếc ghế bành lớn bọc lụa đỏ trong phòng ngoài.
Bức tranh vẽ Hans Lorenz Castorp mặc lễ phục cố vấn hội đồng thành phố - thứ trang phục trước kia người trưởng giả mặc đi nhà thờ những ngày chủ nhật của một thế kỷ đã chìm đắm từ lâu, bộ quần áo mang theo mình cả cái trang trọng và oai phong của xã hội xưa, vượt thời gian trở thành truyền thống, để thành kính đưa quá khứ đến với hiện tại, hiện tại trở về quá khứ và quảng bá mối quan hệ thường trực nối liền vạn vật, bảo chứng một cách long trọng cho những dấu ấn lịch sử. Bức họa toàn thân miêu tả thượng nghị sĩ Castorp đứng trên sàn lát đá đỏ bầm, trong một cái vòm có đỉnh nhọn với cột chống hai bên. Ông mặc một tấm áo choàng rộng màu đen dài quá gối, phía trước mở phanh, hai bên tà và gấu áo viền một dải lông rộng bản, cằm rụt lại, mép trễ xuống đầy vẻ khó khăn, cặp mắt xanh tư lự bên trên hai túi da phồng to xề xệ hướng ra xa xăm. Từ hai cánh tay áo rộng bồng lên trên vai và có nẹp thắt lại quãng khuỷu tay thò ra ống tay bằng vải bó sát cẳng tay, tận cùng là cặp măng sét viền đăng ten phủ xuống đến giữa ngón. Hai ống chân già nua khẳng khiu bọc trong lớp tất lụa đen, hai bàn chân mang giày đen có khóa bằng bạc. Đặc biệt quanh cổ ông là một cái cổ áo rộng hồ bột cứng, xếp vô số nếp dọc chi chít xòe ra như cái đĩa dày, phía trước bị cái cằm ấn xẹp xuống nhưng hai bên phồng lên trên vai, và bên dưới cái cổ áo đồ sộ ấy ông còn đeo thêm một tấm ngực áo lụa quá ư thừa thãi bên trong áo
https://thuviensach.vn
gilê. Tay ông kẹp một chiếc mũ cổ lỗ sĩ có vành rộng, chóp mũ càng lên cao càng hẹp lại.
Đó là một bức họa thành công, do bàn tay một họa sĩ có tên tuổi vẽ theo trường phái của các bậy thầy cổ điển, rất phù hợp với đối tượng được thể hiện và gợi lên ở người xem đủ mọi hình dung mang màu sắc trung cổ kiểu Tây Ban Nha pha trộn với Hà Lan. Cậu bé Hans Castorp rất hay đứng ngắm bức tranh, tất nhiên không phải bằng con mắt am hiểu nghệ thuật, mà là với một nhận thức tự nhiên, thông thường nhưng không kém phần sâu sắc; và mặc dù nó chỉ thấy người ông trong trang phục giống như trên bức họa có một lần duy nhất ngoài đời, trong một cuộc diễu hành long trọng ở tòa thị chính, và cũng chỉ gặp thoáng qua thôi, nhưng như chúng tôi đã thưa từ trước, nó vẫn không thể không coi hình ảnh đầy ấn tượng ấy là con người đích thực và chính thức của ông nó, và nhìn thấy trong hình ảnh thường ngày một người ông lâm thời, con người ở trạng thái tạm bợ và không hoàn thiện. Vì rõ ràng sự khác biệt kỳ khôi trong hình ảnh thường ngày là kết quả của một cố gắng thích nghi nửa vời, có lẽ hơi cẩu thả, chỉ mang một chút hơi hướng và vài nét rơi rớt lại của hình hài thật, chân giá trị của người ông. Thế là mặc dầu cái cổ áo cao cổ lỗ sĩ với cái nơ trắng thắt như thòng lọng đã được coi là khả kính; nhưng vẫn không thể nào bì được với phần đáng ngưỡng mộ nhất trên bộ lễ phục kia, cái cổ áo xếp kiểu Tây Ban Nha mà so với nó cái nơ ngày thường thật hết sức xoàng xĩnh và tạm bợ. Cùng chịu một số phận ấy là chiếc mũ ống cong cong người ông đội khi ra phố, chẳng thể nào sánh được với chiếc mũ nỉ vành rộng trong một thực tế cao quý hơn nhiều thể hiện trên bức họa; và chiếc áo đuôi dài xếp li đối với cậu bé Hans Castorp cũng chỉ là khoác tạm thay thế cho tấm áo choàng chính thức và đích thực được viền quanh một dải lông.
Vì vậy tận trong thâm tâm cậu bé hết sức hài lòng khi gặp người ông đích thực và hoàn hảo trong trang phục đại lễ, vào cái ngày người ta bảo nó tới nhìn ông lần cuối. Đó là gian phòng rộng mà hai ông cháu vẫn thường ngồi đối diện nhau bên bàn ăn; giờ đây bị đảo lộn sắp xếp lại để Hans Lorenz Castorp nằm giữa những vòng hoa ngồn ngộn trong một chiếc quan tài bịt bạc. Ông đã ngoan cường chống chọi lại căn bệnh sưng phổi, rất dai dẳng và
https://thuviensach.vn
rất lâu, mặc dù nếu xét theo vẻ bề ngoài thì ông chỉ tạm thời trú trong ngôi nhà này, tạm thời ở trong cõi đời này mà thôi, và giờ đây ông nằm đó, người ta không biết phải bảo là đã chiến thắng hay đã đầu hàng, dù sao đi nữa mặc lòng ông nằm ung dung với một vẻ mãn nguyện nghiêm trang trên chiếc giường lộng lẫy của mình, chóp mũi gồ cao hốc hác sau cuộc chiến, nửa người dưới phủ trong một tấm khăn trên đặt một cành cọ, đầu được chiếc gối nâng cao khiến cái cằm kiêu hãnh tựa vào cổ áo tròn vô số nếp xếp, tư thế mà Hans Castorp thích nhất; và giữa hai bàn tay với những ngón tay co quắp thiếu tự nhiên vì đã giá lạnh không còn sinh khí được bộ măng sét viền đăng ten che đi phân nửa người ta nhét vào một cây thánh giá bằng ngà, mà cặp mắt với hàng mi cụp xuống của ông dường như chằm chặp hướng vào.
Hans Castorp vẫn gặp mặt ông thường xuyên trong giai đoạn đầu của thời kỳ ông lâm bệnh, nhưng càng về sau càng thưa và đến giai đoạn cuối thì thôi hẳn. Người ta tránh cho thằng bé khỏi phải chứng kiến cuộc vật lộn sau chót diễn ra phần lớn về đêm, và nó chỉ gián tiếp cảm nhận được tình hình nghiêm trọng qua bầu không khí nặng nề trong nhà, cặp mắt đỏ hoe của lão Fiete, chiếc xe chở ông bác sĩ đi về luôn xoành xoạch; tuy nhiên kết cục giờ đây bày ra trước mắt nó trong gian phòng này lại đưa nó đi đến kết luận rằng, ông nội đã rũ bỏ hình hài tạm bợ để long trọng quay về hẳn với con người đích thực và xứng đáng của mình, một kết cục nên tán thưởng, mặc cho lão Fiete cứ vừa khóc sướt mướt vừa không ngớt lắc đầu tuyệt vọng, và mặc dù bản thân Hans Castorp cũng khóc, như trước kia nó từng khóc bên người mẹ và không lâu sau đó bên người cha, lúc họ cũng nằm đó im phăng phắc và lạ hoắc.
Bởi đây đã là lần thứ ba trong vòng một thời gian ngắn và ở vào lứa tuổi còn quá ngây thơ, sự hiện diện của cái chết tác động lên tinh thần và các giác quan của cậu bé Hans Castorp - đúng là tác động lên cả các giác quan -; quang cảnh và các ấn tượng này đối với nó không có gì là mới nữa mà đã trở thành quen thuộc, và vì hai lần đầu nó đã không tỏ ra yếu đuối mà xử sự rất phải phép và đúng mực, dĩ nhiên với thái độ đau buồn, nên lần này cũng vậy, có chăng chỉ ở một mức độ tinh vi hơn mà thôi. Chưa lĩnh hội được ý nghĩa thiết thực của các biến cố này đối với số phận mình, hoặc giả bình tâm
https://thuviensach.vn
một cách ngây ngô, tin rằng cuộc đời bằng cách này hay cách khác sẽ tự thu xếp cho ổn thỏa, nó đứng bên linh cữu với vẻ nghiêm trang trẻ nít và một nét hiếu kỳ nhất định, lần thứ ba này còn pha chút khôn ngoan già trước tuổi do đã có kinh nghiệm với những cảm xúc và ấn tượng loại này, kể cả những giọt nước mắt thực sự thương tiếc hay chỉ là lây mối mủi lòng từ người khác rơi xuống theo phản xạ. Lần trước, khoảng ba hay bốn tháng sau khi người cha qua đời nó đã quên bẵng mất biến cố chết chóc; giờ đây thằng bé nhớ lại tất cả, và những ấn tượng ấy rùng rùng sống dậy cùng một lúc, sắc bén vô cùng với nét đặc trưng độc nhất vô nhị của nó.
Điều đó đại để có thể giải thích bằng lời như sau. Chết chóc là cái gì đó rất đáng tôn kính, đẹp một cách buồn thảm và đầy ý nghĩa, tóm lại là một sự kiện tinh thần; nhưng đồng thời nó còn là một cái gì khác hẳn, đúng ra là hoàn toàn ngược lại, thuộc về thể xác, rất vật chất, mà người ta không thể nào gọi là đẹp hay đầy ý nghĩa hay tôn kính được, thậm chí cũng không thể coi là buồn thảm. Sự kiện tinh thần trang trọng được thể hiện qua hình thức quàn tử thi với những vòng hoa ngồn ngộn và một cành cọ, được biết đến như là biểu tượng bình an của nước thiên đàng; thêm vào đó là cây thánh giá nằm giữa những ngón tay chết cứng đờ của người ông quá cố, bức tượng đấng cứu thế của Thorwaldsen[11] dựng ở đầu cỗ quan tài, hai bên là những ngọn nến cắm trên giá cao gợi nhớ đến khung cảnh nhà thờ. Tất cả những sự chuẩn bị chu đáo này gợi lên cho cậu bé một suy nghĩ rõ ràng mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là ông nội cuối cùng đã vĩnh viễn nhập vào hình hài đích thực của mình. Nhưng ngoài ra, như cậu bé Hans Castorp chắc chắn cũng biết, chỉ có điều không muốn lên tiếng thú nhận, tất cả những trang hoàng ấy, nhất là vô số những bông hoa mà trong đó đặc biệt nhiều hoa huệ, còn mang một ý nghĩa thứ hai, một mục đích thiết thực, đó là để che giấu cái điều khác không mấy gì đẹp đẽ hay buồn bã mà gần như khiếm nhã - cái sự kiện thuộc về thể xác đi đôi với cái chết - tô điểm cho điều đó đẹp lên để người ta quên đi hoặc không để ý tới.
Đó là một điều gắn liền với tấm thân người ông đã chết, lạ lẫm như thể không phải là cơ thể ông nội mà chỉ là một bức tượng bằng sáp to như người thật thần chết đã đánh tráo bỏ vào quan tài để người ta tế lễ linh đình và tỏ
https://thuviensach.vn
lòng thành kính. Người nằm đó, hay nói đúng hơn cái vật nằm đó, chẳng phải là ông nội mà chỉ là một cái vỏ, mà như Hans Castorp cũng biết, không phải bằng sáp mà bằng vật liệu thực của nó; chỉ là vật chất mà thôi: đối với nó không thể thành kính hay thương tiếc, như những điều chỉ liên quan đến thân thể và những hoạt động nhất định chẳng thể nào gợi lên nỗi tiếc thương được. Cậu bé Hans Castorp ngắm nghía cái chất liệu vàng ệch như tảng pho mát nặn thành bức tượng to bằng người thật, ngắm khuôn mặt và đôi bàn tay của người ông chết. Có một con ruồi vừa đậu xuống vầng trán bất động và bắt đầu đưa cái vòi rà qua rà lại thăm dò. Lão Fiete cẩn thận xua nó đi, tránh không chạm vào vầng trán, vẻ mặt câm nín đạo mạo như thể lão không biết và không muốn biết mục đích việc làm của mình, hành vi tuy kính cẩn nhưng bộc lộ thực tế không chối cãi được là ông nội đã không còn gì khác ngoài cái vỏ này; tuy nhiên sau một hồi bay lượn con ruồi lại hạ cánh xuống ngón tay ông nội, gần chỗ cây thánh giá. Trong lúc ấy Hans Castorp bất giác nhận thấy, rõ rệt hơn hẳn từ trước tới giờ, một làn hơi thoảng qua rất nhẹ nhưng mang một mùi đặc biệt dai dẳng, cái mùi làm nó hổ thẹn nhớ tới một đứa bạn học bị xa lánh vì có lần trót dại, cái mùi mà những bông hoa huệ thơm lừng có nhiệm vụ lấn át đi, nhưng vẫn thất bại bất chấp tất cả những dàn dựng nghiêm trang và hoành tráng nọ.
Nó phải đứng túc trực nhiều lần bên người chết: một lần đứng riêng với lão Fiete, lần thứ hai đứng chung với ông trẻ Tienappel, chủ hãng buôn rượu, cùng hai cậu James và Peter, và còn thêm một lần thứ ba với một nhóm công nhân cảng mặc quần áo ngày chủ nhật, họ tới vài phút lúc quan tài chưa đóng để nhìn mặt và chia tay lần cuối ông chủ cũ của hãng Castorp & con trai. Rồi tới ngày tang lễ, căn phòng đầy nghẹt người và mục sư Bugenhagen ở nhà thờ Thánh Jacobi, chính là ông mục sư đã rửa tội cho Hans Castorp, trang điểm long trọng bằng cái cổ áo xếp kiểu Tây Ban Nha, đến đọc điếu văn; sau đó ông cùng lên ngồi trên chiếc xe ngựa chạy liền sau xe chở quan tài và dành vài lời rất thân thiện cho cậu bé Hans Castorp, rồi quãng đời này khép lại hẳn, và Hans Castorp chuyển sang nhà khác ở, đã là lần thứ hai thay đổi môi trường sống trong cuộc đời non nớt của nó.
https://thuviensach.vn
Ở NHÀ TIENAPPEL
NHẬN THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA HANS CASTORP
Thay đổi này không có hại gì đối với cậu bé, vì Hans Castorp dọn đến nhà ông lãnh sự Tienappel, người nhận trách nhiệm đỡ đầu cho nó, và ở đó chẳng phải chịu thiếu thốn gì: về các nhu cầu cá nhân dĩ nhiên là không, và về việc quản lý các quyền lợi khác mà nó chưa hề biết tới lại càng không. Vì ông lãnh sự Tienappel, một người cậu của bà mẹ quá cố của Hans, cũng đứng ra quản lý gia tài nhà Castorp để lại, ông ta bán đi các bất động sản, giải thể hãng xuất nhập khẩu Castorp & con trai chuyển hết thành tiền mặt, và gom góp được tổng cộng khoảng bốn trăm ngàn mark, đó là khoản thừa kế của Hans Castorp; số tiền ấy ông lại đầu tư vào những cổ phiếu chứng khoán chắc chắn với điều kiện ưu đãi dành cho tài khoản loại này, và cứ đầu mỗi quý ông trích ra cho mình một khoản hoa hồng hai phần trăm từ tiền lời thu được mà lương tâm và tình cảm gia đình không hề bị sứt mẻ tẹo nào.
Ngôi nhà của gia đình Tienappel nằm khuất sau cái công viên ở đường Harvestehuder Weg, trông ra thảm cỏ mịn màng được chăm sóc kỹ không lẫn một cọng cỏ dại, rồi đến vườn hồng của thành phố và sau đó là con sông. Mặc dù là chủ sở hữu những chiếc xe ngựa sang trọng, ông lãnh sự vẫn sáng sáng đi bộ đến văn phòng kinh doanh của mình trong khu phố cổ để vận động thân thể một chút chống chứng hỏa vượng thỉnh thoảng lại bốc lên đầu, và trở về vào năm giờ chiều, lúc nhà Tienappel ăn trưa một cách rất văn minh. Ông lãnh sự Tienappel người to béo, trang phục toàn hàng Anh quốc loại hảo hạng, có đôi mắt xanh lơ lồi to như hai con ốc nhồi đằng sau cặp mắt kính gọng vàng, cái mũi phúc hậu nở nang, bộ râu chổi xể điểm bạc và một chiếc nhẫn kim cương sáng long lanh trên ngón út bàn tay trái. Vợ ông
https://thuviensach.vn
đã chết từ lâu. Ông có hai người con trai, Peter và James, một người phục vụ trong hải quân và chẳng mấy khi có mặt ở nhà, người kia làm việc trong cơ sở kinh doanh rượu của người cha với dự tính sau này sẽ được thừa kế hãng buôn. Mọi việc nội trợ trong nhà từ nhiều năm nay do một tay Schalleen quán xuyến, bà ta là con gái một ông thợ kim hoàn ở khu Altona, lúc nào cũng đeo măng sét trắng với vô số nếp nhún quanh cườm tay nung núc thịt. Bà lo cho bữa sáng và bữa tối không bao giờ thiếu pho mát và xúc xích, tôm cua và cá hồi, lươn hun khói, ức ngỗng và bò bít tết ăn với sốt cà chua; bà cai quản đám người làm thuê bằng cặp mắt cảnh giác như mắt cú vọ mỗi khi ông lãnh sự Tienappel mở tiệc đãi khách, và cũng chính bà thay thế vị trí người mẹ, chăm sóc cậu bé Hans Castorp trong những phút rảnh tay.
Hans Castorp lớn lên trong điều kiện khí hậu tệ hại, đầy giông gió và ẩm thấp, có thể nói không ngoa là tứ thời trùm chiếc áo mưa bằng vải nhựa màu vàng, và cảm thấy hạnh phúc như cá trong nước. Từ nhỏ cậu bé đã có biểu hiện thiếu máu, đó cũng là nhận định của ông bác sĩ Heidekind, ông này chỉ định cho cậu mỗi ngày sau khi đi học về phải uống một cốc bia Porter - thứ đồ uống giàu dinh dưỡng như ai cũng biết, được bác sĩ Heidekind quy cho tác dụng bổ máu - món này xoa dịu tinh thần Hans Castorp bằng một hình thức mà nó đặc biệt ưa thích, tạo điều kiện thuận lợi cho thói quen ngồi “ngẩn tò te”, theo cách nói của ông lãnh sự Tienappel, tức là ngồi mơ màng miệng trễ xuống và mắt nhìn trống rỗng không theo một suy nghĩ nhất định nào, của nó. Còn ngoài ra Hans là người mạnh khỏe và chính trực, một tay chơi tennis không xoàng và chèo thuyền cũng rất cừ, mặc dù cậu ta thích ngồi xem đua thuyền hơn là tự tay cầm mái chèo; đối với cậu trên đời không có cái thú nào hơn buổi tối mùa hè ngồi bên hiên nhà hàng ở bến phà Uhlenhorster trong tiếng nhạc êm đềm, một ly nước giải khát trên tay và ngắm nhìn những con thiên nga nhẹ nhàng lướt đi giữa đám thuyền bè sáng trưng, trên mặt nước lấp lánh ánh đèn màu sặc sỡ. Và khi cất tiếng thì cậu nói một cách chậm rãi, dễ hiểu, có phần hơi đơn điệu, với một thoáng thổ âm địa phương. Phải, chỉ cần nhìn chàng trai trung hậu có mái tóc vàng tuy được cắt chải kỹ lưỡng nhưng kiểu cách đã lỗi mốt thời trang, với thái độ khinh bạc vô tình thừa hưởng được của cha ông, nghe chàng bày tỏ ý kiến
https://thuviensach.vn
bằng giọng nói buồn ngủ khô khan, thì bất kỳ ai cũng tin rằng Hans Castorp là một đứa con đích thực và trung thành của quê hương, một cái cây nảy nở tốt tươi trên mảnh đất này, bản thân chàng nếu có nghĩ về mình hẳn cũng không một phút giây nào nghi ngờ điều đó.
Bầu không khí thành phố cảng, cái không khí nhớp nháp xô bồ của gian hàng chạp phô quốc tế và cuộc sống phù hoa, bầu sữa mẹ nuôi nấng chàng, được chàng hít sâu vào lồng ngực với sự đồng tình, với niềm tin tưởng và mãn nguyện.
Làn hơi bốc lên từ mặt nước cảng, mùi than và mùi nhựa đường, mùi hăng hắc xa xôi của những món hàng thuộc địa đậu thường trực trong mũi chàng, mắt chàng ngắm nhìn không chán những chiếc cần cẩu khổng lồ trên bến bắt chước sự cần mẫn, trí thông minh và sức khỏe tuyệt trần của những con voi bốc lên hàng tấn bao bì, gói bọc, hòm xiểng, thùng tô nô từ bụng những con tàu cắm neo dưới nước chất vào những toa goòng chạy trên đường ray chở vào những kho chứa hàng ngoài bãi. Chàng nhìn đoàn quân thương gia mặc áo mưa vàng, chính chàng cũng mặc một chiếc áo mưa như vậy, buổi trưa tràn về tụ điểm giao dịch, mà chàng biết là nơi để họ trao đổi những tin tức nóng hổi, hoặc tranh thủ tung ra thiệp mời những bữa tiệc linh đình nhằm mục đích gia hạn khoản tín dụng của mình. Chàng nhìn (và đây chính là lĩnh vực quan tâm đặc biệt của chàng sau này) những xưởng đóng tàu dày đặc thợ thuyền, nơi những con tàu từ các bến cảng Á Phi như mấy con voi ma mút khổng lồ nằm tênh hênh bất lực trên cạn, được chống giữ bằng những thanh giằng, cao chất ngất, phơi trần sống tàu và chân vịt, trên mình lúc nhúc đoàn quân thợ tí hon cần cù mài, gõ, sơn, quét; nhìn xuống những ụ triền có mái che mù mịt khói, chỉ mờ mờ nổi lên bộ khung xương của những con tàu sắp thành hình, với các kỹ sư ôm bản vẽ thiết kế đầy tay chỉ trỏ hướng dẫn cho công nhân làm việc - từ thuở thiếu thời khung cảnh này đã vô cùng quen thuộc với Hans Castorp và luôn khơi dậy trong chàng tình yêu quê hương đằm thắm, tình cảm ấy lên tới tột đỉnh hạnh phúc vào những sáng chủ nhật, chàng khi thì ngồi với cậu James Tienappel khi thì với người anh họ Ziemßen - Joachim Ziemßen - trong quán Alsterpavillon, lót dạ bằng một ổ bánh mì nóng kẹp thịt hun khói kèm theo một ly rượu đỏ lâu
https://thuviensach.vn
năm, rồi sau đó thả niềm say mê theo khói xì gà và lười biếng ngả người trên lưng ghế. Bởi xét về bản chất thì chàng là người chuộng an nhàn, biết hưởng thụ, đúng thế, trái với bề ngoài xanh xao thanh cảnh của mình, chàng rất tha thiết với mọi lạc thú ở đời, như đứa hài nhi ôm chặt bầu sữa mẹ.
Ung dung tự tại nhưng rất trọng danh dự, chàng mang trên vai mình cả một nền văn minh cao cấp, tài sản thừa kế được của thế hệ cha ông, tầng lớp ăn trên ngồi chốc thao túng mọi hoạt động kinh doanh của thành phố dân chủ tự trị này. Da dẻ chàng sạch bóng như bé hài nhi, quần áo chuyên đặt may ở một tiệm được giới trẻ quê hương chàng tín nhiệm. Kho tàng nho nhỏ gồm những bộ trang phục được tuyển lựa kỹ lưỡng của chàng nằm trong những ngăn kéo chiếc tủ áo Ăng lê được bà Schalleen chăm sóc tận tình; thời gian Hans Castorp học đại học xa nhà chàng vẫn thường xuyên gửi quần áo về nhờ bà ta giặt ủi (vì chàng một mực tin rằng ngoài Hamburg ra khắp gầm trời này không đâu người ta biết là quần áo cho đúng cách), và chỉ cần một vết sờn trên măng sét cái áo sơ mi ưa thích cũng đủ làm cho chàng bứt rứt không yên. Đôi bàn tay chàng, mặc dù không phải loại thon dài quý phái, nhưng được chăm sóc cẩn thận da dẻ hồng hào, trang điểm bằng một chiếc nhẫn mắt xích bằng bạch kim và chiếc nhẫn có ấn tín gia truyền của dòng họ. Hàm răng chàng vì nước men hơi yếu nên có nhiều chỗ hư hỏng được trám lại bằng vàng.
Khi đứng khi đi chàng hơi ưỡn bụng ra phía trước, tư thế có phần kém nghiêm trang; nhưng tác phong của chàng bên bàn ăn thì không thể chê vào đâu được. Chàng ngồi thẳng lưng, lịch thiệp quay sang tiếp chuyện người bên cạnh (bằng cách diễn đạt dễ hiểu với giọng nói hơi pha chút âm hưởng địa phương), hai cùi chỏ khép hờ, trong khi bàn tay khéo léo dùng dao nĩa cắt một miếng gà quay hay gỡ lõi thịt đỏ au trong cái càng tôm hùm. Nhu cầu đầu tiên của chàng sau khi kết thúc bữa ăn là cái thau nhỏ đựng nước thơm để rửa mấy ngón tay, thứ đến là một điếu thuốc lá Nga không qua quan thuế mà chàng kiếm được nhờ móc nối với mấy tay buôn lậu ở chợ đen. Sau thuốc lá tới xì gà, một hiệu hảo hạng ở Bremen tên gọi Maria Mancini mà sau đây chúng tôi sẽ còn nhiều dịp đề cập đến, và chất độc thơm tho của nó kết hợp một cách tuyệt vời với hương vị cà phê. Để tránh ảnh hưởng tai hại
https://thuviensach.vn
của không khí nóng ẩm do lò sưởi, Hans Castorp cất nguồn dự trữ xì gà của mình ở dưới hầm nhà, và sáng sáng chàng lần xuống đó lấy vào hộp một lượng chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu trong ngày. Bắt buộc lắm chàng mới ăn bơ cắt ra từ miếng, còn thì ưa dùng loại bơ viên thành từng viên tròn nhỏ.
Hẳn quý vị cũng thấy, chúng tôi đã bỏ công miêu tả rất tỉ mỉ những sở thích của Hans Castorp, nhưng chúng tôi cố không đánh giá một cách vội vàng và tô vẽ cho chàng ta đẹp hơn hay xấu hơn con người thực của chàng. Hans Castorp không thông minh xuất chúng mà cũng chẳng đần độn hơn người, và nếu như chúng tôi có tránh dùng chữ “tầm thường” để tả chàng thì lý do không phải ở trí thông minh hay tâm hồn đơn giản của chàng, mà chỉ vì đã lưu ý đến số phận chàng ta, một số phận theo thiển ý của chúng tôi có phần đặc biệt. Đầu óc chàng đáp ứng được những yêu cầu của trường trung học phổ thông mà không cần ra công cố gắng gì nhiều - nhưng chắc chắn chàng không hề có ý định cố sức vì bất kỳ điều gì trong bất kỳ hoàn cảnh nào: không phải vì sợ khó nhọc, mà vì chàng tuyệt đối không tìm thấy lý do, hay nói đúng hơn là không thấy có lý do tuyệt đối nào để phải nỗ lực làm gì; và có lẽ cũng chính vì thế chúng tôi không muốn kết luận chàng là tầm thường bởi lẽ nơi chàng không hiểu vì sao thiếu những động cơ thúc đẩy chàng cố gắng hơn.
Con người không chỉ sống cuộc đời của riêng mình như một cá thể đơn lẻ, mà, dù có ý thức hay vô ý thức, anh ta là một bộ phận của thời đại mình và bối cảnh đương thời, và nếu anh ta nghiễm nhiên coi những cơ sở nền tảng chung và điều kiện khách quan cho sự tồn tại của mình là tuyệt đối, và không bao giờ nảy ra ý định phân tích khen chê, như trường hợp chàng Hans Castorp chân chất của chúng ta đây, thì thế nào sự thiếu sót những điều kiện ấy cũng gây ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng đạo đức của anh ta. Mỗi người có thể có những mục tiêu, ước nguyện, hoài bão, dự định của riêng mình, đó là nguồn động lực thôi thúc anh ta cố gắng vươn lên và không ngừng hành động; nhưng nếu hoàn cảnh khách quan xung quanh anh ta, chính bản thân thời đại anh ta ngay từ đầu đã bóp nghẹt mọi hy vọng đạt đến mục tiêu hay ước nguyện, bất kể tất cả những nỗ lực chủ quan, nếu anh ta ngấm ngầm cảm thấy mình ở vào tình huống vô vọng không có tương lai, và
https://thuviensach.vn
câu hỏi sớm hay muộn sẽ phải được đặt ra, một cách vô ý thức hay có ý thức, không chỉ liên quan đến bản thân mình mà còn nhằm tìm kiếm ý nghĩa tối hậu của mọi cố gắng và hành động trong cuộc sống, chẳng thu được câu trả lời nào khác ngoài bức tường câm lặng đáng sợ, thì với những con người cần cù lương thiện hậu quả không tránh khỏi là tác động làm tê liệt tinh thần và đạo đức, rồi qua đó ảnh hưởng đến cả thể xác và sức khỏe. Muốn có ý chí để đạt được những thành tích xuất chúng vượt ra ngoài khuôn khổ thông thường, trong khi thời đại không thể trả lời một cách xác đáng câu hỏi ‘Để làm gì?’, thì người ta hoặc là phải dám đơn độc và trực tiếp đương đầu về mặt tinh thần, một bản chất rất hiếm thấy chỉ có ở những bậc anh hùng, hoặc là phải có một sức sống vô cùng mãnh liệt. Hans Castorp không có được cả cái này lẫn cái kia, và vì thế cũng đành xếp chàng vào hạng tầm thường, mặc dầu với một ý nghĩa tinh thần tích cực.
Những đặc điểm nội tâm của chàng trai trẻ mà chúng tôi vừa trình bày cùng quý vị không phải chỉ giới hạn trong thời gian chàng ta ngồi trên ghế nhà trường, mà còn thể hiện ra cả những năm sau đó, khi chàng đã chọn được một nghề nhất định. Ở trường phổ thông chàng thậm chí đã phải học đúp một hay hai lớp. Nhưng nhìn chung nhờ gốc gác con ông cháu cha, nhờ tác phong lễ phép có giáo dục, và nhất là nhờ năng khiếu trong môn toán, mặc dù hoàn toàn thiếu lòng say mê, chàng vẫn học lên cao được, và sau khi có chứng chỉ một năm[12]thì chàng quyết định tiếp tục học cho đến hết bậc phổ thông - thực ra là để tạm thời kéo dài nếp sống quen thuộc và tình trạng phân vân lơ lửng này, đẩy quyết định chọn nghề nghiệp tương lai sang một thời điểm muộn hơn, vì bấy giờ Hans Castorp chẳng biết mình muốn làm gì, thậm chí cả khi đã học đến lớp trên cùng bậc phổ thông chàng vẫn còn lơ mơ chưa rõ nguyện vọng của mình, và khi đã quyết định chọn nghề này (khó mà bảo rằng chàng tự đi đến quyết định ấy) thì trong thâm tâm chàng cảm thấy nếu có quyết định khác đi cũng chẳng sao.
Nói đúng ra từ trước tới nay chàng vẫn dành cho tàu bè một hứng thú đặc biệt. Khi còn nhỏ xíu chàng đã bôi đầy vở hình vẽ các loại thuyền đánh cá, xà lan chở rau và tàu thủy năm cột buồm; năm mười lăm tuổi, một lần đứng ở vị trí thuận lợi chứng kiến cảnh hạ thủy chiếc tàu đưa thư hai chân vịt
https://thuviensach.vn
‘Hansa’ của hãng Blohm & Voß, chàng đã dùng màu nước vẽ lại khá thành công và miêu tả chính xác đến từng chi tiết vóc dáng thon thả của con tàu, đến nỗi bức tranh được treo trong văn phòng riêng của ông lãnh sự Tienappel, và mặt nước biển trong xanh gợn sóng được thể hiện một cách khéo léo đầy cảm hứng là duyên cớ khiến một vị khách khi xem tranh đã không tiếc lời khen ngợi, ông ta cho rằng chàng là một năng khiếu thực sự sau này có triển vọng trở thành họa sĩ vẽ biển tài ba - nhận xét ấy ông lãnh sự Tienappel có thể yên tâm truyền đạt lại cho đứa con đỡ đầu, vì Hans Castorp chỉ cười hiền hậu mà không một phút nào tối mắt kiêu căng để bị lôi cuốn theo viễn cảnh một nghề chết đói.
“Tài sản của cháu không nhiều nhặn gì đâu”, thỉnh thoảng ông lãnh sự Tienappel lại gọi chàng ra dạy dỗ. “Tiền của ông thì James và Peter sau này sẽ thừa hưởng, tức là phần lớn vẫn để quay vòng cho hãng, còn Peter đã có lương hưu. Tiền của cháu đã được gửi vào chỗ chắc chắn và cũng có lời. Nhưng thời buổi này khó lòng sống dư giả được nếu chỉ trông vào lãi suất tiền gửi ngân hàng, trừ khi người ta có số tiền lớn gấp năm lần vốn liếng của cháu. Nếu cháu muốn ở lại thành phố này và giữ mức sống cao như hiện nay thì phải làm sao kiếm được việc gì có thu nhập kha khá, nhớ kỹ nghe con.”
Hans Castorp nhớ kỹ điều đó và để ý tìm kiếm một nghề có thể giúp chàng sống theo ý muốn và theo kịp mọi người. Và khi chàng chọn được một nghề - theo gợi ý của ông già Wilms ở hãng Tunder & Wilms, tối thứ bảy ngồi bên bàn đánh bài ông ta bảo ông lãnh sự Tienappel nên cho Hans Castorp đi học ngành đóng tàu đi, đó chắc chắn là một ý hay, sau đấy thằng nhỏ có thể vào làm trong hãng của ông, ông sẽ để mắt trông nom cho - bấy giờ chàng rất hãnh diện, vì mặc dù đó là một nghề đặc biệt khó và nặng nhọc, nhưng bù lại rất có tiếng, được coi trọng và cũng hấp dẫn, phù hợp với bản tính hiền lành của chàng hơn cái nghề người anh họ Ziemßen, con trai bà chị cùng cha khác mẹ với thân mẫu quá cố của chàng, đã chọn - anh ấy muốn trở thành sĩ quan. Mà Joachim Ziemßen có khỏe mạnh gì cho cam, anh họ chàng yếu phổi, nhưng cũng có khi chính vì thế cái nghề chỉ cần dầu dãi ngoài thao trường, không phải động não nhiều, lại phù hợp với anh ấy, như nhận định thoáng chút coi thường của Hans Castorp. Vì đối với chàng
https://thuviensach.vn
lao động là vinh quang, mặc dù bản thân chàng khi phải lao động lại hay ươn mỏi.
Ở đây chúng tôi muốn quay trở lại nhận định lúc trước dựa trên phỏng đoán rằng, những ảnh hưởng do thời đại tác động lên cuộc đời một cá nhân có thể dẫn đến hậu quả về thể lực cho người ấy. Làm sao Hans Castorp có thể không coi trọng lao động cho được? Khinh thường lao động là trái lẽ tự nhiên. Như sự an bài của vạn vật, lao động mang giá trị tinh thần cao quý nhất đối với chàng, đúng ra không còn gì đáng trọng hơn thế nữa, lao động là nguyên tắc quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của một con người, là tính tuyệt đối của thời gian, có thể nói rằng lao động tự nó đã khẳng định chính mình. Theo nhận thức của chàng, lao động có bản chất thiêng liêng như tôn giáo và không được phép hoài nghi. Nhưng liệu chàng có yêu lao động không, đó lại là chuyện khác; vì dẫu cho có tôn trọng lao động đến đâu chăng nữa, chàng vẫn không thể nào yêu thích nó được, bởi một lẽ đơn giản là chàng không quen làm lụng. Phải làm việc là thần kinh chàng căng thẳng, thân thể chàng rã rời, và chàng thẳng thắn thú nhận rằng, thực tình chàng yêu thích những giờ nhàn rỗi hơn nhiều, khoảng thời gian bay bổng không bị công việc hay lo âu đè lên nặng trĩu, khoảng thời gian rộng mở không bị phân chia bằng những trở ngại phải nghiến răng ráng sức vượt qua. Mâu thuẫn ấy trong quan hệ với lao động bắt buộc phải được giải tỏa. Có lẽ tinh thần và thể lực chàng - trước hết tinh thần phải thông suốt để rồi tác động lên thể lực - sẽ sẵn sàng tham gia lao động một cách tích cực và bền bỉ hơn, nếu trong sâu thẳm linh hồn, nơi lý trí không dò tới được, chàng có niềm tin vào giá trị tuyệt đối và nguyên tắc tự khẳng định mình của lao động? Nhưng như vậy lại nổi cộm lên câu hỏi tầm thường hay vượt lên trên mức tầm thường, mà chúng tôi không muốn trả lời ngay từ bây giờ. Bởi chúng tôi không coi mình là người ca tụng Hans Castorp, và chỉ muốn hé ra điều phỏng đoán, rằng đối với chàng lao động đơn giản là làm vẩn đục cái thú trần tục thưởng thức xì gà Maria Mancini.
Khi đến tuổi chàng không phải làm nghĩa vụ quân sự. Bản tính tự nhiên của chàng mang một mối ác cảm với quân ngũ, và chàng cũng biết cách lẩn tránh trách nhiệm khó chịu này. Hoặc giả cũng có thể ông bác sĩ tuyển quân
https://thuviensach.vn
Eberding, người vẫn thường qua lại ngôi nhà ở Harvestehuder Weg, đã được ông lãnh sự Tienappel úp mở thông báo rằng, nếu thằng nhỏ Castorp bị gọi nhập ngũ thì chương trình học đại học vừa mới bắt đầu của nó sẽ bị cản trở một cách đáng kể.
Đầu óc chàng, đã quen làm việc một cách chậm rãi và không cố gắng, nhất là Hans Castorp vẫn giữ nếp mỗi ngày xoa dịu tinh thần bằng bia Porter, dần dần được nhồi đầy nào là hình học giải tích, phép tính vi phân, cơ học lý thuyết, phép chiếu hình và sơ đồ kết cấu, chàng tính toán lượng nước choán do thân tàu trong trường hợp có tải và không tải, độ ổn định, sự phân bố tải trọng và trọng tâm nổi của tàu, mặc dù thỉnh thoảng những thứ này cũng làm chàng chán ngấy. Các bản vẽ kỹ thuật của chàng, mặt cắt ngang, mặt cắt dọc và mặt cắt mớn nước không được thành công như bức họa con tàu ‘Hansa’ trên biển, nhưng hễ có cơ hội là Hans Castorp lại lấy nghệ thuật bổ sung cho kỹ thuật, dùng bóng đổ để tôn hình phối cảnh và dùng màu sắc tươi tắn để tô điểm cho mặt cắt, về mặt này thì chàng khéo tay hơn đa số các bạn học.
Mỗi kỳ nghỉ chàng trở về nhà, sạch sẽ tinh tươm, áo quần bảnh bao, với hàng ria mép nhỏ vàng óng trên khuôn mặt quý tộc ngái ngủ còn non choẹt, rõ ràng đang vững bước trên đường công danh rạng rỡ, thì những người quan tâm đến giang sơn xã tắc, đồng thời nắm vững gia phả các gia đình quý tộc cũng như các nhân vật có vai vế trong chính quyền địa phương - tức là đa số công dân ở cái thành phố tự trị này - những người ấy lại ngấm ngầm quan sát chàng và tự hỏi, liệu chàng công tử Castorp sau này sẽ đảm nhiệm trọng trách nào đây trong bộ máy chính quyền. Chàng là con nhà dòng dõi có danh tiếng lâu đời, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, một ngày nào đấy người ta không tránh khỏi phải tính đến chàng như một yếu tố trong đời sống chính trị ở địa phương. Chàng có thể ngồi trong hội đồng nhân dân hoặc hội đồng cố vấn bàn thảo các dự luật, có thể tham gia giữ một chức vụ danh dự lo về vấn đề chủ quyền thành phố, có thể làm việc trong bộ máy hành chính, ở bộ tài chính hay là bộ xây dựng, và sẽ có tiếng nói góp phần vào các quyết định quan trọng ở địa phương. Người ta cũng tò mò không biết khi ấy chàng sẽ gia nhập cánh nào, chàng công tử Castorp này.
https://thuviensach.vn
Hình thức có thể đánh lừa con mắt, nhưng quả thực trông chàng không giống một nhân vật mà cánh dân chủ có thể trông cậy vào, càng ngày bề ngoài của chàng càng giống ông nội chàng hơn. Cũng có thể chàng sẽ theo con đường của người ông, trở thành một cục phanh hãm đà phát triển, một nhân tố bảo thủ? Tất cả những điều ấy đều có thể - và cũng có thể ngược lại. Vì xét cho cùng chàng là kỹ sư, một chuyên gia đóng tàu tương lai, một con người của giao thông quốc tế và tiến bộ kỹ thuật. Rất có thể chàng sẽ thuộc về phe quá khích, một kẻ liều mạng, sẵn sàng đạp đổ tất cả dù cho đó là những ngôi nhà cổ hay phong cảnh thiên nhiên, vô ơn như người Do Thái và vô lễ như người Mỹ, có thiên hướng phá vỡ truyền thống đáng trọng của nền giáo dục cổ truyền cùng những điều kiện sống tự nhiên và đẩy nhà nước vào những thí nghiệm phiêu lưu mạo hiểm - cũng phải nghĩ đến cả khả năng này. Liệu huyết quản chàng có chứa yếu tố khôn ngoan cần thiết để ngồi trong lưỡng viện ở tòa thị chính mà lo cho sự thịnh vượng của thành phố, hay chàng sẽ ủng hộ phe đối lập đại diện cho quyền lợi của người dân? Trong đôi mắt xanh dưới hàng chân mày vàng óng của chàng người ta không đọc thấy câu trả lời nào cho những câu hỏi hiếu kỳ mang tính thời sự trên, và có lẽ bản thân chàng cũng chẳng có câu trả lời cho những điều ấy, Hans Castorp còn như một trang giấy trắng.
Khi dấn thân vào cuộc hành trình mà chúng ta có dịp làm quen ở đầu sách, chàng đang ở tuổi hai mươi ba. Khi ấy chàng đã trải qua bốn học kỳ ở trường Đại học bách khoa Danzig và bốn học kỳ nữa ở Đại học kỹ thuật Braunschweig cũng như Karlsruhe, đã đậu kỳ thi tốt nghiệp cử nhân, dù không có tên trên bảng vàng danh dự với kèn trống tưng bừng nhưng cũng không thuộc vào loại dở, và tấp tểnh chuẩn bị nhậm chức kỹ sư tập sự ở hãng Tunder & Wilms để thu thập kiến thức thực tế ngoài xưởng đóng tàu. Tới đây đường đời của chàng rẽ sang một hướng chúng ta sẽ thấy ở phần sau.
Để chuẩn bị kỳ thi chàng phải vùi đầu học căng thẳng một thời gian dài, nên khi trở về nhà trông chàng còn xanh xao hơn cả bình thường. Bác sĩ Heidekind cứ mỗi lần gặp chàng lại lên tiếng quở mắng và bắt chàng đi đổi gió, tức là: phải thay đổi không khí một cách triệt để. Lần này, ông ta bảo, ra
https://thuviensach.vn
đảo Norderney hay đến Wyk trên đảo Föhr không đủ, và cứ theo ý ông thì Hans Castorp nhất định phải lên vùng núi an dưỡng vài tuần trước khi vào làm ở xưởng đóng tàu.
Ý kiến hay đấy, ông lãnh sự bảo thằng cháu đồng thời là con đỡ đầu của mình, nhưng vậy là mùa hè này đường ai nấy đi thôi, vì bốn ngựa cũng không thể kéo nổi ông, lãnh sự Tienappel, lên vùng núi được đâu. Cao nguyên không phải là nơi dành cho ông, ông cần một áp suất khí quyển hợp lý, nếu không ông đến bị đột quỵ mất. Xin mời Hans Castorp cứ việc một mình chu du lên miền núi. Hơn nữa chàng có thể đi thăm Joachim Ziemßen.
Đó là một đề nghị có lý. Vì Joachim Ziemßen hiện đang dưỡng bệnh - không phải chỉ đi đổi gió như Hans Castorp, mà anh chàng mắc một bệnh trong tứ chứng nan y, phát hiện này làm cho cả nhà bị sốc. Từ trước tới giờ Joachim vẫn hay sốt vặt và cảm cúm, nhưng đến khi ho ra máu thì chàng bắt buộc phải khăn gói lên Davos trị bệnh, đau khổ nhất là đúng vào lúc mơ ước của chàng sắp trở thành hiện thực. Bởi sau khi chiều ý gia đình học vài học kỳ ngành luật, chàng đã theo nguyện vọng bản thân bỏ dở ngang xương việc học luật để xin đăng ký vào trường sĩ quan và cũng đã được tiếp nhận. Giờ thì chàng đang ngậm một khối căm hờn ngồi hơn năm tháng trời trong an dưỡng đường quốc tế ‘Sơn trang’ (bác sĩ trưởng cầm cân nảy mực là ông cố vấn cung đình Behrens) và chán đến gần chết, như chàng viết trong bưu thiếp gửi về nhà. Nếu Hans Castorp có phải đi đổi gió để củng cố sức khỏe trước khi vào làm ở hãng Tunder & Wilms thì còn gì hơn là đến đó thăm người anh họ tội nghiệp - một công đôi việc, có lợi cho cả hai người.
Mùa hè đã đạt đến cao điểm khi chàng quyết định lên đường. Đó là những ngày cuối cùng của tháng bảy.
Chàng dự định đến đó ba tuần.
https://thuviensach.vn
III
https://thuviensach.vn
NỖI BẤT BÌNH ĐẠO MẠO
Hans Castorp đã sợ ngủ quên vì hôm trước chàng mệt đừ người, nhưng rồi vẫn tỉnh dậy sớm quá mức cần thiết và dư thời gian để làm vệ sinh buổi sáng một cách kỹ lưỡng theo thói quen, một thói quen rất mực văn minh, trong đó cái thau nhựa với cái bát gỗ đựng xà bông thơm mùi oải hương cùng đủ loại chổi lông và bàn chải đóng một vai trò quan trọng, và tiếp theo việc rửa ráy chăm sóc cơ thể là việc mở hành lý và dọn dẹp. Trong lúc đưa cán cây dao cạo râu mạ bạc qua cặp má quét đầy bọt thơm phức chàng vừa nhớ lại những giấc chiêm bao rối rắm của mình vừa lắc đầu cười độ lượng về những điều vô lý trong mơ, theo cách suy xét sáng suốt của một người đang cạo râu giữa ban ngày ban mặt. Chàng vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn lại sức, nhưng đã tươi tỉnh hơn nhờ buổi sáng trong lành.
Sau khi lau khô tay và rắc phấn lên má chàng bước ra ngoài ban công, trên mình chỉ mặc bộ đồ lót vải bông mịn và đi đôi dép trong nhà bằng da dê đỏ. Cái ban công chạy dọc suốt chiều dài ngôi nhà và chỉ được những bức tường kính mờ thấp hơn lan can ngăn thành từng khoang phù hợp với mỗi phòng. Bầu trời buổi ban mai lạnh lẽo đầy mây. Những dải mây bất động vắt ngang trên cao, trong khi những đám mây dày đặc trắng có, xám có, treo thấp la đà trên đỉnh dãy núi xa xa. Đây đó lộ ra một mảng trời xanh biếc, và khi ánh nắng qua đó lọt xuống đáy thung lũng thì cái làng nhỏ sáng bừng lên tương phản với rừng thông tối sẫm trên sườn núi. Có tiếng nhạc văng vẳng đưa lại, chắc vẫn từ cái khách sạn tối hôm qua mở dạ hội. Một bài đồng ca loáng thoáng vọng lên tiếng được tiếng mất, sau quãng nghỉ là giai điệu một bản hành khúc, và vì Hans Castorp rất có lòng say mê âm nhạc - cũng giống như tác động của bia Porter, âm nhạc êm đềm như ru ngủ, xoa dịu tâm hồn chàng, đưa chàng vào trạng thái ngẩn ngơ - nên chàng nghiêng đầu chăm chú lắng nghe, miệng hé mở và cặp mắt hơi hoe đỏ.
https://thuviensach.vn
Bên dưới chỗ chàng đứng trải dài con đường uốn lượn mềm như dải lụa từ làng dẫn lên cổng viện an dưỡng mà tối hôm qua chàng vừa đi qua. Những bông hoa khổ sâm cuống ngắn năm cánh như hình ngôi sao nở lác đác trong bãi cỏ ướt trên sườn dốc. Một phần lưỡi đất bậc thang được rào lại thành khu vườn nhỏ; ở đó có lối đi trải sỏi, những luống hoa và một hòn giả sơn núp dưới chân một cây tùng tán lá xòe rộng. Một gian nhà lợp mái thiếc trong xếp nhiều dãy ghế nằm, mặt tiền quay về hướng nam, cạnh đó là cây cột cờ sơn màu gỉ sắt, trên đỉnh phơ phất một lá cờ thỉnh thoảng uể oải tung mình trong gió - một lá cờ tưởng tượng không phải của quốc gia nào, màu trắng và xanh lục với biểu tượng ngành y, con rắn quấn quanh cây gậy, ở chính giữa.
Có một người đàn bà đang đi dạo trong vườn, một bà cụ già với vẻ bề ngoài ảm đạm, phải nói là thảm não mới đúng. Trang phục tuyền một màu đen, một tấm mạng đen choàng lên mái tóc rối bời lẫn những sợi bạc, bà ta sải bước bồn chồn đi qua đi lại, đầu gối lum khum, hai cánh tay thõng xuống khư khư đưa về phía trước, đôi mắt đen như than với bọng da xề xệ trên khuôn mặt nhăn nheo hướng cái nhìn bất động cắm xuống đất. Gương mặt già nua với nước da ngăm ngăm tai tái, cái miệng rộng đầy cay đắng, một bên mép méo xệch trễ xuống khiến Hans Castorp bất giác nhớ tới bức tranh thống khổ do một nữ diễn viên bi kịch nổi tiếng thể hiện mà chàng có lần được chiêm ngưỡng, và cảnh người đàn bà nhợt nhạt bận đồ đen, rõ ràng không cố ý, hùng hục sải những bước dài vô tình ăn khớp theo điệu nhạc hành khúc từ xa vọng lại có cái gì đó kinh dị lạ thường.
Hans Castorp đưa cặp mắt đăm chiêu đầy thương cảm nhìn xuống bà ta, và bất giác thấy hình ảnh thảm não của bà cụ làm cả buổi bình minh trở nên u ám. Đồng thời các giác quan của chàng cũng nắm bắt được một tín hiệu khác, kích thích lên thính giác, một tiếng động từ phòng hàng xóm phía bên trái, theo lời Joachim là phòng của cặp vợ chồng người Nga, vọng sang. Tiếng động này cũng không ăn nhập với bầu không khí tươi vui, trong sạch của buổi sớm mai mà gây cho chàng một cảm giác nhớp nháp, gờn gợn. Hans Castorp nhớ ra là tối hôm qua chàng cũng đã nghe thấy những tiếng động tương tự, nhưng nỗi mỏi mệt ngăn không cho chàng để ý tới. Đó là
https://thuviensach.vn
tiếng vật lộn âm thầm, tiếng cười khúc khích ghìm ném và tiếng thở hổn hển, mà ý nghĩa thô tục của nó chàng trai trẻ chẳng lạ gì, mặc dù lúc đầu chàng vẫn cố độ lượng gán cho một vẻ vô hại. Người ta cũng có thể đặt cho cố gắng độ lượng của chàng một cái tên khác, chẳng hạn nói một cách cổ hủ thì có thể bảo đó là sự trinh trắng của linh hồn, hoa hòe hoa sói ra thì gọi đó là vẻ thẹn thùng đoan trang, hoặc mạt sát gọi đó là thói đạo đức giả tránh nhìn thẳng vào sự thật, hay thậm chí có thể coi đó là sự nhút nhát và mộ đạo huyền bí - tất cả những cái đó đều có mặt, pha trộn mỗi thứ một chút trong cảm nhận của Hans Castorp đối với tiếng động ở phòng bên, và chàng bày tỏ nỗi bất bình của mình bằng nét mặt tối sầm đạo mạo, như thể chàng không biết và không muốn biết về những điều đang diễn ra ở đó: thái độ của người có đạo đức, thực ra cũng hơi nhàm rồi, nhưng trong những tình huống nhất định chàng vẫn ưa áp dụng.
Với thái độ bất bình này chàng rút lui từ ban công vào trong phòng, để khỏi phải nghe tiếp sự kiện đối với chàng rất nghiêm trọng, thậm chí có thể gọi là kinh khủng, mặc dù nó diễn ra trong tiếng cười khúc khích. Nhưng ở trong phòng những tiếng động bên kia vách tường lại càng nghe rõ hơn. Có vẻ như đó là một cuộc đuổi bắt rượt quanh đồ đạc, một cái ghế bị xô đổ, người ta bắt được nhau, có tiếng phát đen đét và tiếng hôn chùn chụt, được đệm theo bằng tiếng nhạc bập bùng từ ngoài xa đưa lại, bây giờ là điệu valse của một bản nhạc sến vỉa hè, phụ họa một cách đắc lực cho cảnh tượng vô hình đang diễn ra ở phòng bên. Hans Castorp đứng ngây người, chiếc khăn rửa mặt cầm trong tay, chăm chú lắng nghe ngoài ý muốn. Đột nhiên chàng giật mình, mặt đỏ bừng dưới lớp phấn cạo râu, vì cái điều chàng biết sẽ phải đến đã đến, và trò chơi chuyển sang hồi thú vật. Chúa ơi, trời đất quỷ thần ơi! chàng nghĩ trong lúc quay đi và vừa cố ý đá thúng đụng nia rầm rầm vừa tiếp tục thủ tục vệ sinh buổi sáng. Thực ra, họ là vợ chồng, nhân danh Chúa, nên chuyện ấy hoàn toàn hợp lệ. Nhưng mà làm trò khỉ giữa thanh thiên bạch nhật, thật là quá thể! Và nếu mình không nhầm thì từ tối hôm qua họ đã hú hí rồi. Rốt cuộc họ đang điều trị bệnh, chí ít là một trong hai người, có thế họ mới phải đến đây, như vậy lo dưỡng sức mới là phải lẽ chứ. Nhưng dĩ nhiên tất cả tội lỗi là tại vách tường mỏng quá, chàng phẫn nộ nghĩ thầm,
https://thuviensach.vn
đến nỗi bên này nghe được ráo trọi mọi cử động ở bên kia, thật không thể nào chịu nổi! Chỉ cốt xây cất làm sao cho rẻ, nhục nhã đến thế là cùng! Nhỡ sau này mình có lúc chạm trán với cặp vợ chồng này hay thậm chí được giới thiệu với họ thì sao? Bấy giờ có chui xuống đất cũng không đỡ ngượng. Nghĩ tới đây Hans Castorp kinh ngạc nhận ra vệt đỏ ửng trên gò má vừa cạo râu nhẵn nhụi không chịu biến đi, cả cảm giác nóng bừng bừng cũng vậy, nó cứ dính chặt trên mặt chàng, khô ran và nóng hổi như tối hôm qua, cảm giác chàng đã tưởng thoát được sau giấc ngủ nhưng nhân cơ hội tinh thần xáo trộn nó thừa cơ quay trở lại. Điều đó không làm tăng chút nào cảm tình của chàng với cặp vợ chồng hàng xóm, và chàng vừa bĩu môi rủa thầm họ một câu thật tệ vừa phạm phải sai lầm lớn là vốc nước lạnh vã lên mặt thêm lần nữa và càng làm tình thế trở nên tệ hại hơn. Thế là chàng rơi vào tâm trạng cực kỳ tối tăm lúc trả lời tiếng gõ tường báo hiệu của người anh họ, và khi Joachim bước vào phòng thì trông chàng không còn chút gì của vẻ tươi tỉnh trong buổi sáng tinh khôi nữa.
https://thuviensach.vn
ĐIỂM TÂM
“Chào”, Joachim lên tiếng. “Đêm đầu tiên ở trên này cậu thấy thế nào, có hài lòng không?”
Anh họ chàng đã ăn mặc chỉnh tề, một bộ đồ thể thao với giày cao cổ đóng đế chắc chắn, trên tay vắt tấm áo khoác dài hai hàng cúc, một bên túi áo ngoài nổi lên hình cái chai dẹp. Hôm nay chàng cũng không đội mũ.
“Cám ơn”, Hans Castorp đáp, “cũng tàm tạm. Nhưng nhận xét bây giờ là quá sớm. Tớ chiêm bao thấy đủ thứ lộn xộn, thêm vào đấy cái nhà này lại còn có nhược điểm là truyền âm quá tốt, người ta cứ phải nghe những thứ chẳng muốn nghe. Người đàn bà mặc đồ đen ngoài vườn là ai thế?” Joachim biết ngay chàng hỏi về người nào.
“À, đấy là Tous-les-deux[13]”, chàng bảo. “Ở đây ai cũng gọi bà ấy như thế, vì đấy là tất cả những gì người ta nghe được từ miệng bà ta. Bà ấy là người Mexico, cậu hiểu không, tiếng Đức một chữ cắn đôi cũng không biết, tiếng Pháp thì lõm bõm vài câu. Bà ấy ở đây đã được năm tuần rồi, lên thăm cậu con trai lớn, một ca hoàn toàn tuyệt vọng, chỉ còn chờ ngày đi thôi - vi trùng đã lan ra khắp mọi chỗ, có thể nói rằng mọi cơ quan bộ phận trong người cậu ta đã nhiễm độc cả, Behrens bảo giai đoạn cuối nhìn cậu ta không khác gì người bệnh thương hàn, tóm lại là rất kinh khủng cho tất cả những ai phải chứng kiến. Mười bốn ngày trước người con trai thứ hai cũng lên đây để gặp anh lần cuối, cậu này đẹp trai như tài tử, cả cậu anh cũng thế, hai anh em đều rất bảnh trai, mắt đen rực lửa, làm các quý bà quý cô cuồng hết cả lên. Chà, cậu em ở dưới kia cũng có ho hắng sơ sơ, nhưng nói chung là khỏe. Thế mà vừa đến đây, cậu biết sao không, nó lên ngay cơn sốt, mà những 39,5 độ, sốt thế là cao lắm đấy, và nằm liệt giường luôn. Cậu ta lên được đến đây đúng là may hơn khôn, Behrens bảo thế. Sớm muộn gì cũng phải lên, mà bây giờ có khi cũng đã muộn rồi… Vậy là từ ngày ấy người mẹ những lúc không ngồi cạnh các con lại đi loanh quanh như thế, và nếu có ai hỏi gì
https://thuviensach.vn
bà ta cũng chỉ nói đúng mấy chữ ‘Tous les deux!’ thôi, chắc ngoài mấy chữ ấy ra bà ta chẳng biết nói gì hơn, ở đây thì lúc này lại chẳng có ai biết tiếng Tây Ban Nha.”
“Thì ra là thế”, Hans Castorp bảo. “Chẳng biết bà ấy có nói câu ấy với tớ không, nếu tớ có dịp làm quen với bà ấy? Như vậy thì kỳ cục lắm nhỉ, ý tớ muốn nói là, vừa lạ lùng vừa đáng sợ thật đấy”, chàng nói mà đôi mắt lại có cảm giác như tối hôm qua: hai mắt chàng nóng ran và nặng trĩu, như thể chàng đã khóc rất lâu, và trong ánh mắt lại xuất hiện tia sáng rực mới nhen lên từ khi nghe tiếng ho lạ đời của ông hiệp sĩ. Chàng có cảm tưởng bây giờ mới nối lại được mối dây liên hệ với ngày hôm qua, mới tìm lại được bối cảnh hiện tại, điều mà lúc vừa ngủ dậy chàng quên khuấy mất. Và vừa nhỏ mấy giọt nước hoa oải hương vào chiếc khăn tay chấm chấm lên vừng trán và vùng da dưới mắt chàng vừa bảo người anh họ rằng mình đã chuẩn bị xong. “Nếu cậu muốn chúng mình có thể tous les deux đi ăn sáng”, chàng đùa với giọng khôi hài một cách cường điệu, đáp lại Joachim chỉ hiền hậu nhìn chàng mỉm một nụ cười kỳ lạ, hơi buồn bã mà lại ẩn giấu nét giễu cợt - tại sao thì chỉ một mình anh họ chàng biết.
Sau khi Hans Castorp đã kiểm tra để biết chắc là mình có mang theo đủ thuốc hút, chàng cầm lấy ba toong, áo choàng và mũ, chàng khăng khăng đội mũ, với thái độ ương ngạnh một cách cố ý, bởi chàng tin tưởng ở nếp sống và thuần phong mỹ tục quê nhà, và không dễ gì chỉ vì ba tuần nghỉ mát mà chịu phá lệ học theo thói mới, rồi họ cùng đi cầu thang bộ xuống tầng dưới, và dọc theo hành lang thỉnh thoảng Joachim lại chỉ vào cánh cửa này hay cánh cửa kia, nêu tên người ở trong đó, có cả tên Đức lẫn những cái tên rất lạ tai, cùng một vài lời ngắn gọn giới thiệu tính tình hay bệnh tình của họ.
Họ cũng gặp người này người nọ đã điểm tâm xong quay trở ra, và mỗi khi Joachim cất tiếng chào ai đó thì Hans Castorp lại lịch thiệp nhấc mũ lên. Chàng căng thẳng và hồi hộp như một thanh niên phải ra mắt một lúc nhiều người lạ, lúng túng vì biết rằng mình trình diện họ với cặp mắt đục ngầu và gương mặt đỏ phừng phừng, điều này chỉ đúng có một phần, thực ra mặt chàng tái nhiều hơn là đỏ.
https://thuviensach.vn
“Tớ phải nói ngay kẻo lại quên”, đột nhiên chàng bảo người anh họ bằng giọng sốt sắng hơi quá mức. “Nếu có cơ hội cậu cứ giới thiệu tớ với bà cụ dưới vườn nhé, tớ không phản đối. Bà ấy cứ việc nói ‘tous les deux’ với tớ cũng chẳng sao, tớ đã được chuẩn bị trước rồi và biết như thế nghĩa là thế nào để nặn ra một vẻ mặt thích hợp. Nhưng tuyệt đối đừng có giới thiệu tớ với cặp vợ chồng người Nga, cậu nghe rõ chứ? Tớ nhất định khước từ việc làm quen với họ. Hai người ấy thật không biết tế nhị là cái gì, và nếu như tớ bắt buộc phải làm hàng xóm với họ suốt ba tuần mà không có cách nào thay đổi được thì chí ít cũng nên dừng lại ở mức độ người dưng, đấy là quyền của tớ, tớ có thể từ chối…”
“Được thôi”, Joachim bảo. “Họ quấy rầy cậu đến thế cơ à? Ừ, họ cư xử có phần lỗ mãng, nói một cách bóng bẩy là thiếu văn minh, tớ đã báo trước cho cậu rồi mà. Ông chồng chuyên môn mặc một cái áo da xuống phòng ăn, cũ đến mức đã mòn trơ thổ địa, tớ vẫn lấy làm lạ là sao Behrens chưa can thiệp vào. Và bà vợ cũng chẳng tươm tất gì hơn, mặc dù bà ta đội mũ cắm lông chim… Nhưng cậu chẳng việc gì phải lo, họ ngồi xa chỗ bọn mình, bàn họ là bàn Nga hạ lưu, gọi thế vì có một bàn Nga thượng lưu, ở đó chỉ toàn những người Nga quý phái ngồi thôi, cậu không có cách nào làm quen với họ được đâu, dẫu cho cậu có muốn cũng không được. Nói chung ở đây rất khó làm quen, một phần cũng tại nhiều bệnh nhân ngoại quốc quá, bản thân tớ cũng chỉ quen vài người thôi, mặc dù tớ ở đây đã từng ấy thời gian rồi.”
“Ai trong số họ bị bệnh?” Hans Castorp hỏi. “Ông chồng hay là bà vợ?” “Ông chồng, hình như thế. Ừ, chỉ có ông chồng thôi”, Joachim lơ đãng đáp, lúc họ treo đồ lên giá áo trước cửa phòng ăn, rõ ràng tâm trí đang nghĩ tới điều gì khác. Rồi họ bước vào gian phòng lớn trần hơi thoai thoải cong hình mái vòm, lọt thỏm giữa tiếng cười nói lao xao, tiếng chén đĩa chạm nhau lanh canh và các tiểu nữ lượn qua lượn lại, trên tay là những cái bình bốc hơi nghi ngút.
Trong phòng ăn kê bảy chiếc bàn, phần lớn dọc theo chiều dài, chỉ có hai chiếc nằm xoay ngang. Đó là những bàn ăn lớn, mỗi bàn đủ chỗ cho mười người, mặc dù không phải bàn nào cũng được ngồi kín chỗ. Từ cửa vào đi vài bước nữa là Hans Castorp đã đến chỗ ngồi của mình: chàng được xếp
https://thuviensach.vn
ngồi đầu một chiếc bàn kê dọc ở phía trước, giữa hai chiếc bàn xoay ngang. Đứng thẳng tắp sau lưng ghế, Hans Castorp cúi đầu lịch thiệp chào những người ngồi cùng bàn, trong lúc Joachim trang trọng giới thiệu từng người. Chàng hầu như không nhìn kỹ mặt ai, lại càng chẳng nhập tâm những cái tên của họ. Chàng chỉ dỏng tai khi nghe đến tên bà Stöhr, và ghi nhận là bà này có bộ mặt đỏ gay với mái tóc vàng bết lại. Người ta có thể tin ngay những giai thoại về bà ta, bằng vào vẻ dốt nát và ngông cuồng thể hiện rõ trên nét mặt. Rồi chàng ngồi vào chỗ và lơ đãng thầm nhận xét, ở đây người ta coi điểm tâm là một bữa ăn chính trong ngày.
Trên bàn bày la liệt những hũ mứt nhừ và mật ong, những liễn cháo sữa và cháo kiều mạch, những đĩa trứng sốt và thịt đông, bơ được để rải rác khắp nơi, ai đó mở cái nắp thủy tinh hình chuông đậy trên miếng pho mát Thụy Sĩ lấm tấm mồ hôi để cắt một lát, giữa bàn là một cái thẫu lớn đựng đủ loại trái cây tươi và khô. Một tiểu nữ mặc đồ đen trắng hỏi Hans Castorp muốn uống gì: ca cao, cà phê hay trà. Cô ta thấp bé như một đứa trẻ, nhưng lại có gương mặt già khằng dài thườn thượt, một người lùn, Hans Castorp giật mình nhận xét. Chàng đưa mắt nhìn sang anh họ, nhưng anh chàng chỉ tỉnh bơ nhún vai và dướn chân mày như muốn nói: ‘Ừ, vậy đấy, có sao đâu?’, thế cho nên chàng đành chấp nhận thực tế và cất tiếng thật lịch sự xin được uống trà, vì người hỏi chàng là một người lùn, rồi bắt đầu ăn cháo sữa với đường và quế, trong lúc mắt chàng không rời những của ngon vật lạ khác mà chàng cũng muốn nếm thử, và tò mò quan sát các thực khách quanh bảy chiếc bàn, những người đồng cảnh ngộ với Joachim, thảy đều mang bệnh trong nội tạng, đang vừa rôm rả trò chuyện vừa nhiệt tình ăn uống.
Gian phòng được trang trí theo thị hiếu thẩm mỹ hiện đại, trong phong cách đơn giản thực dụng cũng có nét sáng tạo nhất định. Phòng tạo ấn tượng không sâu lắm bởi kích thước áp đảo của chiều dài, xung quanh chừa ra một lối đi rộng kê nhiều tủ thấp và thông qua những vòm cung lớn mở vào khoảng không gian chính giữa, nơi có các dãy bàn. Những chiếc cột, từ dưới sàn tới lưng chừng chiều cao được ốp gỗ đánh vecni bóng loáng, nửa trên quét vôi trắng như trần và đỉnh tường, nổi lên những dải màu sặc sỡ dập khuôn những hình vẽ ngây ngô nhí nhảnh chạy dài từ thân cột sang những
https://thuviensach.vn
thanh giằng đỡ mái vòm. Nhiều ngọn đèn chùm mạ đồng có vẻ cũng là vật trang trí đặc biệt cho gian phòng, mỗi chùm gồm ba chiếc vòng treo thành ba tầng từ trên trần xuống, nối với nhau bằng những sợi dây tết mỏng manh, thắp sáng bởi những bóng đèn điện bằng thủy tinh mờ hình quả chuông như những mặt trăng nho nhỏ gắn vào vòng dưới cùng. Có tất cả bốn khung cửa kính, ở bức tường dọc đối diện có hai cánh cửa mở ra hàng hiên phía trước, bên trái một cánh cửa thứ ba dẫn thẳng ra tiền sảnh, và rồi cánh cửa Hans Castorp vừa đi vào từ ngoài hành lang, vì Joachim dẫn chàng xuống lầu bằng một cầu thang khác cái tối hôm qua.
Ngồi bên phải chàng là một tạo vật kém hấp dẫn mặc đồ đen, có làn da phủ đầy lông tơ và hai gò má hơi ửng đỏ, trông giống như một cô thợ may vườn, cũng có thể tại vì cô ta chỉ uống cà phê với bánh mì bơ, và vì hồi nào tới giờ chàng quen kết hợp hình ảnh cô thợ may vườn với đồ ăn thức uống loại này. Bên trái chàng là một tiểu thư người Anh, cũng không còn trẻ trung gì nữa, gầy gò xấu xí với những ngón tay lạnh cóng, ngồi đọc những lá thư nhà chữ viết tròn như cái trứng gà và uống một ly trà màu huyết dụ. Bên cạnh cô này là Joachim rồi đến bà Stöhr mặc chiếc áo len Scotland. Khi ăn bà ta kê nắm đấm bàn tay trái lên ngang má và bỏ nhiều công sức cố gắng bắt chước thái độ lịch thiệp quý phái, bằng cách cong môi tạo một nụ cười thường trực để lộ những chiếc răng cửa dài như răng thỏ. Một người đàn ông còn trẻ với bộ ria mép mỏng và nét mặt nhăn nhó như khỉ ăn gừng ngồi xuống bên cạnh bà ta lẳng lặng ăn không hé răng nói một lời nào. Ông ta vào phòng lúc Hans Castorp đã yên vị, vừa đi vừa hạ cái cằm xuống ngực ra dấu chào mà mắt không nhìn ai cả, bằng thái độ của mình ông ta từ chối thẳng thừng không cho người khách mới cơ hội tự giới thiệu. Có thể ông ta bệnh nặng tới mức bất cần tuân theo mọi quy tắc xã giao thông thường, hay thậm chí chẳng thèm quan tâm đến thế giới xung quanh. Một thiếu nữ tóc vàng hoe gầy còm gió thổi bay tới ngồi vào chỗ đối diện với ông ta, đổ một hộp sữa chua đặc ra đĩa, cắm cúi dùng thìa múc ăn hết rồi trong chớp mắt đứng dậy bỏ đi ngay.
Câu chuyện bên bàn ăn diễn ra rời rạc. Joachim hỏi han bà Stöhr một cách xã giao về tình hình sức khỏe bà này và tỏ ý thông cảm một cách đúng mực
https://thuviensach.vn
khi nhận được câu trả lời bi quan. Bà ta than thở về tình trạng “bất lực” của mình. “Tôi chẳng còn sức nhấc tay đặt chân nữa!” bà ta kéo dài giọng làm bộ đài các một cách dốt nát. Sáng bừng mắt dậy đã đo được 37,3 độ[14]rồi, đến trưa thì còn cao thế nào nữa. Cô thợ may vườn cho biết cơ thể mình cũng mang nhiệt độ ấy, giải thích thêm rằng khác với bà kia cô ta thấy người xốn xang bồn chồn khó chịu, cứ như tâm trạng trước khi phải có một quyết định đặc biệt quan trọng, kỳ thực chẳng có sự kiện tinh thần nào xảy ra với cô và đó chỉ là một kích thích hoàn toàn mang tính chất vật lý mà thôi. Cứ bằng vào lối diễn đạt khúc chiết, lời lẽ rất trí thức thì nhất định cô ta không thể là thợ may vườn được. Nhưng trong thâm tâm không hiểu sao Hans Castorp cảm thấy trạng thái kích thích cơ thể hay những lời bàn luận về tình trạng ấy ở đây có cái gì đó không đúng chỗ, thậm chí hơi chướng vì nó phát ra từ miệng con người nhạt nhẽo tầm thường kia. Chàng lần lượt hỏi cô thợ may và bà Stöhr xem họ điều trị ở đây đã bao lâu rồi (một người đã được năm tháng, người kia bảy tháng), gom góp hết vốn liếng tiếng Anh để gợi chuyện người ngồi phía bên trái và được biết cô ta uống trà gì (đó là trà chiết xuất từ quả hoa hồng), hỏi thêm trà ấy có ngon không, và nhận được câu trả lời khẳng định chắc như đinh đóng cột, rồi đưa mắt nhìn quanh phòng hơi lạ lùng thấy thực khách đi ra đi vào tự do như đi chợ: rõ ràng bữa điểm tâm đầu tiên trong ngày không bị ràng buộc bởi những quy tắc xã giao chặt chẽ.
Chàng đã sợ sẽ gặp phải những ấn tượng nặng nề, nhưng giờ đây lại cảm thấy hơi thất vọng: bầu không khí trong phòng ăn rất nhộn nhịp, người ta không có cảm giác mình đang ở vào một nơi bệnh tật phiền não. Những con người trẻ trung thuộc về cả hai giới tính với làn da rám nắng ríu rít bước vào, tươi cười chào hỏi các tiểu nữ và ăn uống nhiệt tình có vẻ rất ngon miệng. Cũng có những người đã đứng tuổi, vài cặp vợ chồng, một gia đình với mấy đứa con nhỏ nói tiếng Nga, và cả các thiếu niên đang tuổi lớn. Hầu hết đám phụ nữ đều mặc một kiểu áo gọi là sweater[15] bằng len hay vải lụa bó sát người, cổ cao bẻ trùm xuống vai và có túi hai bên, thật thích mắt khi nhìn họ đứng tán gẫu, duyên dáng đút hai tay vào túi. Ở nhiều bàn người ta chuyền cho nhau xem những tấm ảnh, chắc là ảnh mới tự chụp lấy; ở một bàn khác họ trao đổi tem thư. Đề tài phổ biến nhất là thời tiết, tình trạng giấc
https://thuviensach.vn
ngủ và con số đo được trong miệng lúc sáng sớm. Đa số bọn họ tỏ ra rất vui vẻ, chẳng có lý do gì đặc biệt, chỉ vì họ vô tư không vướng bận lo âu và có dịp tụ tập đông đủ thế thôi. Đương nhiên cũng có vài người đơn độc ngồi chống cùi chỏ xuống bàn tay ôm đầu nhìn trân trối về một hướng. Người ta để mặc họ ngồi nhìn và không đếm xỉa đến sự hiện diện của họ.
Đột nhiên Hans Castorp giật thót mình, bực tức nhăn mặt. Một cánh cửa vừa đóng sập đánh rầm một cái, đó là cánh cửa phía trước mé bên trái dẫn thẳng ra tiền sảnh - ai đó đã để mặc cho nó sập vào khung cửa hoặc thậm chí cố tình dập lại sau lưng mình, và tiếng sập cửa là tiếng động mà Hans Castorp xưa nay ghét cay ghét đắng, ghét đào đất đổ đi. Có thể mối ác cảm này hình thành do nền giáo dục chàng được hưởng, cũng có thể do bẩm sinh, chỉ biết rằng, chàng không chịu nổi tiếng đóng cửa rầm rầm và sẵn sàng thượng cẳng tay hạ cẳng chân trừng phạt thủ phạm. Trong trường hợp này phần trên cánh cửa lại được ghép bằng nhiều mảnh kính nhỏ, và điều đó tăng thêm đáng kể hiệu ứng cú sốc: không phải chỉ có tiếng cửa sập đánh rầm vào khung mà còn tiếng rung loảng xoảng của kính. Mẹ kiếp, Hans Castorp điên tiết nghĩ thầm, thật vô giáo dục đến thế là cùng! Nhưng đúng vào lúc ấy cô thợ may vườn lại quay sang hỏi chuyện, nên chàng không có cơ hội quay ra nhìn xem thủ phạm là ai. Tuy nhiên khi chàng cất tiếng trả lời cô gái già thì nét mặt chàng rắn đanh lại và giữa cặp lông mày vàng sẫm hằn sâu mấy nếp nhăn.
Joachim hỏi, không biết các bác sĩ đã đi một vòng như thường lệ chưa. Các vị ấy đến rồi, có ai đó trả lời, nhưng lại đã đi ra đúng vào lúc hai anh em họ bước vào phòng. Thế thì ăn xong họ sẽ đi chứ không đợi nữa, Joachim bảo. Nội ngày hôm nay thể nào Hans Castorp cũng còn cơ hội ra mắt các vị kia. Nhưng vừa ra tới cửa thì hai anh em thiếu điều đâm sầm vào ông bác sĩ cố vấn cung đình Behrens khi ông này tung tăng sải từng bước dài vung vẩy đi vào, có bác sĩ Krokowski hộ tống đằng sau.
“Ối chà, đi đâu mà vội thế các quý ông!” Behrens bảo. “Sém tí thì sứt đầu mẻ trán rồi, thiệt hại sẽ không tránh khỏi ở cả hai phía.” Ông ta nói đặc sệt giọng đồng bằng Bắc Đức, cứ như cọp nhai bắp. “A, nhân vật mới đây mà”, ông ta tiếp tục nói oang oang trong lúc Joachim dập gót đứng nghiêm giới
https://thuviensach.vn
thiệu. “Hân hạnh”, và ông đưa tay cho chàng trai trẻ bắt, bàn tay to như một chiếc xẻng. Bác sĩ Behrens là người xương xẩu to khung, cao hơn bác sĩ Krokowski tới ba cái đầu, với mái tóc bạc trắng phơ, cần cổ vươn dài, cặp mắt xanh to lồi ra vằn tia máu và lúc nào cũng ngân ngấn nước, cái mũi hỉnh lên ngóng trời và hàng ria mép tỉa ngắn cánh cụp cánh xòe vì một bên môi trên cứ vô cớ vén lên. Nhận xét của Joachim về sắc mặt tím tái của ông ta được xác minh là đúng, hai bên má ông ta xanh như chàm đổ, làm cho cái đầu nổi lên đầy màu sắc trên nền chiếc áo choàng bác sĩ trắng tinh thắt đai ngang lưng và dài tới đầu gối, bên dưới thò ra ống quần kẻ sọc và hai bàn chân khổng lồ xỏ trong đôi giày da vàng đã cũ. Cả bác sĩ Krokowski cũng mặc đồng phục, có điều áo choàng của ông ta màu đen, may bằng lụa bóng theo kiểu áo sơ mi với cửa tay lồng thun bó lấy cườm tay, trang phục này tôn sự xanh xao của ông ta lên không ít. Ông này khinh khỉnh trong vai người phụ tá, một mực giữ im lặng không tham gia vào thủ tục chào hỏi, chỉ để lộ thái độ bất bình về vai trò thấp kém của mình qua cặp môi căng thẳng mím chặt.
“Anh em họ hử?” Ông cố vấn cung đình hỏi, cặp mắt xanh vằn tia máu chạy qua chạy lại theo hướng bàn tay chỉ từ người này sang người kia. “Em họ ông cũng định tuyên thệ theo trống trận?” Ông ta hỏi Joachim và hất đầu về phía Hans Castorp… “Xin Chúa phù hộ cho - sao? Chỉ nhìn thoáng là tôi biết ngay”, giờ thì ông ta nói thẳng với Hans Castorp, “là ông mang trong người cái chất dân sự, tế nhị văn minh chứ không xoang xoảng gươm đao như anh lính mới tò te kia. Tôi sẵn sàng cá là ông sẽ trở thành một bệnh nhân mẫu mực hơn anh họ ông nhiều. Chỉ cần nhìn thoáng tôi đã biết ngay người nào là một bệnh nhân tốt, vì muốn làm bệnh nhân cũng cần có năng khiếu, làm cái gì cũng cần năng khiếu, vậy mà cái tay chiến binh Myrmidon[16] này không có lấy một mẩu năng khiếu nào. Để tập đi đều bước thì tôi không đánh giá được, chứ để nằm bệnh viện thì quả thực y bất tài vô dụng. Ông có tưởng tượng được không, anh họ ông lúc nào cũng khăng khăng một mực đòi xuống núi! Chỉ có mỗi câu hỏi chừng nào được ra viện mà ông ta năn nỉ ỉ ôi hành hạ tôi, nóng lòng sốt ruột mong xuống dưới kia để làm bia đỡ đạn. Hăng tiết đến thế là cùng! Chẳng chịu tặng cho chúng tôi lấy
https://thuviensach.vn
nửa năm. Trong khi ở đây nên thơ thế này, nào ông thử nói xem, Ziemßen, có phải ở đây đẹp tuyệt trần không? Chà, em họ ông chắc chắn là biết đánh giá chúng tôi một cách xứng đáng hơn, ông ấy sẽ biết cách hưởng thụ. Không bao giờ sợ thiếu bóng hồng nhé, ở đây chúng tôi có những quý bà đẹp như tranh vẽ. Ít nhất là nhìn bên ngoài. Nhưng ông phải làm sao cho làn da khởi sắc lên một chút, cứ nghe lời tôi đi, nếu không ông sẽ thất bại thảm hại nơi các quý bà! Đã đành màu xanh là màu của cây đời, nhưng xanh rờn chắc chắn không phải màu sắc ưa nhìn trên mặt. Một trăm phần trăm là biểu hiện thiếu máu”, ông ta vừa nói vừa bước lại sát bên Hans Castorp và không đôi hồi gì đưa ngay ngón giữa với ngón trỏ vạch một bên mi mắt chàng xuống. “Tất nhiên là thiếu máu trầm trọng, tôi đã bảo mà. Ông biết sao không? Ông đã không dại dột chút nào khi chia tay Hamburg của ông một thời gian. Thật ra thì đó là một nơi rất đáng tuyên dương, cái thành phố Hamburg này; nó cung cấp cho chúng tôi một số lượng bệnh nhân đáng kể, nhờ khí hậu ẩm thấp đáng yêu ở đó. Nhưng nếu ông cho phép tôi đưa ra một lời khuyên hàm hồ - hoàn toàn sine pecunia[17], dĩ nhiên rồi, thì đây: ông hãy làm theo tất cả những gì anh họ ông phải làm, trong thời gian ông ở chơi với chúng tôi. Trong trường hợp của ông, không còn gì thông thái hơn là một thời gian điều dưỡng như bệnh nhân lao phổi nhẹ, và bổ sung thêm một ít protein. Ở chỗ chúng tôi quá trình trao đổi chất có phần khác thường… Mặc dù năng lượng tiêu tốn rất cao, nhưng cơ thể vẫn tích trữ thêm đạm… Còn ông thế nào, ông ngủ được không, Ziemßen? Được hử? Vậy thì alê hấp, đi dạo! Nhưng đừng lâu quá nửa giờ đồng hồ! Và sau đó đừng quên cắm điếu xì gà thủy ngân vào miệng! Và nhớ ghi lại kết quả, Ziemßen! Đấy là nhiệm vụ! Nhớ thực hiện với đầy đủ lương tâm và trách nhiệm! Thứ bảy này phải có biểu đồ đưa tôi xem! Và ông em họ cũng nên đo cùng. Đo thì không bao giờ có hại cả. Thôi xin chào, các quý ông! Chúc một ngày vui! Xin chào… Xin chào…” Và rồi ông ta tiếp tục lướt đi, hai cánh tay vung vẩy như bơi chèo, lòng bàn tay hướng về phía sau, vừa đi vừa ném sang bên phải bên trái câu hỏi liệu người ta ngủ có “được” không, và nhận được câu trả lời chung ở dạng khẳng định. Bác sĩ Krokowski đi hộ tống ở vị trí tập hậu.
https://thuviensach.vn
TRÒ ĐÙA, PHÉP XỨC DẦU THÁNH NIỀM VUI BỊ GIÁN ĐOẠN
“Ông ta vui tính quá nhỉ”, Hans Castorp lên tiếng, sau khi hai người niềm nở chào lão gác cổng khập khiễng đang ngồi soạn thư ở quầy tiếp tân và bước qua cổng viện ra ngoài. Cánh cổng sừng sững nhô cao hơn một tầng lầu, ở chính giữa mặt đông nam của dãy nhà dài quét vôi trắng xóa, bên trên chĩnh chện một cái tháp đồng hồ lợp thép tấm màu xám. Đi lối này người ta không qua khoảng vườn có hàng rào bao quanh mà bước ngay ra sườn núi dốc phủ thảm cỏ dày, đây đó điểm xuyết một cây tùng cao nhơ nhỡ và những cây thông móc câu cành cong queo la đà sát đất. Con đường mòn họ chọn - thực ra đó là con đường duy nhất, nếu không kể đường xe ngựa chạy xuống thung lũng - hơi thoai thoải dốc, tạt sang bên trái đi qua mặt sau viện an dưỡng, nhà bếp và khu hành chính với những thùng rác bằng sắt đứng cạnh chấn song bậc thang dẫn xuống hầm, theo hướng này một đỗi rồi đột ngột rẽ ngoặt sang bên phải hướng về phía sườn núi dốc đứng cây cối lưa thưa. Mặt đường rắn đanh nhuốm màu nâu đỏ vẫn còn âm ẩm sương đêm, hai bên lề đường rải rác những khối đá nằm lăn lóc. Hai anh em họ không sợ cô đơn trên con đường đi dạo. Những người khách an dưỡng cũng vừa kết thúc bữa điểm tâm lũ lượt bám theo gót họ, và có nhiều người đã trên đường quay về, đi thành nhiều nhóm ngược chiều rầm rập xuống dốc.
“Ông ấy vui tính ghê!”, Hans Castorp lặp lại. “Rất lộng ngôn, thật sướng tai khi nghe ông ta nói. ‘Điếu xì gà thủy ngân’ thay cho ‘cây nhiệt kế’, tuyệt thật, tớ hiểu ngay lập tức… Nhưng bây giờ tớ phải châm một điếu xì gà thật”, chàng bảo và dừng lại, “tớ không nhịn được nữa! Từ trưa hôm qua đến giờ tớ không hút rồi… Đợi chút xíu!” Và chàng rút từ trong cái túi da đựng thuốc trên khảm bạc mấy chữ cái đầu tên chàng ra một điếu Maria Mancini, một điếu xì gà thon thon loại hảo hạng, dẹp một cạnh đúng như sở thích của
https://thuviensach.vn
chàng, cắt bỏ đầu xì gà bằng một dụng cụ nhỏ mà sắc móc ở sợi dây đeo cái đồng hồ quả quít, bật cái hộp quẹt bỏ túi lên châm vào đầu bên kia rồi say sưa bập vài hơi cho điếu thuốc cháy đỏ. “Được rồi!” chàng bảo. “Giờ thì chúng mình có thể tiếp tục nhiệm vụ dạo chơi. Cậu không hăng lên mà hút một điếu hay sao?”
“Tớ có hút thuốc bao giờ đâu”, Joachim trả lời. “Tại sao lên đến đây tớ lại phải tập hút.”
“Tớ không thể hiểu nổi!” Hans Castorp bảo. “Tớ không hiểu tại sao người ta có thể không hút thuốc được, phải nói là cậu đã bỏ lỡ mất thú vui lớn nhất ở đời, một phần của cuộc sống! Mỗi khi thức giấc mở mắt ra tớ đã sung sướng vì ngày hôm ấy sẽ được hút thuốc, và trong khi ăn tớ đã hạnh phúc nghĩ đến điếu thuốc tráng miệng, nếu bảo tớ chỉ ăn để sau đấy được hút một điếu thì tất nhiên là quá cường điệu, nhưng không phải không có phần sự thật trong đó. Một ngày không có khói thuốc là một ngày nhạt nhẽo vô vị, hoàn toàn tối tăm ảm đạm đối với tớ, và nếu như buổi sáng tớ phải tự nhủ: ngày hôm nay mình không được hút thuốc, thì sợ rằng tớ sẽ không đủ can đảm để mà bò dậy, thật đấy, tớ sẽ nằm bẹp trên giường. Cậu thấy không: nếu người ta có một điếu xì gà cháy đỏ - tất nhiên nó không được hở để khí vào không đều hoặc là cuốn chặt đến nỗi khó rít, bị thế thì bực mình lắm - ý tớ nói là nếu người ta được hút một điếu xì gà loại tốt, người ta sẽ tự động cảm thấy yên tâm, không phải lo sợ điều gì. Giống hệt như khi nằm trên bãi biển, người ta biết rằng mình đang nằm trên bãi biển, phải không nào, và chẳng cần bận tâm đến điều gì khác, chẳng cần lo làm việc hay giải trí… Đội ơn Chúa khắp thế giới đều có người hút thuốc, cho dù có bị trôi dạt đến xó xỉnh nào cũng khỏi lo, theo như tớ được biết thì không đâu không có thuốc lá. Thậm chí các nhà thám hiểm Bắc cực cũng chuẩn bị một lượng thuốc lá dự trữ phong phú cho chuyến đi vất vả của mình, thực tình tớ rất xúc động và thông cảm khi đọc về điều đó. Bởi vì người ta có thể rơi vào những tình huống rất khó khăn, nói giả sử, tớ ở vào một hoàn cảnh tuyệt vọng; nhưng chừng nào tớ còn có xì gà để hút thì tớ vẫn chịu đựng được, tớ biết chắc là nó sẽ giúp tớ vượt qua.”
https://thuviensach.vn
“Theo tớ thì nghiện thuốc là một biểu hiện nhu nhược”, Joachim bảo, “vì cậu bị phụ thuộc vào nó. Behrens nói rất chí lý: cậu là người dân sự, dĩ nhiên ông ấy nói thế với ý khen ngợi, có điều cậu dân sự một cách vô phương cứu chữa, thế đấy. Nhưng xét cho cùng cậu là người mạnh khỏe và muốn làm gì cũng được”, chàng nói thêm và đôi mắt bỗng trở nên buồn rười rượi.
“Ừ, mạnh khỏe nhưng mà thiếu máu”, Hans Castorp bảo. “Ông ta vừa mới miêu tả nét mặt xanh xao của tớ một cách rất văn hoa. Thực ra ông ấy nói đúng, tự tớ cũng thấy, so với các cậu ở trên này thì tớ đúng là mặt xanh nanh vàng thật, ở nhà tớ không nhận ra điều đó. Mà ông ấy còn tử tế cho tớ mấy lời khuyên, hoàn toàn miễn phí, theo cách diễn đạt của ông ấy. Tớ rất sẵn lòng làm theo những lời khuyên đó và bắt chước nếp sinh hoạt của cậu, ở trên này tớ còn biết làm gì khác nữa, và nhân danh Chúa, nếu bổ sung thêm được protein thì cũng không có gì hại cả, mặc dù chắc cậu cũng đồng ý với tớ là nói như vậy nghe khiếp quá.”
Joachim vừa đi vừa húng hắng ho, quãng dốc cao có vẻ làm chàng đuối sức. Lúc cơn ho dồn lên đến lần thứ ba thì chàng đứng lại chau mày. “Cậu đi trước đi”, chàng bảo. Hans Castorp vội vàng đi vượt lên trước và không quay đầu nhìn lại. Rồi chàng dần dần chậm bước và cuối cùng gần như dừng hẳn lại đợi, vì chàng cảm thấy mình đã bỏ cách Joachim một đoạn khá xa. Nhưng chàng vẫn không ngoảnh lại.
Một nhóm khách an dưỡng cả hai giới tính đi ngược về phía chàng, lúc nãy chàng đã nhìn thấy họ đi dọc khúc đường bằng ở lưng chừng sườn núi, giờ họ bước dồn xuống dốc đi thẳng tới chỗ chàng, vừa đi vừa líu lo trò chuyện. Cả nhóm có khoảng sáu hay bảy người thuộc mọi lứa tuổi, một cô gái còn trẻ măng, vài người đã xồn xồn. Chàng đứng nghiêng đầu nhìn bọn họ, trong khi vẫn mải nghĩ đến Joachim. Tất cả nhóm đều để đầu trần và có nước da rám nắng, những người phụ nữ mặc áo sweater sặc sỡ đủ màu, đám đàn ông đa số không mặc áo khoác và thậm chí không cầm batoong, như thể họ chỉ định thọc tay vào túi đi tàn tàn vài bước trước cửa nhà. Vì đang xuống núi nên họ không phải khó nhọc chút nào, chỉ cần kìm bước để khỏi chuyển thành chạy và khỏi vấp, đúng ra là chỉ cần thả cho người theo đà lao xuống, nên bước đi của họ có một vẻ nhún nhảy rất vô tư, điều đó thể hiện
https://thuviensach.vn
rõ trên nét mặt và dáng điệu, đến nỗi người ta bất giác mong được nhập bọn với họ.
Giờ họ đã tới chỗ chàng, Hans Castorp có thể nhìn rõ mặt từng người. Không phải ai cũng có nước da nâu, hai người phụ nữ nổi bật lên vì làn da xanh bủng: một người dẹp lép như con mắm với gương mặt màu ngà voi, người kia lùn xủn và mập ú, mặt đầy tàn nhang. Tất cả đều giương mắt nhìn chàng với nụ cười đồng lõa tinh quái. Một cô gái trẻ dài thườn thượt mặc áo len xanh lá cây với mái tóc chải dối và cặp mắt đần độn lim dim đi sát qua mặt Hans Castorp, gần đến nỗi cánh tay suýt chạm vào người chàng. Vừa đi cô ta vừa huýt gió… Không, không thể thế được! Cô ta huýt sáo khi đi ngang qua chàng, nhưng không phải bằng miệng, vì cô ta không hề chúm mỏ mà ngược lại cặp môi vẫn mím chặt. Tiếng huýt gió thoát ra từ người cô ta, trong lúc cô ta chăm chăm nhìn chàng bằng cặp mắt lờ đờ nửa khép nửa mở, một tiếng huýt gió đặc biệt khó chịu, rít lên chói tai nhưng lại hơi âm u lùng nhùng và về cuối xìu dần, làm cho người ta nhớ đến tiếng con heo bong bóng cao su ở chợ phiên lúc đột ngột bị xì hết hơi bơm trong ruột và ủ rũ teo lại, tiếng động không hiểu bằng cách nào thoát ra từ ngực cô ta, và rồi cả nhóm đi qua chỗ chàng.
Hans Castorp đứng như trời trồng mắt tròn như cái chén. Rồi chàng hấp tấp quay phắt lại và hiểu ra rằng đó là một trò đùa của đám người kia, một kiểu họ ngầm thỏa thuận với nhau để chọc quê chàng, vì nhìn sau lưng những người đi xuống chàng thấy họ đang cười rung vai, và một cậu thiếu niên lùn tịt có cặp môi mọng vều lên, hai tay thọc trong túi quần nâng vạt áo khoác một cách khiếm nhã, thậm chí còn lén lút quay đầu lại nhìn chàng cười nhăn nhở… Joachim cũng vừa lên tới nơi. Chàng lên tiếng chào mấy người kia, theo thói quen khép sát hai gót chân và nghiêng người rất đỗi hào hoa, rồi bước lại gần đưa cặp mắt hiền hậu nhìn người em họ.
“Sao mặt cậu đần ra thế?” Chàng hỏi.
“Cô ta huýt sáo!” Hans Castorp ngơ ngác đáp. “Lúc đi ngang qua chỗ tớ cô ta huýt sáo bằng bụng mà không cần mở miệng, thế là thế nào?” “À”, Joachim vừa cười vừa phẩy tay. “Không phải bằng bụng, vớ vẩn. Đấy là con nhỏ Kleefeld, Hermine Kleefeld, nó biết huýt sáo bằng
https://thuviensach.vn
pneumothorax[18].”
“Bằng cái gì?” Hans Castorp hỏi lại. Chàng cảm thấy tinh thần bị kích động cao độ, bối rối dở cười dở khóc. Chàng nói thêm như phân trần: “Cậu không thể đòi hỏi tớ hiểu được cái thứ tiếng lóng chết tiệt ở đây.”
“Thôi mình đi tiếp chứ!” Joachim bảo. “Trong lúc đi tớ sẽ giải thích. Cậu đứng cứ như trời trồng ấy! Đấy là một biện pháp phẫu thuật, chắc cậu cũng đoán ra rồi, một can thiệp khá phổ biến ở đây. Behrens rất lành nghề trong vụ này… Nếu một lá phổi bị hư hại nặng, cậu hiểu không, trong khi lá bên kia còn khỏe hoặc là tương đối khỏe, thì người ta tìm cách cho lá phổi bệnh nghỉ một thời gian để nó hồi phục…
Tức là, người ta rạch bên mạn sườn ra, đâu đó chỗ này này, tớ không biết rõ chỗ nào, nhưng Behrens có thể nhắm mắt vẫn rạch đúng chỗ được. Rồi người ta sẽ bơm khí vào đó, khí nitơ, cậu hiểu không, và thế là lá phổi bã đậu ngừng hoạt động. Tất nhiên khí không đọng lại trong đó được lâu, khoảng nửa tháng người ta phải bơm thêm một lần, cậu phải hiểu là cứ đều đều như vậy. Và sau khoảng một năm hoặc lâu hơn, nếu mọi việc tốt đẹp cả thì lá phổi được nghỉ ngơi có thể hồi phục chức năng trở lại. Không phải lúc nào cũng được thế, dĩ nhiên rồi, đây là một can thiệp táo bạo. Nhưng nghe nói đã có nhiều ca điều trị rất thành công bằng pneumothorax. Tất cả những người cậu gặp vừa rồi đều chứa khí trơ trong phổi. Bà Iltis cũng ở trong số họ, đấy là cái bà nhiều tàn nhang, cả cô Levi nữa, cô bé ốm ròm như bộ xương, cậu có để ý không, cô ta nằm liệt giường khá lâu. Họ kết thân với nhau, vì tất nhiên pneumothorax là một số phận chung khiến người ta trở nên gắn bó, họ tự đặt tên cho nhóm mình là ‘Hội nửa phổi’, và được tất cả biết đến với cái tên này. Nhưng niềm tự hào của cả hội là Hermine Kleefeld, vì cô ta biết huýt sáo bằng pneumothorax, đấy là một năng khiếu trời phú cho cô ta, không phải ai có pneumothorax cũng làm được. Cô ta làm thế nào thì tớ không thể giải thích được, vì bản thân cô ta cũng chẳng biết cách diễn đạt cho rõ ràng. Chỉ biết là khi đi nhanh cô ta có thể xì hơi trong người thành tiếng rít như tiếng huýt sáo, và tất nhiên cô ta lợi dụng năng khiếu này để dọa cho mọi người giật mình, nhất là những bệnh nhân mới đến chưa biết
https://thuviensach.vn
đầu cua tai nheo ra sao. Nhưng tớ tin rằng kiểu đùa ấy làm cô ta bị mất khí nitơ khá nhanh, vì cứ tám ngày cô ta lại phải bơm thêm khí một lần.” Giờ thì Hans Castorp phá ra cười; sau khi nghe Joachim giải thích đầu đuôi hệ thần kinh căng như dây đàn của chàng đã ngả hẳn sang chiều hướng vui vẻ, và vừa tiếp tục đi chàng vừa đưa tay che trên mắt, đôi vai rung lên từng chặp theo tiếng cười dồn dập.
“Hội của họ có đăng ký chính thức không?” chàng hỏi, khó khăn lắm mới cất tiếng được; nhưng tràng cười bị nén lại làm cho giọng chàng lạc đi và hơi nức nở. “Họ có điều lệ hội không? Tiếc quá cậu lại không phải phẫu thuật để được vào hội, nếu cậu là hội viên thì tớ có thể được nhận là thành viên danh dự… hay là hội viên không chính thức… Cậu phải nói chuyện với Behrens để ông ấy cho phổi cậu ngừng hoạt động một thời gian. Biết đâu cậu sẽ huýt sáo được thì sao, nếu cố gắng có khi cũng học được đấy… Trong đời tớ chưa thấy cái gì tức cười đến thế!” chàng nói và thở ra một hơi dài. “Xin lỗi cậu, vì tớ nói đến bệnh tật bằng giọng cười cợt như thế, nhưng mà bản thân họ cũng tỏ ra cao hứng lắm cơ, những người bạn pneumo của cậu! Cứ nhìn cái cách họ đi xuống núi… Với lại, họ còn tự xưng là ‘Hội nửa phổi’ nữa chứ! Cô ta huýt gió vào mặt tớ nghe ‘chíuuu’, - hay thật! Nhưng mà đùa như thế thật quá quắt, này cậu, tại sao họ đùa giỡn quá hạn lệ như vậy, cậu có thể bảo cho tớ biết được không?”
Joachim cố tìm kiếm một câu trả lời. “Chúa ơi”, chàng bảo, “họ ở không quá mà… Ý tớ muốn nói, họ còn trẻ lắm, thời gian đối với họ chưa có ý nghĩa gì, nhưng cũng có thể họ chẳng còn sống được bao lâu. Việc gì phải mang bộ mặt ủ rũ cả ngày. Thỉnh thoảng tớ cũng nghĩ: bệnh tật và chết chóc thực ra chẳng có gì là nghiêm trọng cả mà chỉ là một dạng rong chơi, nghiêm trọng là cuộc đời ở dưới kia kìa. Tớ tin rằng cậu cứ ở đây lâu hơn chút nữa thì dần dần sẽ hiểu được thôi!”
“Tất nhiên rồi”, Hans Castorp bảo. “Tớ tin chắc là như vậy. Cuộc sống của các cậu trên này làm tớ tò mò lắm rồi, và một khi người ta muốn tìm hiểu thì quan tâm và thông cảm là chuyện đương nhiên… Nhưng sao hôm nay hút nó dở ẹc thế này!” chàng kinh ngạc nhìn điếu xì gà của mình. “Từ nãy tới giờ tớ cứ thấy người làm sao ấy, giờ mới phát hiện ra là tại hút Maria
https://thuviensach.vn
Mancini không ngon miệng như mọi khi. Hôm nay hút nó như đốt mùn cưa, thề với cậu, nó làm tớ phát buồn nôn. Thật không thể hiểu nổi! Lúc nãy tớ ăn điểm tâm nhiều lắm, nhưng nhất định không phải tại ăn nhiều, vì bình thường càng ăn no hút thuốc càng phải thấy ngon chứ. Theo cậu thì có phải tại tớ ngủ kém không? Có lẽ vì thế mà tớ bị mất thăng bằng chăng? Thật tình, thế này thì tớ đến phải vứt nó đi mất thôi!” chàng kêu lên sau khi thử kéo thêm một hơi nữa. “Càng hút lại càng thêm thất vọng; có cố nữa cũng chẳng ích gì.” Và sau một thoáng ngần ngừ chàng vứt điếu xì gà xuống sườn dốc giữa đám cây lá kim ướt nhẹp. “Cậu biết sao không?” chàng hỏi… “Tớ tin rằng tình trạng này liên quan đến cơn nóng bừng bừng chết tiệt trên mặt tớ từ sau khi ngủ dậy tới giờ. Quỷ tha ma bắt nó đi, tớ có cảm giác mặt tớ lúc nào cũng đỏ bừng như bị bắt quả tang làm điều gì xấu hổ… Hồi mới lên đây cậu có bị thế không?”
“Có”, Joachim đáp. “Lúc đầu tớ cũng thấy người kỳ lắm. Nhưng cậu đừng lo! Tớ đã bảo rằng hội nhập vào đời sống trên này không dễ tí nào mà. Rồi cậu cũng sẽ quen thôi. Nhìn kìa, chỗ cái ghế đằng kia đẹp không. Mình nghỉ chân ở đấy một lát rồi quay trở lại nhé, sắp tới giờ tớ phải nằm nghỉ rồi.”
Con đường đã trở nên bằng phẳng. Từ đây nó rẽ về hướng Phố Davos nằm cheo leo lưng chừng sườn núi, đằng sau những thân cây thông gầy mọc lơ thơ xiêu vẹo vì gió bấc đã thấy thấp thoáng nhà cửa nổi lên trắng xóa trong nắng sớm. Chiếc ghế gỗ mộc đơn sơ nơi họ ngồi nghỉ chân tựa lưng vào sườn núi dốc đứng. Bên cạnh đấy là một dòng nước chảy róc rách trong máng gỗ đổ xuống thung lũng.
Joachim muốn giới thiệu những ngọn núi đầy mây phủ của dãy Alps vây quanh mạn phía nam thung lũng, và vừa gọi tên từng đỉnh vừa đưa đầu cây gậy leo núi của mình lên chỉ. Nhưng Hans Castorp chỉ lơ đãng nhìn thoáng qua, chàng ngồi cúi người về phía trước đưa mũi cây batoong bịt bạc vẽ lăng nhăng lên cát và muốn biết những điều hoàn toàn khác.
“Tớ muốn hỏi cậu điều này”, chàng mở lời… “Trường hợp cô bệnh nhân ở phòng tớ ấy mà, cô ấy vừa mới qua đời lúc tớ đến đây. Thế từ khi cậu lên trên này đến giờ có nhiều ca tử vong không?”
https://thuviensach.vn
“Chắc chắn là không ít đâu”, Joachim trả lời. “Nhưng họ lo liệu rất kín đáo, cậu hiểu không, những người khác hoặc là không hay biết gì hoặc mãi sau này mới biết, mà cũng chỉ do tình cờ thôi. Người ta giữ kín bưng mỗi khi ai đó qua đời, để khỏi ảnh hưởng đến các bệnh nhân khác, nhất là các bà hơi tí thì lăn ra ngất. Nếu có người chết ở ngay bên cạnh cậu cũng chẳng thể nào ngờ được. Cỗ quan tài được chở đến từ sớm tinh mơ, khi cậu còn đang ngủ, và được đưa đi vào những lúc vắng người, ví dụ như giờ ăn chẳng hạn.”
“Hừm”, Hans Castorp bảo và tiếp tục vạch vạch xuống đất. “Tức là mọi việc diễn ra hoàn toàn đằng sau cánh gà sân khấu.”
“Ừ, nói thế cũng được. Nhưng mới đây, xem nào, khoảng tám tuần trước…”
“Thế thì làm sao còn gọi là mới đây được nữa”, Hans Castorp cảnh giác nhận xét giọng khô khốc.
“Hả? Ừ thì không mới nữa. Cậu bắt bẻ khiếp quá. Tớ chỉ áng chừng thôi mà. Vậy là trước đây ít lâu, tớ có dịp được nhìn vào đằng sau cánh gà sân khấu, hoàn toàn tình cờ thôi, tớ còn nhớ rõ như chuyện mới xảy ra ngày hôm nay. Đấy là trường hợp cô bé Hujus, Barbara Hujus, nó là người Công giáo nên có linh mục đến làm phép xức dầu, bí tích cuối cùng trước lúc lâm chung, cậu biết đấy. Lúc tớ đến đây cô bé vẫn còn chạy lăng xăng, vui đùa thả cửa nhiều khi quá lố nữa, đúng là một thiếu nữ tinh nghịch. Nhưng rồi nó xuống dốc rất nhanh, nằm liệt giường không dậy nổi, phòng nó cách phòng tớ ba gian, và cha mẹ nó tới, và rồi vị linh mục. Ông ta đến vào giờ uống trà buổi chiều, dãy phòng ở vắng tanh không còn một ai. Nhưng cậu tưởng tượng xem, hôm ấy tớ lại ngủ quên. Lúc nằm nghỉ sau bữa trưa tớ ngủ thiếp đi nên không nghe thấy tiếng cồng, và tỉnh dậy trễ mất mười lăm phút. Thế nên vào giờ phút quyết định tớ không ở dưới phòng ăn như tất cả mọi người mà lạc vào sau cánh gà sân khấu, theo cách nói của cậu, và lúc tớ đi dọc hành lang thì gặp họ đi ngược lại, mặc áo trùm đăng ten rước một cây thánh giá trên đầu, một người vác cây thánh giá mạ vàng treo đèn lồng đi trước như người ta vác cây xúc xắc trước đội kèn diễu binh.”
“Đừng có so sánh thế”, Hans Castorp nói giọng thoáng bất bình.
https://thuviensach.vn
“Thì tớ thấy giống thế. Cảnh ấy làm tớ bất giác phải liên tưởng đến cảnh kia. Nhưng cậu cứ bình tĩnh nghe tiếp đã. Thế là họ đi về phía tớ, bước phăm phăm, nếu tớ không nhầm thì ba người cả thảy, trước tiên là người đàn ông rước cây thánh giá, rồi đến vị linh mục đeo kính trễ xuống mũi, và một cậu thiếu niên xách bình hương. Vị linh mục ôm thánh thể đậy kín trước ngực, đầu cúi xuống một cách kính cẩn, đây chả là bí tích thiêng liêng nhất của họ mà.”
“Chính thế”, Hans Castorp bảo. “Chính vì thế nên tớ thấy lạ là cậu lại nói đến cây xúc xắc.”
“Hiểu rồi, hiểu rồi. Nhưng cứ đợi đấy, nếu cậu có mặt ở đó thì cậu cũng không biết tả thế nào khi nhớ lại đâu. Đại loại nó không khác gì một giấc mơ…”
“Giống ở khía cạnh nào?”
“Thế này này. Tớ luống cuống không biết cư xử ra sao trong tình huống ấy. Cũng không thể ngả mũ ra được vì tớ có đội mũ đâu…” “Cậu thấy chưa!” Hans Castorp sôi nổi ngắt lời Joachim lần nữa. “Cậu thấy chưa, đi đâu cũng phải có cái mũ trên đầu! Tớ đã thấy là các cậu trên này không ai đội mũ cả, nhưng người ta đội mũ không phải chỉ để che mưa nắng mà còn để ngả ra trong những tình huống bắt buộc. Rồi sao nữa?” “Tớ đứng dán lưng vào tường”, Joachim bảo, “chọn một tư thế nghiêm trang nhất, và hơi cúi đầu khi họ trờ tới chỗ tớ, đúng ngay trước cửa phòng cô bé Hujus, số hai mươi tám. Tớ cho rằng vị linh mục vui lòng thấy tớ cúi chào, ông ta đáp lại rất lịch sự và nhấc chiếc mũ tròn lên. Nhưng đồng thời họ cũng dừng cả lại, và cậu bé phụ lễ xách bình hương gõ cửa, vặn tay nắm mở cửa rồi đứng tránh ra nhường chỗ cho vị chủ tế bước vào. Cậu thử tưởng tượng xem lúc bấy giờ tớ kinh hoàng và bối rối đến mức độ nào! Vừa đúng lúc vị linh mục đặt chân bước qua ngưỡng cửa thì trong phòng vang lên một tiếng kêu thảm thiết, một tiếng gào mà trong đời chắc chắn cậu chưa phải nghe lần nào đâu, lặp lại ba bốn lần rồi chuyển thành tiếng thét không dứt, the thé như xé vải, từ cổ họng mở to hết cỡ, ahhh, trong đó có cả nỗi khiếp sợ và sự chống đối, hãi hùng không lời nào tả xiết, giữa chừng còn xen lẫn
https://thuviensach.vn
nức nở van xin, rồi đột nhiên tiếng kêu ấy nghẹt đi, trở nên âm u như bị đào sâu chôn chặt và vọng lên từ dưới lòng đất.”
Hans Castorp quay phắt sang nhìn người anh họ. “Đấy là cô bé Hujus à?” Chàng hỏi giọng xúc động. “Thế tại sao lại ‘vọng lên từ dưới lòng đất’?” “Nó chui vào trốn dưới tấm chăn!” Joachim trả lời. “Cậu có hình dung được tâm trạng tớ lúc bấy giờ thế nào không! Vị linh mục vẫn đứng sát bên cánh cửa lựa lời an ủi, tớ còn nhìn thấy ông ta, ông ấy cứ liên tục gật gật cái đầu trong lúc nói. Người vác thánh giá và người phụ lễ còn kẹt lại trên ngưỡng cửa chưa bước vào phòng được. Tớ có thể nhìn qua họ vào tận trong phòng. Đấy cũng là một phòng bệnh hệt như phòng cậu hay phòng tớ, cái giường kê sát bức tường bên trái cửa, phía chân giường có mấy người chắc là thân nhân và cha mẹ cô bé đứng nhìn xuống khuyên nhủ đống chăn thù lù, vì trên giường chỉ thấy cái chăn cuộn lại không ra hình thù gì, nhưng vẫn nghe được tiếng van xin thê thảm và phản đối dữ dội, lại còn đạp chân lia lịa nữa chứ.”
“Cậu bảo sao, cô ta còn đạp chân nữa à?”
“Nó đạp thục mạng! Nhưng cưỡng lại sao nổi, trước khi chết nó phải được nhận phép thánh. Ông linh mục bước về phía giường, rồi hai người đi theo cũng có thể bước vào phòng, và cửa được đóng lại. Nhưng trước đấy tớ vẫn còn kịp nhìn thấy cái đầu cô bé Hujus thò ra khỏi chăn trong một giây, mớ tóc vàng rối tung xõa xượi, trừng trừng nhìn vị linh mục bằng cặp mắt kinh hoàng mở to hết cỡ, con ngươi nhạt màu đến nỗi cặp mắt gần như trong suốt, rồi lại thụt vào dưới chăn trong tiếng nức nở.”
“Thế sao mãi bây giờ cậu mới kể cho tớ nghe?” Hans Castorp trách sau một lúc im lặng. “Tớ không hiểu tại sao cậu lại không kể chuyện này ngay từ tối hôm qua. Nhưng mà, lạy Chúa, cô bé phải còn nhiều sức lắm mới có thể chống cự được dữ dội như thế. Phải có sức mới kêu khóc giãy giụa được chứ. Lẽ ra người ta không nên mời linh mục đến chừng nào người bệnh còn chưa yếu hẳn.”
“Cô ta yếu lắm rồi”, Joachim đáp lại. “… Ôi, có bao nhiêu chuyện để kể; biết chọn cái nào bỏ cái nào… Thực ra cô bé đã yếu lắm rồi, nhưng nỗi sợ tiếp thêm sức lực cho nó. Nó sợ đến phát cuồng lên khi biết rằng mình sắp
https://thuviensach.vn
chết. Nó còn trẻ lắm, người ta phải thông cảm cho nó. Tệ cái là đôi khi có cả những nam bệnh nhân cũng đớn hèn đến mức không thể tha thứ được. Nhưng Behrens rất biết cách xử lý những trường hợp ấy, ông ấy chỉ cần nói một câu là đủ.”
“Câu gì?” Hans Castorp chau mày hỏi.
“’Ông có thôi ngay đi không!’ Behrens bảo thế”, Joachim trả lời. “Chí ít thì gần đây ông ấy vừa mới quát một bệnh nhân như vậy, chuyện loang ra từ miệng bà y tá trưởng, bà ta có mặt lúc bấy giờ và phải giúp ghì chặt người hấp hối. Đó là một ông tới phút chót còn bày ra một cảnh nhu nhược không thể tưởng tượng được và nhất định không chịu chết. Đến lúc Behrens quát lên: ‘Ông có thôi ngay đi không!’, và thế là ông kia lập tức ngoan ngoãn nằm im rồi lặng lẽ nhắm mắt xuôi tay.”
Hans Castorp đập tay xuống đùi và đổ vật người vào lưng ghế, mắt ngước lên trời.
“Ôi, nghe kìa, thật quá quắt!” chàng kêu lên. “Có đời thủa nào lại quát lên một cách đơn giản: ‘Ông có thôi ngay đi không!’ với một người sắp chết bao giờ! Thật không thể chấp nhận được! Một người sắp chết phải được kính trọng một cách đặc biệt chứ. Đâu thể ăn nói bỗ bã như vậy… Theo ý tớ giờ phút lâm chung là một khoảnh khắc thiêng liêng!”
“Thì tớ cũng có chối cãi đâu”, Joachim bảo. “Nhưng nếu ông kia hèn nhát đến mức bày ra những trò hề…”
“Không!” Hans Castorp cãi lại một cách quyết liệt, gay gắt quá mức cần thiết. “Đối với tớ một người sắp chết đáng trân trọng hơn nhiều so với một kẻ phàm phu tục tử chỉ biết nhởn nhơ cười cợt, kiếm tiền và ních cho căng bụng! Không thể nào…” và giọng chàng lạc đi một cách kỳ lạ. “Không thể nào tỉnh bơ bảo người ta…” và câu nói của chàng tắc nghẹn trong tràng cười khùng khục, tiếng cười giống như ngày hôm qua, dội lên từ trong gan ruột, làm rung chuyển cả người, mãi không chịu dứt khiến chàng hai mắt nhắm nghiền, nước mắt trào ra giàn giụa.
“Psss!” thình lình Joachim bấm tay chàng.”Yên nào!” anh chàng vừa thì thầm vừa kín đáo huých vào mạng sườn kẻ đang cười ngặt nghẽo. Hans Castorp gạt nước mắt nhìn lên.
https://thuviensach.vn
Trên đường có một người lạ đang đi từ phía trái lại, một người đàn ông nhỏ nhắn tóc nâu có bộ ria mép đen đỏm dáng vuốt lên cong vút, mặc quần màu sáng kẻ carô, vừa bước tới ông ta vừa cất tiếng chào Joachim bằng giọng nói rành rọt êm tai và đứng lại trước mặt họ, dáng điệu duyên dáng vô cùng, chân bắt tréo, tựa người lên cây gậy.
https://thuviensach.vn