🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nữ Bác Học Marie Curie
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục Lục
LỜI TÁC GIẢ
CHƯƠNG I
CHƯƠNG II
CHƯƠNG III
CHƯƠNG IV
CHƯƠNG V
CHƯƠNG VI
CHƯƠNG VII
CHƯƠNG XVIII
CHƯƠNG IX
CHƯƠNG X
CHƯƠNG XI
CHƯƠNG XII
CHƯƠNG XIII
CHƯƠNG XIV
CHƯƠNG XV
CHƯƠNG XVI
CHƯƠNG XVII
CHƯƠNG XIX
CHƯƠNG XX
CHƯƠNG XXI
CHƯƠNG XXII
CHƯƠNG XXIII
CHƯƠNG XXIV
CHƯƠNG XXV
CHƯƠNG XXVI
CHƯƠNG XXVII
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
LỜI GIỚI THIỆU
Trong những nhà bác học lớn của thế kỷ 20, thế kỷ của vật lý học, có một hình ảnh sáng ngời rất đỗi gần gũi chúng ta. Đó là Ma-ri Qui-ri, nữ bác học ngừơi Ba Lan, mà tên tuổi cùng với chồng là nhà vật lý Pháp Pi-e Qui-ri, gắn liền với một giai đoạn phát minh khoa học và phát triển kỹ thuật vô cùng rạng rỡ trong lịch sử văn minh loài người.
Một khám phá đảo lộn cả nền triết học và vật lý của mấy thế kỷ trước, là ánh bình minh của thời đại nguyên tử, trong điều kiện nghiên cứu thô sơ, tạm bợ “bốn năm ở một nhà xe” nghe như chuyện thần tiên lại do một phụ nữ rụt rè, thầm lặng, tính tình nếp sống chẳng khác gì chị em lao động bình dị, chất phác, nhưng tâm hồn, tư tưởng có tầm vóc thời đại.
Cuối thế kỷ 19, nước Ba Lan còn bị vùi dập dưới ách phong kiến phụ thuộc. Do tư tưởng trọng năm khinh nữ, thời đó phụ nữ không được vào Đại học, Ma-ri-a Xkhua-dốp-xka, con một gia đình nhà giáo yêu nước bị chèn ép, đã không chịu sống trói buộc, thấp hèn, ra sức học hỏi tích luỹ kiến thức với một lý tưởng quán xuyến cả cuộc đời say mê khoa học.
Em bé chưa đầy mười hai tuổi mồ côi mẹ, thời thơ ấu bị đau thương đè nén, càng yêu quê hương đất nước, yêu từ tiếng nói đến lịch sử dân tộc. Đang học trung học, mặc dầu bị cấm đoán Ma-ri-a Xkhua-dôp-xka vẫn lén lút tìm dự các buổi “Đại học di động”. Say sưa với những luồng tư tưởng tiến bộ hướng về tầng lớp lao động.
Cô gái mười bảy, hiếu thảo tận tình, muốn giúp chị có tiền ra học nước ngoài, đỡ đần cha và dành dụm thêm cho mình, đã đi tỉnh xa dạy tư tám năm ròng rã, gần gũi con em nông dân với một lòng yêu chân thành. Tha thiết khêu gợi cho các em thấy vẻ đẹp của tiếng nói mẹ đẻ và lịch sử đất nước Ba Lan. Cô tìm thấy ở các em “niềm vui lớn và nguồn an ủi chính” của mình, ở địa phương hẻo lánh, không người hướng dẫn, cô vẫn tự mình cố gắng học thêm.
Cô nữ sinh viên 25 tuổi, miệt mài sách vở, kham khổ ba năm để giành hai bằng cử nhân toán lý, đỗ nhất và nhì đồng thời trang bị cho mình một vốn kiến thức khoa học cơ bản vững chắc. Khi tốt nghiệp xong, cô đã
hoàn lại học bổng mình nhận trước kia, để số tiền này lại có thể giúp một bạn học nghèp khác.
Người mẹ hai con vẫn thi thạc sĩ đỗ đầu, lại chuẩn bị thi tiến sĩ. Bốn mươi lăm tháng trời vất vả, nghiên cứu các chất phóng xạ, cùng chồng tìm ra hai kim loại mới, và cả phương thức khai thác. Một thành công kỳ diệu đã đem lại cho hai vợ chồng giải Noben vật lý 1903, chung với một nhà bác học nổi tiếng đương thời.
Người quả phụ 38 tuổi, trong bước thảm khốc của đời mình đã nén đau thương, tần tảo lao động nuôi con và chăm sóc bố chồng già, lại đảm đương trọng trách thay chồng một cách xuất sắc, tiếp tục nghiên cứu, phát minh, đặt nền móng cho một khoa học và một công nghiệp mới, giật thêm một Noben về hoá học. Có thể cho con cái một gia tài lớn, nhưng bà đã đem lại cho nhà nước Pháp mảnh kim loại trị giá một triệu “francs” và đem tiền thưởng Noben cùng trang sức của mình chuyển thành quốc trái, với ý nghĩ đơn giản mà cao đẹp: “con cái nó phải tự kiếm sống là điều lành mạnh tất nhiên”. dạy dỗ con gái thành tài, sau này cũng nối nghiệp mẹ và cũng được giải Noben (1934).
Nữ bác học nổi tiếng vẫn giữ bản chất tốt đẹp của một người lao động, cần mẫn, giản dị, không hay nói đến mình, không thích tiền tài, danh vọng, chỉ say sưa nghiên cứu, chỉ muốn làm việc và cống hiến. Trong chếin tranh, ra tiền tuyến với chiếc xe điện quang tự thiết kế, bà lăn lộn khắp chiến trường cứu chữa thương binh, như một chiến sĩ, chẳng nề hà gian khổ, chẳng đòi hỏi đối xử riêng biệt. Nhìn rõ trách nhiệm của người trí thức “không thể đứng trên cuộc chiến đấu và sẽ phản lại sứ mệnh của mình, nếu không kiên trì bảo vệ văn minh và tự do tư tưởng”. Chính nhờ đi vào thực tế cuộc sống chiến đấu mà bà đã có thêm nhiều thành tựu độc đáo về khoa học ứng dụng và kỹ thuật thực hành. Như đã thấy được đây là cả một sự nghiệp quần chúng, bà đã đào tạo hàng trăm người làm công tác khoa học kỹ thuật là con em nhân dân lao động cho yêu cầu thời chiến. Càng tha thiết đến tiền đồ khoa học, bà càng quan tâm đến “những tài năng chưa phát triển, trong những tầng lớp xã hội ít được nâng đỡ” vì “một nông dân, một công dân, biết đâu chẳng là mầm mống một nhà văn, nhà bác học, hoạ sĩ?”
Nhà tri thức chân chính và từng trải đã thành một người có tài tổ chức và cổ vũ, ra sức vun đắp thế hệ trẻ với lòng hy sinh cao cả, vừa chỉ đạo chuyện môn, vừa hoạt động xã hội “chú trọng phát triển các học bổng quốc
tế về nghiên cứu khoa học, đấu tranh cho một nền văn hoá quốc tế vẫn tôn trọng các nền văn hoá dân tộc, bảo vệ nhân cách và tài năng bất cứ nơi đâu, củng cố sức mạnh tinh thần lớn lao của khoa học trên thế giới”.
Qua hình ảnh Ma-ri, người phụ nữ Ba Lan giàu tình cảm ước mơ, nhưng còn giàu nghị lực và ý chí hơn nữa, luôn luôn cưỡng lại số phận tàn khốc, vươn lên làm tròn nhiệm vụ mà cuộc sống và lịch sử đặt cho mình, ngay cả lúc đau khổ nhất, hàng vạn chị em phụ nữ Việt Nam có thể tìm thấy những nét về thời tuổi trẻ và đời sống tình cảm của mình, của những con người dũng cảm, bất khuất, trung hậu, đảm đang trên hai miền đất nước. Và kiều bào ta trên thế giới bấy lâu da diết nhớ quê cha đất tổ giờ đây thông cảm hơn bao giờ hết với người trí thức Ba Lan bốn chục năm xa quê hương vẫn không quên được tiếng mẹ đẻ và dòng sông Vit-xtuyn, vẫn tha thiết với vận mệnh và tiền đồ tổ quốc Ba Lan, đã tìm cách tặng thủ đô Vác-xô-vi của lòng mình một viện Ra-đi-om, để đền đáp ơn nghĩa chôn nhau cắt rốn vì đã gửi gấm cả cuộc đời hoạt động khoa học trên đất nước người.
Ngày nay trên đất nước đang lớn lên, có bao khó khăn, thử thách chúng ta càng được khích lệ và tin tưởng khi nghĩ đến điều kiện làm việc rất đỗi khó khăn mà lại thành công rực rỡ của Ma-ri Qui-ri. Chị em phụ nữ ta đều có thể học tập những điều bổ ích ở cuộc đời và sự nghiệp của Ma-ri Qui ri ở lòng say mê học hỏi nghiên cứu phát minh khoa học không vì tiếng hay danh vọng và đức tính cần cù, nhẫn nại, giản dị, thanh liêm.
Học tập giờ đây đâu chỉ là nhu cầu cuộc sống mà còn là phẩm chất đạo đức, là đấu tranh với thiên nhiên và bản thân khắc phục mọi trở ngại khó khăn do dốt nát sinh ra, nâng cao mại trình độ tiếp thu và tích luỹ kiến thức của dân tộc và thế giới nhằm giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề đời sống con người và xã hội, vì ngày mai hạnh phúc huy hoàng của nhân dân ta, dân tộc ta, Tổ quốc ta.
Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn “Nữ bác học Ma-ri Qui-ri” do con gái bà là E-vơ Qui-ri viết, nguyên bản tiếng Pháp đã được dịch ra 26 thứ tiếng. Một tác phẩm sinh động chân thật về một phụ nữ đại tài, một nhà khoa học chân chính .
Tháng 4 năm 1982
ĐÀO TRỌNG TỪ
MỤC LỤC
LỜI TÁC GIẢ
CHƯƠNG I
CHƯƠNG II
CHƯƠNG III
CHƯƠNG IV
CHƯƠNG V
CHƯƠNG VI
CHƯƠNG VII
CHƯƠNG XVIII
CHƯƠNG IX
CHƯƠNG X
CHƯƠNG XI
CHƯƠNG XII
CHƯƠNG XIII
CHƯƠNG XIV
CHƯƠNG XV
CHƯƠNG XVI
CHƯƠNG XVII
CHƯƠNG XVIII
CHƯƠNG XIX
CHƯƠNG XX
CHƯƠNG XXI
CHƯƠNG XXII
CHƯƠNG XXIII
CHƯƠNG XXIV
CHƯƠNG XXV
CHƯƠNG XXVI
CHƯƠNG XXVII
LỜI TÁC GIẢ
Cuộc đời của Ma-ri Qui-ri rất nhiều nét cao siêu đến nỗi người ta muốn kể lại như một câu chuyện cổ tích.
*
* *
Một phụ nữ thuộc một dân tộc bị áp bức, nghèo và đẹp. Theo tiếng gọi của một chí hướng mãnh liệt, bà rời tổ quốc Ba Lan của mình, đến Pa-ri học, sống những năm cô đơn túng bách.
Bà gặp Pi-e Qui-ri, cùng một thiên tư hiếm có. Hai người lấy nhau. Hạnh phúc của họ có một chất lượng duy nhất.
Qua nỗ lực kiên trì và vô vàn gian khổ, Ma-ri và Pi-e Qui-ri tìm ra một chất màu nhiệm: đó là nguyên tố Ra-đi. Phát minh này không chỉ khai sinh ra một khoa học mới và một triết học mới, nó còn mang đến cho loài người cách điều trị một căn bệnh khủng khiếp.
Giữa lúc vinh quang của hai nhà bác học lan khắp thế giới, tai ương đổ xuống đầu Ma-ri. Phút chốc, cái chết cướp đi của bà người bạn đời kì diệu.
Đau khổ và bệnh hoạn không sờn lòng, bà tiếp tục công việc đang tiến hành, phát triển một cách rực rỡ bộ môn khoa học do hai vợ chồng sáng lập ra.
Cho đến cuối đời, Ma-ri Qui-ri chỉ biết có cống hiến. Với thương binh, bà đã hiến dâng tất cả lòng tận tụy và sức khỏe của mình. Sau này bà dành toàn bộ kiến thức và thì giờ cho những sinh viên từ khắp năm châu đến học, được bà hết lòng khuyên răn, đào tạo thành những nhà bác học tương lai.
Xong sự nghiệp, kiệt sức, bà từ giã cuộc đời sau khi đã khước từ phú
quý và dửng dưng với danh vọng.
*
* *
Câu chuyện không khác gì truyền thuyết này, tôi cảm thấy có tội lỗi nếu đặt thêm vào dù chỉ là một điều trang trí nhỏ bé nhất. Mỗi giai đoạn được kể ra đây đều đã xác minh chắc chắn, mỗi lời chủ yếu là trung thực, cả đến màu sắc một chiếc áo. Sự việc đã xảy ra, lời lẽ được nói ra đúng như vậy.
Họ hàng bên mẹ tôi ở Ba Lan, nhất là dì ruột tôi là bà Du-xki, người chị thân thiết của mẹ tôi, đã cung cấp cho tôi những lá thư quý giá, và những kỷ niệm sống về tuổi niên thiếu của nhà nữ bác học. Viết về cuối đời của Ma-ri Qui-ri, tôi đã dựa vào giấy tờ riêng cùng những ghi chép vắn tắt của bà và những câu chuyện và thư từ của bạn bè người Pháp và người Ba Lan, những ký ức của chị tôi là I-ren Giô-li-ô Qui-ri và anh rể tôi là Phơ-rê-đê rich Giô-li-ô.
Mong rằng bạn đọc, qua những diễn biến nhất thời của một quãng đời, nhận rõ điều mà ở bà Qui-ri còn quý hơn cả sự nghiệp và cuộc sống nên tranh của bà: đó là tính kiên định, sự nỗ lực kiên trì, tất thắng của trí tuệ, lòng hy sinh của một con người đã biết cho tất cả mà không biết lấy một thứ gì, thậm chí nhận một thứ gì. Và sau cùng là tâm hồn mà không có gì – thành công xuất sắc hay hoạn nạn – làm vẩn đục được tính trong trắng tột bực.
Chính do tâm hồn như vậy mà Ma-ri Qui-ri đã không chút ngần ngại gạt xa những thuận lợi mà danh vọng vẫn đem lại cho những thiên tài chân chính.
Bà đã phải đau khổ vì thế giới đương thời cứ muốn bà đóng vai một nhân vật tiếng tăm. Con người vốn nghiêm khắc với mình và sống nhiều về nội tâm, đã không thể chọn thái độ thường đi đôi với danh vọng: thân mật, hòa nhã một cách máy móc, nghiêm nghị cố ý, khiêm tốn bề mặt.
Ma-ri Qui-ri không biết kiểu cách cư xử của những người danh tiếng. *
* *
Tôi sinh ra khi mẹ tôi đã 37 tuổi. Lớn lên, đủ trí khôn nhận xét, tôi thấy bà Qui-ri đã là một phụ nữ có tuổi, lừng lẫy. Thế nhưng chính “nhà bác học nổi tiếng” lại xa lạ với tôi hơn cả có lẽ vì Ma-ri Qui-ri không hề bận tâm với ý nghĩ rằng mình có danh vọng. Và tôi luôn luôn cảm thấy như vẫn sống với một nữ sinh viên nghèo dạt dào ước vọng tên là Ma-ri-a Xkhua-đốp-xka, từ rất lâu trước khi tôi ra đời.
Cho đến lúc thở hơi cuối cùng, Ma-ri vẫn giống người con gái đó. Một sự nghiệp lâu dài, vất vả, sáng chói đã không làm cho bà lớn hơn hoặc thấp kém, hóa thần thánh hoặc sa đọa. Và đến ngày cuối cùng, vẫn một vẻ dịu hiền, bướng bỉnh, dút dát và ham hiểu biết như thuở hàn vi.
Đối với một con người như vậy, lúc chết, giá có được nghi lễ linh đình, theo kiểu mà các chính phủ thường dành cho các vĩ nhân của họ thật là một điều phạm thánh, bất kính. Bà được an táng giản dị, lặng lẽ tại một nghĩa trang thôn quê[1], giữa hoa lá đồng nội, dường như cuộc sống vừa chấm dứt cũng bình dị như trăm nghìn cuộc sống khác…
*
* *
Ước gì tôi có khiếu viết văn để miêu tả người nữ sinh muôn thuở mà nhà bác học Anh-xtanh đã nói:
“Trong tất cả những danh nhân, bà Qui-ri là người duy nhất không bị vinh quang làm cho hư hỏng”.
Bà đã bước trên đường đời như một người ngoài cuộc, nguyên vẹn, hồn nhiên, gần như dửng dưng với số phận lạ lùng của mình.
E-VƠ QUI-RI
PHẦN THỨ NHẤT
CHƯƠNG I
“AN-CHIU”
Như mọi chủ nhật, trường trung học ở phố Nô-vô-lip-xki chìm đắm trong im lặng. Dưới tấm da mặt nhà có khắc mấy tiếng Nga “Trường Nam trung học”, cổng chính khóa chặt, hành lang toàn cột trông như một ngôi đền bỏ hoang. Cuộc sống đã rút khỏi cái công trình kiến trúc chạy dài, thấp, chỉ có một tầng gác này, khỏi những gian phòng sáng sủa, bàn kê hàng dọc, gỗ đen, mặt bàn xây xát đầy vết dao con khắc tên kỷ niệm, chỉ nghe thấy tiếng chuông chiều ở nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh thong thả gióng, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng xe bò lọc cọc hoặc vó ngựa uể oải của chiếc xe khách “đô-rốt sca” từ ngoài phố vọng vào. Phía trong hàng rào vây quanh sân trường, bốn cây tử đinh hương khẳng khiu, bụi bậm đang trổ hoa. Mùi hương ngào ngạt thường làm khách qua đường, mặc diện ngày chủ nhật, bất giác ngoảnh lại, ngạc nhiên. Chưa sang tháng sáu mà trời đã nóng. Ở Vác-xô-vi cái nóng cũng khắc nghiệt, thấm thía như cái rét.
Bầu không khí tĩnh mịch của ngày chủ nhật ấy đang bị khuấy đảo. Từ gian trái tầng dưới, nơi ở của ông Vla-đi-xoáp Xkhua-đốp-xki, giáo sư vật lý đồng thời là hiệu phó, vọng ra những tiếng động bí mật như búa đập không thành nhịp. Bỗng thấy xoảng một cái, một công trình xây dựng nào đó đổ nhào; tiếp theo là tiếng trẻ con hò la, the thé. Rồi lại tiếng khua.
Rồi những mệnh lệnh ngắn gọn, bằng tiếng Ba Lan:
- Hê-la ơi, tao hết đạn rồi!
- Cái tháp! Dô-dếp ngắm cái tháp!
- Ma-ni-a! Tránh ra!
- Ấy chớ! Em mang thỏi gỗ đến mà!
Lại ầm ầm, bao nhiêu thỏi gỗ vuông rơi tung tóe xuống sàn đánh bóng xi như lệnh vỡ: ngọn tháp không còn nữa. Tiếng hò hét càng loạn xạ. Đạn bay tới tấp, trúng đích.
Bãi chiến trường là một phòng rộng, vuông vắn, cửa sổ mở trông ra sân trường phía sau. Bốn chiếc giường con kê bốn góc. Bọn trẻ nhỏ từ năm đến chín tuổi rưỡi đang chơi trận giả, la hét inh ỏi. Chẳng là ông cậu, vốn thích chơi bài, đêm Nô-en có tặng mấy cháu bộ đồ chơi xếp gỗ này. Và chắc ông không ngờ được công dụng cuối cùng của nó. Vài ngày đầu, Dô-dếp, Brô-ni-a, Hê-la và Ma-ni-a còn ngoan ngoãn chơi xếp thành quách, cầu cống, nhà thờ theo mẫu vẽ trên hộp gỗ to. Nhưng rồi các mảnh gỗ ấy mau chóng đi theo số phận của chúng. Cột nhà bằng gỗ sến ngắn biến thành pháo, ô vuông thành đạn trái phá và mấy nhà kiến trúc tí hon đã nghiễm nhiên là những nguyên soái.
Dô-dếp đang nằm rạp xuống sàn, lấn dần tới và lần lượt đẩy khẩu pháo của mình về phía địch. Ngay giữa trận đánh gay go, nét mặt đứa trẻ khỏe mạnh trông vẫn nghiêm túc như hệt mọi viên tướng ra trận. Nó lớn tuổi hơn cả, sáng trí nhất trong bốn đứa trẻ, và cũng chỉ mình nó là con trai ở đây. Mấy đứa kia toàn con gái, ăn mặc như nhau, có viền xếp nếp trên bộ áo ngày chủ nhật, yếm màu nâu sẫm thêu hoa dây.
Phải nói rằng bọn con gái cũng cừ đây. Hê-la, đồng minh của Dô dếp, mắt long lên sòng sọc. Nó uất ức vì mới chỉ sáu tuổi rưỡi, không được ném những thanh gỗ xa hơn, mạnh hơn. Chao, giá nó cũng lên tám như Brô ni-a, cô bé múp míp, hồng hào, có mớ tóc hung cứng quật gió trong khi nó khoa chân múa tay chống đỡ cho đạo quân của mình đang dàn ở giữa hai cửa sổ.
Cạnh Brô-ni-a, một tiểu đội phó tí hon mặc yếm có hoa dây lon ton từ tốp quân này, sang tốp quân khác nhặt đạn, bận rộn, mặt mũi đỏ bừng môi khô lại vì hò hét và cười nhiều quá.
- Ma-ni-a!
Đang chạy, đứa bé sửng sốt dừng lại, buông rời vạt yếm nó đang ôm gọn vào ngực. Thỏi gỗ rơi loảng xoảng xuống sàn.
- Gì cơ? Chị Dô-sa?
Trong năm đứa con ông giáo, Dô-sa nhớn nhất. Tuy chưa đến mười hai tuổi, nhưng đối với 4 em, cô đã ra vẻ chững chạc. Tóc màu tro, hất về phía sau, xòa xuống ngang vai, mặt xinh xắn nhiệt tình, đôi mắt cũng màu
tro, mơ màng tuyệt đẹp.
- Mẹ bảo là đã chơi quá lâu rồi, phải nghỉ thôi.
- Nhưng Brô-ni-a còn cần đến em cơ mà. Em mang thỏi gỗ đến cho chị ấy.
- Mẹ gọi em ra với mẹ đấy.
Sau một giây phút lưỡng lự, Ma-ni-a cầm tay chị ung dung đi ra. Kể mới năm tuổi mà chơi đánh trận thì cũng mệt đấy, cô bé cũng nhọc rồi, chẳng phải là không muốn thôi. Có tiếng ngọt ngào, âu yếm từ buồng bên:
- Ma-ni-a!... Ma-ni-u-sa!... An-xi-u-pê-trô của mẹ đâu?
Ở Ba Lan, người ta ưa gọi nhau bằng những tên nựng nịu ấy.
Trong gia đình ông giáo, từ trước đến nay cô cả Xô-phi vẫn được gọi thân mật là Dô-sa, cô hai Brô-nhi-xoa-va là Brô-ni-a, Hê-lê-na thành Hê-la, còn Dô-dếp là Dô-sô. Nhưng có nhiều tên nhất là Ma-ni-a, cô út, yêu nhất nhà. Ma-ni-a là tên gọi thường ngày, Ma-ni-u-sa là gọi âu yếm, và từ khi còn đặt trong nôi, cô được cả nhà đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh: An-xi-u-pê trô. An-chiu bé nhỏ.
- Sao tóc con bù thế? Sao mặt con đỏ thế? An-chiu bé nhỏ của mẹ!
Hai bàn tay xanh xao, gầy guộc dịu dàng thắt lại dải yếm, vuốt ve những búp tóc quăn, để lộ ra gương mặt cương nghị của một nữ bác học vĩ đại tương lai. Dần dần, đứa bé trở lại yên tĩnh.
*
* *
Ma-ni-a rất yêu quý mẹ. Trên trái đất này, có lẽ chẳng ai xinh đẹp, dịu hiền, đoan trang bằng mẹ. Bà giáo là con gái đầu lòng của một gia đình khá giả ở nông thôn. Thân sinh là Fê-lích Bô-gu-xki, thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ thường gặp ở Ba Lan thời đó. Không đủ sống trên mảnh đất của mình, ông phải làm quản lý cho các nhà quý tộc khác giàu sang và có thế lực hơn. Trong sáu chị em, có lẽ bà giáo tính tình thăng bằng và sáng trí nhất, không
bị ảnh hưởng một kiểu Xla-vơ nào. Chẳng lập dị, không sôi nổi mà cũng không thái quá. Tốt nghiệp xong trường phố Phrê-ta ở phố Vác-xô-vi, được tiếp thụ một nền giáo dục ưu tú, bà quyết đi vào sư phạm, sau một thời gian dạy học, được cử làm hiệu trưởng. Năm 1860, khi giáo sư Xkhua-đốp-xki hỏi cưới, ông đã chọn được một người vợ hoàn toàn. Bà không có của hồi môn nhưng là con nhà giáo, mộ đạo, hoạt bát, có một nghề nghiệp chắc chắn và lại biết âm nhạc. Bà chơi dương cầm và hát những bài hát trữ tình thời ấy với một giọng say sưa, tuyệt diệu.
Bà rất đẹp. Bức ảnh hồi mới cưới cho ta thấy một khuôn mặt đều đặn, mái tóc dày óng mượt bện giản dị, đôi mắt xám có đuôi theo kiểu Ai Cập có cái nhìn dịu hiền, huyền ảo dưới cặp mày ngài.
Một cuộc hôn nhân nghe nói là “tương xứng”. Họ nhà trai cũng thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ mà thảm họa của nước Ba Lan thời đó làm cho sa sút, gốc tích ở Xkhua-đi, một vùng thôn trại cách Vác-xô-vi độ một trăm cây số. Nhiều gia đình thông gia với nhau cùng quê quán ở Xkhua-đi đã lấy tên là Xkhua-đốp-xki.
Nghề nghiệp tự nhiên của những hộ này là canh tác, trồng trọt. Gặp thời tao loạn, đất đai ngày càng cằn cỗi và phân tán dần. Đến thế kỷ 18, ông tổ trực tiếp của Vla-đi-xoáp Xkhua-đốp-xki có vài trăm mẫu ruộng, sống phong lưu nhàn hạ, đời con hãy còn là điền chủ sung túc nhưng đến Dô-dếp, thân sinh của ông giáo thì không thế nữa.
Muốn nâng cao thân phận bạc bẽo thấp hèn, và làm vinh dự cho cái tên mà ông tự hào, Vla-đi-xoáp hướng về đường học vấn. Sau nhiều năm lăn lộn với nghề mà các cuộc đảo chính và chiến tranh làm cho bi đát, ông được bổ nhậm làm hiệu trưởng trường Nam trung học một thành phố quan trọng là Lu-blin. Đó là người trí thức đầu tiên trong họ.
Hai gia đình Bô-gu-xki và Xkhua-đốp-xki đều đông anh em, một nhà sáu, một nhà bảy. Nhiều người làm ruộng, đi giáo học, một người là thẩm phán tòa án, một nữ đi tu và cũng có một vài nhân vật kì quặc. Hen-rich, một em trai của bà giáo là tay chơi bất trị, cứ tưởng mình tài giỏi về những chuyện phi thường, mạo hiểm. Và anh chàng Di-xoáp – em ông giáo – sống lông bông hưởng lạc, đang là sinh viên ở Pê-téc-bua[2], gặp cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan, đã đi lính, trong thời gian lánh nạn ở Tu-lu-dơ[3]đã từng làm thơ
bằng tiếng Prô- văng-xơ rồi trở về nước, làm quản lý văn khế ở các tỉnh, cuộc đời cứ luôn luôn phất rồi lại mạt.
Trong hai dòng họ, những tâm hồn mơ mộng, đắm đuối ở cạnh những tính tình điềm đạm, những hiền triết sống bên những nhà du hiệp.
Cha mẹ của Ma-ri Qui-ri là những người khôn ngoan. Vla-đi-xoáp noi gương bố, học hết đại học ở Pê-téc-bua, trở về Vác-xô-vi dạy toán và lý. Bà giáo mở trường nữ học có kí túc xá mà các nhà giàu sang trong thành phố đều cho con gái đến học. Gia đình ở phố Phrê-ta trên gác, sống ở đây tám năm trời. Mỗi buổi sáng khi thầy giáo bước chân qua cửa; nhìn ra sân, thầy thấy các bao lơn nhẹ nhàng như những tràng hoa giăng từ cửa sổ này đến cửa sổ nọ, thì mấy buồng phía trước đã rộn ràng tiếng cười nói của các cô học sinh đợi giờ học đầu tiên trong ngày.
Năm 1869, ông giáo được bổ nhiệm về dạy và làm hiệu phó trường Nam trung học phố Nô-vô-lip-xki, bà giáo phải thích nghi với sự thay đổi này. Không thể đến chỗ ở mới do chức vụ của chồng được thu xếp, đồng thời tiếp tục quản lý kí túc xá và chăm sóc con cho chu đáo. Bà đành nhường lại trường tư thục, lòng rất luyến tiếc, rời phố Phrê-ta, nơi trước đây ít lâu – ngày 7 tháng 9 năm 1867 – cô bé Ma-ni-a ra đời.
Ma-ni-a chưa hiểu nổi cái lý do khe khắt của những cử chỉ ấy và nỗi cô quạnh mà mẹ em đang giam hãm mình vào. Bà giáo lâm bệnh nặng. Triệu chứng lau phổi đầu tiên chớm nở ngay từ khi mới sinh Ma-ni-a cho đến nay đã năm năm rồi, khám và chữa rất nhiều, bệnh vẫn cứ phát triển. Người đàn bà ngoan đạo ấy rất can đảm, luôn luôn gọn gàng trong ăn mặc, bận rộn việc nội trợ, làm ra vẻ như là mình vẫn khỏe. Nhưng bà tự ràng buộc vào một khuôn khổ chặt chẽ: dùng thìa, bát riêng và không hôn hít các con. Mấy đứa trẻ chỉ biết phảng phất về căn bệnh nguy hiểm của mẹ: thỉnh thoảng lại một cơn ho khan chúng nghe thấy từ buồng bên, nét mặt rầu rĩ của ông giáo và một câu ngắn gần đây được thêm vào đoạn cầu nguyện buổi chiều: “Cầu chúa cho mẹ chúng ta khỏe lại”.
Người mẹ trẻ đứng dậy đẩy nhẹ bé Ma-ni-a cứ bám chặt lấy váy bà. - Ma-ni-u-sa, cho mẹ yên nào. Mẹ bận.
- Con ở đây được không? Con đọc một tí mẹ nhé?
- Mẹ thích con ra vườn. Ngoài kia trời đẹp quá.
Cứ nói đến đọc sách thì đôi má Ma-ni-a lại ửng hồng. Năm ngoái, Brô-ni-a ở thôn quê học chữ cái một mình thấy chán mới rủ bé chơi làm “cô giáo, học trò”. Trong mấy tuần, hai chị em xếp các chữ bằng bìa cắt, đặt lộn xộn. Rồi một buổi sáng, trong khi Brô-ni-a ê a đánh vần một bài rất dễ cho bố mẹ nghe, Ma-ni-a sốt ruột giằng lấy sách đọc một mạch hết câu đầu. Mới đầu nó thấy thích thú vì mọi người lắng nghe nên cứ kéo dài cái trò say sưa ấy. Nhưng bỗng nó thấy sợ hãi. Sự kinh ngạc lộ trên mặt ông bà Xkhua-đốp xki, còn Brô-ni-a thì nhăn nhó, phụng phịu. Nó bập bẹ vài câu lí nhí rồi bật tiếng khóc không nén được. Đứa trẻ xuất chúng giờ đây chỉ còn là một em bé bốn tuổi, đang nức nở, và nhắc đi nhắc lại rất thiểu não:
- Con xin lỗi… con không cố ý, chẳng phải lỗi con… chẳng phải tội của Brô-ni-a. Tại là dễ quá.
Tâm hồn trẻ thơ của nó chợt hiểu ra rằng có lẽ không bao giờ được tha tội vì đã tập đọc sớm thế.
Từ buổi sáng đáng ghi nhớ ấy, Ma-ni-a làm quen dần với các mặt chữ, và nếu không tiến bộ rõ rệt, đó là tại cha mẹ không bao giờ để em cầm đến quyển sách. Là những nhà sư phạm thận trọng, ông bà Xkhua-đốp-xki không muốn con học quá sớm; mỗi khi đứa bé giơ tay muốn lấy một trong những tập tranh có chữ to để quanh trong nhà thì lại được gợi ý: “Con chơi xếp gỗ nhá! Búp bê của con đâu rồi? Con hát cho mẹ nghe nào!”. Và như hôm nay: “Mẹ thích con ra vườn hơn”.
- Con đi tìm chị Dô-sa vậy
- Cũng được.
- Dô-sa!
Qua cái sân nhỏ hẹp nơi hằng ngày chúng vẫn chơi “đuổi bắt” và “bịt mắt bắt dê”, hai chị em cầm tay nhau đi dọc theo trường trung học, đến một cái vườn lớn, cửa gỗ mọt ọp ẹp. Giữa bốn bức tường, những thảm cỏ lưa thưa, những cây cao tù hãm thoảng một mùi đất, một hương vị đồng nội.
- Chị Dô-sa ơi! Bao giờ lại đi Dơ-vô-la đây?
- Sau tháng bảy mới đi cơ. Em còn nhớ Dơ-vô-la à?
Ma-ni-a có một trí nhớ lạ lùng, không quên cái gì hết. Cái thác nước mùa hè năm ngoái mấy chị em bì bõm hàng giờ, mò đất nặn “những bánh xà phòng” rồi đem phơi nắng trên một tấm ván ở một chỗ chỉ có chúng biết mà thôi, đứa nào đứa nấy váy và yếm bùn bê bết. Bảy tám đứa trẻ rủ nhau trèo lên cây chè già, đem theo cả cô bé có đôi tay quá yếu, đôi chân ngắn ngủn. Họ lấy những lá cải vừa lạnh vừa giòn, phủ lên những cành to và gói trong những lá cải khác, nào là quả dâu tây, củ cà rốt non mơn mởn, quả anh đào, để giấu trong hốc tường cho tươi. Lại nhớ đến làng Mác-ki nữa, cái kho lúa nóng khiếp, Dô-dếp vẫn đến học cửu chương, chúng chơi vùi Ma-ni-a dưới đống lúa. Còn bác Xkri-pốp-xki mỗi lần đánh xe ngựa qua, hay quất cái roi da nghe đến là vui! À, còn đàn ngựa của chú Xa-vi-ê nữa!
Bọn trẻ tỉnh thành ấy thường có những ngày hè say sưa như vậy. Họ hàng đông chỉ một nhánh ra ở thành phố. Tỉnh nào cũng có hai dòng họ Xkhua-đốp-xki và Bô-gu-xki làm ruộng, nhà cửa ở thôn quê tuy không rộng rãi lắm, nhưng cũng có đủ buồng để đón ông giáo cùng gia đình về nghỉ mát. Do đó mặc dù hoàn cảnh bố mẹ không lấy gì làm phong lưu lắm, Ma-ni-a chưa hề biết đến những nhà trọ tầm thường tại những nơi nghỉ mát bình dân ở Vác-xô-vi. Và cứ mùa hè, cô bé gia đình trí thức ấy lại trở thành một em gái thôn quê thật sự, đúng với bản chất sâu xa của dòng họ.
- Chúng mình chạy thi nào… chị cuộc là sẽ đến cuối vườn trước Ma ni-a đấy. – Dô-sa vui vẻ thốt lên với giọng chững chạc của một chị cả.
- Em chả muốn chạy đâu. Em muốn nghe kể chuyện cơ.
Không ai biết kể chuyện như Dô-sa, cả ông giáo và bà giáo, trí tưởng tượng của cô thêm thắt nhiều chi tiết li kì vào những giai thoại, những chuyện thần tiên như những khúc biến tấu tài tình của một người chơi đàn rất giỏi. Dô-sa còn tự nghĩ ra những đoạn hát kịch ngắn và đóng rất sôi nổi trước con mắt ngạc nhiên của các em. Chúng hoàn toàn bị chinh phục bởi tài tác giả và nghệ sĩ. Ma-ni-a lúc thì cười ngặt nghẽo, khi thì run bắn lên khi nghe những chuyện hoang đường quái đản mà tuổi lên năm của nó khó mà theo dõi liên tục.
Hai chị em quay về nhà. Càng đến gần trường, Dô-sa càng hạ giọng, và tự kiềm chế. Câu chuyện còn đang nghĩ và kể dở, cô bỗng dừng lại. Đi qua gian nhà phía tay phải có cửa sổ treo rèm cứng, hai đứa bé im bặt.
Sau những rèm cửa ấy, có một con người mà gia đình ông giáo rất ghét mà cũng rất sợ, đó là viên hiệu trưởng I-van-nốp, đại diện của chính phủ Sa hoàng trong trường này.
*
* *
Năm 1872. Còn ai khổ nhục bằng người dân Ba Lan “thuộc Nga” ở vào hàng ngũ trí thức đa cảm, mà thần kinh đã căng thẳng, và đầu óc cách mạng đang âm ỉ, họ cay đắng, nhức nhối hơn mọi tầng lớp khác vì ách đô hộ đè nặng trên đầu.
Đúng một thế kỷ rồi, những vua chúa tàn bạo, lân bang đáng sợ của một nước Ba Lan suy nhược đã quyết định bóp chết nước này. Đức, Nga, Áo đã ba lần chia đi cắt lại mảnh đất đau thương đó. Người dân Ba Lan đã đứng lên chống lại bọn đô hộ. Mỗi lần thất bại, cái thòng lọng buộc vào cổ họ lại càng thắt chặt. Sau khi cuộc đảo chính oanh liệt năm 1831 không thành, Sa hoàng Ni-cô-lai I đã ra lệnh trừng trị khốc liệt: hàng loạt người yêu nước bị tù đày, tịch thu tài sản.
Năm 1863, lại một lần dấy lên, lại một lần bị dìm trong máu. Nghĩa quân chỉ có đinh ba, lưỡi liềm và gậy gộc chống với súng đạn của Sa hoàng. Mười tám tháng chiến đấu thất bại, ngoài thành quách Vác-xô-vi dựng lên năm giá treo cổ, thây bao người yêu nước vật vờ trước gió.
Sau thảm họa đó, bọn thống trị tìm mọi cách khuất phục nước Ba Lan không cam tâm chịu chết. Từng đoàn tù chính trị tay cùm chân xích bị áp giải đi Xi-bê-ri, đến những nơi quanh năm phủ tuyết. Hàng loạt người khác kéo vào Ba Lan để Nga hóa vùng này. Đó là những cảnh sát, giáo sư, viên chức, mà nhiệm vụ là do thám dân Ba Lan, khủng bố tôn giáo của họ, cấm đoán sách báo tiến bộ, dần dần xóa bỏ tiếng nói của nước này, tóm lại, tiêu diệt linh hồn một dân tộc.
Những cuộc đề kháng được tổ chức ngay ở hàng ngũ bên kia. Kinh nghiệm xương máu cho người Ba Lan thấy rõ ràng lúc đó, thời cơ chưa đến để giành lại tự do bằng vũ lực. Họ buộc lòng phải đợi và chống lại những nguy cơ của sự chờ đợi là nhu nhược và chán nản.
Thế là cuộc chiến đấu thay đổi trận địa. Những anh hùng giờ đây không còn là những chiến sĩ chỉ có liềm hái trong tay xông vào đám quân Cô-dắc và ngã xuống, miệng hô như nhân vật Lu-i Mác-buyt nổi tiếng: “Sung sướng thay được chết cho Tổ quốc ta!” mà là những trí thức, những nghệ sĩ, nhà tu hành, thầy giáo – những người quyết định tinh thần của thế hệ mới. Sự dũng cảm của họ là cố nén lòng, giấu những ý nghĩ tình cảm của mình, chịu nhẫn nhục bám lấy những vị trí mà Sa hoàng còn thí cho họ để từ đó, có thể bí mật đào tạo lớp trẻ, hướng dẫn đồng bào.
Thế là trong mỗi trường trung học ở Ba Lan, thường có mâu thuẫn sâu sắc giữa những người chiến bại và những kẻ chiến thắng, những giáo sư bị chèn ép và những hiệu trưởng do thám, những Xkhua-đốp-xki và những I va-nốp, dưới bề mặt lịch thiệp giả tạo.
Đặc biệt đáng ghét là tên I-va-nốp. Hắn không một chút thương xót những người làm việc dưới quyền bị bắt buộc phải dạy trẻ nước mình bằng tiếng Nga. Đương ngọt ngào, đường mật, hắn có thể trở mặt ngay, văng tục cục cằn, thô lỗ. Tuy dốt đặc cán mai, hắn vẫn soi mói xem lại bài làm của các học sinh ngoại trú để bới tìm “những cách nói Ba Lan”. Giữa I-va-nốp và ông Xkhua-đốp-xki quan hệ trở nên lạnh nhạt như băng giá kể từ ngày ông giáo, muốn bênh vực học trò, đã bình tĩnh nói thẳng vào mặt hắn: “Thưa ông I-va-nốp, em bé này chẳng qua chỉ sơ ý nên mới viết lỗi. Bản thân ông còn có thể viết tiếng Nga sai, và rất nhiều lần nữa là khác. Tôi chắc rằng cũng như những học sinh của tôi, hẳn ông không cố ý…”
Dô-sa và Ma-ni-a đi chơi về, bước vào phòng ông giáo, thấy bố mẹ đang nói chuyện về I-va-nốp. Ông Xkhua-đốp-xki khẽ bảo vợ:
- Bà biết không, tuần trước, ở nhà thờ, bọn học sinh năm thứ hai tổ chức một buổi cầu nguyện “cho mong muốn tha thiết nhất của họ được toại nguyện”. Chúng góp tiền với nhau để trả phí tổn và khăng khăng không cho cha xứ biết điều mong muốn ấy là gì. Thế mà hôm qua, thằng Ba-đin-xki thú hết với tôi: “Bọn con trai được tin là con gái tên I-va-nốp bị thương hàn, vì căm ghét hắn mà chúng cầu kinh cho con bé chết đi”. Cha cố mà biết điều này thì hắn phát điên lên vì đã vô tình nhận một trách nhiệm trọng đại như vậy.
Ông giáo tỏ vẻ thích thú về chuyện đó, nhưng bà giáo vốn ngoan đạo nên không cười. Bà lúi húi với công việc đang làm, một công việc khá vất
vả: tay dao, tay dùi, bà khâu giầy. Nào người mẹ tần tảo ấy có nề hà một việc gì. Từ dạo sinh nở và bệnh tật giữ chân ở nhà, bà đã học nghề đóng giầy và giờ đây, những đôi giầy da mà đàn con đi mòn như phá chỉ tốn tiền da mà thôi. Cuộc sống chẳng dễ dàng chút nào…
- Đôi này khâu cho con đấy, An-chiu à. Con xem, sẽ rất đẹp.
Ma-ni-a chăm chú nhìn đôi bài tay dài cắt đế, rút sợi dây nhớp nháp. Bên cạnh, ông giáo ngồi thoải mái trong cái ghế bành ông ưng ngồi nhất… chao, giờ mà trèo lên lòng bố thì thích nhỉ, tháo cái nơ bố thắt rất cẩn thận ở cổ áo, đùa nghịch bộ râu màu hung trên khuôn mặt điềm đạm đang nở một nụ cười hiền hậu…
Chuyện người lớn nghe chán lắm! Chỉ những I-va-nốp… cảnh sát… Sa hoàng… đi đày… âm mưu chống đối… Xi-bê-ri… Những tiếng ấy vẫn rì rầm bên tai Ma-ni-a kể từ khi mới lọt lòng, như bao hàm một ý nghĩ đáng sợ. Tự nhiên, đứa bé lảng ra xa, sau này nó sẽ hiểu.
Rời chỗ bố mẹ đang trò chuyện, giọng nói thì thầm đầy yêu thương, xen lẫn tiếng cắt da xoèn xoẹt và tiếng búa đóng đinh lách cách, Ma-ni-a tha thẩn trong phòng để tâm hồn chạy theo những chuyện ngây thơ.
Ma-ni-a thích nhất phòng làm việc này mà nó thấy là đẹp hơn cả, thú vị hơn cả trong nhà, một cái bàn giấy kiểu Pháp, rộng thênh thang bằng gỗ đào hoa tâm, bộ ghế bành thời Phục hưng bọc nhung đỏ làm cho lòng em tràn đầy trân trọng. Sao những đồ đạc này sạch sẽ thế, bóng loáng thế! Sau này, khi đến tuổi đi học, Ma-ni-a sẽ được ngồi chỗ đằng đầu cái bàn giấy đồ sộ rất nhiều ngăn kéo của ông giáo mà cứ mỗi buổi trưa, bọn trẻ quây quần xung quanh để làm bài.
Bức họa Đức giám mục nghiêm trang đứng giữa khung mạ vàng treo ở tường cuối buồng – mà trong nhà, chỉ trong nhà thôi, bảo là của họa sĩ Ti tiêng[4]– không làm Ma-ni-a chú ý bằng cái đồng hồ đá cẩm thạch vân xanh, bóng loáng đặt trên mặt bàn giấy và chiếc ghế đẩu do một người anh họ mang từ Pa-lec-mơ về năm ngoái. Mặt ghế là một bàn cờ mà mỗi ô làm bằng một mẩu đá hoa khác nhau.
Có một cái giá đặt chiếc chén sứ Xe-vrơ màu xanh lơ trong vẽ chân dung vua Lu-i thứ XVIII trông mặt rất hiền, nhưng vì bố mẹ cứ luôn nhắc là
không được sờ vào thành thử Ma-ni-a đâm ra sợ. Em cứ đi tránh cái giá rồi dừng lại trước những đồ vật mà em thích nhất. Đó là cái phong vũ biểu kim vàng, nền trắng trông rất nổi, ông giáo thường vặn lại và lau chùi rất đều đặn vào những ngày nhất định, trước những cặp mắt chăm chú của đàn con. Rồi đến cái tủ kính nhiều ngăn đựng bao nhiêu là thứ kỳ lạ và hấp dẫn: nào là ống thủy tinh, chiếc cân bé nhỏ, mẩu quặng và có cả một cái điện nghiệm có lá bằng vàng. Trước kia, ông giáo thường mang các đồ lề ấy đến lớp để giảng bài nhưng từ ngày có lệnh giảm bớt những giờ khoa học thì cửa tủ luôn luôn đóng chặt.
Ma-ni-a chưa hiểu được mấy thứ đồ chơi mê li đó dùng để làm gì. Một hôm, em đang kiễng chân ngắm nghía, mồm há hốc ra, thì ông giáo nói: “Đó là những dụng cụ vật lý”.
Cái tên nghe mới kỳ lạ.
Em không quên – Ma-ni-a có hề quên cái gì bao giờ - và nhân lúc đang vui, em cứ nhắc lại mãi mấy chữ đó, vừa đi vừa hát.
CHƯƠNG II
NHỮNG NGÀY ĐEN TỐI
- Ma-ri Xkhua-đốp-xka.
- Có tôi.
- Em hãy nói về Xta-ni-xlat O-gut-xtơ.
- Năm 1764, Xta-ni-xlat O-gut-xtơ Pô-ni-a-tốp-xki lên làm vua nước Ba Lan. Người rất thông minh, giàu kiến thức, là bạn của văn nghệ sĩ. Người hiểu thấu các tệ nạn làm suy yếu nước nhà và muốn tìm phương cứu chữa. Tiếc rằng Người đã thiếu can đảm…
Em học sinh đứng trong hàng ghế thứ ba, gần cửa sổ cao trông ra những thảm cỏ phủ tuyết của công viên Xắc-xơ đang đọc bài bằng một giọng dễ thương, vững vàng. Em trông không khác các bạn mấy trong bộ đồng phục ở ký túc xá may bằng thứ len mỏng màu lơ tím, khuy sắt. Cổ cồn trắng là thẳng đứng làm cô bé lên mười trông như rụt cổ. Đâu rồi những búp tóc quăn luôn rối bời của bé An-chiu xưa kia? Một mớ tóc bím quá chặt buộc bằng một cái dải vải bé, kéo bộ tóc quăn ra sau hai tai nhỏ xinh xắn làm cho khuôn mặt cương nghị hóa ra tầm thường. Một mớ tóc bím khác dày hơn cũng đã thay những “búp kiểu ăng-lê” của Hê-la, chị của Ma-ni-a ngồi ở bàn bên. Theo nội quy của trường tư thục Xi-coóc-ca, ăn mặc phải chỉnh tề, tóc chải nghiêm túc.
Cô giáo cũng chẳng diêm dúa gì hơn. Vả lại, với chiếc áo lụa đen, cổ cồn không theo thời trang, cô Tu-pac-xca chẳng có gì là đẹp. Mặt thô và xấu, được cái dễ thương. Các em thường gọi thân mật là cô Tup-sa. Cô dạy toán và sử, đồng thời còn làm giám thị, thỉnh thoảng vẫn phải nghiêm khắc với tính tình phóng khoáng và ngang bướng của “con bé Xkhua-đốp-xka”.
Tuy thế nhưng cô nhìn Ma-ni-a bằng ánh mắt âu yếm. Làm sao không tự hào khi có một học trò xuất sắc như vậy. Ma-ni-a kém các bạn hai tuổi, và đối với em, hình như không có gì là khó. Môn nào cũng nhất, toán, sử, văn, đều nhất, nhất cả tiếng Pháp, tiếng Đức và kinh bổn.
Cả lớp im lặng như tờ. Một cái gì hơn cả sự lặng lẽ. Bài Sử mới rồi tạo ra một không khí say sưa tha thiết. Hai mươi nhăm tâm hồn yêu nước ngây thơ, nồng nàn, hai mươi nhăm cặp mắt bừng sáng cùng vẻ mặt khắc khổ của cô giáo trẻ ánh lên một niềm hào hứng nghiêm nghị.
Ma-ni-a nói đến một nhà vua đã mất từ bao nhiêu năm, giọng chan chứa nhiệt tình.
- Tiếc rằng vua đã thiếu can đảm.
Từ cô giáo ít tươi cười đến các học trò nhỏ quá nghiêm túc học lịch sử Ba Lan bằng tiếng mẹ đẻ, lớp học có vẻ như đang làm điều gì mờ ám.
Họ bỗng run lên, không khác gì những người âm mưu thật sự: từ ngoài thềm, vừa có tiếng chuông điện rung kín đáo.
Hai tiếng dài, hai tiếng ngắn…
Một cảnh nhốn nháo hồi hộp nhưng lặng lẽ tức khắc diễn ra. Cô Tup sa đứng phắt dậy, thu vội sách vở tản mạn. Các quyển sách và vở viết bằng tiếng Ba Lan trên các bàn học sinh cũng được những bàn tay nhanh nhẹn vơ hết và chồng vào các tạp dề của năm học sinh. Họ biến thoắt sau cánh cửa thông sang buồng ngủ nội trú. Có tiếng xô ghế, mở nắp và đóng nắp nhẹ. Năm cô bé thở chẳng ra hơi quay về chỗ. Cửa phòng ngoài chầm chậm mở.
Lão Hoóc-no-be, thanh tra các ký túc xá của thành phố Vác-xô-vi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Người lão bó chặt trong bộ đồng phục đẹp màu vàng, áo xanh lơ khuy bóng loáng. Thân hình nặng nề, tóc húi ngắn, mặt béo phị, mắt rất sâu sau đôi kính gọng vàng.
Hắn nhìn học sinh không nói một lời. Cô hiệu trưởng Xi-coóc-ca đi theo, đứng cạnh hắn, cũng nhìn các em – ngoài mặt thản nhiên nhưng trong lòng lo sợ bằng chừng nào. Hôm nay, không hiểu sao khoảng cách thời gian quá ngắn. Ngoài cổng vừa mới bấm chuông báo hiệu Hoóc-no-be đã đi trước người hướng dẫn, bước lên thềm, vào trong lớp. Trời, không biết mọi việc có đâu vào đấy không?
Đâu vào đấy cả. Hai mươi nhăm em gái nhỏ đang lúi húi học khâu, ngón tay lồng trong đê, tập thùa khuyết trên những mảnh vải vuông xơ mép.
Kéo và chỉ để bừa ra trong các ngăn bàn rỗng. Cô giáo ngồi trên bục mặt đỏ gay, gân trán hơi nổi, chưng ra một quyển sách mở in bằng chữ “chính thống”.
- Thưa ngài thanh tra, các em có hai giờ nữ công mỗi tuần. Cô hiệu trưởng khoan thai nói bằng tiếng Nga.
Hoóc-no-be bước tới chỗ cô giáo:
- Cô vừa đọc to quyển gì đấy?
- Truyện cổ tích kri-lốp. Hôm nay chúng tôi mới bắt đầu. - Giọng cô Tup-sa thản nhiên và đôi má cô cũng đã trở lại sắc thái bình thường.
Lơ đãng Hoóc-no-be mở một ngăn bàn gần nhất. Chẳng thấy gì bên trong. Không một quyển sách, một quyển vở.
Các em cẩn thận đính xong mũi khâu và cái kim vào vải rồi xếp công việc lại ngồi khoanh tay, im lặng, tất cả đều giống nhau trong trong bộ đồng phục màu sẫm và cổ cồn trắng toát. Hai mươi lăm khuôn mặt trẻ thơ ấy bỗng già đi, với một vẻ kín đáo che giấu nỗi sợ hãi, trí mưu mẹo, lòng căm ghét.
Hoóc-no-be nhận cái ghế Tup-sa trao cho, nặng nề ngồi xuống: - Cô gọi cho tôi một học sinh.
Ma-ni-a ngồi bàn thứ ba tự nhiên quay mặt ra cửa sổ, nét mặt đăm đăm. Lòng thầm cầu xin: “Lạy Trời, đừng gọi tôi! Đừng, đừng gọi tôi!”
Nhưng lại chắc chắn thể nào mình cũng sẽ được gọi. Đã thành lệ rồi, mỗi lần có thanh tra chính quốc tới hỏi vấn đáp, bao giờ cô giáo cũng gọi em học sinh thông thái nhất lớp và tiếng Nga rất giỏi.
Nghe gọi tên mình, Ma-ni-a đứng dậy. Em thấy nóng bừng à không, lạnh toát cả người. Và thẹn đến chín dừ, cổ họng như tắc lại.
- Đọc kinh. - Hoóc-no-be buông một tiếng, dửng dưng chán chường.
Ma-ni-a đọc một mạch bài kinh “Đức Cha của chúng ta” với một giọng đều đều. Sa hoàng quả đã không tìm được cách làm nhục quái ác hơn là bắt các trẻ em Ba Lan hằng ngày đọc kinh Thiên chúa giáo bằng tiếng
Nga! Một mặt thì làm như tôn trọng tín ngưỡng của các em nhưng đồng thời lại thóa mạ điều các em tôn kính nhất.
Lại im lặng.
- Các Sa hoàng nào trị vì trên đất thánh Nga sau Ca-tơ-rin II? - Ca-tơ-rin II, Pôn I, A-léc-xang I, Ni-cô-lai I, A-léc-xang II.
Lão thanh tra tỏ vẻ bằng lòng. Con bé có trí nhớ tốt. Và giọng nói tiếng Nga mới hay làm sao! Cứ y như đẻ ở Pê-téc-bua vậy.
- Nói cho ta nghe tên và chức tước các vị trong Hoàng tộc.
- Đức hoàng hậu, Đức Hoàng tử Txa-rê-vích A-léc-xang, Đức Quận công…
Danh sách dài, đọc một mạch làm Hoóc-no-be nhếch mép cười.
- Ừ, tốt đấy! - Lão không thấy – hay không muốn thấy vẻ mặt bối rối và đanh lại của em gái đang cố nén bực dọc trong lòng.
- Danh vị của Nga Hoàng trong tôn ti quyền quý?
- Đức Hoàng đế.
- Còn chức tước của ta?
- Ngài đại thần.
Lão thanh tra thích thú về những chi tiết ngôi thứ ấy mà hắn còn coi trọng hơn cả số học hay ngữ pháp. Hắn lại hỏi thêm.
- Ai trị vì chúng ta?
Những cặp mắt bốc lửa của cô hiệu trưởng và cô giám thị cố chăm chú ngắm nghía quyển sách gọi tên đặt trước mặt. Chưa được ngay câu trả lời, Hoóc-no-be cáu, sẵng giọng nhắc lại.
- Ai trị vì chúng ta?
- Đức Hoàng đế A-léc-xang II, Sa hoàng của tất cả nước Nga. Ma-ni-a mặt tái nhợt, đáp lại, giọng nặng trĩu.
Cuộc lục vấn đã xong. Lão kia bước khỏi bục, khẽ hất đầu chào rồi sang lớp bên cạnh, cô hiệu trưởng Xi-coóc-ca theo sau.
Lúc này, cô Tup-sa mới ngẩng đầu lên.
- Em lại đây, linh hồn bé nhỏ của ta.
Ma-ni-a ra khỏi hàng, bước đến gần cô giáo, cô lặng lẽ hôn lên trán em. Và trong lớp học đang nhộn nhịp hẳn lên, em bé Ba Lan, thần kinh quá căng thẳng bỗng òa khóc nức nở.
*
* *
“Lão thanh tra đã đến! Lão thanh tra đã đến!”
Đàn em gái nhỏ ríu rít báo cái tin mới ấy cho các bà mẹ, các chị đứng đợi ở cổng trường vào lúc tan học. Những nhóm học sinh mặc áo rét dầy cộp, các người lớn to sù trong chiếc áo bông rảo bước tản nhanh trên vỉa hè phủ tuyết đầu mùa, ai nấy chỉ nói chuyện thì thầm. Mỗi người lảng vảng ngoài đường, mỗi anh chàng nghênh ngang bước trước các cửa hiệu, biết đâu chẳng là một tên chỉ điểm?
Hê-la huyên thuyên kể lại câu chuyện buổi sáng cho cô Mi-sa-lốp-sca thường gọi là cô Lu-sa – đến đón hai cháu.
- Hôm nay lão Hoóc-no-be hỏi Ma-ni-a nhiều lắm cô ạ. Nó trả lời được cả. Thế rồi nó khóc cô ạ. Cháu nghe bạn cháu nói ở tất cả các lớp, lão thanh tra không bới móc được điều gì.
Hê-la vốn tính bộc trực cứ rủ rỉ kể mãi, Ma-ni-a lững thững bên cạnh, không hé nửa lời. Cuộc đối đáp đã qua được mấy giờ rồi mà em vẫn thấy xúc động, bàng hoàng. Ma-ni-a rất ghét những lần sợ hãi bất thần như thế này. Em không ưa lối đóng kịch nhục nhã, cứ phải nói dối, lúc nào cũng nói dối, không đúng với lòng mình…
Sau lần lão Hoóc-no-be đến thăm trường, Ma-ni-a càng cảm thấy đời mình có một nỗi buồn. Còn đâu em bé vô tư lự xưa kia? Bốn năm gần đây, bao tai họa đã liên tiếp giáng xuống gia đình ông giáo làm cho em tưởng như một cơn ác mộng.
Đầu tiên là bà giáo đi Ni-xơ cùng với Dô-sa. Cả nhà bảo Ma-ni-a rằng mẹ đi nghỉ dưỡng ở bờ biển cho khỏi hẳn sẽ về. Một năm sau, gặp lại mẹ thì thấy mẹ đã già xọp đi, không nhận ra nữa. Và số mệnh như đã định trước rồi.
Rồi đến thu 1873, một ngày ảm đạm sau kì nghỉ hè. Khi cùng với gia đình trở về phố Nô-vô-lip-xki để tiếp tục làm việc vào năm học mới, ông giáo thấy trên bàn giấy một lá công văn: theo lệnh trên, ông bị rút lương, đòi nhà, cách chức hiệu phó.
Đó là cách trả thù của tên I-van-nốp đối với những người dưới quyền không chịu cúi đầu nịnh nọt.
Sau nhiều lần đổi chỗ ở, gia đình Xkhua-đốp-xki chuyển đến một căn nhà góc phố Ni-vô-li-xki và Các-mê-lít.
Hoàn cảnh ông giáo lúc này đã thay đổi, ngày càng túng bấn, lúc đầu ông chỉ nhận hai, ba người trọ học, về sau đến năm, mười người vừa ăn, ở và học tư, nhà thành như cái chợ, chẳng còn không khí gia đình thân mật ấm cúng nữa.
Không chỉ vì địa vị đã sút kém hoặc vì muốn để vợ đi Ri-vi-e-ra chữa bệnh mà ông giáo phải thu xếp như vậy. Cũng còn một lý do khác. Đó là vì ông đã nhẹ dạ nghe người em vợ gọi chung vốn mua một cối xay máy để tính chuyện làm giàu. Và con người vốn cẩn thận đó, bỗng chốc mất nhẵn ba mươi nghìn rúp, kết quả một đời làm việc và ky cóp. Vừa hối, vừa tiếc, lại lo nghĩ về tương lai, ông cứ tự trách là đã làm cho gia đình nghèo túng và mấy con gái mất của hồi môn.
Nhưng chỉ cách đây hai năm – vào tháng giêng 1876 – Ma-ni-a mới biết thế nào đau thương, bất hạnh. Một người học trò trọ học bị lên đậu đã lây ra Brô-ni-a và Dô-sa. Trời! Những tuần lễ khủng khiếp! Buồng bên này bà mẹ lao cố nén cơn ho, buồng bên kia, hai cô gái lên cơn sốt rên rỉ và run lập cập.
Rồi một buổi thứ tư, ông giáo gọi Dô-dếp, Hê-la và Ma-ni-a và dẫn chúng đến với chị chúng. Dô-sa mặc toàn trắng nằm trong quan tài, mặt nhợt nhạt và như mỉm cười, đôi tay chắp lại, đầu cạo trọc, nhưng trông mới đẹp làm sao!
Lần đầu tiên, Ma-ni-a trông thấy cái chết. Lần đầu tiên, em mặc một áo choàng đen đi đưa tang. Brô-ni-a mới khỏi nằm trong giường nức nở và bà giáo kiệt sức không đi được, cố lê đến khắp các cửa sổ để nhìn theo linh cữu của con gái chầm chậm đi xuôi phố Các-mê-lít.
*
* *
- Này các cháu thân yêu, ta đi quành một tí nhé. Mùa rét đến nơi rồi, cô phải mua trước ít táo.
Buổi chiều tháng một này ở vườn hoa Xắc-xơ như vắng ngắt. Cô Lu sa xinh đẹp và tốt nết thường tìm cớ dẫn các cháu đến đây, đi chơi cho thoáng, khỏi gian nhà chật hẹp mà bà mẹ ho lao ngồi thẫn thờ suốt ngày. Nếu lây thì đến khổ! Hê-la còn khá, chứ em nó thì xanh lướt như tàu lá, yếu thế kia!
Ba cô cháu rảo bước qua vườn, đi đến khu phố cổ của Vác-xô-vi. Ma-ni-a đẻ ở nơi này đây. Đường phố trông vui hơn ở trong thành phố mới. Tại quảng trường Xta-rơ Mi-at-xtơ (Thành phố cổ) nhà nào nhà nấy mái dốc đồ sộ, mặt nhà màu xám phô bày hàng nghìn chạm trổ: nào là đường gờ, nào là hình thánh hoặc hình súc vật đã biến thành biển hàng cho các quán trọ và các cửa hiệu.
Tiếng chuông nhà thờ đối đáp nhau ở nhiều điệu thức trong bầu không khí giá lạnh, gợi lại bao kỉ niệm về thời thơ ấu. Lễ rửa tội ở nhà thờ Xanh Ma-ri, lễ chịu mình thánh ở nhà thờ Đô-mi-ni-canh. Ma-ni-a vẫn còn nhớ mãi cái ngày ấy, cùng với Ha-ri-ét, một cô em họ thề với nhau sẽ không ghé răng cắn vào bánh thánh. Ở nhà thờ Thánh Pôn, cứ chủ nhật, các cô bé thường đến nghe giảng đạo bằng tiếng Đức.
Quảng trường Nô-vơ Mi-at-xtơ (thành phố mới) bốn bề lộng gió, thoáng đãng, vắng vẻ, cũng rất quen thuộc đối với Ma-ni-a. Gia đình ông
giáo đã đến đây một năm sau khi rời khỏi trường. Mỗi sáng, em cùng mẹ và các chị đến nhà thờ Đức bà, một kiến trúc rất độc đáo khang trang. Cái tháp vuông và các khu xây bằng đá đỏ đã mòn nhẵn vì thời gian như bám vào ngọn đồi cao chế ngự dòng sông.
Hai em bé theo cô Lu-sa bước vào nhà thờ, Ma-ni-a bước qua khung cửa kiến trúc kiểu gô-tích, đi thêm vài bước trong bóng tối rồi quỳ xuống. Em rùng mình, hôm nay đến đây chạnh nhớ Dô-sa, thật chua xót, Dô-sa không còn nữa và thiếu cả người mẹ có tính tình thần bí mà Chúa hình như chẳng đoái hoài.
Ma-ni-a cầu khấn với lòng tin dạt dào vào chúa. Em cầu chúa đem lại sức sống cho mẹ em, người mà em yêu quý nhất đời, với tất cả lòng tha thiết nhưng cũng với một nỗi tuyệt vọng, em xin hiến dâng đời mình để đánh đổi điều cấu nguyện đó. Em sẵn sàng chết để mẹ em được sống.
Cô Lu-sa và chị Hê-la cũng cúi đầu gần đây, khấn khấn, niệm niệm…
Ba cô cháu ra khỏi nhà thờ, bước từng bậc mấp mô xuống tận bờ sông. Dòng sông Vit-xtuyn trải ra mênh mông, không có vẻ dịu tính chút nào. Nước sông vàng bệch uốn quanh những cồn cát bồi thành những hòn đảo nhàn nhạt nhấp nhô giữa dòng. Nước vỗ vào hai bờ khúc khuỷu, chen chúc nhà tắm và bến giặt, mấy chiếc thuyền nghỉ mát, hình thon dài màu xám, mùa hè nhộn nhịp những đoàn người đi chơi sông là thế mà bây giờ nằm im, buồm, cột tháo dỡ hết, chỉ còn quanh đám thuyền táo là tấp nập. Hai chiếc xuồng to, hẹp và nhọn đằng mũi, nước mấp mé đến tận mạn.
Chủ thuyền vùi mình trong một tấm da cừu, bới từng ôm rơm rạ cho khách mua xem hàng. Dưới ổ rơm mềm mại phủ lên để chống băng giá, những quả táo đỏ mọng, rắn tươi, bóng loáng trông rất thích mắt. Có đến hàng nghìn quả chất đầy khoang thuyền: Táo vùng Vit-xtuyn thượng phải mất bao nhiêu ngày mới từ thành phố Cac-dơ-mia đẹp đẽ xuôi thuyền về tới đây.
- Để cháu chọn, cháu chọn táo cho…
Hê-la mừng rỡ nói rối rít. Ma-ni-a cũng vội bỏ cặp xuống rồi cởi bao tay ra.
Không gì thích hơn những lần đi mua táo như thế này: nhặt từng quả, ngắm chọn kỹ rồi bỏ vào một cái giỏ mây, quả nào thối quăng ngay xuống sông rồi nhìn theo dòng nước cuộn xoáy tròn. Được đầy giỏ rồi lên bờ, tay ai nấy cầm một quả táo đẹp đẽ hơn tất cả…
Táo lạnh, cắn vào răng kêu ken két, ăn thật tuyệt. Cô Lu-sa mặc cả và thuê một em bé mặt đầy trứng cá đứng cạnh đấy bưng giỏ về nhà.
*
* *
Sau bữa chiều, lúc năm giờ, mấy chị giúp việc đã lau dọn bàn và thắp cái đèn dầu to treo giữa nhà. Đã đến giờ học. Các cậu học sinh trọ học đã quay về phòng của họ, cứ hai ba người chung một phòng. Con trai và mấy con gái ông giáo ở lại buồng ăn, lúc này đã thành buồng học. Ai nấy đem sách vở ra, rồi chỗ nào cũng rì rầm tiếng học, những âm thanh dai dẳng sẽ hàng nhiều năm nữa là chủ đề chính trong điệu nhạc của ngôi nhà này.
Vẫn những giọng đọc quen thuộc ê a những câu thơ La Tinh, những niên hiệu lịch sử hoặc những đầu bài toán. Trong cái nhà máy kiến thức này, nơi nào người ta cũng phải trầy trật gian khổ. Thật khó khăn đấy. Một bài toán chứng minh bằng tiếng mẹ đẻ thì ai cũng hiểu ngay, nhưng tiếng Nga – tiếng chính thống – thì không lần ra được, càng không thể nhắc lại. Đã bao phen trò chán nản, thầy lại phải động viên, dỗ dành.
Nhưng Ma-ni-a không biết nỗi khổ ấy. Em có trí nhớ tài tình đến nỗi chỉ cần đọc hai lượt một bài thơ là thuộc lòng không sai chữ nào. Các bạn cứ đổ cho là gian lận, lén học từ trước. Ma-ni-a thường làm xong bài trước các bạn và nhiều khi ngồi rỗi và do dễ dãi tự nhiên, em vẫn giúp một bạn gái đang bí.
Nhưng em thích nhất là như chiều hôm nay, ngồi ở cái bàn to, trước quyển sách mở, khuỷu chống lên bàn, tay đỡ lấy trán, hai ngón cái bịt lỗ tai để khỏi nghe Hê-la đang “gào” bài. Cẩn thận như vậy xét ra cũng chẳng cần thiết. Vì chỉ một lúc sau, em đã mê mải đọc, không để ý gì đến xung quanh nữa.
Tài tập trung cao độ ấy là điều lạ lùng duy nhất ở đứa bé bình thường và khỏe mạnh đó, làm mấy chị và chúng bạn rất thích bông đùa. Nhiều lần
với sự thông đồng của bọn học sinh ký túc, Brô-ni-a và Hê-la đã khua gõ loạn xạ xung quanh Ma-ni-a đang vùi đầu vào quyển sách vẫn không làm cho em ngước mắt lên.
Chiều nay lúc các chị muốn tìm ra những trò chơi hay hơn, nhất là có thêm Hăng-ri-ét, con cô Lu-sa, họ càng nghịch tợn. Họ kiễng chân đi rón rén, xếp chồng ghế cái nọ lên cái kia chung quanh Ma-ni-a đang ngồi yên như pho tượng. Mỗi bên đặt hai ghế, đằng sau lưng đặt một, chồng hai cái khác lên bốn cái trước, và một cái trên cùng, như một giàn giáo. Xong họ rút lui lặng lẽ, giả vờ làm việc và đợi.
Ma-ni-a vẫn không biết gì cả, không để ý đến những tiếng rì rầm to nhỏ, những chuỗi cười khúc khích cố nén lại, và cả đến bóng mấy chiếc ghế trên mái tóc và người em, suốt nửa giờ ngồi như thế, dưới cái tháp chênh vênh sắp đổ mà không biết. Đọc xong chương sách, cô mới ngẩnh đầu lên. Một tiếng rầm, mấy chiếc ghế đổ nhào. Hê-la thích thú cười la inh ỏi, Hăng ri-ét và Brô-ni-a sợ bị phản ứng, vội né ra xa.
Nhưng Ma-ni-a vẫn thản nhiên, không tỏ ra bực mình và cũng không cười cái trò tinh quái đã làm cho em một phen hoảng sợ. Đôi mắt màu tro trông hớt hơ hớt hải như người đương mê ngủ choàng tỉnh. Em xoa chỗ vai trái bị ghế đập phải, nhặt sách lên và sang phòng bên. Đi qua các chị lớn, em chỉ nói: “Chả hay gì cả!”
Câu trách nhẹ nhàng, nhưng các chị cũng không bằng lòng lắm.
Những lúc miên man đọc sách quên hết cảnh vật bên ngoài là Ma-ni a thấy lại thời thơ ấu rực rỡ của mình. Em say sưa đọc: sách giáo khoa, văn thơ, truyện phiêu lưu, sách kỹ thuật, tất cả những sách vở có trong tủ sách của bố. Và dầu chỉ vài giờ ngắn ngủi, em đã đẩy xa những con ma vẫn hằng ám ảnh mình. Em quên hết, những tên do thám của Sa hoàng, những cuộc đi kiểm tra trường của lão Hoóc-no-be, quên cả vẻ mặt phờ phạc của bố suốt ngày tất bật trong những công việc tầm thường, quên đi gian nhà không lúc nào ngớt tiếng động, ồn ào, huyên náo, và sáng sáng cứ phải dậy thật sớm, lúc trời còn tối đen, đang ngái ngủ đã phải rời cái ghế tràng kỷ lót nhung để nhường chỗ cho các học sinh trọ học ăn sáng vì buồng ăn trong nhà cũng là buồng ngủ của mấy đứa con ông giáo.
Và Ma-ni-a quên tất cả mọi nỗi lo âu khiếp đảm, lo sợ kẻ áp bức, lo sợ về tôn giáo, lo sợ bệnh hoạn và chết chóc. Bản năng tự nhiên đã thúc đẩy
em tìm cách thoát khỏi cái không khí nặng nề ấy.
Những giây phút lãng quên quá đỗi ngắn ngủi. Chợt nhớ ra, là lại thấy tất cả, và bắt đầu là nỗi lo âu về bênh lao của mẹ đã quá trầm trọng. Người đàn bà trước kia khỏe đẹp thế, nay chỉ còn cái bóng. Không lời an ủi nào đánh lừa được Ma-ni-a nữa. Em cảm thấy rằng sự say mê ngưỡng mộ, lòng yêu mẹ vô hạn, lời cầu khẩn thiết tha của mình sẽ không còn đủ sức mạnh ngăn cản được diễn biến khủng khiếp đang đến gần.
*
* *
Bà giáo cũng nghĩ đến sự kết thúc khó lòng tránh khỏi đó. Bà muốn rằng khi nó đến thì mình đã sẵn sàng, không để nó làm đảo lộn nếp sống ở gia đình. Ngày 9 tháng 5 năm 1879, bà đã yêu cầu thầy thuốc nhường chỗ cho cha cố. Chỉ cha cố sau này mới thấu nỗi sầu muộn của người đàn bà ngoan đạo ấy, đau buồn vì phải để lại cho chồng thân yêu cáng đáng bốn đứa con thơ và lòng luôn luôn bị vò xé mỗi khi nghĩ đến tương lai của chúng, đến cái An-chiu mới mười hai tuổi đầu.
Trước mặt chồng con, bà chỉ lộ ra những nét nguôi dịu, đến giờ phút cuối cùng càng cao đẹp khác thường. Bà chết như lòng mình đã từng mong muốn, không mê, không lẫn. Trong căn phòng sạch sẽ, chồng, con trai, con gái đứng quanh giường bệnh. Đôi mắt dài màu xám, sầu ải, đã mờ đi vì cái chết sắp đến, hết nhìn chồng lại đến con, như muốn xin lỗi vì mình đã gây ra nỗi đau thương ấy.
Bà còn đủ nghị lực để vĩnh biệt từng người, rồi lịm dần.
Sự sống chỉ còn là một tia lửa hiu hắt. Bà chỉ có một cử chỉ và một lời nói cuối cùng.
Cử chỉ là bàn tay run rẩy làm dấu chữ thập để cầu phúc cho cả nhà.
Lời cuối cùng, thì thầm trong hơi thở hắt ra, con người hấp hối nhìn chồng và con, vĩnh biệt: “Ta yêu tất cả”.
*
* *
Trong căn nhà phố Các-mê-lít, Ma-ni-a lại mặc áo tang đen một lần nữa, thờ thẫn âu sầu, đi đi lại lại. Em chưa thể quen được khi đến tối chị Brô ni-a sang ngủ ở buồng mẹ mới chết, chỉ còn Hê-la ngủ cùng em trên chiếc tràng kỷ nệm nhung. Em cũng chưa quen ngay được với bà quản gia mà ông giáo phải nhờ đến giúp hằng ngày, sai khiến người làm, sắp đặt hai bữa ăn cho nhóm học trò và chăm lo qua quýt việc ăn mặc, tắm rửa cho bọn trẻ. Ông giáo còn thì giờ nào rỗi để dành hết thời gian cho đàn con côi, như gà trống nuôi con, vụng về và cảm động biết bao.
Cuộc sống đã sớm chỉ cho Ma-ni-a biết đời đầy khắc nghiệt: khắc nghiệt với các dân tộc, khắc nghiệt với con người. Dô-sa đã chết, bà giáo cũng đã chết. Thiếu tình âu yếm dịu dàng của mẹ, thiếu sự chăm sóc thương yêu của chị cả, em đã lớn lên trong cảnh cô quạnh nhưng không hề có một lời than thân.
Một sự chịu đựng dũng cảm nhưng không nhẫn nhục. Giờ đây, mỗi lần Ma-ni-a đến quỳ ở nhà thờ, nơi mà xưa kia, em vẫn thường đến với mẹ, em bắt đầu cảm thấy âm thầm uất hận.
Em không còn cầu chúa với tất cả lòng thành kính năm xưa nữa. Em thấy chúa bất công vì đã giáng xuống đời em những tai họa khủng khiếp, đã dập tắt xung quanh em niềm vui, trí tưởng tượng và cảnh êm đềm.
CHƯƠNG III
TUỔI NIÊN THIẾU
Lịch sử mỗi gia đình thường có một thời nảy nở toàn diện. Có những lí do bí ẩn làm cho một thế hệ bỗng trỗi lên hơn hẳn mọi thế hệ trước và mọi thế hệ sau nó về tài năng dồi dào, sức sống rạng rỡ, sắc đẹp khác thường và thành công lớn lao.
Thời đó đã đến với nhà ông giáo, mặc dầu vừa mới phải góp phần bất hạnh với đời. Thần chết đã bắt mất Dô-sa, một trong năm đứa con thông minh và nồng nhiệt. Nhưng bốn đứa còn lại, bốn thiếu niên, con của một bà mẹ chết vì lao và một người cha trí thức làm việc đến kiệt sức, họ mang trong mình một sức mạnh không gì chống nổi. Họ sẽ thắng mọi tai họa, đạp bằng mọi trở ngại, và sẽ đều trở thành những con người khác thường.
Vào buổi sáng mùa xuân tràn đầy ánh nắng đó, năm 1882, bốn anh em ngồi quây quần ăn lót dạ quanh chiếc bàn to. Trông họ đẹp làm sao! Hê la 16 tuổi, nhớn và duyên dáng, đúng là “Cô gái xinh nhất nhà”; Brô-ni-a mặt mày đầy đặn, tóc vàng, nước da mịn màng như hoa, anh cả Dô-dếp trong chiếc áo quàng trắng sinh viên khoa y, trông vạm vỡ như một lực sĩ phương Bắc.
Còn Ma-ni-a? Hiện nay còn ít tuổi nên em không đẹp bằng các chị. Nhưng cô gái tròn lẳn trong bộ đồng phục nữ sinh có khuôn mặt tươi cười tinh nghịch, mắt và tóc màu nhạt và nước da sáng ngời của những thiếu nữ Ba Lan.
Chỉ hai cô gái út bận đồng phục. Hê-la vẫn học trường tư thục Xi coóc-ca, mặc màu xanh lơ. Ma-ni-a mười bốn tuổi, là học sinh xuất sắc tại trường trung học của nhà nước, mặc màu hạt dẻ. Chính Brô-ni-a cũng đã tốt nghiệp trường này, năm ngoái, với huy chương vàng làm cho cô vẻ vang thực sự.
Dô-dếp cũng được huy chương vàng khi tốt nghiệp trung học, anh đang học Y. Các em gái khâm phục anh và cũng mong muốn được học lên
đại học như anh. Sớm có hoài bão học cao, hiểu rộng, cả ba chị em đều nguyền rủa cái luật lệ khắc nghiệt không cho con gái vào trường đại học ở Vác-xô-vi. Nghe anh Dô-dếp kể về trường đại học của Sa hoàng, các cô rất háo hức. Nhưng thật ra nó cũng tầm thường, vì ở đó, thầy người Nga thì đầy tham vọng, còn thầy người Ba Lan thì tâm hồn nô lệ.
Vui chuyện không làm cho mấy anh em ăn kém một miếng nào. Chỉ thoáng một lúc, bánh mì, kem, bơ, mứt đã hết nhẵn.
- Anh Dô-dếp ơi, chiều nay tập vũ, anh đi bước nam cho chúng em nhé!
Đó là lời của Hê-la, và cô không quên một việc quan trọng:
- Chị Brô-ni-a này, áo của em mà đem là phẳng phiu liệu còn mặc được không?
- Chẳng còn cái nào khác thì đành mặc vậy chứ sao! – Brô-ni-a triết lý trả lời. - Ba giờ chiều nay, khi nào em về, ta sẽ lo đến việc đó.
- Áo các chị đẹp lắm – Ma-ni-a nói.
- Mày còn bé, đã biết cái gì!
Họ tản đi. Brô-ni-a thu dọn bàn ăn. Dô-dếp ôm sách vở biến mất. Hê la và Ma-ni-a xô nhau chạy xuống bếp.
- Bánh mì của em đâu? Xúc xích của em đâu? Bơ đâu rồi?
Ăn sáng no nê thế mà hai cô nàng còn lo đến thức ăn buổi ra chơi hồi mười một giờ: một chiếc bánh mỳ nhỏ, một cặp dồi ngắn và to làm theo kiểu Ba Lan, một quả táo, tất cả nhét trong túi vải.
Ma-ni-a cài túi thức ăn chật căng và ném cặp sách lên vai.
- Nhanh lên cô ả! Chậm rồi, chúng bạn đang đợi đây! – Hê-la giễu thế rồi cũng sửa soạn đi.
- Không đâu! Mới tám giờ rưỡi. Chào chị
Cô bé vội xuống cầu thang, trước hai anh trọ học. Họ cũng đến
trường, nhưng chậm hơn.
Trường trung học, kí túc xá, trường tư thục… mấy tiếng đó luôn quện lấy tuổi thơ trẻ của Ma-ri. Ông giáo dạy ở trường trung học, Brô-ni-a tốt nghiệp trường trung học, Ma-ni-a đi học trường trung học, Dô-dếp học đại học, Hê-la học trường tư thục. Cả đến ngôi nhà mấy bố con đang ở cũng không khác gì một trường học. Cô chắc hẳn phải tưởng tượng như cả thế giới là một trường trung học khổng lồ chỉ có thầy và trò mà một lý tưởng là học, học mãi.
Từ dạo gia đình rời phố Các-mê-lít ảm đạm để dọn sang phố Le-skô. Vấn đề trọ học cũng đỡ phiền toái một chút. Ngôi nhà đẹp đẽ, kiểu cách, có một cái sân tịch mịch, chim bồ câu xám gù gù, dây leo hoa tím phủ kín các bao lơn. Tầng gác trên khá rộng nên mấy bố con ông giáo ở riêng bốn buồng tách hẳn với đám học sinh trọ học.
Phố Le-skô cũng “ra vẻ” lắm, lòng đường rộng rãi giữa hai dãy nhà đồ sộ. Không còn thấy lối kiến trúc Xla-vơ độc đáo nữa. Trong khu phố lịch sự này, cái gì cũng gợi tính cách Tây Âu, từ nhà thờ Tin lành phía trước mặt đến ngôi nhà nhiều cột hoàn toàn xây theo kiểu Pháp ở phố Ry-man-xca.
Cặp sách đeo gọn sau lưng, Ma-ni-a chạy vội đến biệt thự bá tước Da-moi-xki, quen gọi là “Lâu đài xanh”. Cô tránh cổng giữa mà đi sang một cái sân cổ xưa có một con sư tử bằng đồng đen ngồi chồm chỗm như canh giữ. Bất giác, cô dừng lại, thất vọng. Sân vắng ngắt. Đang định quay ra thì nghe gọi giật:
- Ma-ni-u-sa, đừng vội đi, Ca-di-a nó đang xuống đấy.
- Ồ, bác đấy ạ, cám ơn bác.
Từ cửa sổ tầng dưới cùng, bà Psi-bô-lốp-xka, vợ ông thủ thư của bá tước Da-moi-xki có bộ tóc quấn trần đầy bím, trìu mến nhìn cô bé má phính, đôi mắt tinh anh, thân với con gái mình từ hai năm nay.
- Đến trưa, tan học, cháu về đây ăn bánh. Bác sẽ làm bánh ngọt với món sô-cô-la đường mà cháu thích.
- Đúng rồi, đằng ấy đến ăn bánh với mình nhé – Ca-di-a chạy vội xuống cầu thang, khoác tay bạn – Rảo bước lên Ma-ni-a ạ. Muộn rồi đấy.
- Ừ, mình đang định quay cái vòng của con sư tử lên.
Ngày nào Ma-ni-a cũng đến rủ Ca-di-a cùng đi, hẹn đợi nhau dưới vòm nhà. Nếu không thấy ai, cô nhấc lại cái vòng nặng ở mõm con sư tử bằng đồng đen, quay ngược ghếch trên mũi con vật rồi tiếp tục đi đến trường. Ca-di-a nhìn cái vòng biết là bạn mình đã đi qua rồi, phải bước gấp mới đuổi kịp.
Ca-di-a là một cô bé rất tuyệt, vui tính, niềm nở, được bố mẹ chiều. Ông bà Psi-bô-lốp-xki rất quý Ma-ni-a, coi như con, cố bù đắp thiệt thòi cho đứa trẻ mất mẹ. Nhưng cứ nhìn qua nhiều chi tiết nhỏ trong cách ăn mặc và dáng điệu của hai cô nữ sinh cùng đồng phục màu hạt dẻ, cũng dễ đoán là một đằng được nuông chiều, mỗi sáng mẹ chăm chút chải đầu và quấn dải mầu vào tóc, một đằng lớn lên, đã mười bốn tuổi, trong một gia đình mà không ai có thì giờ săn sóc đến.
Hai đứa bé khoác tay nhau đi dọc theo phố Da-bi-a chật hẹp. Mới xa nhau từ bữa ăn sáng hôm qua mà đã có lắm chuyện muốn kể với nhau. Những chuyện về trường trung học ở đại lộ Kra-lô-kốp.
Từ kí túc xá Xi-coóc-ca có phong thái Ba Lan thuần túy chuyển đến một ngôi trường chính thống có xu hướng thân Nga rõ rệt là một thay đổi lớn đối với Ma-ni-a. Một thay đổi cần thiết. Chỉ những trường trung học của Sa hoàng mới cung cấp bằng có giá trị. Để phản ứng, Ma-ni-a và Ca-di-a thích nhạo báng các giáo sư từ Nga sang, có lão mục sư Mê-din dạy tiếng Đức chán ngấy và mụ giám thị May-e mà các em ghét cay ghét độc.
Người bé choắt, tóc râu bóng nhẫy, đi giầy vải đế êm – để dễ rình mò – mụ May-e là kẻ thù số một của cô gái Ba Lan. Mụ đổ lên đầu cô trăm thứ tội: nào là bướng bỉnh, khó bảo, nào là “có cái cười khinh khỉnh” mỗi khi nói chạm đến nó. Rồi luôn mồm:
- Cái con Xkhua-đốp-xka ấy à. Hơi sức đâu mà đối khẩu với nó.
Bộ tóc quăn của Ma-ni-a làm cho mụ May-e lộn ruột, mụ cho là “bù xù và trông khỉ lắm”. Thế là mụ lấy bàn chải, chải tuột những mớ tóc ngạo ngược, mụ muốn biến em thành một cô gái Đức bím tóc thật chặt. Nhưng mụ vừa mới rời tay lược thì mấy mớ tóc nhẹ nhàng, nhún nhảy lại hiện trên khuôn mặt tươi tắn mà đôi mắt ngây thơ cứ chằm chằm vào cái dây buộc tóc
óng ánh của mụ giám thị.
- Tao cấm mày không được nhìn tao như thế. Cái kiểu đâu như bề trên nhìn xuống! – Mụ cáu tiết rít lên.
- Nhưng tôi không thể làm khác được.
Một lần không nén được, Ma-ni-a trả lời như vậy, vì cô cao hơn mụ May-e một đầu.
Không ngày nào không xảy ra đôi co như thế giữa cô học sinh khao khát tự do và mụ đàn bà khe khắt.
Cơn giông tố dữ dội nhất nổ ra năm ngoái. Đó là lần mụ May-e bất ngờ bước vào lớp, bắt gặp Ma-ni-a và Ca-di-a nhảy múa vui mừng giữa bàn ghế đang lúc có lệnh phải để tang Sa hoàng A-lếch-xăng II bị ám sát.
Sự o ép về chính trị có một hậu quả đáng buồn là gây cho lớp người bị đè nén một tình hình khắc nghiệt. Ma-ni-a và Ca-di-a có một tâm hồn dịu hiền và tấm lòng quảng đại, nhưng vẫn đôi khi có những cái hằn học xa lạ với người dân tự do và các cô không thoát khỏi cái luân lý của những người nô lệ - lấy chống đối làm nết tốt và coi vâng lời là hèn nhát.
Hai cô rất mến thầy dạy toán, ông Glát trẻ đẹp và thầy Xua-xa-ki dạy sinh vật là những người Ba Lan chân tình. Với thầy người Nga, thái độ của các cô có nhiều mức độ. Nghĩ gì về ông Mi-li-ê-sin bí ẩn, muốn thưởng học trò, đã im lặng tặng một tuyển tập thơ Nê-cra-xốp, một nhà thơ cách mạng. Các nữ sinh ngạc nhiên nhận ra những cử chỉ đoàn kết kín đáo ngay ở phía hàng ngũ thù địch. Sa hoàng đâu chỉ có những thần dân trung thành!
Lớp học của Ma-ni-a có cả học sinh Ba Lan, Do Thái, Nga và Đức. Giữa họ, không có gì là xung khắc trầm trọng. Cùng trẻ tuổi, lại cùng đua nhau học hành, họ tạm lãng quên sự khác nhau về chủng tộc, hoặc về tâm tư. Nhìn học trò giúp nhau học tập hoặc vui đùa trong giờ chơi thì tưởng như họ rất hòa thuận. Nhưng khi ra khỏi trường, ai nấy lại quay về với tiếng nói riêng, lòng yêu nước và tín ngưỡng của mình. Chị em Ba Lan cùng cảnh áp bức thường đi thành nhóm riêng, dần dà cũng ăn quà trưa chung với nhau, không thích mời bạn khác đến dự.
Ngoài công viên La-gien-ki mà Ma-ni-a hay lui tới những lúc rảnh
rang thì vườn Xắc-xơ là nơi cô thích nhất ở thành phố quê hương, hàng nhiều năm nữa cô sẽ mãi gọi là “Vác-xô-vi yêu mến của tôi”.
Qua cổng sắt đôi bạn gái đi dọc theo con đường dẫn đến lâu đài. Hai tháng trước, ngày nào các cô cũng mang ủng lội vào các vũng bùn lớn cố giữ sao cho nước chỉ đến cổ giầy, không để ngập hẳn. Nay mùa khô, lại có những trò khác, đơn giản nhưng cũng làm hai chị em cười chảy nước mắt. Thí dụ trò miếng “xanh”.
- Có đi mua vở với tao không? – Ma-ni-a thản nhiên hỏi bạn – Có nhiều quyển vở rất đẹp, bìa “xanh”.
Ca-di-a đã thủ thế rồi. Thoạt nghe tiếng “xanh” cô đã chìa ra một miếng nhung xanh giấu trong túi. Thế là không thua cuộc. Ma-ni-a làm như không chơi nữa, lái câu chuyện về bài sử thầy giáo đọc cho chép hôm qua, nói rằng Ba Lan là một tỉnh, tiếng Ba Lan là một tiếng địa phương và người Ba Lan vô ơn bạc nghĩa đã làm Sa hoàng Ni-cô-lai I – thật đã yêu họ quá đỗi – phải buồn rầu mà chết!
- Tuy vậy, lão ta cũng ngượng về những chuyện xằng bậy ấy. Mày có thấy mắt lão len lét không? Cái mặt trông đến tởm!
- Ừ, mặt lão “xanh lè”. – Ca-di-a thản nhiên nói. Nhưng tức khắc đã thấy lất phất trước mũi một lá cây dẻ màu xanh non.
Trước mặt đám trẻ đang chơi nhà bằng cát và nhảy vòng, hai cô gái cười như nắc nẻ. Qua dãy cột thanh thanh của cung điện Xắc-xơ, rồi qua một quảng trường lớn, Ma-ni-a chợt kêu lên:
- Ta đi qua đài kỷ niệm rồi, phải quay lại thôi!
Không nói một lời, Ca-di-a cũng quành lại.
Hai cô đãng trí đã phạm một lỗi không tha thứ được. Chả là ở giữa quảng trường Xắc-xơ dựng một cột lưu niệm tráng lệ, với bốn con sư tử đá chầu bốn bên và mang dòng chữ “chính thống”: “Tặng những thần dân Ba Lan trung thành với quân vương của mình”. Cái ơn nghĩa này của Sa hoàng đối với những tên phản bội đã liếm gót kẻ áp bức làm cho những người yêu nước Ba Lan ghê tởm. Cứ mỗi lần đi qua phố đều nhổ vào đấy, dần dần thành một truyền thống, ai lỡ quên thì phải quay lại làm đúng thủ tục đó.
Hai cô bạn lại tiếp tục tán chuyện:
- Tối nay nhà tớ có vũ đấy – đằng ấy có đến xem không?
- Có chứ. Nhưng Ma-ni-u-sa này, bao giờ mới đến lượt bọn mình dự? Chúng ta đã biết đi bước van khá rồi. Ca-di-a sốt ruột.
Bao giờ? Khi nào các cô “bước vào đời” đã. Lúc này các cô mới chỉ được phép tập dượt với nhau về các điệu lăng-xi-ê, pôn-ka-ma-duốc-ka học được ở trường và cũng được ngồi trên hai cái ghế nhỏ xem thanh niên nam nữ gia đình bạn bè hàng tuần vẫn đến tập vũ ở nhà ông giáo.
Trong khi chờ đợi cũng sẽ đến lượt mình được các bạn nam mời, các cô còn phải học nhiều tháng nữa ở trường trung học. Đó là một ngôi nhà lớn ba tầng mộc mạc ngay cạnh nhà thờ Thăm Viếng, trang trí hoa mĩ, nên trông như một khối kiến trúc từ thời Phục Hưng Ý, giữa những lâu đài nghiêm trang. Bạn học đã vào cả trong trường: có bạn Vun mắt xanh, bạn A-ni-a Rốt-te, người Đức, mũi tẹt, học rất giỏi, trong lớp chỉ thua Ma-ni-a và Lê-ô ni Cu-níc-ca.
- Con bé Cu-níc-ca có chuyện gì đấy nhỉ? Mắt nó sưng húp lên. Xưa nay, lúc nào nó cũng ăn mặc gọn gàng, hôm nay lôi thôi thế nào ấy.
Ma-ni-a và Ca-di-a không cười đùa nữa. Hai đứa sán lại gần bạn. - Mày sao thế, Cu-níc-ca. Có chuyện gì thế?
Mặt Cu-níc-ca tái nhợt cô mãi ấp úng:
- Anh, anh mình… anh ấy vào hội kín… có kẻ đi báo, đã ba hôm nay, ở nhà không biết anh ấy đi đâu.
Rồi nghẹn ngào, nước mắt giàn giụa:
- Sáng sớm mai, chúng treo cổ anh ấy!
Hai cô bé rụng rời, sít lại gần bạn bất hạnh. Họ còn đang tìm lời hỏi han an ủi bạn, đã thấy tiếng mụ giám thị May-e ken két:
- Thôi, thôi, ít chuyện chứ! Nhanh lên!
Ma-ni-a rùng mình, thẫn thờ trở về nhà; mới lúc nãy còn mơ đến âm nhạc, đến vũ, bây giờ mấy câu đầu bài địa lý cứ quay tròn trong đầu, không còn biết chúng nghĩa là gì nữa; trong tâm trí, chỉ thấy khuôn mặt nồng nhiệt và non trẻ của người thanh niên xấu số rồi thấy giá treo cổ và tên đao phủ.
Tối hôm đó, năm cô gái tuổi đôi bảy, đôi tám không thiết gì đi xem vũ. Ma-ni-a, Brô-ni-a, Hê-la và hai chị em nhà Ca-di-a đã đến với Lê-ô-ni Cu-níc-ca thức trắng đêm trong phòng của bạn.
Họ hòa chung nước mắt buồn thương và uất hận. Họ chỉ biết âu yếm chăm sóc người bạn đang quằn quại đau khổ, lấy khăn ướt chườm đôi mắt sưng vù, ép bạn uống một ít trà nóng. Thời gian sao trôi quá chậm mà cũng quá nhanh như vậy, đối với mấy cô gái mà bốn người còn mặc đồng phục nữ sinh.
Lúc trời hửng sáng ánh bình minh nhợt nhạt rọi vào những bộ mặt cũng nhợt nhạt là lúc điểm giờ phút cuối cùng của người anh. Họ quỳ tất cả xuống sàn, trong một lời cầu nguyện cuối cùng và giấu trong lòng bàn tay những bộ mặt đầy khiếp đảm.
*
* *
Gia đình ông giáo lần lượt nhận một huy chương vàng, hai huy chương vàng, ba huy chương vàng. Cái thứ ba do Ma-ni-a giành được ngày 12 tháng 6 năm 1883 khi tốt nghiệp trung học.
Hôm đó trời oi bức ngột ngạt. Nghe đọc danh sách các học sinh được thưởng xong đến diễn văn và nhạc kèn đồng, các thầy giáo lên khen ngợi và sau đó là cái bắt tay thờ ơ, lỏng lẻo của viên tổng thanh tra giáo dục của Sa hoàng ở Ba Lan thuộc Nga, rồi Ma-ni-a trịnh trọng cúi chào một lần cuối cùng.
Một bó hoa hồng nhỏ cài trên chiếc áo lễ phục màu đen theo tục lệ, cô học sinh tốt nghiệp từ biệt bạn bè tay nắm tay, thề thề thốt thốt là sẽ biên thơ đều hàng tuần cho nhau. Ôm một chồng sách đồ sộ bằng tiếng Nga – một phần thưởng mà cô lớn tiếng nói là “ghê tởm” (Ngày học cuối cùng, cần gì), Ma-ni-a từ giã mãi mãi trường trung học ở đại lộ Vác-xô-vi, khoác tay ông
giáo, người cha rất tự hào về thành tích học tập của con gái.
Ma-ni-a đã học tập rất tốt, cố gắng vượt bậc, nên ông giáo quyết định để cô về sống một năm ở nông thôn trước khi chọn nghề ra đi làm.
Suốt một năm hè! Rất dễ mường tượng rằng một thiên tư sớm bị một chí hướng ám ảnh, sẽ phải tìm cách đọc bằng được những sách báo khoa học. Sự thật đã không vậy. Lứa tuổi dậy thì kể cũng lạ. Ma-ni-a bỗng thay đổi tính tình, uể oải, không còn ham mê sách vở nữa.
Một giai đoạn thôn dã đẹp xen vào lịch sử người con gái nhà giáo đó. Biên thư cho Ca-di-a, cô nói “Lúc này mình không thể tưởng được rằng trên đời lại có hình học và số học. Mình đã quên hết hai môn đó rồi”. Những tháng xa Vác-xô-vi và mái trường trung học, về ở nông thôn, với những họ hàng chỉ nhận một khoản tiền ăn nhỏ, nhờ cô dạy qua quýt cho mấy đứa trẻ trong nhà, lần đầu tiên được đắm mình trong một cuộc sống thảnh thơi, êm đềm, Ma-ni-a tươi tỉnh hẳn lên, vui vẻ hồn nhiên hơn rất nhiều so với những ngày thơ ấu ảm đạm.
Thư gửi Ca-di-a:
“Có thể nói rằng mỗi ngày mình chỉ dạy một giờ tiếng Pháp. Cả thêu thùa đang làm dở cũng bỏ đấy… không có thời gian biểu cho một chú bé, còn hoàn toàn không làm một chút gì gọi là việc… gì hết… không đọc sách gì thuộc loại nghiêm túc mà toàn xem chuyện giải trí, vô thưởng vô phạt, và mặc dầu được bà con ở đây nể nang vì có mảnh bằng tốt nghiệp, mình cảm thấy dốt, dốt ơi là dốt, làm mình không khỏi tự cười thầm!
Bọn mình đi chơi rừng, nhẩy vòng, đánh cầu lông (mình rất kém về môn này), chơi mèo bắt chuột và rất nhiều trò con nít như vậy. Ở đây, dâu rừng sẵn lắm, năm xu một bát tú ụ. Tiếc rằng hết mùa rồi. Mình đang lo là khi trở về sẽ ăn khỏe đến phát sợ.
Hết đánh đu lại đi tắm. Đến tối tối, lại đốt đuốc bắt tôm…
Mình đã đi Dô-vô-la mấy ngày, được nghe một nghệ sĩ, ông ta tên là Kô-tô-bin-xki từ Vác-xô-vi về đây biểu diễn, ông ta hát và ngâm thơ rất tuyệt, nói chuyện rất vui. Bọn mình thích quá, hôm ông ta ngược Vác-xô-vi, chúng mình đã tết một vòng hoa rất to lúc tiễn chân mới tặng…”
Ở đây vui lắm, có một không khí tự do, bình đẳng, độc lập mà Ca-di a không thể tưởng tượng được…
Suốt năm hè đó, hoạt động trí tuệ như lắng xuống, nhường chỗ cho một say mê mới sẽ mãi mãi thấm sâu tâm hồn của Ma-ri Quy-ri. Đó là lòng yêu thôn quê thắm thiết. Nay về tỉnh này, mai đến tỉnh kia, đón chờ các mùa thay đổi, Ma-ni-a luôn nhìn ra nhiều vẻ đẹp mới lạ của mảnh đất quê hương Ba Lan đây đó đều có họ hàng sinh sống. Đây – Đơ-vô-la một vùng bao la, tịch mịch, ngoảnh nhìn đây cũng chỉ thấy chân trời xa thẳm hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Kia – Da-vi-ê-poyt-xơ, quê chú Xa-vi-ê có đàn ngựa năm mươi con thả trên đồng cỏ. Ma-ni-a đã từng tập cưỡi ngựa, đi nước kiệu và phi nước đại rất thành thạo.
Và cảnh núi Các-pát tuyệt trần! Những đỉnh núi tuyết phủ long lanh, những ngọn thông đen thẳng tắp, làm cô gái vùng đồng bằng lên đây ngạc nhiên đến sững sờ. Quên sao được những cuộc leo núi, qua những sườn đồi quất rừng bao phủ, cheo leo túp lều của thổ dân mà mỗi đồ vật là một công trình trạm trổ, khắc gỗ tài tình, và mãi tận đỉnh cao chót vót, mảnh gương của cái hồ nước xanh biếc như tròng con ngươi, có cái tên tuyệt diệu là “mắt biển”.
Mùa đông năm đó, Ma-ni-a đến chỗ người chú là Di-xoáp, làm văn khế ở Xkhan-bơ-mia, hai vợ chồng có ba con gái. Ở đây cứ mỗi dịp có hội hè dân gian là cả nhà huyên náo hẳn lên, trong khi người lớn chuẩn bị thịt thà, mấy cô gái làm bánh ngọt hoặc ngồi trong nhà khâu vội bộ quần áo cải trang để tham dự trò múa dân gian “kulich” sắp tới.
Thật ra, đó không chỉ là một cuộc vui hát múa, mà là một hành trình thần tiên huy hoàng. Từ buổi chiều Ma-ni-a cùng ba cô em họ ăn mặc như những chị em nông dân vùng Kra-kốp ngồi trên hai xe trượt tuyết, ai nấy trùm chăn kín. Những trai làng quần áo mộc mạc cưỡi ngựa cầm đuốc đi theo một chiếc xe trượt tuyết khác có bốn nghệ nhân trong làng chơi đàn vi ô-lông, cử lên những dân vũ Ba Lan quen thuộc. Ánh đuốc chập chờn qua cành thông và tiếng nhạc rộn ràng trong đêm tối. Lần lượt thêm ba, năm, mười xe trượt tuyết nhập bọn, vừa lướt xe xuống những dốc tuyết đóng băng nhanh đến chóng mặt, vừa đàn hát náo nhiệt.
Cứ qua mỗi nhà, cả đoàn người và xe dừng lại: Chủ nhà làm ra vẻ bất ngờ, nhưng thật ra, thức ăn được chuẩn bị từ trước được dọn ra ngay và cuộc
vũ bắt đầu dưới ánh lửa đuốc. Sau một lúc vui huyên náo, họ lại lên xe, lên ngựa, đến một nhà khác, rồi một nhà khác nữa, xuyên qua rừng, qua núi. Đoàn người mỗi lúc đông thêm với những lực lượng mới mẻ. Hết đêm hôm đó, rồi cả ngày hôm sau, cuộc hành trình đàn hát múa này không lúc nào gián đoạn và kết thúc bằng một “hội múa” vào đêm thứ hai ở ngôi nhà rộng nhất trong vùng, vẫn theo tiếng vi-ô-lông dồn dập không biết mệt mỏi của bốn anh kéo đàn trẻ.
Và giữa những hình tượng múa tuyệt diệu, Ma-ni-a, cô gái khỏe khoắn hồng hào múa đẹp nhất đêm hôm đó. Trong chiếc áo cánh nhung ngắn, hai tay bồng bằng lanh mịn, đầu đội một vòng tết bằng bông lúa với những giây màu sắc sặc sỡ tỏa xuống quanh người, trông cô giống như một cô gái dân tộc miền núi trong trang phục ngày hội.
Biên thơ cho Brô-ni-a, cô kể lại sự hào hứng của mình:
“Thứ bẩy vừa qua, em lại được tham gia một cuộc vũ trá hình rất thích thú. Chị biết không, bây giờ em nhảy được điệu dân vũ ô-be-rếch khá lắm rồi…
Có lẽ không bao giờ trong đời em sẽ lại được hưởng những phút vui đùa thắm thiết như vậy. Nó để lại trong em một nỗi nhớ nhung da diết. Dì nói đùa là nếu vài năm nữa, em đi lấy chồng, nhất định sẽ tổ chức cưới theo phong tục vùng kra-kốp có vũ dân gian và cưỡi xe trượt tuyết, tất nhiên chỉ là câu đùa, nhưng em cũng rất ưa thích!”
Nhiều năm về sau, mẹ tôi thỉnh thoảng nhắc lại những ngày vui đó với một giọng dịu dàng và như cam phận. Nhìn khuôn mặt mệt mỏi, hao mòn sau gần nửa thế kỷ lo âu và lao lực, tôi thầm cám ơn số phận đã dành cho mẹ nhiều phút êm đềm trước khi quyết định bà phải đi theo một chí hướng nghiêm nghị và khắc nghiệt.
CHƯƠNG IV
CHÍ HƯỚNG
Sau mười bốn tháng sống ở nông thôn, đến tháng chín, Ma-ni-a trở về Vác-xô-vi. Lúc này, gia đình cô lại dọn đến gần trường trung học ở phố Nô vô-lip-xki, nơi cô đã sống thời thơ ấu.
Vì một thay đổi lớn đã đến gia đình này. Ông giáo tuy vẫn dạy ở trường trung học, nhưng nay đã có tuổi, nên thôi nhận học sinh trọ học. Từ đây, Ma ni-a cùng với bố và anh chị ở một căn nhà nhỏ hơn, thanh bạch hơn. Khung cảnh và môi trường ấy khêu gợi suy nghĩ và làm việc.
Ai mới gặp ông giáo lần đầu sẽ nghĩ là ông nghiêm khắc, khó gần. Ba mươi năm trời gõ đầu trẻ ở trường trung học đã tạo cho người đàn ông béo lùn ấy một dáng đạo mạo, có nhiều chi tiết chứng tỏ đây là một công chức tiêu biểu: quần áo màu sẫm, luôn luôn chải chuốt, tưởng như không còn vướng một hạt bụi, cử chỉ điệu bộ chính xác, ưa dùng châm ngôn thị phạm. Mỗi việc trong đời ông đều có phương pháp, quy củ. Ông đã viết một bức thư thì câu cú phải gọn gàng, nét chữ nắn nót. Nghỉ hè, nếu định đi tham quan danh lam thắng cảnh thì từng chi tiết đi đứng phải được xếp đặt từ trước. Một chương trình tỉ mỉ sẽ lần lượt đưa mấy bố con đến những nơi đáng xem, rồi vừa đi, ông vừa ca ngợi cảnh đẹp hoặc giải thích ý nghĩa lịch sử của một công trình kiến trúc. Ma-ni-a không hề để ý đến cá tính đó của nhà giáo. Cô chỉ càng yêu cha tha thiết.
Đối với Ma-ni-a, ông giáo vừa là cha, vừa là một người thầy thông thái, uyên thâm. Quả vậy, gần như môn gì ông cũng tỏ ra am hiểu. Ngày nay khó mà tìm ở một nước Châu Âu, một thầy giáo âm thầm, vô danh, mà hiểu rộng như thế. Phải tất bật sớm chiều mới lo nổi cân bằng chi thu gia đình, người cha tần tảo đó vẫn để thì giờ trau dồi kiến thức khoa học qua những sách báo trầy trật lắm mới có được. Ông nhận thức rõ không những cần học tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp, mà còn phải biết những bước tiến của hóa học và lý học, và ngoài tiếng Ba Lan, tiếng Nga còn phải hiểu tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức. Ông dịch ra tiếng mẹ đẻ nhiều tác phẩm văn thơ ưu tú của nước ngoài. Ông còn làm thơ, và chép cẩn thận vào một quyển vở bìa đen và xanh,
những bài như: Tặng các bạn, một ngày kỷ niệm. Chúc rượu mừng đám cưới. Tặng học trò cũ của tôi.
Cứ đến chiều thứ bảy, cả nhà quây quần bên ấm trà bốc khói, bình văn thơ. Ông giáo ngâm thơ hoặc đọc sách. Con trai và ba con gái ngồi nghe chăm chú say sưa. Người thầy giáo già, trán hói, mặt bầu bầu, điềm đạm, với bộ râu màu tro, rất có tài về khoa nói. Thứ bảy nào cũng vậy, Ma-ni-a lại được nghe các tác phẩm văn học cổ điển do một giọng thân thuộc đọc. Cũng cái giọng khi xưa đã từng kể cho cô nghe chuyện cổ tích, tường thuật du lịch, hoặc giới thiệu cuốn Đa-vít Cơ-pơ-phin của nhà viết tiểu thuyết Anh Đích kơn[5](Charles Dickens-NS) ông giáo vừa đọc, vừa dịch từ tiếng Anh ra tiếng Ba Lan, không vấp váp chỗ nào. Giờ đây, với một giọng rè khan vì bao nhiêu giờ lên lớp ở trường trung học, ông ngâm cho bốn thanh niên chăm chú nghe những tác phẩm của các nhà thơ lãng mạn ở Ba Lan như Xlo-vat xki, Cra-sin-xki và Mic-kê-vich (Adam Mickiewcz-NS), viết về cảnh nô lệ và sự chiến đấu. Những trích đoạn của thiên anh hùng ca “Ông Ta-đê”[6](Pan Tadeuse-NS) hoặc những vần thơ Coóc-đi-an đau thương in trên những trang sách bạc màu mà một số bị Sa hoàng nghiêm cấm vẫn cứ được in ra lén lút.
Ma-ni-a sẽ còn nhớ mãi những buổi chiều ấy. Cô lớn lên trong một môi trường trí thức có một phẩm chất đặc biệt mà ít bạn gái được biết. Một sợi dây vô hình gắn bó cô với người cha đã cố gắng hết sức mình để tạo cho con gái một cuộc sống có ý thức và bổ ích. Cô yêu cha nồng nàn và cảm thông nỗi buồn lắng đọng dưới bề mặt bình thản của ông giáo: nỗi buồn thương nhớ vợ khôn nguôi, nỗi buồn của một công chức bị chèn ép, phải làm những việc thấp kém, nỗi hối hận, day dứt của một con người vốn thận trọng đến lúc này vẫn còn trách mình năm nào đã nhẹ dạ làm tiêu ma vốn liếng của gia đình.
Những lúc không trấn tĩnh được, ông giáo than thở với các con “Sao cha lại có thể hồ đồ như thế nhỉ?Cha vẫn hằng mong cho các con có một học vấn tinh tế nhất, được đi đây đi đó, ra học nước ngoài. Nay thế là lỡ hết rồi! Cha không còn tiền, không giúp các con được. Mà rồi đây, các con lại còn phải nuôi cha. Các con sẽ ra sao?”
Ông giáo thở dài, nhìn đàn con, như chờ đợi những lời phản đối vui vẻ mà mấy anh em Ma-ni-a sẽ nói để an ủi cha. Chúng ngồi đấy, quây quần bên ngọn đèn dầu trong căn phòng xinh xắn, có những bồn cây xanh được chăm
sóc ân cần, làm cho thêm tươi tắn. Bốn mái đầu kiên nghị, bốn nụ cười đảm đang. Những tròng mắt sáng ngời, từ màu xanh biển cả đến màu xám tro, cùng ánh lên một bầu nhiệt tình, một niềm hy vọng. “Cha cứ yên tâm. Chúng con còn trẻ, chúng con khỏe”.
*
* *
Tâm trạng ông giáo cũng dễ hiểu. Năm đó, một năm quyết định đối với tương lai, tình hình kinh tế gia đình không sáng sủa lắm.
Vấn đề rất đơn giản. Đồng lương giáo học của ông sắp về hưu chỉ đủ trả tiền nhà, tiền ăn và công chị giúp việc. Ngay từ bây giờ, mấy anh em Dô dếp, Brô-ni-a, Hê-la, Ma-ni-a phải tự kiếm sống.
Là con nhà giáo, ý nghĩ đầu tiên của cậu con trai và ba cô gái là đi dạy tư. “Sinh viên khoa y nhận kèm cặp ở nhà”, “Nữ sinh có bằng tốt nghiệp nhận dạy toán, hình học, Pháp văn giá phải chăng”. Mấy anh em Xkhua-đốp xki giờ đây đã đứng vào hàng ngũ hàng trăm những người trí thức trẻ ở Vác xô-vi phải đến từng nhà dạy tư để sinh sống.
Cái nghề bạc bẽo. Mới mười sáu tuổi, Ma-ni-a đã biết đến những nỗi vất vả, nhục nhằn mà một cô giáo dạy tư phải chịu đựng.
Mưa hay rét vẫn phải đi dạy, cuốc bộ từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh. Học trò thì bướng bỉnh, chây lười. Lại thêm cái tội các bậc cha mẹ cứ bắt cô giáo chờ mãi trong phòng đợi gió lùa “mời cô nán thêm một lát, em nó xuống ngay đấy” và có khi đến cuối tháng, quên khuấy mấy đồng rúp mà người ta mong đợi từ bao nhiêu lâu rồi và cứ nhắc đến sáng hôm ấy là có.
Mùa đông đến. Ở phố Nô-vô-lip-xki, cuộc sống phẳng lặng trôi, ngày nào cũng giống ngày nào.
Ma-ni-a viết:
“Ở nhà, chẳng có gì mới. Mấy bồn cây vẫn xanh tươi, khóm đỗ quyên vẫn trổ hoa đều. Con chó Lăng-xê vẫn quen ngủ trên tấm thảm nhỏ. Chị Gu xi-a, thợ may theo công ngày vừa chữa xong cái áo mà mình đem nhuộm, trông lịch sự và đẹp. Áo của chị Brô-ni-a cũng xong rồi, khá lắm. Mình chả
viết thư cho ai cả, rất ít thì giờ và ít tiền. Có một bà được giới thiệu đến hỏi giá cả học tư ra sao. Chị Brô-ni-a nói là nửa rúp một giờ, thế mà bà ta chạy như cháy nhà”.
Phải chăng Ma-ni-a chỉ là một cô gái nghèo, chịu khó và biết nghĩ, và chỉ lo có một việc là cố nhận thêm học sinh? Không. Vì nghèo túng, cô đã dũng cảm chịu đựng thiếu thốn, vất vả đi dạy học tư. Nhưng cô lại có một cuộc sống khác phong phú, say sưa – cuộc sống nội tâm. Như mọi cô gái Ba Lan đương thời thuộc tầng lớp mình, Ma-ni-a có một tâm hồn rạo rực mơ ước.
Có một hoài bão chung cho tuổi trẻ Ba Lan thời đó. Đó là Tổ quốc. Lòng tha thiết phục vụ đất nước đi trước cả tham vọng bản thân, trước cả tình yêu và gia đình. Người thì khát khao một cuộc chiến đấu dũng mãnh, táo bạo và rèn dựng những mưu đồ to lớn, hiểm nghèo. Người thì mơ tưởng đấu tranh bằng ngòi bút. Lại có kẻ ôm ấp một ảo mộng huyền bí. Vì Thiên chúa giáo cũng là một nơi ẩn dật, một sức mạnh chống lại kẻ áp bức khác đạo.
Từ lâu, Ma-ni-a đã tỉnh hẳn giấc mơ huyền bí. Cô vẫn đi nhà thờ đều, nhưng là theo tập tục và phép lịch sự mà thôi. Lòng tin ở đấng chí tôn đã bị lung lay từ ngày bà Xkhua-đốp-xka qua đời, cứ phai nhạt dần. Xưa kia, cô hoàn toàn phục tùng người mẹ rất mộ đạo. Nhưng đã sáu bảy năm nay sống với cha, cô bị ảnh hưởng sâu sắc của một người chỉ đi đạo một cách hững hờ, tuy không nói ra, nhưng chính là vô đạo. Lòng sùng đạo thời thơ ấu nay chỉ còn là một khát vọng mơ hồ, mong muốn thờ phụng một cái gì cao cả nhất.
Bạn gái Ma-ni-a có nhiều người yêu nước giàu tinh thần cách mạng. Cô đã từng liều lĩnh cho mượn giấy thông hành nhưng Ma-ni-a không hề có ý nghĩ, muốn tham gia các cuộc ám sát hoặc ném bom vào xe của Sa hoàng hay cả viên thị trưởng. Một phong trào mạnh mẽ dấy lên giữa tầng lớp trí thức trong đó có Ma-ni-a, nhằm gạt bỏ mọi ảo tưởng trống rỗng, mọi luyến tiếc hão huyền, mọi hồ hởi đòi tự chủ bừa bãi, chỉ còn làm việc, vun đắp cho nước Ba Lan một vốn trí thức huy hoàng và phát triển sự nghiệp giáo dục nhân dân mà các nhà chức trách chủ tâm dìm sâu trong dốt nát.
Chủ nghĩa tiến bộ dân tộc ở Ba Lan hồi đó có một hướng đi đặc biệt, do ảnh hưởng các học thuyết triết học thời bấy giờ. Những năm ấy, thuyết thực tiễn của Công-tơ[7](August Comte-NS) và thuyết tiến hóa của Xpen-
xe[8](Herbert Spencer-NS) đã đem lại cho các nước Tây Âu những nếp tư duy mới. Trong khi đó, các công trình của Pat-xtơ[9](Louis Pasteur-NS), Đát-uyn[10](Charles Robert Darwin-NS) và Clốt Béc-na[11](Claude Bernard-NS) nâng cao rất nhiều uy tín của khoa học thực nghiệm. Ở Vác-xô vi cũng như nhiều nơi khác và hơn các nơi có xu hướng xa rời những tác phẩm lãng mạn, xa rời cái thế giới xúc cảm và của nghệ thuật. Lớp trẻ vốn thích những khẳng định dứt khoát, nay bỗng đề cao hóa học và sinh vật học, đặt lên trên cả văn học. Xưa kia tôn sùng các nhà văn, nay họ quay ra chiêm ngưỡng các nhà bác học. Nếu ở các nước độc lập tự do, những luồng tư tưởng trên có thể phát triển công khai, thì ở Ba Lan phụ thuộc mỗi biểu hiện tự do tư tưởng bị coi như khả nghi. Các thuyết tiến bộ phải đi “đường ngầm” để đến với quần chúng.
Ít lâu sau khi trở về Vác-xô-vi, Ma-ni-a chơi thân với một số bạn gái hăng say theo thuyết “thực dụng”. Có một chị tên là Pi-a-set-xka ảnh hưởng sâu sắc đến cô. Chị độ hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, tóc màu hung, người gầy gò, mặt xấu nhưng dễ thương. Chị dạy ở một trường trung học và yêu một sinh viên tên Noóc-blin vừa mới bị đuổi ra khỏi đại học vì hoạt động chính trị. Chị say sưa với những học thuyết hiện đại thời đó.
Ma-ni-a thoạt đầu còn dè dặt e ngại nhưng về sau bị những ý kiến táo bạo của chị Pi-a-set-xka lôi cuốn. Cùng với hai chị Brô-ni-a và Hê-la và một bạn gái tên là Ma-ri-a Ra-kốp-xka, Ma-ni-a được dự các buổi “đại học di động”. Đó là những buổi giảng về giải phẫu, khoa học tự nhiên, xã hội học, do những thầy giáo dạy không lấy tiền cho đối tượng trẻ muốn mở mang kiến thức. Lớp học mở bí mật ở nhà Pi-a-set-xka hay một vài tư nhân khác. Tám hay mười người tụ họp lại, ghi ghi chép chép, truyền tay nhau sách báo, bài toán. Hơi khẽ có tiếng động là run bắn lên. Nếu lộ, chỉ có tù đày.
Bốn mươi năm sau, Ma-ri Qui-ri viết:
“Tôi còn nhớ rất rõ cái không khí xã hội tri thức thân mật ái hữu đó. Phương tiện hoạt động thì nghèo nàn và kết quả chẳng được là bao, nhưng hồi đó, tôi vẫn tin rằng những lý tưởng dìu dắt mình, là duy nhất có thể đưa đến một tiến bộ xã hội thật sự. Không thể mong xây dựng một thế giới tốt hơn nếu không cải tạo con người. Với mục đích ấy, mỗi chúng ta phải làm việc để tự nâng cao bản thân, đồng thời nhận lấy phần trách nhiệm của mình
trong cuộc sống của nhân loại. Chúng ta có bổn phận giúp đỡ những người mà ta thấy có thể giúp ích nhiều nhất”.
Vai trò trường “đại học di động” không chỉ bổ túc cho những thanh niên mới ở trường trung học ra. Sự nghiệp giáo hóa này được cả sự tham gia của học sinh. Được chị Pi-a-set-xka cổ vũ, Ma-ni-a nhận dạy học cho dân nghèo. Cô đến đọc sách cho chị em công nhân ở một xưởng may và dần dà xây dựng cho chị em một tủ sách tiếng Ba Lan.
Làm sao tưởng tượng được sự say mê của cô gái mười bảy tuổi. Tuổi thơ ấu của cô đã trôi qua trước những sinh linh bí ẩn là dụng cụ vật lý của bố. Và ngay trước khi khoa học tự nhiên được mọi người chú ý, ông giáo đã truyền cho con gái lòng ham muốn say mê hiểu biết. Nhưng đối với một cô gái dạt dào sức sống sôi sục, cái thế giới ấy chưa đủ. Giờ đây, cô đang bước vào các lĩnh vực khác của nhận thức về thế giới. Phải nắm được thuyết thực dụng của Công-tơ. Phải tiếp thu tiến triển xã hội! Ma-ni-a không chỉ ao ước học toán và hóa. Cô còn muốn chấn chỉnh lại trật tự xã hội, và đem ánh sáng kiến thức đến đông đảo quần chúng nhân dân.
Giữa những hoài bão, ước mơ đó, Ma-ni-a chưa thấy rằng cần có một sự lựa chọn. Cô chưa ý thức được đâu là ý thức dân tộc, đâu là tư tưởng nhân đạo và đâu là nguyện vọng của người trí thức.
Thật lạ là cô vẫn giữ được bản chất dịu dàng, dễ thương trong tình trạng tao loạn ấy, giữa những học thuyết ấy. Được tiếp thu ở cha mẹ một nền giáo dục chặt chẽ, cao quý và tấm gương sáng của những con người thanh khiết đã chăm sóc đến tuổi thanh xuân của cô, Ma-ni-a đã tránh được nhiều điều cực đoan. Bản chất cô mang một phong thái đoan trang, một vẻ duyên dáng, sau này sẽ luôn đi cùng với lòng hăng hái của cô, cả những lúc đắm đuối nhất. Trong đời Ma-ni-a, chưa hề có lúc nào biểu lộ phẫn uất hoặc bừa bãi phóng đãng. Tuy tính khẳng khái, tự do, chưa bao giờ nói một lời tục tằn, chưa bao giờ cô nghĩ đến châm hút một điếu thuốc lá...
Sau những giờ ôn tập cho lớp học khu phố, giảng bài cho công nhân xưởng và những buổi học lén lút về giải phẫu ở “đại học di động”, nếu còn rảnh Ma-ni-a thường đóng cửa ngồi nhà đọc và viết. Thời kỳ chỉ xem tiểu thuyết “giải trí nhẹ nhàng” đã qua rồi. Giờ đây Ma-ni-a đọc Đốt-xtôi-ép xki[12](Dostojeewki-NS), Gôn-xa-rốp[13](Gontscharow-NS), “Những
người được giải phóng” của Bô-let-xoáp Prút-xơ[14](Boleslav Pruss-NS) và tìm thấy trong tác phẩm này hình ảnh của chính bản thân mình và của chị em phụ nữ Ba Lan khao khát học hỏi. Sổ tay nhật ký của cô cho ta biết cuộc sống nội tâm của một thanh niên đầy tham vọng và quá dồi dào năng khiếu nên gần như mất phương hướng. Mười trang liền về bút chì minh họa thơ ngụ ngôn Pháp của La Phông-ten[15](La Fontaine-NS). Các bài thơ tiếng Ba Lan và tiếng Đức. Một trích đoạn của Mắc Noóc-đô[16](Max Nordot NS), nhiều đoạn của Kra-zit-ki[17](Ignacy Krasicki-NS), Xlô-vat-xki[18] (Juliusz Slovacki-NS) và Hai-nơ[19](Heinrich Heine-NS). Ba trang của Rơ năng[20](Ernest Ronan-NS) nói về “Cuộc đời Giê-su”, “không ai bằng Người, đã đề cao lợi ích của Loài người trên những phù hoa trần thế”. Những tiểu luận triết học bằng tiếng Nga, một đoạn của Luy-Blăng[21]g (Louis Blanc-NS), một trang của Bran-đét-xơ[22](Georges Brandes-NS). Rồi lại đến tranh vẽ hoa lá, giống vật. Lại thơ của Hai-nơ. Rồi đến Mu xê[23](Alfred de Musset-NS), Suy-li Pruy-đơm[24](Sully Prudhomme NS)và Phơ-răng-xoa Cô-pê[25](François Coppé) do Ma-ni-a dịch ra tiếng Ba Lan.
Thật là mâu thuẫn. Người con gái có tư tưởng “tự giải thoát”, không thích diện nên đã cắt phăng mớ tóc hung duyên dáng đi, lại vẫn than thở một mình và chép lại nguyên những vần thơ tình tứ và hơi nhạt nhẽo như:
Nếu anh cứ nói anh yêu
Mắt xanh em có thấu điều này chăng?
Cố nhiên là Ma-ni-a không bao giờ nói cho các bạn gái cố chấp, rằng cô thích bài “Vĩnh biệt, Suy-dông em” hoặc bài “Chiếc bình vỡ”, có lẽ cô cũng không tự thú điều đó ngay cả với bản thân mình. Ma-ni-a thường ăn mặc nghiêm chỉnh, nhưng bộ mặt non trẻ lạ lùng với mớ tóc ngắn cũn cỡn chẳng những không làm nổi bật được phong cách của cô mà còn làm cô gái trông ngây thơ hơn.
Hết đi học lại nói chuyện, đến đâu Ma-ni-a cũng hăng say tranh luận.
Cô say sưa ngâm cho các bạn nghe thơ Át-ních đã thành niềm tin tưởng của cả nhóm:
Hãy tìm tia sáng trong vắt của chân lý
Hãy tìm những con đường mới mẻ chưa ai đi
…Tầm mắt con người dù đưa xa đến đâu ,
Vẫn sẽ không hết những điều lạ lùng, kỳ diệu
…Mỗi thời đại đều có ước mơ hoài bão
Và bỏ lại những giấc mộng hôm qua
Nào các bạn, hãy cầm lấy bó đuốc của tri thức
Hãy làm nên một sự nghiệp mới trong công việc các thế kỷ, Và xây dựng lên Lâu đài của Tương lai…
Trên một tấm ảnh chụp cùng chị Brô-ni-a, và tặng Ma-ri-a Ra-kốp xka, Ma-ni-a viết: “Tặng một bạn “thực dụng lý tưởng” của hai chị em theo thuyết lý tưởng nhưng có đầu óc thực tế”.
Hết ngày này đến ngày khác, hai chị em “lý tưởng thực tế” đó ngồi bàn tính với nhau, cô thảo ra một kế hoạch cho cuộc sống ngày mai. Tiếc thay! Cả Át-ních lẫn Bran-đét-xơ đều không chỉ được cách cho hai cô được theo học đại học ở một thành phố vẫn cấm đoán phụ nữ vào trường đại học. Hai nhà tư tưởng đó cũng chẳng đem lại cho hai cô phép màu nhiệm có thể gây nhanh một vốn lớn với những buổi dạy tư nửa rúp một giờ.
Ma-ni-a vốn giàu độ lượng, càng thấy đau khổ. Đứa con út của gia đình ấy tự thấy có trách nhiệm đối với tương lai các anh chị. Cũng may là không cần phải lo cho anh Dô-dép và chị Hê-la. Dô-dép sắp ra bác sĩ. Còn chị Hê-la xinh tươi và sôi nổi nhiệt tình đang lưỡng lự giữa đi về sư phạm hoặc trở thành ca sĩ. Hê-la có giọng hát mê ly, tốt nghiệp cả hai trường. Đã nhiều nơi dạm hỏi mà chị chưa ưng đám nào.
Nhưng còn Brô-ni-a, làm sao giúp đỡ Brô-ni-a đây? Từ khi rời ghế nhà trường, Brô-ni-a về quán xuyến gia đình. Thôi thì mọi việc nhà việc cửa
đều đổ lên đầu chị: hết đi chợ búa, mua thức ăn, lo thay đổi món lại điều khiển việc nấu mứt. Dần dà, Brô-ni-a trở thành một người nội trợ rất đảm đang. Nhưng chính cái đó làm chị chán nản. Chị không muốn chỉ có thế. Ma ni-a hiểu thấu tâm tư chị mình. Brô-ni-a muốn đi học đại học Y ở Pa-ri rồi về Ba Lan làm thầy thuốc ở nông thôn. Chị cũng đã dành dụm được ít nhiều để thực hiện nguyện vọng đó. Nhưng học ở nước ngoài tốn kém lắm! Còn phải đợi bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm nữa?
Ma-ni-a luôn luôn suy nghĩ về nỗi băn khoăn day dứt của chị mà lãng quên đi mơ ước của bản thân mình. Bản chất cô vốn vẫn như vậy. Vì chính cô cũng bị nơi “đất thánh” là Pa-ri quyến rũ. Ma-ni-a cũng đã từng ao ước vượt qua mấy ngàn cây số để đến Xoóc-bon học cho thỏa lòng khao khát hiểu biết rồi mang về nước vốn kiến thức quý giá, dạy học ở Vác-xô-vi cho đồng bào ruột thịt.
Sở dĩ Ma-ni-a để tâm đến nghề nghiệp của chị là vì giữa hai chị em có những tình cảm thắm thiết hơn cả tình máu mủ. Từ ngày bà giáo mất đi, hai chị em càng quấn quít yêu thương nhau, bổ sung cho nhau: chị có vốn sống thực tế và từng trải hơn, được em gái phục và tin yêu, em thường đem công việc tỉ mỉ hằng ngày ra hỏi ý kiến chị; Ma-ni-a thì say đắm hơn, e lệ hơn, là một người bạn gái tuyệt diệu của Brô-ni-a, một tình bạn đượm lòng biết ơn và bao hàm một sự đền đáp.
Một hôm, Brô-ni-a đang mải gạch xóa những con số trên một mảnh giấy, tính đi tính lại không biết bao nhiêu lần khoản tiền đã có, hay nói cho đúng hơn, khoản tiền chưa có, thì Ma-ni-a bất giác nói:
- Chị này, từ ít lâu nay, em đã nghĩ lung về vấn đề của chúng ta. Em cũng đã bàn với cha. Sẽ có cách.
- Cách gì?
Cô xích lại gần chị. Chuyện này khá tế nhị, phải cân nhắc từng lời thì chị mới nhận.
- Đây nhé. Chị liệu có thể ở Pa-ri được bao lâu với số tiền đã gom góp được?
- Không kể tiền tàu thì được một năm ăn học ở Đại học – Brô-ni-a trả lời rất nhanh – nhưng học Y phải năm năm, hẳn em cũng biết.
- Đúng thế. Vậy thì, chị nhỉ, cứ dạy tư nửa rúp một giờ thì chẳng bao giờ chúng mình thoát khỏi cảnh này. Thế thì sao ta không thể kết hợp với nhau. Nếu cứ phấn đấu riêng rẽ thì chả người nào đi được. Nhưng bằng theo cách em tính thì chỉ vài tháng nữa, sang thu, chị có thể lên tàu đi Pháp.
- Ma-ni-a, em điên à?
- Không. Bước đầu, chị hãy tiêu tiền của chị. Em sẽ thu xếp gửi tiền cho chị sau. Và cả cha nữa. Đồng thời, em gây vốn để rồi cũng đi học. Khi chị đã ra bác sĩ, sẽ đến lượt em đi. Lúc ấy, chị sẽ giúp em.
Brô-ni-a nước mắt lưng tròng, ý nghĩa của đề nghị này cao cả làm sao! Nhưng còn một điểm chưa rõ trong chương trình vừa phác ra.
- Chị chưa hiểu. Làm thế nào em có thể vừa kiếm được đủ ăn cho mình, kiếm thêm giúp chị mà lại còn để dành được nữa?
- Đúng thế! Ma-ni-a khẽ đáp – Đó chính là “Cách” của em. Em sẽ làm cô giáo dạy tư. Ăn, ở mặc do chủ nhà chịu. Mỗi năm được bốn trăm rúp, hoặc hơn nữa. Như vậy chẳng phải mọi việc đều ổn hay sao?
- Ma-ni-a, Ma-ni u-a yêu dấu của chị!
Chẳng phải Ma-ni-a chọn cái nghề phụ thuộc ấy mà Brô-ni-a cảm động. Cô cũng theo thuyết lý tưởng như em gái , coi khinh những thành kiến của xã hội. Không... Cô xúc động khi nghĩ rằng vì muốn cho chị được học, ngay từ bây giờ Ma-ni-a phải tự ghép mình vào một cái nghề không hứng thú gì và phải khổ tâm chờ đợi. Vì thế cô cưỡng lại:
- Nhưng tại sao người đi trước lại là chị? Sao không đổi ngược? Em có năng khiếu, có thể còn hơn cả chị.
Ồ, Brô-ni-a, chị còn hỏi tại sao à? Thì tại chị đã hai mươi, mà em mới mười bảy. Tại chị đã giẫm chân tại chỗ hằng bấy lâu rồi, mà em, em còn nhiều thời gian. Cha cũng bảo: đứa nhớn cần đi trước. Khi đã mở phòng khám bệnh, chị sẽ thừa tiền để giúp em. Nghĩa là em mong như thế. Có vậy, chúng ta mới làm được một việc thông minh, thiết thực.
*
* *
Một buổi sáng tháng chín năm 1885, trong phòng đợi của một sở tìm việc, có người con gái lặng lẽ ngồi chờ đến lượt mình. Có hai chiếc áo dài, cô đã chọn mặc chiếc áo trông chỉnh tề nhất. Dưới cái mũ đã bạc màu, mớ tóc mới nuôi lại mấy tháng nay cặp còn chưa gọn. Một cô giáo, dù có tư tưởng “thực dụng” đi nữa, cũng không được để tóc ngắn. Một cô giáo phải ăn mặc gọn ghẽ, không có gì đặc biệt khác người.
Cửa mở, một chị gầy gò, vẻ mặt chán nản, lững thững đi qua phòng đợi, gật đầu chào Ma-ni-a trước khi về. Chị cùng cảnh ngộ như Ma-ni-a. Hai người lúc nãy đã làm quen với nhau, họ ngồi trên mấy chiếc ghế mây là đồ đạc duy nhất trong phòng này. Họ đã cùng chúc nhau may mắn.
Ma-ni-a đứng dậy. Bất giác, cô thấy e ngại, tay cứ nắm chặt một tập giấy tờ và thư từ. Trong buồng bên, sau một bàn giấy nhỏ, có một bà to béo.
- Cô muốn gì?
- Tôi tìm một chỗ dạy tư.
- Cô có giấy tờ gì không?
- Tôi đã từng dạy tư nhiều nơi. Đây là nhận thực của cha mẹ học sinh. Còn đây là bằng tốt nghiệp.
Nhìn qua những chứng chỉ mà Ma-ni-a vừa đưa, với con mắt nhà nghề, bà giám đốc sở bỗng chăm chú. Bà ngẩng đầu, ngắm cô thiếu nữ kỹ hơn.
- Cô biết tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Ba Lan và tiếng Anh phải không?
- Vâng, tiếng Anh thì hơi kém, nhưng tôi có thể dạy các môn trong chương trình. Tôi mới tốt nghiệp trường trung học với huy chương vàng.
- À, vậy ý cô thế nào?
- Bốn trăm rúp một năm và đảm bảo ăn ở.
- Bốn trăm, – bà ta nhắc lại, mặt vẫn thản nhiên – Cha mẹ cô làm gì? - Cha là giáo sư trường trung học.
- Được. Tôi sẽ thẩm tra. Có thể có việc cho cô. À, cô bao nhiêu tuổi?
- Mười bảy – Mặt đỏ bừng, Ma-ni-a nói tiếp với một nụ cười động viên:
- Sắp mười tám rồi.
Bà ta ghi lên hồ sơ bằng một kiểu chữ viết ngả mẫu mực:
“Ma-ni-a Xkhua-đốp-xka. Chứng chỉ tốt. Có học lực. Công việc muốn làm: Cô giáo. Lương: bốn trăm rúp một năm”.
Bà giả Ma-ni-a giấy tờ:
- Cảm ơn cô. Khi nào có việc, tôi sẽ gửi giấy báo.
CHƯƠNG V
CÔ GIÁO
Thư của Ma-ni-a cho em họ là Hăng-ri-ét Mi-khai-lốp-xka: “Hăng-ri-ét mến yêu!
Kể từ ngày xa rời Hăng-ri-ét, cuộc sống của chị không khác chi một người tù. Chị đến ở nhà một luật sư B. như em đã biết. Một địa ngục trần gian mà ngay đối với kẻ tử thù, chị cũng không cầu cho phải đến sống ở đây. Quan hệ của chị với bà B. đã lạnh nhạt đến nỗi chị không nén nổi nữa và nói thẳng cho bà ấy biết. Vì bà ta “hâm mộ” chị không kém gì chị “hâm mộ” bà ta nên đôi bên rất hiểu nhau.
Đây là một trong những nhà giàu mà mỗi bận có khách khứa, người ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp – một thứ tiếng Pháp tồi một cách kinh khủng. Hóa đơn để đến hằng nửa năm không chịu thanh toán, thế nhưng họ vẫn tiêu xài như phá rồi lại bủn xỉn như tí dầu đèn. Thuê năm người làm, rồi ra vẻ tự do, phóng khoáng, nhưng thật ra lại đần độn đến mức lú lẫn. Ngoài mặt thì giọng ngọt xớt, nhưng lòng độc địa, nói xấu chẳng từ ai...
Thế là chị hiểu thêm một chút về loài người. Chị nhận ra rằng các nhân vật miêu tả trong văn học là có thật và mình không nên gần những kẻ mà giàu sang làm cho vẩn đục đi.”
Bức họa nghiêm khắc, do một con người không có ác ý cho ta thấy Ma-ni-a còn quá ngây thơ và ảo tưởng. Do ngẫu nhiên vào một gia đình Ba Lan khá giả, cô những mong gặp những cha mẹ học trò sẵn thiện cảm, những trẻ nề nếp dễ bảo. Lòng cô chỉ muốn quyến luyến, yêu thương. Sự thất vọng mới phũ phàng làm sao.
Do đâu mà chí hướng và thiên tài của Ma-ni-a không được phát hiện sớm hơn? Tại sao người ta không cho cô đi học ở Pa-ri mà lại để cô đi dạy tư? Muốn trả lời được câu hỏi này, phải nhìn vào phẩm chất cao quý và sự
thông minh tuyệt vời của mấy anh em con nhà giáo đó.
Bên cạnh ba thanh niên ưu tú khác thường, người nào cũng học giỏi, đỗ cao, cũng ham làm việc và giàu mơ ước thì cô gái sau này trở thành bà Ma-ri Quy-ri, lúc đó chẳng có gì đặc biệt... Giá như ở vào một môi trường dốt nát, kém cỏi, những năng khiếu của cô sẽ nổi bật và làm cho người ta ngạc nhiên, thán phục. Nhưng ở đây, dưới cùng một mái nhà có Dô-dếp, Brô-ni-a, Hê-la và Ma-ni-a, bốn anh em đều học tập xuất sắc, đều rất có khiếu và hiểu biết rộng. Thế là từ già đến trẻ, chẳng ai nhìn ra trong bốn thanh niên đó dấu hiệu của một bộ óc vĩ đại. Chưa ai chú ý đến những tia sáng đầu tiên của Ma-ni-a. Chẳng ai ngờ rằng Ma-ni-a có một bản lĩnh khác anh và các chị. Bản thân cô cũng không biết.
Ma-ni-a khiêm tốn gần như tự ti khi so sánh mình với anh chị. Nhưng ở vào những gia đình trưởng giả mà cô có dịp lui tới trong nghề nghiệp của mình, cô nổi bật lên hẳn. Chính Ma-ni-a cũng nhận thấy và thích thú điều đó.
Người con gái vốn dĩ không coi trọng những đặc quyền đặc lợi do tông tích, phú quý đem lại, mà cũng chẳng bao giờ để cái ghen ghét lởn vởn trong tâm trí, nay lại tự hào về dòng dõi của mình và về nền giáo dục đã tiếp thu được. Rồi đây, qua những nhận xét về các “ông chủ” của cô, thỉnh thoảng ta thấy toát lên lòng khinh thị và một sự kiêu hãnh ngây thơ.
Từ những kinh nghiệm vào đời đầu tiên, cô không chỉ rút được nhiều bài học triết lý về con người và về “những kẻ mà giàu sang làm cho vẩn đục đi”. Cô còn thấy rằng chương trình bàn với Brô-ni-a trước đây cần phải điều chỉnh lại.
Sở dĩ cô xin việc làm ở Vác-xô-vi là để có thể giải quyết kinh tế mà không phải đi xa. Đối với một cô giáo mới tập sự, dù sao, ở thành phố cũng đỡ vất vả. Được gần nhà, hằng ngày được nói chuyện với cha, vẫn liên lạc với chị em bạn ở “đại học di động” và biết đâu còn có dịp học thêm, theo các lớp buổi tối? Nhưng đã hy sinh, không thể hy sinh nửa vời. Cuộc sống mà cô gái tự chọn cho mình chưa đủ khắt khe! Ma-ni-a chưa kiếm ra nhiều tiền, nhất là lại tiêu quá mức. Lương lĩnh về cứ chi lắt nhắt hằng ngày, đến cuối tháng chẳng còn mấy nữa. Thế mà đã đến lúc phải gửi tiền cho chị. Brô-ni-a đã đi Pa-ri, hiện đang sống chật vật ở khu La-tinh. Ông giáo thì sắp về hưu. Rồi đây, ông cũng cần được giúp. Làm thế nào?
Hai ba tuần trước, có người giới thiệu một chỗ dạy tư ở nông thôn,
lương khá. Ma-ni-a không trù trừ lâu. Cô nhận đi ngay địa phương, dấn mình vào những nơi chưa hề quen biết. Hàng năm sẽ phải sống hoàn toàn cô đơn, xa cách họ hàng thân thuộc. Nhưng có hề chi! Có lương cao, và ở nơi sơn cùng thủy tận đó, càng đỡ tiêu pha.
- Thế mà ta không nghĩ ra từ trước! Mình vốn thích sống ở nơi thoáng đãng! – Ma-ni-a tự nhủ.
Thư cho cô em họ Hăng-ri-ét:
...“Sau khi suy đi tính lại, chị đã quyết định nhận một chỗ ở thôn quê, năm trăm rúp một năm, bắt đầu làm từ tháng Giêng. Chính cái nơi được giới thiệu cách đây ít lâu mà chị đã bỏ lỡ. Họ không bằng lòng cô giáo trước nên nhờ đến chị. Rất có thể là rồi chị cũng chẳng làm cho họ hài lòng hơn!”
Ngày mồng một tháng Giêng 1886, ra đi trong rét mướt. Một kỷ niệm buồn trong đời Ma-ni-a. Cô can đảm từ biệt cha. Một lần nữa, Ma-ni-a đọc cho ông giáo ghi địa chỉ của cô:
“Ma-ni-a Xkhua-đốp-xka
Nhà ông bà Z
Ở Schuc-ki qua Prát-snich”.
Ngồi trên xe lửa, Ma-ni-a còn nhìn lại mãi hình dáng thâm thấp của ông giáo và tươi cười với cha. Rồi bỗng cô cảm thấy một nỗi hiu quạnh nặng nề chưa từng biết đến trước đây. Lần đầu tiên trong đời, cô sống một mình một thân.
Một nỗi hoảng sợ đột ngột đến với cô gái mười tám tuổi ấy. Trong cái toa xe nặng nề đưa cô đến một gia đình xa lạ, Ma-ni-a bất giác rùng mình, lo hãi. Nhỡ ra chủ mới lại như chủ cũ thì sao? Nhỡ ra ông giáo ở nhà đau ốm trong khi con cái đi vắng cả thì thế nào? Chẳng biết cô có còn gặp lại cha nữa không? Việc cô đang làm phải chăng là điên rồ? Đầu óc cứ quay cuồng với bao nhiêu câu hỏi. Trời tối dần. Ngồi nép cạnh cửa toa xe, cô lấy tay gạt nước mắt cứ ròng ròng, lặng nhìn cánh đồng tuyết phủ mênh mông đang lướt qua trước mặt...
Ông Z, người nhận Ma-ni-a đến làm cô giáo dạy tư, là quản lý một
phần đất đai cho một họ hoàng tộc, cách Vác-xô-vi một trăm cây số về phía Bắc. Sau ba giờ ngồi tàu, bốn giờ ngồi xe trượt tuyết trong một chiều đông bao la, phẳng lặng, Ma-ni-a đến nơi giữa một đêm băng giá. Cô đã mệt lả, chỉ thoáng nhìn thấy trong giấc mơ bóng dáng cao lớn của người chủ nhà, khuôn mặt lu mờ của bà vợ và những cặp mắt hau háu, tò mò của mấy đứa trẻ.
Một chén trà nóng, mấy lời niềm nở, đón chào cô giáo mới. Xong, bà Z dẫn Ma-ni-a lên buồng của cô ở trên gác ba, rồi xuống ngay, để mặc cô gái một mình với mấy thứ hành lý nghèo nàn.
*
* *
Ma-ni-a gửi em họ là Hăng-ri-ét, ngày 3 tháng hai 1886: “Thế là chị đến đây. Thấm thoát được một tháng rồi. Và đã bắt đầu thích nghi với hoàn cảnh mới. Cho đến nay, thấy khá thoải mái. Ông bà Z rất tốt. Chị đã làm quen với cô gái lớn là Brôn-ka, nhờ vậy mà cuộc sống cũng vui thêm. Học trò của chị là em gái An-gia, lên mười, ngoan, chỉ phải cái rất bừa bãi vì quá được nuông chiều. Nhưng không thể đòi hỏi cái gì cũng hoàn toàn!
Ở đây, người ta không làm gì cả, chỉ nghĩ đến vui chơi. Và vì không muốn đàn đúm, mà chị trở thành câu chuyện chế giễu trong vùng. Chả là một tuần lễ sau khi đến đây, chị đã thoái thác không đi tham gia tối vũ ở Các-vát-sơ, một nơi mà không có chuyện gì trong địa phương lại không được đem ra đây bàn tán. Cũng may là chị không đi, vì ông bà Z, mãi đến trưa hôm sau mới về.
... Mỗi ngày chị làm việc bảy giờ, bốn với An-gia, ba với Brôn-ka. Cũng khá nhiều, nhưng đành vậy! Buồng chị ở tầng thượng. Rộng, yên tĩnh, dễ chịu. Ông bà Z rất đông con: ba trai ở Vác-xô-vi (một học đại học, hai ở ký túc xá). Ở nhà có Brôn-ka 18 tuổi, An-gia 10 tuổi, Sta-xơ ba tuổi và cuối cùng là bé gái Ma-rich-na mới sáu tháng. Thằng Sta-xơ nhộn lắm. Nghe người giữ nó giải thích rằng Chúa trời ở khắp nơi, Sta-xơ tỏ vẻ lo âu trên khuôn mặt xinh xắn, hỏi: “Thế nó có đuổi bắt em không? Nó có cắn không?” làm mọi người được một trận cười rũ rượi!”
Ma-ni-a ngừng viết, đặt bút trên cái bàn kê gần cửa và bước ra ngoài bao lơn, mặc dầu thời tiết đã lạnh. Quang cảnh bày ra trước mắt làm cô phì
cười. Thật khôi hài là đi về một nơi ở vùng thôn quê hẻo lánh, cứ chắc mẩm là sẽ đến trước một khung cảnh thôn dã với những đồng cỏ, rừng rú, rồi vừa mở cửa sổ đã thấy một ống khói nhà máy cao sừng sững, che kín và phun khói đen làm bẩn cả bầu trời.
Đằng đẵng hàng mấy cây số, không một lùm cây, không một mảnh đồng cỏ, chỉ thấy ruộng củ cải đường mênh mông đơn điệu. Thu đến, củ cải rỡ còn đất, chất đầy xe bò từ khắp nơi chậm rãi ùn về xí nghiệp, là một xưởng làm đường. Mọi công việc của nông dân ở đây, từ gieo, xới đến gặt hái đều nhằm phục vụ nhà máy. Những dãy nhà gạch đỏ buồn tẻ của xưởng đã thu hút về đây những túp lều tranh của cái làng bé nhỏ Kra-xi-ni-ét. Ngay con sông cũng biến thành nô lệ của nhà máy, chảy đến thì trong vắt, chảy đi thì đục ngầu, bọt váng nhầy nhụa.
Ông Z, là một kỹ sư nông học, rất theo sát những kỹ thuật hiện đại. Ông có nhiều cổ phần của xưởng đường và điều khiển việc khai thác hai trăm héc-ta củ cải. Trong gia đình này cũng như ở nhiều nhà khác, mọi câu chuyện đều hướng về công việc của xưởng đường.
Mình rơi vào đây, kể ra chẳng đến nỗi nào, Ma-ni-a vừa đóng cửa sổ vừa thầm nghĩ. Nhà máy chẳng có gì là đẹp, dù sao, chính nhờ nó mà cái địa phương hiu quạnh này mới nhộn nhịp hơn các nơi khác một chút. Vẫn thường có người ở Vác-xô-vi đi đi về về. Ngay trong xí nghiệp có một môi trường trí thức là kỹ sư và giám đốc khá thú vị. Có thể đến đây mượn sách báo, bà Z khó tính nhưng không xấu bụng. Đôi lúc bà thiếu tế nhị với cô giáo Ma-ni-a có lẽ vì bản thân bà trước đây cũng đi dạy tư và bước lên phú quý quá nhanh. Ông Z , một kỹ sư rất lịch thiệp, cô gái cả thật đáng yêu, bọn trẻ cũng dễ chịu. Được như thế là may mắn rồi!
*
* *
Một cô giáo tại gia, lại ở thôn quê viết rất nhiều thư, thường khi chỉ là để được thư trả lời cùng các tin tức thành phố. Hết tuần rồi hết tháng, thời gian chậm rãi trôi. Ma-ni-a kể cho họ hàng và bè bạn từng chi tiết cuộc đời làm thuê của mình, từ công việc âm thầm hằng ngày đến những lúc “hầu chuyện” và giải trí miễn cưỡng.
Hết biên thư cho bố lại viết thư cho anh và hai chị. Cô cũng viết thư
đến cho Ca-di-a bạn cũ ở trường trung học và cho Hăng-ri-ét, cô em họ mới lấy chồng ở Lô-vô, một tỉnh nhỏ, và đến giờ vẫn là một con người “thực dụng” sôi nổi. Ma-ni-a thổ lộ tâm tư, nói ra những thất vọng cùng ước mơ thầm kín của mình.
Thư cho Hăng-ri-ét, ngày 5 tháng 4 năm 1886.
“Chị sống ở đây như mọi người trong cảnh ngộ này quen sống. Ngoài việc dạy học, chị cũng học thêm, nhưng không dễ đâu, cứ khách đến là cả thời khóa biểu trong ngày bị đảo lộn. Nhiều lúc rất bực mình vì con bé An-gia được thể cứ chơi tràn, mỗi lần ngừng học giữa giờ là không tài nào bảo nó học lại được. Hôm nay lại có chuyện. Buổi sáng, đến giờ rồi mà nó lại không chịu dậy. Sau cùng chị phải lẳng lặng cầm tay nó kéo ra khỏi giường. Trong bụng, mình giận điên lên được. Em không thể mường tượng những chuyện nhỏ nhặt ấy tai hại như thế nào. Cứ mỗi lần như vậy là chị mệt hàng giờ. Nhưng mệt thì mệt vẫn phải cương quyết với nó.
Còn khách khứa ấy à? Toàn là kiểu ngồi rỗi lắm chuyện về hàng xóm, về những kiểu khiêu vũ, hội hè v.v... Nói về khiêu vũ thì khó mà tìm ra một nơi nào có những cô gái giỏi hơn vùng này. Ở đây, cô nào cũng nhảy tuyệt đẹp. Họ không phải là những người xấu, có nhiều cô rất thông minh nhưng không được học hành mở mang trí óc, mà còn bị quá nhiều hội hè không đâu làm cho phân tán. Còn thanh niên thì chẳng mấy người gọi là thông minh. Đừng nói đến “thuyết thực dụng” hoặc “vấn đề thợ thuyền” với trai gái ở đây. Chẳng khác gì nói trước bức vách. Có khi họ còn chưa hề nghe thấy những chữ đó.
Nếu em biết được chị đi đứng mẫu mực như thế nào! Chủ nhật và ngày lễ đến nhà thờ đều, không bao giờ vin cớ nhức đầu hay mệt mỏi để ngồi nhà. Không hề đả động đến vấn đề giáo dục đại học của phụ nữ. Nói chung trong lời nói, chị luôn luôn giữ đúng cương vị của mình.
Lễ Phục sinh này chị sẽ về Vác-xô-vi vài ngày. Cứ nghĩ đến trước là lòng lại rạo rực, phải cố kiềm, nếu không đã kêu lên vì sung sướng”.
*
* *
Tuy nói mỉa mai cách “đi đứng mẫu mực” của mình như vậy, trong
lòng Ma-ni-a vẫn ủ một tâm hồn táo bạo, khác thường, không chịu nổi lối sống khép nép theo khuôn khổ. Vẫn còn đây cô gái “thực dụng lý tưởng” nóng lòng muốn giúp ích, nóng lòng phấn đấu.
Ngày nào, Ma-ni-a cũng gặp trên con những con đường lầy lội trẻ em nông thôn, trai cũng như gái quần áo rách rưới, tiều tụy, vẻ mặt láu lỉnh dưới những mớ tóc rối bù. Một ý định nở trong tâm trí cô. Những tư tưởng tiến bộ mà lòng hằng tha thiết, sao không đem nó ra thực hành trong cái thế giới nhỏ ở vùng Schuc-ki này? Năm ngoái cô còn mơ ước “soi sáng” cho dân. Thì cơ hội là đây! Trẻ em trong làng phần lớn mù chữ. Số rất ít em được đến trường thì lại học vần chữ cái Nga. Lúc này mà mở lén lút một lớp dạy tiếng Ba Lan, khêu gợi cho những bộ óc non trẻ ấy biết vẻ đẹp của tiếng nói và của lịch sử dân tộc thì hay biết mấy!
Brôn-ka được cô giáo ngỏ ý, đồng tình ngay và sẵn sàng giúp đỡ.
- Chị cứ nghĩ cho chín – Ma-ri-a thấy cần làm dịu bớt sự bồng bột của bạn – Nếu có kẻ tố giác thì hai chúng mình sẽ bị đày đi Xi-bê-ri đấy!
Nhưng không gì dễ lây bằng lòng dũng cảm. Nhiệt tình và quyết tâm ánh lên trong khóe mắt của Brôn-ka, Ma-ni-a chỉ còn xin phép chủ nhà và đi đến các túp lều tranh giải thích và hô hào một cách kín đáo.
Thư cho Hăng-ri-ét, ngày 3 tháng 10 năm 1886:
“Chị có thể xin phép nghỉ hè nhưng chẳng biết đi đâu nên ở lại Schuc-ki. Cũng không muốn tốn tiền đi lên núi Các-pát. Hằng ngày, hết dạy An-gia, lại đọc sách với Brôn-ka rồi còn kèm con một bác nông dân mỗi ngày một giờ để chuẩn bị cho nó thi vào trường. Brôn-ka và chị còn kèm hai tiếng cho con em nông dân. Tất cả đến mười đứa, gần như một lớp nhỏ. Chúng học ngoan lắm, nhưng việc của chị lắm lúc cũng rất khó. Chỉ được cái an ủi là dần dà, kết quả khá hơn và cũng nhanh. Một ngày của chị là như thế đấy. Khá bận. Hơn nữa, chị còn học thêm cho mình”.
Cũng viết cho Hăng-ri-ét, tháng 12 năm 1886:
“Hiện giờ chị đã có mười tám em học sinh nông dân. Cố nhiên chúng không đến học cùng một lúc, vì như vậy không tài nào dạy được, mà ngay như thế này, mỗi thứ năm cũng mất đến hai giờ, thứ bảy còn kéo dài hơn, đến năm tiếng. Buồng của chị ở tầng thượng, có lối đi riêng, đi thang gác
ngoài sân, không phiền đến ai cả. Niềm vui lớn và nguồn an ủi chính của chị cũng là ở mấy em bé đó”.
Thế là Ma-ri-a kèm An-gia học bài, lại dạy thêm cho Brôn-ka và còn nhắc nhở Giu-lếch mới ở trường trung học Vác-xô-vi về, ngồi học cứ ngủ gà ngủ gật , chốc chốc lại phải gọi. Vẫn chưa đủ. Việc xong đâu đấy, cô gái đảm này lên buồng mình, ngóng chờ những tiếng giày ủng nhỏ lẫn với tiếng chân đất bước lên cầu thang, báo hiệu là học trò đã đến. Cô đã mượn một cái bàn gỗ bách và mấy chiếc ghế để các em tập viết được thuận tiện. Cô còn trích tiền để dành ra mua vở và bút mực mà những bàn tay cóng sử dụng rất khó khăn vụng về. Những lần có bảy, tám em cùng ngồi học ở căn buồng rộng, tường trát vôi vữa thì cả Ma-ri-a và Brôn-ka phải vất vả mới giữ được trật tự và giúp những em kém đánh vần chữ khó. Chúng cứ hít ra hít vào, phì phò đến thiểu não.
Xúm quanh bộ áo màu xẫm và mớ tóc hung của cô giáo Ma-ri-a là con em các chị đi ở, các tá điền làm rẻ, và công nhân xưởng đường. Chúng lem luốc, hôi hám. Nhiều em còn chểnh mảng, bướng bỉnh. Nhưng các cặp mắt trong trẻo đều ánh lên một lòng ham muốn chân thành và sâu sắc là biết đọc và viết: hai chiến công quá sức tưởng tượng của các em. Và tim Ma-ni-a se lại, khi thấy mục đích nhỏ bé này đã đạt được, những dòng chữ đen trên tờ giấy trắng đã có ý nghĩa, trước niềm tự hào hân hoan của con trẻ và sự thán phục của các cha mẹ không biết chữ thỉnh thoảng đến đứng ở cuối buồng.
Cô giáo trẻ nghĩ đến cái nguồn nghị lực to lớn ấy chưa được sử dụng, đến những năng khiếu biết đâu còn ẩn nấp trong lớp người mộc mạc chất phát ấy. Trước biển cả mênh mông của sự dốt nát, cô cảm thấy mình yếu ớt biết chừng nào, bất lực biết chừng nào.
CHƯƠNG VI
MỘT SỰ NHẪN NẠI LÂU DÀI
Những nông dân tí hon ấy nào có ngờ được rằng “cô Ma-ri-a” đang nghĩ ngợi chua chát về cái dốt nát của bản thân mình. Chúng có biết đâu chính cô giáo chúng đang ao ước trở lại đời học trò, không phải dạy mà chỉ được học.
Giờ phút này, trong lúc Ma-ni-a trầm tư nhìn qua cửa sổ vọng theo những xe bò chở củ cải đỏ đến nhà máy đường thì ở Béc-linh, Viên, Pê-téc xbua, Luân-đôn, tại các phòng thí nghiệm, các bảo tàng, các bệnh viện, hàng nghìn, hàng vạn thanh niên đang được nghe giảng bài, nghe thuyết trình hoặc làm công việc nghiên cứu. Nhất là ở trường Xoóc-bon nổi tiếng, người ta đang dạy sinh vật học, toán, hóa, lý cùng xã hội học.
Có thật là một ngày kia, Ma-ni-a sẽ đáp tàu đi Pa-ri, có thể như thế không? Có thật là cô sẽ được cái hạnh phúc to lớn ấy không?
Ma-ni-a đã không còn mơ tưởng gì đi Pa-ri nữa rồi. Mười hai tháng đầu của một cuộc sống ngột ngạt ở tỉnh nhỏ đã làm tiêu tan cả hy vọng của cô. Vì mặc dầu có nhiều ước mơ, hoài bão và đam mê hoạt động trí tuệ, Ma-ri-a không mảy may là một con người ảo tưởng. Rõ ràng cô đang đứng trước một hoàn cảnh không có lối thoát. Ở Vác-xô-vi, ông giáo sắp về hưu, sẽ cần nương tựa vào con gái. Ở Pa-ri, Brô-ni-a còn cần được viện trợ nhiều năm nữa, trước khi ra đi làm và kiếm được tiền. Và ở Schuc-ki, có Ma-ni-a Xkhua-đốp-xka làm cô giáo dạy tư. Cái kế hoạch gây vốn, góp ít thành tích nhiều trước kia tưởng như dễ thực hiện, giờ đây làm cho Ma-ni-a mỉm cười. Nó trẻ con thật. Đã sa vào một nơi như Schuc-ki, khó lòng mà thoát ra được!
Chúng ta xúc động khi thấy con người thiên tư ấy chẳng phải tuyệt đối bất khả xâm phạm. Như mọi cô gái ở lứa tuổi đôi mươi, Ma-ri-a cũng có lúc ủ rũ, đau khổ, chán chường. Chúng ta cũng xúc động khi thấy cô mâu thuẫn với mình, trong lúc nói là từ bỏ tất cả mọi thứ thì lại phấn đấu mãnh liệt cưỡng lại cảnh ngộ, không chịu để tài năng của mình bị mai một. Sức mạnh gì đã thôi thức cô tối nào cũng thức khuya đọc những sách của thư viện nhà máy, về xã hội học, vật lý học và luôn luôn biên thư cho ông giáo để hỏi
thêm về toán?
Thật lạ lùng Ma-ni-a có thể kiên trì trong mấy việc ấy. Ở nơi thôn dã này không có ai hướng dẫn chỉ bảo, Ma-ri-a tự mò mẫm thu thập những kiến thức cần thiết mà các sách báo đã lạc hậu chỉ giới thiệu sơ lược. Lắm khi chán nản, cô cũng như mấy em bé nông thôn kia, mãi không đọc được thì quẳng sách đi. Nhưng cũng với lòng nhẫn nại của nông dân, cô vẫn bền bỉ cố gắng hết sức mình.
Bốn mươi năm sau, Ma-ri Qui-ri viết:
“Dạo đó, tôi thích thơ văn chẳng kém gì xã hội học và các khoa học khác. Nhưng trong mấy năm trời làm việc hăng say ấy, suy nghĩ kỹ về sở thích và sở trường của mình, cuối cùng tôi hướng hẳn về toán, lý.
Học một mình quả vô vàn khó khăn, chật vật. Vốn liếng khoa học tiếp thu ở trường trung học ở Ba Lan hồi đó thật quá ít ỏi – Tôi phải học thêm bằng cách đọc một số sách thu thập được đó đây. Phương pháp này cũng chẳng tốt lắm, nhưng nó tạo cho tôi thói quen làm việc độc lập và bổ sung cho tôi một số kiến có ích về sau này”.
Thư viết cho Hăng-ri-ét tháng 12 năm 1886, tả lại một ngày của cô ở Schuc-ki như sau:
“Chị thường bận suốt từ tám giờ sáng đến mười một giờ rưỡi và từ hai giờ trưa đến bảy giờ rưỡi chiều. Khoảng thời gian giữa hai buổi làm việc thì ăn bữa trưa và đi dạo. Sau khi uống trà, chị đọc sách cho An-gia nghe, hoặc hai cô cháu trò chuyện. Chị hay ngồi khâu, nhiều khi không rời kim chỉ ngay trong lúc dạy học. Từ chín giờ tối, lại vùi đầu vào sách, trừ phi bận đột xuất.
Để làm việc thêm, chị tập dậy sớm từ sáu giờ nhưng cũng không được đều. Hiện giờ có bố đỡ đầu của An-gia đang ở đây chơi. Một ông già rất tốt. Bà chủ bảo chị nhờ ông ấy dạy chơi cờ, cho ông giải trí. Nhiều khi họ cũng gọi chị vào một ván bài cho đủ chân, thế là lại gác sách một chỗ.
Chị đang đọc:
1. Vật lý của Đa-niên[26](John Federic Daniel-NS), đã xong quyển I.
2. Xã hội học của Xpen-xe[27](Hertbert Spencer-NS) bằng tiếng Pháp.
3. Giải phẫu và sinh lý học của Pôn-Be[28](Paul Bert) bằng tiếng Nga.
Chị đọc nhiều thứ một lúc vì học mãi một thứ, có thể làm cho óc mệt mỏi, mà hiện giờ đã quá căng thẳng. Khi thấy mình không thể đọc tiếp được nữa thì đem những bài toán về đại số và lượng giác ra giải. Việc này đòi hỏi phải chú ý và như thế, lại tập trung được tư tưởng.
Chị Brô-ni-a biên thư từ Pa-ri kể chuyện đi thi gặp nhiều khó khăn. Chương trình học khá nặng và sức khỏe đáng lo ngại.
Còn dự định ấy à? Chị chả có kế hoạch gì hết, mà nếu có thì cũng tầm thường và đơn giản đến nỗi chẳng có gì đáng nói. Chỉ biết gắng hết sức mình, và đến khi không cố được nữa thì từ giã cõi này; thiệt hại có là bao, thương tiếc mình để lại cũng ngắn ngủi thôi, như đối với hàng bao kẻ khác.
Ý định của chị hiện nay là như vậy. Có người nói: ít ra cũng nên nếm qua cái say đắm của tình yêu. Nhưng chương trình của chị quả không có mục này. Trước kia cũng có nhiều ý đồ khác đấy, nhưng nay tiêu tan hết rồi, chị đã chôn vùi và cố quên đi. Hẳn em cũng biết, bức tường bao giờ cũng rắn hơn cái đầu muốn húc đổ nó”.
*
* *
Tại sao nàng lại có những ý nghĩ hồ đồ muốn tự vẫn và thốt lên những lời chán nản và hoài nghi tình yêu như vậy?
Nguyên nhân cũng đơn giản và thường tình. Cảnh ngộ của Ma-ri-a trong những năm đó có thể gọi là “Truyện một cô gái nghèo”, đã từng được kể trong các sách nói về tình yêu.
Câu chuyện bắt đầu từ việc cô Xkhua-đốp-xka càng nhớn càng xinh, chưa phải là vẻ đẹp huyền diệu toát từ chân dung của Ma-ri Qui-ri sau này.
Cô gái má phính mười lăm đến tuổi dậy thì đã thành một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng, rất ưa nhìn, từ nước da, mái tóc, đến cổ tay trắng ngần, đôi chân thanh thanh. Khuôn mặt không được đầy đặn lắm, nhưng có duyên do đôi môi cương nghị, đôi mắt màu tro trông càng to thêm với cái nhìn thăm thẳm dưới cặp mày ngài.
Khi Ca-di-mia, con trai cả của ông bà Z. từ Vác-xô-vi về Schuc-ki nghỉ mấy ngày lễ, sau đó, lại về trong mấy tháng hè, anh thấy ở nhà có thêm một cô giáo trẻ, khỏe, có văn hóa, biết làm thơ, khiêu vũ và thông minh, khác hẳn những bạn gái mà anh quen biết trước đây. Anh yêu ngay, đắm đuối. Mặc dầu có những tư tưởng cách mạng, Ma-ni-a vẫn ấp ủ một trái tim rung động, cũng đem lòng yêu người sinh viên đẹp trai và rất dễ thương ấy.
Nàng chưa đến mười chín. Chàng chỉ hơn vài tuổi. Họ muốn kết hôn. Thoạt trông thì tưởng như không có trở ngại gì.
Đành rằng ở Schuc-ki, đó chỉ là “cô giáo Ma-ri-a” cô giáo của lũ trẻ. Nhưng trong gia đình ông bà Z., cô được mọi người quý mến. Ông Z. cũng nhiều lần đi dạo chơi với cô rất xa qua những cánh đồng củ cải. Bà vợ ông cũng thường bênh vực, che chở cô, còn Brôn-ka thì quý Ma-ni-a vô cùng. Cô được cả nhà chú ý, mấy lần gia đình này đã mời cha, anh cùng các chị cô về Schuc-ki chơi. Cô cũng được tặng hoa và quà vào dịp sinh nhật của mình.
Cho nên khi Ca-di-mia ngỏ ý với cha mẹ xin cưới Ma-ni-a, anh không lo lắng gì mà lại còn đinh ninh là việc sẽ thành là khác. Song câu trả lời thật không ngờ. Bố làm ầm lên, mẹ sửng sốt đến suýt ngất. Thế nào, cậu con cưng nhất nhà lại lấy một đứa con gái nghèo xơ xác, phải đi làm đi ở cho người ta à? Thiếu gì đám quyền quý giàu sang vào loại nhất nhì trong tỉnh sao nó không lấy? Dễ nó hóa điên rồi chắc?
Trong một gia đình xưa nay ngoài mặt vẫn đối xử chan hòa như tình bạn, những rào cản xã hội bỗng dựng lên tua tủa. Còn như cô gái là con nhà gia giáo, giỏi giang, nết na, con một ông giáo có danh tiếng ở Vác-xô-vi, tất cả đều không đáng kể trước lý lẽ: “Không ai đi lấy gia sư làm vợ”.
Hết bị mắng mỏ, dằn vặt lại bị thuyết phục khuyên lơn, quyết tâm của anh chàng sinh viên tan rã dần. Vốn không có nghị lực, Ca-di-mia sợ những lời rầy la, đay nghiến. Còn Ma-ni-a, uất ức vì bị khinh rẻ, cô tự giam mình vào một vẻ lạnh lùng ngượng nghịu, một sự yên lặng cố tình. Cô nhất quyết
không bao giờ nghĩ đến chuyện này nữa. Nhưng tình yêu cũng như lòng tham vọng, đâu cứ hạ lệnh là nó khắc phải chết!
*
* *
Làm sao Ma-ni-a có thể quyết định bỏ nhà ông bà Z. mà đi được? Cô không muốn làm ông giáo lo ngại, nhất là không thể bỏ một chỗ làm lương cao như thế, giữa lúc Brô-ni-a đã tiêu hết số tiền dành dụm được và đang cần cô em gái và bố gửi cho tiền học. Hàng tháng Ma-ni-a gửi cho chị mười lăm rúp, đôi khi hai mươi rúp – non một nửa tháng lương. Vả lại, giữa gia đình ông bà Z. và cô chưa hề có lời đi tiếng lại gì và cũng chưa ai nói thẳng với cô về việc này. Ma-ri-a đành ngậm đắng nuốt cay, ở lại Schuc-ki như không có chuyện gì xảy ra.
Cuộc sống vẫn trôi đều như trước. Cô giáo vẫn ra bài cho An-gia, nhắc nhở Giu-lêch cứ hay ngủ gật mỗi lần làm việc bằng trí óc. Cô vẫn dạy trẻ em thôn quê. Cô tiếp tục đọc sách, và còn tự giễu mình, nhún vai trước sự kiên trì mà cô cho là vô ích đó. Rồi vẫn chơi cờ, đố chữ, đi khiêu vũ, dạo bộ ngoài trời...
Đau khổ vì tình, thất vọng trong hoài bão học vấn, đời sống vật chất túng thiếu, vì sau khi giúp hết người này đến người khác thì không còn gì cho bản thân nữa. Ma-ni-a cố quên đi số phận mình đã sa vào một nơi bùn lầy mà cô cảm thấy khó lòng ngóc đầu ra khỏi. Cô hướng về gia đình không phải để cầu cứu mà cũng chẳng phải để thổ lộ niềm chua chát, đắng cay.
Trong mỗi lá thư, cô chỉ biết khuyên lơn, khẩn khoản hiến dâng tấm lòng thiết tha của mình, những mong sao cha cùng anh chị có một cuộc sống tốt đẹp.
Thư biên cho ông giáo, năm 1886:
“Xin cha yêu dấu đừng buồn phiền với ý nghĩ là không thể giúp chúng con. Khó mà tưởng tượng rằng cha còn làm được hơn thế nữa. Chúng con đã được một nền giáo dục tốt, học lực vững, tính nết chẳng đến nỗi nào. Vậy xin cha đừng tuyệt vọng. Nhất định chúng con sẽ tự xử được mọi việc. Về phần con, con muôn đời ghi lòng tạc dạ công ơn của cha yêu dấu đối với con. Cha đã làm rất nhiều cho chúng con, chỉ buồn là các con chẳng đền
đáp được. Chúng con chỉ biết yêu mến và kính trọng cha với tấm lòng tha thiết...”
Thư cho Dô-dếp ngày 9 tháng ba năm 1887.
“Em nói không phải, anh đừng giận. Như chúng ta đã ao ước, em nghĩ thế nào cứ thẳng thắn nói ra:
Anh thấy đó, không có phòng thuốc, phòng khám và sách báo thì một bác sĩ dù quyết tâm đến mấy đi nữa, cũng hóa tiêu cực. Em rất đau khổ nếu điều này đến với anh vì trong khi không còn hy vọng gì cho mình, em đặt tất cả hoài bão vào chị Brô-ni-a và anh đấy. Brô-ni-a hoặc anh nhất định phải vươn lên theo năng khiếu của mình. Đó là năng khiếu của họ nhà ta, không thể để cho mai một mà cần vun đắp cho nó nẩy nở ở một trong chúng ta, càng tiếc cho bản thân, em càng trông mong ở chị Brô-ni-a và anh đấy...”
Thư gửi Dô-dếp ngày 20 tháng năm 1887.
“... Em chưa biết cô học trò An-gia của em có sẽ đi thi hay không, nhưng em đã rất lo lắng. Sự chú ý và trí nhớ của nó hết sức bấp bênh. Với Giu-lếch cũng vậy. Cố dạy chúng quả như xây nhà trên cát, chúng học trước quên sau, lắm lúc đến khổ. Và em cũng lo nghĩ cho em nữa. Em cảm thấy như đần độn. Ngày qua rất nhanh mà chẳng thấy tiến bộ gì...”
Thư gửi Hăng-ri-ét ngày 10 tháng 12 năm 1887.
“... Hăng-ri-ét đừng tin những lời đồn đại rằng chị sắp kết hôn. Nó chẳng có căn cứ gì. Họ đồn ầm lên ở đây, và cả Vác-xô-vi, tuy không phải lỗi ở chị, nhưng chị e rằng có thể phiền đến mình.
Dự định tương lai của chị rất khiêm tốn: có một chỗ ở riêng đề có thể sống với bác giai. Thật rõ tội! Bác giai nhớ chị lắm, chỉ mong chị về. Và chị sẵn sàng đổi nửa đời mình để được tự do và có một căn nhà riêng.
Nếu có thể, chị sẽ rời Schuc-ki – nhưng không thể trước một thời gian dài – chị sẽ ở hẳn Vác-xô-vi, tìm một chân giáo sư ở một ký túc xá và dạy tư để kiếm thêm. Chị không ao ước gì hơn thế...”
Thư gửi Brô-ni-a, 24 tháng Giêng 1888.
“... Em rất suy nghĩ khi đọc quyển sách của O-ret-skho-va Trên bờ dòng Ni-ê-men. Tất cả mơ ước của chúng ta là ở đó, những câu chuyện say sưa đã từng làm chị em mình nóng mặt. Em đã khóc như một đứa trẻ lên ba. Tại sao mơ ước đó lại tiêu tan? Trước đây em ôm ấp hoài bão làm việc vì nhân dân, với nhân dân, thế mà đến nay mới chỉ dạy được cho mười đứa trẻ nông thôn biết đọc...”
Thư gửi Dô-dếp, 18 tháng ba 1888.
“... Anh thân mến, còn cái tem cuối cùng em biên thư cho anh đó. Lúc này em không còn đến một xu dính túi...
Nếu anh biết em mong mỏi như thế nào được trở về Vác-xô-vi vài ngày. Chưa nói chi đến quần áo mặc đã cũ quá rồi, cần phải sửa sang, may mới... Mà đến tâm hồn của em cũng chẳng đương nổi nữa. Chao, giá được thoát khỏi vài ngày cái không khí giá lạnh này, lúc nào cũng bị chỉ trích, cứ phải luôn luôn xét nét từng lời nói, cử chỉ. Em cần thay đổi không khí như người ta cần tắm mát sau một ngày oi bức vậy.
Đã lâu em không được thơ Brô-ni-a. Có lẽ chị ấy cũng không còn tiền mua tem như em.
Thơ của cha và Hê-la luôn luôn chỉ thấy phàn nàn, kêu ca làm em lo không biết ở nhà khó khăn như thế nào. Nếu không nghĩ đến chị Brô-ni-a, em đã thôi việc ở chỗ ông Z. ngay tức khắc, và tìm một nơi khác, mặc dầu chỗ này lương khá như vậy...”
Viết thơ cho bạn là Ca-di-a (vừa mới báo tin cô đã đính hôn và mời Ma ni-a về chơi), 25 tháng Giêng 1888.
“... Mình hiện nay bề ngoài thì cười nói mà trong lòng tái tê. Đây là một kinh nghiệm kể từ lúc mình hiểu được rằng người nào có những xúc động mạnh như mình mà không thay đổi được bản chất đó của họ thì cần phải giấu kỹ. Nhưng nào ích lợi gì! Càng bị kìm nén, bản chất lại càng bật ra, thế là lại nói quá lời rồi lại hối.
Ca-di-a kể là đã sống một tuần lễ hạnh phúc nhất đời. Còn mình thì trong mấy tháng hè đó, mình đã trải qua những ngày rất căng và đau khổ. Điều an ủi duy nhất là mình đã vượt qua được cuộc thử thách một cách đoan trang trong trắng. (Vẫn cái tính khí khái trước kia làm cho mụ May-e thù
ghét).
Bạn đừng nghĩ là mình đâm ra mơ mộng, sướt mướt, không khi nào thế đâu, vì nó hoàn toàn trái ngược bản chất của mình. Chỉ có cái gần đây hay cáu gắt. Có những kẻ tìm cách đẩy mình đến chỗ đó...”
Ma-ni-a gửi Dô-dếp tháng 10-1888.
“... Anh thử tưởng tượng em đang học hóa học chỉ với một quyển sách. Thu hoạch ít ỏi như thế nào, chẳng cần nói anh cũng rõ. Nhưng làm sao khác được trong khi không tìm được một chỗ nào để thực nghiệm... ”
Thơ gửi Hăng-ri-ét, 25 tháng 11-1888.
“... Không biết khi gặp lại chị, Hăng-ri-ét sẽ đánh giá kết quả thời gian chị sống ở đây như thế nào. Ai cũng nói rằng chị thay đổi nhiều về cả thể xác lẫn tinh thần. Có gì là lạ. Khi mới đến đây, mình mới 18 tuổi. Từ đó đến nay, đã qua biết bao gian truân! Chị cảm thấy như vừa qua một cơn ác mộng. Nguyên tắc đầu tiên: “Không thể để bất cứ ai, bất cứ sự việc gì làm ta ngả lòng”...
CHƯƠNG VII
THOÁT LY
Thấm thoát đã ba năm làm cô giáo, ba năm đơn điệu, túi bụi và túng thiếu điểm bằng một vài niềm vui và một nỗi buồn. Giờ đây, cuộc sống im lìm, bi thảm của cô gái đang chuyển động qua từng bước mà thoạt tiên Ma ni-a không cảm thấy được. Ở Pa-ri, ở Vác-xô-vi có những sự kiện tưởng như không quan trọng gì, nhưng thật ra đang đảo lộn ván bài định đoạt số phận của Ma-ni-a.
Ông giáo về hưu, rồi đi tìm việc làm thêm để đỡ đần các con gái. Tháng tư năm 1888, ông nhận một việc khó nhọc và khô khan: điều khiển, trông coi một nhà cải tạo thiếu niên không xa Vác-xô-vi lắm. Ở đây từ cảnh vật đến con người là một môi trường chán ngấy, nhưng tiền lương khá cao, ông có thể trích một phần, hàng tháng gửi cho Brô-ni-a.
Việc đầu tiên của Brô-ni-a là nhắn ngay cho em gái không phải gửi tiền cho chị nữa. Việc thứ hai và xin với ông giáo giữ lại mỗi lần tám rúp trong số bốn mươi rúp cha cho hàng tháng để hoàn lại dần số tiền em gái đã giúp. Thế là vốn liếng của Ma-ni-a lại từ số không tăng lên...
Lại còn nhiều tin nữa của cô sinh viên khoa y từ Pa-ri báo về. Brô-ni-a học tập đều, lần lượt đỗ các kỳ thi. Chị yêu một người Ba Lan tên là Ca-di mia Du-xki, một bạn học duyên dáng và có nhiều đức tính. Chỉ một điều bất tiện là anh bị cấm cố ở Ba Lan vì còn án đi đày.
Sang 1889, công việc của Ma-ni-a ở Schuc-ki đã xong. Từ ngày lễ thánh Giăng, ông bà Z. không cần đến cô nữa. Phải tìm một nơi khác. Cô giáo trẻ đã nhắm một nơi rồi, một nhà kỹ nghệ ở Vác-xô-vi. Đây là sự thay đổi hàng bấy lâu chờ đợi.
Từ biệt Schuc-ki và những cánh đồng củ cải! Từ biệt gia đình! Hôm chia tay, hai bên tươi tỉnh, vui vẻ. Được giải phóng, Ma-ni-a trở về Vác-xô-vi, say sưa hít thở không khí thành phố quê hương. Rồi chưa kịp nghỉ ngơi, đã lại ngồi tàu! Đi đến một bãi biển buồn tẻ trên bờ Ban-tích – Dô-pốt, ở đây,
những chủ mới, ông bà F. đang đi nghỉ mát cùng con cái.
Thư cho Ca-di-a (từ Dô-pốt) ngày 14 tháng bảy 1889, Ma-ni-a kể:
“Lúc đi tàu, không có chuyện gì xảy ra, mặc đầu đã có linh tính chẳng lành. Phải đổi tàu năm chỗ mà mình không nhầm toa, không bị mất cắp. Dồi thịt mang đi đường ăn hết nhẵn.
Ông bà F. ra tận ga đón, niềm nở. Mấy đứa trẻ rất dễ thương, mình thấy mến ngay...”
Rồi cả gia đình ông F. cùng cô giáo mới lại trở về Vác-xô-vi.
Đối với Ma-ni-a, bắt đầu một năm tương đối dễ chịu, thư thái. Bà F. rất đẹp, rất sang, rất giàu. Ma-ni-a sẽ được chứng kiến và tiếp xúc lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng với tất cả sự xa hoa phù phiếm mà phú quý có thể đem lại cho một người đàn bà được nuông chiều. Được cái thích là bà F. rất khéo, quý mến và không ngớt lời ca ngợi “cô Xkhua-đốp-xka tuyệt diệu” và muốn cô cùng dự các buổi tiệc trà, khiêu vũ...
Rồi bỗng một tin đột ngột. Một buổi sáng – người đưa thư giao cho Ma ni-a một cái thư từ Pa-ri. Thư của Brô-ni-a, viết vội trên một mảnh giấy kẻ ô vuông giữa hai buổi lên lớp ở đại giảng đường, mời em gái năm sau đến ở nhà riêng của chị.
Thơ viết từ Pa-ri tháng 3 năm 1890:
“Chị định sẽ cưới trong hè. Anh Ca-di-mia lúc ấy đã ra bác sĩ và chị cũng chỉ còn một kỳ thi nữa thôi. Anh chị sẽ ở lại Pa-ri một năm đợi chị thi xong sẽ cùng về Ba Lan. Chị tính như vậy là phải, em nghĩ sao? Chị đã hai mươi bốn, mà anh ấy thì ba mươi tư, chẳng còn sớm sủa gì. Đợi thêm thật là vô lý!
Còn em, em cũng phải làm việc gì cho bản thân đi chứ? Năm nay hãy cố dành dụm vài trăm rúp, sang năm có thể đi Pa-ri và đến ở nhà anh chị. Cần nhất là phải có vài trăm rúp ghi tên theo học ở Xoóc-bon. Năm đầu, cứ ở với anh chị. Mấy năm sau khi anh chị không ở đây nữa, cha sẽ gửi tiền cho em.
Thôi, em hãy quyết định đi! Em đợi quá lâu rồi! Chị tin chắc, sau hai năm em sẽ đỗ cử nhân. Vậy em nhớ dành dụm từ bây giờ, gửi tiền một nơi
chắc chắn, chớ cho vay. Có lẽ nên đổi ngay ra Phơ-răng, đổi bây giờ có lợi, ít nữa tiền sẽ bị hạ”.
Dễ chừng ai đó hồ hởi nhận lời đi Pa-ri ngay chắc? Đâu có vậy! Những năm tù túng đày ải vừa qua không làm cô gái khác thường này chua xót, mà chỉ luyện cho cô tính thận trọng. Hơn thế, vẫn lòng hy sinh cao cả vốn có, lại một lần nữa làm cho Ma-ni-a bỏ lỡ dịp tốt. Cô không muốn đi, vì đã hứa là sẽ về ở với cha, giúp chị Hê-la, giúp anh Dô-dếp.
Ngày 12 tháng 3 năm 1890, Ma-ni-a biên thơ trả lời chị Brô-ni-a:
“Em của chị đã ngu, vẫn ngu, và sẽ suốt đời ngu: nói cách khác, em không có và sẽ chẳng bao giờ gặp may cả. Em đã từng mơ ước đến Pa-ri như mong đợi Chúa cứu thế, nhưng hy vọng ấy đã từ bỏ em lâu rồi. Giờ đây, nó lại hiện ra trước mắt, em bâng khuâng không biết làm thế nào. Em không dám nói với cha. Cha đang vui với ý nghĩ rằng, năm tới, em sẽ về cùng sống. Em cũng muốn tuổi già của cha được sung sướng đôi chút, nhưng tim em như muốn vỡ ra khi nghĩ mình có khả năng mà chưa sử dụng được. Em lại đã hứa cố hết sức làm sao, năm tới, tìm được việc cho chị Hê-la ở tại Vác xô-vi. Chị ấy vẫn như “em bé” trong nhà, em cảm thấy có nhiệm vụ lo thêm cho chị ấy! ”
Brô-ni-a cứ khẩn khoản, bàn tới. Nhưng nói gì thì nói, còn thiếu cái yếu tố quyết định: chị còn nghèo, chưa mua được cho Ma-ni-a một cái vé tàu hỏa để buộc cô phải lên tàu. Cuối cùng, hai chị em thỏa thuận khi nào hết hợp đồng với ông bà F. cô sẽ về ở Vác-xô-vi một năm, sống gần ông giáo lúc này đã thôi việc ở trại thiếu niên. Cô sẽ dạy học kiếm thêm tiền. Đến lúc đó, cô sẽ đi Pa-ri.
*
* *
Lại một giấc mơ trôi qua suốt thời gian ở tỉnh với những khách khứa rộn ràng huyên náo ở nhà ông bà F., Ma-ni-a trở về với bầu không khí lòng hằng ưa thích, sống bên cha già trong một căn nhà riêng và hàng ngày lại được nghe những câu chuyện thú vị, bổ ích. Trường “Đại học di động” lại mở của rộng đón cô. Mà một sự kiện quan trọng, một niềm vui không gì sánh tày, lần đầu tiên trong đời Ma-ri-a bước vào một phòng thí nghiệm.