🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nóng Giận Là Bản Năng, Tĩnh Lặng Là Bản Lĩnh
Ebooks
Nhóm Zalo
THÔNG TIN EBOOK
Nóng Giận Là Bản Năng, Tĩnh Lặng Là Bản Lĩnh (Tái Bản 2020) Tống Mặc
Hà Giang dịch
NXB Thế Giới & Skybooks
Cappuccino Team
✪ Lib#1 & Lib#2 Cappuccino Ebook At yeukindlevietnam.com
▶ Đăng ký kho sách tự động ◀ m.me/shibaloveskindle
Lời nói đầu
Nhắc tới đại sư Hoằng Nhất[1], nhiều người sẽ lập tức nhớ tới một cái tên khác - Lý Thúc Đồng. Ngài xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có, hồi còn trẻ ăn ngon, mặc đẹp, thích rất nhiều thứ thuộc nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hý kịch, mỹ thuật, thơ ca, khắc ấn, vàng bạc đá quý, thư pháp, giáo dục, triết học, dù là lĩnh vực nào ngài đều có trình độ hơn người.
“Trường đình ngoại, cổ đạo biên
Phương thảo bích liên thiên”
(Tạm dịch:
Ngoài trường đình, bên đường cũ,
Cỏ thơm xanh tận chân trời.)
Bài thơ “Tống biệt” đã làm cảm động biết bao người. Tuy nhiên, một tài tử tuyệt thế như vậy, tới độ trung niên lại đột ngột từ bỏ hồng trần, xuất gia đi tu, sống cuộc đời tăng lữ khổ hành với một chiếc cà sa, một cây trượng, chịu đạm bạc, ôm quạnh hiu.
Trong 24 năm, từ lúc đại sư xuất gia tới khi viên tịch, ngài đã chuyên tâm tu hành, dày công nghiên cứu Phật học, phát huy mạnh mẽ Phật pháp, phổ độ chúng sinh, giúp cho Phật Giáo Nam Sơn Luật Tông thất truyền nhiều năm được phục hưng. Ngài được đệ tử Phật môn tôn là thế tổ đời thứ 11 của Luật Tông, để lại cho người đời của cải tinh thần vô tận.
Tại sao đại sư Hoằng Nhất lại xuất gia, là vì ngài đã chán ngán với trần thế, hay vì ngài đã nhìn thấu nhân sinh? Rất nhiều người không hiểu được.
Khi còn sống, đại sư có một câu nói, “Lấy tinh thần xuất thế, để làm sự nghiệp nhập thế”, đây có thể coi là lời giải thích hay nhất cho việc ngài xuất gia. Còn nói tới duyên cớ xuất gia, chính đại sư từng nói thế này:
“Có không ít người phỏng đoán nguyên nhân tôi xuất gia, hơn nữa còn tranh luận rất nhiều. Tôi không muốn đi thông cáo với thiên hạ tại sao tôi xuất gia, vì mỗi người khi làm việc gì, đều có nguyên tắc, hứng thú, phương thức và cách lý giải của riêng họ, những thứ này sẽ không bao giờ giống nhau, cũng có thể nói người khác sẽ không thể hiểu được, vậy nên dứt khoát không nói ra, dần dần người khác cũng sẽ quên nó đi. Còn về tâm tư tôi lúc đó, tôi nghĩ phần nhiều là vì tôi muốn theo đuổi một cách thức cao hơn, lý tưởng hơn, để giáo hóa bản thân và người đời!”
Nửa đời trước của đại sư Hoằng Nhất, ngài đã sống rất sôi nổi, tất cả những việc mà bản thân yêu thích, ngài đều làm từng việc một; tất cả những khổ đau mà bản thân nên gánh chịu, ngài cũng đã gánh chịu hết. Từ nhỏ ngài đã mất cha, sau khi lớn lên thì mất mẹ. Ở Nhật Bản, ngài gặp được người phụ nữ làm mình động lòng và đã mạnh dạn theo đuổi. Thân là thầy giáo, ngài đã làm tốt nhất có thể, thậm chí còn nguyện từ bỏ tu hành vì học phí của học trò, nỗ lực làm việc kiếm tiền giúp cậu học trò hoàn thành sự nghiệp học tập. Có người sẽ không hiểu được tại sao đại sư lại phải từ bỏ xuất gia tu hành, chỉ có đại sư mới biết, nếu không từ bỏ sẽ không có cách nào thực hiện được lý tưởng giáo hóa bản thân và người đời. Cũng giống như việc chúng ta cầm quá nhiều thứ trong tay, nếu không biết bỏ xuống thì sẽ càng ngày càng nặng, hơn thế nếu gặp được thứ gì thấy thích hơn, sẽ phát hiện ra rằng mình không thể đưa tay đón nhận chúng nữa. Lúc này, chỉ có bỏ thứ đang cầm trong tay xuống, mới có được thứ mới. Nếu một người vừa muốn đạt tới cảnh giới cao nhất của việc tu hành, lại không
nỡ buông bỏ gia đình và tất cả những thứ thuộc về trần thế, vậy chẳng qua cũng chỉ là một câu nói suông mà thôi.
Sau khi xuất gia, đại sư đã buông bỏ tất cả những thứ thuộc về trần thế, tình nguyện sống một cuộc đời thanh đạm khổ hạnh mà người thường khó lòng tưởng tượng được, tự trải nghiệm lĩnh hội đời người. Chúng ta thường nói, không phải tôi muốn có nhiều phiền não như vậy, chỉ là vì đời người có quá nhiều vướng bận và nhiều chuyện bất lực. Thật ra, đời người không gì không thể buông bỏ, nhỏ thì là bất hòa giữa làng xóm với nhau, lớn thì là sống chết, bạn có buông bỏ hay không, kết cục cũng không có gì thay đổi. Cái khác biệt là, người buông bỏ được sẽ nhận về sự thoải mái và vui vẻ, còn người không buông bỏ được chỉ có thể cõng gánh nặng cả đời mà sống, không được vui vẻ. Vậy thì, hãy để đại sư dạy chúng ta làm sao để buông bỏ đi!
Điềm đạm là cách dưỡng tâm đầu tiên
Điềm đạm là cách dưỡng tâm đầu tiên.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
Đ
iềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.
Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hằng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hằng ngày lại rất ít.
Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần
khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?
Nếu như chúng ta dưỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.
Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người. Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.
Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.
Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng; anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng… Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn
kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn. Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán. Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường. Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác. Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.
Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.
Vì không mưu cầu quá nhiều, không tham vọng quá mức nên mới có thể sống mạnh mẽ
Bớt ham muốn thì tâm trí tĩnh lặng, có chủ kiến nhưng vẫn phải khiêm tốn.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
“Q
uả dục” là ít ham muốn, giống như “tịnh tâm” trong Phật giáo có nói, nhưng mức độ thì khác nhau. “Tịnh tâm” có ý nghĩa siêu phàm thoát tục, người phàm khó mà làm được, “quả dục” thì lại có thể làm được. Tâm không tĩnh thường là vì có quá nhiều ham muốn.
Con người có ham muốn là chuyện bình thường. Cuộc sống mà không có một mục tiêu để theo đuổi thì thật là buồn chán, tẻ nhạt. Ai cũng có thể theo đuổi những ham muốn bình thường bằng các cách thức đường hoàng, từ đó tăng chất lượng cuộc sống của chính mình. Nhưng không hài lòng lại là bản tính của con người, chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ rằng bản thân ham muốn quá nhiều. Ở thời đại của đại sư Hoằng Nhất, đại đa số mọi người đều ăn cơm canh đạm bạc, được ăn no đã là phước lắm rồi, nếu ở thời đó mà mơ mộng ngày ngày được ăn thịt, thì đúng là ham muốn xa xỉ; có quần áo mặc để không bị lạnh đã là có phúc rồi, nếu như được mặc một bộ quần áo lành lặn, không bị chắp vá thì đúng là sung túc. Nếu như ngày
nào cũng mơ tưởng đến việc mặc nhung gấm lụa là, thì đó là vượt lên trên ham muốn bình thường của con người, nếu lúc này không cố gắng kiềm chế, ta sẽ rơi vào sự đau khổ vì ham muốn không được đáp ứng; còn nếu như vì tiền mà làm những việc không tốt, thì ta sẽ khiến cuộc sống của mình rơi vào hố sâu tội ác. Nhưng ngày nay, việc chúng ta mong muốn bản thân được ăn ngon mặc đẹp mỗi ngày không còn là chuyện xa xỉ. Thế nên “ít ham muốn” không thể xác định dựa vào những tiêu chuẩn của quá khứ. Vậy đối với con người hiện đại, rốt cuộc thế nào được gọi là ham muốn, và đến mức nào là thích hợp?
Thật ra, chỉ cần đáp ứng những ham muốn này nhờ việc lao động chân chính, thì đó đều là chuyện bình thường. Quan trọng hơn, để thấy được ham muốn trong lòng mỗi người là nhiều hay ít, ta có thể quan sát người đó khi họ không đáp ứng được ham muốn của bản thân.
Liệu họ sẽ bình thản an nhiên, hay không thoải mái, oán trách và đau khổ? Ví dụ, hai người có điều kiện sinh hoạt tương đương nhau đi du lịch ở một vùng núi nghèo khổ, trong tình trạng thiếu thốn vật chất nghiêm trọng, điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, A vẫn có thể sống vui vẻ, ăn thức ăn mà người khác không ăn nổi; còn B lại cảm thấy thật sự đau khổ, ngày nào cũng than vãn, dường như thấy mình đang sống trong địa ngục. Trong cuộc sống thường ngày, tuy hai người tiêu xài như nhau, nhưng B vẫn sống không vui vẻ gì, bởi vì anh ta có quá nhiều ham muốn.
Nhà Nho cho rằng tu tâm dưỡng tính chủ yếu là “tĩnh”, “tĩnh nhờ dưỡng đức”, một con người buộc phải có cái tâm tĩnh, không có tạp niệm, mới có thể tu dưỡng tâm trí và cơ thể. Đại sư Hoằng Nhất cho chúng ta một phương pháp “tĩnh”, đó chính là “ít ham muốn thì tâm tĩnh lặng”. Ham muốn là nguồn gốc cho mọi hành động của con người, khi con người có ham muốn, họ sẽ “động” để thỏa mãn ham muốn đó. Nếu như giữ cho
mình “ít ham muốn”, tự khắc ta sẽ “tĩnh”. Khi chúng ta không có ham muốn, thì quyền thế, tiền bạc, danh lợi trên thế gian này đều không thể lay động nội tâm của chúng ta, tâm trí sẽ được an định, điều này cực kỳ có lợi cho việc tu tâm dưỡng tính. Do đó, hầu hết những người ít ham muốn đều không màng đến danh lợi, họ chú trọng tới việc tu dưỡng tâm tính và không mệt mỏi vì những sự vật bên ngoài.
Tiếc thay, thời nay chúng ta đều bận rộn vì có quá nhiều ham muốn, sau khi chúng ta đáp ứng được một ham muốn, một ham muốn mới lại xuất hiện, không bao giờ có kết thúc. Do đó, chúng ta chẳng bao giờ được nhàn rỗi, khó mà dành được chút thời gian để tu tâm dưỡng tính.
Tôn Tư Mạc[2] từng chỉ ra, trường thọ đối với hầu hết mọi người có “5 cái khó”: khó bỏ danh lợi, khó bỏ hỉ nộ, khó bỏ thanh sắc, khó bỏ hương vị, khó bỏ tinh thần. “Tĩnh tâm” thì có thể bài trừ “5 cái khó”, con người sẽ được trường thọ. Đại sư Hoằng Nhất đã đưa ra thêm một bước “có chủ kiến nhưng vẫn phải khiêm tốn”, “có chủ kiến” chính là có mục đích. Khi chúng ta đạt được trạng thái “tĩnh”, thì cần một thứ khác để lấp đầy nội tâm, không thì tâm trống rỗng, giống như lục bình không có rễ, trôi dạt theo sóng.
Một nhà thư pháp khi nói về lý do lúc đầu mình luyện tập thư pháp đã bày tỏ: “Con người mọc ra cái tay nên luôn muốn cầm thứ gì đó. Ví dụ, nhìn thấy tiền thì muốn vơ; nhìn thấy ấn quan thì muốn chiếm làm của riêng. Nhưng tôi biết những thứ này sẽ khiến cho tôi làm những việc mất lý trí. Để xoay chuyển ham muốn của mình, một ngày nọ, tôi nghĩ, để cánh tay này cầm bút đi, ngày nào cũng đặt hết tâm tư vào việc luyện chữ, tay không lúc nào rảnh, những ham muốn kia cũng tiêu tan hết.”
Sử dụng một thói quen lành mạnh thay thế cho các ham muốn quá đà đúng là một biện pháp tốt. Giống như nhiều người cao tuổi sau khi nghỉ
hưu thấy không quen với việc bỗng nhiên trở nên nhàn rỗi, nên một số người bắt đầu học thư pháp, hội họa, ca hát… Con người sống phong phú, tinh thần sẽ trở nên sung túc, mọi phiền não trong đầu đều được quét sạch.
Bỏ tính nóng nảy, cuộc đời mới có thể tĩnh lặng như nước
Làm việc kỵ nhất là nóng vội, nóng vội thì không kịp bố trí công việc của mình, sao có thể ung dung làm việc được?
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
Đ
ây là điều mà đại sư Hoằng Nhất đã nói đến trong một bài giảng về việc từ bỏ tính xốc nổi. Đại sư cho rằng, con người khi muốn sửa đổi khuyết điểm và thói quen xấu thường dễ nóng vội, muốn thay đổi toàn bộ trong
cùng một lúc, như vậy ngược lại sẽ phản tác dụng. Chi bằng cứ từ từ mà sửa, mỗi lần sửa một thói xấu, như vậy, hiệu quả sẽ tốt hơn. Làm việc vội vàng cho xong, trong một thời gian ngắn mà không thấy hiệu quả thì dễ đứt gánh giữa đường, bỏ mặc đó, đây chính là biểu hiện của sự nóng vội.
Nóng vội là bệnh thường gặp ở rất nhiều người trẻ tuổi. Biểu hiện cụ thể là làm việc không tập trung, làm nhiều nhưng không đào sâu nghiên cứu; đứng núi này trông núi nọ, hấp tấp vội vàng; chỉ vì cái lợi trước mắt, gặp một chút bất lợi là dễ dàng từ bỏ hoặc sốt ruột bất an, trách trời trách người… Con người một khi đã nóng vội thì cả ngày sẽ đều ở trong trạng thái bận rộn buồn bực, lâu dần dễ dẫn đến tính khí nóng nảy, căng thẳng
thần kinh. Nóng vội còn khiến cho chúng ta thiếu đi cảm giác hạnh phúc, thiếu đi niềm vui, quá tính toán thiệt hơn. Nếu không thể khắc phục chúng thật hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và thành tựu công việc.
Trên đời có rất nhiều người thông minh nhưng lại vội vàng, người vội vàng trong thời gian ngắn có lẽ có thể đạt được một chút thành tích, nhưng rất khó làm nên nghiệp lớn.
Tôi nghe một người đàn ông bận rộn cả nửa đời người nói về nỗi buồn khổ của mình: “Nhìn người khác có nhà, có xe, có tiền, tôi vất vả nửa đời người, mà chẳng có gì hết. Tôi bây giờ tuổi tác đã cao, lại không có kỹ thuật, cả đời cứ thế đi tong.”
Tại sao sống qua nửa đời người mà ngay đến tay nghề cũng không học được? Chúng ta có thể không xuất sắc, cuộc sống có thể thanh đạm, nhưng một người bình thường mà ngay đến tay nghề cũng không học được, là lỗi của ai? Thử hỏi, bao nhiêu thanh thiếu niên vội vàng còn chưa học tay nghề cho vững đã nghĩ đến bước phát tài rồi? Một nghiên cứu sinh đọc sách nhiều năm, than vãn thu nhập của mình không bằng nông dân, người như vậy cho dù học đến tiến sĩ cũng không có thành tựu lớn, bởi vì anh ta quá nóng vội, không hỏi bản thân làm được những việc gì, muốn đạt thành tựu gì, chỉ tính toán thu nhập của bản thân thôi.
Có hai chàng trai ngày nào cũng lên núi đốn củi kiếm tiền mua thuốc để chữa bệnh cho mẹ. Một vị thần tiên cảm động trước lòng hiếu thảo của hai anh em, bèn cho họ một bài thuốc bí truyền, dùng lúa mạch tháng 4, cao lương tháng 8, thóc gạo tháng 9, hạt đậu tháng 10, tuyết trắng tháng chạp, đặt trong một cái hũ lớn làm từ bùn ngàn năm rồi bịt kín bảy bảy bốn mươi chín ngày, chờ gà gáy 3 tiếng thì lấy ra chắt lấy nước bán lấy tiền. Hai anh em làm theo cách của thần tiên. Khó khăn lắm mới chờ được đến ngày mở
hũ, gà vừa gáy đến tiếng thứ 2, người anh đã không đợi được nữa, mở hũ ra, nhìn thấy một hũ nước bẩn màu đen hôi thối. Người em kiên nhẫn chờ gà gáy đến tiếng thứ ba mới mở nắp hũ, lập tức ngửi được mùi hương nức mũi, hóa ra trong hũ là rượu, vừa thơm vừa chất.
Chuyện này cũng giống như chúng ta làm việc, làm được 80%, 90% đã không kiềm chế được mà vội vàng xem kết quả. Thật ra, chỉ cần kiên nhẫn làm đến cùng, thì không bao lâu sẽ hoàn thành những phần chưa trọn vẹn, thành công dễ như trở bàn tay.
Kính hiển vi là một trong những phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Nhưng bạn biết không, người cải tiến kính hiển vi và ứng dụng nó vào ngành vi sinh vật học đầu tiên trên thế giới chỉ là một người gác cổng ở một thị trấn nhỏ phía Tây Hà Lan. Vì muốn giết thời gian, anh ta đã thử dùng đá thủy tinh mài thành mảnh kính phóng đại. Mài mảnh kính này cần thời gian vài tháng, anh ta liên tục thử tăng số lần phóng đại, 60 năm sau, anh ta đã mài ra miếng kính phóng đại 300 lần. Lần đầu tiên mọi người nhìn thấy vi khuẩn là trên mảnh kính của người đàn ông này, Leeuwenhoek[3].
Đương nhiên, là người bình thường, bạn không cần phải giống như Leeuwenhoek, dùng 60 năm để làm một việc, bởi mỗi người đều có cách sống của riêng mình. Hưởng thụ hiện tại cũng là một cách thể hiện sự không nóng vội. Người điềm đạm, không nóng vội thì dù gặp khó khăn hay thất bại cũng vẫn ung dung.
Từ xưa đến nay, người làm nên nghiệp lớn chân chính đều là người yên dạ yên lòng. Trong học tập và làm việc, càng gặp gian nan càng cần phải kiên nhẫn. Giống như dòng nước vậy, gặp phải vật cản thì chảy vòng qua, vòng qua không được, thì tích trữ lượng nước, nước tràn rồi sẽ qua. Khi năng lực có hạn thì như khe suối nhỏ róc rách không ngừng; khi năng
lực lớn mạnh thì sẽ chảy thành sông. Chỉ khi từ bỏ tâm thái nóng nảy, cuộc sống mới điềm đạm như nước.
Tham thiền không phải ở ngoại cảnh
Khi trời giá rét thì mong mùa hè, khi nóng nực thì lại mong mùa đông; nếu từ bỏ mơ mộng hão huyền thì sẽ được an yên thoải mái. Ăn rau còn hơn để bụng rỗng, nhà cỏ còn hơn nhà lộ thiên; cuộc sống nếu biết đủ, phiền não sẽ hết ngay.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập Nắng muộn”
T
ô Thức[4] có một người bạn tên Vương Củng bị phạt đến Lĩnh Nam, vài năm sau mới trở về kinh thành.
Điều kiện cuộc sống ở Lĩnh Nam cực kỳ gian khổ, không khí không sạch, nhưng trên khuôn mặt của Vương Củng và thị thiếp chẳng những không có chút ưu phiền, mỏi mệt, ngược lại còn lộ nét hồng hào, thậm chí trẻ hơn trước kia. Tô Thức thiết đãi yến tiệc chào đón họ từ phương xa đến. Trong lúc ăn uống, tiện thể hỏi một câu: “Cuộc sống ở Lĩnh Nam rất khổ phải không?” Không ngờ, thị thiếp của Vương Củng là Nhu Nô trả lời rằng: “Lòng này thanh thản thì nơi nào cũng là quê nhà.” Cùng một môi trường, có người cho rằng cuộc sống đã đủ rồi, sống rất vui vẻ, có người lại cho rằng rất khổ, cả ngày mặt mày cau có. Thật ra, nếu đã không thay
đổi được môi trường, thì chi bằng thay đổi tâm trạng của chính mình, không phải tốt hơn sao?
Một ngày nọ, thiền sư Vô Đức vừa ra khỏi pháp đường thì gặp một tín đồ đang ôm một bó hoa tươi đến dâng lên Phật. Thiền sư Vô Đức nhận ra tín đồ này, ngày nào anh ta cũng hái hoa tươi trong vườn nhà mình để dâng lên Phật Tổ. Thiền sư vui vẻ nói: “Ngày nào con cũng thành kính dâng Phật hoa tươi, kiếp sau sẽ được phước lành.”
Tín đồ trả lời: “Đây là chuyện nên làm, mỗi khi tôi đem hoa tươi đến điện Phật, tôi cảm thấy tâm thanh tịnh, nhưng khi về đến nhà, tâm linh lập tức bị quấy nhiễu bởi những ồn ào nơi trần thế, và trở nên buồn bực. Tôi lại không thể rời khỏi trần thế, vậy ở trần thế này, con người làm thế nào mới giữ được trái tim thanh tịnh?”
Thiền sư hỏi lại: “Ta hỏi con, con làm thế nào để giữ cho bông hoa này được tươi tắn?”
Tín đồ đáp lại: “Cách để giữ cho hoa tươi rất đơn giản, mỗi ngày tưới nước cho hoa, đồng thời khi thay nước thì cắt bớt cành đi một chút. Bởi vì đoạn cành ngâm trong nước dễ bị thối, ảnh hưởng đến việc hấp thụ nước và chất dinh dưỡng của hoa, khiến hoa dễ héo tàn.”
Thiền sư Vô Đức nói: “Đúng, giữ cho tâm thanh tịnh cũng giống như con tưới nước cho hoa mỗi ngày vậy, không ngừng tịnh hóa tâm trí và thể xác, bỏ đi những biến chất, tạp niệm không tốt là được rồi.”
Tín đồ nghe xong, vui vẻ hành lễ và nói đầy cảm kích: “Cảm ơn thiền sư đã chỉ dạy, hy vọng sau này có cơ hội gần gũi với thiền sư, sống cuộc sống thiền giả trong chùa một thời gian, hưởng sự thanh thản từ tiếng trống chiều chuông sớm và tiếng hát tụng Bồ Đề.”
Thiền sư nói: “Hơi thở của con là tiếng ca tụng, nhịp đập của mạch là tiếng trống, cơ thể là miếu thờ, hai tai chính là bồ đề, có nơi nào không
phải nơi thanh tịnh, đâu cần phải chờ cơ hội vào chùa sống?” Nhiều người giống như vị tín đồ này, thường nói muốn thoát khỏi trần thế, lên núi sống cuộc sống nhàn nhã thoát ly thế tục, cứ như thay đổi môi trường là có thể tĩnh tâm, có được cuộc sống mà mình mong muốn. Thật ra, cũng giống như trong thơ có nói:
“Kết lư tại nhân cảnh,
Nhi vô xa mã huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ,
Tâm viễn địa tự thiên.”
(Tạm dịch:
Làm nhà giữa cõi tục,
Mà không xe ngựa ran.
Hỏi Bác sao được thế?
Lòng xa cảnh tự nhàn.[5])
Chỉ cần ta loại bỏ tạp niệm trong tâm, thì dù là ở đâu cũng có thể có được tĩnh lặng chân chính.
Có một mùa hè, Bạch Cư Dị[6] chống chọi với cái nắng chói chang đến thăm thiền sư Hằng Tịch. Đi được nửa đường, lưng ông đã đẫm mồ hôi. Nhưng khi bước vào thiền phòng, ông lại phát hiện thiền sư đang ngồi tham thiền trên đệm cói, tư thế ngay ngắn, không động đậy chút nào. Ánh mặt trời oi bức chiếu qua cửa sổ, rọi lên trên người thiền sư, vậy mà nét mặt thiền sư vẫn bình tĩnh, dường như không hề thấy nóng. Bạch Cư Dị ngạc nhiên, hỏi: “Thiền phòng nóng bức như vậy, tại sao thiền sư không ngồi thiền ở vị trí mát hơn?”
Thiền sư Hằng Tịch đáp: “Thời tiết nóng lắm sao? Nhưng ta lại cảm thấy rất mát mẻ.”
Bạch Cư Dị đột nhiên hiểu ra, liền làm một bài thơ:
“Nhân nhân tị thử tẩu như cuồng,
Độc hữu thiền sư bất xuất phòng.
Phi thị thiền phong vô nhiệt đáo,
Vi nhân tâm tịnh thân tức lương.”
(Tạm dịch:
Người người tránh nắng chạy như điên,
Chỉ có thiền sư không rời phòng.
Không phải thiền phòng không nắng chiếu,
Nhờ tâm tĩnh lặng người mát thôi.)
Tục ngữ nói: “Tĩnh tâm tâm khắc mát.” Muốn loại bỏ phiền não vì nóng bức, trước tiên phải gạt bỏ phiền não vì không muốn chịu đựng cái nóng. Chỉ cần trong lòng không phiền não, cơ thể cũng giống như đang ngồi ở đình viện mát lạnh. Tương tự, nếu ta không còn phiền não khi đứng trước sự phức tạp của thế giới này, ta sẽ đạt được cảnh giới “tĩnh tâm tâm khắc mát”.
Cao tăng Nhật Bản - hòa thượng Kaisen Joki không cẩn thận đắc tội với Oda Nobunaga[7]. Oda sai người bao vây, đốt chùa. Hòa thượng Kaisen và một nhóm tăng nhân đều yên lặng ngồi thiền, niết bàn một cách thản nhiên. Lúc lâm chung, hòa thượng Kaisen còn nói hai câu kệ: “An thiền hà tất tu sơn thủy, diệt khước tâm đầu hỏa diệc lương.” (Nghĩa là: Tham thiền là lĩnh ngộ ở trong tâm chứ không phải ở ngoại cảnh, khi đã từ bỏ được phiền não thì lửa cũng như nước.)
Một người trong lòng tràn đầy ham muốn, dù ở miếu cổ sâu trong núi cũng không bình tĩnh được; một người trong lòng không ham muốn cũng không yêu cầu gì, dù sống giữa thành phố nhộn nhịp cũng sẽ không cảm thấy xô bồ, tất bật. Người đời thường quá xem trọng cái tôi của mình, vậy nên đời mới nhiều phiền não.
Lòng tĩnh lặng mới có thể nhìn thấu gốc rễ của sự việc
Bị quấy nhiễu bởi được mất nhất thời là vì lòng chưa buông ham muốn lợi ích. Bị ảnh hưởng bởi lời gièm pha hay tán thưởng là bởi lòng chưa bỏ ham muốn danh lợi. Đã để mình dao dộng vì danh lợi được mất thì nói gì đến chuyện tu thiền Phật pháp!
Hoằng Nhất đại sư - “Hàn Già Tập”[8]
T
rước khi xuất gia, đại sư Hoằng Nhất có nghe nói rằng tuyệt thực có thể giúp người ta bỏ cũ đổi mới, “Bỏ đi cái thất đức, sinh ra sức mạnh tinh thần vĩ đại”, từ xưa những vĩ nhân Tông Giáo như Thích Ca Mâu Ni, Gia Tô đều từng tuyệt thực. Đại sư Hoằng Nhất quyết định tranh thủ lúc trường học cho nghỉ đông tự mình thử một lần. Học trò của ngài, ông Phong Tử Khải, khi nhớ lại, có kể: “Một ngày nọ, thầy quyết định vào núi Đại Từ tuyệt thực, tôi có việc trên lớp, không thể đi cùng, nên Văn Ngọc - nhân viên trong trường đi cùng thầy. Nhiều ngày sau, tôi có đi thăm thầy, thấy thầy nằm trên giường, khuôn mặt tiều tụy, nhưng tinh thần rất tốt, thầy vẫn nói chuyện với tôi không khác gì lúc bình thường.”
Khi đại sư trở về sau mười bảy ngày tuyệt thực, có người hỏi ngài đã tuyệt thực thế nào, ngài nói: “Tuần đầu tiên, mỗi ngày giảm dần lượng
thức ăn, từ hai bát thành một bát, rồi nửa bát, rồi cắt cơm; chất cũng đạm bạc dần, từ cơm thành cháo, rồi canh, rồi nước. Tuần thứ hai, ngoài việc uống nước lọc ra, thì không ăn gì hết. Tuần thứ ba, làm ngược lại trình tự tuần thứ nhất là được, từ nước thành canh, rồi cháo, rồi cơm, dần dần tăng trở lại lượng thức ăn thường ngày. Bản thân tôi cảm thấy rất tốt, không những không đau khổ, mà tâm trí và thân thể còn cảm thấy nhẹ nhõm, có cảm giác phiêu phiêu như tiên vậy. Bình thường, mỗi buổi sáng tôi đều viết chữ, trong thời gian tuyệt thực, tôi cũng coi việc viết chữ như bài tập hằng ngày. Trong tuần thứ ba, tôi viết thể chữ khắc trên bia thời Ngụy, chữ Triện, chữ Lệ, lực bút không hề yếu hơn so với lúc bình thường.”
Có người lại hỏi ngài có cảm giác gì khi hoàn toàn tuyệt thực ở tuần thứ hai.
Đại sư Hoằng Nhất nói: “Trải qua rất thuận lợi, chẳng những không đau khổ mà tâm trạng còn được thanh tịnh, cảm giác cực kỳ linh hoạt, hơn cả bình thường, nghe được cái người khác không thể nghe, hiểu được điều người khác không thể hiểu. Đây được gọi là trí tuệ lớn mạnh từ trong tĩnh lặng!”
Tuyệt thực là một cách tu hành của Phật giáo, người tu hành chủ yếu thông qua việc tuyệt thực để tăng cảnh giới tâm linh. Thật ra, con người và động vật không cần ngày nào cũng phải ăn no, động vật thường xuyên chịu đói, nhưng chưa từng nghe nói đến việc bọn chúng vì thế mà chết đói, ngược lại tuyệt thực còn giúp cho chúng càng thêm linh hoạt, ngay cả tinh thần cũng tốt lên nhiều.
Con người không cần phải ăn thật no, đôi khi không có thứ gì bỏ vào bụng chẳng những không gây bất cứ tổn thương nào, ngược lại còn có ích cho việc tự điều tiết của cơ thể. Nếu như cơ thể chưa chuẩn bị tốt cho việc tiếp nhận thức ăn mà vẫn gượng ép, thì không chỉ không hấp thụ được,
ngược lại còn phản tác dụng. Hệ tiêu hóa của cơ thể con người luôn chịu ảnh hưởng từ cảm xúc, khi con người mệt mỏi hay tâm trạng không tốt, cơ thể sinh bệnh, việc bài tiết sẽ trở nên thất thường. Nếu lúc này có đồ ăn đi vào đường tiêu hóa, chúng có khả năng sẽ ngưng tại ruột và dạ dày, trở thành vật chất có độc. Cho nên, lúc cơ thể không được khỏe, tâm trạng không tốt, chúng ta luôn cảm thấy rất khó chịu khi ăn.
Thực chất, ý nghĩa thật sự của việc tuyệt thực theo Phật giáo là để luyện tập linh tính, bởi vì khi tuyệt thực, cơ thể sẽ tiết kiệm được một lượng năng lượng đáng kể vốn dùng để tiêu hóa đồ ăn, bộ não sẽ càng tỉnh táo hơn lúc bình thường. Đại sư Hoằng Nhất cho rằng, sau khi tuyệt thực, đầu óc cực kỳ tỉnh táo, các giác quan cực kỳ nhạy bén, những gì bình thường không nghe thấy, không hiểu được, đều có thể nghe thấy, hiểu được. Điều này cho thấy, nội tâm tĩnh lặng sẽ giúp ích cho việc tăng khả năng nhận thức của chúng ta. “Tuyệt thực” là một cách để thanh tịnh cơ thể và ham muốn, tâm thanh tịnh rồi, con người mới có thể nhìn thấy bản chất vốn có của mình, mới có thể sinh hoạt theo kiểu cách của mình. Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni từng nhiều lần suy tưởng bằng phương thức tuyệt thực, cuối cùng cũng mở tâm trí lĩnh ngộ dưới cây bồ đề. Đối với người tu hành, tuyệt thực có thể giúp cho đầu óc tỉnh táo hơn. Đương nhiên, người thường rất ít khi dùng cách tuyệt thực để duy trì sự tỉnh táo cho đầu óc. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể thử các cách khác: giảm thiểu lượng thức ăn, khống chế ham muốn, loại bỏ những thứ rắc rối phức tạp… không ngừng thanh lọc rác rưởi trong tinh thần, giữ đầu óc tỉnh táo. Bụng ăn quá no thì đầu không đủ tỉnh táo, huống chi mỗi ngày còn phải đối mặt với nhiều phiền não, khi đó con người khó mà giữ được tâm hồn thanh thản để tư duy nhanh nhạy. Muốn giữ đầu óc tỉnh táo và tư duy lý trí, lúc nào cũng cần loại bỏ ham muốn và những yếu tố quấy nhiễu suy nghĩ của ta.
Biết đủ thường hài lòng, biết dừng thì dừng được
Biết đủ thường hài lòng, trọn đời không hổ thẹn. Biết dừng thì dừng được, trọn đời không xấu hổ.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
“B
iết đủ” là người ta cho bao nhiêu, bạn “tuy không hài lòng, nhưng vẫn chấp nhận được”, “biết dừng” là khi đến một mức độ nào đó biết xua tay nói: tôi không cần nữa. “Biết đủ” là do người, “biết dừng” là do mình. “Biết đủ” là không tham, “biết dừng” là không tùy tiện.
Trước đây, ở dưới núi Phổ Đà có một tiều phu, cả ngày đi sớm về trễ, lao động vất vả, nhưng vẫn không thể no ấm, trong nhà thường không có gì ăn. Vợ của người tiều phu hằng ngày đều đến thắp hương, thành kính cầu Phật Tổ từ bi, giúp cho họ sống tốt hơn một chút. Lời cầu xin của cô quả nhiên cảm động được Phật Tổ. Một ngày nọ, khi ra ngoài đốn củi, người tiều phu đã đào được một bức tượng la hán vàng dưới một gốc cây lớn.
Người tiều phu vốn không có lấy một đồng bỗng chốc trở thành phú ông, mua ruộng đất, có nhà sang, cuộc sống tốt đẹp hơn nhiều. Đáng lẽ
người tiều phu phải vui khi đã thoát cảnh nghèo khó và trở thành một triệu phú mới phải. Nhưng người tiều phu vừa mới vui được vài ngày thì đã ăn không ngon, ngủ không yên.
Vợ anh ta hỏi: “Bây giờ chúng ta không phải lo nghĩ chuyện ăn uống, lại có nhà đẹp ruộng tốt, anh còn thở ngắn than dài làm gì? Lẽ nào anh sợ bị kẻ trộm tới lấy mất? Kẻ trộm không trộm được nhà cửa và ruộng vườn của anh đâu, có gì đáng sợ chứ. Anh đúng là trời sinh ra phải chịu mệnh cơ hàn rồi!”
Người tiều phu nghe xong liền nổi giận: “Em hiểu cái gì! Trộm không trộm được thì sẽ đến nhiều lần nữa, điều làm anh lo lắng nhất là trong 18 bức tượng la hán vàng anh mới có được 1 bức, còn 17 bức tượng nữa không biết được chôn ở đâu, làm sao anh có thể yên tâm được?” Cứ như vậy, người tiều phu suốt ngày hồn bay phách lạc vì không thể có được 17 bức tượng la hán khác, không bao lâu sau thì bệnh chết.
Người này không biết đủ, không biết dừng lại lúc thích hợp, kết quả cuối cùng là hại đến mình. Nhìn bề ngoài ta thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết, nhưng thật ra, đa phần là vì không biết đủ, không hiểu được “phải dừng”. Nếu chúng ta biết đủ, biết dừng, thì sẽ giảm đi rất nhiều phiền não, cơ thể thanh tịnh, và có sống thêm vài năm cũng chẳng thành vấn đề.
Con người không vui vẻ, không hạnh phúc, không phải bởi họ có được quá ít, mà bởi họ không biết đủ, biết dừng. Không biết đủ thì cho dù có bao nhiêu tiền bạc cũng sẽ cảm thấy mình có quá ít, lúc nào cũng buồn phiền vì cái không có được, không biết dừng đúng lúc, cuối cùng ngay cả thứ đến tay rồi cũng vuột mất.
Một hôm trời chạng vạng tối, thiền sư Hư Hữu đi bộ bên sông, nhìn thấy có vài người đang thả câu bên bờ, thiền sư không có việc gì, liền
đứng bên cạnh quan sát. Lúc này, cần câu của một người trong số đó động đậy, một con cá lớn dài tới ba thước bị mắc câu mà vẫn giãy rất khỏe, những người đứng quan sát bên cạnh đều reo hò cho anh ta. Nhưng người nọ gỡ móc câu ra khỏi miệng cá một cách thành thạo rồi tiện tay ném con cá xuống sông. Đám đông vang lên một tràng ca cẩm tiếc nuối, nhưng trong lòng họ lại rất khâm phục ngươi câu được cá, con cá to như vậy chưa làm anh ta hài lòng, có thể thấy đây là một cao thủ câu cá. Khi mọi người nín thở chờ đợi, thì cần câu lại động đậy, lần này anh kia câu được một con cá dài hai thước, người câu cá không suy nghĩ nhiều lại thuận tay ném nó xuống sông. Lần thứ ba, cần câu của người đó tiếp tục động đậy, lần này lại là một con cá nhỏ dài chưa đến một thước. Đám đông xung quanh kêu lên một tiếng thất vọng, có người nghĩ thầm, sớm biết như vậy, lần thứ nhất không nên vứt bỏ con cá lớn đó đi. Không ngờ lần này người câu cá lại cẩn thận gỡ con cá nhỏ ra, bỏ vào rọ.
Những người vây quanh nghĩ mãi không hiểu, liền hỏi anh ta: “Tại sao lại thả lớn mà lấy nhỏ?”
Người câu cá trả lời: “Bởi vì chiếc bàn lớn nhất ở nhà tôi dài chưa đến một thước.”
Xem đến đây, thiền sư cảm khái sâu sắc, nói: “Người đời thường cầu lớn không cầu nhỏ. Thật ra, thứ thích hợp với bản thân mới là tốt nhất.” Người câu cá có thể mua một cái bàn lớn hơn, anh cũng có thể đem cá cắt khúc rồi chế biến. Cho nên, trong mắt những người đứng xem, người câu cá này rất ngốc. Nhưng chúng ta đều quên mất một vấn đề quan trọng là cái bụng chúng ta có hạn. Người câu cá chỉ cần con cá nhỏ dài một thước, đâu chỉ vì bàn không đủ rộng, thứ mà người câu cá muốn là cuộc sống tự tại biết đủ mà vui!
Đại sư Thánh Nghiêm từng nói: “Nếu con người hiện đại có thể xem nhẹ danh lợi, không tính toán, sống qua ngày với thái độ một cháo một cơm, thì sẽ thấy “dư dả” trong sự đạm bạc, thấy tâm tự tại, cõi lòng tĩnh lặng như không có gì vướng bận.”
Cách nói “Một cháo một cơm” xuất phát từ một câu chuyện Phật giáo. Thiền sư Ngưỡng Sơn hỏi thiền sư Vy Sơn: “Thầy ơi, sau khi người viên tịch, nếu như có ai hỏi đạo pháp của thầy là gì, con nên trả lời như thế nào?” Thiền sư Vy Sơn chỉ nói bốn chữ: “Một cháo một cơm.” Tại sao lại nói một cháo một cơm? Bởi vì ở chùa Thiền Tông, buổi sáng ăn một bát cháo, buổi trưa ăn một bát cơm, buổi tối không ăn gì cả. Thiền sư Vy Sơn trả lời như vậy tất nhiên không phải bởi một ngày thiền sư chỉ có thể ăn cơm và cháo, ý của ngài là, cho dù con người có bao nhiêu ham muốn, thật ra mỗi ngày chỉ cần một cháo một cơm là đủ rồi. Có là hoàng đế thì suy cho cùng cũng chỉ là một ngày ba bữa cơm thôi. Thiền sư Vy Sơn dùng bốn chữ “một cháo một cơm” để khuyên mọi người cần phải học cách biết hài lòng .
Tôi vui dẫu chỉ có một cái bánh bao, bởi chí ít hôm nay tôi không bị đói bụng nữa. Có một bàn sơn hào hải vị là tôi thỏa mãn lắm rồi, đời người có được niềm hạnh phúc lớn lao như vậy, tôi còn gì mà không vui nữa? Có nhiều có ít đều vui như nhau, người như vậy là người biết đủ. Bởi vì biết đủ, trong lòng tràn đầy cảm giác sung túc. Còn những người không biết đủ luôn cảm thấy không hài lòng với cái mình đang có và lúc nào cũng nói như thể mình là một người nghèo khổ, bất hạnh. Cho nên, dù anh ta là triệu phú, thì thật ra vẫn là người nghèo.
Nếu muốn hưởng thụ niềm vui của cuộc sống, điều cơ bản để tin theo chính là “Biết đủ thường hài lòng, biết dừng thì dừng được”.
Sống mà biết đủ là sung túc nhất
Phàm việc gì biết đủ thì thường thỏa mãn, người đến mức vô cầu, phẩm hạnh tự sẽ cao.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
G
iữ giới khắt khe, đạm bạc vô cầu, một đôi giày vải rách, một chiếc khăn len cũ, một áo cà sa vá víu hơn 200 chỗ, xanh trắng lẫn lộn, rách rưới không thể tả, còn xem đó là vật quý. Ăn chay chỉ có rau cải luộc, dùng muối không dùng dầu. Tín đồ dâng tặng các loại nấm, đậu phụ, đều bị từ chối hết. Đây là cuộc sống của đại sư Hoằng Nhất sau khi xuất gia. Đại sư Hoằng Nhất nói: “Cuộc sống của người xuất gia đối với người thường là tương đối tịnh khổ, nhưng người xuất gia chân chính không nghĩ đó là khổ, mà coi đó là niềm vui, đồng thời có được niềm vui chân chính từ trong đó.” Trong mắt người đời, cuộc sống thiếu thốn vật chất là khổ. Còn theo đại sư, niềm vui chân chính không phải sự sung túc về vật chất mà là sự phong phú về tinh thần.
Người đời luôn nghĩ mọi cách để thỏa mãn ham muốn về mặt vật chất của bản thân, vĩnh viễn không thấy đủ, vĩnh viễn không ngừng lại. Nhưng trong quá trình đó, mọi người phải chịu đựng sự mệt mỏi hằng ngày khi bị
trói buộc bởi quá nhiều ham muốn tiền tài, của cải cũng như sự đau khổ khi không có được và lúc mất đi. Trên đầu chúng ta có bao nhiêu sợi tóc đã dần bị nhuộm bạc vì những thứ không cần thiết? Còn những người tìm kiếm sự sung túc về mặt tinh thần thì thường có nhiều niềm vui giản dị, điều đó làm cho họ có vẻ tự tại, ung dung, cả cơ thể lẫn tâm hồn đều thoải mái.
Trung Quốc có câu tục ngữ: “Biết đủ thường vui”, “Cơm áo đạm bạc, vui đến cuối đời”. Đây là chí nguyện cả đời của đại sư Hoằng Nhất. Ngài từng khuyên người đời: “Con người sống trên đời đều hy vọng có một cuộc sống vui vẻ hạnh phúc, nhưng hạnh phúc vui vẻ từ đâu mà có? Ít ham muốn biết đủ là đạo, ham muốn là ngũ dục lục trần[9]. Vô lo vô nghĩ, không phải bận tâm thì sẽ yên lòng, hiểu rõ đạo lý, biết được sự thật đúng sai, tâm mới yên được. Tiếp xúc lục căn, không mê đắm lục trần. Đối nhân xử thế, giao tiếp đúng mực, tự thấy vui vẻ.”
Những lời của đại sư là gợi ý cho người đời: Làm người nên bớt ham muốn. Bớt ham muốn sẽ không còn gì vướng bận, cũng không phải lo nghĩ, tâm an thì khắc sống vui vẻ.
Cổ nhân nói: “Cầu danh lợi quá đà sẽ có lúc phải lừa gạt người đời, theo đuổi lợi ích quá đà sẽ có lúc bất chấp mà làm chuyện xấu xa.” Chuyện gì quá cũng hóa dở, ham muốn mãnh liệt sẽ hủy hoại con người. Cho dù bạn không có quá nhiều tham vọng, nhưng nếu suốt ngày đau khổ vì ham muốn không được đáp ứng, thì trạng thái này sẽ hại tới thể xác và tinh thần của bạn. Vậy tốt nhất chính là tự biết đủ mà vui vẻ. Biết đủ không phải dừng theo đuổi, dừng khao khát, ngừng tiến về phía trước, mà là đừng đau khổ vì ham muốn nhất thời không được đáp ứng, điều đó sẽ ảnh hưởng tới cảm xúc và sức khỏe của bản thân.
Ham muốn của con người không bao giờ có điểm dừng. Phật Đà có nói: “Cho dù ông trời có cho một cơn mưa tiền bạc châu báu thì những người tham lam vẫn sẽ cảm thấy không đủ.” Không biết đủ chính là căn nguyên làm chúng ta cảm thấy không vui vẻ. “Được mất do số, lòng không thay đổi”, người biết đủ, biết buông bỏ, thì dù cuộc sống không hoàn hảo, không đạt được mục tiêu trọn vẹn, cũng vẫn cảm thấy cuộc sống này tốt đẹp.
Mười phần phúc khí, chỉ hưởng ba phần
Cho dù chúng ta có mười phần phúc khí, hãy chỉ hưởng ba phần thôi, phần còn lại có thể để dành cho sau này.
Đại sư Hoằng Nhất
C
ái gì là hạnh phúc? Cổ nhân khi tạo ra từ này đã nói cho chúng ta biết đáp án. Chữ “Hạnh” (幸) bên trên là chữ “Thổ” (⼟), bên dưới là ký hiệu của tiền “¥”; chữ “Phúc” (福), bên trái là chữ “Y” (⾐), phía trên bên phải là “Nhất Khẩu” (⼀ ⼝), phía dưới bên phải là “Điền” (⽥). Có nghĩa là có đất, có tiền, có áo, có đồ ăn, hơn nữa cả nhà đều đoàn tụ, đây chính là hạnh phúc.
Nói theo tiêu chuẩn trên, đại đa số chúng ta đều hạnh phúc. Nhưng người giàu có tuy không thiếu cái ăn cái mặc cũng có những chuyện không vui. Một số người giàu có vì sĩ diện mà dùng tiền làm việc quá khả năng, gia đình họ bất hòa, anh em quay lưng, kẻ thù khắp nơi, tiếng xấu không ngớt. Bạn có thể nói họ hạnh phúc không? Tại sao rõ ràng thứ gì chúng ta cũng có mà vẫn không hạnh phúc? Đó là bởi lòng người không biết đủ, ham muốn quá nhiều, không biết quý trọng hạnh phúc.
Khi giảng kinh, đại sư Hoằng Nhất có kể một câu chuyện như sau:
“Tôi luyện viết chữ từ năm bảy tuổi, hồi ấy hay lấy bừa một tờ giấy, viết linh tinh vài chữ rồi bỏ. Mẹ tôi nhìn thấy thì nghiêm mặt, nói: “Con phải biết, khi cha con còn sống, đừng nói là không được lãng phí một tờ giấy lớn như vậy, mà ngay tới một mảnh giấy thôi, cũng không được tùy tiện vứt đi!” Lời mẹ nói có nghĩa là phải biết trân trọng phúc khí. Tôi được nuôi dạy như vậy và nó đã khắc sâu trong tâm trí tôi. Sau này khi lớn tuổi rồi, tôi cũng luôn trân trọng quần áo, đồ ăn; thói quen đó được duy trì cho tới tận bây giờ. Đôi giày màu vàng tôi đang đi là món quà tôi được một người xuất gia tặng hồi năm 1920 ở Hàng Châu. Nếu các vị rảnh rỗi, có thể đến xem phòng tôi, chăn gối mùng mền vẫn là thứ mà người xuất gia trước đây đã dùng; còn có một chiếc ô của phương Tây, cũng được mua từ năm 1911. Mấy thứ này đều có chỗ rách nát, tôi đã nhờ người khâu lại và vẫn luôn tận dụng chúng. Có điều, những thứ như quần dài và đôi giày cỏ la hán mà tôi đang mặc, thì 5, 6 năm phải thay một lần. Ngoài ra, tất cả quần áo đồ đạc đa số đều là đồ cũ của tôi từ khi chưa xuất gia hoặc lúc mới vào cửa chùa.
Trước đây thường có người tặng tôi quần áo và nhiều món đồ quý, nhưng hơn một nửa số đó tôi đem tặng cho người khác, bởi vì tôi biết mình phúc mỏng, đồ tốt cũng không dám dùng. Ví như đồ ăn, chỉ lúc nào bị bệnh mới ăn đồ ngon một chút.
Trân trọng phúc khí không phải chủ trương của một mình tôi, mà ngay cả đại sư Tịnh Thổ Tông Đại Đức Ấn Quang cũng như vậy, có người tặng cho ông mấy thứ đồ bổ như mộc nhĩ trắng, ông thường không chịu ăn, mà chuyển đến chùa Quan Tông để cung dưỡng đại sư Đế Nhàn. Người khác hỏi ông: “Đại sư! Tại sao đại sư không ăn đồ bổ?” Ông nói: “Phúc khí của ta mỏng manh, không hưởng nổi.”
Đại sư Ấn Quang tính tình cương trực, đối với người khác chỉ quan tâm xem có đúng luân lý chừng mực chứ không bàn đến tình cảm. Vài năm trước có một đệ tử quy y, là cư sĩ có tiếng ở đảo Cổ Lãng. Khi người đó đến thăm và ăn một bữa cơm với đại sư, người đó ăn rất ngon lành, nhưng sau cùng lại để sót 2 hạt cơm trong bát. Đại sư thấy vậy liền thẳng thừng lớn tiếng mắng: “Ngài có bao nhiêu phúc khí mà có thể tùy tiện lãng phí hạt cơm như vậy! Ngài phải ăn cho hết chứ!”
Mong mọi người nhớ kỹ những lời tôi nói trên đây. Phải hiểu được: Cho dù chúng ta có mười phần phúc khí, cũng chỉ được hưởng ba phần, phần còn lại có thể giữ lại để sau này hưởng thụ; hoặc các vị có thể mở rộng tấm lòng, san sẻ phúc khí của mình cho tất cả chúng sinh, cùng nhau hưởng thụ, sẽ càng tốt hơn.”
Đại sư Hoằng Nhất cho rằng, mười phần phúc khí chỉ hưởng ba phần là được rồi, đây chính là điều mà chúng ta thường nói, đừng có dùng hết phúc khí. Nếu như ai cũng dùng hết phúc khí của mình quá sớm, thì sẽ dễ thất bại giữa chừng, giống như cây sinh trưởng quá nhanh thì dễ gãy, hoa nở quá sớm thì chóng tàn.
Lúc ở Tuyền Châu, đại sư Hoằng Nhất đã nói với đại sư Đàm Hân: “Mấy ngày nay tôi đang nghĩ, nếu như tôi có thể uống trà Tuyết Phong, thì tôi sẽ rất khỏe.” Trà Tuyết Phong là một loại trà xuất xứ từ chùa Tuyết Phong trên núi Dương Mai (Nam An). Ngài nói xong rồi hỏi đại sư Đàm Hân: “Ông có không?” Đại sư Đàm Hân nói có một ít rồi đi lấy lá trà đến, đại sư Hoằng Nhất pha trà, uống một ngụm, rồi lớn tiếng khen: “Khà! Rất ngon! Rất ngon! Trà này uống rất hợp miệng, thể xác và tinh thần rất thanh tịnh, công dụng của trà này thật tốt.” Ngừng một lát, ông nói tiếp: “Nhưng không thể uống thường xuyên! Trà này không phù hợp với người
quá bữa rồi mà không ăn, bởi vì nó giúp ích cho tiêu hóa, không uống nhiều được.”
Đồ tốt không thể dùng thường xuyên, đây cũng là một biểu hiện của việc trân trọng phúc khí. Nếu như chúng ta thường xuyên hưởng thụ đồ tốt thì lâu dần sẽ thành thói quen, một khi không có thì sẽ cảm thấy không thoải mái, không tự tại.
Chúng ta thường than vãn bản thân có quá ít, nhưng lại lơ là với những gì đang có, đến khi mất đi mới hối hận vì đã không trân trọng nó, mới biết trước đây mình sống trong phúc mà không biết hưởng phúc. Thật ra, nếu một người sống đầy đủ đến mức tiêu tiền như nước, thì đó cũng chính là lúc người đó sắp dùng hết phúc khí. Chỉ tới khi hết phúc khí, chúng ta mới biết được trước đây mình đã giàu có thế nào. Đáng tiếc, khi giàu có, chúng ta lại chưa từng hưởng thụ một ngày vui vẻ.
Dẫu cuộc sống không quá đủ đầy, nhưng chỉ cần chú tâm thu xếp, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được hạnh phúc của riêng mình. Đến một bát cơm trắng còn có mùi thơm của nó cơ mà. Thế nhưng nhiều người mãi đến khi bụng đói cồn cào mới biết được hương vị của một bát cơm trắng. Hãy sống cuộc sống bình thường ngày ba bữa cơm và cảm thấy thỏa mãn với nó, thậm chí có thể bớt dùng mấy phần phúc khí, gom góp giữ lại để sau này dùng dần, chứ không dùng hết một lần.
Chúng ta luôn quen nhìn lên trên và so sánh mình với những người sống tốt hơn, vậy nên, bất kể bản thân có bao nhiêu, cũng không thể khiến mình hạnh phúc. Nếu như chúng ta có thể nhìn xuống dưới, nhìn những người có ít hơn mình, thì bạn sẽ biết bản thân hạnh phúc tới nhường nào. Nhìn nhận cuộc sống như vậy thì cho dù ở trong cảnh nguy khốn, ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì có được sinh mệnh này chính là niềm hạnh phúc lớn nhất trong cuộc sống.
Cuộc sống có an nhàn hay không, không phụ thuộc vào việc đời sống vật chất có xa hoa hay không, mà là lòng ta có thanh thản, yên vui hay không. Nếu có thể giống như đại sư Hoằng Nhất, quý trọng những gì mình có, không màng danh lợi cao xa, lúc nào cũng biết “thỏa mãn”, “trân trọng phúc khí”, vậy thì hạnh phúc sẽ luôn ở bên chúng ta.
Mặn có cái vị của mặn, nhạt có cái lợi của nhạt
Trong thế giới của đại sư Hoằng Nhất; mọi thứ đều tốt. Áo cà sa trắng, cuộn sách nát và chiếc khăn len cũ đều tốt cả, cải xanh, củ cải và nước trắng cũng được hết. Mặn hay nhạt đều được cả. Tâm hồn đại sư tựa một vầng trăng sáng; có thể ngẫm ra toàn bộ mùi vị của đời trong cuộc sống vụn vặt thường ngày; có thể soi rọi vào bộ mặt vốn có của cuộc sống bằng tâm trạng vui vẻ; tâm tính tự tại này. Kỳ diệu biết bao!
Hạ Miễn Tôn - “Nghệ thuật cuộc sống”
M
ỗi khi đọc đoạn văn này tôi đều cảm động, trong lòng có một cảm giác trang nghiêm, từ đó cảm thấy cực kỳ hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình.
Có một lần, đại sư Hoằng Nhất từ Ôn Châu đến Ninh Ba, ở lại chùa Thất Tháp. Hạ Miễn Tôn biết tin liền mang cơm đến ngay buổi chiều ngày hôm sau, ngồi ăn cùng ngài. Tuy chỉ là một ít củ cải, cải thảo, nhưng dường như đối với ngài, đó lại là một bữa cơm thịnh soạn. Đại sư vui vẻ và cơm, trịnh trọng dùng đũa gắp một miếng củ cải với tinh thần sung sướng tột cùng, thật khiến cho người khác nhìn mà rơi nước mắt vui mừng hổ thẹn!
Ngày thứ ba, có một người bạn khác đưa 4 món chay cho ngài. Ông Hạ Miễn Tôn cũng ngồi ăn cùng. Trong đó có một món cực kỳ mặn. Hạ Miễn Tôn nói: “Cái này mặn quá!”
Ngài lại nói: “Ngon mà! Mặn cũng có mùi vị của mặn!”
Nhà của Hạ Miễn Tôn cũng khá xa nơi đại sư ở. Thế nên sang ngày thứ tư, đại sư bảo ông sau này không cần đem cơm đến nữa, ngài tự lo được. Ngài còn cười nói, khất thực là bản sắc của người xuất gia.
“Vậy thì, hôm nào mưa gió tôi sẽ đem cơm đến cho thầy.” “Không cần đâu! Trời mưa, tôi có guốc mộc mà!” Khi nói đến “guốc mộc”, vẻ mặt đại sư rạng rỡ như thể đó là một món pháp bảo cực tốt. Ngài nhận ra ông Hạ có chút bất an, liền nói: “Mỗi ngày đi một đoạn đường cũng là một cách vận động rất tốt.”
Đối với ngài, mọi thứ trên thế gian đều rất tốt. Dù là quán trọ nhỏ hay nhà kho chật hẹp, dù là manh chiếu cũ hay khăn len rách rưới, dù là cải thảo hay củ cải nhạt nhẽo, dù món ăn mặn hay đắng, dù cuốc bộ hay đi xe, thế nào cũng được cả, bởi mỗi thứ có cái tốt, cái dư vị riêng của nó.
Chắc chẳng mấy ai được như đại sư, ăn củ cải cải trắng mà mặt mày hân hoan, hưởng thụ tất cả hương vị của món ăn, dẫu nó có thế nào đi nữa. Theo đại sư, chúng ta không nên có thành kiến hay nhìn nhận theo một khuôn mẫu nào đó đối với tất cả mọi vật trên đời. Ngài nhìn thẳng vào diện mạo vốn có của cuộc sống, cảm nhận và hiểu theo đúng sự thật, đây mới là sự giải thoát, sự hưởng thụ chân chính.
Người từng nếm trải đau khổ, từng chịu cảnh nghèo đói, đại khái sẽ có những trải nghiệm như vậy. Nước là thứ ngọt nhất với người đang khát, khoai tây là thứ ngon nhất với người đang đói. Đây không phải ảo giác, mà vì chúng ta đón nhận chúng với lòng biết ơn. Ngược lại, nếu như không có
lòng biết ơn, thì dù ngày ngày ăn thịt ăn cá, vẫn sẽ cảm thấy buồn chán vô vị.
Cho dù là vị đắng, vị mặn của cuộc sống, chúng ta cũng nên chấp nhận nó, mang lòng biết ơn và coi đó là phúc phần, làm vậy sẽ giúp ta cảm thấy đó là hương vị tốt nhất của cuộc sống. Những người từng lún sâu vào đau khổ chắc chắn sẽ hiểu rất rõ điều này. Lúc đầu thì cảm thấy khó mà chấp nhận, không ngừng than trách, nhưng mọi thứ rồi sẽ dần lắng đọng theo thời gian, tới một ngày nào đó, ngoảnh đầu nhìn lại, ta sẽ thấy đắng cay qua đi, để lại chút dư vị ngọt ngào. Đối với nam nữ thanh niên rơi vào tình yêu, thì chia ly là đau khổ, bên nhau là mật ngọt, nhưng nỗi đau chia ly lại thường thử thách được tình cảm của nhau. Bởi lẽ, không có đắng cay thì sao biết vị ngọt? Không có đau khổ sao hiểu được niềm vui? Không có cái chết sao thấu tỏ sự sống?
Sống không được tham lam. Trong cuộc sống, có trà ngon để uống là chuyện rất tốt, nhưng nếu chỉ có nước trắng thì cũng đã hạnh phúc lắm rồi. Khi cầm cốc nước lên, hãy nghĩ rằng mình đang ở sa mạc, như vậy cốc nước này trở nên quý báu đến nhường nào? Nếu bạn cho rằng món ăn trong bát quá mặn, vậy thì bây giờ bạn hãy bỏ lại món mặn này, nhịn đói hai ngày, chắc chắn bạn sẽ rất thèm món ăn mặn đó.
Mặn có cái vị của mặn, nhạt có cái vị của nhạt. Mỗi lần nhớ lại câu nói này, tôi đều cảm thấy rất biết ơn. Tôi càng cảm thấy hài lòng đối với món ăn trong miệng mình, quần áo trên người mình. Chỉ cần trong lòng chúng ta biết trân trọng phúc khí, thì dù là mặn hay nhạt cũng đều có thể ngẫm ra toàn bộ mùi vị đặc biệt của nó trong cuộc sống vụn vặt thường ngày.
Một hạt gạo, một bát cơm, đâu có được dễ dàng
Cả đời đại sư Ấn Quang đều chú ý đến việc trân trọng phúc phận. Những thứ như quần áo, đồ ăn, chỗ ở đều rất đơn giản sơ sài, lược bỏ đi sự tinh mỹ.
Đại sư Hoằng Nhất
Đ
ại sư Hoằng Nhất đề xướng với mọi người một cuộc sống tiết kiệm. Theo ngài, một người cho dù là nghèo khó hay giàu có, đều nên biết sống tiết kiệm. Đặc biệt là người giàu có, bởi vì có điều kiện nên họ càng
dễ sống một cách phung phí quá đà. Sau khi giàu có rồi mà vẫn có thể sống tiết kiệm, vậy thì người đó chắc chắn rất giỏi giang.
Đại sư Hoằng Nhất sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, đến khi xuất gia lại sống cuộc sống cơm canh đạm bạc, kiêng mọi vật dụng xa xỉ ngoại trừ những thứ thật cần thiết cho cuộc sống. Theo ngài, những thứ con người ăn, mặc, sử dụng, đều là từ sức lao động của người khác, là kết tinh mồ hôi công sức của người lao động, cho nên càng phải trân trọng chúng.
Có một mùa đông, ngài ở trong Thủy Vân Động (Nam An, Phúc Kiến). Điều kiện vật chất trong chùa không được tốt, phòng ở sơ sài, giường chỉ là hai tấm gỗ ghép lại mà thành, sư Tuệ Điền phụ trách chăm lo cho cuộc
sống của đại sư thấy thế thì rất băn khoăn. Đại sư lại rất hài lòng và liên tục nói “Rất tốt, rất tốt”, và bảo với Tuệ Điền: “Người xuất gia chúng ta dùng toàn đồ mà các thí chủ bố thí cho, nên thứ gì cũng đều phải tiết kiệm, phải biết trân trọng. Nơi ở chỉ cần có không khí sạch sẽ đã là tốt lắm rồi. Đồ đạc chỉ cần dùng được là được, không cần phải tinh xảo đẹp đẽ làm gì. Một bữa cơm trong ngày, một đêm ngủ dưới cây, là bản sắc của người xuất gia.”
Đại sư Đàm Hân khi nói về đại sư Hoằng Nhất, từng kể một chuyện: Năm 1941, cư sĩ Lưu Truyền Thu của Thượng Hải nghe nói Mân Nam khủng hoảng vì thiếu lương thực, lo sợ đại sư Hoằng Nhất không đủ ăn, không thể hoàn thành công việc biên soạn “Nam Sơn Luật Tùng”, nên đã nhờ đại sư Liên Châu từ đảo Cổ Lãng chuyển ngàn tệ cho ngài. Đại sư Hoằng Nhất dẫu xúc động vẫn khước từ, nói: “Từ khi tôi xuất gia đến giờ chưa nhận bố thí của ai. Dù là đồ mà bạn bè và đệ tử cung cấp, tôi cũng dùng hết cho việc in ấn sách Phật, bản thân không lấy một chút nào. Trước giờ tôi không quan tâm tiền bạc, cũng không nhận tiền, xin nhờ người có lòng tốt hoàn trả.” Nghe nói giao thông Thượng Hải đình trệ, không thể gửi lại khoản tiền đó, đại sư trầm ngâm chốc lát rồi nói:
“Nếu đã như vậy thì hãy đem số tiền này tặng cho Khai Nguyên Tự. Ngôi chùa ấy bị cắt nguồn kinh tế, thiếu thốn lương thực. Nhờ Khai Nguyên Tự trực tiếp hồi âm bày tỏ lòng cảm ơn với cư sĩ Lưu.” Bạn của đại sư - cư sĩ Hạ Miễn Tôn trước đây đã tặng đại sư một cặp mắt kính thủy tinh trắng của Mỹ, bởi vì nó quá đẹp, nên đại sư không đeo, lần này ngài cũng tặng cho Khai Nguyên Tự để mở bán đấu giá, lấy được hơn 500 tệ, và dùng số tiền đó để mua đồ ăn chay.
Tuy cuộc sống của chúng ta hiện nay đã tốt hơn, nhưng thói quen quý trọng đồ đạc thì không khi nào lỗi thời. Làm vậy không phải vì bủn xỉn. Vì
tài nguyên trên trái đất này đều có hạn, nếu như đời này chúng ta dùng hết thì có thể đời sau sẽ không có gì để dùng nữa. Ví dụ nói tới nguồn nước, con người hiện đại đều giặt quần áo bằng máy giặt, nước sạch khi giặt xong đều được xả theo đường ống. Thật ra, chúng ta có thể dùng xô để đựng, nước này có thể dùng để cọ nhà vệ sinh, lau nhà.
Một người cho dù có địa vị cao đến mức nào và có nhiều tiền bạc tới mức nào, cũng đều phải sống một cách tiết kiệm. Yếu tố quyết định một người cao sang hay nghèo túng không nằm ở việc người này có bao nhiêu tiền, mà nằm ở việc người đó lựa chọn cách sống thế nào. Cuộc sống tiết kiệm không đòi hỏi một người phải sống khổ ải như nhà tu hành. Chúng ta chỉ đừng nên lãng phí, đừng nên theo đuổi cuộc sống xa hoa quá mức so với những gì cần thiết cho cuộc sống.
Một người không biết cách quý trọng thì không hiểu được hạnh phúc là gì. Họ tiêu xài không ngớt như một cách để giải tỏa tinh thần, nhưng thực chất lại càng cảm thấy trống rỗng. Cho nên, chúng ta phải học cách quý trọng hạnh phúc, phải cố gắng giảm bớt sự lãng phí không cần thiết, giảm bớt những nhu cầu ham muốn của mình, chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể cảm nhận hạnh phúc từ cuộc sống một cách sâu sắc.
Lao động chính là cách sống mà ông trời ban cho
Bây giờ nói một chút về việc học tập lao động: các vị hãy coi lại cơ thể của mình, trên có hai tay, dưới có hai chân, nguồn vốn này là dành cho lao động và học tập. Nếu như không dùng chúng vào việc này thì không chỉ phí hoài hai tay hai chân mà còn ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe. Nói cách khác: Nếu thường xuyên lao động; cơ thể chắc chắn sẽ khỏe mạnh.
Đại sư Hoằng Nhất
C
uộc sống tiếp diễn là nhờ có lao động, lao động là một bản năng, người thường xuyên lao động mới có thể khỏe mạnh.
Nhưng lao động là việc vất vả, buồn chán. Thậm chí, đa phần mọi người dù đổ máu đổ mồ hôi nhưng thù lao lại ít ỏi không đáng kể. Mỗi lần như vậy, trong lòng chúng ta sẽ có ác cảm với việc lao động. Cho nên, có người cho rằng, nếu như vất vả mà đổi lại chỉ càng thêm vất vả, vậy sao con người phải sống trên đời này một cách khổ cực như vậy?
Có một người nghèo, tuy rằng ngày nào cũng lao động vất vả, nhưng vẫn không đủ no ấm, nguyện vọng lớn nhất trong cuộc đời anh ta chính là được như người giàu có: ngày ngày ăn uống vui chơi mà không cần phải
lao động. Thế là anh ta đến gặp thượng đế, xin thượng đế cho anh ta hưởng thụ những ngày tháng không cần lao động. Thượng đế đã đồng ý. Vậy là người này lập tức lột xác, trở thành người có tiền, ở trong biệt thự xa hoa, mọi chuyện lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày đều có người hầu lo liệu. Anh ta muốn tìm chút việc để làm, nhưng lại không có việc gì mà anh ta làm được. Dần dần, anh ta trở nên lo lắng bất an, cảm thấy cuộc sống thật vô vị và muốn quay về sống những ngày tháng như trước đây. Anh ta thà trở lại nghèo khổ nhưng ngày nào cũng chìm trong trạng thái bận rộn làm việc, còn hơn là không làm gì cả như bây giờ. Do đó, anh ta tìm đến thượng đế và nói: “Để con được như trước đây đi! Con thật sự không thể chịu nổi nữa. Con cảm thấy cuộc sống của con bây giờ đáng sợ cứ như sống trong địa ngục vậy.” Thượng đế nói: “Đây chính là địa ngục mà!”
Lao động là hạnh phúc, chúng ta không hiểu điều đó là bởi vì chúng ta quá chú trọng vào bản thân việc lao động mà bỏ qua những giá trị mà nó đem lại cho chúng ta. Lao động là vất vả, nó khiến chúng ta phải đánh đổi rất nhiều thời gian và sức lực, nhưng cũng đem lại sự thỏa mãn về mặt tinh thần. Khi nhìn thấy thành quả lao động của bản thân, chúng ta sẽ phát hiện ra mọi sự vất vả đều là xứng đáng, bởi vì chúng ta đã có thu hoạch.
Lao động là hạnh phúc, bởi vì chúng ta hoàn thành chí nguyện trong lòng mình. Mỗi người đều có mục tiêu, sở thích và hứng thú của riêng mình, nếu như lao động là để thực hiện mục tiêu của chúng ta thì bạn còn cảm thấy lao động là vất vả nữa không? Khi chúng ta bắt đầu từ công việc mà mình yêu thích, chúng ta còn cảm thấy lao động thật vô vị nữa không? Chúng ta không nên nhìn vào những đau khổ lao động mang tới, mà nên quan tâm đến lợi ích nó đem lại, chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể phát hiện ra hạnh phúc từ trong lao động.
Chúng ta phải học cách cảm nhận hạnh phúc trong lao động, nó khiến ta mệt mỏi, nhưng cũng làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn, giúp ta hiểu được sự gian khổ của cuộc sống và ý nghĩa thực sự của hạnh phúc. Lao động chính là một cách tu hành, trong quá trình lao động, chúng ta có thể tạo ra giá trị, làm cho cuộc sống có được ý nghĩa lớn nhất.
Nhẫn nhịn là một loại tu hành trong cuộc sống
Không thể buông thả bản tính của mình, nên dùng phương pháp ngược lại để kiềm chế nó, đạo lý này nằm ở một chữ “nhẫn”.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
T
hế nào là nhẫn? Người Trung Quốc có cách lý giải đặc biệt với từ này, họ cho rằng, “nhẫn” có nghĩa là “nhẫn nhục”. Chúng ta thường nói nhẫn nhục gánh trọng trách, không nhẫn nhục, không thể gánh trọng trách, không nhẫn nhịn, không làm được việc. Tại sao phải nhẫn nhịn? Bởi vì nhẫn nhịn sẽ tránh được rất nhiều rắc rối và tổn thương vô nghĩa. Khi còn chưa đủ mạnh mẽ, chúng ta phải học cách nhẫn nhịn, chuyện nhỏ không nhịn sẽ ảnh hưởng đến đại cục. Khi chúng ta đã mạnh mẽ rồi, cũng phải học cách nhẫn nhịn.
Một học giả phương Tây từng nói: “Nhẫn nhịn và kiên trì rất đau khổ, nhưng dần dần chúng sẽ đem lại lợi ích cho bạn.” Một người muốn có thành tựu thì phải học cách nhẫn nhịn. Đối với một số người, nhẫn nhịn thường bị coi là nhu nhược, dễ bị bắt nạt. Nhưng trên thực tế, nhẫn nhịn là một cách rèn giũa bản thân, là kết quả được đúc kết sau khi trải qua thử
thách sóng gió, giúp con người tôi luyện ý chí để bình tĩnh hơn khi xử lý mọi chuyện, đối mặt với gian nan vẫn bình thản ung dung, bị chê hay được khen cũng không tự ti, không kiêu ngạo.
Khi bị ức hiếp, phản ứng đầu tiên của chúng ta luôn là trả đòn, người ta đánh bạn một cái, tốt nhất phải trả lại người ta hai cái. Cho nên, chúng ta thường nhìn thấy có người chỉ vì một chút chuyện nhỏ mà tức đến nỗi đỏ mặt tía tai, đánh đến mức sứt đầu mẻ trán. Thật ra, có rất nhiều người từng trải qua những chuyện giống như bạn, thậm chí có thể nói, tất cả mọi người đều từng bị như vậy. Nhưng tại sao chỉ có bạn cho rằng mình bị bắt nạt? Đó là vì bạn không thể “nhẫn”. Một số chuyện nhẫn nhịn thì sẽ qua.
Nhẫn nhịn không phải nhu nhược, dễ bị ức hiếp, hoàn toàn trái ngược, đó là phản ứng tự nhiên của những người có tinh thần mạnh mẽ. Người biết nhẫn nhịn luôn có chỗ đứng bất bại trong cuộc cạnh tranh xã hội. Một người thiếu đi sự nhẫn nhịn rất dễ bị đè nén, còn người có sức chịu đựng lớn thì dù trong giông bão cũng không sợ hãi, trở thành người thắng cuộc cuối cùng.
Đời người luôn vì không thể nhẫn nhịn nên dù một câu nói, một chuyện nhỏ cũng có thể dẫn đến tranh chấp, làm cho mọi người đều không vui vẻ. Có một thanh niên tính tình nóng nảy, thường hay đánh nhau với người khác, mọi người đều không thích anh ta. Một ngày nọ, người thanh niên này vô tình dạo chơi đến chùa Đại Đức, tình cờ nghe được một thiền sư đang giảng pháp. Nghe xong, anh ta thề rằng sẽ thay đổi, anh ta nói với thiền sư: “Sau này con sẽ không đánh nhau với người ta nữa, tránh để mọi người đều không muốn nhìn thấy con. Cho dù người khác có nhổ nước miếng vào mặt con, con cũng chỉ nhẫn nhịn lau đi, bình tâm chấp nhận!” Thiền sư nghe người thanh niên nói vậy, chỉ cười nói: “Hà tất phải làm vậy? Cứ để nước miếng tự khô, sao phải lau đi?”
Người thanh niên nghe xong, rất đỗi ngạc nhiên, hỏi lại thiền sư: “Sao mà như vậy được? Tại sao phải chịu đựng như vậy?”
Thiền sư nói: “Điều này thì có gì mà không chịu đựng được, cậu cứ coi như nó là con muỗi đậu trên mặt thôi, không đáng để đánh nhau vì nó.” Thanh niên lại hỏi: “Nếu như đối phương không nhổ nước miếng, mà đưa ra một nắm đấm, thì con phải làm thế nào?”
Thiền sư trả lời: “Thì cũng vậy thôi. Cậu đừng quá để tâm. Chỉ là một đấm thôi mà.”
Người thanh niên nghe xong, bỗng giơ nắm đấm ra, đánh vào đầu của thiền sư, và hỏi: “Hòa thượng, bây giờ ông thấy sao?”
Thiền sư rất ân cần nói: “Đầu tôi cứng như đá, không cảm thấy gì hết, nhưng tay cậu chắc là đau lắm phải không?”
Thanh niên đứng ngay ở đó, đúng là không biết nói gì hơn. Thế mới nói, nhẫn nhịn là một loại tu hành thâm sâu, cần bỏ chút công sức mới được. Đại sư Hoằng Nhất từng nói: “Ở nơi phồn hoa, gặp người ngu đần, gặp lúc bế tắc, gặp chuyện phức tạp, đây là những tình huống con người ta dễ tức giận. Nóng nảy hấp tấp không những không có lợi, mà còn dễ khiến người khác oán trách, bản thân thì hỏng việc, đó là việc ngu ngốc. Nhẫn nhịn cho qua thì sẽ có lợi vô cùng.”
Khoan dung với người khác là tốt với chính mình
Người nóng nảy hấp tấp, tôi thích đối xử bằng sự khoan dung; người hẹp hòi nguy hiểm, tôi lại đối xử bằng sự vô tư.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
N
ăm 1913, Lý Thúc Đồng nhận việc dạy mỹ thuật và âm nhạc ở trường Sư phạm I tỉnh Chiết Giang. Ngoài giờ học, ông thường dạy học sinh của mình đừng quá xét nét về những sai lầm nhỏ không ảnh hưởng gì đến người khác, kết quả làm cho mọi người đều không vui. Thật ra nếu là lỗi nhỏ không ảnh hưởng đến người khác, thì chúng ta không cần truy cứu, bỏ qua lỗi lầm đó cũng không ảnh hưởng gì đến đại cục. Bởi vì làm như vậy không chỉ giúp bản thân tránh được những phiền phức và quan hệ rắc rối không cần thiết, mà còn chiếu cố đến danh dự của người khác, không đến nỗi đem lại phiền phức vô nghĩa cho người khác, đồng thời thể hiện được sự khoan dung của mình.
Một lần, một học sinh phát hiện ra trong sách giáo khoa có một lỗi sai ngữ pháp và không ngừng khiển trách về chuyện này, nói giáo viên không có tài năng, không có trách nhiệm. Quyển sách giáo khoa này trùng hợp lại
do Lý Thúc Đồng đích thân biên soạn. Với điều kiện lúc đó, sai sót là việc khó mà tránh được, Lý Thúc Đồng hoàn toàn có thể, cũng có đầy đủ lý do để biện giải cho mình. Nhưng ông không vì thế mà nói học sinh nọ gây sự vô lý, ngược lại còn biểu dương học sinh đã tìm ra lỗi sai. Tuy đây chỉ là chuyện nhỏ, nhưng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến học sinh ấy.
Thật ra, khoan dung không chỉ là một cách thông cảm với người khác, cũng là một cách giải thoát cho bản thân.
Bà Du là một bệnh nhân mắc chứng động kinh, chồng thì bị tai biến mạch máu não phải nằm liệt giường. Bà không được đi học nên chẳng có bằng cấp để mà kiếm một công việc tử tế, cả nhà đều sống dựa vào công việc giặt quần áo của bà, cuộc sống rất vất vả. Nhưng bà Du rất thanh thản, bởi vì bà có một đứa con hiểu chuyện. Nhưng trong một lần tham gia bữa tiệc đốt lửa trại, đứa con duy nhất của bà không may bị một thanh niên say rượu dùng bình thủy tinh giết chết khi mới chỉ 19 tuổi. Bà Du đáng thương, ngay đến việc gặp con trai lần cuối cũng không được. Bà không thể tha thứ cho người đã giết hại con trai mình. Thù hận luôn đằng đẵng bám theo như một cái bóng khiến cho bà đau khổ.
Cho đến một ngày, khi bà Du đang giặt quần áo bỗng nhớ tới “kẻ thù” năm đó nay cũng đã 19 tuổi rồi, cùng tuổi với đứa con đã mất của mình. Nếu như con trai bà còn sống, chắc cũng sẽ có tiền đồ và hy vọng đẹp đẽ đang chờ đợi nó. Nhưng “kẻ thù” hiện giờ vẫn đang ở trại giam vị thành niên, sau khi trở về với xã hội, liệu cậu ta còn phát triển được gì nữa? Đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, mẹ của “kẻ thù” chắc chắn cũng rất buồn. Đột nhiên bà Du rất muốn đi thăm “kẻ thù” này. Nhờ sự sắp xếp của bạn bè, bà đến trại giam vị thành niên để gặp người thanh niên đã giết chết con trai bà năm đó. Chàng trai này vừa gặp bà Du liền nắm chặt lấy tay bà mà bật khóc, không ngừng nói “cháu xin lỗi, cháu xin lỗi”. Bà Du ôm lấy
cậu, có cảm giác như đang ôm con trai mình, trong lòng đã không còn thù hận nữa.
Bà Du vẫn mưu sinh nhờ công việc giặt quần áo, nhưng trong lòng bà đã bình yên hơn nhiều, cũng vui vẻ hơn nhiều.
Phương Tây có câu ngạn ngữ: “Ăn rau bằng trái tim vui vẻ, còn hơn là ăn thịt bò mà ôm ấp sự thù hận.” Cách giải quyết hận thù không phải là báo thù, mà là tha thứ. Kinh Phật viết: “Nếu có người vì một mối thù không rõ mà tổn hại đến mình, mình phải dùng tình yêu vô tư để đối xử với họ.”
Một nữ minh tinh Hollywood sau khi bị thất tình thì sinh ra oán hận. Tâm lý báo thù đã làm cho cô có một khoảng thời gian dường như mất đi lý trí. Một ngày nọ, khi soi gương, cô thấy khuôn mặt mình đầy những nếp nhăn, biểu cảm cứng đờ, cô đành phải tìm đến bác sĩ thẩm mỹ nhờ giúp đỡ. Bác sĩ thẩm mỹ với kinh nghiệm nhiều nằm của mình đã nói với cô: “Nếu như cô không loại bỏ được hận thù trong lòng, thì chẳng có bác sĩ thẩm mỹ nào có thể thay đổi dung nhan cho cô được.”
Khoan dung với một người còn khó hơn là yêu thương người đó, điều này đòi hỏi một sự dũng cảm cực lớn. Nhưng chỉ có khoan dung, tâm hồn ta mới được giải thoát. Vì vậy, nếu có người từng lừa gạt tình cảm của bạn, làm tổn thương đến người thân hoặc bạn bè của bạn, thì cũng đừng căm thù người đó suốt đời, hãy thử quên đi những đau khổ, tha thứ cho “kẻ thù” của bạn. Thứ đã mất thì sẽ mãi mãi mất đi, dù có oán hận đối phương thế nào, cũng không thể làm cho mọi thứ quay trở lại điểm ban đầu. Ôm mối hận mà sống thì chỉ giày vò chính tâm hồn của bạn mà thôi. Muốn hạnh phúc, muốn vui vẻ thì phải buông bỏ thù hận, giải phóng thù hận mới có thể giải phóng nỗi đau khổ trong tâm hồn, mới có thể đối diện với cuộc sống bằng khuôn mặt rạng rỡ nụ cười!
Khai mở tuệ giác, không sợ những lời đồn đại đàm tiếu
Nếu bị người khác chỉ trích, không nên biện bạch bất cứ điều gì. Tôi thường thấy mọi người khi bị chê trách thì giải thích biện bạch, nhưng chỉ càng thiệt hơn. Không biện giải thì lời chỉ trích đó sẽ qua đi và không có gì phải lo sợ.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
C
hỉ cần chúng ta còn sống, còn giao tiếp với người khác thì việc bị người khác “nói xấu” là điều không thể tránh khỏi. Một số lời nói xấu không gây ảnh hưởng lớn, một số lời bịa đặt nói bóng nói gió lại gây tổn thương tới người khác. Người thông minh khi đối mặt với lời đồn sẽ cười cho qua chuyện, bởi như thế còn tốt hơn nhiều so với việc cố biện bạch. “Tốt sẽ tự biết, xấu thì khắc lộ”, lời đồn chỉ sợ sự thật, gặp lúc thích hợp, chúng ta phơi bày sự thật, lời đồn tự khắc không còn. Chúng ta không cần quan tâm những kẻ đặt điều vô lý, cũng không cần e sợ những lời bóng gió, khi chúng ta không quan tâm thì lời chỉ trích cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Hòa thượng Bố Đại[10] từng nói một câu: “Có người mắng tôi, tôi chỉ nói “được”; có người đánh tôi, tôi tự ngủ khì; có người nhổ nước miếng
vào tôi, tôi để nó tự khô; anh tiết kiệm sức lực, tôi cũng bớt phiền não.” Chúng ta có quá nhiều phiền não, đều là từ những lời chỉ trích giữa người với người mà ra. Chúng ta luôn bận tâm đến chuyện người khác nói mình như thế nào, nhìn mình ra sao, lo lắng không biết mình đã nói câu nào không đúng làm cho người ta khó chịu, sợ rằng những hành động không khôn khéo của mình bị người ta cười nhạo. Do đó, vì sợ bị người khác chỉ trích nên tự trách, sợ bị người khác chê cười mà tự ti, sợ khó khăn nên tự khép mình, không thì cũng lời qua tiếng lại, tranh chấp bất hòa.
Có một tiểu hòa thượng kể về điều phiền não của mình cho sư thầy nghe, bởi vì sư huynh đệ luôn nói xấu cậu, khiến cho cậu không thể chú tâm niệm kinh, hôm nào cũng sầu não vì những lời nói xấu đó. Không biết hôm nay các sư huynh đệ lại nói xấu gì mình nữa?
“Thầy nhất định phải quản cho nghiêm. Sao bọn họ có thể tùy tiện nói xấu người khác được?”
Sư thầy nhắm hai mắt, nhẹ nhàng nói một câu: “Là vì bản thân con lúc nào cũng nói xấu.”
“Không phải vậy, là bọn họ rỗi hơi đặt điều.” Tiểu hòa thượng không phục.
“Không phải bọn họ rỗi hơi đặt điều, mà chính con rỗi hơi đặt điều.” “Không, rõ ràng là bọn họ lo chuyện bao đồng.”
“Không phải bọn họ lo chuyện bao đồng, là bản thân con lo chuyện bao đồng.”
“Tại sao thầy lại nói như vậy? Con chỉ lo chuyện của bản thân con thôi mà!”
“Suy nghĩ linh tinh, nói xấu người khác, lo chuyện bao đồng, đó là chuyện của bọn họ, cứ để bọn họ nói đi, liên quan gì tới con? Con không chú tâm niệm kinh, lúc nào cũng nghĩ bọn họ nghĩ linh tinh, không phải con
đang nghĩ linh tinh sao? Lúc nào cũng nói bọn họ nói xấu mình, không phải con cũng đang nói xấu họ sao? Lúc nào cũng quan tâm đến chuyện bọn họ nói xấu, không phải con cũng đang lo chuyện bao đồng sao?” Tiểu hòa thượng hiểu ra.
Người khác nhìn mình thế nào, nói mình thế nào đều không quan trọng, điều quan trọng là bản thân nhìn nhận mình thế nào. Vốn dĩ ta không cần phiền muộn vì những lời nói của người khác. Người khác nói gì, bạn có muốn cũng không ngăn cản được. Hãy đối mặt với những lời nói xấu đặt điều với thái độ rộng lượng và không thèm quan tâm. Gió thổi mưa rơi, sương mù tự khắc sẽ tiêu tan, trời đất này vốn sáng trong như vậy, hà tất phải để tâm xem người khác nói gì? Vốn dĩ mình trong sạch, nhưng vì bị nói xấu mà cố biện bạch, đáng tiếc càng giải thích càng khiến hình ảnh mình xấu đi. Tội gì phải vì lời nói của người khác mà đẩy tiền đồ và hạnh phúc của bản thân vào tình cảnh tiêu cực, như vậy không đáng chút nào.
Phật nói: “Đối nhân, nếu không đặt mục tiêu cao xa hơn một chút thì cũng giống như rũ áo trong bụi, rửa chân trong bùn, làm sao mà siêu phàm thoát tục được? Xử thế, nếu không biết lùi bước khi cần thì cũng giống như thiêu thân lao vào lửa, con dê húc bờ rào, làm sao mà yên lòng vui vẻ được?” Dù có trăm cái miệng cũng không biện bạch được, vậy chi bằng không nói thêm lời nào nữa, để cho nó tự sinh tự diệt. Có câu: “Im lặng là vàng.” Đối mặt với lời phỉ báng, cứ việc im lặng để trả lời, nhẫn nhịn một chút, chờ sau này khi sự thật phơi bày, lời phỉ báng tự khắc biến mất.
Tương truyền, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni khi tại thế từng có một dạo gặp phải lời phỉ báng và mắng nhiếc vô lý từ người khác. Mỗi lần như vậy Thích Ca Mâu Ni đều ôn hòa, nhã nhặn, giữ bình tĩnh. Một ngày nọ, người đó gặp Thích Ca Mâu Ni, tiếp tục mở miệng sỉ nhục, lời lẽ cực kỳ khó nghe. Phật tổ vẫn làm như không nghe thấy gì hết. Chờ cho đối phương
mắng chửi mệt rồi, ngài mới hỏi người đó: “Anh bạn à, nếu có một người tặng thứ đồ gì đó cho người khác, mà đối phương không muốn nhận, vậy thì thứ đồ đó thuộc về ai?”
“Dĩ nhiên là thuộc về người tặng đồ rồi!” Người đó không hiểu câu trả lời đã nằm trong lời nói đó.
“Anh cứ mắng tôi suốt như vậy, nếu như tôi không nhận, vậy thì những lời đó thuộc về ai?”
Người đó bỗng chốc hiểu ra.
Giả câm giả điếc không phải thiếu tự tin, mà là không muốn quan tâm, xem thường những lời đồn đại, không tức giận vì chúng, để không lãng phí sức lực của chúng ta. Người ta phỉ báng bạn vì họ muốn thấy bạn tức phát điên lên, chờ bạn phản kích lại, tiện đó mượn cớ để ra tay với bạn. Nếu bạn tỉnh bơ, không phản ứng gì, vậy thì người không vui, đứng ngồi không yên chính là bản thân người phỉ báng.
Thi tăng thời Đường - Hàn Sơn hỏi thiền sư Thập Đắc: “Hôm nay có người khinh con, sỉ nhục con, vô lễ với con, cười nhạo con, coi thường con, ức hiếp con, nói xấu con, tổn thương con, chê trách con, hận con, vậy phải làm sao?” Thiền sư Thập Đắc trả lời: “Con cứ nhẫn nhịn thôi, cứ kệ hắn, nhường hắn, kính trọng hắn, né tránh hắn, chịu đựng hắn, giả câm giả điếc, thờ ơ không để ý, lặng lẽ quan sát, xem kết cục hắn như thế nào.”
Nếu ai ai cũng hiểu được điều này thì tin rằng những lời nói xấu ác độc cũng chùn bước. Lặng lẽ quan sát lời nói xấu cũng giống như việc đem nguyên xi những lời mắng chửi và nguyền rủa trả lại cho người đã tạo ra lời nói xấu đó. Trong tiếng chửi rủa, chúng ta vẫn có thể lĩnh ngộ tiến lên, sống một cách tiêu diêu tự tại.
Không oán trách, không giận dữ thì trái tim là mảnh đất trong sạch
Không nên giận dữ, thói quen giận dữ không dễ gì bỏ được. Một ý nghĩ giận dữ có thể dẫn đến vạn nghiệp chướng. Đáng sợ lắm thay!
Đại sư Hoằng Nhất - “10 điều sửa đổi”
G
iận dữ là gì? Giận dữ bao gồm tất cả các cảm xúc tiêu cực ở mọi mức độ như buồn phiền, cáu kỉnh, bài xích, phản cảm, ghét bỏ, căm hờn, keo kiệt, đố kỵ, hối tiếc, sầu não, khổ đau, ác ý, hận thù, oán hận, tức tối, hủy diệt. Người anh em của phẫn nộ là bài xích, phản kích, hung ác, tàn bạo. Đại sư Hoằng Nhất cho rằng, ý nghĩ giận dữ có thể dẫn đến vô số nghiệp chướng, con người một khi có ý nghĩ tức giận, thì sẽ mất đi lý trí, mất đi khả năng phán đoán chính xác. Do đó đại sư cho rằng không được giận dữ, một khi “giận dữ” trở thành thói quen thì rất khó từ bỏ, vậy nên chúng ta phải luôn cảnh giác, không được để ý nghĩ giận dữ phá hoại cảm xúc và tâm trí của bản thân.
Mỗi ngày chúng ta có thể sinh ra rất nhiều ý nghĩ tức giận, thậm chí lúc nào cũng phải đề phòng sự sản sinh của chúng. Cho dù ý nghĩ tức giận của bạn có lý do chính đáng hay không, cũng đều không được. Ví dụ, một
người ưa sạch sẽ nhìn thấy người khác làm căn phòng trở nên bừa bộn thì sẽ trách cứ, đây chính là ý nghĩ tức giận. Ý nghĩ tức giận khiến cho tâm tính của chúng ta không hòa nhã, tổn thương cơ thể và thần kinh, không có lợi ích gì cho ta cả. Vậy nên, một khi đã có suy nghĩ tức giận, chúng ta phải mau chóng nghĩ cách tiêu diệt nó.
Có hai thiền sư đạo hạnh bất phàm thường cùng nhau thảo luận về Phật pháp. Một người tên là Thản Sơn tính tình hào sảng phóng khoáng, một người tên là Vân Thăng tính tình nghiêm túc, nói năng thận trọng. Một ngày nọ, Thản Sơn đang uống rượu thì Vân Thăng đến thăm. Thản Sơn mời Vân Thăng cùng uống rượu, Vân Thăng từ chối. Thản Sơn nói: “Đến rượu mà cũng không uống, đúng là không giống người!”
Vân Thăng vừa nghe xong rất tức giận, chất vấn: “Tại sao ông lại chửi người khác?”
Thản Sơn hỏi lại với vẻ khó hiểu: “Tôi đâu có chửi ông?” Vân Thăng nói: “Ông nói tôi không biết uống rượu, không giống con người, rõ ràng là đang mắng tôi còn gì?”
Lúc này, Thản Sơn chậm rãi nói: “Rõ ràng ông không giống con người.”
Vân Thăng càng tức giận: “Được rồi! Ông chửi tôi, tôi không giống con người thì giống cái gì? Ông nói đi! Nói đi!”
Thản Sơn nói: “Ông giống Phật”. Vân Thăng á khẩu không nói được nữa.
Có ý nghĩ tức giận hay không chính là mấu chốt để kiểm tra trình độ tu dưỡng của con người. Nhưng gạt bỏ nó là điều rất khó, bởi từ ví dụ trên có thể thấy, ngay đến cao tăng cũng có ý nghĩ tức giận. Một người cho dù học thức có cao đến mấy mà không thể gạt bỏ ý nghĩ tức giận, thì không thể trở thành một người biết kiềm chế.
Có một câu nói: Đừng đưa ra bất cứ quyết định gì khi tức giận. Thử nghĩ xem, có bao nhiêu quyết định và hành động sai lầm được đưa ra trong tình trạng tức giận? Khi tức giận, cảm xúc của con người luôn không nghe theo lý trí, dễ gây xô xát, người khác giải thích gì cũng không nghe lọt tai. Chờ khi cơn giận tiêu tan mới hối hận vì trước đó mình quá kích động, nhưng quả đắng đã lên men rồi, hối hận cũng không kịp nữa. Có một giám đốc ngủ dậy muộn vì vợ quên không chỉnh đồng hồ báo thức, ông ta phát hiện sắp trễ giờ đi làm, bèn vội vàng phóng xe như điên đến công ty. Để kịp giờ, ông ta đã vượt mấy cái đèn đỏ, cuối cùng ở một ngã tư nọ bị cảnh sát ngăn lại, viết giấy phạt. Sau khi tới văn phòng, vị giám đốc này như ăn phải thuốc súng, nhìn thấy trên bàn có mấy tập tài liệu mà tối qua trước khi tan làm đã giao cho thư ký gửi đi lại càng tức. Ông bèn gọi thư ký vào phòng, mắng một trận té tát. Cô thư ký bị mắng thì bực dọc, cầm tài liệu, đi đến chỗ cô nhân viên trực tổng đài, chỉ trích một trận mà không cần lý do. Nhân viên tổng đài bị mắng thì tâm trạng cực kỳ tồi tệ, trút giận lên lao công - người có chức vị thấp nhất trong công ty. Cô lao công dồn nén một bụng uất ức, về đến nhà, thấy đứa con đang học tiểu học nằm bò ra sàn xem ti vi, còn quần áo, cặp sách, đồ ăn bày đầy ra đất, liền mắng đứa con một trận té tát. Đứa con không được xem ti vi bèn tức tối về phòng mình, nhìn thấy con mèo lười đang nằm ngủ khì ở cửa phòng, nhất thời cơn giận bùng phát, đá con mèo một cái rất mạnh làm nó kêu ré lên rồi phi nhanh ra ngoài để bỏ trốn.
Bởi vì tức giận nên khi nói chuyện với mọi người, chúng ta không đủ bình tĩnh, không đủ khoan dung, thậm chí chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt mà đưa ra quyết định sai lầm, chuyện nhỏ thành to. Dĩ nhiên, những hậu quả do tức giận gây ra thì không hề nhẹ. Vì vậy, khi đang tức giận thì đừng đưa ra bất cứ quyết định nào.
Khống chế cảm xúc phẫn nộ của bản thân đúng là một chuyện không dễ dàng, muốn làm được điều đó, ta có thể tham khảo vài cách cơ bản sau: - Hãy phân tích xem hành động của bạn liệu có dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hay không.
- Khi đang tức giận, phải học cách chuyển sự tức giận của mình đi, bằng cách đếm số hoặc ra hiệu ngầm cho bản thân bình tĩnh lại, đây đều là cách hay. Dĩ nhiên, tốt nhất là nên giữ tâm trạng tốt, đừng để bản thân dễ dàng tức giận.
- Khi đang tức giận, đừng nên giải tỏa bằng các hành động mạnh như giậm chân, ném đồ, hét lớn hay siết chặt nắm đấm, bởi cơn giận có thể sẽ khiến nắm đấm của bạn vô thức tung ra. Khi tâm trạng kích động, có thể bình tĩnh ngồi xuống, hạ giọng, cảm xúc sẽ dần ổn định.
Sự tức giận đến rất nhanh, đi cũng rất nhanh. Do đó, khi tức giận, nhất định phải học cách kiềm chế. Khi bạn phát hiện không thể khống chế cơn giận của mình, đừng ngần ngại rời khỏi nơi khiến bạn tức giận, hoặc đi làm chuyện khác để chuyển sự chú ý của bản thân. Đặc biệt là khi chưa làm rõ sự tình, đừng tùy tiện tức giận. Dù tức giận thế nào cũng đừng làm bất cứ chuyện gì không thể cứu vãn.
Bớt một phần tranh chấp thêm một phần ung dung
Tuy sống ở nơi pháp môn thanh tịnh, nhưng vẫn tự tin, lại có ý nghĩ theo đuổi mục tiêu cao xa, chưa thể buông bỏ, cam nguyện sống như một người bình phàm.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập Nắng muộn”
M
ột doanh nhân nổi tiếng từng nói: “Đừng tùy tiện nảy sinh tranh chấp với người khác, tranh tới tranh lui không chỉ làm tổn hại hòa khí hai bên mà còn đem lại nhiều phiền não không đáng có.” Tranh chấp bằng lời nói không thể giúp chúng ta đạt được điều gì. Ngược lại, còn làm cho chúng ta mất đi cơ hội bình tĩnh giải quyết sự việc, gây ra phiền phức không đáng có và hậu quả khó lường.
Trong các mối quan hệ giữa người với người, việc va chạm, xảy ra tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Người thích tính toán chi li, chỉ một chút mâu thuẫn cũng quyết không bỏ qua thường khiến cho sự việc thêm tồi tệ. Một đài truyền hình đã đăng tải một sự kiện thế này: Trên một cây cầu vượt, có hai chiếc xe hạng sang vì va chạm mà gây ra xước xát nho nhỏ. Kết quả, tài xế trên hai chiếc xe trách cứ lẫn nhau, đầu tiên là đấu khẩu,
sau đó đánh nhau, cuối cùng cả hai đều sứt đầu chảy máu, phải vào bệnh viện.
Vào giờ cao điểm đi làm hoặc tan làm, người nhiều xe đông, hai xe va chạm nhỏ là chuyện khó tránh, nhưng hai bên vì chuyện này mà nảy sinh tranh chấp, cuối cùng phải ngậm quả đắng. Tạm thời không nói đến chuyện ai là người sai trước, ai là người vi phạm luật giao thông, chỉ riêng chuyện tranh chấp này đã đáng để chúng ta suy nghĩ. Thật ra, nếu bình tĩnh suy nghĩ ta sẽ thấy, sống trên đời, rất ít khi người ta có thù oán đến nỗi không thể đội trời chung. Nhưng thi thoảng vẫn xảy ra một số va chạm nhỏ với người khác, đó là chuyện thường tình.
Có người từng làm thống kê, có đến 90% các vụ án hình sự đều xuất phát từ những tranh chấp nhỏ. Rất nhiều cặp vợ chồng ly hôn cũng vì hai bên suốt ngày cãi nhau, toàn về mấy chuyện vụn vặt trong cuộc sống, lời qua tiếng lại, không ai chịu nhường ai, cuối cùng gia đình tan vỡ.
Nhịn một chút sóng yên bể lặng, lùi một bước trời cao biển rộng. Đối với một số vấn đề không vi phạm nguyên tắc của bản thân, chúng ta nên bớt tranh chấp thì hơn. Có một chuyên gia tình cảm khuyên nhủ các cặp vợ chồng trẻ: “Nếu có một ngày, khi bạn nảy sinh tranh chấp với bạn đời, bạn nhường cho người đó thắng, thì họ có thể thắng được gì? Nếu bạn thua, thì bạn thua cái gì? Thắng và thua ở đây chỉ là chữ nghĩa mà thôi, tiếc thay chúng ta lại thường lãng phí thời gian và sức lực vào những cuộc cãi vã vô bổ, rồi vì cái gọi là thắng thua vô nghĩa mà mất đi rất nhiều tình cảm đáng quý.”
Do đó, chúng ta phải học cách hạ thấp cái tôi của mình, bớt tranh chấp vô nghĩa. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể dành thời gian, ung dung đối mặt với thử thách thật sự, mới có thể tập trung sức lực để làm những việc có ý nghĩa.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng phải nhượng bộ nhiều chuyện. Ví dụ, rõ ràng cấp trên đã sai, bạn lại phải nhẫn nhịn không lên tiếng, gật đầu đồng ý; cha mẹ tuổi đã cao, bạn biết rõ quan điểm của họ không đúng, nhưng vẫn phải phục tùng. Bạn thấy không vui khi phải nhượng bộ người khác bởi vì bạn không cho rằng người ta đúng, nghĩ đây chỉ là nhún nhường, khuất phục bất đắc dĩ. Chính vì thấy uất ức như thế nên chúng ta thường hùng hổ lấn lướt, không chịu nhường nhịn đối với những người yếu thế hơn mình.
Sự nhường nhịn chân chính xuất phát từ trong lòng, là một niềm vui và là sự giải thoát. Ví dụ, sáng sớm ta ra khỏi nhà, ngẩng mặt lên thì bị một chiếc xe ba gác sượt qua. Chủ xe ba gác rất sợ hãi, nhưng ta chỉ nhẹ nhàng nói: “Không sao, anh đi đi.” Sau đó, ta nói với bạn của mình: “Nhìn ông ấy thật đáng thương, mới sáng sớm mà phải đi kéo hàng đúng là vất vả, nếu phải đền một bộ quần áo cho tôi thì một ngày làm việc của ông ấy coi như uổng công rồi.” Thế đấy, lòng khoan dung làm cho bạn cảm thấy vui vẻ từ trong tâm. Cuộc sống như vậy sẽ bình thản ung dung, là sự độ lượng chân chính, là một niềm vui lớn.
Đừng để ham muốn trói buộc trái tim mình
Làm người nhất định phải kiềm chế ham muốn. Muốn sống một cuộc sống yên ổn tự tại, không phiền não thì phải giảm bớt được ham muốn của bản thân.
Đại sư Hoằng Nhất
“H
am muốn giống như nước biển, càng uống thì càng khát”. Ham muốn quá nhiều mà không tiết chế sẽ biến thành lòng tham, chúng sẽ từng bước khống chế tâm trí ta, trói chặt tâm hồn, khiến chúng ta dần rơi vào cái bẫy mà ham muốn giăng sẵn.
Trên một phố cổ hẻo lánh, có một thợ rèn già sống trong tiệm rèn cũ kĩ. Ngày nay, không còn ai rèn sắt nữa, lão thợ rèn đành bán đồ gia dụng bằng sắt như nồi và rìu để kiếm miếng cơm. Việc làm ăn ế ẩm, quá nửa ngày cũng không có nổi một vị khách. Thế là người ta thường xuyên thấy ông lão một tay cầm đài radio, một tay cầm ấm trà, ngồi trước cửa tiệm vừa uống trà vừa nghe đài. Trước nay, ông chưa từng chủ động mời chào khách mua hàng, ông mở hàng chủ yếu để giết thời gian, kiếm tiền chỉ là thứ yếu. Ông già rồi, kiếm đủ tiền để uống trà, ăn cơm là ông đã thấy mãn nguyện.
Rồi một ngày, có một thương nhân đồ cổ đi qua tiệm của ông lão, vô tình nhìn thấy ấm trà trên tay ông. Người thương nhân nọ chỉ nhìn thoáng qua đã biết đó là một ấm trà cổ hiếm có. Sau một hồi quan sát tỉ mỉ, thương nhân nhận định, đây chính là tác phẩm của Đới Chấn Công - nhà chế tác ấm trà nổi tiếng thời nhà Thanh, có tiếng là “Nặn bùn thành vàng”. Thương nhân được biết tác phẩm của ông hiện chỉ có ba chiếc còn tồn tại. Không lẽ trên thế gian vẫn còn chiếc thứ tư? Sau khi được sự đồng ý của ông lão, thương nhân liền cầm chiếc ấm lên nhìn một cách kỹ lưỡng, quả nhiên đây chính là tác phẩm của Đới Chấn Công.
Thương nhân dứt khoát ra giá 10 vạn tệ để mua lại ấm trà trên tay ông lão. Ông thợ rèn nghe thấy giá đó liền trừng to mắt ngạc nhiên. Ấm trà này là của cụ ông để lại, trước giờ ông không hề biết ấm trà làm từ bùn lại đáng giá đến vậy. Nhưng ông đã từ chối lời đề nghị của thương nhân. Đây là kỷ vật gia truyền, ông không thể bán nó.
Tuy không bán ấm trà, nhưng sau khi thương nhân rời đi, lần đầu tiên trong đời ông lão mất ngủ. Ông cầm ấm trà ngắm nghía hồi lâu, trước đây khi uống trà, ông đặt bừa ấm bên cạnh, muốn uống thì cứ cầm lên mà uống thôi. Bây giờ, ông luôn sợ mình không cẩn thận động vào làm vỡ nó. Ông đặt hết tâm trí vào ấm trà mà quên thưởng thức hương vị của trà, quên nghe tiếng radio, quên cả khung cảnh nhàn nhã bên ngoài.
Những ngày khó chịu hơn vẫn còn ở phía sau. Khi người dân trong thị trấn nghe nói ông lão có một ấm trà quý thì cả ngày lẫn đêm đều có rất nhiều người nườm nượp tìm đến nhà ông. Ông lão sợ chiếc ấm sẽ bị đánh cắp nên không thể không gia cố cửa nẻo.
Cứ như vậy, cuộc sống của ông lão bị đảo lộn hoàn toàn từ sau khi một chiếc ấm trà bình thường biến thành đồ cổ.
Một thời gian sau, thương nhân kia lại đến đem theo 20 vạn tệ tiền mặt, lần này ông lão không thể ngồi yên nữa. Ông gọi bà con hàng xóm láng giềng đến, cầm rìu đập vỡ ấm trà trước mặt tất cả mọi người. Kể từ đó, ông trở lại với cuộc sống bình dị thường ngày, vừa uống trà vừa nghe radio, chỉ có chiếc ấm cổ được đổi thành ấm trà bình thường.
Cứ như thế, ông lão sống tới 120 tuổi với ấm trà bình thường này. Một loạt phản ứng dây chuyền xuất phát từ ấm trà đã làm đảo lộn cuộc sống của ông lão. Ông lão trong câu chuyện nhận ra nguyên nhân khiến mình không vui là do ấm trà, nên ông sẵn sàng đập vỡ ấm trà có giá trị đó, điều mà nhiều người không thể lý giải nổi. Kỳ thực, tiền dù có nhiều đến mấy cũng chỉ là vật ngoài thân, có tiền hay không thì mỗi bữa chúng ta vẫn ăn một bát cơm. Miễn là tâm trí chúng ta được yên tĩnh, vui vẻ như vậy thì tiền nhiều hay ít đâu còn quan trọng. Nhà thơ người Ấn Độ Tagore từng nói: “Nếu đôi cánh của con chim được buộc vàng, thì nó sẽ không thể bay cao.” Con người mỗi ngày phải đối mặt với rất nhiều cám dỗ, chúng sử dụng những bộ mặt khác nhau và lý do khác nhau để dẫn dụ ta trở thành tù binh của chúng. Vậy mà con người lại chẳng biết đến nguồn gốc làm cho mình bất hạnh.
Có một vị đại sư cả đời làm việc thiện, quyên góp công đức, xây dựng miếu thờ, giảng kinh thuyết pháp. Khi về già, ông nhìn thấy hai con quỷ cầm lệnh bắt giữ của Diêm Vương và mang cả còng tay tra tấn đến bắt ông. Vị đại sư thấy vậy nói: “Chúng ta thương lượng nhé? Cả đời ta xuất gia chỉ làm việc công đức mà chưa tu tâm dưỡng tính, ngươi cho ta bảy ngày, bảy ngày ngồi thiền tu thành công rồi, sẽ siêu độ cho hai ngươi trước, ta cũng sẽ đi siêu độ cho cả Diêm Vương nữa.”
Hai con quỷ bị lời nói của đại sư lay động nên đồng ý với ông. Đại sư với đức hạnh thường ngày, vừa tọa thiền thì liền buông bỏ vạn niệm, không
sửa miếu nữa, cũng không làm việc gì nữa. Ba ngày sau thì không còn thấy bóng dáng vị đại sư đâu, chỉ còn lại một vầng hào quang công đức. Ngày thứ bảy, hai con quỷ đến chỗ hẹn, nhìn thấy vầng ánh sáng liền biết mình bị lừa. Hai con quỷ nói: “Đại hòa thượng, ông nói sẽ siêu độ cho chúng tôi thì phải giữ lời chứ, nếu không khi quay về địa ngục chúng tôi sẽ bị giam vào ngục đó!” Đại sư đã quyết ý, ông không nghe thấy, cũng chẳng quan tâm. Hai con quỷ bàn bạc xem nên làm gì, đến khi thấy một vệt đen trong vầng sáng đó, chúng liền biết hòa thượng này vẫn còn một điểm chưa đắc đạo.
Bởi vì vị hòa thượng này có công đức lớn, nên Hoàng Đế phong cho ông làm quốc sư, tặng ông cái bát khất thực bằng vàng, áo cà sa dát vàng. Đại sư không quan tâm đến những lễ vật được ban thưởng, duy chỉ thích chiếc bát khất thực bằng vàng kia, ngay cả khi ngồi thiền ông cũng cầm trên tay, vạn duyên buông bỏ, vậy mà vẫn khăng khăng giữ lấy bát vàng. Hai con quỷ nhận ra vị hòa thượng đã không còn tâm niệm gì, chỉ là lòng tham vẫn còn đó. Thế là chúng biến thành chuột đi cắn chiếc bát, chuột vừa cắn bát, hòa thượng liền động lòng. Vừa động lòng thì ánh sáng biến mất, hòa thượng lại về nguyên hình dạng, hai con quỷ liền còng tay ông lại. Hòa thượng cảm thấy kỳ lạ, cho rằng mình vẫn chưa đắc đạo, hai con quỷ liền thuật lại câu chuyện cho ông nghe, nghe xong hòa thượng ném bát vàng xuống đất. Hòa thượng nói: “Được! Ta cùng các ngươi đi gặp Diêm Vương!”
Câu chuyện này cho ta thấy được sự khó khăn khi buông bỏ lòng tham. Con người nếu không khống chế được ham muốn thì ham muốn sẽ khống chế tâm trí chúng ta.
Con người không nên quá đặt nặng tiền bạc, quá yêu tiền bạc sẽ khiến tâm trí trì trệ, bệnh cũng không dễ mà bình phục, một khi coi tiền bạc là vật
ngoài thân thì tự khắc thấy lòng mình bình thản, không sinh bệnh tật. Cảnh giác với lòng tham luôn là một trong mười điều răn của Phật giáo. Động tác chắp tay trong Phật giáo ngụ ý người trong thế gian đừng để đồng tiền ăn mòn nội tâm.
Tiền thực sự quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta, mục đích của việc kiếm tiền là làm cho cuộc sống tốt hơn. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng tiền không phải một vị thần, mà là một người hầu. Nếu một người bị đồng tiền khống chế, người đó sẽ trở thành nô lệ của tiền bạc. Chúng ta lại không thể nắm bắt và kiểm soát tiền. Vậy thì càng nhiều tiền, càng gây hại cho chúng ta. Hãy hiểu rằng tiền không phải toàn bộ cuộc sống và cuộc sống có nhiều thứ quan trọng hơn đồng tiền.
Trút bỏ gánh nặng cho nhẹ lòng
Tiền bạc, thanh sắc, danh lợi là những thứ mà thế nhân hằng theo đuổi, có được càng nhiều lại càng không thấy thỏa mãn. Chúng là những thứ khiến con người lao xuống bể khổ địa ngục. Chúng ta phải ghét chúng và từ bỏ chúng. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể thoát khỏi xiềng xích của những thứ đó, cơ thể và tâm trí của chúng ta mới được tự do.
Đại sư Hoằng Nhất
X
ử thế với trái tim không màng danh lợi thì mới thực sự buông bỏ được. Kỳ thực, nói cho cùng, hạnh phúc và đau khổ trong cuộc sống không có gì ngoài quần áo, thức ăn, chỗ ở và danh lợi. Bởi có quá nhiều ham muốn
làm khổ chính mình, nên dù chúng ta luôn muốn tìm một lối thoát, vẫn liên tục bị lạc đường. Sự hưng phấn khi thỏa mãn được một vài ham muốn cũng chỉ là nhất thời, và sau tiếng cười đó chỉ có bản thân tự nếm trải nỗi đau. Khi bạn từ bỏ sự hào nhoáng, bỏ gánh nặng ham muốn và thoải mái lên đường, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc và tự do trước nay chưa từng có, đây là một cuộc sống đơn giản và mộc mạc, mọi người đều nên tận hưởng nó.
Dù chỉ là một tờ giấy, nhưng nếu phải cầm trong thời gian dài, mọi người cũng không thể chịu được. Nếu con người không học cách buông bỏ, thì một mảnh giấy cũng sẽ gây áp lực cho bạn, huống chi là những áp lực, những khó khăn, những điều không như ý trong cuộc sống.
Một thanh niên mang một gói đồ cực lớn đến thăm một thiền sư cách đó không xa. Thiền sư hỏi: “Có gì trong gói đồ của con vậy?” Người thanh niên trả lời: “Đó là nỗi đau, thất bại… những điều con đã trải qua.”
Vị thiền sư gật đầu và đưa người thanh niên ngồi thuyền qua sông. Lên đến bờ, thiền sư nói: “Hãy vác theo chiếc thuyền này, chúng ta tiếp tục lên đường!”
Người thanh niên hoang mang: “Đại sư, thuyền nặng quá, làm sao con vác được nó đây?
Thiền sư mỉm cười và nói: “Con nói đúng, thuyền là công cụ để qua sông. Sau khi qua sông, chúng ta sẽ để nó trên bờ và có thể ung dung bước về phía trước. Nếu chúng ta vác thuyền theo thì rất khó cất bước.” Người thanh niên liền lĩnh ngộ.
Người thanh niên này đã trải qua nhiều khó khăn để tìm kiếm ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Anh ta đã nếm trải tất cả mùi vị của cuộc sống. Anh ta coi tất cả nỗi đau và kinh nghiệm là tài sản cuộc đời mình và đặt nó trong hành trang, nhưng lại quên mất một điều, sự giàu có thực sự là kinh nghiệm và bài học rút ra từ nỗi đau, chứ không phải những đau khổ của bản thân.
Nếu bạn muốn đi xa hơn và hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống, bạn phải học cách buông bỏ, nhẹ nhàng tiến bước. Trong hành trình của cuộc đời, chúng ta phải học cách buông bỏ tất cả những nỗi đau, bất hạnh, thất
vọng, thất bại đã gặp phải… Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể giải phóng không gian trong tâm hồn để cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Cuộc sống giống như một cuộc hành trình. Mỗi người đều muốn hành trình của mình được hạnh phúc và thư thái. Cách duy nhất để đạt được điều này là buông bỏ những gánh nặng dư thừa. Gánh nặng dư thừa là gì? Một số người ném bỏ trách nhiệm và đạo đức của họ để thoải mái lên đường, đó là một lựa chọn sai lầm. Chỉ những nỗi đau và nỗi buồn không liên quan đến hiện tại, những thứ mà chúng ta không bao giờ sử dụng hoặc dư thừa mới là gánh nặng. Và những thứ như trách nhiệm, nhân tính và chính nghĩa của con người, dù chúng nặng ngàn cân, cũng không bao giờ được bỏ xuống. Ngoài những thứ này, trong cuộc sống không có điều gì quan trọng hơn nữa. Ngay cả khi bạn không có gì vào lúc này, nó cũng không ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Có lẽ buông bỏ sẽ có tiếc nuối, có đau buồn, nhưng nó sẽ giúp chúng ta sống điềm tĩnh và an nhiên hơn. Chúng ta mang theo lý tưởng, cảm xúc, trách nhiệm và đạo đức của mình, chúng ta bận rộn, miệt mài chạy đua với cuộc đời, không thể dừng bước, không dám lơ là, cũng không dám từ bỏ dễ dàng. Kết quả là gánh nặng trên cơ thể ngày càng nhiều, ngày càng nặng. Nếu chúng ta không buông bỏ những thứ này đúng lúc, thì cuối cùng chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể về một triết lý nhỏ rất thú vị: Phúc Thân là một con côn trùng thích mang vác đồ vật. Khi bò trên đường, gặp thứ gì, nó cũng đặt lên lưng. Lưng của nó gồ ghề nên mọi thứ không bị rơi xuống, đồ trên lưng ngày càng nặng, nhưng ngay cả khi không bò nổi nữa, nó vẫn không chịu vứt bỏ. Có người thương hại nó và giúp nó bỏ những thứ trên lưng xuống. Tuy nhiên, miễn là vẫn còn một chút sức lực, Phúc Thân sẽ lại quẳng thứ gì đó lên lưng mà đi. Nó cũng
thích leo lên cao, dù kiệt sức cũng không chịu dừng lại, vì vậy mà thường chết trên đường đi.
Rất nhiều người giống như Phúc Thân, việc gì cũng thích ôm vào người. Người khác có lỡ nói xấu một câu, ánh mắt kém thân thiện, họ cũng để bụng, động cái là trách móc, than khổ. Những người như vậy liệu có sống hạnh phúc hay không?
Người ta thường nói: “Nâng lên được, đặt xuống được gọi là cử tạ, còn nâng lên được, không đặt xuống được thì gọi là gánh nặng” Rõ ràng không vui, tại sao chưa chịu buông tay? Vì bản chất của lòng tham, vì sợ rằng buông tay, bạn sẽ không còn gì nữa, vì bạn đã bỏ quá nhiều công sức cho nó. Nhưng bất kể là vì lý do gì, nếu đã nhận ra rằng mình không phù hợp để gánh theo những thứ này, thậm chí cơ thể cũng đã cảnh báo bạn, mà bạn vẫn không buông tay, thì lúc đó đã quá muộn rồi! Có người sẽ nói: Tại sao tôi phải buông tay? Tôi đã nỗ lực rất nhiều để chiến đấu vì tình cảm này, đã đổ biết bao mồ hôi công sức để kiếm được đồng tiền này, tất cả mọi thứ đâu dễ gì có được! Nhưng nếu chúng khiến bạn cảm thấy kiệt sức và khó thở, liệu những thứ khó khăn lắm mới có được này còn đem lại hạnh phúc cho bạn? Nếu không, tại sao không đặt nó xuống? Giống như một đống thức ăn bị mốc, dù đó là trái đào bạn hái từ trên trời xuống thì bạn vẫn phải ném chúng vào thùng rác. Có tốt hơn nữa nhưng nếu khiến bạn ngộp thở, thì cũng chỉ là một đống rác. Buông bỏ đi, buông bỏ vinh quang, đau khổ, thành công của ngày hôm qua.
Tâm hồn bị trói buộc bởi thứ bên ngoài làm bạn cảm thấy khó chịu
Không bị khuấy động bởi vật bên ngoài đó là tĩnh, không bị quấy nhiễu bởi sự vật bên ngoài đó là hư.
Đại sư Hoằng Nhất - “Tuyển tập cách ngôn”
C
uốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ J. D. Salinger Bắt trẻ đồng xanh được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ, với tổng doanh số hơn 10 triệu bản. Sau khi trở nên nổi tiếng, Salinger không sống trong biệt thự, mặc đồ đẹp hay lái xe sang như những người khác. Thay vào đó, ông sống một cuộc sống ẩn dật. Ông về sống ở vùng nông thôn New Hampshire, mua mảnh đất hơn 90 mẫu ở một nơi đẹp đẽ, xây một ngôi nhà nhỏ trên đỉnh núi, trồng cây quanh nhà, dựng một hàng dây thép gai cao gần hai mét và có gắn thiết bị báo động. Ông lấy một hộp cơm vào lúc 8 rưỡi sáng và đi vào phòng viết sách, cho đến 5 rưỡi chiều mới ra khỏi phòng. Trong thời gian này, người nhà không được làm phiền ông. Nếu có việc gì quan trọng, có thể liên lạc với ông qua điện thoại. Thi thoảng, ông vào thị trấn để mua sách, hễ có người nhận ra là ông liền bỏ chạy. Nếu ai đó muốn đến thăm, trước tiên họ phải gửi thư hoặc ghi
chú. Nếu khách đến thăm là người lạ, họ sẽ bị từ chối ngay từ ngoài cửa. Ông không bao giờ tiếp nhận các cuộc phỏng vấn từ giới truyền thông. Sau khi nổi tiếng, ông chỉ trả lời câu hỏi của một phóng viên, đó là một nữ sinh trung học 16 tuổi, đến tìm ông để viết bài cho tạp chí của trường.
Tất nhiên, việc Salinger cách ly với thế giới bên ngoài cũng là một điều xa xỉ. Xét cho cùng, mảnh đất 90 mẫu với căn nhà lắp hàng rào dây thép gai là chuyện mà người bình thường không làm được.
Có một người tu hành khổ hạnh, lên núi để ở ẩn. Một ngày nọ, ông ta phát hiện bộ quần áo duy nhất để thay bị rách một lỗ. Vì vậy, ông đã đi xuống ngôi làng dưới núi mượn người dân kim chỉ để vá áo. Sau khi trở lại núi vài ngày, ông phát hiện có một cái ổ chuột trong nhà cỏ, và quần áo lại bị chuột cắn. Để ngăn chuột không cắn quần áo nữa, người tu hành xuống núi hỏi xin dân làng một con mèo. Con mèo cần ăn, nên ông lại xin người dân một con bò và vắt sữa cho mèo uống mỗi ngày. Tuy nhiên, việc chăm sóc mèo con và bò mỗi ngày đã ảnh hưởng đến việc tu hành của ông. Ông xuống núi tìm một người lang thang, nhờ người đó thay mình chăm sóc mèo và bò. Để có cơm ăn, người lang thang lại lên khai hoang một cánh đồng trên núi và trồng một số loài cây. Sau vài ngày, người lang thang nói: “Tôi cần một người vợ.” Chuyện dễ hiểu thôi, có phụ nữ, tiếp đến sẽ là trẻ nhỏ, có vợ con thì người đó lại cần một ngôi nhà lớn hơn, nhiều đất trồng cây hơn, cần nuôi nhiều bò hơn… Cuối cùng, cả ngôi làng đều chuyển lên núi.
Nhà sư khổ hạnh này đã tạo ra một ngôi làng mới chỉ vì một bộ quần áo, muốn tu hành cũng không được nữa. Ham muốn giống như một sợi dây xích dài vô tận, mắt xích này nối mắt xích kia và không bao giờ có điểm dừng. Ham muốn là một phần của bản chất con người, không cách nào tiêu diệt. Điều chúng ta có thể làm là kiểm soát những ham muốn của
bản thân một cách hợp lý, giảm bớt tham vọng của mình, để bản thân không trở thành nô lệ của ham muốn.
Có một tu viện ở vùng ngoại ô phía tây Bangkok, và đại sư Sotinak là vị trụ trì mới của tu viện. Đại sư Sotinak thấy những bụi cây xanh mọc khắp sườn đồi của tu viện nên muốn làm chúng trông đẹp hơn, do đó tìm một chiếc kéo và tỉa cây mỗi khi có thời gian rảnh. Nửa năm sau, một số bụi cây đã được cắt thành hình bán cầu.
Một ngày nọ, một người giàu có đến tu viện và hỏi rằng: “Làm thế nào con người có thể loại bỏ ham muốn của bản thân?” Đại sư Sotinak mỉm cười, quay vào bên trong lấy kéo, dẫn vị khách đến sườn đồi bên ngoài tu viện rồi chỉ vào những bụi cây bị cắt ngắn và nói: “Chỉ cần làm giống như tôi, lặp đi lặp lại việc tỉa cây, ham muốn của ngài sẽ biến mất”.
Người giàu có cầm kéo một cách ngờ vực, đi về phía một bụi cây và cắt tỉa nó. Một lúc sau, đại sư hỏi vị khách cảm thấy thế nào. Ông ta nói: “Cơ thể dễ chịu hơn rất nhiều và trong lòng tôi không còn cảm giác nôn nóng như trước, nhưng những ham muốn trong tâm trí tôi dường như vẫn chưa bị loại bỏ.” Đại sư Sotinak cười nói: “Sau này ngài hãy thường xuyên đến đây để cắt tỉa cây, một thời gian sau sẽ ổn thôi.”
Người này thường xuyên đến tu viện tỉa cây. Ba tháng sau, một bụi cây hình đại bàng đang sải cánh bay dần thành hình. Lúc này, đại sư đến gặp người giàu có và hỏi ông ta: “Ngài đã biết cách loại bỏ ham muốn chưa?”
Người giàu có trả lời một cách xấu hổ: “Mỗi lần tỉa cây, tôi cảm thấy những ham muốn của mình đã biến mất, nhưng một khi về nhà, quay trở lại vòng xoay cuộc sống kinh doanh của mình, tất cả ham muốn lại xuất hiện. Sư thầy nói xem tại sao lại như thế? Có phải tôi quá ngu ngốc không?” Đại sư Sotinak cười và không nói gì.
Khi bụi cây hình đại bàng đã hoàn tất, người giàu có kia vẫn không thể thoát khỏi xiềng xích của ham muốn. Thậm chí ông ta còn nghi ngờ rằng cách làm của đại sư hoàn toàn không hiệu quả. Đại sư mỉm cười và nói: “Ngài có biết tại sao tôi đề nghị ngài cắt tỉa bụi cây không? Ngài có phát hiện ra sau mỗi lần cắt tỉa, chỗ bị cắt lúc trước sẽ mọc lại không? Ham muốn của chúng ta cũng vậy, đừng tin rằng ta có thể loại bỏ chúng triệt để. Tất cả những gì ngài có thể làm là cố gắng cắt tỉa nó. Buông thả những ham muốn của mình, nó sẽ điên cuồng sinh sôi. Nếu ngài có thể cắt bỏ nó thường xuyên, nó sẽ trở thành một cảnh quan đẹp.”
Mỗi người đều có ham muốn, ham muốn này vừa biến mất, thì ham muốn mới sẽ xuất hiện. Thậm chí có thể nói rằng, sinh ra ham muốn là bản năng của con người. Nếu không có ham muốn, con người sẽ không phải quá bận rộn mỗi ngày, nhưng niềm vui của cuộc sống cũng giảm đi nhiều. Tuy nhiên, nếu có quá nhiều ham muốn, chúng sẽ trở thành gông xiềng khiến chúng ta kiệt sức. Thậm chí, có rất nhiều người vì khó thỏa mãn ham muốn, vì chút lợi ích trước mắt mà làm những việc phi lý.
Hãy dọn dẹp ham muốn thường xuyên, và nếu có ham muốn mới nảy sinh thì đừng vội vàng tìm cách thỏa mãn nó, hãy đợi một thời gian xem mình có còn nghĩ đến nó không. Ví dụ, khi thấy một bộ trang phục đẹp nhưng đắt đỏ, đừng vội mua nó. Sau một vài ngày, bạn sẽ thấy rằng ham muốn sở hữu nó không còn mãnh liệt như lúc đầu nữa. Bởi vậy, khi có ham muốn vượt quá năng lực của bản thân, hãy tự hỏi mình có thực sự cần chúng không.