🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nơi Trái Tim Hội Ngộ - William P Young
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI GIỚI THIỆU
Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy .
Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít.
Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack.
Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội.
Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho
giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu.
Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu.
Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson.
Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường.
Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm.
Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa.
Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh.
Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý
niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình.
Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó.
Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài.
Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung
thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu.
Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này.
Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt.
Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình.
Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe.
Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp.
Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi.
Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của
tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack.
Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch.
Willie
• 1 •
GIAO LỘ
Hai con đường rẽ nhánh giữa đời tôi
Tôi nghe lời một người thông thái
Tôi chọn con đường ít người qua lại
Và nó mang đến một sự đổi thay từng đêm từng ngày
— Larry Norman ( mong Robert Frost thứ lỗi)
Tháng ba khơi dòng cho những cơn mưa như trút nước sau một mùa đông khô hanh đến bất thường. Một đợt khí lạnh từ Canada tràn xuống và bị chặn lại bởi gió xoáy cuộn lên từ Gorge ở miền đông Oregon. Mặc dù mùa xuân chắc chắn đã đến bên thềm, chúa tể mùa đông không dễ gì rời ngôi vương vất vả chiếm được mà không nhóm lên một cuộc ẩu đả. Đã có một lớp tuyết bao phủ ở ngoài thác nước, và những giọt mưa đóng băng khi chạm vào lớp đất băng giá bên ngoài ngôi nhà; đủ lý do để Mack cuộn mình với một cuốn sách cùng rượu táo trong hơi ấm của lò sưởi tí tách.
Thế mà anh lại dành nhiều thời gian buổi sáng để làm việc từ xa với văn phòng của mình trên phố. Ngồi thoải mái trong phòng làm việc ở nhà trong chiếc quần pajama và áo thun, anh gọi những cú điện thoại bán hàng, hầu hết đến vùng Bờ Đông. Anh thường dừng lại, lắng nghe âm thanh làn mưa trong như pha lê đập vào cửa sổ rồi nhìn lớp tuyết ngày càng từ tốn đóng dày lên trên mọi vật bên ngoài. Anh đã nghiễm nhiên mắc kẹt như một tù nhân băng giá trong chính ngôi nhà của mình - một cách vui thích.
Những cơn bão cũng có chút gì đó thú vị làm gián đoạn nhịp điệu thường ngày. Tuyết hay là mưa băng giá chợt làm ta thoát ra khỏi những chờ mong, áp lực công việc, và sự chế ngự của những cuộc hẹn hay lịch làm việc. Và khác với một cơn bệnh, nó chủ yếu là một trải nghiệm của cả một doanh nghiệp thay vì của một cá nhân. Người ta hầu như nghe thấy một tiếng thở dài đồng thanh vang lên
từ thành phố lân cận và từ miền quê quanh mình nơi mà thiên nhiên đã can thiệp để đem lại một chút nghỉ ngơi cho những con người mệt mỏi đang vất vả cặm cụi trong đời sống. Tất cả những ai bị tác động theo cách này đều đồng lòng với một cái cớ chung, và tim chợt bất ngờ thấy chút thanh thản phù phiếm. Sẽ chẳng cần phải xin lỗi vì không tham dự một dịp gì đó. Mọi người đều hiểu và chia sẻ chung một nguyên cớ, và việc đột nhiên không phải chịu áp lực tự mình kiếm cớ chợt làm cho con tim thấy vui.
Dĩ nhiên, các cơn bão làm gián đoạn công việc, và trong khi một vài công ty kiếm thêm được tiền, một số công ty sẽ thiệt hại - tức là có những người chẳng thấy vui gì khi mọi chuyện đột nhiên bị gián đoạn. Nhưng họ không thể trách ai được về việc mất năng suất, hay là không thể đi làm được. Cho dù mọi chuyện ít khi kéo dài quá một, hai ngày, mỗi người đều phần nào cảm thấy mình là chủ nhân trong thế giới riêng của mình, đơn giản chỉ vì mấy giọt nước nhỏ đóng băng khi chạm đất.
Thậm chí các hoạt động bình thường cũng trở nên đặc biệt. Những sự lựa chọn thường ngày trở nên những cuộc phiêu lưu và thường được trải nghiệm với một cảm thức cao độ. Cuối buổi chiều, Mack thu dọn và bước ra ngoài trời đánh vật với chừng một trăm bộ trên lối đi dài để đến chỗ thùng thư. Một cách kỳ diệu, băng tuyết đã biến hành động đơn giản hằng ngày này thành một cuộc chống chọi với thiên nhiên: vung tay lên để chống lại sức mạnh hung tàn của thiên nhiên và ngạo nghễ cất tiếng cười. Việc chẳng ai chú ý hay quan tâm không làm anh bận lòng - riêng ý nghĩ ấy đã làm anh mỉm cười trong lòng.
Những hạt mưa băng tuyết đâm vào đôi má và đôi bàn tay khi anh cẩn trọng dò bước trên lối đi gập ghềnh; anh nhìn, anh cân nhắc như một thủy thủ say rượu lần bước tiến đến cái quán rượu kế tiếp. Khi đối mặt với một cơn bão tuyết, ta chẳng thể nào bước đi hùng dũng một cách đầy tự tin được. Gió sẽ quật ta tả tơi. Mack phải lồm cồm bò dậy hai lần trước khi ôm chầm lấy chiếc thùng thư như bạn cố tri thất lạc lâu ngày.
Anh khựng lại để chiêm ngưỡng dung nhan của một thế giới chìm trong pha lê. Vạn vật phản chiếu ánh sáng và góp mặt vào ánh rực rỡ của cuối chiều. Cây cối trên mảnh đất người láng giềng đã phủ đầy những lớp băng trong suốt và mỗi cây một dáng vẻ nhưng giờ đây cùng đứng bất động. Một thế giới rực rỡ và trong khoảnh khắc vẻ tráng lệ của chúng dường như cất đi nỗi đau trên vai Mack.
Phải mất gần một phút mới phá được lớp băng đã phủ chặt lấy cánh cửa thùng thư. Phần thưởng cho cố gắng ấy là một chiếc phong bì chỉ có mỗi họ của anh đánh máy bên ngoài, không tem, không dấu bưu điện, và không địa chỉ hồi báo. Tò mò, anh xé đuôi chiếc phong bì, mà cũng không phải là việc đơn giản vì các ngón tay bắt đầu tê cứng vì lạnh. Xoay lưng về phía ngọn gió lạnh nín thở, rốt cục anh lôi ra được một mảnh giấy gấp thành hình chữ nhật nhỏ. Nội dung đánh máy chỉ ghi:
Mackenzie,
Cũng lâu rồi nhỉ? Ta nhớ con.
Ta sẽ đến căn chòi cuối tuần tới
nếu con muốn gặp.
Papa
Mack cứng người lại trong khi một cơn nôn nao trào dâng khắp người và rồi nhanh chóng biến thành một cơn phẫn nộ. Anh đã cố nghĩ đến căn chòi càng ít càng tốt và thậm chí khi nghĩ đến thì đó cũng chẳng phải là một ý tưởng tử tế hay tốt đẹp. Nếu đây là một ý xấu đùa cợt của ai đó thì quả là họ đã quá đà. Và chữ ký “Papa” chỉ làm cho mọi chuyện thêm kinh động.
“Ngu xuẩn,” anh gầm lên, nghĩ đến anh chàng Tony đưa thư; một tay người Ý hết sức thân thiện và tốt tính nhưng vụng về. Tại sao hắn lại giao một cái phong bì kỳ cục như thế? Thậm chí chẳng dán tem. Mack tức giận nhét chiếc phong bì và lá thư vào túi áo khoác và quay lưng dò bước trở lại hướng ngôi nhà. Những đợt gió mạnh cản bước tiến trước đây, giờ lại giúp anh rút ngắn thời gian đi trên con sông băng nho nhỏ đang bắt đầu dày lên dưới chân mình.
Anh đi vào một cách êm xuôi, tạ ơn người, cho đến khi vào được đoạn dốc về phía trái cuối lối đi. Không hề nỗ lực hay cố tình, anh bỗng bắt đầu tăng tốc, lướt trên đôi giày mà đế chẳng mấy bám đất cũng như một con vịt trượt trên hồ đóng băng. Đôi tay vung lia lịa những mong phần nào giữ được thăng bằng, Mack bỗng thấy mình đang lao thẳng về phía cái cây duy nhất khá lớn ngay ranh giới lối đi - cái cây mà anh đã tỉa mấy cành thấp mới cách đó vài tháng. Giờ đây nó đứng hăm hở để chặn lấy anh, trơ trụi và dường như đang mong phục thù. Trong một khoảnh khắc ý nghĩ lóe lên, anh đã chọn cách ngã xuống để tránh nó bằng cách tung chân lên - mà cũng là tư thế tự nhiên của cơ thể. Chẳng thà ê ẩm người còn hơn phải gỡ gai trên mặt.
Nhưng máu nóng đã làm anh quá đà, và như trong một chuyển động chậm Mack từ từ nhìn đôi bàn chân mình tung cao trước mặt như thể bị vướng vào một chiếc bẫy rừng già nào đó. Anh đập mạnh xuống, gáy xuống trước, rồi trôi thành một khối dưới gốc cây lung linh, mà dường như đang đứng trên với ánh nhìn tự mãn pha lẫn căm ghét.
Thế giới chợt tối sầm lại, hay là có vẻ như thế. Anh nằm đó sững sờ mắt nhìn lên trời, nheo lại vì mưa băng nhanh chóng làm lạnh gương mặt ửng đỏ. Trong một thoáng đọng lại, mọi vật dường như ấm lên và bình yên một cách lạ kỳ, cơn giận dữ tức khắc tan biến bởi cú ngã. “Bây giờ thì ai ngu xuẩn?” anh lẩm bẩm, hy vọng không ai thấy.
Cái lạnh nhanh chóng lẻn vào qua áo khoác, áo lạnh và Mack biết mưa băng tuyết đang vừa tan vừa đóng băng bên dưới mình sẽ chẳng mấy chốc trở nên rất khó chịu. Rên rỉ và có cảm giác như một người già cả hơn rất nhiều, anh xoay người lồm cồm bò dậy. Chính lúc ấy, anh nhìn thấy một vết dài đỏ tươi đánh dấu cú trượt của anh từ điểm đầu đến điểm cuối. Như bừng dậy vì cảm giác bị thương bất thình lình, một cơn đau âm ỉ bắt đầu râm ran sau gáy. Anh đưa tay sờ đầu theo bản năng rồi nhìn bàn tay dính máu.
Băng gồ ghề và sỏi sắc nhọn đâm vào bàn tay và đầu gối, Mack lồm cồm vừa bò vừa trượt đến khi rốt cục tới được chỗ bằng phẳng
trên lối đi. Không mấy khó khăn, cuối cùng anh đứng lên được và thận trọng nhích dần về phía ngôi nhà, co ro trước sức mạnh của băng tuyết và trọng lực.
Khi đã vào nhà, Mack bắt đầu cởi đồ bên ngoài một cách cẩn thận, các ngón tay phần nào lạnh cóng của anh cử động lóng ngóng cũng như đôi cánh tay quá khổ. Anh quyết định mặc kệ vết máu lấm tấm trên lối vào để lê bước một cách đau đớn vào phòng tắm xem kỹ vết thương. Rõ ràng lối đi băng tuyết đã chiến thắng. Vết đứt trên gáy anh đang túa máu cạnh mấy hòn sỏi vẫn còn dính trên da đầu. Đúng như anh sợ, một vết u khá lớn đã định hình, nổi lên như một con cá voi có bướu đang vờn những đợt sóng cuộn là mái tóc mỏng.
Mack cảm thấy khó khăn khi băng vết thương bằng cách nhìn sau gáy qua một chiếc gương cầm tay phản chiếu lại hình ảnh lộn ngược trong chiếc gương phòng tắm. Sau một chốc bực dọc, anh bỏ cuộc, không thể di chuyển bàn tay theo đúng hướng và không biết chiếc gương nào trong hai chiếc đang lừa dối mình. Dò dẫm thận trọng quanh vết thương đang ướt, anh lấy ra được mảnh ghim lớn nhất, cho đến khi đau quá thì thôi. Chộp lấy thuốc mỡ cấp cứu rồi cố rịt lên vết thương, anh buộc khăn vào gáy bằng gạc tìm được trong một ngăn tủ của phòng tắm. Liếc nhìn mình qua gương, anh nghĩ mình trông hơi giống một tay thủy thủ bặm trợn nào đó trong truyện Moby Dick . Ý nghĩ làm anh cười, rồi nhăn lại.
Anh sẽ phải chờ đến khi Nan về nhà mới được chăm sóc y tế đến nơi đến chốn; một trong nhiều lợi ích khi kết hôn với một y tá có bằng cấp. Dù sao anh cũng biết rằng trông mình càng tệ hại thì càng được cảm thông. Thử thách nào cũng thường có đền bù ít nhiều, nếu người ta chịu khó tìm kiếm. Anh ực vài viên thuốc giảm đau thông thường để làm dịu cảm giác rồi lê bước ra cửa.
Không một phút giây nào Mack quên đi lá thư. Lục lọi trong đống quần áo ướt và dính máu rốt cục anh tìm ra nó trong túi áo khoác, nhìn thoáng qua rồi quay vào văn phòng. Anh tìm số của bưu điện rồi gọi. Như dự đoán, nhấc máy là Annie, người phụ nữ nghiêm trang phụ trách bưu điện và lưu giữ tất cả bí mật của mọi người. “Xin chào, có Tony ở đó không ạ?”
“Xin chào, Mack, có phải anh đó không? Tôi nhận ra giọng anh.” Dĩ nhiên là cô nhận ra. “Rất tiếc, nhưng Tony chưa quay về. Thật tình thì tôi mới nói chuyện với anh ấy qua radio và anh ta chỉ mới đi được nửa đường đến Wildcat thôi, thậm chí chưa đến chỗ anh. Anh có cần tôi bảo anh ta gọi cho anh không, hay anh muốn nhắn tin lại không?”
“Ồ, xin chào. Cô đấy à, Annie?” Anh buột miệng, cho dù âm sắc miền Trung tây của cô không ngờ vào đâu được. “Xin lỗi, tôi đang bận một tí. Không nghe kịp cô nói gì.”
Cô ta cười. “Mack này, tôi biết anh nghe từng chữ. Anh không được xí gạt tôi như trẻ con đấy nhé. Anh biết đó, tôi không phải mới đẻ đâu. Anh muốn tôi nhắn gì khi Tony quay về lành lặn?”
“Thật ra thì cô đã trả lời câu hỏi của tôi rồi.”
Đầu kia ngưng lại một chút. “Quả thật tôi không nhớ anh có hỏi. Anh có làm sao không, Mack? Anh vẫn chơi thuốc dữ dội hay chỉ rít vào sáng chủ nhật khi đi lễ nhà thờ?” Nói xong, cô bật cười, như thể thích chí vì ý hài hước hay ho của mình.
“Annie này, cô biết là tôi không dùng chất kích thích - không bao giờ, và cũng không muốn thử.” Dĩ nhiên Annie biết không có chuyện đó, nhưng Mack không muốn có rủi ro khi một, hai ngày nữa cô ta nhớ lại cuộc nói chuyện. Không phải lần đầu óc hài hước của cô đã biến một câu chuyện hay ho thành một “sự kiện.” Anh không muốn tên mình được đưa vào danh sách cầu nguyện của nhà thờ. “Thôi được rồi, tôi sẽ liên lạc với Tony lúc khác, không có vấn đề gì.”
“Vậy nhé, hãy ở trong nhà cho an toàn. Anh không biết đâu, người già cả như anh có khi mất thăng bằng vì tuổi tác đó. Tôi không muốn thấy anh trượt ngã bị thương. Theo công việc đã giao thì Tony chắc không đến được chỗ anh đâu. Tuyết rơi, mưa đá hay đêm khuya chúng tôi đều đi được, ngoại trừ mưa băng tuyết thế này. Khó mà biết chắc lắm.”
“Cám ơn, Annie. Tôi sẽ cố nhớ lời khuyên của cô. Nói chuyện với cô sau nhé. Tạm biệt cô.” Đầu anh căng lên chưa từng thấy; những
chiếc búa máy nho nhỏ nện theo nhịp tim. “Kỳ quái thật,” anh nghĩ bụng, “ai dám cả gan bỏ một thứ như vậy vào thùng thư nhà mình chứ?” Thuốc giảm đau chưa ngấm hoàn toàn nhưng cũng tác dụng để làm dịu nỗi lo âu mà anh bắt đầu cảm nhận được, và anh chợt thấy mệt rũ. Úp đầu xuống bàn, anh tưởng chừng như mình vừa thiếp ngủ khi điện thoại đánh thức anh tỉnh dậy.
“Alô?”
“Chào anh. Nghe giọng anh như đang ngủ.” Chính là Nan, giọng vui vẻ một cách lạ thường, cho dù anh cảm thấy như nghe được nỗi buồn ẩn giấu sau từng cuộc đối thoại. Nàng yêu thích thời tiết kiểu này cũng như anh. Anh bật đèn bàn lên và liếc nhìn đồng hồ, ngạc nhiên thấy mình đã thiếp đi mấy tiếng.
“Xin lỗi. Anh tưởng anh mới chợp mắt một tí.”
“Giọng anh hơi ngái ngủ đấy. Mọi chuyện ổn cả chứ?”
“Ừ.” Cho dù ngoài trời đã gần như tối rồi, Mack vẫn nhìn thấy cơn bão chưa ngớt. Thậm chí nó còn làm tuyết dày thêm mấy phân. Cành cây trĩu thấp, và anh biết một số rốt cục sẽ gãy vì sức nặng, nhất là khi gió nổi lên. “Anh đánh vật một chút ở ngoài lối đi lúc ra lấy thư, nhưng ngoài ra thì mọi việc đều ổn. Em đang ở đâu?”
“Em vẫn còn ở nhà Arlene, và em định sẽ qua đêm với bọn nhỏ ở đây. Cho Kate về chơi với họ hàng cũng tốt... lấy lại chút thăng bằng.” Arlene là em gái của Nan sống bên kia sông tại Washington. “Dù sao đi ra ngoài cũng trơn trượt quá. Hy vọng đến sáng thì ngớt. Em ước giá như về nhà kịp trước khi thời tiết xấu tệ, nhưng không sao.” Nàng ngưng lại. “Nhà cửa ổn chứ?”
“À, đẹp đẽ vô cùng, và trông an toàn hơn nhiều so với bước vào trong, tin anh đi. Chắc chắn anh không muốn em cố gắng về đây trong lúc bề bộn thế này đâu. Không có gì suy suyển cả. Anh nghĩ Tony chắc không thể mang thư đến được.”
“Em tưởng anh nhận được thư rồi?”nàng hỏi.
“Không, thật tình anh không nhận được thư. Anh tưởng Tony đã đến nên anh đi ra để lấy. Mà...” anh ngập ngừng, nhìn xuống lá thư
nằm trên bàn ở chỗ cũ, “cũng chẳng có thư từ gì cả. Anh đã gọi Annie và cô ta bảo Tony chắc không lên đồi được đâu, anh cũng chẳng muốn lên đó để xem anh ta có đến không nữa.”
“Mà này,” anh nhanh chóng chuyển đề tài để tránh bị hỏi vặn, “Kate thế nào rồi?”
Có một chút ngưng đọng và rồi một tiếng thở dài. Khi Nan nói, giọng nàng lặng đi như một lời thì thầm và anh biết nàng đang che miệng ở đầu bên kia. “Mack, giá mà em biết được. Nó cứ như là nói chuyện với tảng đá ấy, em có làm gì cũng không ăn thua. Khi có họ hàng bên cạnh thì hình như nó thoát ra khỏi lớp vỏ ấy một chút, nhưng rồi lại lặn mất. Em chẳng biết làm gì nữa. Em cứ cầu nguyện và cầu nguyện suốt mong Papa giúp mình có cách đến với nó, nhưng mà...” nàng lại ngưng, “hình như Papa không lắng nghe.”
Vậy đó. Papa là từ yêu thích của Nan để gọi Chúa và cách gọi đó bộc lộ sự vui thích của nàng trong mối quan hệ thân thiết với Ngài.
“Em à, anh chắc chắn Chúa biết những gì Ngài làm. Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.” Những lời ấy chẳng làm anh an lòng nhưng anh hy vọng nó có thể làm dịu nỗi âu lo anh nghe thấy trong giọng nói của nàng.
“Em biết,” nàng thở dài. “Em chỉ mong Ngài nhanh lên.”
“Anh cũng vậy,” Mack chỉ nghĩ được có thế để thốt ra. “Thôi, em và mấy đứa nhỏ nghỉ ngơi nhé, bảo anh gửi lời chào Arlene, Jimmy và cám ơn mọi người. Hy vọng gặp em ngày mai.”
“Được rồi, anh. Em đi giúp mọi người một tay. Cả nhà đang bận tìm nến đề phòng mất điện. Anh cũng nên chuẩn bị. Có mấy cây nến trên cái chậu dưới hầm, với lại còn bánh mì nhồi thịt ăn chưa hết trong tủ lạnh, anh có thể hâm lên. Anh có chắc là không sao chứ?”
“Ừ, chỉ có tính tự phụ của anh là tổn thương hơn hết thôi.” “Thôi anh nghỉ ngơi đi, hy vọng gặp anh vào sáng mai.”
“Vậy nhé, em. Giữ an toàn và cần gì thì hãy gọi cho anh. Tạm biệt em.”
Nói câu ấy quả là có phần ngốc nghếch, anh nghĩ bụng khi gác máy. Một thứ ngốc nghếch kiểu đàn ông, cứ như là anh có thể giúp gì được cho vợ con.
Mack ngồi nhìn lá thư chằm chằm. Thật là hoang mang và đau khổ khi phải làm sắp xếp bao cảm xúc và hình ảnh đen tối rối bời quay cuồng trong tâm trí - một triệu ý nghĩ lao đi một triệu dặm một giờ. Cuối cùng, anh bỏ cuộc, gấp lá thư lại, nhét vào chiếc hộp anh cất trên bàn, rồi tắt đèn.
Mack loay hoay tìm món gì đó để hâm lên trong lò vi ba, rồi anh chộp lấy mấy cái chăn và gối đi vào phòng khách. Liếc nhìn đồng hồ anh biết chương trình của Bill Moyer vừa bắt đầu; một chương trình ưa thích mà anh cố gắng không bao giờ bỏ lỡ. Moyer là một trong số ít ỏi những người mà Mack muốn gặp; một người thông minh và thẳng thắn, có khả năng bộc lộ mạnh mẽ tình yêu với con người và sự thật một cách hết sức rõ rệt. Một trong các câu chuyện tối nay liên quan đến người bán dầu Boone Pickens, một người bắt đầu đào giếng tìm nước.
Gần như không suy nghĩ, và không rời mắt khỏi máy thu hình, Mack với tay về phía bàn cầm lấy một khung ảnh có hình một bé gái, rồi ấp lên ngực mình. Tay kia anh kéo chăn lên sát cằm và thả mình sâu vào ghế sofa.
Chẳng mấy chốc tiếng ngáy nhẹ nhàng vang lên khi máy thu hình chuyển sang tin về một học sinh trung học ở Zimbabwe bị đánh đập vì lên tiếng phản đối chính quyền. Nhưng Mack đã rời căn phòng để đánh vật với các giấc mơ của mình; có lẽ đêm nay không có ác mộng, có lẽ chỉ có ảo cảnh của băng tuyết, cây cối và trọng lực.
• 2 •
BÓNG TỐI QUẦN TỤ
Không gì làm chúng ta đơn độc như những điều bí mật của mình. — Paul Tournier
Thảng hoặc trong đêm, một cơn gió ấm đã thổi qua thung lũng Willamette, giải thoát cảnh vật khỏi gọng kềm băng giá của cơn bão, ngoại trừ nhưng thứ nằm ẩn kín trong bóng tối thâm sâu nhất. Trong vòng hai mươi bốn giờ, thời tiết bỗng ấm như đầu mùa hè. Mack ngủ một hơi đến sáng bạch, một giấc ngủ không mộng mị mà dường như trôi qua chỉ trong khoảnh khắc.
Ngồi dậy trên sofa, anh có phần chán nản vì cảnh vật băng tuyết đã phôi pha quá nhanh nhưng thay vào đó là niềm vui được gặp lại Nan và bọn trẻ khi cả nhà xuất hiện chưa đầy một tiếng sau. Trước tiên là anh đón đợi lời ca cẩm thường lệ vì đã không tống quần áo dơ dính máu vào phòng giặt, rồi tiếp theo là một loạt những ố và á khi nàng khám vết thương trên đầu anh. Sự chăm sóc làm Mack hết sức vừa lòng và chẳng bao lâu sau Nan đã lau rửa, băng bó và cho anh ăn uống. Lá thư, mặc dù chưa bao giờ rời xa tâm trí anh, không được nhắc đến. Anh vẫn không biết nghĩ gì về nó, và anh không muốn Nan dính vào nếu đó hóa ra là một trò đùa ác ý.
Những mối bận tâm nho nhỏ, như cơn bão băng, là một chút khuây khỏa ngắn ngủi ập đến giữa cơn ám ảnh hiện hữu của người bạn đồng hành bất tận bên anh: nỗi đau , như cách anh gọi. Ngay sau mùa hè mà Missy mất tích, nỗi đau lớn đã khoác lên vai Mack như một tấm chăn nặng trĩu tàng hình nhưng hữu thể. Sức nặng của nó làm ánh mắt anh mờ đục, đôi vai khom gập. Nỗ lực đến kiệt sức để giũ bỏ nó, đôi tay anh như thể được may chặt vào đó và anh đã phần nào gắn chặt với nó. Anh ăn uống, làm việc, yêu thương, mơ mộng và chơi đùa trong cái vỏ nặng nề ấy, còng xuống như đang mặc một chiếc áo choàng tắm dát chì - lê bước mỗi ngày trong sự chán nản u ám đã ngốn trọn màu sắc của vạn vật.
Có những lúc anh cảm thấy nỗi đau từ từ siết chặt lồng ngực và trái tim mình như những vòng dây xoắn của một chiếc dụng cụ, vắt hết chất lỏng từ trong mắt mình ra cho đến lúc anh tưởng không còn một giọt nào. Rồi có lúc anh nằm mơ thấy đôi bàn chân mình kẹt trong bùn, trong khi anh nhìn loáng thoáng Missy chạy xuống con đường rợp bóng cây trước mặt, chiếc váy đỏ cotton mùa hè của cô bé đính hoa dại thấp thoáng sau những thân cây. Cô bé hoàn toàn không hay biết cái bóng u ám đang bám theo sau mình. Mặc cho anh cố hét lên điên dại để cảnh báo cô bé, chẳng một âm thanh nào phát ra và lúc nào anh cũng chậm trễ và quá bất lực không thể cứu cô bé. Anh thường choàng dậy trên giường, mồ hôi nhỏ giọt từ tấm thân nhừ tử, trong khi những con sóng buồn nôn, tội lỗi và hối tiếc cuộn tràn trong người nhưng một cơn lũ triều siêu thực.
Câu chuyện về sự mất tích của Missy tiếc thay lại không khác những chuyện thường được kể quá nhiều. Mọi chuyện diễn ra trong kỳ cuối tuần Lễ Lao động, kỳ vui chơi cuối cùng của mùa hè trước khi vào năm học mới và chương trình công việc mùa thu thường kỳ. Mack có một quyết định táo bạo là đưa ba đứa nhỏ đi cắm trại một chuyến đến hồ Wallowa tại đông bắc Oregon. Nan đã đăng ký một lớp học của chương trình bổ sung tại Seattle, còn hai đứa con trai lớn thì đang ở trường đại học hoặc là ở một trại hè. Nhưng Mack tin mình có sự kết hợp đầy đủ các khả năng dã ngoại lẫn kỹ năng làm mẹ. Dù gì thì Nan cũng đã dạy bảo anh tận tình.
Ý thức về chuyến phiêu lưu và cắm trại làm mọi người bị cuốn hút trong cơn sốt, và cả căn nhà ồn ào với mọi hoạt động. Nếu làm theo cách của Mack chắc là mọi người sẽ lùi xe vận tải vào nhà và bê hầu hết đồ đạc lên xe để phục vụ cho kỳ cuối tuần dài. Trong một lúc bối rối, Mack quyết định phải nghỉ giải lao và thả người vào chiếc ghế của bố mình sau khi suỵt đuổi Judas, chú mèo của gia đình. Anh chuẩn bị bật truyền hình thì Missy ào vào, ôm chiếc hộp Plexiglas nhỏ.
“Con mang theo bộ sưu tập côn trùng đi cắm trại được không?” Missy hỏi.
“Con muốn mang mấy con bọ theo à?” Mack càu nhàu, chẳng mấy chú ý đến cô bé.
“Bố, không phải bọ đâu. Chúng là côn trùng. Nhìn này, con có trong này nhiều lắm.”
Mack miễn cưỡng chú ý đến con gái và cô bé thấy bố chú ý bèn bắt đầu giảng giải về nội dung trong chiếc hộp kho tàng của mình.
“Có hai con châu chấu. Rồi bố nhìn trên chiếc lá kìa, con sâu bướm của con với lại... Kia rồi! Bố thấy con bọ rùa của con không? Con còn có một con ruồi với mấy con kiến trong đó nữa.”
Trong khi cô bé thống kê bộ sưu tập của mình, Mack cố gắng hết mức để tỏ ra chú ý, gật đầu theo.
Missy kết thúc: “Vậy là con đem theo được phải không?”
“Được chứ, con. Có khi đến đó mình thả ra cho tụi nó về với thiên nhiên.”
“Không, không được!” một giọng vang lên từ trong bếp. “Missy, con phải để bộ sưu tập ở nhà. Tin mẹ đi, ở đây chúng nó an toàn hơn.” Nan thò đầu vào và nghiêm mặt giận yêu Mack trong khi anh nhún vai.
“Bố đã cố rồi đó, con!” anh thì thầm với Missy.
“Grrr,” Missy làu bàu. Nhưng biết là trận chiến đã thất bại, cô bé nhặt chiếc hộp lên rồi đi ra.
Đến tối thứ năm thì chiếc xe thùng đã quá tải còn phần rờ-moọc lều có gắn đèn và phanh thì đã được kiểm tra. Sáng thứ sáu, sau một bài giáo huấn cuối cùng của Nan với các con về sự an toàn, vâng lời, việc đánh răng buổi sáng, không túm bọn mèo có sọc trắng trên lưng, và bao nhiêu qui định về các thứ khác, cả nhà lên đường; Nan đi về hướng Bắc theo xa lộ liên bang 205 đến Washington, còn Mack và ba người bạn nhỏ đi về hướng Đông theo xa lộ liên bang 84. Kế hoạch là sẽ trở về vào thứ ba tuần sau, ngay trước ngày đầu tiên đi học.
Hẻm núi sông Columbia thật đáng để làm một chuyến du hành, với những toàn cảnh ngoạn mục khi đứng nhìn từ các đỉnh núi bằng còn lưu vết khắc các dòng sông và đứng lơ đãng trong cái ấm cuối mùa hè. Tháng chín và tháng mười có thể cống hiến những thời khắc đẹp nhất của thời tiết Oregon: mùa thu muộn thường rơi vào lễ Lao động và kéo dài đến Halloween, khi trời bỗng trở lạnh, ẩm ướt và khó chịu. Năm nay cũng không phải ngoại lệ. Đường xá và thời tiết hợp tác với nhau nhuần nhuyễn, và cả nhà hầu như không để ý đến thời gian và những dặm đường đã trôi qua.
Bốn cha con dừng lại tại thác Multnomah để mua sách tô màu và viết chì màu cho Missy và hai chiếc máy ảnh rẻ tiền, không thấm nước loại dùng một lần cho Kate và Josh. Mấy cha con quyết định leo một đoạn ngắn trên con đường mòn dẫn đến chiếc cầu đối diện thác. Đã từng có một con đường dẫn đi vòng quanh hồ nước vào trong cái hang cạn đằng sau cột nước đang đổ, nhưng tiếc là nó đã bị bít lại khi người ta phát hiện nó bắt đầu xói mòn. Missy thích nơi này lắm, và năn nỉ bố kể câu chuyện huyền thoại cô gái da đỏ xinh đẹp, con gái của tù trưởng bộ lạc Multnomah. Cô bé phải kỳ kèo, nhưng cuối cùng Mack chiều ý và kể lại câu chuyện trong khi mấy cha con đứng nhìn lên màn sương phủ quanh thác nước đang đổ.
Câu chuyện xoay quanh một ái nữ, đứa con duy nhất của một vị cha già. Vị tù trưởng yêu con gái rất mực và cẩn thận kén chồng cho con; một chiến binh trẻ - tù trưởng của bộ lạc Clatsop, người mà ông biết con gái mình cũng yêu thương. Hai bộ lạc tụ hội để ăn mừng lễ cưới, nhưng trước khi hôn lễ cử hành, một căn bệnh kinh khủng bắt đầu lây lan trong những người đàn ông, làm thiệt mạng nhiều người.
Các vị trưởng lão và các tù trưởng gặp nhau để bàn xem có thể làm gì để đối phó với căn bệnh quái ác đang nhanh chóng lấy đi mạng sống các chiến binh. Thầy lang cao tuổi nhất trong số họ kể lại chuyện cha của ông, lúc già yếu gần qua đời, đã tiên đoán một căn bệnh ghê gớm sẽ giết hại dân làng, và chỉ có thể ngăn chặn căn bệnh nếu một người con gái trong trắng và ngây thơ của một vị tù trưởng sẵn sàng dâng hiến sinh mạng của mình cho dân chúng. Để
trọn lời nguyền, cô gái phải tự nguyện trèo lên một vách đá trên Sông Lớn rồi từ đó nhảy xuống quyên sinh.
Cả chục cô gái trẻ, tất cả đều là con gái của các tù trưởng, đã được đưa ra trước hội đồng. Sau khi tranh cãi khá nhiều, các vị trưởng lão quyết định họ không thể yêu cầu một sự hy sinh cao quí như vậy, nhất là đối với một truyền thuyết mà họ không chắc là đúng.
Nhưng căn bệnh tiếp tục hoành hành và rốt cục vị tù trưởng chiến binh trẻ tuổi, vị hôn phu tương lai của cô gái nọ, đã ngã bệnh vì nó. Cô gái yêu chàng biết trong thâm tâm phải làm một điều gì đó, và sau khi hạ sốt cho chàng, nàng đã hôn nhẹ lên trán chàng, nàng lẻn đi.
Nàng mất trọn đêm và ngày hôm sau để lên đến nơi được nhắc đến trong truyền thuyết, một vách núi nhìn xuống Sông Lớn và những vùng đất xa hơn. Sau khi cầu nguyện và phó thác cho Đấng Linh thiêng, nàng kết thúc lời nguyền bằng cách không ngần ngại gieo mình xuống những tảng đá ghê gớm dưới vực sâu.
Ngày hôm sau, những người bệnh đều ngồi dậy và mạnh khỏe. Mọi người rất đỗi vui mừng và hoan hỉ cho đến khi người chiến binh trẻ phát hiện ra cô dâu yêu dấu của mình đã mất tích. Khi tin ấy lan đến tai mọi người, nhiều người bắt đầu đi đến nơi mà họ biết sẽ tìm thấy nàng. Khi họ lặng lẽ đứng quanh xác nàng dưới chân vách đá, người cha đau khổ của nàng đã thét lên với Đấng Linh thiêng, đòi hỏi sự hy sinh của nàng phải luôn luôn được tưởng nhớ. Lúc ấy, nước bắt đầu rơi từ nơi nàng đã nhảy xuống, biến thành một màn sương mịn phủ xuống chân họ, từ từ tạo nên một cái hồ.
Missy thích nghe cha kể đi kể lại câu chuyện đó. Nó có đầy đủ mọi yếu tố của một của một câu chuyện cứu chuộc thật sự, không giống như chuyện về Jesus mà cô bé đã biết quá rõ. Nó nói về tình yêu cao đẹp và một sự hy sinh được báo trước bởi một lời tiên tri. Vì tình yêu, người con lại sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để cứu người chồng chưa cưới và các bộ lạc khỏi cái chết.
Nhưng lần này, Missy chẳng nói tiếng nào khi câu chuyện kết thúc. Cô bé đột nhiên quay lưng đi thẳng về phía chiếc xe như muốn nói: “Được rồi, con nghe xong rồi. Chúng ta đi thôi.”
Họ nghỉ nhanh để ăn trưa và đi vệ sinh tại sông Hood rồi lại lên đường, đến La Grande đầu giờ chiều. Đến đây, họ rời khỏi xa lộ I-84 để rẽ sang xa lộ Hồ Wallowa, để đi bảy mươi hai dặm đến thị trấn Joseph. Cái hồ và điểm cắm trại họ đang đến chỉ vượt qua Joseph vài dặm, và sau khi tìm ra địa điểm tất cả lao vào và nhanh chóng dựng trại - có lẽ không đúng là cách Nan muốn, nhưng lại hiệu quả.
Bữa ăn đầu tiên là theo kiểu truyền thống gia đình Phillips: bít tết sườn, ướp bằng nước sốt bí mật của chú Joe. Phần tráng miệng thì dùng bánh sôcôla hạnh nhân mà Nan đã làm đêm trước, có phủ kem vanilla ủ trong đá khô mang theo.
Buổi tối đó, khi ngồi giữa ba đứa con đang cười đùa và ngắm nhìn một trong những tiết mục kỳ thú nhất của thiên nhiên, trái tim Mack chợt rộn lên một niềm vui bất ngờ. Ánh hoàng hôn rực rỡ sắc màu và dáng vẻ chờn vờn với mấy đám mây đang chầu chực để làm diễn viên chính trong tiết mục có một không hai này. Anh là một người giàu có, anh tự nhủ lòng, về mọi phương diện có ý nghĩa nhất.
Khi dọn dẹp xong bữa ăn khuya thì màn đêm buông xuống. Hươu nai - những vị khách quen thuộc ban ngày và đôi khi gây nhiều phiền hà - đã biến đi ngủ ở chỗ của chúng. Thay ca cho chúng là bọn gây rối ban đêm: gấu trúc, sóc và sóc chuột kéo nhau đi thành bầy sục sạo tìm bất cứ chiếc hộp nào còn hé mở. Mấy cha con nhà Phillips đã biết chuyện này do kinh nghiệm trước đây. Đêm đầu tiên ngủ ở điểm cắm trại này họ đã bị xơi mất bốn tá bánh Rice Krispies Treats, một hộp sôcôla, và toàn bộ bánh bơ đậu phộng.
Trước khi quá trễ, bốn cha con đã đi bộ một chút từ điểm cắm trại đến một địa điểm âm u và tĩnh lặng mà có thể nằm xuống và ngắm nhìn dải ngân hà, lộng lẫy và rực sáng không hề bị lấn át bởi ánh đèn ô nhiễm của đô thị. Mack có thể nằm đó và ngắm nhìn cõi mênh mông ấy hàng giờ. Anh cảm thấy mình nhỏ bé đến không ngờ
nhưng lại hài lòng với bản thân. Trong tất cả những nơi mà anh cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, ở ngoài này giữa thiên nhiên và dưới trời sao chính là một trong những nơi xác thực nhất. Anh như nghe thấy cả khúc ca thờ phụng đấng Tạo hóa đang vang lên, và với trái tim trơ của mình anh hết mình hòa nhịp.
Rồi mọi người trở lại điểm cắm trại và sau nhiều đợt thu xếp đồ đạc, Mack nhét ba đứa nhỏ vào trong túi ngủ đầy sự an toàn và bảo vệ. Anh cầu nguyện vắn tắt với Josh rồi chuyển sang nơi Kate và Missy đang nằm chờ, nhưng khi đến lượt Missy cầu nguyện thì cô bé lại muốn nói chuyện.
“Bố, sao cô ấy lại buộc phải chết?” Mack mất một lúc mới hình dung ra được Missy đang nói về ai, và đột nhiên nhận ra cô gái bộ lạc Multnomah đã ở trong đầu con bé suốt từ lúc dừng chân trong ngày.
“Con à, cô ấy không buộc phải chết. Cô ấy đã lựa chọn cái chết để cứu dân chúng. Họ bệnh rất nặng và cô ấy muốn họ khỏi bệnh.”
Một sự yên lặng và Mack biết một câu hỏi khác đang hình thành trong bóng tối.
“Chuyện có xảy ra thật vậy không?” Lần này câu hỏi là từ Kate, rõ ràng quan tâm đến cuộc nói chuyện.
“Chuyện có xảy ra thật vậy không?”
“Cô gái da đỏ có chết thật không? Chuyện có thật không?”
Mack suy nghĩ trước khi lên tiếng. “Bố không biết, Kate. Đó là một truyền thuyết và đôi khi truyền thuyết là những câu chuyện để dạy một bài học.”
“Vậy là chuyện không có thật à?” Missy thắc mắc.
“Có thể, con à. Đôi khi truyền thuyết được dựng nên từ chuyện thật, những sự việc thật sự đã xảy ra.”
Lại yên lặng, và rồi: “Vậy Jesus chết có phải là một truyền thuyết?” Mack có thể nghe cả tiếng những bánh xe đang lăn trong tâm trí Kate.
“Không, con, đó là một câu chuyện thật, và các con biết gì không? Bố nghĩ câu chuyện cô gái da đỏ chắc cũng là chuyện thật.”
Mack chờ đợi trong khi các cô con gái đang suy nghĩ. Missy là đứa hỏi tiếp. “Đấng Linh thiêng là tên khác của Chúa - bố biết đó, cha của Jesus phải không?”
Mack nở nụ cười trong bóng tối. Rõ ràng những lời cầu nguyện ban đêm của Nan có một hiệu quả. “Bố cũng đoán vậy. Đó là một cái tên hay dành cho Chúa vì Ngài là Linh hồn và là một Đấng.”
“Vậy thì tại sao Ngài lại ác như vậy?”
À, đây mới chính là câu hỏi nãy giờ được nung nấu. “Con nói sao, Missy?”
“Đấng Linh thiêng làm cô gái nhảy xuống từ vách đá và làm cho Jesus chết trên thập tự. Con thấy như vậy khá là ác.”
Mack bí. Anh không biết chắc nên trả lời thế nào. Với sáu tuổi rưỡi, Missy đang hỏi những câu mà những người khôn ngoan đã phải đánh vật hàng thế kỷ.
“Con ơi, Jesus không nghĩ rằng cha mình ác. Người nghĩ rằng cha mình đầy tình thương và yêu thương Người vô cùng. Cha của người không làm cho người phải chết. Jesus đã chọn cái chết vì Người và cha của Người yêu thương con, bố và mọi người trên đời này. Người đã cứu chúng ta khỏi căn bệnh, giống như cô gái.”
Giờ đây đến lượt một sự im lặng dài nhất, và Mack bắt đầu thắc mắc các cô con gái đã ngủ chưa. Khi anh vừa định chồm qua hôn chúng thì một giọng nhỏ nhoi và không giấu được rung động cất lên phá tan sự tĩnh lặng.
“Bố?”
“Gì, con?”
“Liệu con có bao giờ phải lên vách núi và nhảy xuống không?”
Tim Mack thắt lại khi anh hiểu ra vì sao có cuộc trò chuyện này. Anh lôi cô bé vào đôi tay mình rồi ôm vào lòng. Với giọng hơi chút
khàn hơn bình thường, anh nhẹ nhàng đáp, “Không đâu, con. Bố sẽ chẳng bao giờ bảo con phải lên núi nhảy xuống cả, dứt khoát không, không bao giờ.”
“Vậy thì Chúa có bao giờ bảo con lên núi và nhảy xuống không? “Không, Missy. Chúa sẽ chẳng bao giờ bảo con phải làm vậy cả.”
Cô bé rúc sâu vào đôi tay bố. “Được rồi! Ôm con chặt đi. Chúc bố ngủ ngon! Con yêu bố.” Rồi cô bé thiếp đi, chìm vào giấc ngủ sâu với toàn những mộng đẹp êm đềm.
Sau vài phút, Mack gượng nhẹ đặt cô bé trở lại vào túi ngủ. “Con ổn chứ, Kate?” anh vừa thì thầm vừa hôn cô bé. “Vâng,” có tiếng đáp lại thì thầm. “Bố?”
“Gì, con?”
“Nó hỏi hay đấy chứ?”
“Đúng vậy. Nó là một đứa đặc biệt, cả hai đứa tụi con, có điều con chẳng còn quá nhỏ nữa. Bây giờ ngủ đi, ngày mai bận rộn đấy. Chúc con có những giấc mơ đẹp nhé.”
“Bố cũng vậy. Con yêu bố lắm!”
“Bố cũng yêu con vô cùng. Chúc con ngủ ngon.”
Mack cài lều lại khi bước ra ngoài, anh xì mũi, rồi quệt những giọt nước mắt còn vương trên má. Anh thầm đọc những câu kinh tạ ơn Chúa rồi đi pha chút cà phê.
• 3 •
MỎM NÚI RIÊNG
Tâm hồn được hàn gắn khi ở cùng trẻ em.
— FYODOR DOSTOEVSKY
Hồ Wallowa công viên Tiểu bang tại Oregon và vùng phụ cận thường được gọi là tiểu Thụy Sĩ của Hoa Kỳ. Những rặng núi gồ ghề hoang vu vươn cao gần mười ngàn bộ, và nằm giữa chúng là vô số thung lũng đầy những dòng suối, đường mòn, và những đồng cỏ trên cao tràn đầy những khóm hoa dại. Hồ Wallowa là cửa ngõ vào vùng đất hoang mỏm núi Diều Hâu và vùng giải trí quốc gia hẻm núi Hells, nơi khoe ra hẻm núi sâu nhất Bắc Mỹ. Được khoét hàng bao thế kỷ bởi Sông Rắn, có những chỗ nó sâu đến vài dặm từ đỉnh đến đáy, và một chục dặm từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Bảy mươi lăm phần trăm của vùng giải trí không có đường sá, với hơn 900 dặm đường mòn. Một thời là lãnh địa của bộ lạc danh tiếng Nex Perce mà tàn tích sự hiện diện của họ đang nằm rải rác khắp vùng đất hoang vu này, cũng như dấu vết những người khai hoang da trắng trên đường đến bờ Tây. Thị trấn Joseph kề cận được đặt tên theo danh tính của một vị tù trưởng hùng mạnh mà tên tiếng da đỏ của ông nghĩa là Sấm Rền từ Núi. Khu vực này là vùng đất của vô số loài hoa và muông thú như nai sừng tấm, gấy, hươu và sơn dương. Sự hiện diện của rắn lục lạc, nhất là khi bạn đến gần Sông Rắn, là lý do để đi một cách cẩn trọng, nếu bạn quyết định mạo hiểm đi ra khỏi đường mòn.
Hồ Wallowa dài năm dặm và rộng một dặm, một số người nói nó hình thành từ băng hà cách đây chín triệu năm. Giờ đây nó nằm cách thị trấn Joseph chừng một dặm trên độ cao 4.400 bộ. Nước hồ, mặc dù lạnh đến nín thở hầu như quanh năm, lại khá dễ chịu vào cuối mùa hè đến mức có thể bơi thoải mái, ít nhất ở gần bờ. Nhìn xuống viên ngọc xanh này là đỉnh Sacagawea, cao gần 10.000 bộ, với đỉnh tuyết phủ và những sườn cao đầy cây to.
Mack và các con vui chơi suốt ba ngày liên tiếp. Missy, dường như đã thỏa mãn với các câu trả lời của bố, không bao giờ nói đến đề tài cô gái nữa, mặc dù một trong những ngày cuốc bộ đã dẫn mấy bố con lên vài vách núi dựng đứng. Mấy bố con đã dành vài giờ để đi trên hồ bằng xuồng chèo, cố hết sức để thắng giải tại một cuộc thi golf thu nhỏ, và thậm chí còn cưỡi ngựa dọc theo đường mòn. Sau một chuyến đi trong buổi sáng đến trang trại Wade nổi tiếng trong lịch sử, tọa lạc giữa Joseph và Enterprise, mấy cha con dành cả buổi chiều để đến các cửa hiệu nhỏ tại chính thị trấn Joseph.
Trở về hồ, Josh và Kate rượt đuổi nhau quanh con đường mòn của xe đẩy. Josh là đứa chiến thắng, nhưng Kate bắt đầu giành lại được quyền khoe khoang vào buổi chiều khi cô bé tóm được ba con cá hồi cỡ lớn. Missy bắt được một con bằng lưỡi câu và sâu, nhưng cả Josh và Mack đều chẳng bắt được gì mặc dù dùng mồi ngon.
Rồi đến một lúc trong kỳ cuối tuần hai gia đình khác lọt vào thế giới của gia đình Phillips một cách kỳ lạ. Chuyện xảy ra là tình bạn thường nảy nở trước tiên giữa bọn trẻ rồi đến lượt giữa những người lớn. Josh đặc biệt thích lân la với chị em nhà Ducettes, mà cô lớn, Amber, là một thiếu nữ xinh xắn cỡ tuổi cậu. Kate rất ưa để tâm chòng ghẹo anh mình về việc này, và cậu ta thường đáp lại những lời châm chọc bằng cách bỏ đi về phía chiếc lều rờ - moọc trong giận dữ và bực dọc. Amber có một cô em gái, Emmy, chỉ nhỏ hơn Kate một tuổi, và cả hai thường chơi chung với nhau suốt. Vicki và Emil Ducette xuất phát từ nhà tại Colorado, nơi Emil là nhân viên cho phòng Hành pháp Cục ngư chính và Hoang thú, còn Vicki ở nhà để lo nội trợ và lo cả cho cậu con trai bất ngờ J.J, giờ đây đã gần một tuổi.
Gia đình Ducettes đã giới thiệu cha con Mack với một cặp vợ chồng Canada mà họ đã gặp trước đó, Jesse và Sarah Madison. Hai người này có cung cách thoải mái, khiêm nhường và Mack lập tức thích họ ngay. Cả hai hành nghề tư vấn độc lập; Jesse trong lĩnh vực nhân sự còn Sarah trong lĩnh vực quản trị cải cách. Missy bị cuốn hút ngay với Sarah, và cả hai thường đến chỗ cắm lều của nhà Ducette để giúp Vicki và J.J.
Ngày thứ hai ló dạng một cách rực rỡ và toàn thể bầu đoàn đều hào hứng về kế hoạch đi theo đường cáp điện Hồ Wallowa để lên đỉnh núi Howard - 8.150 bộ trên mực nước biển. Khi được xây dựng vào 1970, đường cáp có đoạn giữ kỷ lục dốc nhất Bắc Mỹ, với tổng chiều dài khoảng gần bốn dặm. Hành trình lên đỉnh mất khoảng mười lăm phút trong toa cáp treo lơ lửng chừng 3 đến 120 bộ cách mặt đất.
Thay vì mang theo đồ ăn trưa, Jesse và Sarah nhất định đãi mọi người một bữa ăn tại quán nướng Đỉnh Núi. Kế hoạch là sẽ ăn ngay khi lên đến đỉnh rồi dành cả ngày còn lại để đi bộ đến năm vị trí nổi tiếng để thưởng cảnh. Trang bị máy ảnh, kính râm, chai nước và tấm che nắng, mọi người xuất phát vào giữa buổi sáng. Như dự định, họ xơi một bữa tiệc đúng nghĩa gồm hamburger, khoai tây chiên và nước trái cây tại quán nướng. Chuyến đi lên cao ắt đã làm mọi người ăn ngon miệng - ngay cả Missy cũng ăn hết nguyên một cái burger và gần hết rau.
Sau bữa trưa mọi người đi bộ đến từng cao điểm thưởng cảnh gần đó, mà chặng dài nhất là từ thung lũng Tầm Cao đến vùng Sông Rắn và cao điểm Bảy Con Quỷ (hơn ba phần tư dặm một chút). Từ cao điểm thung lũng Wallowa họ có thể ngắm nhìn xa tít tận các thị trấn Joseph, Enterprise, Lostine, và thậm chí cả Wallowa. Từ cao điểm Tím Hoàng Gia và cao điểm Thượng Đỉnh mọi người thỏa thích với một tầm nhìn trong vắt, nhìn xuống tiểu bang Washington và Idaho. Một số thậm chí còn nghĩ rằng có thể nhìn vượt qua cả doi đất Idaho đến tiểu bang Montana.
Đến chiều muộn, mọi người đều mệt mà vui. Missy, được Jesse cõng trên vai qua mấy cao điểm cuối cùng, đang thiếp đi trên tay bố khi mọi người gập ghềnh đi vù vù xuống từ trên đỉnh. Bốn thành viên trẻ tuổi, cùng với Sarah, dán mặt vào cửa sổ, ô và a trước những cảnh kỳ thú suốt dọc đường đi xuống. Vợ chồng Ducesttes ngồi yên nắm tay nhau, còn J.J ngủ trên tay bố.
“Đây là một trong những khoảnh khắc quý giá và hiếm hoi,” Mack nghĩ, “làm cho bạn ngạc nhiên và sững sờ. Giá mà có Nan ở đây thì thật là mỹ mãn.” Anh chuyển Missy sang một tư thế dễ chịu hơn cho
cô bé, trong khi cô bé đã hoàn toàn say ngủ, rồi vén tóc cô bé để nhìn. Bụi đất và mồ hôi của cả ngày lại càng làm tăng vẻ thơ ngây và kháu khỉnh của cô bé một cách kỳ lạ. “Tại sao chúng nó lại phải lớn lên nhỉ?” Anh trầm ngâm và hôn trán cô bé.
Buổi tối đó, ba gia đình gom thức ăn lại để dùng chung bữa khuya cuối cùng với nhau. Khai vị là món xà lách kiểu Mexico, với nhiều rau tươi mới cắt và sốt. Rồi không biết bằng cách nào, Sarah đã chuẩn bị được cả một bữa tráng miệng chocolate, với mấy lớp kem đánh, mousse, bánh hạnh nhân và các thứ bánh kẹo khác làm mọi người no nê thỏa mãn.
Sau khi cất thức ăn còn thừa vào tủ lạnh và lau dọn đĩa, người lớn ngồi uống cà phê quanh một đống lửa trại sáng rực để nghe Emil kể về những cuộc mạo hiểm phá các đường dây buôn lậu thú hiếm và giảng giải cách truy bắt những người câu trộm và săn bắn bất hợp pháp. Anh là một người kể chuyện tài tình và còn là một nguồn những câu chuyện vui. Hết sức kỳ thú, và Mack lại nhận ra có nhiều thứ trên đời mà mình ngờ nghệch.
Khi buổi tối buông xuống, Emil và Vicki đi ngủ trước với em bé đã trĩu mi mắt của họ. Jesse và Sarah tình nguyện ở lại để lát nữa đưa hai bé gái nhà Ducette về lều trại. Ba anh em nhà Phillips và hai chị em nhà Ducettes ngay lập tức biến mất vào trong chiếc rờ moọc lều để thủ thỉ kể chuyện và những điều bí mật.
Như thường tình khi lửa trại cháy lâu, cuộc trò chuyện đã chuyển từ những chuyện hài hước sang chuyện đời tư hơn. Sarah có vẻ nôn nóng muốn hỏi Mack về các thành viên còn lại của gia đình, nhất là Nan.
“Chị ấy thế nào, Mackenzie?”
Mack vô cùng thích thú nếu có dịp để khoe về Nan của mình. “À, ngoài vẻ đẹp mà ý tôi không phải là thường đâu, cô ấy đẹp lắm, từ trong ra ngoài,” anh nhìn lên bẽn lẽn khi cả hai đều mỉm cười với mình. Anh nhớ vợ và mừng vì bóng đêm đã giúp anh che giấu bớt vẻ ngượng ngùng. “Tên đầy đủ của cô ấy là Nannette, nhưng hầu như ai cũng gọi là Nan. Cô ấy có tiếng trong giới y khoa, ít nhất là ở
Northwest. Cô ấy là một y tá làm việc với các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Công việc căng thẳng, nhưng cô ấy rất thích. Cô ấy cũng đã viết vài bài tham luận và làm diễn giả tại một vài hội nghị.”
“Thế à?” Sarah thốt lên. “Chị ấy thuyết trình về vấn đề gì?”
“Cô ấy giúp mọi người suy nghĩ về quan hệ của họ với Chúa khi đối diện với cái chết của chính họ,” Mack đáp.
“Tôi thích nghe tiếp về chuyện đó,” Jesse khơi thêm trong khi cời lửa bằng một cái que, khiến nó cháy bùng lên.
Mack do dự. Mặc dù cảm thấy dễ chịu một cách kỳ lạ bên cạnh hai vợ chồng này, anh không biết nhiều lắm về họ và cuộc nói chuyện đã đi hơi sâu hơn mức độ mà anh cảm thấy thoải mái. Anh lục tìm nhanh một câu trả lời vắn tắt cho mối quan tâm của Jesse.
“Nan giỏi việc đó hơn tôi. Tôi đoán là cô ấy suy nghĩ về Chúa khác hơn hầu hết mọi người. Cô ấy thậm chí còn gọi Ngài là Cha do cảm nhận sự thân thuộc của mối quan hệ, hy vọng điều đó có lý.”
“Có lý chứ,” Sarah thốt lên trong khi Jesse gật đầu. “Không phải là một quan hệ ruột thịt sao, gọi Chúa là Papa?”
“Không,” Mack mỉm cười cất lời. “Bọn nhỏ cũng bắt chước theo nhưng tôi không cảm thấy thoải mái cách đó. Hình như hơi quá thân cận đối với tôi. Dù sao Nan cũng có một người cha quá tuyệt vời, cho nên tôi nghĩ với cô ấy thì dễ dàng hơn.”
Chuyện đã đi lỡ trớn, và Mack run lên trong thâm tâm, hy vọng không ai nhận ra, nhưng Jesse đang nhìn thẳng vào anh. “Bố anh không quá tuyệt vời sao?” anh hỏi một cách nhẹ nhàng.
“Ừ.” Mack ngưng lại. “Thì nói là ông ấy không quá tuyệt vời cũng được. Ông mất khi tôi còn bé, do những nguyên nhân tự nhiên.” Mack cười, nhưng âm thanh nghe trống rỗng. Anh nhìn cả hai: “Ông uống rượu đến chết.”
“Thật đáng tiếc,” Sarah nói giùm cho cả hai, và Mack cảm nhận được thành ý của cô.
Anh lên tiếng, cố cười tiếp: “Cuộc đời đôi khi khó khăn, nhưng tôi phải cám ơn về rất nhiều điều.”
Theo sau là một sự im lặng lúng túng trong khi Mack thắc mắc hai người này có gì mà dễ dàng phá tan lớp phòng thủ của mình đến như vậy. Mack được giải cứu mấy giây sau bởi một cuộc huyên náo của bọn trẻ khi chúng ùa ra khỏi rờ moọc và xông vào giữa họ. Vô cùng hân hoan, Kate và Emmy đã bắt quả tang Josh và Amber nắm tay nhau trong bóng tối, và giờ đây cô bé muốn cả thế giới biết chuyện. Lúc này, Josh quá xúc động đến độ chịu đựng mọi trò quấy nhiễu và dễ dàng chấp nhận mọi chuyện từ cô bé. Cậu ta đã cố mà vẫn không dẹp được nụ cười ngốc nghếch trên mặt.
Cả hai vợ chồng Madison đều ôm cha con Mack để chúc ngủ ngon, và Sarah còn siết chặt anh một cách hết sức âu yếm trước khi bước đi. Rồi, tay trong tay với Amber và Emmy, cả nhà họ đi vào bóng tối về lều trại nhà Ducette. Mack dõi theo họ đến khi không còn nghe thấy tiếng họ thì thầm trong đêm và khi ánh đèn pin vung vẩy của họ mất dạng. Anh mỉm cười với chính mình và quay lại lùa đàn con của mình về phía những chiếc túi ngủ.
Tiếng cầu nguyện vang lên đều, tiếp theo là những nụ hôn chúc ngủ ngon và tiếng cười khúc khích của Kate khi thủ thỉ với anh trai mà thỉnh thoảng cậu chàng lại lồng lên trong tiếng thì thào mà mọi người đều nghe thấy, “Thôi đi Kate. Hừ... Tao nói rồi đó, mày thật là láo xược!” rồi rốt cục, sự im lặng.
Mack thu dọn những gì có thể bằng ánh sáng của ngọn đèn bão và chẳng mấy chốc quyết định phó mặc phần còn lại đến ban ngày. Dù sao thì kế hoạch đến đầu giờ chiều cả nhà mới định lên đường. Anh pha một tách cà phê đêm cuối cùng rồi ngồi nhấp phía trước đống lửa đã tàn thành một đống than cháy đỏ lập lòe. Thật quá dễ để biến mất trong đám than hồng bập bùng đó. Anh cô đơn, nhưng không cô đơn. Có phải đó là một câu trong ca khúc Tiếng đồn vinh quang của Bruce Cockburn không nhỉ? Anh không chắc, nhưng nếu nhớ thì anh sẽ tra khi về nhà.
Trong lúc ngồi mê hoặc bởi ngọn lửa và cuộn mình trong hơi ấm của nó, anh cầu nguyện, hầu hết là những lời tạ ơn. Anh đã được nhận quá nhiều. Hạnh phúc có lẽ là từ đúng. Anh hài lòng, thanh thản, và thật bình an. Lúc ấy Mack không biết, nhưng trong vòng hai mươi bốn tiếng, những lời cầu nguyện của anh sẽ thay đổi, một cách hệ trọng.
***
Buổi sáng hôm sau không đến trong ổn thỏa, mặc dù trời nắng và ấm áp. Mack dậy sớm để gây bất ngờ cho lũ trẻ bằng một bữa điểm tâm, nhưng bị bỏng hai ngón tay trong khi gỡ mấy miếng bánh rán kẹt trong vỉ nướng. Phản ứng vì bị đau, anh làm lật bếp lò và vỉ nướng rồi làm đổ một chén bột bánh kếp xuống đất. Bọn trẻ, bị đánh động vì tiếng ồn và tiếng rủa xả làu bàu, đã thò đầu ra khỏi lều để ngóng xem sự tình. Chúng bắt đầu cười khúc khích khi hiểu chuyện, nhưng tiếng quát của Mack “Có gì mà cười!” làm chúng thụt vào trong lều, nhưng vẫn còn khúc khích và hé nhìn qua khe cửa sổ lều.
Thế là bữa điểm tâm, thay vì là bữa tiệc Mack dự định, lại là ngũ cốc lạnh với sữa pha kem - do những phần sữa cuối cùng đã trộn vào bột bánh kếp. Mack dành cả tiếng đồng hồ sau đó ngồi sắp xếp đồ đạc với hai ngón tay nhúng trong một ly nước đá phải châm thường xuyên bằng các mảnh nước đá Josh đập ra từ một tảng nước đá bằng cái muỗng. Chắc chắn tin tức đã được truyền đi vì Sarah Madison xuất hiện với dụng cụ cấp cứu bỏng, và trong vòng vài phút đã băng mấy ngón tay của anh vào trong một thuốc lỏng màu trắng, anh thấy cơn nhức dịu đi.
Vào lúc đó, Josh và Kate, sau khi hoàn tất các việc được giao, đã xuất hiện và xin phép đi chơi bằng xuồng của Ducette một lần cuối; hứa hẹn mặc áo cứu sinh. Sau khi không đồng ý thoạt đầu và một loạt lời nài nỉ của bọn trẻ, nhất là Kate, Mack rốt cục đồng ý, nhắc chúng một lần nữa về các nguyên tắc an toàn và cách thức khi bơi thuyền. Anh không quá lo. Điểm cắm trại của họ chỉ cách hồ một tầm ném đá, và chúng đã hứa bơi gần bờ. Mack có thể để mắt đến chúng trong khi tiếp tục thu dọn lều trại.
Missy bận bịu tại bàn, tô màu vào cuốn sách mua ở thác Multnomah. “Con bé kháu khỉnh quá,” Mack nghĩ, liếc nhìn về hướng cô bé trong khi dọn dẹp đống bề bộn đã gây ra trước đó. Cô bé mặc bộ quần áo sạch duy nhất còn lại, một chiếc váy mùa hè màu đỏ có thêu hoa dại mua tại Joseph trong ngày hành trình đầu tiên đến thị trấn.
Khoảng mười lăm phút sau, Mack ngước lên khi nghe một giọng gọi quen thuộc “Bố!” từ phía hồ. Chính là Kate, và cô bé cùng anh trai đang bơi thuyền như những tay chuyên nghiệp trên hồ. Cả hai đều ngoan ngoãn mặc áo cứu sinh và anh vẫy chúng.
Thật lạ là khi một hành động hay biến cố tưởng chừng như vô nghĩa lại có thể thay đổi hoàn toàn những cuộc đời. Kate, khi vung chèo lên để vẫy lại, bị mất thăng bằng và làm nghiêng xuồng. Gương mặt cô như đóng băng lại nỗi khiếp sợ khi chiếc xuồng lặng lẽ và từ từ lật. Josh nghiêng người một cách hốt hoảng để cố gắng lấy thăng bằng, nhưng đã quá trễ và cậu ta rơi ùm xuống nước mất dạng. Mack đã chạy về phía mép nước, không định nhảy xuống, mà chỉ định đến gần chỗ bọn trẻ ngã. Kate ngoi lên trước, miệng lắp bắp la hét, nhưng không thấy tăm hơi Josh. Rồi đột nhiên, nước văng lên và đôi chân vẫy vùng, Mack biết ngay có chuyện rất không ổn.
Ngạc nhiên với cả chính mình, bao nhiêu bản năng được mài giũa từ lúc làm thiếu niên cứu hộ bỗng ùa về. Trong mấy giây, anh đã cởi giày và áo rồi lao xuống nước. Thậm chí chẳng cảm nhận được cú sốc của nước lạnh trong khi lao năm mươi bộ ra phía chiếc xuồng bị lật, trong phút chốc không màng đến cả tiếng khóc hốt hoảng của con gái. Cô bé an toàn. Mối quan tâm chính của anh là Josh.
Hít một hơi sâu, anh lặn xuống. Nước, mặc dù bị khuấy tung lên, vẫn còn khá trong trẻo, với tầm nhìn khoảng ba bộ. Anh nhanh chóng tìm thấy Josh và cũng phát hiện ra tại sao nó gặp rắc rối. Một trong mấy sợi dây buộc áo cứu sinh đã bị mắc kẹt vào dây đai xuồng. Cố gắng hết mức anh vẫn không tháo dây ra được, anh bèn ra hiệu cho Josh tiến sâu vào trong thuyền, nơi không khí vẫn còn kẹt lại. Nhưng cậu trai đang hoảng kinh, làm kéo căng sợi dây khiến cậu bị kẹt theo xuồng và ở dưới nước.
Mack trồi lên, hét bảo Kate bơi vào bờ, hớp một ngụm không khí rồi lại lặn xuống lần thứ hai. Đến cú lặn thứ ba và biết rằng sắp hết thời gian, Mack nhận ra rằng anh có thể hoặc tìm cách lôi Josh ra khỏi chiếc áo cứu sinh hoặc lật xuồng lại. Vì Josh, trong cơn hoảng loạn, không cho ai lại gần, Mack chọn cách thứ hai. Có thể do Chúa và các thiên thần hoặc do Chúa và ý chí hành động, anh không bao giờ biết được, nhưng chỉ cố đến lần thứ hai anh đã lật được chiếc xuồng lại, giải thoát được cho Josh.
Chiếc áo cứu sinh, rốt cục đã có thể làm nhiệm vụ của nó, giờ đây đang giữ cho khuôn mặt chàng trai nổi trên mặt nước. Mack trồi lên đằng sau Josh mà giờ đây đang rũ người và bất tỉnh, máu túa ra từ một vết thương trên đầu do chiếc xuồng nện vào cậu ta trong lúc Mack lật nó lại. Anh cố hết sức làm hô hấp nhân tạo ngay lập tức cho con trai, trong khi những người khác nghe tin sự cố đã đến để lôi anh và chiếc xuồng cùng chiếc áo cứu sinh mắc kẹt vào chỗ nước cạn.
Quên đi cả những tiếng thét quanh mình khi mọi người đang huyên náo với những lời chỉ dẫn và gạn hỏi, Mack tập trung vào việc của mình với nỗi hốt hoảng lớn dần trong lồng ngực. Ngay khi chân chạm đất, Josh bắt đầu ho và ộc ra cả nước lẫn bữa ăn sáng. Bao tiếng reo mừng vang lên từ mọi người đang tụ tập, nhưng Mack chẳng màng. Một sự nhẹ nhõm tràn ngập trong lòng trong khi bao hốt hoảng tan biến, anh bắt đầu khóc, và rồi Kate cũng bật khóc ôm choàng cổ anh, còn mọi người thì vừa cười, vừa khóc, vừa ôm nhau.
Bằng cách nào đó mọi người đều kéo đến bờ hồ. Trong số những người bị lôi đến đây vì sự cố ồn ào này có cả Jesse Madison và Emil Ducette. Trong lúc hỗn độn giữa vui mừng và nhẹ nhõm, Mack nghe cả tiếng Emil, như tiếng lặp đi lặp lại của một bài kinh: “Tôi hết sức xin lỗi... tôi hết sức xin lỗi... tôi hết sức xin lỗi.” Đó chính là chiếc xuồng của họ. Chuyện có thể xảy đến với con cái họ. Mack tìm đến anh ta, ôm lấy người đàn ông trẻ tuổi và nhấn giọng vào tai anh ta: “Thôi mà! Không phải lỗi của anh và ổn cả rồi.” Emil bắt đầu khóc, cảm xúc đột ngột được tháo tung khỏi con đê kìm nén tội lỗi và sợ
hãi. Một cuộc khủng hoảng đã được ngăn chặn. Hay là Mack tưởng như vậy.
• 4 •
NỖI ĐAU
Nỗi sầu là một bức tường giữa hai khu vườn.
— KAHLIL GIBRAN
Mack đứng trên bờ, người cúi gập xuống và vẫn còn đang lấy hơi trở lại bình thường. Mất vài phút anh mới nghĩ đến Missy. Còn nhớ cô bé đang ngồi tại bàn để tô màu trong sách, anh đi ngược lên bờ đến chỗ có thể nhìn thấy điểm cắm trại, nhưng không thấy bóng dáng cô bé. Anh rảo bước đi nhanh về chiếc rờ moọc lều, gọi tên cô bé một cách cố gắng hết sức trầm tĩnh. Không có lời đáp. Cô bé không có ở đó. Mặc dù tim thót lại, anh biện minh rằng trong lúc hỗn loạn đã có người lo cho cô bé, chắc là Sarah Madison hay Vicki Ducette, hay là một trong mấy đứa lớn.
Không muốn tỏ ra quá lo lắng hay hoảng hốt, anh tìm gặp và nhã nhặn thông báo cho hai người bạn mới rằng anh không tìm thấy Missy và nhờ họ kiểm tra với gia đình họ. Cả hai nhanh chân quay lại điểm cắm trại của họ. Jess quay lại trước tiên để thông báo rằng Sarah không thấy Missy suốt cả buổi sáng hôm đó. Anh và Mack bèn đến chỗ Ducette, nhưng trước khi họ đến nơi Emil đã ào đến với họ, nét sợ sệt hiện rõ trên mặt anh.
“Không ai thấy Missy hôm nay, và chúng tôi không biết Amber đang ở đâu. Có lẽ chúng nó đi với nhau chăng?” Câu hỏi của Emil thoáng một ý kinh sợ.
“Chắc chắn là vậy rồi,” Mack nói, cố trấn an chính mình cũng như Emil. “Anh nghĩ chúng nó đang ở đâu vậy?”
“Sao mình không kiểm tra các phòng tắm và buồng tắm vòi sen,” Jesse đề nghị.
Họ gật đầu và Mack rảo bước về phía các buồng tắm vòi sen gần nhất, chợt nhận ra lần đầu tiên rằng mình đang đi chân đất và cởi trần. “Chắc mình trông dị hợm lắm,” anh nghĩ, và có lẽ sẽ bật cười nếu đầu óc không quá chú tâm vào Missy.
Đến các buồng vệ sinh, anh hỏi một thiếu niên xuất hiện phía dãy của nữ giới xem cô bé có nhìn thấy một bé gái mặc váy đỏ bên trong không, hoặc là hai đứa con gái. Cô bé bảo anh rằng cô không chú ý, nhưng sẽ nhìn lại. Trong vòng chưa đầy một phút, cô bé đã quay lại lắc đầu.
“Cám ơn nhé,” Mack nói rồi đi vòng qua sau dãy nhà nơi có các buồng tắm vòi sen. Khi đi vòng qua góc quanh anh bắt đầu lớn tiếng gọi Missy. Mack nghe thấy tiếng nước chảy nhưng không có ai đáp. Anh chỉ làm một phụ nữ lớn tuổi sợ khiếp khi xô cửa và tình cờ làm bật cửa buồng của bà ta. Bà ấy hét lên khiến Mack rối rít xin lỗi rồi nhanh tay sập cửa lại rồi lao đến buồng kế tiếp.
Sáu buồng tắm không tìm thấy Missy. Anh kiểm tra nhà vệ sinh và các buồng tắm của nam giới, cố gắng không nghĩ xem lý do tại sao anh lại phải nhìn vào đó. Không thấy cô bé đâu và anh chạy trở lại chỗ Emil, không biết cầu nguyện điều gì ngoại trừ lắp bắp: “Ôi Chúa ơi, hãy giúp con tìm ra nó... Ôi Chúa ơi, làm ơn giúp con tìm ra nó.”
Khi nhìn thấy anh, Vicki lao đến gặp. Cô đã cố không khóc nhưng không kìm được khi họ ôm nhau. Đột nhiên Mack muốn có mặt Nan vô cùng. Nàng sẽ biết phải làm gì, ít nhất cũng biết việc gì là đúng. Anh cảm thấy thật lạc lõng.
“Sarah ở với Josh và Kate ở đằng sau lều trại, cho nên đừng lo cho chúng nó,” Vicki bảo anh trong tiếng nức nở.
“Ôi Chúa ơi,” Mack nghĩ khi thấy mình hoàn toàn quên mất hai đứa con kia. “Con là một người cha kiểu gì vậy?” Mặc dù anh nhẹ lòng khi thấy Sarah ở cạnh chúng, giờ đây anh lại càng muốn Nan có mặt ở đây hơn nữa.
Vừa lúc ấy, Emil và Jesse ùa vào trại, Emil tỏ ra nhẹ nhõm còn Jesse thì nhìn căng thẳng như một chiếc lò xo.
“Tìm thấy nó rồi,” Emil thốt lên, mặt sáng bừng, rồi lại rũ ra khi nhận ra ý nghĩa câu nói của mình. “Ý tôi là đã tìm ra Amber. Nó vừa trở về sau khi đi tắm ở một chỗ khác còn nước nóng. Nó bảo đã nói với mẹ, nhưng chắc Vicki không nghe thấy...” Giọng anh kéo dài.
“Nhưng chúng tôi không tìm thấy Missy,” Jesse nhanh miệng nói thêm, trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất. “Amber cũng chưa nhìn thấy nó hôm nay.”
Emil giờ đây tỏ ra tất bật và nắm quyền chủ động. “Mack, chúng ta cần phải liên lạc với cơ quan quản lý khu trại ngay, và thông báo tin tức để tìm Missy. Có thể trong lúc ầm ĩ và náo động con bé hoảng sợ và hoang mang rồi thơ thẩn đi lạc luôn, hoặc có thể nó đang cố tìm chúng ta và quẹo sai. Anh có ảnh của nó không? Chắc trong văn phòng có máy photo để chúng ta sao ra cho nhanh đấy.”
“Ừ, tôi có một ảnh nhỏ của con bé trong ví.” Anh thò tay vào túi sau và trong một giây đồng hồ chợt hốt hoảng khi không thấy gì cả. Ý nghĩ thoáng qua đầu anh là chiếc ví đang nằm dưới đáy hồ Wallowa, và rồi anh nhớ ra nó vẫn còn trong thùng sau chiếc xe của chuyến đi xe cáp ngày hôm qua.
Ba người quay trở lại trại của Mack. Jesse chạy trước để báo cho Sarah biết rằng Amber an toàn, nhưng Missy vẫn biệt tích. Khi đến trại, Mack cố hết sức ôm lấy và trấn an Josh với Kate, cố tỏ ra trấn tĩnh trước mặt chúng. Thay đồ ướt ra, anh mặc áo thun và quần jean, mang vớ sạch với một đôi giày chạy bộ. Sarah hứa rằng cô và Vicki sẽ giữ hai đứa lớn với họ, và thì thầm rằng cô đang cầu nguyện cho anh và Missy. Mack ôm nhanh lấy cô và cám ơn, rồi sau khi hôn các con anh đi cùng hai người đàn ông cùng chạy về phía văn phòng khu trại.
Tin tức về vụ cứu người dưới nước đã truyền đến văn phòng nhỏ của trụ sở khu trại gồm hai buồng trước khi họ tới, và mọi người tại đó đang hân hoan. Tình hình thay đổi khi cả ba người thay phiên nhau giải thích về vụ mất tích của Missy. May là văn phòng có một máy photo, và Mack đã phóng lớn năm, sáu tấm ảnh của Missy để phát cho họ.
Khu trại hồ Wallowa có 215 điểm cắm trại chia làm năm nhánh và ba khu vực. Viên trợ lý quản lý trẻ tuổi, Jeremy Bellamy, tình nguyện đi thông báo, nên họ chia khu trại ra làm bốn khu vực và mỗi người đi ra với một tấm bản đồ, ảnh của Missy, và một máy bộ đàm của
văn phòng. Một trợ lý cầm máy bộ đàm của văn phòng cũng đi về lều trại của Mack để thông báo nếu Missy xuất hiện tại đó.
Mọi việc thật là chậm và bài bản, quá chậm đối với Mack, nhưng anh biết rằng đây là cách hợp lý nhất để tìm ra con bé nếu... nếu như nó vẫn còn trong khu trại. Trong khi đi giữa các lều trại, anh cầu nguyện và hứa hẹn. Anh biết trong thâm tâm rằng hứa hẹn với Chúa là khá ngu xuẩn và vô lý, nhưng anh không cưỡng lại được. Anh tuyệt vọng muốn tìm lại Missy, và chắc chắn Chúa biết nó đang ở đâu.
Nhiều người cắm trại hoặc không có tại điểm cắm trại của họ hoặc đang trong giai đoạn cuối thu dọn để về nhà. Không một ai mà anh hỏi có nhìn thấy Missy hoặc một ai trông giống con bé. Thỉnh thoảng nhóm tìm kiếm lại kiểm tra với văn phòng để cập nhật tình hình của từng người, nếu có. Không có gì cả, cho đến gần hai giờ chiều.
Mack đã xong phần khu vực của mình khi có tiếng gọi trong bộ đàm. Jeremy, người phụ trách khu vực gần cổng nhất, nghĩ rằng anh ta tìm được gì đó. Emil hướng dẫn họ đánh dấu bản đồ địa điểm nơi từng người đang dừng lại, và rồi anh báo cho họ mã số điểm cắm trại nơi Jeremy gọi về. Mack là người đến cuối cùng, và anh bước vào giữa một cuộc đối thoại dữ dội gồm có Emil, Jeremy và một người đàn anh trẻ tuổi thứ ba mà Mack không nhận ra.
Emil nhanh chóng cập nhật cho Mack, giới thiệu anh với Virgil Thomas, một cậu trai thành thị đến từ California, người đã cắm trại suốt mùa hè tại khu vực này với mấy người bạn. Virgil và mấy người bạn đã đánh giấc sau cuộc chè chén trễ ban đêm, và anh là người duy nhất thức dậy và nhìn thấy một chiếc xe tải cũ màu xanh quân đội chạy ra khỏi cổng về hướng Joseph.
“Lúc đó khoảng mấy giờ?” Mack hỏi.
“Như tôi đã nói với anh ấy,” Virgil đáp, trỏ ngón cái vào Jeremy, “là trước buổi trưa. Nhưng tôi không biết chắc là trước bao lâu. Lúc tôi còn hơi lơ mơ, và thật tình chúng tôi không chú ý lắm đến thời gian từ khi đến đây.”
Đưa tấm ảnh Missy ra trước mặt người thanh niên, Mack hỏi rành rọt: “Anh có nghĩ là anh thấy con bé không?”
“Khi người khác đưa cho tôi tấm ảnh đó lần đầu, trông nó không thấy quen,” Virgil đáp, nhìn lại tấm ảnh lần nữa. “Nhưng rồi, khi anh ta bảo con bé mặc áo đầm đỏ tươi, tôi nhớ con bé trong xe tải màu xanh mặc áo đỏ và nó đang cười phá lên hay là đang hét, tôi không rõ lắm. Và rồi hình như tay đó tát nó hay là ấn nó xuống, nhưng nghĩ hắn có thể dọa thôi.”
Mack cảm thấy tê liệt. Thông tin ấy làm anh choáng ngợp, nhưng bất hạnh thay đó là điều duy nhất họ nghe thấy mà hợp lý. Nó giải thích tại sao họ không tìm thấy chút dấu vết của Missy. Nhưng Mack hoàn toàn không muốn điều đó đúng một chút nào. Anh quay người lao về phía văn phòng nhưng khựng lại vì giọng của Emil.
“Mack, khoan đã! Chúng tôi đã điện đàm với văn phòng và liên lạc với cảnh sát trưởng tại Joseph. Họ đang cử người đến đây ngay, và đang triển khai báo động về chiếc xe tải.”
Anh vừa nói xong thì như ra hiệu, hai chiếc xe tuần tra chạy vào khu trại. Chiếc thứ nhất chạy thẳng đến văn phòng, trong khi chiếc thứ hai quẹo về phía tất cả bọn họ đang đứng. Mack vẫy người cảnh sát và lao đến gặp khi anh ta bước ra khỏi xe. Một người đàn ông trạc gần ba mươi tự giới thiệu là cảnh sát viên Dalton, và bắt đầu lấy lời khai của họ.
Những giờ đồng hồ sau đó đã diễn ra các phản ứng qui mô lớn về vụ mất tích của Missy. Tín hiệu báo động toàn diện của cảnh sát đã được phát đi về phía Tây đến tận Portland, về phía Đông đến tận Boise, Idaho, và phía Bắc đến Spokane, Washington. Cảnh sát tại Joseph đã dựng chốt chặn tại xa lộ Imnaha, đường từ Joseph đi ra và sâu vào trong khu giải trí quốc gia thung lũng Hells. Nếu kẻ đánh cắp trẻ con mang Missy lên Imnaha - chỉ một trong nhiều hướng hắn có thể đi - cảnh sát hình dung họ có thể có được thông tin thích đáng bằng cách thẩm vấn những người đi ra. Nguồn lực của họ có giới hạn và lực lượng kiểm lâm tuần tra trong vùng cũng đã được liên lạc để canh gác.
Điểm cắm trại của gia đình Phillips được canh gác như hiện trường và mọi người trong phạm vi lân cận đều được thẩm vấn. Virgil cung cấp tối đa thông tin anh ta có được về chiếc xe tải và những người trên xe, và bản miêu tả đúc kết đã được truyền đến mọi đơn vị liên quan.
Các văn phòng FBI địa phương tại Portland, Seattle và Denver đều được thông báo. Nan đã nhận được điện và đang trên đường tới, do người bạn thân nhất, Maryanne, lái xe đưa đến. Thậm chí cả chó đánh hơi cũng được huy động, nhưng dấu vết của Missy chấm dứt tại bãi đậu xe gần đó, càng làm tăng khả năng câu chuyện của Virgil là chính xác.
Sau khi các chuyên gia hình sự rà soát điểm cắm trại, cảnh sát viên Dalton đã yêu cầu Mack vào lại khu vực ấy và cẩn thận xem xét có thứ gì đó bất thường hoặc khác thường so với những gì anh còn nhớ. Mặc dù đã kiệt quệ vì những cảm xúc trong ngày, Mack vẫn tuyệt vọng muốn làm mọi cách để trợ giúp và tỉ mỉ chú tâm để cố nhớ bất cứ điều gì có thể về buổi sáng đó. Một cách cẩn trọng để không làm xáo trộn thứ gì, anh lần bước ngược trở lại. Những gì anh sẽ làm để tái hiện lại; một cơ hội để dựng lại ngày hôm nay từ đầu. Thậm chí, anh có thể làm bỏng mấy ngón tay rồi làm đổ bột một lần nữa, giá mà mọi chuyện có thể trở lại.
Một lần nữa, anh quay trở lại với nhiệm vụ được giao, nhưng không có điều gì dường như khác với những điều anh nhớ. Không có gì thay đổi. Anh đến chỗ chiếc bàn mà Missy đang bận rộn. Cuốn sách đang mở ở trang mà cô bé đang tô màu, một bức hình cô gái da đỏ bộ lạc Multnomah đang dở dang. Bút màu vẫn còn đó, mặc dù cây màu đỏ yêu thích của Missy đã biến mất. Anh bắt đầu nhìn quanh dưới đất xem nó có rớt ở đâu không.
“Nếu anh tìm cây bút màu đỏ thì chúng tôi đã tìm thấy nó đằng kia, cạnh cái cây,” Dalton lên tiếng, chỉ về phía bãi đậu xe. “Chắc cô bé đã đánh rơi nó khi đang giằng co...” Giọng anh bỏ lửng.
“Sao anh biết con bé giằng co?” Mack chất vấn.
Viên cảnh sát lưỡng lự, nhưng rồi lại đáp một cách gần như miễn cưỡng. “Chúng tôi đã tìm thấy một chiếc giày của nó gần đó, trong bụi cây mà chắc là bị văng ra. Lúc ấy, anh không có ở đây nên chúng tôi đã nhờ con trai anh nhận diện.”
Hình ảnh con gái mình chống trả lại một con quái vật bệnh hoạn như một cú đấm vào bụng. Gần như ngã gục trước cái ác đột ngột chực bóp nghẹt mình, Mack tựa vào bàn để khỏi ngất đi hay là nôn thốc ra. Lúc ấy, anh mới nhận ra một chiếc kẹp con bọ rùa còn đính vào sách. Anh chợt tỉnh ra như ai đó vừa dí muối ngửi vào mũi mình.
“Của ai vậy?” anh hỏi Dalton, chỉ chiếc kẹp.
“Của ai vậy?”
“Chiếc kẹp con bọ rùa này! Ai cài nó vào đó?”
“Chúng tôi giả định là của Missy. Anh định bảo chúng tôi rằng chiếc kẹp không nằm đó sáng nay?”
“Tôi dám chắc,” Mack quả quyết đanh thép. “Con bé không có thứ gì như thế. Tôi hoàn toàn quả quyết sáng nay không có nó ở đây!”
Cảnh sát viên Dalton đã gọi bộ đàm, và trong mấy phút giới hình sự đã quay lại thu giữ chiếc kẹp.
Dalton lôi Mack ra một bên để giải thích. “Nếu những gì anh nói là chính xác, thì chúng tôi giả định rằng kẻ tấn công Missy đã cố ý bỏ nó lại đây.” Anh ngừng lại rồi nói thêm: “Ông Phillips, đây có thể là tin vui hoặc tin buồn.”
“Tôi không hiểu,” Mack đáp.
Viên cảnh sát lại ngập ngừng, cố gắng quyết định xem có nên nói với Mack điều anh đang nghĩ không. Anh lục tìm ngôn từ thích hợp. “Tin vui là có khi chúng tôi tìm được chứng cứ từ đó. Nó là thứ duy nhất chúng tôi có được để liên kết hắn với hiện trường này.”
“Thế còn tin buồn?” Mack nín thở.
“Tin buồn - mà tôi không định nói là vụ này, nhưng những kẻ bỏ lại thứ gì đó như thế này thường có một mục đích để làm vậy, và nó thường có nghĩa rằng chúng đã từng làm vậy.”
“Anh nói sao?” Mack ngắt lời. “Rằng tên này là như kiểu giết người hàng loạt? Đây có phải là dấu hiệu hắn để lại để chứng tỏ về hắn, giống như để đánh dấu lãnh địa phải không?”
Mack đang tức giận và nhìn mặt Dalton thì thấy rõ anh đang hối tiếc vì đã đề cập chuyện đó. Nhưng trước khi Mack kịp nguyền rủa, Dalton nhận được điện từ chiếc bộ đàm đeo ở thắt lưng gọi cho anh từ văn phòng FBI địa phương tại Portland, Oregon. Mack không chịu đi và lắng nghe khi một phụ nữ xưng là mật vụ. Cô yêu cầu Dalton miêu tả chi tiết chiếc kẹp. Mack đi theo viên cảnh sát đến chỗ nhóm hình sự đã thiết lập khu vực làm việc. Chiếc kẹp được đựng bên trong túi Ziploc, và đứng ngay sau nhóm này, anh nghe lỏm Dalton cố hết sức miêu tả chiếc kẹp.
“Đó là một chiếc kẹp ghim hình con bọ rùa được kẹp vào trong mấy trang sách tô màu, giống như mấy chiếc kẹp phụ nữ cài ve áo, tôi nghĩ vậy.”
“Vui lòng miêu tả màu sắc và số chấm trên con bọ rùa,” giọng hướng dẫn trên bộ đàm.
“Để xem,” Dalton nói, mắt dí vào cái túi. “Đầu màu đen với... một cái đầu con bọ rùa. Còn thân màu đỏ, các cạnh màu đen. Có hai chấm đen bên thân trái nếu nhìn từ dưới lên... đầu xoay lên trên. Có ý nghĩa gì không?”
“Tốt lắm. Nói tiếp đi,” giọng nói cất lên một cách kiên nhẫn. “Còn bên phải con bọ rùa có ba chấm, vậy là năm tất cả.” Có một khoảng ngưng. “Anh có chắc có năm chấm không?”
“Thưa, có năm chấm.” Anh nhìn lên và thấy Mack, người đã nhích lên bên cạnh để nhìn kỹ hơn, nhìn vào mắt mình, rồi nhún vai như ý nói: “Mấy chấm thì ai quan tâm...”
“Ok, bây giờ nhé, cảnh sát viên Dabney...”
“Thưa, Dalton, Tommy Dalton.” Anh lại nhìn lên Mack rồi đưa mắt đi.
“Xin lỗi, cảnh sát viên Dalton. Anh làm ơn lật chiếc kẹp lên rồi cho tôi biết có gì dưới đáy hay phía dưới con bọ rùa.”
Dalton lật chiếc túi lại rồi nhìn cẩn thận. “Có cái gì đó khắc dưới đáy, đặc vụ... à, tôi chưa biết chính xác tên chị.”
“Wikowsky, đọc sao viết vậy. Có chữ cái hay số gì không?”
“Để tôi xem nào. Vâng, tôi nghĩ chị nói đúng. Hình như có số model. Ừm... C... K... 1-4-6, tôi nghĩ vậy, ừ, Charlie, Kilo, 1, 4, 6. Khó nhìn rõ qua cái túi.
Đầu kia im lặng. Mack thì thầm với Dalton: “Hỏi chị ta lý do hay là ý nghĩa cái đó. Dalton ngập ngừng rồi nói. Đầu kia lại im lặng lâu hơn.
“Wikowsky? Chị còn đó không?”
“Ừ, tôi đây.” Đột nhiên giọng nói nghe mệt mỏi và trống rỗng. “Này, Dalton, anh có đang ở chỗ nào để chúng ta nói chuyện riêng không?”
Mack hăm hở gật đầu và Dalton hiểu ý. “Chờ chút.” Anh đặt cái túi đựng kẹp xuống rồi di chuyển ra ngoài, cho phép Mack đi theo. Dù gì Dalton cũng đã vượt qua các qui tắc đối với anh ta rồi.
“Ừ. Rồi đó. Nói tôi nghe xem con bọ rùa là sao vậy,” anh thắc mắc.
“Chúng tôi đang cố tóm tên này bốn năm nay rồi, dò theo hắn qua hơn chín tiểu bang rồi; hắn vẫn luôn liên tục đi về hướng Tây. Hắn được đặt biệt danh là Tên Sát Gái, nhưng chúng tôi chưa hề tiết lộ chi tiết về con bọ rùa cho báo chí hay bất cứ ai, cho nên làm ơn giữ kín điều đó. Chúng tôi cho rằng hắn chịu trách nhiệm về việc bắt cóc và sát hại ít nhất bốn trẻ em cho đến giờ, tất cả là bé gái, tất cả đều dưới mười tuổi. Mỗi lần hắn lại thêm một chấm vào con bọ rùa, cho nên đây là vụ thứ năm. Hắn luôn bỏ lại chiếc kẹp đâu đó tại hiện trường, tất cả đều cùng một số model giống như hắn đã mua một
hộp kẹp, nhưng chúng tôi không dò được kẹp xuất phát từ đâu. Chúng tôi chưa tìm được thi thể của bất kỳ bé nào trong số bốn bé, và mặc dù bên hình sự chưa kết luận điều gì, chúng tôi có lý do để tin rằng không một bé nào sống sót. Mỗi vụ án đều xảy ra tại hoặc gần một khu vực cắm trại, có công viên quốc gia hoặc khu bảo tồn gần đó. Kẻ đột nhập dường như là một tay thợ rừng hay dân đi núi lão luyện. Trong mỗi vụ, hắn hầu như không để lại chút dấu vết gì - ngoại trừ chiếc kẹp.”
“Còn chiếc xe thì sao? Chúng tôi có bản miêu tả khá chi tiết chiếc xe tải màu xanh mà hắn lái đi.”
“Ồ, rồi anh sẽ tìm ra thôi. Nếu đúng là tên này thì chiếc xe ắt được đánh cắp cách đây một, hai ngày, sơn lại, chất đồ đạc dã ngoại, rồi sẽ được dọn sạch.”
Khi lắng nghe cuộc nói chuyện của Dalton với đặc vụ Wikowsky, Mack cảm thấy tia hy vọng cuối cùng của mình trôi đi. Anh ngồi sụp xuống đất và vùi mặt vào đôi bàn tay. Có một ai trên đời mệt mỏi như anh lúc này không? Lần đầu tiên từ khi Missy mất tích, anh cho phép mình cân nhắc những khả năng khủng khiếp, và một khi đã bắt đầu, anh không dừng lại được; những sự mường tượng về thiện và ác trộn lẫn vào nhau trong một cuộc diễu hành kinh hoàng nhưng câm lặng. Thậm chí, anh cố thoát ra khỏi những hình ảnh ấy cũng không được. Một số là những ảnh chụp lướt nhanh đầy kinh hãi của tra tấn và đau đớn; của quái vật và quỷ sứ độc ác nhất có móng tay nhọn của dây thép gai và những cú vuốt ve của dao cạo; hình ảnh Missy thét gọi bố và không ai trả lời. Và pha trộn xuyên suốt những hình ảnh rùng rợn này là hình ảnh lướt nhanh các ký ức khác; chiếc nôi có cái ly Missy-sippy như cả nhà vẫn gọi; cô bé hai tuổi bị say vì ăn quá nhiều bánh chocolate; và một hình ảnh thật mới gần đây khi cô bé ngủ say trong tay bố. Những hình ảnh không ngớt. Anh sẽ nói gì trong tang lễ cô bé? Anh nói gì được với Nan? Làm sao lại ra nông nỗi này? Chúa ơi, làm sao lại ra nông nỗi này?
***
Vài giờ sau, Mack và hai con lái xe về khách sạn tại Joseph mà đã trở thành căn cứ để mở rộng tìm kiếm. Những người chủ đã tử tế tặng một phòng cho họ và khi dọn vài thứ vào phòng, anh bắt đầu cảm thấy kiệt sức. Anh đã chấp nhận với vẻ biết ơn khi cảnh sát viên Dalton đề nghị đưa các con anh đến một hiệu ăn địa phương để ăn uống và giờ đây ngồi ở mép giường, anh bị cuốn đi vô vọng trong một nỗi tuyệt vọng tàn nhẫn và cuồn cuộn ngày càng dâng cao, chậm rãi xô đến và cuốn đi. Những tiếng thổn thức và rên rỉ tan nát hồn từ trong cõi lòng chợt trào dâng. Và Nan đã đến với anh lúc ấy. Hai con người yêu thương nát vụn, họ ôm lấy nhau rồi khóc, Mack trút nỗi buồn đau còn Nan cố giữ lấy anh.
Đêm đó, Mack ngủ chập chờn khi những hình ảnh liên tục dội vào anh, như những con sóng không tiếc thương nện vào bờ đá. Cuối cùng, anh buông xuôi, ngay trước lúc bình minh bắt đầu báo hiệu sự ló dạng. Anh không nhận ra. Trong một ngày anh đã dốc hết cả cảm xúc của một năm trời, và giờ đây anh cảm thấy tê dại, lênh đênh trong một thế giới chợt vô nghĩa mà tưởng chừng như nó sẽ vĩnh viễn màu xám.
Sau khi Nan phản đối dữ dội, họ nhất trí tốt nhất là nàng về nhà với Josh và Kate. Mack sẽ ở lại để giúp bất cứ điều gì có thể, và để ở gần, phòng hờ. Đơn giản anh không thể ra đi, khi con bé biết đâu vẫn còn ở ngoài đó, cần đến anh. Tin tức lan nhanh và bạn bè đã đến để giúp anh gói ghém mọi thứ đồ đạc về lại Portland. Sếp anh gọi điện, đề nghị giúp đỡ mọi cách trong khả năng và động viên Mack nán lại càng lâu càng tốt. Mọi người quen biết đều cầu nguyện.
Các phóng viên, với các nhiếp ảnh gia đi cùng, bắt đầu xuất hiện suốt buổi sáng. Mack không muốn đối diện với họ hay ống kính của họ, nhưng sau khi được hướng dẫn anh đã dành thời gian để trả lời các câu hỏi của họ trong bãi đậu xe, biết rằng việc xuất hiện có thể giúp được rất nhiều cho cuộc tìm kiếm Missy.
Anh giữ kín chuyện cảnh sát viên Dalton đã phá lệ với anh, và Dalton đền ơn bằng cách tiếp tục cho anh biết tin nội bộ. Jesse và Sarah, sẵn lòng làm bất kỳ điều gì, luôn chuẩn bị sẵn sàng để giúp
gia đình họ và các bạn bè đến phụ giúp. Họ cất được gánh nặng ghê gớm của việc giao tiếp với công chúng cho cả Nan và Mack và dường như có mặt khắp nơi trong khi khéo léo thêu dệt những sợi chỉ bình an vào giữa trận xáo động cảm xúc.
Bố mẹ Emil Ducette lái xe từ tận Denver đến để giúp Vicki và mấy đứa nhỏ về nhà an toàn. Emil, với sự giúp đỡ của cấp trên, đã quyết định nán lại để tìm cách giúp viên công vụ, giúp Mack nắm thông tin về phía họ. Nan, người nhanh chóng kết thân với Sarah và Vicki, đã chuyển sang giúp bé J.J., rồi chuẩn bị cho các con mình quay về Portland. Rồi khi nàng kiệt sức, vốn thường xuyên, Vicki hoặc Sarah lúc nào cũng có mặt để cùng khóc và cầu nguyện.
Khi rõ ràng nhu cầu về sự trợ giúp của họ lắng xuống, gia đình Madisons thu dọn địa điểm của họ rồi đến để ứa nước mắt tạm biệt trước khi đi về hướng Bắc. Khi Jesse ôm Mack thật lâu, anh thì thầm rằng họ sẽ gặp lại, và anh sẽ cầu nguyện cho tất cả mọi người. Sarah, nước mắt lăn dài trên má, chỉ hôn lên trán Mack rồi ôm lấy Nan, người lại bật khóc và than van. Sarah hát một bài gì đó, lời lẽ Mack không nghe rõ, nhưng nó làm vợ anh trấn tĩnh cho đến khi nàng đủ bình tâm để Sarah lên đường. Mack thậm chí không nhìn nổi khi đôi vợ chồng ấy bước đi.
Khi gia đình Ducette đã sẵn sàng lên đường, Mack dành một phút cám ơn Amber và Emmy đã động viên và giúp đỡ gia đình mình, nhất là khi chính mình không thể. Josh đã khóc chào tạm biệt; cậu không còn can đảm nữa, ít nhất là ngày hôm nay. Kate, ngược lại, đã trở nên một tảng đá, bận rộn giúp mọi người kiểm tra để lưu địa chỉ và email của nhau. Thế giới của Vicki đã bị chấn động bởi các biến cố này, và giờ đây Nan nhìn cô dò xét khi nỗi buồn chực cuốn trôi cô đi. Nan ôm lấy cô, vuốt tóc và thầm thì những lời cầu nguyện vào tai, cho đến khi cô đủ bình tâm để bước ra xe đang chờ.
Đến trưa, tất cả các gia đình đã lên đường. Maryanne lái xe đưa Nan và các con về nhà nơi họ hàng đang chờ để chăm sóc và động viên họ. Mack và Emil đi cùng cảnh sát viên Dalton, người giờ đây chỉ gọi là Tommy, đến thị trấn Joseph bằng xe của Tommy. Tại đó, họ mua bánh mì sandwich, mà cũng chẳng đụng đến, rồi lái đến đồn
cảnh sát. Tommy Dalton là cha của hai cô con gái mà đứa lớn chỉ năm tuổi, cho nên dễ hiểu vụ này tác động một cách đặc biệt đến anh. Dalton tỏ ra hết sức tử tế và lịch sự với những người bạn mới, nhất là Mack.
Giờ đây đến phần khó khăn nhất, chờ đợi. Mack cảm thấy như mình đang chuyển động chậm trong mắt của một cơn bão các hoạt động đang diễn ra quanh mình. Các báo cáo đổ về từ khắp nơi. Thậm chí Emil cũng bận rộn kết nối với những người và những chuyên gia anh biết.
Đoàn công tác FBI đến vào giữa buổi chiều từ các văn phòng địa phương tại ba thành phố. Rõ ràng ngay từ đầu rằng người phụ trách là đặc vụ Wikowsky, một phụ nữ thanh mảnh đầy nhiệt huyết và năng động, một người mà Mack có cảm tình ngay. Cô công khai đáp lại thiện cảm và từ đó trở đi, không ai chất vấn sự hiện diện của anh, thậm chí trong những cuộc đối thoại hay báo cáo riêng tư nhất.
Sau khi đặt trung tâm chỉ huy của họ tại khách sạn, FBI mời Mack đến để phỏng vấn chính thức, một việc mà họ cho biết là thủ tục thường lệ trong các hoàn cảnh như thế này. Đặc vụ Wikowsky đứng dậy sau chiếc bàn giấy cô đang làm việc và chìa tay ra. Khi anh đưa tay ra để bắt, cô bắt bằng cả hai bàn tay và cười kiên nghị.
“Ông Phillips, tôi xin lỗi tôi chưa thể dành nhiều thời gian với anh cho đến nay. Chúng tôi hết sức bận rộn để thiết lập liên lạc với giới hành pháp và các cơ quan khác liên quan để cố gắng đưa Missy trở về bình an. Tôi rất tiếc chúng ta phải gặp nhau trong những điều kiện như thế.”
Mack tin cô. “Mack,” anh nói.
“Sao ạ?”
“Mack. Làm ơn, cứ gọi tôi là Mack.”
“À, Mack, vậy thì làm ơn gọi tôi là Sam. Viết tắt của Samantha, nhưng tôi lớn lên nghịch như con trai và nện những đứa nhóc nào dám gọi tôi là Samantha trước mặt.”
Mack không nhịn được cười, thư giãn một chút trong chiếc ghế trong khi nhìn cô nhanh tay lướt qua mấy cái bìa đầy giấy tờ. “Mack, anh có sẵn sàng trả lời vài câu hỏi không?” cô hỏi mà không nhìn lên.
“Tôi sẽ cố gắng hết sức,” anh đáp, cảm kích vì có cơ hội được làm bất cứ điều gì.
“Tốt! Tôi sẽ không buộc anh phải nói hết mọi chi tiết một lần nữa. Tôi có báo cáo về mọi thứ anh đã nói với mọi người, nhưng tôi có vài điều quan trọng để hỏi lại anh.” Cô nhìn lên, thẳng vào mắt.
“Bất kỳ việc gì tôi có thể giúp được,” Mack thú nhận. “Tôi đang cảm thấy vô dụng quá vào lúc này.”
“Mack, tôi hiểu cảm giác của anh, nhưng sự hiện diện của anh ở đây là quan trọng. Và tin tôi đi, không có một ai ở đây không quan tâm đến bé Missy của anh. Chúng tôi sẽ làm mọi việc bằng quyền lực của mình để đem cô bé về an toàn.”
“Cám ơn cô,” Mack chỉ nói được có thế, rồi anh nhìn xuống sàn. Các cảm xúc dường như chực trào dâng, và thậm chí một tí xíu ân cần cũng có thể phá tan sự dè dặt.
“Được rồi, thế này nhé... tôi đã có một cuộc trò chuyện không chính thức với anh bạn cảnh sát Tommy của anh, và anh ta đã nói với tôi về mọi điều mà anh và anh ta đã nói với nhau, cho nên anh không cần phải bảo vệ cho anh ấy. Anh ta hoàn toàn ổn thỏa trong hồ sơ của tôi.”
Mack nhìn lên và gật đầu, và lại mỉm cười với cô.
“Cho nên,” cô tiếp lời, “anh có nhận thấy ai lạ mặt quanh gia đình mình mấy ngày vừa qua không?”
Mack ngạc nhiên và ngồi lui vào ghế. “Cô định nói là kẻ đã rình mò chúng tôi?”
“Không, dường như hắn chọn nạn nhân một cách ngẫu nhiên, mặc dù tất cả bọn nhỏ đều trạc tuổi con gái anh với cùng màu tóc. Chúng tôi nghĩ hắn nhận ra bọn trẻ một, hai ngày trước rồi chờ và
theo dõi ở khoảng cách gần để tìm thời điểm cơ hội. Anh có thấy ai bất thường hoặc đi lạc chỗ gần hồ không? Có lẽ gần mấy phòng tắm?” Mack co lại khi nghĩ đến các con mình bị theo dõi, bị rình mò. Anh cố gắng vượt qua sự tưởng tượng của mình, nhưng một khoảng trống hiện ra. “Tôi xin lỗi, tôi không nhớ ra được...”
“Ông có dừng lại ở đâu đó trên đường đến khu cắm trại, hay nhận ra ai lạ mặt khi đang đi dã ngoại hay ngắm cảnh trong khu vực không?”
“Chúng tôi đã dừng tại thác Multnomah trên đường đến đây, và chúng tôi đã đi khắp khu vực này ba ngày qua, nhưng tôi không nhớ có nhìn thấy một ai đó bất thường. Ai mà tưởng tượng được...?”
“Đúng vậy, Mack, cho nên đừng hành hạ mình. Biết đâu đầu óc rồi sẽ nhớ ra. Cho dù chi tiết vụn vặt hay vô bổ đến đâu, làm ơn cho chúng tôi biết.” Cô dừng lại để xem một tờ giấy khác trên bàn. “Còn chiếc xe tải màu xanh quân sự. Anh có nhận ra thứ gì như vậy trong lúc ở đây không?”
Mack vắt trí nhớ. “Tôi thật tình không thể nhớ có nhìn thấy thứ gì như vậy.”
Đặc vụ Wikowsky tiếp tục hỏi Mack mười lăm phút nữa nhưng không thể moi trong trí nhớ của anh được thứ gì hữu ích. Cuối cùng, cô gấp sổ lại và đứng lên, chìa tay ra. “Mack, một lần nữa, tôi rất tiếc về việc Missy. Nếu có tin gì, tôi sẽ đích thân cho anh biết ngay tức khắc.”
***
Lúc 5 giờ chiều, bản báo cáo đầy hứa hẹn đầu tiên rốt cuộc được gửi về, từ chốt chặn Imnaha. Như đã hứa, đặc vụ Wikowsky tìm Mack ngay lập tức và cho anh biết chi tiết. Hai cặp vợ chồng đã gặp một chiếc xe tải màu xanh trông giống xe quân sự trùng khớp với mô tả về chiếc xe mà mọi người đang tìm kiếm. Họ đang thăm dò một số địa điểm cũ tại Nez Perce thuộc rừng quốc gia 4260 nằm tại một trong những khu vực xa xôi nhất của khu bảo tồn quốc gia, và đang trên đường đi ra thì đối mặt với chiếc xe ấy, ngay phía Nam
chỗ tiếp giáp của NF 4260 và NF 250. Bởi vì đoạn đường đó chủ yếu là một làn xe, họ phải lùi xe lại một chỗ an toàn để chiếc xe tải đi qua. Họ nhận thấy chiếc xe tải có một số bình ga đằng sau, cộng với khá nhiều dụng cụ cắm trại. Điều khác lạ là người đàn ông đã cúi về phía ghế hành khách như thể đang tìm kiếm thứ gì trên sàn xe, sụp mũ xuống thấp, và mặc một chiếc áo khoác lớn giữa ngày nóng, cứ như thể anh ta đang sợ họ. Họ chợt cười xem như gặp một tay dân quân.
Lúc bản báo cáo được thông báo với cả nhóm, sự căng thẳng trong đồn dâng lên. Tommy đến để cho Mack biết rằng thật không may là mọi điều anh tìm hiểu được cho đến lúc ấy đều khớp với phương thức hành động của Tên Sát Gái - đi về hướng những vùng xa mà cuối cùng hắn có thể đi bộ. Rõ ràng hắn biết hắn đang đi đâu, vì địa điểm mà hắn bị nhận diện nằm cách biệt hẳn với đường mòn. Không may cho hắn là có người khác cũng đi rất xa về phía đó.
Do buổi tối đến nhanh, mọi người bắt đầu thảo luận căng thẳng về hiệu lực của một cuộc truy lùng ngay lập tức hay tạm ngưng đến sáng. Bất chấp quan điểm thế nào, dường như mọi người góp tiếng nói đều bị tác động sâu sắc trước tình cảnh ấy. Một điều gì đó trong tim của hầu hết con người đều đơn giản không thể chịu đựng được nỗi đau gây ra cho kẻ vô tội, nhất là trẻ em. Ngay cả những kẻ tha hóa đang thi hành án trong những trại cải huấn tồi tệ nhất cũng thường căm giận những tên gây đau khổ cho trẻ em. Ngay cả trong một thế giới tương đối như thế về đạo đức, làm hại trẻ em vẫn bị xem là hoàn toàn sai trái. Chấm hết!
Đứng gần cuối phòng, Mack bồn chồn lắng nghe cuộc tranh cãi dường như chỉ phí thời gian. Anh như sẵn sàng ra tay bắt cóc cả Tommy nếu cần và tự mình truy đuổi thủ phạm. Từng giây như thể đều có ý nghĩa.
Mặc dù Mack có cảm giác lâu hơn, các đơn vị và nhân sự đều nhanh chóng nhất trí, một cách đồng lòng, khởi sự truy lùng ngay sau khi thu xếp được một vài việc. Mặc dù không có nhiều đường ra khỏi khu vực đó - và các chốt chặn đã được lập ngay lập tức để ngăn chặn khả năng này - mọi người có một mối quan tâm rất thực
tế là một tay đi rừng giỏi có thể bí mật vượt chốt để vào rừng hoang Idaho về phía Đông hoặc tiểu bang Washington về phía Bắc. Trong khi cảnh sát tại các thị trấn Lewiston, Idaho và Clarkston, Washinton được liên lạc và thông báo tình hình, Mack nhanh chóng gọi Nan để cập nhật cho nàng rồi đi cùng với Tommy.
Đến giờ này anh chỉ còn một câu cầu nguyện: “Lạy Chúa, làm ơn, làm ơn, làm ơn lo cho Missy của con. Giờ này con không thể.” Nước mắt anh chảy dài trên má và rơi xuống áo sơ mi.
***
Đến 7h30 tối, đoàn xe tuần tra, xe đa dụng của FBI, xe tải chở chó trong cũi, và một số xe kiểm lâm lao về hướng xa lộ Imnaha. Thay vì quẹo về phía Đông đến đường Núi Wallowa, vốn dẫn thẳng vào khu bảo tồn quốc gia, họ đi tiếp trên đường Imnaha về hướng Bắc. Rốt cục họ đi theo đường Imnaha Hạ và cuối cùng là đường Cồn Vú để vào khu bảo tồn.
Mack mừng vì anh đang đi theo một người rành vùng này. Dường như thỉnh thoảng đường Cồn Vú lại rẽ ra cùng lúc mọi hướng. Hình như người nào đặt tên mấy con đường này đã cạn ý tưởng, hay là bị mệt, hay là say nên bắt đầu đặt tên Cồn Vú cho xong việc để về nhà.
Các con đường, với các đoạn chữ chi hẹp thường xuyên chạy dọc theo mép dốc dựng đứng, trở nên càng bất trắc trong đêm tối như bưng. Hành trình chậm dần một cuộc bò trườn. Cuối cùng, họ vượt qua được vị trí người ta nhìn thấy chiếc xe tải xanh lần cuối, và một dặm sau đó thì đến nơi tiếp giáp mà NF 4260 đi tiếp về Bắc - Đông bắc còn NF 250 đi về Đông Nam. Tại đó, như đã định, đoàn xe chia làm hai, với một nhóm nhỏ đi về hướng Bắc lên trên 4260 với đặc vụ Sikowsky, còn nhóm còn lại, gồm Mack, Emil và Tommy, đi về hướng Đông Nam trên đường 250. Sau một vài dặm đường gay go nữa, nhóm sau này lại chia ra tiếp; Tommy và một chiếc xe tải chở chó đi tiếp theo đường 250 mà theo bản đồ con đường sẽ tận cùng, và những người còn lại đi theo hướng Chính Đông hơn xuyên qua công viên theo đường NF 4240 đến khu vực sông Temperance.
Đến lúc này, mọi nỗ lực tìm kiếm bị chậm lại hơn nữa. Những người truy lùng giờ đây đi bộ và được trang bị đèn pha loại mạnh để tìm kiếm dấu vết các hoạt động mới xảy ra trên các con đường - bất cứ điều gì cho thấy khu vực họ đang dò xét không phải là một vùng đất hoang.
Gần hai giờ sau, trong khi đang di chuyển chậm như sên về phía cuối đường 250, Dalton nhận được một cuộc gọi từ Wikowsky. Nhóm của cô đã gặp may. Khoảng mười dặm từ chỗ tiếp giáp nơi họ tách ra, một con đường không tên từ 4260 chạy thẳng lên phía bắc khoảng hai dặm. Con đường này khó mà nhìn thấy và hết sức hoang phế. Lẽ ra họ cũng đã hoàn toàn bỏ qua không nhìn thấy nó, may mà một người trong nhóm truy tìm đã lia đèn pin trúng một cái nắp đậy trục bánh xe nằm cách đường chính khoảng năm mươi bộ. Anh ta nhặt nó lên vì tò mò và phát hiện ra bên dưới lớp bụi đường là đầy những vệt sơn xanh. Chiếc nắp chụp này ắt là đã văng ra khi chiếc xe tải bị giằng xóc bởi một trong nhiều các ổ gà to tướng khắp trên đường.
Nhóm của Tommy lập tức quay lại ngay. Mack muốn kìm lại tia hy vọng lại bắt đầu nhen nhóm trong anh rằng Missy có lẽ vẫn còn sống, bởi một phép màu nào đó, nhất là khi tất cả những gì anh biết đều nói lên viễn cảnh ngược lại. Hai mươi phút sau, một cuộc gọi nữa từ Wikowsky; lần này thông báo rằng họ đã tìm được chiếc xe tải. Trực thăng và các máy bay tầm soát không bao giờ nhìn thấy nó từ trên trời được vì nó được che kín hệt như đang nằm cẩn thận dưới một mái lán lợp bởi cành cây và bụi rậm.
Nhóm của Mack mất gần ba giờ mới đến được chỗ nhóm đầu tiên và khi ấy thì mọi việc đã xong. Bọn chó đã làm những việc còn lại, khám phá ra một con đường mòn săn bắn chạy hơn một dặm xuống một thung lũng nhỏ ẩn kín. Tại đó họ phát hiện ra một cái chòi nhỏ xiêu vẹo nằm cách mép một cái hồ hoang sơ chừng nửa dặm. Một con suối nhỏ cách chừng trăm bộ đổ nước xuống hồ. Chừng một thế kỷ trước chắc đây là nhà của một người khai hoang. Căn chòi có hai phòng khá lớn; đủ cho một gia đình nhỏ ngụ cư. Từ đó đến nay,
dường như nó trở thành chỗ tá túc cho thợ săn vãng lai hoặc phường săn bắn trộm.
Khi Mack và bạn bè đến nơi, trời bắt đầu ửng những vệt xám trước lúc rạng đông. Một trại làm việc đã được dựng lên cách khá xa căn chòi nhỏ hoang tàn để bảo vệ hiện trường. Ngay lúc nhóm của Wikowsky tìm ra nơi này, chó nghiệp vụ đã được tung ra nhiều hướng để đánh hơi. Thỉnh thoảng, tiếng chó sủa lại cho thấy họ đã tìm được gì đó, để rồi dấu vết lại biến mất. Giờ đây tất cả đang quay lại tề tựu đã hoạch định chiến lược cho ngày hôm đó.
Đặc vụ Samantha Wikowsky đang ngồi tại bàn để đánh dấu bản đồ và uống nước trong một cái chai lớn thì Mack bước đến. Cô trao cho anh một nụ cười u ám mà Mack không đáp lại, và một chai nước khác mà anh nhận lấy. Đôi mắt cô buồn bã và dịu dàng nhưng giọng thì hoàn toàn mang âm sắc của công việc.
“Này, Mack.” Cô ngập ngừng. “Anh kéo ghế ngồi đi.”
Mack không muốn ngồi xuống. Anh cần làm gì đó để ngăn chặn cơn cồn cào trong bụng. Cảm nhận được sự rắc rối. Anh đứng chờ cô nói tiếp.
“Mack, chúng tôi đã tìm được một thứ, nhưng không phải là tin vui.”
Anh lóng ngóng tìm từ ngữ. “Cô có tìm thấy Missy không?” Đó là câu hỏi mà anh không muốn nghe câu trả lời, nhưng đang tuyệt vọng muốn biết.
“Không, chúng tôi không tìm thấy con bé.” Sam ngưng lại và bắt đầu đứng dậy. “Nhưng, tôi cần anh đến để nhận diện một thứ chúng tôi tìm được trong căn chòi cũ đó. Tôi cần biết đó có phải là...” cô kìm lại, nhưng đã quá muộn, “Ý tôi muốn biết, có phải là con bé hay không.”
Anh nhìn chằm chằm xuống đất. Anh lại cảm thấy như mình già cả triệu tuổi, dường như chỉ ước ao có cách gì mình biến chính mình thành một tảng đá vô cảm.
“Ồ, Mack, tôi xin lỗi,” Sam vừa tạ lỗi vừa đứng dậy. “Ta có thể làm việc này sau nếu anh muốn. Tôi cứ tưởng...”
Anh không thể nhìn cô và lại càng khó khăn hơn để tìm từ hầu thốt ra mà không ngã quỵ. Rồi anh lại cảm thấy như con đê chực vỡ. “Làm luôn đi,” anh nhỏ nhẹ lầm bầm. “Tôi muốn biết mọi điều có thể biết.”
Wikowsky lẽ ra phải ra hiệu cho những người kia bởi vì, mặc dù Mack không nghe thấy gì, anh đột nhiên thấy Emil và Tommy mỗi người khoác một tay anh khi họ cùng bước theo viên đặc vụ trên đoạn đường ngắn dẫn đến căn chòi. Ba người đàn ông, khoác tay nhau trong một mối đoàn kết lạ thường, sóng bước bên nhau, cùng tiến đến cơn ác mộng của riêng mỗi người.
Một thành viên của nhóm hình sự mở cửa căn chòi để họ vào. Ánh sáng đèn do máy phát điện chiếu rọi từng góc của căn phòng chính. Những hàng kệ trên tường, một chiếc bàn cũ, một vài chiếc ghế, và một chiếc sofa cũ mà ai đó đã vất vả lôi vào đây. Mack ngay lập tức nhìn thấy thứ mà anh đến để nhận diện, anh quay người lại, đổ gục vào cánh tay của hai người bạn và òa khóc không gì kiềm lại được. Trên sàn nhà, cạnh lò sưởi là chiếc váy đầm đỏ của Missy bị xé rách và nhuộm máu.
***
Đối với Mack, những ngày và những tuần tiếp theo đã trở thành một chuỗi lờ mờ tê dại của những cuộc phỏng vấn với cảnh sát và báo chí, nối tiếp bởi một cuộc truy điệu cho Missy bằng một chiếc quan tài nhỏ trống rỗng và một đại dương bất tận những gương mặt, tất cả đều buồn bã khi đi diễu qua, không ai biết nói gì. Trong những tuần tiếp sau đó nữa, một lúc nào đó Mack đã bắt đầu cuộc hòa nhập trở lại đời thường một cách chậm chạp và đau đớn.
Tên Sát Gái dường như được ghi nhận đã sát hại nạn nhân thứ năm, Melissa Anne Phillips. Cũng hệt như trong bốn trường hợp trước, giới chức đã không hề tìm thấy thi thể của Missy mặc dù các nhóm tìm kiếm đã sục sạo khu rừng quanh căn chòi nhiều ngày trời sau khi phát hiện. Như trong các trường hợp khác, tên sát nhân đã
không để lại dấu tay hay DNA. Hắn không để lại một chứng cứ hữu ích nào, chỉ mỗi chiếc kẹp. Như thể hắn là một bóng ma.
Đến một lúc, Mack đã cố thoát ra khỏi nỗi đau buồn của chính mình, ít nhất là với gia đình. Gia đình đã mất một đứa em và đứa con gái, giờ lại mất một người cha và một người chồng nữa thì thật không phải. Mặc dù không ai liên can có thể lành lặn trước thảm kịch này, Kate hình như là người bị tác động mạnh nhất, biến mất vào trong chiếc vỏ, như một con rùa tự bảo vệ chiếc ức mỏng manh của mình trước mọi thứ tiềm tàng hiểm nguy. Dường như cô bé chỉ thò đầu ra khi cảm thấy hoàn toàn an toàn, một cảm giác ngày càng hiếm hoi. Mack và Nan đều ngày càng lo lắng cho cô bé, nhưng dường như không tìm được từ ngữ gì thích hợp để xuyên thủng pháo đài mà cô đã xây quanh cõi lòng mình. Những cố gắng đối thoại thường biến thành những cuộc độc thoại một chiều, những âm thanh bật ngược lại từ gương mặt sỏi đá của cô. Cứ như thể một điều gì đó đã chết trong lòng cô, và giờ đây nó đang từ từ lây nhiễm đến cô từ bên trong, thỉnh thoảng trào ra thành những lời cay đắng hoặc sự im lặng vô cảm.
Josh tỏ ra khá hơn nhiều, một phần nhờ vào mối quan hệ mà cậu vẫn duy trì với Amber ở nơi xa. Email và điện thoại là một cách làm dịu nỗi đau của cậu và cô bé đã dành cho cậu thời gian và không gian để chia sẻ. Cậu cũng đang chuẩn bị tốt nghiệp trung học sau bao biến cố trong năm.
Nỗi đau đã giáng xuống và với những cấp độ khác nhau đã phủ lên mọi người có liên hệ cuộc sống với Missy. Mack và Nan đã cùng nhau vượt qua được cơn bão táp của tổn thất, và về một lẽ nào đó đã gắn bó với nhau hơn. Nan đã nói rõ ngay từ đầu, và nhắc đi nhắc lại, nàng không trách Mack bất kỳ điều gì về chuyện đã xảy ra. Cũng dễ hiểu là Mack mất nhiều thời gian hơn để khuây khỏa, cho dù là chút ít.
Thật quá dễ khi đắm mình trong những dằn vặt của trò chơi giá như , để rồi lại trôi tuột vào con dốc tuyệt vọng. Giá như anh quyết định không đưa các con đi du lịch; giá như anh không đồng ý khi chúng đòi bơi xuồng; giá như anh lên đường ngày hôm trước, giá
như, giá như, giá như . Việc anh không chôn cất được thi thể của Missy càng làm anh dằn vặt trong vai trò người cha. Việc Missy vẫn còn đâu đó cô đơn trong rừng ám ảnh anh hằng ngày. Giờ đây, sau ba năm rưỡi, Missy đã được chính thức giả định đã bị sát hại. Cuộc sống sẽ không bao giờ trở lại bình thường được nữa, chẳng có lúc nào thật sự bình thường. Thật trống rỗng khi vắng Missy.
Tấn bi kịch cũng đã làm tăng rạn nứt trong quan hệ của chính Mack với Chúa, nhưng anh lờ đi cảm giác xa cách ngày càng rõ này. Thay vào đó, anh trải mình trong một niềm tin khắc kỷ và vô cảm, và cho dù Mack cảm thấy chút khuây khỏa và bình an trong đó, nó không ngăn được những cơn ác mộng hình ảnh chân anh lún trong bùn và tiếng thét câm lặng của anh không cứu được Missy yêu dấu. Những giấc mơ tệ hại ngày càng thưa hơn, rồi tiếng cười và những khoảnh khắc vui tươi bắt đầu trở lại từ từ, nhưng anh cảm thấy tội lỗi về điều này.
Cho nên khi Mack nhận được thư của Cha bảo đến gặp người tại căn chòi, chuyện không hề đơn giản. Chúa có bao giờ viết thư không? Và tại sao lại là căn chòi - biểu tượng cho nỗi đau cùng cực của anh? Rõ ràng, Chúa có những nơi hay ho hơn để gặp anh. Một ý nghĩ đen tối cũng thoáng qua đầu anh rằng tên sát nhân biết đâu đang giễu anh, hoặc dụ anh đi khỏi để cả gia đình không còn ai che chở. Có lẽ tất cả chỉ là một trò chơi ác. Nhưng thế thì tại sao thư lại ký tên Cha?
Có cố đến đâu Mack cũng không thoát khỏi khả năng kinh khủng rằng lá thư có lẽ đến từ Chúa mà thôi, cho dù ý tưởng Chúa gửi thư chẳng hề phù hợp với sở học của anh về thần học. Trong trường dòng anh đã được dạy rằng, Chúa đã hoàn toàn chấm dứt mọi giao tiếp công khai với con người hiện đại, mong muốn họ chỉ việc lắng nghe và tuân theo Thánh kinh, dĩ nhiên, được diễn giảng thích đáng. Lời Chúa chỉ còn trên giấy, và thậm chí giấy đó cũng phải được diễn dịch và giải mã bởi các bậc giáo phẩm và trí thức thích đáng. Dường như việc giao tiếp trực tiếp với Chúa là một ân sủng độc quyền cho những con người cổ đại và chưa văn minh, còn mối giao tiếp của người phương Tây có giáo dục với Chúa đã được sắp đặt và kiểm
soát bởi giới trí thức. Không ai muốn Chúa trong một chiếc hộp, chỉ muốn trong một cuốn sách. Nhất là một cuốn đắt tiền được đóng bìa da và mạ vàng, hay điều ấy là sai quấy?
Càng nghĩ về chuyện đó, Mack càng hoang mang và bực dọc. Ai gửi lá thư quái quỉ đó? Cho dù là Chúa hay tên sát nhân hay một kẻ tinh nghịch nào đó thì điều đó có nghĩa gì? Nhìn ở góc độ nào anh cũng có cảm giác mình đang bị đùa giỡn. Mà dù sao đi nữa, vâng lời Chúa thì được lợi gì? Hãy nhìn xem đời mình đã ra sao.
Nhưng cho dù tức giận hay phiền muộn, Mack biết rằng mình cần một số câu trả lời. Anh nhận ra mình bị bế tắc, và những lời kinh hay lời ca trong thánh lễ Chủ nhật không giải quyết được gì nữa, nếu như điều đó đã từng có tác dụng. Duy linh ẩn dật dường như không thay đổi được gì trong đời sống những người anh quen biết, có lẽ ngoại trừ Nan. Nhưng nàng là người đặc biệt. Có lẽ Chúa thật sự yêu nàng. Nàng không phải là một kẻ rắc rối như anh. Anh thấy chán Chúa và đạo giáo của Chúa, chán hết thảy những hội đoàn tôn giáo mà dường như chẳng thay đổi được chút gì hay ảnh hưởng gì đến những sự thay đổi thật sự. Vâng, Mack muốn nhiều hơn, và anh sắp được nhận nhiều hơn cả những gì anh mặc cả.
• 5 •
NÀO AI ĐẾN DỰ DẠ YẾN
Chúng ta thường truất phế những chứng cứ dẫn đến sự thiểu nhược. Tức là, chúng ta bị thuyết phục mạnh mẽ bởi tính hợp lý từ nhận định của mình đến độ loại trừ chứng cứ nào không giúp ta kiên tín. Không một điều gì xứng đáng gọi là sự thật lại có thể đến bằng những phương cách như thế.
— MARILYNNE ROBINSON, Cái chết của Adam
Có những lúc ta chọn để tin một điều gì đó mà bình thường được xem là hoàn toàn phi lý. Điều đó không có nghĩa là nó thật sự phi lý, chỉ có điều chắc chắn nó không hợp lý. Có lẽ có một siêu hình: lý trí vượt ngoài các định nghĩa thông thường căn cứ trên luận lý của sự kiện hay dữ liệu, một điều gì đó chỉ hợp lý nếu bạn có thể nhìn thấy một bức tranh thực tế to lớn hơn. Có lẽ đó chính là nơi chốn của niềm tin.
Mack không chắc về nhiều điều, nhưng trong những ngày sau khi bị trượt ngã trên lối đi băng giá, có một lúc trong tâm can và trí não, anh đã tin rằng có ba cách lý giải hợp lý về lá thư. Hoặc thư đến từ Chúa, mà nghe thật vô lý, một trò đùa ác ý, hoặc một gì đó hung ác hơn nữa từ kẻ sát hại Missy. Dù gì thì lá thư vẫn chiếm lĩnh tâm tưởng của anh từng phút ban ngày và những giấc mơ về đêm.
Một cách bí mật, anh bắt đầu chuẩn bị kế hoạch để đi đến căn chòi vào cuối tuần sau. Thoạt đầu anh không nói với ai, kể cả Nan. Anh không có lời biện hộ nào thích đáng trong bất kỳ trường hợp nào nếu bị chất vấn sau khi nói ra, và anh lo rằng mình sẽ gặp bế tắc như thể bị nhốt vào phòng rồi quẳng luôn chìa khóa. Anh suy diễn rằng dù sao một cuộc đối thoại như thế chỉ mang lại thêm nỗi đau mà chẳng giải quyết gì. “Mình giữ kín cho riêng mình vì Nan,” anh tự nhủ. Vả lại, bàn về lá thư tức là thú nhận anh đã giữ những điều bí mật đối với nàng; những điều bí mật mà anh vẫn biện minh trong đầu mình. Đôi khi sự trung thực có thể hết sức rắc rối.
Tin tưởng vào sự đúng đắn của chuyến đi sắp tới, Mack bắt đầu tính cách để đưa gia đình đi khỏi nhà vào dịp cuối tuần mà không gây bất cứ sự hoài nghi nào. Có một khả năng nhỏ nhoi tên sát nhân đang định dụ anh ra khỏi thành phố, bỏ lại gia đình không ai che chở, và điều đó không thể chấp nhận được. Nhưng anh thấy bế tắc. Nan rất nhạy cảm đối với anh trong bất kỳ chuyện gì, và làm thế sẽ dẫn đến những câu hỏi mà anh chưa biết cách trả lời.
May thay cho Mack, chính Nan lại là người đưa ra một giải pháp. Nàng đang suy tính về chuyện đi thăm người chị và gia đình trên quần đảo San Juan, vùng biển khơi bang Washington. Anh rể của nàng là một nhà tâm lý học trẻ em, và Nan nghĩ rằng nếu được anh ấy giúp ý kiến chuyên môn về các hành vi phản kháng ngày càng trầm trọng của Kate thì thật hữu ích, nhất là khi cả nàng lẫn Mack đều không có tiến triển gì trong việc tiếp cận con bé. Khi nàng nêu ra ý định về chuyến đi, Mack háo hức hưởng ứng ngay.
“Em nên đi chứ,” là phản ứng của anh khi Nan bộc bạch. Đó không phải là câu đáp mà nàng mong chờ, và nàng đã nhìn anh hơi khác lạ. Anh lúng túng: “Ý anh thì anh nghĩ đó là một ý hay. Anh nhớ cả nhà chứ, nhưng anh ở một mình vài ngày không sao cả, đằng nào anh cũng có rất nhiều việc để làm.” Nàng thấy nhẹ nhõm, có lẽ dễ chịu vì kế hoạch chuyến đi đã mở ra quá dễ dàng.
“Em chỉ nghĩ tốt nhất là Kate được đi đâu đó vài ngày,” nàng nói thêm, và anh gật đầu đồng ý.
Một cú điện thoại cho chị của Nan và chuyến đi đã được thu xếp. Căn nhà chẳng mấy chốc lại nhộn nhịp. Josh và Kate đều vui; việc này sẽ kéo dài kỳ nghỉ xuân của chúng thêm một tuần. Chúng thích đến thăm những người anh em họ và dễ dàng ủng hộ ý tưởng này, mà thật ra chúng cũng chẳng có bất kỳ sự lựa chọn nào.
Mack bí mật gọi cho Willie và hỏi mượn chiếc xe Jeep hai cầu của người bạn trong lúc cố gắng một cách không thành công lắm trong việc không tiết lộ quá nhiều thông tin. Vì Nan dùng chiếc xe thùng, anh cần một chiếc khác thích hợp hơn chiếc xe nhỏ của mình để thi thố trên những đoạn đường giằng xóc ở khu bảo tồn, mà chắc hầu
như vẫn còn chìm trong cảnh khắc nghiệt của mùa đông. Yêu cầu khác lạ của Mack không tránh khỏi khiến Willie gạn hỏi, những câu hỏi mà Mack cố hết sức để trả lời một cách tránh né. Willie đã hỏi thẳng thừng có phải Mack định đi một chuyến đến căn chòi, Mack đáp rằng anh không thể trả lời câu hỏi ngay lúc đó nhưng sẽ giải thích đầy đủ khi Willie mang xe đến vào buổi sáng.
Cuối chiều thứ năm Mack ôm hôn tiễn Nan, Kate và Josh, rồi anh từ tốn bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi dài đến Đông Bắc Oregon - đến nơi ác mộng của mình. Anh suy luận rằng mình chẳng cần gì nhiều nếu Chúa đã mời gọi, nhưng để dự phòng, anh đã nạp vào bình cách nhiệt nhiều nước hơn cả mức cần thiết cho đoạn đường rồi lấy thêm một chiếc túi ngủ, một số nến, diêm và một vài dụng cụ thoát hiểm. Rõ ràng, anh có khả năng biến thành một tên đần độn hoặc mục tiêu của một trò đùa tai ác nào đó, nhưng lúc ấy anh chỉ việc lái về mà thôi. Một tiếng gõ cửa làm Mack giật mình trong lúc đang tập trung, và anh nhận ra đó là Willie. Cuộc đối thoại của họ ắt hẳn đủ phức tạp để khiến người bạn đến sớm. Mack nhẹ người vì Nan đã đi rồi.
“Tôi đây, Willie. Trong nhà bếp.” Mack gọi với.
Một giây sau, Willie thò đầu vào và lắc đầu nhìn đống hỗn độn Mack bày ra. Anh đứng dựa khung cửa và khoanh tay. “Tôi đã mang chiếc Jeep đến và đổ đầy xăng rồi, nhưng tôi không đưa chìa khóa chừng nào anh bạn chưa nói rõ chuyện gì đang xảy ra.”
Mack tiếp tục nhét đồ đạc vào mấy cái túi cho chuyến đi. Anh biết nói dối bạn vô ích, và anh cần chiếc Jeep. “Tôi quay lại căn chòi, Willie à.”
“Tôi cũng đoán như vậy mà. Điều tôi muốn biết là tại sao anh lại muốn quay lại đó, nhất là vào lúc này trong năm. Không biết chiếc Jeep có cõng nổi tụi mình lên đó không. Nhưng để dự phòng, tôi cất xích ở đằng sau biết đâu mình cần.”
Không nhìn bạn, Mack đi vào văn phòng, cạy nắp hộp thiếc nhỏ để lấy lá thư. Quay vào nhà bếp, anh trao cho Willie. Người bạn lật
ra rồi đọc thầm. “Trời, thằng quái gàn nào viết thư cho anh kiểu này vậy? Cha này là ai?”
“Anh biết đó, Cha - tên mà Nan ưa thích gọi Chúa.” Mack nhún vai, không biết nói gì nữa. Anh cầm lại lá thư rồi nhét vào túi áo sơmi.
“Khoan đã, anh không nghĩ đây là thư của Chúa thật đấy chứ?”
Mack dừng bước và xoay lại đối diện anh ta. Đằng nào anh cũng sắp đóng gói đồ đạc xong rồi. “Willie, tôi không biết nghĩ gì về việc này. Mới đầu, tôi nghĩ rằng đây là một trò chơi xỏ và tôi tức giận đến phát khùng. Có thể tôi không được tỉnh táo. Tôi biết nói ra nghe điên rồ, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy bị cuốn hút một cách kỳ lạ phải tìm cho ra vụ này. Tôi phải đi, Willie, nếu không thì tôi điên luôn.”
“Anh có nghĩ đến khả năng đây là tên sát nhân không? Nếu hắn dụ anh đến vì một lý do nào đó thì sao?”
“Dĩ nhiên tôi có nghĩ đến chuyện đó. Trong thâm tâm tôi cũng có phần chẳng ngạc nhiên nếu có chuyện đó. Tôi có món nợ phải thanh toán với hắn,” anh nói giọng dứt khoát rồi ngưng lại. “Nhưng khả năng đó cũng không hợp lý lắm. Tôi không nghĩ tên sát nhân lại ký thư này là Cha. Anh phải biết rất rõ gia đình tôi thì mới nghĩ ra chuyện đó được.”
Willie bối rối.
Mack nói tiếp: “Và không có ai biết rõ gia đình tôi đến mức ấy mà lại gửi một bức thư thế này. Tôi nghĩ chỉ có Chúa thôi... có lẽ.”
“Nhưng Chúa không làm những chuyện như thế. Ít ra tôi chưa bao giờ nghe Chúa gửi thư cho ai cả. Không phải Chúa không làm được, nhưng... anh hiểu ý tôi rồi đó. Mà tại sao Chúa muốn anh quay lại căn chòi? Tôi không nghĩ ra chỗ nào tệ hơn...” Sự im lặng treo giữa họ trở nên khó xử.
Mack dựa người vào quầy bếp phía sau và nhìn chằm chằm xuống sàn trước khi cất giọng. “Tôi không chắc, Willie. Trong thâm tâm tôi có phần muốn tin rằng Chúa quan tâm đến tôi đến mức gửi
thư cho tôi. Tôi rất hoang mang, sau bấy nhiêu thời gian. Tôi cảm thấy như chúng tôi đang mất Kate và điều đó làm tôi đau khổ muốn chết. Có lẽ chuyện xảy ra với Missy là sự phán xét của Chúa cho việc làm của tôi đối với bố tôi. Tôi không biết được.” Anh ngước nhìn vào mặt người đàn ông quan tâm đến anh hơn ai hết mà anh biết, ngoại trừ Nan. “Tôi chỉ biết tôi cần phải trở lại.”
Lại một sự im lặng giữa họ trước khi Willie lên tiếng trở lại. “Vậy chừng nào mình đi?”
Mack xúc động bởi người bạn sẵn sàng nhảy vào cơn điên của mình. “Cám ơn anh bạn, nhưng tôi rất cần làm chuyện này một mình.”
“Tôi biết anh sẽ nói vậy mà,” Willie vừa đáp vừa quay bước ra khỏi phòng. Một lát sau anh quay lại với một khẩu súng lục và một hộp đạn trong tay. Anh đặt nhẹ chúng lên quầy. “Tôi đoán là tôi không thể thuyết phục anh đừng đi, nên tôi nghĩ biết đâu anh cần đến thứ này. Tôi tin là anh biết cách dùng.”
Mack nhìn khẩu súng. Anh biết Willie có thiện ý và đang cố gắng giúp đỡ. “Willie, tôi không biết dùng. Ba mươi năm rồi tôi chưa cầm súng trở lại và bây giờ tôi cũng không định. Bài học của tôi trong đời là nếu dùng bạo lực để giải quyết một vấn đề thì tôi luôn gặp một vấn đề tệ hại hơn.”
“Nhưng nếu đó là tên giết hại Missy thì sao? Nếu hắn đang chờ anh trên đó thì sao? Khi ấy anh sẽ làm gì?”
Anh nhún vai. “Tôi thật lòng không biết, Willie. Chắc tôi sẽ thử thời vận vậy.”
“Nhưng anh vô phương tự vệ. Làm sao biết hắn nghĩ gì trong đầu, hay thủ sẵn trong tay. Cứ cầm đi, Mack.” Willie đẩy khẩu súng và đạn trên quầy về phía anh. “Anh đâu có bị bắt buộc phải dùng.”
Mack nhìn xuống khẩu súng và sau khi suy tính bèn từ tốn với lấy súng và đạn, cẩn thận nhét vào túi. “Ok, để dự phòng.” Rồi anh quay lại lấy thêm một số dụng cụ và với súng đã nạp đạn, bước ra xe
Jeep. Willie xách túi đồ lớn còn lại, thấy nặng hơn anh tưởng, vừa nhấc lên vừa kêu.
“Trời, Mack, nếu anh nghĩ là Chúa đang chờ ở đó thì đem đủ thứ đồ theo làm gì?”
Mack cười khá buồn “Tôi chỉ định mang dự phòng thôi. Chuẩn bị nếu sẽ có chuyện gì đó... hay chẳng có gì cả.”
Họ đi ra khỏi nhà đến chỗ lối đi nơi chiếc Jeep đang đậu. Willie rút chìa khóa trong túi ra trao cho Mack.
“Vậy,” Willie phá tan sự im lặng, “mọi người đâu rồi, còn Nan nghĩ gì khi anh đi đến căn chòi đó? Tôi không tưởng tượng được cô ấy hài lòng.”
“Nan và mấy đứa nhỏ đi thăm người chị cô ấy ở đảo, mà... tôi không nói với cô ấy,” Mack thú thật.
Willie ngạc nhiên ra mặt. “Gì! Anh chưa bao giờ giấu cô ấy điều gì. Tôi không ngờ anh nói dối cô ấy!”
“Tôi đâu có nói dối cô ấy,” Mack phản ứng.
“Bỏ qua cho tôi vì đã xía vào chuyện này,” Willie đáp trả. “Đúng rồi, anh đâu có nói dối cô ấy vì anh đâu có nói với cô ấy toàn bộ sự thật. Ừ thì cô ấy cũng sẽ hiểu hết thôi.” Willie nhướn mày.
Mack không đếm xỉa đến cơn bực dọc và bước lui vào trong phòng làm việc trong nhà. Trong ấy, anh tìm thấy một bộ chìa khóa dự phòng của xe hơi và nhà, ngập ngừng giây lát, anh cầm lấy chiếc hộp thiếc. Rồi anh quay trở ra đến chỗ Willie.
“Vậy anh nghĩ con người ấy trông ra sao?” Willie cười tủm tỉm khi anh tiến đến.
“Ai?” Mack hỏi.
“Chúa chứ ai. Anh nghĩ Ngài trông ra sao, nếu như Ngài xuất hiện? Tôi hình dung chắc anh sẽ làm cho mấy người đi dã ngoại sợ chết khiếp - anh sẽ hỏi xem có phải Ngài là Chúa không rồi bắt Ngài trả lời đủ thứ.”
Mack cười toe toét khi nghe ý đó. “Không biết nữa. Có thể Ngài là một nguồn sáng rực rỡ, hay là một bụi cây bốc lửa. Tôi thì lúc nào cũng hình dung Ngài là một ông cụ thật to lớn râu dài bạc phơ, giống như Gandalf trong Chúa tể của những chiếc nhẫn của Tolkien.”
“Này, nếu Chúa xuất hiện thì cho tôi gửi lời chào nhé,” Willie vừa nói vừa cười. “Bảo Ngài rằng tôi cũng có mấy câu hỏi riêng. Mack này, đừng có làm Ngài nổi giận nhé.” Cả hai cùng cười. “Nói nghiêm túc đấy,” Willie tiếp lời, “tôi lấy làm lo cho anh bạn. Giá mà tôi đi cùng, hay là Nan, hay là một ai đó. Hy vọng anh sẽ tìm thấy những gì cần tìm trên đó. Tôi sẽ cầu nguyện cho hai người.”
“Cám ơn nhé, Willie. Tôi quý anh lắm.” Anh vẫy chào trong khi Willie lùi ra khỏi lối đi. Mack biết anh bạn của mình sẽ giữ lời. Chắc là anh cũng cần đến tất cả những lời cầu nguyện có thể có được.
Anh dõi nhìn đến lúc Willie chạy qua khúc quanh rồi mất dạng, rồi rút lá thư trong túi áo ra đọc một lần nữa, rồi cất lại vào trong chiếc hộp thiếc nhỏ, đặt trên ghế sau cùng với các đồ đạc chất trên đó. Khóa cửa lại, anh quay vào nhà để trải qua một đêm không ngủ.
***
Từ mờ sáng thứ sáu, Mack đã ra khỏi thành phố theo đường I-84. Nan đã gọi điện đêm trước từ nhà chị gái báo tin cả gia đình đến nơi an toàn, và anh định bụng ít ra đến chủ nhật mới có một cú điện nữa. Đến lúc đó chắc anh đã trên đường về rồi, nếu như chưa về đến nhà. Anh đã chuyển tiếp cuộc gọi từ điện thoại nhà sang điện thoại di động để dự phòng, mặc dù không định nghe điện thoại khi đã vào khu bảo tồn.
Anh đi lại con đường đã đi ba năm rưỡi trước đó, với một vài đổi thay nho nhỏ: không có quá nhiều ổ gà và anh lướt qua thác Multnomah mà không ngắm nhìn. Anh đã dẹp bỏ mọi ý nghĩ về nơi ấy từ khi Missy mất tích, giam sâu chôn chặt cảm xúc tận đáy lòng.
Trên chặng đường dài đến hẻm núi, Mack bắt đầu cảm thấy một nỗi hoang mang càng lúc càng trỗi dậy. Anh cố tránh không nghĩ đến
việc đang làm và cố gắng luôn dấn bước, nhưng giống như trứng chọi đá, cảm xúc và nỗi sợ bị kìm nén bắt đầu tìm cách len ra. Mắt anh tối sầm và bàn tay siết chặt tay lái để chống lại sự thôi thúc quay xe về nhà mỗi khi đến khúc quanh. Anh biết mình đang lái thẳng vào chính giữa nỗi đau của mình, cơn lốc xoáy của nỗi đau lớn đã từng triệt hạ trong anh ý thức về sự sống. Những hình ảnh chớp nhoáng của ký ức và những khoảnh khắc cuồng dại nhói đau giờ đây ập đến thành từng đợt sóng, hòa cùng vị đắng và vị máu trong miệng.
Cuối cùng anh đến La Grande, dừng lại đổ xăng, rồi đi theo xa lộ 82 đến Joseph. Trước đó, anh đã tần ngần muốn dừng bước tìm Tommy nhưng rồi quyết định thôi. Càng ít người nghĩ anh là một tên lú lẫn điên rồ càng tốt, đổ xăng xong anh đi tiếp.
Xe cộ thưa thớt, vùng Imnaha và những con đường nhỏ khá trống trải và khô ráo vào mùa này, ấm hơn nhiều so với anh hình dung. Nhưng dường như càng lái lâu anh càng đi chậm, như thể căn chòi đang khước từ anh. Chiếc Jeep băng vào vùng tuyết vĩnh cửu để bắt đầu những dặm cuối cùng dẫn đến con đường mòn hướng đến căn chòi. Át cả tiếng rú của động cơ, anh nghe thấy cả tiếng lốp xe lì lợm nghiến vào tuyết và băng dày. Thậm chí sau mấy lần quẹo sai đường phải quay lui, khi Mack đậu xe lại ở đầu đường mòn, lúc ấy chỉ mới đầu giờ chiều.
Anh ngồi đó gần năm phút tự trách mình sao ngốc nghếch đến vậy. Mỗi dặm đường đi qua từ Joseph, ký ức lại quay về rõ ràng đến choáng ngợp, và bây giờ trí não anh biết chắc rằng mình không muốn đi thêm nữa. Nhưng sự thôi thúc từ bên trong lại không gì cưỡng được. Trong lúc tinh thần giằng xé, anh đưa tay cài áo khoác và với lấy đôi găng da.
Anh đứng đó nhìn xuống con đường, quyết định bỏ lại mọi thứ trong xe và đi bộ chừng cả dặm đường để đến hồ; ít nhất theo cách đó anh không phải vác theo thứ gì đi ngược trở lại lên đồi khi quay về, một điều mà giờ đây anh mong sắp diễn ra.
Trời đủ lạnh để không khí anh thở ra ngưng đọng lại quanh mình và tưởng chừng như nó sắp đóng băng. Cơn đau chất chứa trong bụng anh giờ đây khiến anh phát hoảng. Sau năm bước chân, anh dừng lại và ọe thốc ra mạnh đến độ ngã quỳ xuống đất.
“Cứu con với!” anh rên rỉ. Anh đứng dậy trên đôi chân run rẩy và dợm bước về phía chiếc xe. Rồi anh dừng lại và quay bước. Anh mở cửa sau rồi với tay vào sục sạo đến khi sờ thấy chiếc hộp thiếc. Anh cạy nắp hộp ra và tìm thấy thứ mình đang tìm kiếm, bức ảnh Missy mà anh yêu thích, rồi lấy nó ra cùng với bức thư. Đậy nắp lại, anh bỏ chiếc hộp lại trên ghế. Anh dừng một lát ngắm nhìn ngăn kéo trên xe. Cuối cùng, anh mở ra lấy khẩu súng của Willie, kiểm tra xem đạn đã nạp chưa rồi cài chốt an toàn. Đứng dậy, anh đóng cửa xe, với lấy áo khoác, nhét khẩu súng vào thắt lưng phía sau. Anh quay người nhìn con đường một lần nữa, nhìn tấm ảnh Missy một lần cuối trước khi nhét vào túi áo sơmi cùng với lá thư. Nếu người ta tìm thấy anh đã chết, ít nhất họ biết anh đang nghĩ đến ai.
Con đường mòn đầy bất trắc, những tảng đá đóng băng và trơn trượt. Mỗi bước đều phải tập trung trong khi đi xuống khu rừng rậm rạp. Cảnh vật yên ắng một cách khác lạ. Âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết và hơi thở của anh nặng nhọc. Mack bắt đầu có cảm giác mình bị theo dõi, và thậm chí một lần anh quay phắt lại xem có ai không. Anh càng muốn quay người bỏ chạy về chỗ chiếc xe Jeep thì đôi bàn chân dường như lại càng có ý riêng của chúng, quyết đi tiếp xuống dưới và đi sâu vào cánh rừng lờ mờ và càng lúc càng rậm rạp.
Đột nhiên có thứ gì đó di chuyển gần kề. Giật mình, anh đứng bất động, im lặng và cảnh giác. Tim đập thình thịch bên tai, miệng chợt khô khốc, anh từ từ với tay ra sau lưng rút súng ra khỏi thắt lưng. Bật chốt an toàn, anh nhìn chăm chú vào trong bụi cây thấp tối mò, cố dõi nhìn hay lắng nghe một thứ gì đó để giải thích cho tiếng động và làm mình bớt xáo động. Nhưng thứ gì đó đã chuyển động giờ đây đã ngừng. Nó đang chờ anh? Để chắc ăn, anh đứng bất động trong vài phút trước khi bắt đầu nhích tới trên con đường mòn về phía dưới, cố gắng càng yên lặng càng tốt.
Khu rừng dường như vây quanh anh và anh bắt đầu thắc mắc một cách sợ sệt liệu mình có đi sai đường không. Trong khóe mắt anh lại thấy có sự chuyển động và lập tức ngồi thụp xuống, nhìn xuyên qua tán cành thấp của một cái cây cạnh đó. Một thứ gì đó ma quái, như một cái bóng, đã luồn vào trong bụi rậm. Hay là anh tưởng tượng ra? Anh lại chờ đợi, không nhúc nhích một cơ bắp nào. Có phải Chúa không? Lòng anh đầy hoài nghi. Có lẽ một con thú? Anh không nhớ nổi trên này có sói, hươu hay nai sừng tấm có thể gây tiếng động. Rồi anh nghĩ đến điều mà anh vẫn tránh né: “Nếu tệ hơn thì sao? Nếu hắn đã và đang rình rập trên này thì sao? Nhưng để làm gì?”
Từ từ đứng dậy khỏi nơi ẩn nấp, súng vẫn trong tay, anh bước một bước về phía trước thì đột nhiên bụi rậm phía sau anh dường như bùng nổ. Mack quay phắt lại, kinh sợ và chuẩn bị chiến đấu để thoát thân, nhưng chưa kịp bóp cò thì anh nhận ra phần sau của một con lửng lao vụt đi lên trên con đường mòn. Anh từ từ thở ra một hơi thở từ nãy giờ nén lại không hề hay biết, hạ súng xuống rồi lắc đầu. Chàng Mack gan dạ chỉ còn là một cậu bé sợ sệt trong rừng. Cài lại chốt an toàn, anh nhét súng vào. “Có người mệt đấy,” anh nghĩ bụng trong khi thở ra nhẹ nhõm.
Hít một hơi sâu và thở ra chầm chậm, anh trấn tĩnh lại. Nhận định rằng mình đã hết sợ rồi, anh tiếp tục đi, cố gắng tỏ ra tự tin hơn cảm giác trong lòng. Anh hy vọng mình không vượt qua bao nhiêu dặm đường vô ích. Nếu Chúa sắp gặp anh ở đây, anh rất nôn nao muốn trút bỏ vài nỗi niềm chất chứa, dĩ nhiên là một cách tôn kính.
Sau vài lần rẽ lối, anh thoát khỏi khu rừng và bước ra khoảng trống. Xa xa dưới sườn đồi anh lại thấy nó - căn chòi. Anh đứng, nhìn nó, lòng rối bời cảm xúc và bấn loạn. Vẻ ngoài nó dường như chẳng có gì thay đổi ngoài tiết đông đã làm trụi lá cây cối và bức màn tuyết trắng bao trùm xung quanh. Căn chòi trông có vẻ chết chóc và trống rỗng, nhưng khi anh nhìn chằm chằm dường như trong khoảnh khắc nó biến thành một gương mặt quái quỷ, vặn vẹo trông một dung mạo xấu xí của quỷ sứ, nhìn ngược lại anh và thách thức anh dám tiến đến. Bất chấp cảm giác sợ hãi trào dâng, Mack
kiên quyết bước một trăm bộ cuối cùng về phía dưới đến trước hiên nhà.
Ký ức và nỗi kinh hoàng của lần cuối cùng đứng tại khung cửa này tràn về và anh ngập ngừng trước khi đẩy cửa. “Xin chào?” anh gọi, không quá lớn tiếng. Hắng giọng, anh gọi lại lần nữa, lần này lớn hơn. “Xin chào? Có ai ở đây không?” Giọng anh vang dội vào khoảng trống trong nhà. Cảm thấy gan lì hơn, anh bước hẳn qua khung cửa rồi dừng lại.
Khi mắt quen dần với bóng tối, anh bắt đầu nhận ra chi tiết của căn phòng bởi ánh sáng chiều lọt qua khung cửa sổ vỡ. Bước vào phòng chính, anh nhận ra cái ghế và cái bàn cũ. Mack không cưỡng lại được chính mình khi đôi mắt anh hướng về nơi mà anh không dám nhìn. Đã mấy năm rồi mà vết máu phai vẫn còn nhìn rõ mồn một trên ván gỗ gần lò sưởi nơi người ta tìm thấy chiếc áo của Missy. “Bố hết sức xin lỗi con, con ơi.” Nước mắt bắt đầu dâng lên trong mắt anh.
Rồi cuối cùng tim anh bùng nổ như một cơn thác lũ, tháo tung cơn tức giận tích tụ để nó chảy tràn trên thung lũng cảm xúc sỏi đá. Ngước mắt lên trời, anh bắt đầu hét lên những câu hỏi khổ đau. “Tại sao? Tại sao Chúa lại để xảy ra chuyện này? Tại sao người lôi tôi đến đây? Bao nhiêu nơi để gặp - tại sao lại ở đây ?” Con tôi bị giết hại chưa đủ sao? Người lại đùa với cả tôi nữa sao?” Trong một cơn cuồng nộ mù quáng, Mack chộp lấy chiếc ghế gần nhất và ném vào cửa sổ. Nó gãy tan. Anh nhặt một chân ghế lên rồi bắt đầu tàn phá mọi thứ trong tầm tay. Những tiếng kêu rên rỉ, than van của tuyệt vọng và điên cuồng bật ra từ môi anh trong khi anh trút cơn thù hằn vào nơi chốn khủng khiếp này. “Tôi căm ghét người!” Trong cơn mê loạn anh trút hết thịnh nộ cho đến khi nhừ tử và kiệt lực.
Thất vọng và bất lực, Mack ngồi sụp xuống sàn cạnh vết máu. Anh chạm vào nó một cách cẩn trọng. Đây là tất cả những gì còn lại của Missy. Nằm xuống cạnh cô bé, ngón tay anh dịu dàng lần bước theo viền máu đã phai màu và thầm thì nhẹ nhàng: “Missy, bố hết sức xin lỗi. Bố xin lỗi đã không bảo vệ được con. Bố xin lỗi đã không tìm thấy con.”
Thậm chí trong lúc kiệt lực, cơn tức giận vẫn trào sôi và một lần nữa anh lại nhắm vào đấng Chúa thờ ơ mà anh hình dung đang ở đâu đó bên trên mái nhà. “Chúa, người còn không để cho chúng con tìm thấy con bé để chôn cất cho tử tế. Đòi hỏi như thế có gì quá đáng không?”
Trong hỗn độn của cảm xúc hết cuốn trôi lại dâng trào, cơn thịnh nộ của anh nhường bước cho nỗi đau, một con sóng đau buồn mới mẻ lại bắt đầu hòa nhịp với hoang mang. “Vậy người ở đâu? Người muốn gặp tôi ở đây mà? Tôi đây, Chúa ơi. Còn Chúa? Chẳng thấy người ở đâu! Khi tôi cần chẳng bao giờ thấy Chúa - cả khi tôi còn nhỏ, cả khi tôi mất Missy. Giờ đây nữa! ‘Papa’ gì kỳ vậy!” Anh phun ra hàng tràng.
Mack ngồi đó trong yên lặng, sự trống rỗng của nơi này xâm lấn hồn anh. Mớ bòng bong những câu chất vấn không có lời đáp và những lời cáo buộc cuồng nộ lắng xuống bên cạnh anh trên sàn nhà, rồi từ từ trôi vào chiếc hố ưu phiền. Nỗi đau siết chặt quanh anh, và anh gần như mời mọc cảm giác âm ỉ này. Nỗi đau này anh biết. Anh đã quen với nó rồi, gần như một người bạn.
Mack cảm nhận được khẩu súng đằng sau lưng, cảm giác cuốn hút lành lạnh trên da. Anh rút súng ra, không biết để làm gì. Ồ, để không còn quan tâm, để không còn cảm giác đau, để không còn cảm giác gì nữa. Tự tử? Trong khoảnh khắc ý tưởng ấy thật hấp dẫn. “Thật dễ quá,” anh nghĩ. “Không còn nước mắt, chẳng còn nỗi đau...” Anh như thấy cả một hố đen toác ra trên sàn đằng sau khẩu súng mà anh đang ngắm nhìn, một khoảng tối hút lấy mọi dấu vết hy vọng cuối cùng trong tim anh. Tự sát là một cách để trả đũa Chúa, nếu như có Chúa.
Những đám mây bên ngoài dạt ra, và một tia nắng mặt trời chợt lọt vào phòng, xuyên thấu nỗi tuyệt vọng của anh. Nhưng... còn Nan thì sao? Còn Josh, Kate, Tyler và Jon thì sao? Anh muốn ngăn nỗi đau trong tim mình biết bao, anh biết anh cũng không thể làm chúng thêm đau.
Mack ngồi thẫn thờ trong sự khánh kiệt cảm xúc, cân nhắc những sự lựa chọn với khẩu súng trên tay. Một làn gió lạnh lướt trên mặt anh và trong thâm tâm anh phần nào muốn nằm xuống để chết đi vì lạnh cóng, anh đã quá kiệt sức. Anh ngồi thụp xuống dựa vào tường rồi dụi đôi mắt mệt mỏi. Anh nhắm mắt lại và lẩm bẩm: “Bố yêu con Missy. Bố nhớ con nhiều lắm.” Rồi chẳng mấy chốc anh trôi tuột vào giấc ngủ li bì.
Chắc chỉ vài phút sau thì Mack choàng dậy. Ngạc nhiên vì mình ngủ thiếp, anh đứng phắt dậy. Nhét súng trở lại trong thắt lưng và cất cơn giận vào đáy sâu thẳm trong tâm hồn, anh bước ra cửa. “Thật là quái gở! Mình đúng là thằng đần! Lại còn hy vọng Chúa quan tâm đến mức gửi thư!”
Anh nhìn lên xà nhà. “Đủ rồi, Chúa,” anh thì thào. “Tôi hết chịu nổi rồi. Tôi đã mệt mỏi phải tìm kiếm người khắp nơi.” Vừa nói anh vừa bước ra cửa. Anh quyết định đây là lần cuối anh đi tìm Chúa. Nếu Chúa muốn anh, Chúa phải đến với anh.
Anh thò tay vào túi lấy ra bức thư nhận được từ thùng thư rồi xé thành từng mảnh, để mặc cho nó từ từ rơi qua kẽ tay, cuốn bay theo cơn gió lạnh tràn tới. Một người đàn ông mệt mỏi, anh bước ra khỏi hiên nhà, với những bước chân nặng nề và một cõi lòng còn nặng nề hơn, anh bắt đầu cuốc bộ trở lại xe.
***
Anh bước đi chưa được năm mươi bộ lên con đường mòn thì cảm thấy một luồng khí ấm bất chợt ập đến với mình từ phía sau. Tiếng chim hót chiêm chiếp phá tan sự tĩnh lặng băng giá. Con đường phía trước mặt anh thoắt biến mất lớp băng tuyết bao phủ, như thể có ai bật máy sấy. Mack dừng lại nhìn trong khi bốn bề xung quanh màu trắng bao trùm tan biến và được thay thế bằng một sự lớn dậy rực rỡ. Ba tuần lễ mùa xuân nảy nở trước mắt anh trong vòng ba mươi giây. Anh dụi mắt và trấn tĩnh lại giữa cơn lốc các sự việc. Thậm chí những bông tuyết mỏng đang rơi xuống cũng chợt biến thành những bông hoa li ti rơi lững lờ rồi đáp xuống đất.
Cảnh tượng anh đang nhìn thấy dĩ nhiên là hoàn toàn không thể. Lớp tuyết biến mất và hoa dại mùa xuân bắt đầu tô điểm bên lề con đường mòn và cả trong rừng đến tận nơi thật xa mà mắt anh nhìn thấy. Chim cổ đỏ và se sẻ đuổi nhau giữa các tàn cây. Sóc và sóc chuột thỉnh thoảng băng ngang con đường phía trước, một số con còn ngồi lại và nhìn anh một lát trước khi lủi vào bụi cây. Anh thậm chí còn nghĩ rằng mình đã thoáng thấy một con hươu đực hiện ra từ một trảng tối trong rừng, nhưng nhìn lại thì nó đã đi mất. Như thể bấy nhiêu chưa đủ, hương hoa bắt đầu lan trong không trung, không phải là mùi thoang thoảng của hoa dại trên núi, mà là hương ngào ngạt của hoa hồng, hoa lan và các hương thơm lạ lùng khác chỉ thấy ở những vùng nhiệt đới.
Mack không còn nghĩ về nhà nữa. Một nỗi khiếp sợ chụp lấy anh, như thể anh đã mở tung hộp Pandora và đang bị cuốn đi vào giữa cơn khùng điên, biến mất mãi mãi. Lảo đảo, anh cẩn thận xoay người lại, cố bám víu lấy một chút ý thức minh mẫn.
Anh choáng váng. Chẳng còn giống mấy với trước đây, nếu có giống. Căn chòi đổ nát đã được thay thế bằng một ngôi nhà gỗ các chắc chắn và xây cất đẹp đẽ, đang đứng chắn giữa anh và hồ nước, mà anh đang nhìn từ ngay phía trên mái nhà. Nó được làm bằng những thanh gỗ dài hết cỡ và bào bằng tay, mỗi thanh đều được cưa đo vừa khít.
Thay cho những bụi rậm tăm tối um tùm khủng khiếp, những dây tầm xuân, và hang ổ của quỷ sứ, mọi thứ Mack nhìn thấy giờ đây hoàn hảo như tranh. Khói lững lờ bốc lên từ ống khói buông vào bầu trời chiều hôm, một dấu hiệu của sự sinh hoạt trong nhà. Một lối đi đã được làm sẵn dẫn thẳng đến và vòng quanh hàng hiên, viền bởi một hàng rào cọc trắng. Âm thanh tiếng cười vẳng đến từ đâu đó gần kề - có lẽ từ bên trong, nhưng anh không chắc.
Có lẽ cảm giác này cũng giống như trải nghiệm một cơn loạn thần kinh. “Mình mất trí rồi,” Mack nhủ thầm. “Không thể có chuyện này được. Không thể có thực được.”
Đó là một nơi Mack chỉ có thể tưởng tượng trong những giấc mơ tươi đẹp nhất, và điều này càng làm cho chuyện thêm đáng ngờ. Cảnh tượng thật kỳ thú, hương thơm gây đê mê, còn đôi bàn chân anh, như thể chúng có trí não riêng, đã đưa anh quay trở lại lối đi và tiến đến hàng hiên trước nhà. Hoa nở khắp nơi và hương hoa cỏ các loại gợi trong anh những ký ức từ lâu quên lãng. Anh vẫn nghe nói chiếc mũi là mối liên hệ tốt nhất với quá khứ, và khứu giác là mạnh nhất để tìm lại ký ức lãng quên, và giờ đây ký ức xưa cũ của thời niên thiếu vụt lướt trong tâm trí anh.
Khi đến hàng hiên anh lại dừng chân. Những giọng nói rõ ràng phát ra từ trong nhà. Mack cưỡng lại sự thôi thúc đột nhiên trỗi dậy muốn anh bỏ chạy, như thể anh là một cậu nhóc đã ném bóng vào vườn hoa của người láng giềng. “Nhưng nếu Chúa ở trong thì cũng đâu có hay ho gì mấy?” Anh nhắm mắt lại rồi lắc đầu xem thử mình có giũ bỏ được ảo giác và tái hiện lại thực tại không. Nhưng khi mở mắt ra, mọi thứ vẫn còn đó. Anh ngập ngừng đưa tay ra chạm lấy thanh vịn bằng gỗ. Rõ ràng nó có vẻ thật.
Giờ đây, anh lại đối diện với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ta sẽ làm gì khi đứng trước cửa một căn nhà, hay là căn chòi trong trường hợp này, mà Chúa ở bên trong? Có nên gõ cửa không? Mà chắc là Chúa cũng đã biết Mack đang ở đây rồi. Có lẽ cứ bước vào và tự giới thiệu thôi, nhưng như thế dường như cũng kỳ cục chẳng kém. Rồi xưng hô với Chúa thế nào đây? Gọi người là Cha, hay Đấng Toàn năng, hay đơn giản là Chúa, rồi tốt nhất có phải là sụp xuống để tôn kính người hay không, thật sự anh thấy tâm trạng mình không sẵn sàng.
Trong khi cố gắng lấy lại quân bình trong tâm trí, cơn thịnh nộ mà anh tưởng mới đây đã tan biến trong lòng giờ lại bắt đầu trỗi dậy. Không còn băn khoăn hay nghĩ ngợi phải xưng hô với Chúa như thế nào và bị kích động bởi cơn thịnh nộ, anh bước thẳng đến cửa. Mack quyết định xô mạnh cửa bước vào xem sao, nhưng khi anh vừa vung tay định làm thế thì cửa mở ra, và anh ngay trước mặt anh là một phụ nữ to lớn người Mỹ gốc Phi đang tươi cười.
Anh nhảy lùi lại theo bản năng, nhưng quá chậm. Với tốc độ trái ngược với vóc dáng của mình, chị bước lên xóa nhòa khoảng cách giữa họ và ôm anh trong đôi tay, nhấc bổng anh lên khỏi mặt đất và xoay anh vòng quanh như một đứa bé. Và miệng kêu vang tên anh - “Mackenzie Allen Phillips” - với một sự nồng nhiệt của những ai gặp lại họ hàng thân thiết mà lưu lạc lâu năm. Cuối cùng, chị ta đặt anh xuống đất trở lại và đặt tay lên vai anh, đẩy anh lùi lại như thể để nhìn cho kỹ.
“Mack, xem nào!” chị thốt lên. “Anh đây rồi, trưởng thành quá. Tôi cứ mong đợi suốt để được gặp anh tận mặt. Thật là tuyệt, anh đã đến đây với mọi người. Ối cha cha, tôi yêu anh biết bao!” Nói đoạn, chị lại ôm choàng lấy anh.
Mack không nói nên lời. Trong mấy giây đồng hồ, người phụ nữ này đã phá tan hầu như mọi ngăn cách xã hội mà anh vẫn an bình nấp mình trong đó. Nhưng có điều gì đó trong cách chị nhìn anh và kêu vang tên anh làm anh cũng vui sướng không kém được gặp chị, cho dù anh chẳng mảy may biết chị ta là ai.
Đột nhiên, anh thấy choáng ngợp bởi hương thơm tỏa ra từ chị, và nó làm anh run rẩy. Đó là hương hoa dành dành và hoa nhài, nước hoa của mẹ anh không thể lẫn vào đâu được, thứ nước hoa mà anh giấu trong chiếc hộp thiếc nhỏ. Trước đó anh đã bị xô đến bên vách đá chênh vênh của cảm xúc rồi, và giờ đây mùi hương ngào ngạt và ký ức đeo đẳng làm anh chao đảo. Anh đã có thể cảm nhận được cái ấm của nước mắt bắt đầu ngấn trong mắt, như thể chúng đang gõ cửa trái tim anh. Dường như chị cũng thấy.
“Được rồi, anh cứ khóc đi... Tôi biết anh đau khổ, và tôi biết anh tức giận và hoang mang. Cứ khóc đi. Đôi lúc hãy để nước mắt tuôn rơi cho tâm hồn được thư thái - nước mắt ấy sẽ chữa lành.”
Nhưng mặc dù Mack không kìm được những giọt nước mắt ngấn đầy trong mắt, anh vẫn không sẵn sàng khóc được - chưa thể, đối với người phụ nữ này. Với tất cả cố gắng, anh giữ cho mình không rơi trở lại chiếc hố đen cảm xúc. Trong khi ấy, người phụ nữ đứng
đó giang rộng đôi tay như vòng tay người mẹ. Anh cảm thấy sự hiện hữu của tình yêu. Ấm áp, mời gọi và tan chảy.
“Chưa phải lúc?” chị lên tiếng. “Thôi được rồi, chúng ta sẽ làm mọi việc theo ý anh và thời gian của anh. Nào, vào nhà đi. Tôi cầm áo khoác cho anh nhé? Và súng nữa. Anh đâu cần đến nó phải không? Chúng ta đâu có muốn bị hại phải không nào?”
Mack không biết chắc phải làm gì hay nói gì. Chị ta là ai? Làm sao chị ta biết? Anh đứng chôn chân một chỗ, nhưng từ từ cởi áo khoác ra một cách máy móc.
Người phụ nữ da đen to lớn cầm lấy áo và anh đưa súng cho chị mà chị đón lấy bằng hai ngón tay như thể nó ô uế. Ngay khi chị xoay người để bước vào nhà, một người phụ nữ nhỏ nhắn, rõ ràng gốc Á xuất hiện đằng sau chị. “Đây, để đó cho tôi,” giọng chị véo von. Rõ ràng chị ta không nói về chiếc áo khoác hay khẩu súng, mà là một điều gì khác, và trong nháy mắt đã đứng ngay trước mặt anh. Không hề nhúc nhích, anh nhìn xuống và thấy chị đang cầm một cái chai pha lê mỏng manh và một chiếc cọ nhỏ, như mấy chiếc cọ mà Nan và Kate thường dùng để trang điểm, rồi nhẹ nhàng quét gì đó trên mặt anh.
Trước khi anh kịp lên tiếng hỏi, chị mỉm cười rồi thì thầm, “Mackenzie, tất cả chúng ta đều có những thứ mình thấy quý giá để sưu tập đúng không nào?” Chiếc hộp thiếc nhỏ thoáng hiện trong tâm trí anh. “Tôi sưu tập nước mắt.”
Khi chị lùi lại, Mack thấy mình nheo mắt nhìn chị một cách không chủ đích, như thể làm thế anh sẽ nhìn chị rõ hơn. Nhưng lạ thay, anh vẫn thấy khó khăn để chú tâm vào chị; chị ấy dường như lung linh ánh sáng và tóc tung bay mọi hướng cho dù chẳng hề có chút gió. Dường như nhìn chị qua khóe mắt còn dễ dàng hơn nhìn thẳng trực diện.
Rồi anh liếc ra sau chị và nhận ra một người thứ ba đã xuất hiện trong nhà, người này là nam giới. Anh ta diện mạo như người Trung Đông và ăn vận như một công nhân, có cả thắt lưng đeo dụng cụ và găng tay. Người đó đứng thong dong, khoanh tay dựa vào khung
cửa ngay trước mặt anh. Người đó vận một chiếc quần jean phủ đầy bụi gỗ và một chiếc sơ mi choàng xắn tay quá khuỷu, để lộ đôi cánh tay cơ bắp. Dáng vẻ anh ta thật dễ nhìn nhưng không hẳn đẹp trai - không phải là một người đàn ông nổi bật trong đám đông. Nhưng ánh mắt anh ta và nụ cười làm sáng bừng gương mặt và Mack cảm thấy khó mà quay đi.
Mack lại bước lùi lại, cảm giác hơi choáng ngợp. “Còn ai nữa không?” giọng anh hơi khàn.
Cả ba người nhìn nhau rồi cười phá. Mack cũng không cưỡng lại được nụ cười. “Không, Mackenzie,” người phụ nữ da đen cười rồi nó. “Chúng tôi chỉ có bấy nhiêu anh thấy rồi, quá đủ rồi.”
Mack cố gắng nhìn lại người phụ nữ châu Á. Theo diện mạo anh có thể nói con người rắn rỏi này có lẽ gốc Bắc Trung Quốc hoặc Nepal hay thậm chí người thiểu số Mông Cổ. Khó mà nói vì mắt anh phải tập trung mới nhìn được chị. Theo trang phục của chị, Mack phỏng đoán chị ta là một người quản vườn hoặc làm vườn. Chị có đôi găng dắt trong thắt lưng, không phải loại bằng da nặng nề như của người đàn ông, mà loại bằng vải nhẹ và cao su mà chính Mack cũng dùng để làm vườn ở nhà. Chị mặc đồ jean thô có thêu các họa tiết ở diềm - đầu gối lấm đất do quỳ xuống - một chiếc áo sơmi màu sáng có mảng vàng, đỏ và xanh dương. Nhưng anh biết tất cả những điều này do ấn tượng về chị hơn là do thực tế thị giác, vì dường như chị ẩn hiện trong tầm nhìn của anh.
Người đàn ông bước đến, chạm vào vai Mack, hôn lên hai má anh, rồi ôm chặt anh. Mack biết ngay mình thích anh ấy. Khi họ rời ra, người đàn ông lùi lại, còn người phụ nữ châu Á lại tiến về phía anh, lần ôm lấy gương mặt anh trong đôi bàn tay mình. Từ từ và cố ý, chị đưa mặt mình đến gần rồi ngay lúc anh hình dung chị sẽ hôn mình thì chị dừng lại và nhìn sâu vào mắt anh. Mack tưởng như có thể nhìn xuyên qua chị. Rồi chị mỉm cười và hương thơm của chị phủ trùm lấy anh rồi nhấc lấy một trọng lượng khổng lồ ra khỏi vai anh, như thể lâu nay anh vẫn thồ đồ đạc trong một chiếc balô.
Mack đột nhiên cảm thấy nhẹ hơn không khí, gần như thể anh không còn chạm đất nữa. Chị ta ôm lấy anh mà như không, hay thật sự như không chạm vào anh. Chỉ khi chị lùi lại, mấy giây sau thì anh mới nhận ra mình vẫn đang đứng trên đôi bàn chân và chúng vẫn còn chạm vào sàn.
“Ồ, đừng màng đến chị ta,” người phụ nữ da đen to lớn cười. “Chị ta gây cảm giác đó cho tất cả mọi người.”
“Tôi thích đấy,” anh lẩm bẩm, và cả ba người phá lên cười tiếp, và giờ đây Mack thấy mình cũng đang cười cùng với họ, không hiểu vì sao và cũng chẳng quan tâm lắm.
Khi mọi người dứt tiếng cười, người phụ nữ to lớn khoác vai Mack, kéo anh lại gần rồi nói, “Được rồi, chúng tôi biết anh là ai, nhưng chắc chúng tôi phải tự giới thiệu với anh. Tôi,” chị nhiệt tình vung vẫy tay, “là quản gia và nấu bếp. Anh có thể gọi tôi là Elousia.”
“Elousia?” Mack hỏi, không hiểu gì cả.
“Được rồi, anh không cần gọi tôi là Elousia; đó chỉ là tên gọi thôi. Cho nên,” chị khoanh tay lại và một tay tì cằm như đang suy nghĩ rất lung, “anh có thể gọi tôi như Nan vẫn gọi.”
“Cái gì? Chị không định nói...” Bây giờ, Mack ngạc nhiên và thậm chí hoang mang hơn nữa. Chắc chắn đây không phải là vị Papa đã gửi thư? “Ý tôi là, định nói là Papa?”
“Đúng,” chị đáp rồi cười, chờ cho anh nói như thể anh sắp nói điều gì nhưng anh không nói.
“Còn ta,” người đàn ông ngắt lời, trông anh ở tuổi ngoài ba mươi và hơi thấp hơn Mack một chút. “Ta lo bảo dưỡng đồ đạc quanh đây. Ta thích làm công việc chân tay mặc dù hai người này sẽ nói cho anh biết, ta cũng thích nấu nướng và làm vườn hệt như họ.”
“Trông anh như người gốc Trung Đông, chắc Ả rập?” Mack đoán.
“Thật ra, ta là con kế trong một đại gia đình. Ta là người Do Thái, nói chính xác là dòng dõi Judah.”
“Vậy thì...” Mack đột nhiên chao đảo khi nhận ra. “Vậy ra, người là...”
“Jesus! Đúng. Anh có thể gọi ta như thế nếu anh muốn. Dù sao thì nó cũng đã trở thành tên gọi quen thuộc của ta. Mẹ ta gọi ta là Yeshua, nhưng ta cũng quen nghe gọi là Joshua hay thậm chí cả Jesse.”
Mack đứng chết điếng và câm lặng. Những gì anh đang nhìn thấy và lắng nghe đơn giản không thể nào lường được. Hoàn toàn thật không tưởng... nhưng anh đang ở đây rồi, hay là anh có thật sự đang ở đây không? Anh chợt thấy chóng mặt. Cảm xúc tràn qua anh trong khi tâm trí anh cố gắng một cách vật vã để nhận thức tất cả thông tin. Vừa lúc anh sắp khuỵu xuống thì người phụ nữ châu Á bước đến gần và lôi anh ra khỏi luồng tập trung.
“Còn tôi là Sarayu,” chị vừa nói vừa nghiêng đầu cúi chào và mỉm cười. “Quản vườn và làm nhiều việc khác.”
Ý tưởng xô lấn lên nhau trong khi Mack vất vả hình dung phải làm gì. Có phải một trong những người này là Chúa? Nếu họ là ảo giác hay thiên thần thì sao, hay là Chúa lát nữa mới đến? Như thế thì hơi rối. Tại vì có ba người, đây có thể là Ba ngôi. Nhưng sao lại là hai phụ nữ và một đàn ông mà chẳng có ai da trắng? Thế nhưng mà tại sao anh lại tự nhiên giả định Chúa là người da trắng? Anh biết đầu óc mình đang hỗn độn nên anh tập trung vào câu hỏi mà anh muốn được trả lời nhất.
“Vậy thì,” Mack đánh liều hỏi, “người nào trong các vị là Chúa?”
“Ta đây,” cả ba đồng thanh lên tiếng. Mack nhìn từng người, và mặc dù anh chẳng biết bám víu vào đâu từ thị giác và thính giác của mình, không hiểu vì sao, anh đã tin.