🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nói Sao Cho Trẻ Chịu Học Ở Nhà Và Ở Trường
Ebooks
Nhóm Zalo
Nói sao cho trẻ con chịu học
- Adele Faber & Elaine Mazlish -
HOW TO TALK SO KIDS CAN LEARN
Copyright © 1995 by Adele Faber, Elaine Mazlish, Lisa Nyberg, and Rosalyn Anstine Templeton
Xuất bản theo hợp đồng chuyển nhượng bản quyền giữa Scribner, a Division of Simon & Schuster, Inc. và Công ty TNHH Sách Phương Nam
Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty TNHH Sách Phương Nam, 2009
Mọi sao chép, trích dẫn phải có sự đồng ý của Công ty TNHH Sách Phương Nam
Cha mẹ và thầy cô nói với trẻ như thế nào, trẻ sẽ cảm nhận về bản thân như thế ấy. Lời nói của họ ảnh hưởng đến lòng tự trọng và cách trẻ tự đánh giá bản thân. Hay nói rộng ra, cách nói của cha mẹ và thầy cô giữ vai trò quyết định đối với số phận trẻ.
- HAIM GINOTT
LỜI CẢM ƠN
Quyển sách này đến được tay bạn đọc là nhờ ngay từ lúc mới chỉ là ý tưởng, nó đã được rất nhiều người mong đợi.
Gia đình, bạn bè không ngừng động viên và khuyến khích chúng tôi. Những bậc phụ huynh, thầy cô, những nhà giáo dục sức khỏe tâm thần khắp nơi trên nước Mỹ và Canada đã đóng góp cả tiếng nói lẫn tài liệu về việc ứng dụng các kỹ năng giao tiếp vào cách hành xử ở nhà, cũng như ở nơi làm việc.
Joanna Faber, giáo viên của một trường ở nội thành, đã cung cấp cho chúng tôi nhiều ví dụ sinh động mà cô tích lũy được trong suốt mười năm dạy học.
Trường đại học Bradley, trường tiểu học Brattain đã nhiệt tình ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi làm việc.
Họa sĩ Kimberly Ann Coe đã dành nhiều tâm huyết để tạo ra những hình vẽ minh họa hết sức sinh động.
Bob Markel, đại diện bản quyền, đã luôn sát cánh bên chúng tôi với những lời khuyên chí tình đúng lúc .
Eleanor Rawson, nhà sản xuất, đã tận tình hướng dẫn chúng tôi từng đường đi nước bước.
Cuối cùng, chúng tôi xin gởi lời cảm ơn tới tiến sĩ Thomas Gordon bởi những công trình nghiên cứu uyên thâm của ông về phạm trù những mối quan hệ giữa trẻ với người lớn; và cảm ơn cố tiến sĩ
Haim Ginott đã giúp chúng tôi hiểu ra tại sao và thế nào là “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
QUYỂN SÁCH NÀY RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO
Quyển sách này được ươm mầm từ khi chúng tôi còn là những bà mẹ trẻ đi tham dự những buổi sinh hoạt dành cho phụ huynh do nhà tâm lý học trẻ em - tiến sĩ Haim Ginott phụ trách. Sau mỗi buổi sinh hoạt, trên đường lái xe về nhà, chúng tôi thường cùng suy ngẫm về sức mạnh của những kỹ năng giao tiếp mới vừa học được, rồi ngậm ngùi vỡ lẽ ra: kể từ ngày đầu theo đuổi nghiệp dạy dỗ tới giờ, mình chưa hề biết gì về những kỹ năng ấy, trong khi một người là giáo viên phổ thông ở New York City, còn người kia dạy học tại cộng đồng dân cư ở Manhattan.
Khi đó, chúng tôi không hề hình dung trước được những kinh nghiệm ban đầu ấy rồi sẽ phát triển thành những gì. Hai thập niên sau, những quyển sách mà chúng tôi viết cho các bậc phụ huynh đã vượt qua mốc hai triệu bản và được dịch ra trên mười thứ tiếng. Những bài diễn thuyết của chúng tôi tại tất cả các bang của Mỹ, và hầu hết các tỉnh thành của Canada đều thu hút được đông đảo khán thính giả và được họ nhiệt liệt hưởng ứng. Trên năm mươi ngàn nhóm hoạt động xã hội tại những vùng đất xa xôi, ở tận Nicaragua, Kenya, Malaysia và New Zealand đã sử dụng những băng nghe nhìn là nội dung những hội thảo của chúng tôi trong các hoạt động của họ. Và trong suốt quãng thời gian hai mươi năm qua, chúng tôi luôn nhận được những phản hồi từ các giáo viên về những thay đổi đạt được trong lớp học, sau khi họ tham dự những khóa học, nghe diễn thuyết, hay đọc sách của chúng tôi. Và điều tất yếu xảy đến là, các giáo
viên luôn thúc giục chúng tôi viết một quyển sách tương tự cho ngành của họ.
Một giáo viên ở Troy, Michigan, đã viết:
Sau hơn hai mươi năm kinh nghiệm giáo dục trẻ hư và trẻ có nguy cơ hư hỏng, tôi thực sự kinh ngạc về những kỹ năng mà mình đã rút ra được từ những quyển sách mà quý vị viết cho các bậc cha mẹ... Hiện tại, trong quận mà tôi làm chuyên gia cố vấn sư phạm [1] đang thiết kế một nội quy kỷ luật mới cho các trường học. Tôi tin chắc rằng các cách xử lý tình huống trong quyển sách của quý vị sẽ là cốt lõi, là nền tảng cho nội quy mới này. Không biết quý vị có nghĩ đến việc viết sách dành riêng cho các giáo viên không?
Một người làm công tác xã hội học đường ở Florissant, Missouri, viết:
Mới đây tôi đã giới thiệu chương trình hội thảo How To Talk So Kids Will Listen[2] của các vị cho phụ huynh trong địa hạt do tôi phụ trách. Có một bà mẹ, đồng thời cũng là một giáo viên, bắt đầu áp dụng những kỹ năng mới vào lớp học của mình và nhận thấy những hành vi không tốt của học sinh đã giảm hẳn. Những thay đổi trong lớp học của giáo viên ấy lập tức gây ấn tượng với bà hiệu trưởng, bởi vì lâu nay bà rất lo ngại về sự gia tăng hình phạt đòn roi, cũng như tình trạng bị đuổi học ở trường mình. Và bà đã mời tôi tổ chức hội thảo cho toàn thể các giáo viên trong trường của bà.
Kết quả thật đáng khích lệ. “Nhu cầu” về hình phạt đòn roi đã giảm hẳn. Rồi việc học sinh nghỉ học cũng bớt đi, trong khi lòng tự trọng của các em được tăng lên, hầu như lan khắp toàn trường.
Một người sống ở New York City viết:
Tôi vô cùng lo sợ về việc càng ngày càng có nhiều trẻ em mang dao và súng tới trường. Tôi không tin việc tăng cường nhân viên an ninh và máy dò tìm kim loại sẽ có hiệu quả, tuy nhiên, cách giao tiếp tốt hơn có lẽ sẽ cải thiện được tình hình này. Có lẽ, nếu các giáo viên biết được những kỹ năng mà quý vị đã viết, ắt hẳn họ họ sẽ được trang bị tốt hơn để giúp những đứa trẻ nóng nảy biết cách xử lý cơn giận của chúng theo những cách không cần dùng đến bạo lực. Quý vị có nghĩ đến việc viết sách dành cho các giáo viên, cha mẹ, hiệu trưởng, trợ giảng, tài xế xe buýt trường học và thư ký ở trường không?
Tuy hiểu được những lời đề nghị đó là cần thiết, nhưng chúng tôi phải thừa nhận rằng mình không đảm nhận trách nhiệm viết sách cho giáo viên. Vả lại, hiện giờ, chúng tôi không còn “chiến đấu” chung với họ trên “mặt trận giáo dục” nữa.
Thế rồi có một cú điện thoại định mệnh do hai cô giáo Rosalyn Templeton và Lisa Nyberg gọi tới. Lisa đang dạy lớp ba và lớp bốn tại trường tiểu học Brattain ở Spring, bang Oregon. Rosalyn đang tham gia đào tạo những giáo viên tương lai ở đại học Bradley, Peoria, bang Illinois. Cả hai người đều bày tỏ mối lo lắng trước những biện pháp trừng phạt và cưỡng chế được áp dụng thường xuyên trong các trường học để uốn nắn hành vi của trẻ. Họ bảo rằng đã từ lâu lắm rồi, họ vẫn tìm kiếm những tài liệu đề xuất cho giáo viên những phương pháp mới, nhằm giúp học sinh tự giác kỷ luật hơn và biết tự giải quyết vấn đề của chúng hơn.
Khi tình cờ đọc được quyển How To Talk So Kids Will Listen and Listen So Kids Will Talk[3], họ biết rằng họ đã thấy được những gì vẫn tìm kiếm lâu nay, và họ xin phép được dựa trên quyển sách của chúng tôi để viết một bản khác gần giống như vậy, dành cho giáo viên.
Càng nói chuyện chúng tôi càng nhận thấy rằng kinh nghiệm mà họ tích lũy được thật rộng và phổ quát. Cả hai đều từng dạy học ở thành thị, ngoại ô, nông thôn; đều có học vị tiến sĩ về giáo dục; và đều từng được mời chủ trì những hội thảo giáo viên. Bỗng nhiên, đề án mà chúng tôi còn lưỡng lự một thời gian dài bỗng trở nên khả thi. Ngoài những kinh nghiệm trực tiếp đứng lớp và các tài liệu thu thập được từ những giáo viên khác trong suốt hơn hai mươi năm qua, nay còn có thêm sự đóng góp quý báu của hai người làm công tác giáo dục này, chúng tôi biết rằng không gì có thể khiến chúng tôi chùn bước được nữa.
Mùa hè năm đó, Rosalyn và Lisa tới gặp chúng tôi. Ngay từ đầu, tất cả đã rất ăn ý với nhau. Sau khi bàn bạc, chúng tôi nhất trí rằng thay vì đưa ra những lời thuyết giáo khô khan, quyển sách này sẽ đóng vai trò như một người kể chuyện - đứng trên quan điểm của một cô giáo trẻ đang nhiệt tình tìm kiếm những cách tốt nhất để dạy dỗ học sinh của mình. Kinh nghiệm của cô ấy sẽ là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm của tất cả chúng tôi. Chúng tôi sẽ làm cho lời kể ấy đáng tin cậy hơn bằng những yếu tố mà chúng tôi đã dùng trong các tác phẩm trước. Đó là những mẩu truyện tranh nhỏ, những phần ghi nhớ, hỏi đáp, cùng những câu chuyện minh họa.
Nhưng càng trao đổi với nhau, chúng tôi càng nghiệm ra, nếu muốn nêu toàn bộ những việc nên làm nhằm giáo dục một đứa trẻ, chúng tôi cần phải nhìn xa hơn phạm vi lớp học, phải chú ý nhiều tới những “người thầy” đầu tiên và mãi mãi trong cuộc đời đứa trẻ ấy - chính là cha mẹ nó. Bất kể điều gì xảy ra ở trường từ chín giờ sáng cho tới ba giờ chiều cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những gì đã diễn ra trước và sau quãng thời gian ấy, tức là lúc trẻ ở cùng với cha mẹ chúng. Dù cả cha mẹ lẫn giáo viên có tích cực đến đâu đi chăng nữa mà không có những công cụ giúp họ thực hiện những dự định tốt đẹp của mình, thì đứa
trẻ vẫn có thể hư như thường.
Các bậc cha mẹ và giáo viên cần phải biết kết hợp quyền lực với việc làm gương. Họ cần ghi nhớ sự trái ngược hoàn toàn giữa lời nói làm tiêu tan hi vọng với lời động viên, khuyến khích; giữa lời nói mời gọi sự hợp tác hay kích động sự chống đối của trẻ; giữa lời nói làm cho trẻ không thể suy nghĩ hay tập trung với lời nói khơi gợi và giải phóng khao khát học hỏi tự nhiên của trẻ.
Bất giác, chúng tôi cảm thấy trách nhiệm của mình đối với thế hệ trẻ ngày nay thật nặng nề. Trước kia, chưa khi nào giới trẻ lại có thể xem nhiều hình ảnh tội ác dã man trên phim, trên các phương tiện truyền thông đại chúng như bây giờ. Trước kia, bọn trẻ chẳng bao giờ phải chứng kiến nhiều hình ảnh tuyên truyền trần trụi về những kiểu giải quyết vấn đề bằng cách đánh nhau, ném bom hoặc xả đạn. Chưa khi nào nhu cầu cung cấp cho con em chúng ta một khuôn mẫu sống động về việc giao tiếp trung thực và tôn trọng lẫn nhau lại cấp thiết như lúc này. Đó là cách bảo vệ tốt nhất mà ta có thể trang bị cho trẻ, nhằm chống lại những cơn bột phát muốn bạo hành của chúng. Gặp những trường hợp muốn nổi điên, thay vì đi tìm gậy gộc dao búa, trẻ có thể vận dụng những lời lẽ mà những người quan trọng trong cuộc đời chúng đã từng nói với chúng trước đây.
Với tất cả những lí do đó, đề án về quyển sách này đã được đặt lên “bệ phóng”. Ba năm trời với biết bao bản thảo nháp, cuối cùng chúng tôi đã có được bản thảo cuối cùng trong tay. Khỏi cần nói cũng biết tất cả chúng tôi đã hài lòng và vui mừng đến mức nào. Chúng tôi đặt một cái tựa rất rõ ràng: Nói Sao Cho Trẻ Chịu Học Ở Nhà và Ở Trường . Chúng tôi đã nêu ra những ví dụ cụ thể về thái độ và ngôn ngữ của quy trình học này. Chúng tôi cũng trình bày cách tạo ra một môi trường cảm xúc, khiến cho trẻ cảm thấy an toàn để mở lòng ra trước
những cái mới lạ. Chúng tôi nêu bật lên cách làm sao cho trẻ dám chịu trách nhiệm và rèn luyện tính tự giác. Đồng thời, chúng tôi cũng chia sẻ nhiều phương pháp nhằm động viên, khích lệ trẻ tin rằng chúng là ai và chúng sẽ trở thành người như thế nào.
Mong mỏi lớn nhất của chúng tôi là những ý kiến trong quyển sách này sẽ giúp bạn khơi nguồn sáng tạo, trao quyền cho những đứa trẻ yêu quý nhất đời bạn.
[1]. Nguyên gốc là “teacher consultant”: chuyên gia giáo dục chịu trách nhiệm cố vấn xây dựng nội quy, chương trình giảng dạy, cơ cấu tổ chức cho trường phổ thông - ND.
[2]. Nói Sao Cho Trẻ Chịu Nghe.
[3]. Nói Sao Cho Trẻ Chịu Nghe và Lắng Nghe Sao Cho Trẻ Chịu Nói.
“TÔI” LÀ AI?
Khi bắt đầu viết quyển sách này, chúng tôi đã nhất trí sẽ tạo ra một nhân vật tên là Liz Lander làm người phát ngôn chung cho tất cả. Cô ấy là một giáo viên trẻ - cũng giống như chúng tôi ngày trước - và những nỗ lực, trăn trở của cô ấy với học sinh chính là tấm gương phản ánh một cách chân thực những cố gắng mà chúng tôi từng thể hiện. Cô ấy chính là nhân vật “Tôi” do chúng tôi tạo ra.
1. XỬ LÝ NHỮNG CẢM XÚC GÂY CẢN TRỞ VIỆC HỌC
Chính những hồi tưởng về các giáo viên của mình - cả những hồi tưởng tôi yêu thích lẫn những hồi tưởng mà tôi ghét - đã khiến tôi quyết định trở thành một giáo viên.
Trong suốt những năm tháng học sư phạm tại trường đại học, tôi luôn tin tưởng rằng mình có khả năng dạy trẻ theo cái cách làm cho chúng muốn học. Tôi đã thủ sẵn trong đầu cả một danh sách dài dằng dặc về những điều đáng xấu hổ mà mình không bao giờ được phép nói ra hoặc thể hiện với học sinh; tôi cũng đã hình dung rõ ràng về mức độ kiên nhẫn mà mình sẽ phải đeo đuổi.
Ngày đầu tiên - với tư cách là giáo viên “thật sự” - tôi đã rất choáng váng. Tôi đã soạn bài và chuẩn bị kỹ lưỡng cho giờ lên lớp, nhưng hoàn toàn không có “phòng bị” gì trước ba mươi hai em học sinh lớp Sáu này. Ba mươi hai đứa trẻ to mồm, hiếu động và lúc nào cũng đầy rẫy những đòi hỏi muốn thứ này, cần thứ nọ. Qua được nửa buổi sáng thì tiếng chí chóe đầu tiên xuất hiện, “Ai lấy bút chì của tao?” “Mày xê ra đi!” “Im đi! Tao đang nghe cô giảng.”
Tôi cứ vờ như chẳng nghe thấy gì và tiếp tục bài giảng, nhưng những kẻ phá bĩnh vẫn không chịu thôi, “Tại sao em lại phải ngồi gần nó?” “Em không hiểu cô bảo bọn em phải làm gì cả?” “Cô ơi, nó thụi em!” “Tại nó kiếm chuyện trước chứ bộ!”
Đầu tôi bắt đầu kêu bưng bưng. Lớp học càng lúc càng ồn ào.
Những câu thần chú về “lòng kiên nhẫn và hiểu biết” đã hết linh nghiệm ngay trên môi tôi. Lớp học này cần phải có một giáo viên biết trấn áp mới được. Bất thình lình tôi quát lên:
“Thôi đi! Có ai lấy bút chì của em đâu!”
“Cô nói rồi, em phải ngồi gần bạn ấy!”
“Cô không quan tâm ai gây sự trước. Cô muốn việc này phải chấm dứt ngay. Ngay lập tức!”
“Em bảo em không hiểu là ý làm sao? Cô vừa mới giải thích xong còn gì!”
“Tôi không thể tin nổi cái lớp này. Các em nói năng hành động y như học sinh lớp Một vậy. Làm ơn ngồi im đi!”
Có một thằng bé chẳng coi lời tôi ra gì. Nó tỉnh bơ rời khỏi chỗ ngồi, bước tới lấy cái chuốt chì rồi đứng đó mà vặn chuốt mãi cho đến khi cây bút chỉ còn một mẩu. Bằng giọng điệu nghiêm khắc nhất của mình, tôi ra lệnh, “Đủ rồi! Về chỗ ngay!”
“Cô không bắt em làm gì được đâu,” nó cãi.
“Được, chúng ta sẽ nói rõ chuyện này sau giờ tan học.” “Em không ở lại được. Em sẽ trễ xe buýt.”
“Thế thì cô đành phải mời phụ huynh của em đến để thông báo chuyện này.”
“Cô không gọi cho ba mẹ em được đâu. Nhà em làm gì có điện thoại!”
Đến ba giờ chiều thì tôi mệt lử. Bọn trẻ chen nhau ùa ra khỏi lớp và tràn xuống đường. Chúng la hét, chạy nhảy như vừa được tiếp thêm năng lượng. Nhưng lúc này chúng đã thuộc về trách nhiệm của cha mẹ chúng. Tôi đã hết giờ làm việc của mình rồi.
Tôi ngồi phịch xuống ghế, ngó trân trân vào những dãy bàn học trống trơn. Có chuyện gì thế? Sao bọn trẻ không nghe lời tôi? Tôi phải làm gì để chế ngự chúng đây?
Trong suốt mấy tháng đầu đi dạy của tôi, tất cả các buổi học đều diễn ra y như vậy. Mỗi sáng, tôi vào lớp với bao hy vọng tràn trề, rồi buổi chiều lại ra về với tâm trạng chán chường vô tận. Tôi đã hoàn toàn “bó tay” trước công việc nặng nề và chán ngắt là phải kéo lê lớp học cho qua chương trình bắt buộc này. Nhưng tệ hơn hết, tôi đang dần biến thành loại “bà cô” mà tôi không bao giờ muốn: giận dữ, hách dịch, mất uy tín. Còn đám học sinh của tôi thì càng ngày càng bướng bỉnh, ngang ngạnh. Càng về cuối học kỳ, tôi càng hay tự hỏi rằng mình còn cầm cự được bao lâu nữa.
May mà Jane Davis, cô giáo dạy lớp bên cạnh, đã đến giải cứu cho tôi. Sau cái ngày dốc bầu tâm sự với Jane, chị đưa cho tôi quyển sách How To Talk So Kids Will Listen and Listen So Kids Will Talk. Chị bảo, “Không biết quyển sách này có giúp gì được cho em không, nhưng những kỹ năng nêu trong này đã cứu chị khỏi phát điên, phát khùng với chính tụi nhóc ở nhà. Nó cũng giúp chị tạo nên sự thay đổi khác biệt cho lớp học của mình đấy!”
Tôi cảm ơn Jane, cất quyển sách vào cặp rồi quên khuấy nó luôn. Một tuần sau, trong khi đang nằm trên giường dưỡng bệnh vì cảm lạnh, tôi vớ đại quyển sách ấy và mở ra đọc. Những dòng chữ in nghiêng ở trang đầu tiên làm cho tôi phải nhổm người dậy:
Có mối liên hệ trực tiếp giữa cảm xúc và hành vi của trẻ.
Khi trẻ cảm thấy dễ chịu, chúng sẽ cư xử đúng mực.
Chúng ta phải làm sao để giúp trẻ cảm thấy dễ chịu?
- Hãy chấp nhận cảm xúc của chúng!
Tôi nằm xuống gối, nhắm nghiền mắt lại. Mình đã thừa nhận cảm xúc của học sinh hay chưa? Tôi nhớ lại đôi ba lời đối đáp đã xảy ra giữa mình với học sinh trong tuần đó:
Học sinh: Thưa cô, em không viết được!
Tôi: Sao không được?
Học sinh: Thiệt mà! Em chẳng nghĩ ra cái gì để viết cả. Tôi: Em phải cố mà nghĩ! Đừng có rên rỉ nữa! Viết đi!
Học sinh: Em ghét môn lịch sử! Ai thèm quan tâm đến những chuyện đã xảy ra cách đây cả trăm năm chứ!
Tôi: Em phải quan tâm! Ai cũng cần phải biết rõ về lịch sử nước mình.
Học sinh: Nhưng nó chán ngắt!
Tôi: Chán gì mà chán! Nếu chú ý thì em sẽ thấy nó rất hay.
Thật nực cười! Tôi vốn là người vẫn thường thuyết giáo cho học sinh về việc mỗi cá nhân đều có quyền có quan điểm và cảm xúc riêng. Thế nhưng, trong thực tế, hễ khi nào bọn trẻ bộc lộ cảm xúc là tôi lại dập tắt đi ngay. Tôi bắt bẻ, tranh luận với chúng. Như vậy, thông điệp
ngầm mà tôi chuyển đến chúng là, “Em cảm thấy như thế là sai rồi. Hãy nghe theo lời cô đi.”
Tôi ngồi dậy và cố nhớ xem các thầy cô của mình ngày xưa có làm như thế với mình không. Có một lần ở trường trung học, khi tôi đang buồn vì lần đầu tiên bị điểm thấp môn toán, mà giáo viên dạy toán lại cứ cố nhồi vào đầu tôi một lời động viên, “Chẳng việc gì phải buồn bực cả, Liz. Không phải vì em thiếu khả năng về môn hình học, chỉ vì em chưa tập trung chú ý thôi. Em cần phải quyết tâm hơn nữa. Vấn đề nằm ở chỗ ý chí của em dở quá!”
Đương nhiên là thầy nói đúng, và tôi hiểu rất rõ ý thầy, nhưng những lời ấy lại khiến tôi cảm thấy mình ngu ngốc và kém cỏi quá chừng. Tới chỗ “em dở quá”, tôi không thèm lắng nghe nữa mà cứ nhìn bộ ria mép của thầy động đậy lên xuống, và ráng chờ cho thầy nói xong để chuồn cho lẹ. Phải chăng học sinh của tôi giờ đây cũng cảm thấy như thế về tôi?
Trong những tuần sau đó, tôi cố gắng phản ứng một cách nhạy cảm hơn với những cảm xúc của học trò mình, và cố đáp lại chúng một cách thỏa đáng:
“Muốn chọn một đề tài để viết thật chẳng dễ, đúng không em?”
“Cô hiểu em nghĩ gì về môn lịch sử. Em đang phân vân tại sao người ta lại quan tâm đến những việc đã xảy ra cách đây hàng trăm năm chứ gì.”
Cách này chính là lối thoát. Tôi có thể nhận thấy ngay rằng bọn trẻ đã có biến đổi. Chúng gật đầu, nhìn thẳng vào mắt tôi, và nói cho tôi nghe thêm về những gì chúng đang nghĩ. Nhưng bỗng một ngày kia, Alex tuyên bố, “Em không muốn tới phòng thể dục nữa, không ai ép được em đâu!” Học trò gì mà ăn nói láo lếu như thế, làm sao mà
chịu nổi cơ chứ! Không chần chừ một phút, bằng cái giọng khô khốc, tôi đáp, “Em phải đến phòng tập ngay, không thì em phải lên văn phòng!”
Tại sao việc thừa nhận những cảm xúc của trẻ lại khó đến thế? Vào bữa trưa, tôi đem câu hỏi đó ra hỏi Jane và các giáo viên ngồi cùng bàn ăn; tôi cũng kể với họ mình đã đọc được gì và đang nghĩ gì.
Chị Maria Estes, một phụ huynh tình nguyện[1], lập tức lên tiếng bênh vực giáo viên, “Mỗi thầy cô phải dạy hàng mấy chục học sinh, và phải dạy chúng bao nhiêu là thứ. Cô ép mình phải lưu ý đến từng lời nhỏ nhặt như thế làm gì!”
Jane thì tỏ ra trầm tư, “Có lẽ vậy, nhưng phải chi hồi trước cha mẹ và thầy cô của chúng ta chịu khó để ý một chút về lời nói của họ , thì ngày nay chúng ta đã không bị thiếu quá nhiều kiến thức chưa được học như vậy. Nói thẳng ra, chúng ta là sản phẩm của quá khứ chúng ta. Bây giờ, chúng ta nói chuyện với học sinh của mình theo cái cách hệt như ngày xưa cha mẹ và thầy cô đã nói với chúng ta. Tôi biết, ngay cả với tụi nhóc ở nhà, tôi cũng phải mất rất nhiều thời gian để thôi không lặp lại những câu rập khuôn hồi xưa nữa. Đó là một bước tiến rất lớn đối với tôi, nhờ biết chuyển câu ‘Đau gì chứ! Chỉ là một vết xước tí tẹo thôi mà!’ thành ‘Ừ, trầy da là đau lắm đó!’”
Ken Watson, thầy giáo dạy môn khoa học, vặn lại, “Tôi không đồng ý. Tôi thấy nói như vậy thì có gì khác đâu.”
Tôi còn đang vắt óc tìm một ví dụ để Ken Watson tự mình nghiệm ra sự khác nhau giữa hai câu đó thì đã nghe Jane bảo, “Ken à, hãy tưởng tượng thế này nhé, anh là một cậu thiếu niên vừa được gọi vào đội bóng rổ, bóng đá, hay bóng gì gì đó của trường.”
Ken mỉm cười, “Bóng đá đi.”
“Ờ, bóng đá,” Jane gật đầu, “Vậy hãy tưởng tượng, anh đang hăm hở đến buổi tập đầu tiên thì gặp ông huấn luyện viên độp ngay một câu rằng, anh đã bị loại khỏi danh sách đội bóng.”
Ken rên lên.
“Một lát sau,” Jane nói tiếp, “anh gặp giáo viên chủ nhiệm ở hành lang và kể cho cô ấy nghe hết mọi chuyện vừa xảy ra. Giờ, giả sử tôi là cô giáo đó nhé, và tôi đã phản hồi theo rất nhiều cách, nhưng khổ nỗi, không một cách nào thích hợp với tâm trạng buồn bã mà thằng bé bên trong anh đang cảm nhận, hoặc nghĩ tới sau mỗi lời đáp của tôi.”
Ken cười toe, rút ra một cây viết và với lấy một tờ khăn giấy.
Sau đây là những giả thiết khác nhau về những lời mà Jane - trong vai cô giáo chủ nhiệm - đã đáp lại “học sinh” Ken:
1. Chối bỏ cảm xúc
“Lúc này em có đau khổ, giận hờn cũng chẳng giải quyết được gì. Trái đất có nổ tung vì em bị loại khỏi đội bóng đâu. Thôi, quên việc đó đi!”
2. Triết lý
“Cuộc đời vốn không công bằng mà, nhưng em phải học cách chịu đựng những cú đấm của nó thôi!”
3. Khuyên răn
“Em đừng mất tinh thần vì chuyện này. Hãy cố gắng rèn
luyện để được vào một đội khác.”
4. Chất vấn
“Em có nghĩ ra lý do vì sao mình bị loại không? Chắc tại các bạn khác chơi giỏi hơn em chứ gì? Thế em bây giờ định làm gì?”
5. Bênh vực phía bên kia
“Em hãy thử đặt mình vào vị trí của huấn luyện viên xem. Thầy ấy muốn xây dựng một đội bóng chiến thắng. Chắc hẳn thầy ấy đã rất khó khăn khi phải quyết định ai ở lại, ai ra khỏi đội.”
6. Thương hại
“Ối, tội nghiệp em quá! Cô hiểu em thấy thế nào mà. Em đã cố gắng rất nhiều để được chọn vào đội tuyển, nhưng em chưa đủ giỏi. Tất cả các bạn khác đều biết thế.”
7. Nhà phân tích tâm lý nghiệp dư
“Em có nghĩ rằng lý do thật sự của việc bị gạt ra khỏi đội bóng chính là vì thái độ ‘thiếu lửa’ của em không? Cô nghĩ, trong tiềm thức, em vốn không muốn vào đội, vì vậy em mới cố ý làm rùm beng chuyện này lên.”
Ken giơ hai tay lên trời, “Thôi, thôi! Đủ rồi. Tôi hiểu rồi.”
Tôi nói Ken cho tôi xem anh vừa mới viết ra những gì. Anh đẩy cho tôi tấm khăn giấy. Tôi đọc to lên:
“Đừng dạy em phải cảm thấy như thế nào.”
“Đừng dạy em phải làm gì.”
“Cô chẳng bao giờ hiểu được đâu.”
“Cô có biết phải làm gì với những vấn đề của cô không? Cô đứng về phía tất cả mọi người, ngoại trừ em.”
“Em là kẻ thua cuộc.”
“Đây là lần cuối cùng em thổ lộ bất cứ điều gì với cô.”
“Chết thật,” Maria thốt lên. “Tôi thường hay nói với thằng Marco nhà tôi rất nhiều câu giống như Jane vừa nói với Ken. Nếu không muốn chúng đốp chát lại như thế thì ta phải nói sao đây?”
“Thừa nhận tâm trạng thất vọng của chúng,” tôi trả lời rất nhanh. “Bằng cách nào?” Maria hỏi.
Tôi ngắc ngứ không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn Jane cầu cứu. Chị quay qua Ken và nhìn thẳng vào mắt anh, “Ken à, bị gạt khỏi đội bóng khi đã tin chắc là mình có tên trong danh sách hẳn là một cú sốc rất nặng, một nỗi thất vọng ghê gớm lắm, đúng không?”
Ken gật đầu, “Dạ, đúng ạ! Một cú sốc tệ hại. Thất vọng vô cùng. Nhưng thành thật mà nói, em thực sự cảm thấy nhẹ nhõm khi có người chịu hiểu điều đơn giản ấy.”
Sau đó chúng tôi còn thảo luận với nhau nhiều nữa. Maria thú thật là từ khi chị lớn lên, chưa từng có ai chịu thừa nhận hay hiểu những cảm xúc của chị cả. Ken hỏi, “Vậy tại sao chúng ta lại dám nghĩ
tới chuyện sẽ mang đến cho học trò những điều mà chính chúng ta cũng chưa từng có?”
Rõ ràng chúng ta cần luyện tập nhiều hơn nếu muốn áp dụng phương pháp phản hồi mới mẻ này với trẻ. Thế là tôi tự nguyện đi tìm những ví dụ về việc thừa nhận cảm xúc của học sinh trong trường học. Sau đây là các mẩu chuyện minh họa mà tôi đã soạn ra và chia sẻ với các đồng nghiệp cùng ăn trưa với mình:
Ken nhìn vào những hình vẽ minh họa và lắc đầu. “Về lý thuyết, tất cả những điều này nghe thì có vẻ hay lắm, nhưng tôi thấy, về phía giáo viên vẫn còn khó khăn. Chúng ta lấy đâu ra thời gian để giúp học sinh giải quyết cảm xúc của chúng đây?”
Mắt Jane lấp lánh như cười, “Phải tạo ra thời gian. Hãy tới
trường sớm hơn, và ra về trễ hơn. Hãy ăn trưa thật nhanh, và quên luôn giờ nghỉ để đi vệ sinh cá nhân.”
“Chà, đúng đấy,” Ken bổ sung, “và ngoài những lúc soạn giáo án, chấm bài, làm bản tin học tập, chuẩn bị hội thảo và lên lớp đều đều mỗi ngày... chúng ta nên chú ý đến việc học sinh của mình cảm thấy thế nào, hoặc vẽ ra cho chúng cái viễn cảnh mà chúng không thể có trong thực tại.”
Trong khi nghe Ken nói, tôi nghĩ bụng, “Làm thế hình như là đòi hỏi quá nhiều ở giáo viên.”
Dường như Jane đọc được suy nghĩ của tôi, chị liền bảo, “Nói một cách nghiêm túc, tôi biết như thế là đòi hỏi giáo viên quá nhiều, nhưng tôi cũng biết rằng đối với một đứa trẻ thì việc cảm thấy người khác hiểu được mình là rất quan trọng. Có một thực tế rất đơn giản là khi bọn trẻ bị ức chế về mặt cảm xúc chúng không thể nào tập trung được. Như vậy, chắc chắn chúng sẽ không tiếp thu được bài mới. Nếu muốn giúp chúng hết căng thẳng để bình tĩnh suy nghĩ, học hành, ta cần phải xử lý những cảm xúc của chúng một cách đầy tôn trọng.”
“Nhưng không chỉ ở trường mới phải giải quyết cảm xúc thôi đâu, mà còn ở nhà nữa.” Maria xen vào.
Tất cả chúng tôi quay qua nhìn chị. “Khi tôi chín tuổi,” chị giải thích, “gia đình tôi chuyển nhà và tôi phải học trường khác. Cô giáo mới rất nghiêm khắc. Lần nào làm kiểm tra môn số học, tôi cũng bị cô phát lại bài làm với đầy những dấu gạch chéo màu đen to tướng ở những câu trả lời sai. Rồi cô bắt tôi làm đi làm lại, đến chừng nào đúng mới thôi. Tôi lo sợ mỗi khi đến tiết học của cô tới mức chẳng suy nghĩ được gì nữa. Thỉnh thoảng, tôi cố chép lại bài của bạn khác. Vào mỗi buổi tối trước ngày kiểm tra, tôi luôn bị đau bụng. Hễ tôi nói
với mẹ ‘Mẹ ơi, con sợ,’ thì bà lại bảo ‘Chẳng việc gì phải sợ cả, cứ làm hết sức mình là được.’ Còn cha tôi thì khuyên, ‘Nếu học bài kỹ thì con sẽ chẳng phải sợ gì cả.’ Nghe vậy, tôi càng cảm thấy hoảng hốt hơn.”
Ken nhìn Maria đăm đăm, “Giả sử cha hoặc mẹ chị bảo ‘Trông con có vẻ lo lắng về bài kiểm tra quá đấy, Maria,’ thì sự việc sẽ khác đi chăng?”
“Tất nhiên rồi!” Maria phấn khởi cao giọng. “Bởi vì khi đó có thể tôi sẽ nói thật với cha mẹ về những dấu gạch chéo lên các câu trả lời sai, cũng như nỗi xấu hổ vì cứ phải hết lần này tới lần khác bị nêu tên khiển trách trước lớp.”
Ken vẫn chưa tin, “Nhưng ngay cả khi đã được cha mẹ giải tỏa cảm xúc rồi thì có đủ để giúp chị bớt lo lắng và làm tốt môn toán không?”
Maria trầm giọng, “Chắc là được, tôi nghĩ vậy,” chị nói chậm rãi, “bởi vì nếu cha mẹ chịu lắng nghe những nỗi lo âu của tôi và để cho tôi nói rõ về chúng, thì ngày hôm sau tôi sẽ yên tâm đi học hơn, sẽ mong muốn đạt điểm tốt hơn.”
Vài ngày sau cuộc trò chuyện ấy, gặp lại Maria, tôi thấy chị mỉm cười rạng rỡ và lôi từ trong ví ra một tờ giấy nhỏ gấp đôi, hào hứng nói, “Tôi muốn kể cho mọi người nghe mấy câu mà các con tôi đã nói trong tuần này. Sau khi tôi kể xong, mọi người hãy đoán xem tôi đã không nói gì với chúng. Bắt đầu là câu nói của con gái tôi, cháu tên Ana Ruth.” Maria mở tờ giấy ra và đọc, “Mẹ, cô dạy thể dục bắt một mình con phải chạy nhiều vòng quanh sân, bởi vì con không thay đồ nhanh bằng các bạn, thế là con bị bắt chạy cho cả lớp coi đó mẹ.”
Ken trả lời ngay lập tức, “Chị đã không nói ‘ Vậy chứ con muốn cô
giáo làm gì? Vỗ tay khen con chắc? Hay thưởng cho con huy chương người chậm nhất?’”
Mọi người bật cười. Maria tiếp, “Giờ đến câu của con trai tôi, cháu Marco, ‘Mẹ, đừng bực mình nhé. Con làm mất găng tay rồi.’”
“Để tôi trả lời câu này,” Jane đáp. “Con nói gì hả? Đây là đôi găng tay thứ hai con làm mất trong tháng này rồi đấy. Con nghĩ ba mẹ in ra tiền à? Mai mốt, khi tháo găng tay ra, con nhớ nhét nó vào túi quần luôn nghe chưa. Rồi trước khi xuống xe buýt, hãy kiểm tra chỗ ngồi và dưới sàn xe để xem nó có rơi ra không.”
“Khoan. Nói câu đó thì có gì sai?” Ken hỏi. “Chị đang dạy thằng bé về tinh thần trách nhiệm mà.”
“Nhưng thời điểm nói thì sai,” Jane nói.
“Tại sao?”
“Bởi vì khi người ta đang chìm thì không phải là lúc để bạn dạy họ tập bơi.”
“Hừm. Tôi phải nghĩ kỹ về điều này mới được...” Ken nói, rồi chỉ vào tôi, “Nào, giờ đến lượt cô, Liz à.” Maria nhìn vào tờ giấy và nói, “Còn đây cũng là câu nói của Ana Ruth, ‘Con chẳng biết là mình có còn muốn ở trong dàn nhạc giao hưởng nữa hay không.’”
Tôi đốp liền, “ Mẹ đã tốn cả đống tiền cho con học đàn violin, mà giờ con nói đến chuyện bỏ học hả! Ba con mà nghe được thì sẽ điên lên cho xem .”
Maria nhìn chúng tôi kinh ngạc, “Sao mọi người biết rõ những gì tôi đã suýt nói ra thế?”
“Quá dễ,” Jane bảo. “Đó là những gì cha mẹ chúng ta đã nói với chúng ta, và cho đến giờ đấy vẫn là những gì tôi thường nói với con cái mình.”
“Maria,” Ken nói, “đừng thử thách chúng tôi nữa. Chị đã nói gì với các con thế?”
“Thế này nhé,” Maria tự hào trả lời, “Khi Marco không thể tìm thấy đôi găng tay mới của nó, tôi đã không quở trách tiếng nào, mà chỉ, ‘ Mất đồ thì bực mình lắm... Con nghĩ thử xem có khi con bỏ quên nó trên xe buýt không?’ Thằng bé trố mắt nhìn tôi như thể không tin vào tai mình. Rồi nó bảo sáng mai sẽ hỏi bác lái xe buýt xem có nhìn thấy găng tay của nó không.
“Đến khi Ana Ruth kể cho tôi nghe vụ cô giáo thể dục bắt nó chạy trước lớp, tôi bảo, ‘Chắc là quê lắm phải không con?’ Con bé bảo, ‘Đúng đó, mẹ,’ rồi chuyển qua đề tài khác. Đó là điều bất thường đối với Ana Ruth, bởi vì con bé có bao giờ chịu kể cho tôi nghe đầy đủ những gì đã diễn ra ở lớp nó đâu.
“Nhưng đáng ngạc nhiên nhất là việc xảy ra sau đó. Sau khi đi học nhạc về, Ana bảo, ‘Con chẳng biết mình có còn muốn ở trong dàn nhạc giao hưởng hay không nữa.’ Nghe con bé nói vậy, tôi muốn ngộp thở, nhưng vẫn cố làm ra vẻ bình thản, ‘ Thì ra con nửa muốn, nửa không hả.’ Con bé lặng đi. Rồi nó bắt đầu nói tất tần tật mọi thứ. Nó bảo rất thích chơi đàn, nhưng việc luyện tập lại tốn nhiều thời gian quá làm nó chẳng còn lúc nào gặp bạn bè, để bây giờ lũ bạn không thèm gọi điện cho nó nữa, chắc là chúng nghỉ chơi nó mất rồi. Nói tới đó, con bé òa khóc, và tôi ôm lấy nó.”
“Ồ, Maria,” tôi nói, xúc động sâu sắc trước kinh nghiệm của chị.
“Buồn cười quá phải không?” Jane nói. “Ana Ruth không thể thổ lộ cho chị biết điều gì đã khiến con bé lo lắng, cho đến khi chị thừa nhận tâm trạng bị xáo trộn của nó.”
“Đúng vậy,” Maria sung sướng nói, “và một khi vấn đề thật sự được khơi mở, Ana sẽ tự tìm ra cách giải tỏa cảm xúc của mình. Ngày hôm sau, con bé bảo với tôi là nó quyết định ở lại dàn nhạc và sẽ kết bạn mới ở đó.”
“Tuyệt quá!” tôi thốt lên.
“Đúng,” Maria nói, hơi nhíu mày, “nhưng đấy mới chỉ là những việc suôn sẻ thôi, chứ tôi vẫn chưa kể cho mọi người nghe điều gì đã xảy ra khi Marco bảo với tôi là nó ghét thầy Peterson.”
“Ố... cái này gay cấn đây,” tôi nói. “Nhớ năm ngoái chị đã trợ giảng ở lớp thầy Peterson mà.”
Maria trầm ngâm, “Thầy ấy là một giáo viên giỏi. Rất xuất sắc!”
“Đúng, ý tôi là vậy đấy,” tôi nói. “Chị thấy khó xử đúng không? Một mặt, chị muốn bảo vệ cảm xúc của con mình. Mặt khác, chị đánh giá cao thầy Peterson và không muốn về hùa với con để phê bình chỉ trích thầy ấy.”
“Đâu phải chỉ riêng thầy Peterson,” Maria nói. “Có lẽ tôi hơi cổ hủ, nhưng tôi được nuôi dạy để tin rằng, cho phép trẻ nói xấu bất kỳ một giáo viên nào đều là việc không đúng.”
Jane cao giọng phản đối, “Nhưng ủng hộ con trai đâu có nghĩa là chị chê bai thầy Peterson.” Lập tức, Jane phác thảo ngay ra một mẫu hình ứng xử của cha mẹ khi trẻ than phiền về thầy cô của chúng. Sau
đó, tất cả chúng tôi cùng thảo luận để đưa ra một mẫu đối thoại tốt nhất. Cái khó của chúng tôi là phải tránh đồng tình với trẻ, hoặc hạ thấp giáo viên của chúng. Sau đây là những gì chúng tôi đã nghĩ ra:
Rồi bỗng nhiên chuông reo váng lên. Thầy Ken bưng khay đồ ăn trưa lên và nói, “Tôi vẫn thấy chưa thông tất cả những cách này. Có thể chúng hợp lý với cha mẹ, nhưng với giáo viên, tôi nghĩ chỉ cần là người có đủ những phẩm chất tốt, yêu trẻ, kiến thức chuyên môn vững vàng và biết cách giảng bài sinh động là được.”
“Rủi thay,” Jane nói, bước ra cùng với Ken, “lại không phải thế. Nếu anh muốn học trò của mình hiểu bài, thì anh phải để các em có tâm trạng thoải mái để sẵn sàng tiếp thu bài giảng.”
Bị tụt lại đằng sau mọi người, tôi muốn nói thêm nữa nhưng chẳng biết phải nói ra sao. Chiều hôm đó, trên đường lái xe về nhà, tôi ngẫm lại những câu mình đã nói với học sinh trong tuần qua, và cảm thấy mình dần dần bị cách ứng xử của Maria thuyết phục.
Tôi ước gì hồi trưa mình đã chia sẻ ý nghĩ này với Ken:
Là giáo viên, mục tiêu của ta không chỉ là truyền tải kiến thức và thông tin cho học sinh, mà còn phải làm nhiều hơn thế nữa.
Nếu muốn học sinh trở thành những người biết quan tâm đến người khác, ta cần chú ý đến cách mà ta phản hồi lại chúng.
Nếu muốn đánh giá đúng phẩm chất của bọn trẻ, ta cần có những mẫu phương pháp đúng thì mới mong làm được điều đó.
Nếu muốn truyền lòng tự trọng và tôn trọng người khác vào thế giới của trẻ, ta cần bắt đầu bằng cách tôn trọng chúng. Và ta sẽ không thể được làm điều đó, nếu không biết tỏ ra tôn trọng những gì chúng cảm thấy.
GHI NHỚ
TRẺ CẦN ĐƯỢC THỪA NHẬN CẢM XÚC
cả ở nhà lẫn ở trường
Trẻ: Con chỉ thiếu cẩn thận chút xíu mà còn có bảy mươi điểm!
Người lớn: Không sao đâu con! Lần sau con sẽ làm tốt hơn mà. Thay vì lơ đi cảm xúc của trẻ, bạn có thể:
1. Xác định xem chúng đang cảm thấy thế nào
“Con có vẻ thất vọng quá ha! Nghĩ cũng tức thật đấy, đã biết câu trả lời rồi mà lại để mất điểm chỉ vì hơi ẩu.”
2. Thừa nhận cảm xúc của trẻ bằng một từ hoặc một âm tiết “Ồ”, “Ô”, “Ừm”, “À” hay “Ra vậy”.
3. Đưa ra viễn cảnh mà trong thực tại trẻ đã không làm được
“Phải chi có một cây bút phép thuật, nó sẽ bảo ngay ‘đừng viết như thế!’ khi con sắp phạm lỗi thì hay biết mấy, nhỉ!”
4. Thừa nhận cảm xúc của trẻ, ngay cả khi bạn đang cố uốn nắn những hành vi không thể chấp nhận được
“Con xô bàn đá ghế chỉ vì vẫn còn tức bị mất mấy điểm đó sao? Con không được phép làm như vậy. Nhưng con có thể kể mẹ nghe tại sao con lại bực đến thế. Nếu không, con hãy ghi hay vẽ nó ra giấy cũng được.”
NHỮNG THẮC MẮC, CHUYỆN KỂ CỦA PHỤ HUYNH VÀ GIÁO VIÊN
? Những thắc mắc của phụ huynh
1. Thỉnh thoảng thằng con bảy tuổi của tôi, Billy, lại mất bình tĩnh trong khi làm bài tập về nhà. Nếu không làm được toán hay gặp mắc mứu gì đó, nó sẽ lập tức xé tập quẳng xuống sàn hoặc bẻ bút chì. Tôi phải làm gì trước những cơn nóng nảy của thằng bé?
Billy cần cha hoặc mẹ giúp cháu xác định cảm xúc của mình, cũng như dạy cháu cách xử lý cảm xúc đó. Cần có ai đó nói với cháu rằng, “Tìm mãi mà không ra câu trả lời đúng là bực mình thật! Nó khiến con muốn xé, muốn bẻ, hay quăng một vật gì đó, đúng không? Billy à, hễ khi nào con cảm thấy như thế thì hãy la lên, ‘Ba ơi, con bựựccc mììnnh quá! Ba giúp con đi!’ Rồi thì ba con mình sẽ cùng nhau tìm hiểu xem có chuyện gì nhé.”
2. Trong suốt tuần qua, đưa con gái mười ba tuổi của tôi cứ buồn rầu đến mức không sao làm nổi bài tập về nhà, cũng chẳng tập trung tâm trí học bài thi giữa kỳ được. Hình như con bé đã rất tin tưởng mà thổ lộ với nhỏ bạn thân rằng nó “thích” một cậu trai nào đó, nhưng cô bạn này đã nhanh nhảu đi báo ngay cho cậu kia biết. Sau khi đã bày tỏ sự đồng cảm về việc bị phản bội thì đau lòng ra sao, tôi không còn biết phải nói gì hay phải khuyên con như thế nào nữa. Tôi nên khuyên nhủ con làm gì?
Một trong những vấn đề của việc đưa ra lời khuyên là, trong lúc tâm trạng trẻ đang bị xáo trộn, chúng không thể nghe được lời bạn đang nói, cho dù chính chúng đã nài nỉ “Mẹ, con phải làm sao đây?”. Lúc đó, chúng đang đau khổ, rối trí, và lời khuyên vội vã của bạn có thể trở nên phản tác dụng (“Mẹ nói thế thì ích lợi gì cho con chứ?”), hoặc xâm phạm sự riêng tư (“Đừng dạy con phải làm gì!”), hoặc hạ thấp phẩm giá (“Ý mẹ là con ngu chứ gì, chẳng lẽ con không tự tìm được cách giải quyết việc của mình hay sao?”), hoặc đe dọa (“Mẹ nói nghe hay đấy, nhưng con không bao giờ làm theo đâu!”).
Trước khi bình tâm để có thể nghĩ đến những giải pháp, con gái bạn còn bao nhiêu mối lo mà cô bé muốn chia sẻ với mẹ: “Con có nên mắng cho nhỏ bạn con một trận không? Nhưng mắng nó thế nào đây mẹ? Nó còn đáng tin cậy nữa không? Con có cần phải cố giữ tình bạn với nó không? Con có phải nói gì với bạn nam kia không? Nếu có thì phải nói gì hả mẹ?” Tất cả những trăn trở đó sẽ giúp cô bé có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về những mối quan hệ giữa con người với con người. Nếu đưa ra lời khuyên ngay lập tức, có thể bạn sẽ cắt đứt một kinh nghiệm học hỏi quan trọng của con bạn đấy.
3. Chẳng lẽ không bao giờ có thời điểm cho lời khuyên sao?
Sau khi con bạn đã “được lắng nghe thấu đáo”, bạn có thể thận trọng hỏi lại rằng, “Con cảm thấy như thế nào về...?”, “Con thử nghĩ xem thế này... có ích gì không?”, “Làm như vầy... con thấy thế nào?”, “Con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu như...?” Bằng cách đưa ra những lựa chọn để trẻ chấp nhận, phản đối hay suy xét những giải pháp đề nghị của bạn, tức là bạn đã khiến trẻ chịu nghe những ý kiến của bạn, và nó sẽ cân nhắc những ý kiến ấy.
4. Dạo gần đây, con trai tôi cứ đi tới đi lui khắp nhà và cằn nhằn về thầy dạy môn xã hội của nó, “Thầy bắt tụi con phải đọc báo hàng ngày và thảo luận hàng tuần. Lúc nào thầy cũng bắt làm bài kiểm tra. Có ai bắt tụi con phải học nhiều như thầy M. đâu!” Tôi không biết phải trả lời nó như thế nào. Đã tới lúc tôi bắt đầu cảm thấy tội nghiệp cho con mình.
Con trai bạn không cần sự thương hại của bạn. Cái cháu cần là sự thông hiểu và đánh giá đúng mực về sự việc mà nó đang phản đối. Bạn có thể nói với con bạn, bất cứ lời nào trong số những gợi ý sau đây. Chúng có thể sẽ hữu ích:
“Thì ra thầy M. thúc ép các con học nhiều quá hả!”
“Mẹ thấy con bực bội về chuyện đó quá nhỉ!”
“Mẹ dám cá rằng con mà là giáo viên thì thỉnh thoảng con sẽ cho lớp nghỉ hẳn một ngày, đúng không?”
“Coi bộ thầy M. là người nghiêm khắc và yêu cầu cao quá ha. Chắc là phải mệt đứt hơi mới theo kịp những tiêu chuẩn của thầy đặt ra đấy nhỉ!”
5. Tôi phải làm thế nào khi con tôi nhất định không chịu thổ lộ với tôi những gì nó đang cảm thấy buồn bực?
Là người lớn, chúng ta cũng có những cảm xúc mà mình không hề muốn - có khi là mãi mãi - bày tỏ hay tâm sự với người khác. Có người trong chúng ta thích một mình nếm trải nỗi đau, nỗi buồn phiền, những uất ức, những nỗi xấu hổ hơn. Trẻ em cũng chẳng khác gì người lớn. Chúng cũng phát đi những tín hiệu rõ ràng khi chúng muốn ở một mình để tự chăm sóc vết thương lòng. Thậm chí khi đã nghe câu nói đầy thông cảm kiểu như, “Hôm nay có chuyện gì hay sao ấy!” chúng vẫn quay mặt đi, hoặc bỏ ra khỏi phòng, hoặc nói thẳng với bạn, “Con không muốn nói về việc đó đâu!” Tất cả những gì bạn có thể làm là hãy cho chúng biết rằng, bạn luôn sẵn sàng ở bên chúng, nếu chúng đổi ý và muốn tâm sự.
Chuyện kể của phụ huynh
Chuyện thứ nhất do một bà mẹ kể lại việc chồng bà đã giúp con trai giải tỏa “những lo âu của tuần đầu tiên đi học” như thế nào.
Vào ngày thứ hai của năm học mới, tôi phải cố hết sức để đưa tụi
nhóc vào nề nếp đi ngủ sớm hơn. Đứa nào cũng nghe lời, trừ Anthony, thằng con chín tuổi của tôi. Nó cứ hét lên và cãi lại, nhất quyết không chịu lên giường ngủ cho dù tôi hết quát tháo lại năn nỉ dỗ dành. Cuối cùng, tôi đành gọi chồng, “Joe, anh ra mà dạy ‘con trai anh’ đi, em chịu nó rồi đấy!” Và dưới đây là những gì xảy ra tiếp theo:
Joe: Tony ơi, ba con mình nói chuyện chút nha. Mẹ bảo con quậy làm mẹ mệt quá hả. Có chuyện gì vậy con? Ba thấy cứ như có con gì sắp ăn thịt con không bằng!
Anthony: Con đang phải lo nhiều việc lắm!
Joe: Ồ ba muốn nghe quá. Nghe hết luôn. Nào, ba con mình nói chuyện đó trên phòng con nhé.
Thế rồi hai cha con dắt nhau lên phòng Anthony. Hai mươi phút sau, Joe bước ra, với vẻ hớn hở và hài lòng vô cùng.
Tôi: Chuyện gì vậy, anh?
Joe: Có gì đâu. Anh cho con ngủ rồi.
Tôi: Anh làm sao hay vậy?
Joe: Anh viết những nỗi lo âu của con ra.
Tôi: Thế á?
Joe: Rồi anh đọc lại cho nó nghe.
Tôi: Rồi sao nữa?
Joe: Anh bảo để đến cuối tuần anh sẽ giúp con xử lý những lo lắng
đó, thế là thằng bé đút tờ danh sách xuống gối, mặc áo ngủ vào và ngủ ngay.
Sáng hôm sau, trong khi tôi đang thay tấm khăn trải giường cho Anthony thì tờ danh sách rơi ra. Trong đó ghi như thế này:
Những điều khiến Anthony lo lắng
° Toa-lét và phòng học dơ bẩn.
° Sân trường không đủ chỗ để chạy nhảy thoải mái.
° Muốn có thêm quần áo đi học.
° Có vô số việc phải làm ở trường và phải mang hàng đống tập vở. (Quá nhanh để bắt đầu nhiều việc như vậy!)
° Muốn có thêm tiền để ăn quà trong trường.
° Chiếc xe đạp bị làm sao ấy. Cứ tuột xích hoài.
° Bị rơi mất hai mươi lăm xu vào gầm máy giặt. (Mình buồn lắm vì chỉ có mỗi một ít tiền mà cũng làm mất!)
° Chắc là chuyện tiêu xài sẽ thoải mái hơn nếu ba cho mình tấm ngân phiếu một trăm đô-la.
Tôi cười tủm tỉm khi đọc tờ giấy đó. Ai bảo chỉ người lớn mới có những “vấn đề thật sự”? Thật dễ quên là con nít cũng có những mối bận tâm ghê gớm của chúng. Và cũng giống như chúng ta, chúng cần ai đó lắng nghe và hóa giải những lo lắng của chúng một cách hợp lí.
✳ ✳ ✳
CHUYỆN THỨ HAI kể lại việc một bà mẹ đã giúp con gái vượt qua nỗi ngán ngẩm vì thủ tục làm hồ sơ xét tuyển đại học.
Hầu như tất cả học sinh lớp cuối cấp đều đã nộp đơn xét tuyển vào đại học, trừ con gái tôi, Karen. Con bé có tật hay để mọi thứ đến phút chót mới chịu làm, nhưng lần này thì đúng là quá tệ. Mặc dù tôi đã cố kìm nén không cằn nhằn, mắng mỏ, hay chì chiết nó mỗi khi có dịp, nhưng chẳng ăn thua. Đến lượt ba nó thủ thỉ, khuyên giải, dụ dỗ nó hãy làm hồ sơ. Rất kiên nhẫn, ba con bé nêu ra những điều mà anh ấy nghĩ trường đại học muốn biết về thí sinh, thậm chí còn sẵn sàng giúp nó viết một dàn ý cho bài luận. Karen hứa cuối tuần sẽ xong xuôi, nhưng rồi vẫn chẳng chịu làm.
Nhiều ngày trôi qua, tôi bắt đầu phát cáu và quát mắng nó. Tôi cảnh cáo nó rằng nếu không làm hồ sơ ngay đi thì nó sẽ chẳng bao giờ vào được một trường đại học nào tử tế. Vậy mà Karen vẫn không hề nhúc nhích.
Thế rồi, trong một khoảnh khắc vô tình - phát sinh do quá tuyệt vọng - tôi cay đắng nói, “Trời ơi, làm hồ sơ xét tuyển đại học sao mà kinh hoàng vậy không biết! Phải trả lời đủ thứ câu hỏi, phải viết một bài luận về quyết định chọn trường của mình. Đúng thật là trì hoãn càng lâu càng tốt!”
Con bé vọt reo lên thật to, “Đúng đó, mẹ!”
Tôi bảo, “Phải chi người ta dẹp luôn cái việc nộp hồ sơ xét tuyển đi. Tất còn tất cả các nhân viên hành chính của trường đại học đều có bằng ESP cả, giá như họ tự biết mình may mắn thế nào khi có con vào học ở đó thì hay biết mấy! Con sẽ chìm ngập trong những lời mời gọi vào học cho xem!”
Karen bật cười khoái chí và tung tăng lên lầu đi ngủ. Chiều hôm sau, nó bắt đầu làm hồ sơ thực sự. Đến cuối tuần, tất cả giấy tờ cần thiết đã được gửi đi theo đường bưu điện!
✳ ✳ ✳
Chuyện thứ ba là kinh nghiệm của một bà mẹ khi phải đương đầu với bệnh tật kinh niên của con.
Con trai tôi, TJ, mới mười một tuổi nhưng đã phải đeo máy điều hòa nhịp tim và một cặp kính đặc biệt để giống đỡ mí mắt yếu ớt của cháu. Giờ đây cháu lại phải đeo thêm cái máy trợ thính nữa. Khi từ chỗ đo máy trợ thính về nhà, cháu tuyên bố, “Lẽ ra mẹ không nên mua cái máy kỳ cục này. Con sẽ không đeo nó tới trường đâu. Con sẽ vứt nó vào sọt rác. Không thì con sẽ quẳng nó vào toa-lét!”
Đang lái xe mà tim tôi như thắt lại, sầu não, tôi biết mình phải im lặng cho tới khi nghĩ ra được câu gì đó mà không làm cho sự việc xấu đi. Con trai tôi quay qua, nhắc lại, “Mẹ có nghe con nói không vậy?”
Tôi đáp (ơn Chúa), “Mẹ vừa nghe có một thằng bé cực ghét việc đeo máy trợ thính, bởi vì cảm thấy đó là điều tệ hại nhất mà nó có thể tưởng tượng ra!”
TJ ngồi thừ một lúc. Sau đó cháu bảo, “Đúng vậy... nếu có ai ở trường trêu chọc thì con sẽ không bao giờ đeo nó nữa đâu!”
Tôi dừng xe lại và đánh bạo nói, “Có lẽ con sẽ thích nếu chú thợ hớt tóc cắt cho con kiểu tóc để dài hai bên thái dương hơn một chút.”
TJ nói, “Đúng rồi, mình tới chỗ chú ấy liền đi mẹ.”
Tiếng nện thịch thịch trong ngực tôi dịu đi, và tôi thầm cảm ơn kỹ
năng mà mình vừa học được.
? Những băn khoăn của giáo viên
1. Trách nhiệm xử lý những cảm xúc của học sinh trong lớp học là của tôi à? Đó chẳng phải công việc của người tư vấn tâm lý sao? Tôi còn không đủ thời gian để giảng bài nữa kìa.
Đôi khi có những thứ cứ tưởng là “đường dài” nhưng hóa ra lại là “đường tắt”. Dành vài phút để tìm hiểu những cảm xúc mạnh của một học sinh sẽ tốt hơn là để cứ cho cảm xúc ấy dây dưa mãi rồi biến thành một vấn đề thực sự, làm mất nhiều thời gian quý báu của cả lớp học. Nếu làm như vậy, bạn sẽ đáp ứng được nhu cầu mà một đứa trẻ đang cần sự giúp đỡ của bạn.
2. Tôi chẳng nghe được điều gì khi hỏi học sinh của mình về cảm xúc của chúng. Chúng thường đáp, “Em không biết!” Tại sao lại thế?
Thông thường, trẻ sẽ không thoải mái khi người lớn muốn biết cảm xúc của chúng bằng những câu như xét hỏi, “Em cảm thấy sao?... Giờ em thấy thế nào?... Giận dữ?... Sợ hãi?... Tại sao em lại cảm thấy như thế?”
Những câu hỏi kiểu ấy dễ làm cho trẻ khép mình lại hơn là mở lòng ra. Trẻ đặc biệt chới với trước loại câu hỏi tại sao chúng lại cảm thấy thế này hay thế kia. Cái từ “ Tại sao ” bắt chúng phải giải thích, phải bênh vực cảm xúc của mình, bắt chúng phải nghĩ ra một lý do hợp lý, chấp nhận được - cái lý do đã khiến chúng có cảm xúc ấy. Mà thường thì trẻ chẳng biết lý do tại sao cả. Trẻ không biết vận dụng tâm lí tâm liếc để trả lời rằng, “Khi mấy đứa ở trạm xe buýt trêu chọc em thì đó chính là lúc chúng nó đấm vào lòng tự trọng của em.”
Khi trẻ không vui, điều khiến chúng xúc động nhất là cha mẹ hay giáo viên quan tâm, đoán ra được cái gì đang diễn ra bên trong nó. “Cô (thầy) biết bị trêu chọc thì buồn lắm, dù có vì lý do gì đi chăng nữa.” Câu nói đó hàm ý nhắc trẻ rằng, nếu chúng muốn nói thêm gì nữa thì người lớn sẽ luôn có mặt để chia sẻ cảm xúc với chúng.
3. Tiến sĩ cho rằng trẻ em cần được thừa nhận những cảm xúc tiêu cực nhất của nó. Liệu như thế có dẫn đến nguy cơ khiến trẻ hiểu sự thừa nhận của chúng ta là đồng ý, là cho phép chúng bộc lộ những cảm xúc xấu nhất không?
Điều đó sẽ không xảy ra nếu chúng ta phân biệt được sự khác nhau giữa cảm xúc và hành vi. Đúng, học sinh có quyền cảm thấy giận dữ và bộc lộ cảm xúc đó ra. Tuy nhiên, chúng không có quyền bộc lộ cơn bực tức theo cách gây hại cho người khác, cả về mặt thể xác lẫn tinh thần . Chẳng hạn, chúng ta có thể nói với David, “Em giận Michael đến nỗi phải đấm bạn ấy thì mới hả, nhưng David, thầy không cho phép học sinh của mình đánh nhau. Em hãy bộc lộ cơn tức giận của em với Michael bằng lời nói, chứ không phải bằng nắm đấm.”
4. Tôi có một học sinh trung học có hoàn cảnh gia đình tan vỡ. Tôi thật khó mà tỏ ra thông hiểu khi em ấy nói với tôi rằng “Em ghét cô,” “Cô tầm thường,” hoặc những lời lẽ mà tôi không tiện nhắc ở đây. Tôi không biết phải xử lý thế nào với học sinh ấy? Tiến sĩ có ý tưởng gì không?
Đôi khi, học sinh cá biệt muốn giỡn mặt giáo viên bằng cách cố ý nói bậy nhằm khiến cho họ nổi giận, hoặc chúng sẽ co lại phòng thủ. Một phần của trò đùa kiểu ấy là nhằm mục đích “tháo miệng giáo viên”[2], đẩy thầy cô vào một bài diễn thuyết đầy tức giận, dài dằng dặc và mất kiểm soát trước sự thích thú cười thầm của cả lớp. Thay vì
phản ứng theo cách đối đầu (sập bẫy của em học sinh ngổ ngáo ấy), bạn có thể ra vẻ thản nhiên và bảo, “Cô không thích em nói như thế. Nếu em đang bực bội thì hãy bình tĩnh chờ lúc khác và nói bằng một cách khác, cô sẽ vui lòng lắng nghe.”
5. Một học sinh mới đây đã kể cho tôi nghe về những khó khăn mà em gặp phải ở nhà. Đó là việc anh trai và cha mẹ em hay bất hòa, cãi cọ với nhau. Nhưng khi tôi vừa bảo, “Cô biết em không vui về việc đó, nhưng hãy nhìn vào tất cả những thứ mà em phải biết ơn,” thì em ấy òa khóc. Tôi đã làm gì sai?
Hãy chú ý đến từ “nhưng” trong lời nói của bạn. Nó xóa tan cảm xúc vừa được bày tỏ, và phát đi tín hiệu rằng “Cô sẽ giải thích tại sao cảm xúc của em là không quan trọng.” Trẻ em cần nghe thấy sự thừa nhận. một cách không săm soi - những cảm xúc của chúng trong khoảnh khắc đó. (“Cô biết em không vui về những chuyện xảy ra ở nhà. Em mong ước mọi người trong gia đình em hòa thuận với nhau đúng không nào.”) Phản hồi, chuyển tải đầy đủ sự thông hiểu - mà không lên mặt dạy đời - sẽ động viên trẻ làm quen cách đối mặt với những vấn đề của chúng.
Chuyện kể của giáo viên
CHUYỆN ĐẦU TIÊN do một giáo sinh (giáo viên thực tập) kể lại khi được phân công phụ trách một lớp mẫu giáo song ngữ.
Lớp học bắt đầu được vài tuần thì một bà mẹ, vừa mới chuyển đến sống trong vùng, đưa cậu con trai bé bỏng vào lớp. Bà giới thiệu cậu bé với cô giáo chính rồi ra về. Cô giáo mỉm cười hồn hậu, đưa cậu bé vào chỗ ngồi, trao cho cậu cây bút chì màu và giấy, rồi bảo với cậu là cả lớp đang vẽ một người thân trong gia đình. Bỗng nhiên, cậu bé òa khóc nức nở. Cô giáo nói bằng tiếng Tây Ban Nha, “Đừng có khóc
mà!” Tôi lại gần định dỗ cậu bé, nhưng cô giáo xua tôi đi. “Cứ để mặc nó,” cô nghiêm khắc, “kẻo nó sẽ khóc tới tháng sáu năm sau luôn đó.” Xong, cô quay trở lại bàn mình để làm nốt bản báo cáo.
Tôi cố lơ cậu bé đi, nhưng nó cứ khóc rống lên, nghe xót cả ruột. Không chịu nổi, tôi ngồi xuống bên cạnh và nhẹ nhàng vỗ lưng nó. Cậu bé gục đầu xuống bàn mà sụt sịt, “Con muốn mẹ cơ! Mẹ cơ!” Tôi thì thào với nó, tất nhiên là bằng tiếng Tây Ban Nha, “Con muốn gặp mẹ à?” Nó nhìn tôi trong làn nước mắt và nói “Dạ!”
Tôi nói, “Xa mẹ buồn lắm phải không con? Mặc dù biết là sẽ gặp mẹ ngay thôi, nhưng con vẫn không thể đợi nổi, đúng không nào? Vậy mình sẽ vẽ tranh về mẹ con nhé.” Tôi cầm bút sáp màu lên, vẽ một vòng tròn làm khuôn mặt, vẽ thêm cái mũi, thêm cái miệng. Rồi tôi đưa cây bút màu cho cậu bé và nói, “Nào, giờ đến lượt con vẽ mắt mẹ đi.”
Thằng bé nín khóc và cầm lấy mẩu sáp màu, vẽ hai cái chấm thật cẩn thận... Tôi bảo, “Con đã vẽ mắt cho mẹ rồi nè, vậy con muốn vẽ tóc của mẹ màu gì?” Thằng bé lấy một cây sáp màu đen và tiếp tục vẽ tóc. Khi tôi đi chỗ khác, nó vẫn miệt mài với bức tranh.
Tôi cảm thấy sung sướng quá đỗi. Tôi đoán, nếu mình lơ thằng bé đi thì chắc hẳn cuối cùng nó cũng thôi khóc. Nhưng bằng cách thừa nhận tâm trạng nhớ mẹ của nó, tôi biết mình đã giúp nó vượt qua cảm xúc đó.
✳ ✳ ✳
Tiếp theo là câu chuyện do một giáo viên phổ thông cơ sở kể lại việc đã dàn xếp một cuộc ẩu đả trong giờ ăn trưa, bằng cách thừa nhận cơn giận của hai học sinh.
Bỗng dưng tôi nghe có tiếng hú hét om sòm và thấy hai thằng bé đang nằm lăn dưới sàn. Tôi chạy tới, giật Manuel ra, nó đang ngồi đè lên và đấm thùm thụp vào ngực Julio. Đây là lời đối đáp sau khi tôi gỡ được cặp “đô vật” ra:
Tôi: Trời ơi, sao hai em lại nổi khùng với nhau?
Manuel: Nó đá vào giữa hai chân em!
Tôi: Ối, vậy thì đau ghê lắm! Nên em tức giận chứ gì? Julio: Còn nó thụi vào bụng em.
Tôi: Thế nên em mới đá bạn!
Manuel: Nó lấy khoai tây chiên của em.
Tôi: Ồ, hóa ra đầu đuôi chuyện các em nổi khùng với nhau là vậy đấy. Hừm, bây giờ thầy cược là Julio đã biết Manuel không muốn ai lấy đồ ăn của mình, và Julio sẽ không làm thế nữa.
Manuel: Nó biết vậy là tốt.
Hai đứa gườm gườm nhau.
Tôi: Thầy nghĩ hai em không nên gặp nhau một thời gian, trước khi làm hòa với nhau.
Quả đúng vậy. Sau đó ngoài hành lang, tôi thấy hai thằng bé sóng bước bên nhau, vừa đi vừa cười ha hả. Khi chúng trông thấy tôi, Julio la lên, “Thầy ơi, tụi em làm hòa rồi!”
✳ ✳ ✳
Cuối cùng là một câu chuyện của một giáo viên thường phải đối phó với những học sinh bị chấn động tâm lý vì chiến tranh.
Kể từ sau ngày cuộc chiến tranh Vùng vịnh bùng nổ, rất nhiều trẻ em trở nên hoảng sợ và bồn chồn không yên. Tôi nghĩ điều tốt nhất mình có thể làm cho chúng là đặt những biến cố vừa xảy ra vào một bối cảnh lịch sử, thế là tôi soạn một bài học để ôn lại những cuộc chiến tranh trước kia từng có nước Mỹ tham gia, bắt đầu là cuộc Chiến tranh Cách mạng. Khi tôi viết tựa bài lên bảng, lớp học bỗng im phăng phắc. Một học sinh nữ nói, “Thưa cô Ritter, hôm nay chúng ta không cần học theo bài cô sẽ giảng có được không ạ? Chúng ta có thể trình bày suy nghĩ của mình về chiến tranh, được không cô?”
Cả lớp nhìn tôi lo ngại. Tôi hỏi, “Các em muốn như thế à?” Những cái đầu khẽ gật một cách nghiêm túc. Tôi biết bọn trẻ đã tin cậy mình nên mới dám yêu cầu thay đổi bài học đã được định trước.
Một cậu bé buồn rầu mở đầu, “Chiến tranh là một trò ngu ngốc.”
Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào tôi để thăm dò xem phản ứng của tôi thế nào. Tôi nói, “Cô nhận thấy cảm xúc của các em đang rất mạnh mẽ. Hãy nói cho cô biết thêm nữa đi.”
Thế là chúng làm theo. Trong ba mươi phút sau đó, các học sinh của tôi lần lượt bày tỏ những nỗi sợ hãi và lo lắng nhất của chúng. Rồi một em đưa ra ý kiến, “Chúng ta hãy viết cảm xúc của mình ra đi cô!” Tôi nghĩ, “Hay lắm! Có lẽ điều này sẽ giúp bọn trẻ xoáy mạnh vào cảm xúc của chúng bằng những hình thức diễn đạt sáng tạo hơn.”
Cả lớp mở tập ra và viết trong bầu không khí yên lặng. Đến cuối tiết học, tôi hỏi có ai muốn đọc bài cảm nghĩ của mình lên không. Nhiều em đưa tay. Sau đây là trích đoạn của ba em trong lớp:
Sống trong sợ hãi, không nhà không cửa, người ta đánh nhau và chết vì một điều gì đó đáng lẽ phải đã được ngăn chặn.
- Silvia
Trong chiến tranh, ta nghe tiếng súng nổ, tiếng khóc kinh hoàng, nhưng tiếng kêu thét ghê sợ hơn hết là tiếng trái tim tan vỡ của những gia đình có con bị chết vì chiến tranh.
- Joseph
Biết bao người dân vô tội sẽ chết và số người than khóc lại bắt đầu tăng thêm. Khi đứa trẻ có cha mẹ bị chết vì chiến tranh, nó sẽ đau buồn và hãi hùng mà không hiểu tại sao lại như vậy.
- Jamie
Cuối tiết học, đám mây nặng nề treo lơ lửng trong lớp hình như đã tan biến. Đám trẻ đã bộc lộ và chia sẻ cảm xúc của chúng, chia sẻ nỗi đau chung. Chúng tôi thấy mình được kết nối với những người khác, và quan trọng nhất là thấy mình bớt cô đơn.
[1]. Nguyên gốc là “parent volunteer”: tại những trường tiểu học ở Mỹ, phụ huynh được nhà trường mời vào lớp học để làm việc, cùng với giáo viên giúp trẻ làm toán, làm thủ công, kiểm tra bài tập về nhà, xử lý những khúc mắc về cảm xúc, tâm tư tình cảm... - ND.
[2]. Nguyên gốc là “pull the teacher’s chain” (thành ngữ): cố ý trêu chọc, giật dây
cho giáo viên tức giận mà nói xổ ra như tháo cống - ND.
2. BẢY KỸ NĂNG MỜI GỌI TRẺ HỢP TÁC
NGAY NĂM ĐẦU TIÊN DẠY HỌC, tôi luôn tâm niệm rằng mình phải làm sao khơi gợi được sự hợp tác của học sinh.
Khẩu hiệu của tôi rất giống câu khẩu hiệu của hãng NIKE: “Cứ làm đi rồi biết!” Nhưng thực tế, tôi đã tiêu tốn rất nhiều thời gian vào việc cẩn thận soạn giáo án, và phân chia buổi học thành những tiết học đầy ý nghĩa. Tôi tự an ủi mình, “Ta có rất nhiều bài phải dạy cho học sinh, trong khi ta không có nhiều thời gian. Vì vậy, nếu lớp học cứ ngồi im nghe giảng, cùng thái độ ‘hợp tác’ thì ta sẽ có khối thời giờ truyền đạt kiến thức cho các em.” Từ “ hợp tác ” ở đây có nghĩa là “ cùng làm việc và hướng tới một kết quả hoặc một mục tiêu chung ”. Tuy nhiên, tôi nhận thấy có những cô cậu học trò cư xử như thể mục tiêu chung của chúng là đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp dạy dỗ của tôi! Lúc tôi nhắc đến những bài tập về nhà thì có em đứng dậy xin đi vệ sinh, hoặc một chiếc máy bay giấy bay vèo qua lớp, kéo theo một học sinh khác làm bộ té khỏi ghế.
Có vấn đề gì với những đứa trẻ này thế? Chúng có hiểu được rằng việc tiếp nhận một nền tảng học vấn là quan trọng thế nào không? Chẳng lẽ chúng không biết có mối liên quan mật thiết giữa việc học và tương lai của chúng sao? Và tại sao chúng không thể tập luyện một chút xíu nào sự tự chủ chứ?
Một ngày nọ, trong khi trực giờ ra chơi với một thầy giáo khác, tôi thấy một nhóm học sinh xô đẩy nhau, la hét om sòm để tranh đá
một quả bóng. Thầy giáo kia trợn tròn mắt tỏ vẻ khó chịu và chép miệng, “Coi tụi nó kìa. Chả ra làm sao! Tại sao chúng hành động như trẻ con mãi vậy không biết?” Tôi ậm ừ cho qua chuyện, nhưng trong đầu nghĩ thầm, “Có lẽ bởi vì chúng đúng là con nít, và có lẽ người lớn chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ để biết bọn trẻ con cư xử với nhau thế nào.” Khi gặp Jane trong phòng giáo viên, tôi kể cho chị nghe về cảnh tượng ồn ào diễn ra trong giờ ra chơi lúc nãy.
Jane lắc đầu, “Cái cảnh em thấy đó vẫn còn hơn chán so với cách cư xử kiểu trẻ con thực sự. Trong đám đó, có những đứa trẻ đang phải đối mặt với những vấn đề mà người lớn chúng ta không bao giờ ngờ là có thể xảy ra với mình khi còn nhỏ. Ngay như lớp chị cũng có vài em rất hiếm khi được gặp cha mẹ. Họ là những chuyên gia có tham vọng trở thành những người hoàn hảo, nên họ phải dồn hết sức lực vào sự nghiệp. Có những phụ huynh khác lại không thể ở nhà, bởi vì họ phải làm quần quật ngày đêm để kiếm sống. Lớp của Ken có một em đã trải qua hai nhà mở và ba trường khác nhau chỉ trong vòng một năm. Hay có lần như em đã kể, rằng lớp em có một học sinh nam sống ở nơi dành cho những người vô gia cư đấy thôi. Những đứa trẻ này không chỉ phải đương đầu với những vấn đề bình thường của trẻ em khi chúng lớn lên, mà nhiều đứa còn không có cơ hội để được là ‘trẻ con’ nữa cơ.”
Jane dừng lời và thở dài, “Có một sự thật đáng buồn là trong thế giới ngày nay, trẻ em đang phải chịu nhiều căng thẳng và thiếu sự quan tâm chưa từng thấy. Nếu muốn giúp chúng tiếp thu kiến thức thì ta phải giúp chúng gỡ bỏ những cảm xúc nặng nề mà chúng phải mang theo khi vào lớp học. Điều đó có nghĩa là chúng ta - những thầy giáo, cô giáo - phải chuyển đổi vai trò của mình để bao luôn trách nhiệm của các bậc làm cha làm mẹ.”
Tôi ngờ rằng Jane nói đúng. Học sinh của tôi, tuy có đứa hăng hái đến lớp và sẵn sàng học hỏi, nhưng cũng có đứa lơ đãng và thiếu thốn điều gì đó. Có lẽ điều đó giải thích tại sao chúng thường không để ý hoặc chống đối những yêu cầu đơn giản nhất của tôi. Bất cứ chuyện gì diễn ra ở nhà đều ảnh hưởng tới hành vi của chúng ở trường.
Về phương diện nào đó, điều này rất đúng. Khi Sam hăm hở đòi đọc bài luận văn đã làm ở lớp cho mẹ nghe thì mẹ nó lại gắt ỏm lên và quát nó hãy để cho mẹ yên. (Mẹ Sam vừa mới bị tình nhân bỏ). Còn Melissa thì được nuôi dạy bởi một chị trông trẻ mới mười mấy tuổi đầu và một cái tivi riêng, vì người cha góa của em suốt ngày chỉ rượu chè be bét. Melissa không hề biết cách giao tiếp với người lớn. Mẹ của Eric thì bị trầm uất kinh niên. Vậy, những đứa trẻ này biết gì về sự hợp tác? Rõ ràng chúng không được học điều đó trong gia đình mình. Rõ ràng tôi không thể thay đổi những gì đang xảy ra ở gia đình chúng. Nhưng biết đâu, tôi có thể thay đổi những gì đang diễn ra trong lớp mình thì sau thì sao?
Khi ngẫm nghĩ về cách dạy học của mình, tôi phải thừa nhận là đôi khi tôi rất giống một viên sĩ quan đang huấn luyện binh lính nơi thao trường - hô hào, quát tháo, ra lệnh. Kiểu như thế này:
“Chuốt bút chì đi!”
“Giơ tay lên!”
“Ghi tên vào bài kiểm tra đi!”
“Ngồi yên nào!”
“Lấy sách ra!”
“Chỉ nhìn vào bài làm của mình thôi!”
“Xếp hàng!”
“Đừng có gào lên như thế!”
«Nhả kẹo cao su ra!”
“Cẩn thận khi dùng máy tính!”
Không chỉ luôn miệng bảo trẻ phải thế này thế nọ, mà tôi còn bắt chúng không được làm cái này cái kia:
“Không chạy trong hành lang!”
“Không được chen lấn!”
“Đừng có vô lí như thế!”
“Không được đánh lộn!”
“Đừng quên làm bài tập về nhà!”
“Không được nói chuyện!”
“Đừng nói dối!”
“Không được thò chân ra lối đi giữa lớp!”
“Đừng có nghịch con chuột cảnh nữa!”
Thay vì tập trung vào bài giảng, tôi lại đánh mất phần lớn thời gian để cố điều khiển bọn trẻ nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Nhưng nếu tôi không mất công làm thế thì đến bao giờ chúng mới
học được cách cư xử đúng mực? Vậy mà, tôi càng ra nhiều mệnh lệnh, chúng càng hăng hái chống đối hơn. Thời giờ quý báu như vàng bạc để dạy học lại bị lãng phí vì phải đối phó với ương bướng của học sinh, vì phải ra sức chiến đấu và tranh giành quyền lực với chúng. Có những hôm tôi về nhà với sự kiên nhẫn đã mất sạch, sức lực cạn kiệt, lòng nhiệt tình bị bào mòn. Tôi cảm thấy câu nói đùa này thật hợp với tình trạng của mình, “Tôi chỉ còn có mỗi một sợi dây thần kinh... và mấy em đang đánh đu trên đó!”
Tôi lại vớ lấy quyển How To Talk So Kids Will Listen and Listen So Kids Will Talk ... và đọc lại chương “Khơi gợi sự hợp tác”. Tất cả những ví dụ trong quyển sách này đều xảy ra ở nhà. Nếu tôi thay thế chúng bằng những ví dụ xảy ra ở trường thì sao? Tôi liền ghi chép lại những ý tưởng của mình về một bài tập mới, để ngày hôm sau mang đến trường chia sẻ với các đồng nghiệp trong bữa trưa. “Các anh chị ạ, chúng ta hãy chơi trò dạy học một lần nữa đi - em là giáo viên, còn các anh chị là học sinh của em nhé. Trong khi nghe em giảng bài, anh chị hãy tự hỏi xem ‘câu nói của cô giáo khiến mình nghĩ gì hay cảm thấy như thế nào?’ Sau đó hãy cho em xem những phản hồi theo ý của các anh chị, được không?”
“Không được,” Ken rụt tay khỏi xấp giấy của tôi, “lần trước tôi đã làm con chuột lang cho chị Jane thí nghiệm rồi. Lần này để tôi làm giáo viên, còn các chị phản ứng lại những câu nói của tôi, được không?” Chúng tôi đồng ý. Sau đây là bản tường thuật những phản ứng của chúng tôi (tôi, Maria, Jane) - những “học sinh” của thầy Ken:
Giáo viên: (đổ lỗi và buộc tội) Em lại quên mang bút chì nữa hả? Em định viết bằng cái gì đây? Vì em mà cả lớp phải ngừng bài học lại, làm mất thời giờ của mọi người chỉ để tìm cho em một cây bút chì.
Học sinh: “Mình thấy quê quá!”
“Mình chẳng bao giờ làm được gì cho nên hồn cả!”
“Thầy giáo gì mà ác thế!”
Giáo viên : (xỉ vả) Chỉ có đứa ngốc nghếch mới không ghi tên mình vào bài làm thôi.
Học sinh: “Mình ghét ông thầy này quá!”
“Ừ, mình làm gì cũng sai bét!”
“Mình đúng là ngu thật!”
Giáo viên : (đe dọa) Nếu thầy bắt quả tang em nào nhổ nước miếng vào đồ lau bảng lần nữa, thầy sẽ lập tức lôi em đó ra khỏi lớp nhanh đến nỗi đầu em đó quay mòng mòng luôn. Còn nếu các em vẫn tái phạm thì sẽ bị đình chỉ học ngay!
Học sinh: “Mình chả tin!”
“Ai thèm để ý!”
“Sợ quá!”
Giáo viên : (ra lệnh) Thôi, không nói chuyện nữa! Cất tập vở vào. Xếp hàng cho ngay ngắn coi. Nhanh chân lên!
Học sinh: “Quát tháo thấy ghê! Mình có phải là nô lệ đâu!” “Từ từ em sẽ làm mà!”
“Làm sao thoát khỏi cái nhà tù này hả Trời?”
Giáo viên : (diễn thuyết và giảng đạo) Bẻ bút chì của John mà coi được à! Thử nghĩ xem, em có thích ai bẻ bút chì của em không? Nếu ai cho mượn cái gì thì em phải chú ý giữ gìn nó, cũng giống như em muốn người khác chăm chút giữ gìn đồ dùng của mình vậy. Giờ thì xin lỗi John đi.
Học sinh: “Mình đúng là đứa học sinh xấu xa!”
“Chà chà... Chà chà...”
“Mình hết nghe nổi rồi!”
Giáo viên : (cảnh cáo) Coi chừng mấy cái ống nghiệm chứ! Coi chừng chúng vỡ, cứa đứt tay các em bây giờ... Cẩn thận với đèn Bunsen! Các em có muốn xảy ra tai nạn không?
Học sinh: “Sợ quá!”
“Vậy khỏi làm cho xong!”
“Thầy xạo thôi. Có thấy chuyện gì xảy ra đâu!”
Giáo viên: (đóng vai những người khốn khổ) Mỗi khi về đến nhà là đầu tôi nhức như búa bổ vì các em quậy quá. Các em có thấy những sợi tóc bạc này không? Mỗi sợi bạc là vì một em học sinh phá phách đấy!
Học sinh: “Mua cho thầy một lọ thuốc nhuộm tóc là xong chứ gì!”
“Ước gì thoát được khỏi chỗ này ngay! Em đâu cần nỗi đau khổ của thầy!”
“Đó là lỗi của mình!”
Giáo viên : (so sánh) Tại sao em nộp báo cáo trễ thế hả? Năm ngoái thầy dạy chị em của Sally, và chị em luôn nộp bài đúng hạn.
Học sinh: “Mình sẽ chẳng bao giờ tốt bằng Sally!”
“Mình ghét chị mình quá!”
“Mình ghét thầy!”
Giáo viên: (mỉa mai, cay cú) Không ai nhớ Columbus đã tìm ra châu Mỹ vào năm nào à? Thông minh thật, thông minh quá đi! Đây là ngôi trường có lực hút những kẻ chậm lụt hay sao ấy. Cách duy nhất để tăng chỉ số IQ cho cái lớp này là tất cả hãy đứng lên ghế cho thật cao.”
Học sinh: “Mình ngu quá! Chẳng nhớ cái gì cả.”
“Trường này đúng là cục nam châm thật. Bởi vậy tụi mình mới bị hít dính vô ông thầy mát dây này!”
“Ôi, Trời ơi!”
Giáo viên: (làm thầy bói xủ quẻ xấu) Cứ học hành kiểu này thì các em sẽ chẳng bao giờ tìm được việc làm đâu. Và nếu không cố gắng đạt được điểm tốt hơn thì đừng mong có trường đại học tử tế nào muốn nhận mấy em.”
Học sinh: “Vậy ra công lao học tập của mình đổ sông đổ biển hết ư?”
“Mình chẳng giỏi giang gì!”
“Mắc gì phải cố gắng? Dẹp luôn!”
Chúng tôi nhìn nhau hoảng hốt khi bài thực hành kết thúc. Jane đã nói dùm những gì chúng tôi nghĩ, “Nếu chúng ta phải nếm trải bao nhiêu đó cơn giận dữ và thất vọng khi giả bộ làm học sinh, vậy thì các em học sinh thật sự sẽ cảm thấy thế nào?”
“Đặc biệt là khi chúng nghe thấy những câu nói kiểu như thế ở nhà,” Maria nói thêm vào. “Bà chị tôi luôn bảo con cái thế này, ‘Nếu điểm số của các con không khá lên, mẹ sẽ đem cho cái tivi ngay đấy.’ ‘Con nên học giống như cách học của anh con ấy. Có lẽ con cũng sẽ đạt được điểm A.’ ‘Con không làm bài tập về nhà vì con làm biếng thôi!’ Vậy đó. Chị tôi theo dõi bọn trẻ sát nút, còn cha chúng thì luôn mồm giảng đạo đức.”
“Cha tôi có một chiêu độc là ưa nói móc,” Jane nói. “Ông cứ tưởng như vậy là mình khôi hài và thông minh. Ông bảo, ‘Lại làm mất sách mượn thư viện nữa à? Ái chà, hành động có trách nhiệm gớm nhỉ!’ Hồi nhỏ, lời cha nói luôn khiến tôi bối rối. Tôi nghĩ, ‘Thế quái nào mà làm mất đồ lại là hành động có trách nhiệm chứ?’ Khi lớn hơn một chút, những lời mỉa mai của cha khiến tôi đau lòng, bị tổn thương, và rất muốn trả treo bằng cách châm chích y như thế. Đôi khi tôi cũng dám làm thật. Nhưng khổ nỗi tôi không giỏi nói móc. Đến lúc đi dạy học, những từ ngữ xỏ xiên bỗng tự nhiên nhảy vọt ra khỏi miệng tôi, nhất là khi tôi đang nổi quạu. Tôi nhớ có lần đã châm biếm một em học sinh có tật làm gì cũng rề rà, và tôi đã lặp lại y chang những lời cha tôi từng nói hàng ngàn lần, ‘Em chậm chạp bẩm sinh hay là có ai giúp em thành ra như thế hả?’ Thế là cả lớp ồ lên cười.”
“Và tiếng cười đó,” Ken tiếp lời, “là tiếng kèn xung trận đối với giáo viên, nó thôi thúc, cổ vũ chúng ta lăn xả vào một trận mỉa mai còn phản giáo dục ghê gớm hơn nữa.”
“Tôi biết,” Jane nghiêm trang. “Đằng sau loạt cười nghiêng ngả đó là một đứa trẻ bị bêu xấu trước đám đông. Kể từ đó trở đi, tôi không bao giờ làm thế nữa.”
“Nhưng sao chị biết để dừng lại?” Maria hỏi.
Jane nhăn mặt, “Tôi chẳng thấy vui vẻ gì khi nói móc mỉa như vậy. Vì đến năm thứ hai đi dạy, lớp tôi có một em nữ đặc biệt hay gây ra những chuyện rắc rối. Trong lúc tôi đang giảng bài, Theresa thường chẳng làm gì ngoài việc thản nhiên lấy gương ra soi và sửa sang tóc tai. Một ngày kia, tôi yêu cầu các em lên đọc bài thu hoạch của mình về Ai Cập cổ đại mà tôi đã dặn phải chuẩn bị trước ở nhà. Không một bàn tay nào giơ lên. Bất chợt, tôi phát hiện Theresa đang dán móng tay. Không nhịn được nữa, tôi nói ngay, ‘Ồ, cô sẽ không gọi Theresa đọc bài đâu. Bạn ấy đã rất nhiệt tình trong buổi thảo luận của lớp rồi, chúng ta nên dành quyền trả lời cho bạn khác nữa.’ Vài đứa cười khúc khích, nhưng thật ngạc nhiên, tôi thấy Theresa ngước lên khỏi đám móng tay đang dán dở dang, và cười tươi rói. Nó tưởng tôi nói thật. Lời tán dương ‘mỉa mai’ của tôi đã làm con bé mừng hết biết.
“Tôi xấu hổ đến nỗi tự nhủ rằng, ‘Mình sẽ không bao giờ nói kiểu ấy nữa!’ Nếu muốn bày tỏ nỗi thất vọng của mình đối với bọn trẻ, tôi cần phải thẳng thắn bày tỏ điều đó. Nếu muốn hài hước, tôi phải bảo đảm rằng câu đùa của mình không bôi nhọ phẩm giá của bất cứ đứa trẻ nào.”
“Đồng ý,” Ken nói, “vậy là có nhiều điều chúng ta nói tưởng là bình thường, nhưng vô tình lại khiến học sinh cảm thấy chúng xấu xa tồi tệ, hoặc khiến chúng có ý nghĩ không tốt về giáo viên. Nhưng vấn đề là chúng ta vẫn bị bế tắc trong việc uốn nắn trẻ và giúp chúng hành xử tốt hơn.”
“Đúng thế,” Maria góp lời. “Vậy thì, thay vào đó các thầy cô giáo nên làm gì... bên cạnh việc phải tỏ ra ôn hòa và dịu dàng nói ‘làm ơn làm thế này’ hoặc ‘vui lòng đừng làm thế kia’?”
“À,” tôi lấy quyển How To Talk So Kids Will Listen and Listen So Kids Will Talk ra và vẫy vẫy trên không. “Câu trả lời nằm trong đây này.” Tôi mở chương “Khơi gợi sự hợp tác”, chỉ những hình minh họa cho Ken và Maria xem.
Ken nghiên cứu những hình vẽ. “Những cái này toàn là ví dụ ở nhà thôi.”
“Đúng vậy,” Maria nói, “Nhưng trẻ em vẫn luôn là trẻ em, cho dù chúng ở đâu, ở nhà hay ở trường. Tôi không nghĩ có sự khác biệt gì đâu.”
“Tôi lại nghĩ là có sự khác biệt lớn đấy,” Ken phản bác. “Khác ở chỗ, ở nhà chỉ có cha mẹ với một hay hai đứa con thôi, còn ở trường lại là một giáo viên cố kiểm soát cả ba mươi đứa trẻ cùng một lúc.”
“Đúng vậy,” Jane tán thành. “Ở phương diện nào đó, công việc của giáo viên khó khăn hơn; nhưng mặt khác, công việc của cha mẹ cũng có cái khó riêng. Ở cha mẹ là một sự tận tụy cả đời. Họ không thể tống khứ con họ vào lúc ba giờ chiều, hoặc hy vọng chúng sẽ biến thành những đứa trẻ mới toanh vào mùa thu. Tuy nhiên, cho dù chúng ta đang ở phòng khách hay ở trong lớp học thì những kỹ năng này đều có ích và hiệu quả như nhau.”
Thời gian còn lại của bữa trưa, chúng tôi cùng bàn bạc để chuyển đổi những nguyên tắc khơi gợi sự hợp tác ở nhà sang bối cảnh trường học. Sau đây là những hình minh họa và những ví dụ mà chúng tôi đã nghĩ ra:
Nhóm chúng tôi rất hài lòng về kết quả thảo luận của mình. Những ví dụ chúng tôi đã cùng nhau đúc kết xem ra rất khả thi - trên lý thuyết. Tôi nói, “Nào, bây giờ thì thử thách thật sự là làm sao đưa tất cả những ý tưởng tuyệt vời này vào hành động trong lớp học.”
Ken nói, “Các chị có ngạc nhiên không nếu biết rằng có những ngày tôi đã thật sự làm đúng như vậy với học sinh của mình, một cách
tự nhiên. Tôi luôn bảo chúng, ‘Chân của em...’ ‘Cánh cửa...’ ‘Bài kiểm tra...” mà không hề hay biết mình ‘rất có kỹ năng’ khơi gợi sự hợp tác. Tôi còn thực hiện nhiều kỹ năng khác không ghi trong danh sách này.”
“Chúng ta còn sót điều gì à?” tôi hỏi.
“Đúng... Niềm vui. Trò chơi. Một chút hài hước. Bất cứ chiêu gì làm cho lớp học sống động hơn. Tôi đã xoay xở rất nhiều cả cho bản thân mình lẫn học sinh.”
“Một chút vui đùa cũng tốt,” Maria bình luận. “Marco rất mê giờ sinh vật bởi vì giáo viên môn đó rất biết pha trò. Thật vậy. Trong buổi tối[1] ngày khai trường, giáo viên đó đã bảo với các phụ huynh rằng do kinh phí eo hẹp nên những lớp học tiết đầu đã phải khâu những con ếch đã mổ để lại lớp kế tiếp có ếch mà mổ.”
Ken cười sảng khoái và bảo, “Đó chính là điều tôi muốn nói tới đấy. Hài hước tạo cho mọi người một tâm trạng vui vẻ và khiến trẻ muốn hợp tác.”
Tôi tò mò, “Nói thật xem, anh đã làm điều đó thế nào, vậy Ken? Cho tôi một ví dụ đi.”
“Thế này, chẳng hạn như khi luyện tập phòng cháy chữa cháy nhé. Các chị cũng thừa biết bọn trẻ chẳng bao giờ xem việc này là nghiêm túc cả, và thật khó mà bắt chúng ra khỏi phòng được. Nhưng nếu tôi thực hành thủ tục ‘mệnh lệnh hải quân’ thì lớp tôi sẽ là lớp đầu tiên ra tới ngoài đường.”
“Thủ tục gì cơ?” chúng tôi hỏi lại.
Ken cuộn một tờ giấy thành hình một chiếc loa phóng thanh và đưa lên miệng, “Nghe đây, nghe đây!” giọng anh đầy ngữ điệu. “Tập luyện nào! Tập luyện phòng cháy nào! Hãy dừng mọi hoạt động lại. Thực hiện bài tập nào. Tất cả lên boong. Nhanh lên!”
“Thật đáng kinh ngạc là bọn trẻ phản hồi rất nhanh với những việc có hơi hướng đùa vui,” Jane nói. “Tôi nhớ lại hồi dạy lớp Một, mỗi khi bắt bọn trẻ xếp hàng để đi đâu đó là chẳng khác gì một cuộc xung trận. Một buổi chiều, tôi nói, ‘Các em, chúng ta làm thành một đoàn tàu hỏa để ra chơi nào. Juan, em đi trước làm đầu máy; Monica, em đi cuối làm toa bảo vệ; tất cả các em còn lại sẽ là các toa giữa. Giờ hãy đặt tay lên vai người đứng trước mặt và đi thôi.’ Chưa đầy nửa phút, chúng đã xếp thành một hàng ngay ngắn và ‘nổ máy xình xịch’ đi ra cửa - đứa nào cũng cười toe toét.”
“Nhưng ta chỉ có thể làm với lớp nhỏ thôi, đúng không?” Maria nói.
“Tôi cũng từng nghĩ như thế đấy!” Jane thốt lên. “Cho nên, khi được phân công dạy lớp bốn, tôi nghĩ chúng đã lớn rồi, không hợp với những trò ngô nghê như vậy nữa. Một hôm, tôi nghe giáo viên lớp kế bên than phiền rằng, mỗi lần tới phòng ăn trưa là lớp tôi lại ồn ào không chịu nổi. Thay vì la mắng, tôi bảo bọn trẻ, bằng điệu bộ rất nghiêm trang, hãy lấy ‘chìa khóa nhiệm màu’ ra khỏi túi quần, khóa miệng lại, và đưa ‘chìa khóa’ cho cô trước khi bước ra khỏi phòng.”
“Chúng làm theo chứ?” Maria hỏi.
“Từng em một sốt sắng đến đặt ‘chiếc chìa khóa’ vào tay tôi. Rồi tất cả đều mím môi cười tủm tỉm và nhón chân đi nhẹ nhàng cho đến khi tới nhà ăn. Lúc đó tôi mới trả lại chìa khóa để chúng mở miệng nói năng và ăn uống.”
“Con chị có biết chúng may mắn thế nào khi có một người như chị là mẹ không?” tôi nói với Jane. “Sống với chị chắc là vui lắm!”
Jane cười gượng, “Con chị lại không nghĩ thế đâu,” chị vừa nói vừa thu dọn đồ đạc để về lớp. “Mỗi ngày từ trường về nhà thì chị chẳng còn sót lại chút năng lượng nào cả. Chị chỉ muốn im lặng và nghỉ ngơi thôi.”
“Và chị sẽ có điều đó,” Ken nói, bước đi cùng với Jane, “khi bọn trẻ trưởng thành và sống xa nhà.”
Cuộc thảo luận đó diễn ra vào ngày thứ Sáu. Đến thứ Hai, Jane bưng khay thức ăn tới bàn và cười rạng rỡ với tất cả chúng tôi.
“Chị có chuyện gì mà vui thế?” Ken hỏi.
“Tôi tự hào quá đi mất,” Jane nói to. “Mọi người còn nhớ hôm thứ Sáu chúng ta đã bàn luận về điều gì không? Chiều hôm ấy khi tôi về nhà thì thấy ngay lũ nhóc đang ăn nhẹ trong bếp. Ôi thôi, cặp sách, giày dép, vỏ chuối bày la liệt trên bàn, vụn bánh mì thì vương vãi khắp sàn. Tôi đã dọa nạt chúng? Hay quát mắng? Hay thuyết giảng? Không hề nhé.” Jane dừng lại một cách kịch tính và quay qua Ken, “Thay vì vậy, tôi áp dụng ý kiến của anh: hóa thân vào một nhận vật khác mà nói.”
Ken không hiểu, “Một nhân vật khác á?”
“Đúng vậy, tôi đã thử bắt chước giọng điệu của một số nhân vật. Bọn nhóe thích lắm. Chồng tôi kinh ngạc quá, nhưng rồi cũng ứng khẩu nghĩ ra một vài nhân vật của riêng mình luôn.”
“Chị kể vài ví dụ đi,” Ken hối thúc.
“Bây giờ hả? Ngay tại đây á? Thôi, ngại lắm!”
Thế nhưng, chúng tôi không phải nài nỉ lâu. Thoáng sau, Jane đã làm chúng tôi cười bò với trò hóa thân của chị. Sau đây là hình minh họa những nhân vật mà Jane và chồng chị đã nghĩ ra để đùa với mấy đứa con của họ.
Maria không nhịn được cười, “Cách buồn cười thật đấy. Tôi biết, nếu tôi giả bộ với con mình theo cách ấy thì thể nào chúng cũng dọn dẹp sạch sẽ ngay. Nhưng tôi thấy làm vậy cường điệu quá. Không hợp với tính cách của tôi. Tính tôi vốn nghiêm trang. Thậm chí là quá nghiêm trang.”
“Cái đó thì tôi không biết,” Jane nói. “Tôi chỉ nghĩ tất cả chúng ta
đều có cái phần hóm hỉnh đang bị khóa chặt ở đâu đó bên trong mình. Việc cần làm tìm thấy và thả cho nó sổng ra thôi. Giống như việc chị đã làm với Ana Ruth sáng hôm nọ ấy mà.”
Maria bối rối.
“Chuyện hai mẹ con chị hậm hực nhau trước khi con bé đi học ấy.”
Maria đỏ mặt, “Ố, việc đó có gì đâu.”
“Tin tôi đi. Có đấy. Chị kể cho mọi người nghe chuyện xảy ra thế nào đi. Nhé?”
Maria ngần ngại một lúc rồi nói, “À thế này, Ana Ruth và tôi đã gây một trận khá căng trong khi xe buýt sắp tới. Tôi thấy cháu bực mình kinh khủng vì phải xếp dọn giường trước khi ra khỏi nhà. Tôi biết nó nửa muốn hôn tôi, nửa không, nên tôi hỏi, cho mẹ hôn con nhé. Nó bảo không. Tôi hỏi tiếp, thế cho mẹ hôn lúc con đi học về được không. Nó vẫn bảo không. Thế là tôi hỏi tới luôn, vậy khi con lấy chồng con có cho mẹ hôn không. Con bé cười phá lên, ‘Ôi mẹ’ và ôm chặt lấy tôi mà hôn. Sau đó, cả hai mẹ con đều cảm thấy rất vui.”
Lúc hết giờ ăn trưa, tôi cảm thấy phấn khởi lạ lùng khi lên cầu thang về lớp. Câu chuyện của Maria (bông đùa vào khoảnh khắc căng thẳng!) khiến tôi phải suy ngẫm, tôi cũng bị mê hoặc bởi những nhân vật do Jane và chồng chị ấy đã ngẫu hứng sáng tạo ra. Xem ra tình huống khó xử sẽ rất thú vị nếu ta cố thử một cái gì đấy khác đi, hoặc thử làm một điều bất ngờ nào đó. Tôi chợt nghĩ đến những đứa trẻ dễ làm mình phát khùng trong lớp - nhất định ngồi lì tại chỗ mà gào lên câu trả lời, chứ không chịu giơ tay xin phép. Tôi đã cố thử nhiều kĩ năng mới biết với chúng rồi, nhưng hài hước thì chưa.
Tôi đã mô tả vấn đề, “ Cô nghe thấy câu trả lời rồi, nhưng chưa thấy cái tay, ” nhưng câu đó chỉ có tác dụng với vài đứa thôi.
Tôi đã nói cảm xúc của mình cho chúng nghe, “ Cô rất buồn và mệt khi cả lớp cứ la lên một lúc, vì cô chẳng nghe được ai nói gì cả .” Thế là thêm vài em nữa biết phản hồi đúng mực.
Với những “cao thủ” ương bướng, tôi đã đưa ra sự lựa chọn, “ Em có thể giơ tay phải hay tay trái đều được .” Đứa thì chọn giơ tay phải, đứa thì giơ tay trái, có đứa giơ cả hai tay. Khi em nào lại lỡ buột miệng nói to lên mà không giơ tay, tôi nhắc nó bằng một từ thật ngắn, “ Tay !”
Tôi tự chúc mừng mình đã kiểm soát được phần lớn tình hình, nhưng chỉ còn mỗi mình Andrew nhất định không chịu nghe lời. Những câu trả lời cứ vuột ra khỏi miệng, trước khi nó kịp nghĩ là phải giơ tay xin phép. Dường như tôi có nhắc nhở thế nào cũng không cải tạo được bản tính bốc đồng tự nhiên của nó. Thình lình có một ý nghĩ lóe lên, tôi liền dừng ngay giữa cầu thang, lấy giấy ra và viết:
Andrew thân mến,
Khi nào em muốn chứng tỏ sự hiểu biết của mình, đừng la hét om sòm, chỉ việc giơ tay lên thôi.
Cảm ơn em trước nhé,
Cô Lander
Đang giảng được nửa bài xã hội học, tôi chợt hỏi cả lớp những nguyên nhân gây ra cuộc Nội chiến. Khắp phòng đầy những cánh tay giơ lên, vẫy vẫy, và một giọng nói bung ra, “Hệ thống thuế không
tương xứng!” Chính là Andrew, dĩ nhiên. Tôi bước tới bàn cu cậu, mỉm cười vui vẻ và chìa mẩu giấy tôi đã chuẩn bị sẵn ra. Andrew mở tờ giấy, mỉm cười lại với tôi, và giơ tay trả lời trong suốt thời gian còn lại của tiết học!
Sáng hôm sau, Andrew bảo nó đã làm một bài thơ tặng tôi. Đọc xong, tôi bèn bảo nó viết lên bản tin để làm lời nhắc nhở cả lớp. Bằng nét chữ thật to, Andrew viết:
Hoa hồng đỏ
Rau diếp xanh
Nếu giơ tay
Sẽ được thấy.
Sau sự việc đó, tôi không bao giờ phải nhắc thêm một lời nào nữa về việc đừng có ngồi tại chỗ mà trả lời ong óng lên. Rất đơn giản, tôi chỉ vào bài thơ của Andrew.
GHI NHỚ
Khơi gợi sự hợp tác
ở nhà và ở trường
Người lớn: Mấy vết bẩn dưới sàn là do ai đây?
Thay vì chất vấn hay chỉ trích trẻ, bạn có thể:
1. Mô tả vấn đề
“Cô thấy có sơn ướt dưới sàn nhà đây này!”