🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nỗi Lòng Đồ Chiểu Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tên sách : NỖI LÒNG ĐỒ CHIỂU Tác giả : PHAN VĂN HÙM Nhà xuất bản : TÂN VIỆT Năm xuất bản : 1957 ------------------------ Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : Lucabarazi Kiểm tra chính tả : Nguyễn Văn Ninh, Trần Ngô Thế Nhân, Đỗ Thị Bích Liên, Hoàng Thị Xoan Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 27/09/2018 https://thuviensach.vn Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG Cảm ơn tác giả PHAN VĂN HÙM và nhà xuất bản TÂN VIỆT đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. https://thuviensach.vn MỤC LỤC PHẦN THỨ NHẤT : NỖI LÒNG ĐỒ CHIỂU PHẦN THỨ HAI : TRÍCH-LỤC VĂN-PHẨM CỦA NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU I. THỂ THẤT-NGÔN II. THỂ LỤC-BÁT III. THỂ TỨ-LỤC IV. VĂN-TẾ V. BẠT https://thuviensach.vn PHAN VĂN HÙM NỖI LÒNG ĐỒ CHIỂU IN LẦN THỨ HAI Sửa-chữa cẩn-thận LOẠI SÁCH TÌM HIỂU TÂN VIỆT https://thuviensach.vn TỰ THUẬT Xe ngựa lao-xao giữa cõi trần, Biết ai thiên-tử, biết ai thần ? Nhạc Thiều tiếng dứt khôn trông phụng, Sách Lỗ biên rồi khó thấy lân Khỏe mắt Hi-Di trời Ngũ-Quí, Mỏi lòng Gia-cát đất tam phân. Công-danh chi nữa ăn rồi ngủ, Mặc lượng cao-dày xử với dân. NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU https://thuviensach.vn PHẦN THỨ NHẤT : NỖI LÒNG ĐỒ CHIỂU Minh-mạng nguyên-niên, nhằm năm canh-thìn, chiếu tây-lịch 1820, Tả quân Lê văn Duyệt nhậm Gia-Định Tổng-trấn lần thứ hai. Lần này, nơi văn hàn-ty của Tổng-trấn có viên Thơ-lại thanh-niên, ở kinh-đô mới bổ vào, tên là Nguyễn-đình Huy. Sinh ở xã Thương-an, Trung-kỳ, ngày hai-mươi-chín tháng chạp năm nhâm-tý (9-2-1793), bấy giờ Nguyễn-đình-Huy hai-mươi-bảy tuổi. Người đã có vợ, có hai đứa con rồi. Hoặc vì đường xa con thơ, hoặc vì Nam-kỳ đất mới, hoặc nữa vì sự hiếu-dưỡng người để vợ con ở lại quê nhà, mà thui-thủi một mình nơi quán khách. Hai-mươi-bảy tuổi ! « Chừng xuân tơ liễu còn xanh, nghĩ sao cho thoát khỏi vành ái-ân ? » Huống-chi quê người bóng chiếc, lại nghiệp phong-lưu, sóng gió lòng xuân đã đành xao-xuyến dễ. Nguyễn-đình Huy thú thiếp ở Sài-gòn. Lứa đôi này sẽ hiến cho việt-văn-giới một tay kỳ-sĩ : ngày bính-thân, mười-ba tháng năm, năm nhâm-ngũ (1-7-1822) Nguyễn-đình-Chiểu ra đời. Nguyễn-đình Chiểu sinh tại đâu, trong thế-phổ của họ Nguyễn-đình không thấy chép. Duy chép rằng Trương Thị Thiệt (mẹ của Đình Chiểu) sinh năm canh-thân (1800) là người ở thôn Tân-thới, tỉnh Gia-định. Thôn Tân-thới đích-xác ở nơi nào, thì hiện nay chưa khảo ra được. Duy biết Sài-gòn xưa gồm những bốn-mươi thôn, kể từ rạch Thị-nghè vô tới Chợ-lớn. Trong những thôn ấy nhiều thôn lấy tên có chữ « Tân » đứng đầu. Như thôn Tân-khai, là chỗ thành-lũy xưa, ở trong vòng đường Pasteur (Pellerin cũ), đường Nguyễn Du (Taberd cũ), đất thánh tây… chạy xuống tới sông Sài-gòn ; như thôn Tân-an ở Đất-hộ, nay còn đình Tân-an ; như thôn Tân-lộc ở sau trường J. Jacques Rousseau (Chasseloup Laubat cũ) ; như thôn Tân-vĩnh ; bên Khánh-hội ngày nay ; như thôn Tân-thạnh, khỏi Cầu- https://thuviensach.vn kho ; như thôn Tân-kiển, ở chợ Hòa-bình ; như thôn Tân-châu ở nhà thương Chợ-quán. Xem như thế, thì thôn Tân-thới chắc là một thôn ở tại Sài-gòn. Vả lại khi bà Trương thị Thiệt mất thì chôn tại phường Tân-triêm, theo như thế-phổ của họ Nguyễn-đình chép lại. Mà phường Tân-triêm xưa, là ở vùng Cầu-kho bây giờ 1. Thế thì không chừng thôn Tân-thới cũng ở gần đâu lối đó, nếu không phải là ở tại đó. Nay có thể tạm nhận Nguyễn-đình Chiểu là người thôn Tân-thới 2như mẹ của tiên-sinh. Còn thôn Tân-thới thì ở trong vòng Sài-gòn, thuộc huyện Bình-dương, phủ Tân-bình, tỉnh Gia-định. Nguyễn-đình Chiểu sinh ra, không phải là ở nhà quan to, vì chức Thơ lại mà cha tiên-sinh dưới triều Minh-mạng chỉ đến chánh-bát phẩm là cùng. Dầu vậy mặc dầu, tiên-sinh cũng là sinh ra trong nhà có tước-vị ở triều-đình, tất cũng là một cậu ấm như ai, thì có thể sung-sướng suốt đời, nếu không có những tai-biến dồn-dập tới. Đời cậu ấm của Nguyễn-đình Chiểu sung-sướng vừa được mười năm, thì quốc biến xảy ra làm thành gia biến. Năm 1832, Lê văn Duyệt mất (25-8 nhằm 30 tháng bảy năm nhâm-thìn), qua 1833 Lê Văn Khôi dấy loạn giết Bố-chánh Bạch xuân Nguyên và Tổng-đốc Nguyễn văn Quế, rồi chiếm lấy thành Sài-gòn. Quan quân nhà Nguyễn ở Gia-định không đầu « ngụy » đều mất địa-vị cả. Nguyễn-đình Huy phải trở lại thường dân. Nếu phải tin theo lời một người con của Nguyễn-đình Chiểu là ông Nguyễn-đình Chiêm thì Nguyễn-đình Huy ở kinh-đô sung chức Đốc-bạ, bỏ đi Gia-định thăng đến Án-sát-sứ lúc Lê văn Khôi khởi loạn. Trốn được về triều người bị tước chức, bấy giờ mới giả dạng cải trang trở vô Sài-gòn, thăm vợ con, rồi rước Nguyễn-đình Chiểu ra Huế, gởi-gắm cho một người bạn làm Thái-phó ở Triều, để theo điếu-đãi hầu-hạ mà học-tập văn-chương. Nếu ta giở lịch-sử triều Nguyễn ra xem, thì thấy Án-sát-sứ ở Gia-định lúc Lê văn Khôi dấy loạn là Nguyễn chương Đạt, chớ không phải là Nguyễn-đình Huy, người xã Hưng-đình, huyện Bồ-điền, phủ Thừa-thiên, https://thuviensach.vn như ông Nguyễn-đình Chiêm vì nghe lầm hoặc vì nhớ lầm đã nói cho ông Lê thọ Xuân chép trong tạp-chí Đồng-Nai số tháng 1 và 2 năm 1933. Vả lại, trong quyển Nguyễn-chi thế-phổ, chính tay Nguyễn-đình Huy soạn ra, hồi tháng hai năm quí-sửu (tháng 4-1853), và hiện nay còn để tại nhà ông Nguyễn-đình Chiêm ở làng Mỹ-chánh, quận Ba-tri, thì nơi bài tựa thấy ký là : « Nguyên Tả-quân văn-hàn-ty Thơ-lại Dương Minh Phủ ». Dương Minh Phủ tức là tự của Nguyễn-đình Huy. Năm 1853, ấy là hai-mươi năm sau việc Lê văn Khôi dấy loạn. Nếu đã có làm đến Án-sát-sứ, thì Nguyễn-đình Huy không có lẽ gì không ký là « Nguyên Án-sát-sứ » mà lại chỉ để chức Thơ-lại mà thôi. Dầu đã làm đến chức chi đi nữa, thời điều chắc, là sau khi thành Sài gòn đã về tay Lê văn Khôi rồi, Nguyễn-đình Huy cũng phải mất địa-vị, lẩn lúc trong đám thường dân. Ta không rõ hồi đó, có tội với Triều-đình, thì người ở mãi lại Sài-gòn với bà vợ thứ, hay là có về quê nhà. Nhưng trong Nguyễn-chi thế-phổ thấy chép rằng bà chánh-thất chỉ có hai người con, một người trai là Nguyễn-đình Lân và một người gái là Nguyễn thị Phu. Còn bà vợ thứ thì sinh những bốn người con trai và ba người con gái, mà con trưởng là Nguyễn-đình Chiểu, rồi tới Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành, Đình Tựu, Đình Tự và Đình Huân. Người con trai út này sinh ngày 11-4-1841, nghĩa là tám năm sau khi Lê văn Khôi dấy loạn. Còn như việc dề tựa cho quyển Nguyễn-chi thế-phổ năm 1853, như trên kia đã nói, thì là việc Nguyễn-đình Huy có thể làm bất kỳ là ở đâu. Ta không thể căn-cứ vào đó mà quả quyết rằng cho đến năm 1853 người còn ở tại Sài-gòn. Nhưng mà nếu hỏi người ở đâu cho đến ngày qua đời, thời ta không sao trả lời được, vì trong thế-phổ của họ Nguyễn-đình không thấy chép người mất về năm nào và chôn ở nơi nào. Ta không thể nào theo dấu Nguyễn-đình Huy, nay hãy theo dấu con người là Nguyễn-đình Chiểu. Nhưng mà ở đây cũng chỉ có lời khẩu-truyền của ông Nguyễn-đình Chiêm, là người con của Nguyễn-đình Chiểu, còn sống lại sau hơn hết (ông qua đời ngày 2-8-1935). https://thuviensach.vn Theo lời ông Nguyễn-đình Chiêm thì Nguyễn-đình Chiểu ở Huế những tám năm, theo học ông Thái-phó, bạn của Nguyễn-đình Huy, mãi đến năm hai-mươi tuổi (lối năm 1841-1842) mới trở về Sài-gòn. Bấy giờ thì tám năm « theo thầy nấu sử xôi kinh », học đã nên tài, nhưng khoa thi chưa tới. Năm quí-mão, Thiệu-trị tam niên (1813), khoa thi hương ở Gia-định, Nguyễn-đình Chiểu đỗ Tú-tài, bấy giờ mới hai-mươi-hai tuổi (tính theo tuổi ta). Nợ thanh-khâm đến đấy kể là đã trả được nhiều rồi. Đường mây chừng như từ đây dễ trổ lối. Sự báo-bổ hiển-dương phụ-mẫu thấy gần thành ở trước mặt. Nhưng mà sự đời dễ suông-sẻ trơn-tru cho đâu. Nguyễn-đình Chiểu mười tuổi đã biết cái nỗi thảm-khốc hãi-hùng của quốc biến. Việc « biền tru » là việc ghê hồn, cậu ấm Đình Chiểu trọn đời chắc phải giữ lấy đó một cái ấn-tượng kinh-ngạc. Giờ thời, chính năm Nguyễn-đình Chiểu đỗ Tú-tài lại là một năm hung-niên của nước Việt-nam mới vừa điện-định, vì bắt đầu từ đấy, người nước Pháp, thầy và bạn của vua Thế-tổ nhà Nguyễn, trở nên thù-địch của Nguyễn-triều. Thật thế, ngày hai-mươi-bảy tháng giêng năm quí-mão ấy (25 tháng 2-1843) chiếc tiểu-hạm L’Héroïne do Favin l’Evêque cai-quản, xổ đại-bác thị oai trước cửa Hàn (Tourane) để đòi tự-do cho năm vị linh-mục bị xử tử và bị cầm tù ở Huế. Tiếng súng ngoài khơi đã giội oai-khí đến tận đền vua Thiệu-trị, chắc cũng đã làm cho vua nghe rúng động đến ngai vàng, cho nên vài mươi ngày sau (17 tháng 3) năm vị linh-mục kia được thả cho ra về chăn bầy chiên mới. Súng bắn thị oai thời đạn bay bổng, không nhằm vật, không hại người, nhưng trúng nặng thương lòng sỉ-nhục của nhà vua và của cả sĩ phu trong nước. Nguyễn-đình Chiểu tuy ở Sài-gòn, tuy còn nhỏ, nhưng mà nhiều ít cũng đã nhờ phấn vua vẽ mặt thư-hương, thì chắc cũng phải đau lòng vì mấy viên đạn đầu tiên của nước Pháp xạ xuống đất Việt-nam của triều Nguyễn. Chí kinh-luân của cậu Tú-tài chắc cũng từ đó mà càng hăng. https://thuviensach.vn Song le, thời bấy giờ hết phải là buổi vén gai vẹt ngúc của thời Gia long, mà tay trơn có thể làm nên huân-nghiệp. Thời bấy giờ có chí kinh bang tế thế, chỉ có con đường duy-nhất, là con đường khoa-mục, để bước qua hoạn-lộ, mới đạt được cái chí kia. Cho nên phải học, phải thi, phải đi vào hoạn-lộ. Nguyễn-đình Chiểu không ra khỏi con đường duy-nhất ấy. Tiên sinh phải nấu sử xôi kinh mấy năm nữa để đợi khoa thi. Thảm thay ! Súng rền năm quí-mão hãy còn dư-hưởng nặng-nề, thời tháng tư năm ất-tị (tháng 5-1845), Contre-Amiral Cécile lại lệnh sai Capitaine Fortier dụ Plant đem chiếc tiểu-hạm Alcmene đến trước cửa Hàn xổ đại-bác thị oai một lần nữa. Lần này để đòi tự do cho linh-mục Lefèbvre bị xử-tử. Ngày 13-6-1845 linh-mục Lefèbvre được thả ra. Thôi, đó điều là việc lớn của Triều-đình phải đối-phó. Phận học-trò sau nữa rồi sẽ hay làm sao. Năm hai-mươi-lăm tuổi, cùng đứa em trai mới nên mười là Nguyễn-đình Tựu, tiên-sinh cất gánh về kinh để chờ khoa kỷ-dậu (1848). Chưa rõ tiên-sinh ra đi là ngày tháng nào. Nhưng năm ấy, năm đinh vị, ngày hai-mươi-chín tháng hai (14-4-1847) lại xảy ra quốc biến nữa. Capitaine Lapierre dẫn chiếc trung-hạm La Gloire, còn Rigault de Genouilly dẫn chiếc trung-hạm La Victorieuse đồng đến trước cửa Hàn bắn tan hạm đội của vua nhà Nguyễn ; nhưng không chiếm-cứ thành-trì nào cả, mà quay chiến-hạm ra đi. Tuy thế vua Thiệu-trị cũng ưu-sầu uất-phẫn lắm. Ngày hai mươi-bảy tháng chín năm ấy (4-11-1847) vua thăng-hà. Tư-đức lên nối ngôi, thì hậu-bán thế-kỷ thứ XIX sẽ dẫy-đầy thương-tích thảm-xót cho lịch-sử nhà Nguyễn, mà Nguyễn-đình Chiểu cũng sẽ đau-đớn đòi phen cho nỗi nước nhà. Đó là việc còn chờ sau. Nay đương đợi khoa, thời một tin sét đánh của ghe bầu trong Nam đem tới quán trọ. Hôm rằm tháng mười-một năm mậu-thân (10-12-1848), mẹ của tiên sinh, mới bốn-mươi-tám tuổi, đã chết ở Sài-gòn. Lòng hiếu-tử, dặm quan-hà, trắc dĩ vời trông, mây bạc phao tuôn, khôn cầm huyết lụy. https://thuviensach.vn Người xưa hiếu-sự cư-tang, dẫu cho đương làm quan có trọng-trách cũng phải cáo từ. Nguyễn-đình Chiểu bỏ thi phản bộ. Nhưng mà gậy rút đất ỷ khôn học phép, lòng hiếu thân thêm kéo nhẳng đường dài. Khóc… tiên sinh khóc cho đến « ôi thôi ! Con mắt đã mang lấy sầu ». Tiên-sinh sẽ không ra khỏi chốn mịt-mù, mà phải những bốn-mươi-năm trời giam-hãm trong bóng tối cho đến chết. Đã mù, thêm bệnh, dọc đường tiên-sinh phải xin trọ ở nhà một ông thầy thuốc vốn giòng ngự-y, tên là Trung, để ở đấy chửa bệnh. Thật là bấy giờ tiên-sinh « lỡ bề báo hiếu, lỡ bề lập thân ». Ở trọ nơi thầy Trung, tiên-sinh học được nghề làm thuốc, và học rất có tâm-đắc ; cho nên về sau tiên-sinh có tiếng là làm thuốc hay. Mãi dến năm sau tiên-sinh mới về đến quê nhà, đóng cửa cư-tang. Có lẽ cuối năm 1850 mãn khó mẹ, thì tiên-sinh mở trường dạy học-trò tại Sài gòn. Gần xa sĩ-tử nghe danh mến đức tựu về học với tiên-sinh rát đông, cho chí người ở Mỹ-tho, Gò-công cũng tìm đến làm môn đệ. Tiếng « Đồ Chiểu » nổi dậy từ đây. Trong thời-kỳ này tiên-sinh đặt ra thơ Lục Vân Tiên diễn luân-lý của nho-giáo để cho học-trò và người nhà ca ngâm. Cái thân-thế của Vân Tiên có lắm nơi giống thân thế của Đình Chiểu. Hãy xem câu : Hiềm vì ngựa chạy còn xa, Thỏ vừa lố bóng, gà đà gáy tan. Tiên-sinh tuổi ngọ, ăn với lời « ngựa chạy còn xa » ; tiên-sinh đỗ năm mẹo ăn với lời « thỏ vừa lố bóng » ; tiên-sinh hụt khoa thi khoa ất-dậu, ăn với lời « gà đà gáy tan ». Lại những việc được tin mẹ chết, khóc đến mắt đui, dọc dường mang bệnh của chàng Vân Tiên, cũng na-ná như việc tiên sinh cả. Cho nên có nhiều người đã nghĩ rằng truyện Lục Vân Tiên là tiểu thuyết của đời tác-giả nó. Rồi người ta lại đoán, hoặc hơn nữa cũng có người quả quyết rằng Nguyễn-đình Chiểu trước đã hứa hôn khi mới đỗ Tú-tài, đến sau mắt mù thì nhà gái từ-khước. Chuyện bội-bạc ấy có không, ta không bằng-cứ vào đâu mà biết được. Nhưng mà ở xã-hội Việt-nam buổi xưa, nhất https://thuviensach.vn là ở các nhà giàu-sang, hay có tục cưới-gả sớm, thì biết đâu lúc đỗ Tú-tài, là đã hai-mươi-hai tuổi, Nguyễn-đình Chiểu lại không khỏi « dưới chân đã sẵn một giây tơ-hồng ». Điều chắc, thì đến khi mù, ngồi dạy học-trò, tiên-sinh chưa vợ. Đương độ thanh-xuân, xác thịt tiên-sinh biết đâu chẳng gọi-đòi xác-thịt. Điều chắc, thời theo sự tin-tưởng, theo cái luân-lý thịnh-hành thời bấy giờ, tiên-sinh không khỏi ái-ngại về sự nối dòng nối dõi. Đọc thơ Lục Vân Tiên, thấy có câu : Thương vì đôi lứa chưa thành, Vừa hương bát nước ai dành về sau ! Đó là nghĩ cho chàng họ Lục, mà quyết là tiên-sinh cũng có một phần to, mình nghĩ cho mình. Nhưng mà dầu cho cái Tú-tài của tiên-sinh không phải là cái thiên-hạ khinh thường, mà sự tàn-tật của tiên-sinh chắc đã làm cho những Võ Công ứng lên tứ hướng, và buông ra lời : Rể đâu có rể đui mù thế ni ? Đọc Ngư Tiều vấn-đáp, đoạn « thà đui » mới thấy rõ tiên-sinh đau-đớn về cái tật này lắm. Tuy-nhiên lòng tốt ở đời cũng chưa chết hẳn. Trong môn-đệ của tiên sinh có người ở xã Thanh-ba, huyện Mỹ-lộc, tỉnh Gia-định (nay là làng Mỹ lộc, quận Cần-giuộc), tên là Lê tăng Quýnh, cám cảnh thầy tàn-tật cô-đơn, về thưa cha mẹ gả cho tiên-sinh người em thứ năm của mình, là Lê thị Điền, nhỏ hơn tiên-sinh những mười-ba tuổi : bà Lê-thị sinh năm ất-vị (1835). Không rõ tiên-sinh cưới vợ vào năm nào, duy biết qua ngày 26-7-1855 bà Lê-thị sinh Nguyễn thị Hương, là gái đầu lòng. Việc gia-đình của tiên-sinh đến đây là tạm yên, những tưởng là yên được lâu dài. Nhưng rồi nạn nước sẽ làm cho mọi gia-đình tan-tác. Hải-quân nước Pháp lần lần vẽ rõ cái ý muốn và cái chiến-lược của mình. Bắn không không trước cửa Hàn năm 1843. Rồi lại bắn không không trước cửa Hàn năm 1845. Đến lần thứ ba, là năm 1847, thì những khẩu đại-bác đã quay ngay về mục-đích, phá tan-tành hạm-đội Việt-nam, song le rồi không chiếm- https://thuviensach.vn cứ thành-lũy. Đến lần thứ tư, tháng 9-1856, thì thành-lũy cửa Hàn bị công phá, nhưng chiếm-cứ thì cũng chưa, mà cuộc thị oai của hải-quân Pháp đến đây là thời-kỳ tối hậu. Vua Tự-đức liệu sao thời liệu cho vạc Nguyễn vững vàng. Hai năm sau (1-9-1858), lần thứ năm động binh, hải-quân Pháp sẽ khai thỉ cuộc xâm-chiếm. Lần này Vice Amiral Rigault de Genomlly lấy hẳn cửa Hàn. Cửa Hàn, cũng như là cái cổng ngõ của kinh-đô Huế. Binh nước Pháp đóng đấy cho Tự-đức được xem gần, thấy rõ cái lực-lượng của binh Tây-Âu. Thật ra, thì cửa Hàn không phải là nơi đáng chiếm-cứ, cũng như xứ Trung kỳ núi non chớn-chở, đất-đai khô-xấu hẹp-hòi, không phải là nơi đáng chiếm-cứ để làm thực-dân-địa. Nên chỉ sáu tháng sau, chiến-thuyền Pháp lại quay mủi về phía Nam. Ngày 11-2-1859, Rigault de Genonilly đánh lấy cửa Cần-giờ. Một tuần lễ sau, ngày rằm tháng giêng năm kỷ-vị (17-2-1859) thành Sài-gòn cũng bị ông hạ nốt.-Hạ xong thành Sài-gòn, Rigault de Genouilly trở ra cửa Hàn thu-xếp việc binh-nhung. Đến hôm 7 và 8 tháng 5 năm ấy lại phải một lần nữa đánh tan binh nhà Nguyễn ở mấy đồn trước cửa Hàn. Nhưng mà như trên kia đã nói, cửa Hàn không phải là nơi đáng chiếm cứ, huống chi trận-thế ở Sài-gòn bấy giờ đã vững-vàng rồi ; ngày 23-3-1860 quân Pháp ở cửa Hàn rút đi, bỏ thành không cho vua Tự-đức, để về Sài-gòn củng-cố cái trận tuyến ở đây. Sự xâm-lược xứ Nam-kỳ phì-nhiêu bắt đầu triển-tấn. Rằm tháng giêng năm tân-dậu (24-2-1861) Amiral Charner hạ đồn Cây-mai, qua ngày sau hạ luôn đồn Chí-hòa, rồi cách hai ngày nữa (28-2) hạ nốt đồn Thuận-kiều, Sài-gòn đã hoàn toàn thất thủ. Kể ra, từ năm tân-dậu trước (1801) vua Gia-long hảm thành Huế, tức đế-vị, đến tân-dậu này (1861) mất thành Sài-gòn, là chẵn sáu mươi năm, « đáo tuế » của cơ-nghiệp nhà Nguyễn. Người mê tín sẽ xem đó là cuộc tuần hoàn của số vận một triều-đại. https://thuviensach.vn Số-vận có không là điều ngoại vấn-đề. Ta chỉ biết thành Sài-gòn, thủ phủ của Nam-kỳ mà mất đi, thì xứ Nam-kỳ đã như nằm trong tay của binh nước Pháp – chạy đâu cho khỏi nắng trời. Nhưng mà dân Sài-gòn cũng chạy đi tán-loạn. Hãy đọc bài Nguyễn tiên-sinh cực tả cái cảnh điên-bái thời bấy giờ, nhất là mấy câu : Bỏ nhà lũ chó băng-xăng chạy, Mất ổ bầy chim dáo-dát bay. Bến Nghé của-tiền tan bọt nước, Đồng-Nai tranh-ngói nhuốm màu mây. Thời không những người, mà cho đến vật cũng phải sống trong cảnh hãi-hùng sảng-sốt. Hoảng-hốt mà chạy đi, người ta nghĩ nào nỗi lưu-ly thảm-khốc. Nhưng mà ở, thời dầu cho không can-hệ chi đến nhân-thân, cửa nhà, của-cải, cũng còn có người vì nghĩa mà không thể ngồi nhìn cảnh tượng « bất tiền ». Chính cũng vì nghĩa mà Nguyễn-đình Chiểu phải lìa đất Sài-gòn, là nơi đã cắt rốn chôn nhao, chạy về quê vợ ở Cần-giuộc, tại xã Thanh-ba. Nơi đây, tiên-sinh cũng lại lập trường dạy học-trò, cố giữ-gìn nền lễ-giáo luân-thường của Khổng Mạnh. Tiên-sinh đã là người « tháng ngày bao quản sân Trình lao đao », thì tất phải tiêm-nhiễm đạo Khổng Mạnh sâu vào tủy-não tinh thần mà chớ. Bởi thế cho nên sùng nho, tôn quân, là việc đầu trong nhiệm vụ của tiên-sinh. Tập DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU có lẽ viết ra lúc về Cần-giuộc, là một tập vận-văn vì đạo nho mà công-kích mãnh-liệt đạo Phật và đạo Chúa, nhất là đạo Chúa. Vì đạo Chúa, chính là tự người Pháp đem truyền. Tiên-sinh nghi ngờ cừu-oán đạo ấy cho đến lời : Dân mà mê đạo tây rồi, Nước người muốn lấy mấy hồi phòng lo. Dầu ai tránh khỏi mê đồ, Lại thêm nha-phiến trao cho hút liền. Tối ngày ôm những ống đèn, https://thuviensach.vn Nào rồi toan việc đánh phiên dẹp loàn. (DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) Ta phải nhận rằng văn-chương trong tập thơ này có lắm nơi thanh thoát, lắm nơi hùng-hồn, nhưng hiềm vì luận-điệu thì rất tây-lệch và lắm chỗ vụng-về lẩn-thẩn. Nhưng mà phán-đoán như thế, là vì thời-gian đã lui xa tám chín-mươi năm trời, bây giờ không sao cảm-giác được cái không-khí trong ấy đã sản-xuất thơ DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU. Có lẽ tập thơ ấy làm thỏa-thích người đồng thời với tác-giả nó, cho nên nó vẫn được hoan nghênh, truyền-tụng, và dầu cho nó không có cái hân-hạnh được xuất bản, vì lời-lẽ nó xẵng-bạo, mà hiện nay vùng Cần-giuộc ít ra cũng còn ba bổn sao lại, mà chúng tôi được xem thấy một, giấy bạch đã trổ vàng, nét mực đã lu lờ ở mấy góc-chỗ ngón tay từng mó để lật trương. 3 Trong tập DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU còn có một chỗ rất quí-báu để hiểu thái-độ Nguyễn-đình Chiểu đối với Khổng-giáo, ấy là chỗ tả ra nghi-vệ của Khổng-tử trên Huyền-thiên, đi hội chầu Ngọc-hoàng Thượng-đế : Phút đâu trên chốn Tây-lâu, Nổ ba tiếng sấm nhóm chầu các cung. Áo-xiêm đai-mão lạnh-lùng, Tinh-quân các vị ròng ròng tới nơi. Khổng-tử đi trong đám đó : Thấy đi có tấm thẻ bài, Đề rằng Khổng-tử đại-tài thánh-vương. Làm gì mà đến « đại-tài thánh-vương » ? Nguyễn-đình Chiểu cho cái lẽ, là : Cho hay muôn nước đều nhờ, Đạo ông Khổng-tử thiệt là giáo dân. Trong đời biết chữ nhân-luân, Biết đường trị loạn muôn phần nhờ ai ? Đó chẳng qua là như mấy triệu người khác trong nước, tiên-sinh chịu ảnh-hưởng sâu-xa của đạo học phong-kiến của Khổng Mạnh, là người ở https://thuviensach.vn thời-đại mà bộ-lạc vừa mới biết đình-bộ lại một nơi để chuyên theo nông nghiệp. Nhưng cái đạo học đó, dầu phải dầu chăng, cũng là đạo hạp lý cho thời-đại tiên-sinh, và cũng là un-đúc nên biết bao nhiêu nhà nho có tiết-tháo đáng kính-trọng. Lại nữa cũng không chừng nhờ cái tiết-tháo kia nên những áng văn có lắm chỗ tầm-thường hoặc sống-sượng như văn của Nguyễn-đình Chiểu mà vẫn được truyền-tụng ca-ngâm trong khắp dân-gian. Người ta đọc văn ấy bởi chuộng người hơn là vì những cái nghệ-thuật tu-từ vắng mặt trong đó. Không cầm thương lên ngựa được, lực đinh-tráng của người mù-lòa biết hoạt-động thế nào buổi nước nhà nghiêng-ngửa ? Lòng phẫn-uất của Nguyễn-đình Chiểu, Tú-tài, không phát-tiết ra nơi văn-chương thì còn phát tiết ra đâu ? Ta sẽ thấy những câu văn của tiên-sinh trầm-hùng bi-tráng ở các bài điếu bạn, hoặc điếu dân, đã tuẫn tiết, tử chiến. Mà chiến-họa bấy giờ thì liên-miên cơ hồ bất tuyệt. Nay binh Pháp công-phá đồn này, mai binh Pháp khắc-phục đồn kia, đạn nhểu lâm-râm, máu rơi lấm-tấm, bản đồ Lục-tỉnh lem-luốc, vày-vò. Sài-gòn đã về tay người Pháp, đường giao-thông giữa hai cõi Nam Trung đã đứt ngang, vua Tự-đức nghĩ nào sự sai binh cứu viện. Mỹ-tho vào tay Contre Amiral Page ngày 12-4-1861. Biên-hòa vào tay Contre Amiral Bonard ngày 9-9 năm đó. Đến 14-12 thì đồng thời Gò-công, Cần-giuộc, Tân-an bị công-phá tan-tành. Ba tỉnh phía đông đã vào trọn trong tay người Pháp. Nguyễn-đình Chiểu lại một lần nữa phải ra đi. Bài thi lưu giản của tiên-sinh vô cùng cảm-kích : Vì câu danh-nghĩa phải đi ra ; Day mũi thuyền nam dạ xót-xa. Người dễ muốn chi nương đất khách, Trời đà khiến vậy mến vua ta. Biệt-ly đã đành đau-đớn thế. Nhưng mà vì câu danh-nghĩa, cho nên : Một phương thà tránh đường gai-gốc, Trăm tuổi cho tròn phận tóc da. https://thuviensach.vn Tiên-sinh chạy đi Ba-tri, là nơi mà tiên-sinh gọi là « chân trời góc biển ». Nơi đó tiếng súng xa tai, mà thương lòng cũng khôn rịt. Đã mà việc chưa nguôi, lại nhồi thêm mấy hồi binh-lửa nữa, làm cho càng dở-dói vết thương xưa. Nhà nước Pháp đặt cơ-sở vững vàng ở Sài-gòn rồi, thời lấy cái lẽ dân tình phiến loạn mãi, mà phải thân trương thế-lực đi ra xa. Ngày 28-3-1832 Contre Amiral Bonard hạ Vĩnh-long thành như phá trúc. Xứ Nam-kỳ thế không mất kíp thì chầy. Chính-sách ngoại-giao có phương nào cứu vong cho Nguyễn tộ được. Ngày 5 tháng 2 sứ bộ Phan Thanh Giản tới Sài-gòn để nghị-hòa với Bonard. Kết-quả ba tỉnh phía đông là Biên-hòa, Gia-định, Định-tường, chính-thức thuộc Pháp. Một người thời ấy, là cử-nhân Phan Văn Trị, bạn của Nguyễn-đình Chiểu, có bài thi cảm-khái, trong có câu đau-đớn não-nùng : Tan nhà cám nỗi cơn ly-hận, Cắt đất thương thay cuộc giảng-hòa ! Cứ xem câu thi sau thì biết lòng sĩ-phu trong nước không lấy việc giảng-hòa làm êm. Tứ phương văn-thân nổi dậy kháng-cự một cách tuyệt vọng, mà kháng-cự hoài bằng những đám giặc chỏm : Giặc cỏ om-sòm mưa lại rưới, Binh sương lác-đác nắng liền thâu. Nhà nước Pháp phải đánh-dẹp mãi. Ngày 20-8-1864 Trương Định bị Huỳnh công Tấn bắn gảy xương sống, chết tại Kiểng-phước (Gò-công). Cái chết này làm cho Nguyễn-đình Chiểu hết sức đau-thương, vì Trương Định vốn là tri-kỷ của tiên-sinh. Bởi thế cho nên đã có một bài văn-tế não-nùng dài đến ba-mươi-hai câu, tiên-sinh lại còn thêm mười-hai bài liên-hoàn bát cú rất thống-thiết để khóc Trương Định. 4 Trương Định làm Quản-cơ, sau khi Sài-gòn thất thủ, ba tỉnh phía đông mất rồi, cũng muốn lui về một góc chiêu-tập quân-sĩ để đợi thời-cơ, thời có đến yêu-cầu Nguyễn-đình Chiểu gia-nhập bộ tham-mưu của mình. Nguyễn- https://thuviensach.vn đình Chiểu cáo-từ vì tàn-tật. Tuy thế mà mỗi khi có việc chưa thông, Trương Định cũng cầu mưu hỏi ý nơi ông đồ. Nguyễn-đình Chiểu có lần khuyên Trương Định nên dâng chiếu vua, lui binh tìm đất hiểm. Nhưng mà : Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên-tử chiếu, Đón-ngăn mấy dặm mã-tiền. Theo bụng dân phải chịu tướng-quân phù, Gánh-vác một vai khổn ngoại. Cho nên : Dẫu biết dùng binh nhờ đất hiểm, Chẳng đành xa bờ-cõi Gò-công mà Trương Định chết. Nhà nước Pháp được yên một mũi giặc. Nhưng Trương Định khác mọc lên hoài. Ngày 17-4-1866 binh Pháp lấy đồn Tháp mười, rồi qua năm sau, trước sau chỉ trong năm ngày, Lagrandière hạ thành Vĩnh-long (20-6-1867), lấy Châu-đốc (22-6), lấy Hà-tiên (24-6). Thế thì trước kia, năm 1862 : Chợt thấy cánh buồm lai sứ, Cuộc giảng-hòa những ngỡ rằng xong. mà nay lại thêm rối-rắm. Phan Thanh Giản tuyệt cốc, chết ngày 4-10-1867 : Việc nước tan-tành hệ bởi đâu, Dàu dàu mây trắng cõi Ngao-châu. Ba Triều công-cán vài hàng sớ, Sáu tỉnh cương-thường một gánh thâu… Năm 1867 ấy, G. Jannean xuất-bản thơ LỤC VÂN TIÊN bằng chữ quốc-ngữ, là bản chữ quốc-ngữ trước hơn hết. Nhưng Nguyễn-đình Chiểu có muốn biết đến mà làm gì. Vả lại chuyện xuất-bản sách thì ở Sài-gòn, mà tiên-sinh thì ẩn-độn tận xứ Ba-tri, lại ghét đáo để thứ chữ cong-queo của các ông cố-đạo. Nhưng mà người phương Tây thì nào phải từ đây mới biết đến tác phẩm lúc thanh niên của tiên-sinh, mà trước nữa, năm 1864, Gabriel Aubaret đã đem dịch ra chữ Pháp đăng ở tạp-chí Journal Asiatique bên Pari. Bây giờ G. Aubaret đương làm Lãnh-sự cho nước Pháp ở Xiêm-la (Thái-lan). Ông https://thuviensach.vn vốn là người rất thạo chữ tàu, và, theo lời Capitaine Lucien de Grammont 5 nguyên chủ-tỉnh Thủ-dầu-một, thì ông nói tiếng Việt-nam rất được thanh nhã lắm. Sau ông có làm giáo-sư dạy chữ tàu ở trường Hậu-bổ. Nói về thơ LỤC VÂN TIÊN ông viết : « Độc-giả hãy lượng thứ cho chúng tôi các tội thiên-chấp quyển sách con này, là quyển mà, xin thú-thật bao giờ cũng làm cho chúng tôi chú-ý nhiệt-liệt. Trong quyển này chúng tôi nhận thấy rất rõ-ràng tất cả những cái đặc-tính của một quốc-gia mà trong ấy chúng tôi được sinh-hoạt lâu năm ; chúng tôi nhận thấy rõ-ràng sự ấy cho đến đỗi bao giờ chúng tôi cũng coi quyển thơ này như là một xuất-phẩm hiếm hoi của tri-óc con người được có cái đại-thắng-lợi là biểu-diễn đứng đắn những mối tình-cảm của cả một dân-tộc ». 6 Đó là lời thiên-chấp chăng ? Đó là lời phẩm-bính chính-đính chăng ? Chúng tôi vì chút tình nhà, không lẽ đi chối-từ lời khen-tặng làm vẻ-vang cho tiền nhân như thế. Duy chúng tôi biết rằng Nguyễn-đình Chiểu, cũng như nhiều tác-giả khác, không muốn nhìn-nhận những tác-phẩm lúc thanh niên của mình, và dầu cho nó có được hoan-nghênh đi mấy nữa, cũng hơi thèn-thẹn khi nghe có người còn nhắc-nhở đến. Thật thế, năm 1885, trong bài tựa cho bản dịch LỤC VÂN TIÊN ra vận-văn tiếng Pháp, Eugène Bajot viết rằng : « Nguyễn-đình Chiểu đối với mọi sự quanh mình đều nhưng nhưng không quan tâm đến ; những sách-vở, ngay cho đến sách của tiên sinh, cũng không bận lòng tiên-sinh nữa, bổn thơ của tiên-sinh dường như không còn có nghĩa-lý chi đối với tiên-sinh ». 7 Eugène Bajot nói nửa phần sai. Có, tiên-sinh có quan tâm đến một điều, là điều nước mất. Điều đó không bao giờ tiên-sinh quên đặng, mà mãi đến lúc buông hơi thở cuối cùng tiên-sinh cũng hãy còn ôm bên lòng canh-cánh. Nhưng mà từ khi Phan Thanh Giản chết rồi, « sáu tỉnh cương thường một gánh thâu », địa-vị của nhà nước Pháp ngày càng thêm củng-cố. Mặc dầu còn giặc-cỏ, mà « muốn địch với quan binh ví chẳng khác bắt cầu qua biển cả », theo lời Tôn Thọ Tường. Năm 1874, tháng 3, ngày 15, Triều-đình https://thuviensach.vn Huế phải ký hòa-ước với Amiral Dupré mà chính-thức công-nhận chủ-quyền tuyệt đối của nước Pháp ở Nam-kỳ. Đất Nam-kỳ, từ năm 1867, mất hẳn về tay nhà nước Pháp rồi, văn-thân trong nước còn vẫy-vùng sao cho được. Bấy giờ Nguyễn-đình Chiểu cũng phải nhẫn-nhục, không chạy đi đâu nữa. Vả lại tuổi cũng hầu già rồi, một cõi Ba-tri ở thiên nhai hải giác âu cũng là xa lánh được việc « tân-triều ». Xa lánh, đó là một cách nói. Kỳ thật, ngay năm 1867, sau khi Phan Thanh Giản chết rồi, ba tỉnh phía tây về nước Pháp, thì tỉnh Bến-tre cũng liền đặt ra bố quan giao cho một vị Enseigne de Vaiseau là Palasne de Champeaux ngồi cai-trị. De Champeaux vừa đáo nhậm đã phải dẹp loạn, do con-cháu Phan Thanh Giản lãnh đạo gây nên (tháng 11-1867). Năm sau (5-2-1868) thì ngay ở Hương-điểm, cách Ba-tri có hai-chục cây số, cũng lại có văn-thân nổi dậy, song le bị đàn-áp liền. Rồi thì tháng 7 ở Cái-mít, tháng 8 ở Phú-ngải và ở Tân-điền, quanh vùng Ba-tri loạn lạc lung tung. Tháng 5-1869 loạn nổi ở Đồng-xuân, cách Ba-tri chỉ có 16 cây số. Gần hơn nữa cách Ba-tri hai cây số, ở Giồng-gạch một người mà Nguyễn-đình Chiểu thương-tiếc là Phan công Tòng lại tử trận. Loạn-lạc nhiễu-nhương liên-miên, cho đến đỗi dân-gian bỏ nhà-cửa, ruộng-đất, chạy đi lánh mình nơi khác hết. Tháng 11-1869 dân làng Quới điền bỏ chạy, tháng 10 năm 1870 dân làng An-thới cũng bỏ đi ; tổng Bảo-an là tổng Nguyễn-đình Chiểu ở cơ-hồ thành đồng hoang vô chủ. 8 Đó là không kể những cuộc loạn ở các vùng khác. Nhưng tháng 2 năm 1872 loạn ở Mõ-cày, lan ra tổng Minh-trị, tổng Bảo-đức. Mãi đến năm 1874, trong tỉnh Bến-tre mới yên-tịnh. 9 Xem thế thì biết Nguyễn-đình Chiểu đào-ẩn ở Ba-tri phải sống trong cái không-khí nặng-nề bực-bội là dường nào. Cái không-khí ác nghiệt-ấy, từ năm 1860, ở Sài-gòn, ở Cần-giuộc, ở đây, ở đâu nó cũng bao-bọc mãi ông đồ mù. Hãy đọc mười bài liên-hoàn bát cú điếu Phan công Tòng tử trận ở Giồng-gạch 10, thì rõ khi tiên-sinh ở Ba-tri, thời-cuộc vẫn cảm-xúc tiên-sinh dường nào, nên mới phát ra những câu văn như : https://thuviensach.vn Vườn luống trông xuân, hoa ủ-dột, Ruộng riêng sầu chủ, lúa khô-khan. Đối cảnh tang-thương tiêu-điều như thế, tiên-sinh phát ra văn bi-đát dường kia. Chớ tiên-sinh không hề « vô bệnh thân ngâm » như bao nhiêu văn-sĩ, thi-sĩ, nhất là thi-sĩ là kẻ thường ưa tô-điểm sự thật cho hết thế nhận nhìn ra. Chẳng những lối văn « vô bệnh thân ngâm » tiên-sinh không chuộng mà lối văn gọt-dũa giồi-mài tiên-sinh cũng không làm. Giá mà phí thêm thì giờ, thao-luyện văn-thể, thì tiên-sinh quyết cũng làm nên văn thanh-thoát, như câu phỏng Đường Thi sau này trong tập NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP : Đường xa khao khát rượu nồng, Hạnh-thôn muốn hỏi mục-đồng vắng tin. Hay là câu : Ven gành một nhắm hắt-hiu, Tiêng ngư trong núi, bóng tiều ngoài khơi. (DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) Thử đọc những bài văn tế của tiên-sinh, ta sẽ thấy tiên-sinh không phải là không có văn-học và văn-tài. Duy cái văn-tâm, thì thật là không thấy tiên sinh có dấu gì nuôi-nấng nó. Mà ba cái văn-tâm, văn-học, văn-tài, nếu vắng đi một, nếu không kết thành ba, thì khó nên áng văn hay bất hủ. Trong buổi nước nhà đa sự, bờ-cõi qua phân, các bậc văn-thân còn lòng nào chơi văn gọt chữ ? Thời cái văn tâm sao đem được vào lòng. Nguyễn tiên-sinh sở dĩ làm ra thi-từ, chẳng qua là vì cái thói quen chác lấy ở trường ốc là một, hai nữa là vì ở thời buổi bấy giờ toàn xã-hội không biết có văn nào ngoài biền-ngẫu vận-văn cho nên điếu tử-sĩ tiên-sinh phải có những vần, những đối : Đau-đớn bấy ! mẹ già ngồi khóc trẻ, Ngọn đèn khuya leo-lét trong lều ; Não-nùng thay ! vợ yếu chạy tìm chồng, Con bóng xế dật-dờ trước ngỏ. https://thuviensach.vn Giọng văn bi-đát là dường nào ! Ý văn thành-thật là dường nào ! Thế mà văn ấy đã phải khép vào khuôn-khổ biền-ngẫu. Lại như câu : Trời Gia-định ngày chiều ráng bắn, Âm-hồn theo con bóng ác dật-dờ ; Đất Biên-hòa đêm vắng trăng lờ, Oan quỉ nhóm ngọn đèn trơi heo-hắt. An-hà quận đương khi bạch-trú, Gió cây vụt thổi, Cát xoáy bay con trốt dậy bên thành ; Long-tường giang mỗi lúc huỳnh-hôn. Khói nước xông mù, Lửa đóng nhang, binh ma chèo dưới vực. Thời văn ấy cảm-khái trầm-hùng là dường nào ! Nhưng mà đó là do tình-cảnh đặc biệt mới có lời văn đặc biệt nảy ra trong tứ của Nguyễn tiên sinh. Không thế, tiên-sinh không từng phục bút-thế, kiểm văn-thể, để cho nổi câu văn. Xem NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP, xem DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU nhất là xem tác-phẩm rất dung thường của tiên-sinh, là quyển LỤC VÂN TIÊN, ta sẽ thấy những chỗ bơ-thờ, lạt-lẽo, sống-sượng, lúng-túng, vụng-về, không có chút gì văn-vẻ cả. Thế mà những tác-phẩm ấy được trường thọ, có bổn như LỤC VÂN TIÊN, được in đi in lại, lại còn được đem vào chương trình văn chương ở nhà trường, thời là nhờ cái cá-nhân có đức vọng của tác giả có nhiều, như trên kia đã nói qua rồi. Đức vọng của Nguyễn tiên-sinh không những riêng người Nam cảm mến, mà cho đến người Pháp cũng phải kính-yêu. Cứ như lời ông Nguyễn-đình Chiêm thuật lại thì Michel Ponchon, chủ tỉnh Bến-tre bấy giờ, vâng lệnh chính-phủ Pháp có đến viếng tiên-sinh để « tưởng lệ văn-sĩ ». Nhưng mà tiên-sinh thác bệnh ngồi trong buồng, không chịu ra chào khách. Túng thế, ông Ponchon phải xin phép vào thăm tận nơi giường bệnh, nhờ ông Lê quang Hiền, sau này Đốc-phủ-sứ Lê quang Hiền thông-ngôn, để yêu-cầu tiên-sinh nhuận-chính cho bổn thơ LỤC VÂN https://thuviensach.vn TIÊN. Bấy giờ tiên-sinh có sai người kêu là biện Đống, chép truyện ấy lại gởi cho ông Ponchon. Không rõ sự ông Ponchon đến viếng tiên-sinh thuộc về ngày tháng năm nào. Duy xem biểu quan lại thuyên-chuyển thuở ấy, thấy ngày 14-9-1883, ông Michel Ponchon đương ở ngạch thương-chính được bổ đi ngồi chủ-tỉnh Bến-tre. Như thế thời chắc là vào khoảng năm 1884, Michel Ponchon hội đàm với Nguyễn-đình Chiểu. Trừ lần đến xin nhuận-chính bổn LỤC VÂN TIÊN ra, Michel Ponchon sau còn ba lần nữa đến viếng, cố ý khuyên-dụ Nguyễn tiên-sinh, hỏi thăm đất-cát của tiên-sinh ở Sài-gòn ranh-rấp như thế nào để tìm giao trả lại cho. Tiên-sinh cám ơn và cười mà khước lời rằng : « Đất vua còn phải bỏ, thì đất của tôi có sá gì ? ». Ông Ponchon lại nói đến việc nhà nước Pháp định cấp cho tiên-sinh tiền dưỡng lão, tiên-sinh cũng một mực chối-từ. Đó là riêng phần chính-phủ. Còn những tư-nhân người Pháp nghe thấy tác-giả của LỤC VÂN TIÊN sống trong cảnh già tàn-tật kham-khổ, thời họ viết báo cổ-động quyên tiền để gởi tặng, an-ủi một bậc thi-nhân được khắp xã-hội tôn-kính. Tưởng con nhà văn mà được chính-phủ và toàn thể nhân-dân ưu-đãi như thế, thời thật là sự thiên tải nhất thời. Người không có tiết-tháo, ở cái địa-vị của tiên-sinh, ắt đã không cầm được vững dạ. Tiên-sinh thời chỉ muốn cho được sạch mình, cho nên rất cẩn-thận trong sự chọn đường xuất xử : Sự đời thà khuất đôi tròng mắt, Lòng đạo xin tròn một tấm gương. Là một câu thi của tiên-sinh, trong tập NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP 11. Bình sinh bão-phụ của tiên-sinh là ở đây. Không còn đủ cơ-năng để phò vua giúp nước, tiên-sinh tiếc mình không làm được lương-tướng, thời nguyện làm lương-y. Trong cái địa-phận này : Phương cũ vua tôi gìn trước mắt, Mạng nay già trẻ gởi trong tay. https://thuviensach.vn Thời sự cứu đời há kém chi lương-tướng ? Người đồng thời lấy làm khen tài tiên-sinh lập phương đầu thang. Trong báo MAI ở Sài-gòn, số Tết năm 1937, ông Trần văn Giao, bút tự Vân-Trình, thuật lời ông Đốc-phủ-sứ Thái hữu Võ là người Ba-tri, đã thường tới lui nhà Nguyễn-đình Chiểu, viết rằng : « Mà sự đi khỏi của ông Đồ cũng thường lắm, vì ông làm thuốc rất có danh, thiếu gì thân-chủ người mời kẻ rước ». Sự làm thuốc hay của tiên-sinh thì là sự tất-nhiên. Đã được học với một người hay thuốc vốn giòng ngự-y, tiên-sinh lại là người cẩn-thận, chân thành lắm, thì tất là phải làm thuốc hay mới được. Xem tiên-sinh dặn em, có lời : Dược trị đau chớ khá học sơ-sài, Phép dạy trẻ chớ nên oai bầu trợn. thì biết tiên-sinh là người chân-thành trong nghề thuốc. Lại trong tập NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP, trước khi dạy thuốc, tiên-sinh có đoạn dạy rằng đạo tế-sinh hoạt-mạng phải chứa âm-đức làm đầu, thì biết tiên-sinh là người tồn tâm tế thế, chớ không phải lấy nghề thuốc làm nghề sinh-nhai. Huống chi nghề sinh-nhai, thì tiên-sinh còn có nghề dạy học. Nói rằng tiên-sinh lấy nghề dạy học làm nghề sinh-nhai thì e rằng không đúng. Nếu sự thật, dạy học có bề nuôi sự sống, vì học-trò vẫn đem tiền-bạc lúa-gạo đến công thầy, thì cũng còn có chỗ tin rằng tiên-sinh dạy học là đeo theo cái lý-tưởng phù thực nho-đạo : Bấy lâu giặc-giã chưa rồi, Những lo sĩ-tử bỏ nơi học-trường. (DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) Sĩ-tử mà bỏ nơi học-trường, thì nho-đạo cũng đến phải khuynh-đảo. Tiên-sinh, dầu hèn cũng thể, cũng là chân Tú-tài, đâu nỡ để cho lu-lờ đạo Khổng. Chớ riêng mình, thì có lẽ tiên-sinh cũng đã nghĩ chu-đáo : Hay đâu việc học rồng rồng, Còn ngoài cung bích luống trông ngỡ-ngàng (DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) https://thuviensach.vn Làm thầy đồ, làm thầy thuốc, cứu xác-thịt, cứu tinh-thần, hai phương diện cùng nhau như lang bối. Làm lương-tướng, làm lương-y, địa-vị tương đương, được một này sánh tày một nọ. Nhưng mà nơi Nguyễn-đình Chiểu, thời sự lựa-chọn đâu được có tự-do, vì chưng mắt đã mù-lòa, không thể cầm thương lên ngựa. Phải chọn lấy nghề y, thay vì làm viên tướng là sự tiên sinh phải làm, bởi chẳng đặng đừng làm. Lòng tiên-sinh thời chẳng những nguyện cứu dân, mà vẫn còn nguyện tá quốc, mà vẫn còn nguyện phò vương : Tấc đất ngọn rau ơn chúa, Vun trồng cho nước nhà ta. Câu ấy ở trong một bài văn-tế dân mộ nghĩa tử trận, cũng là câu tâm huyết của tiên-sinh. Nhưng mà, cơn hai nước giao chinh, thời : Lòng nghĩa-dân phải với ngô quân, Tiếng nghịch-đảng lỗi cùng địch vức. Muốn « vun trồng cho nước nhà ta » lại khó nỗi thị kỳ thị phi kỳ phi giữa buổi đời hỗn-hào điên-đảo. Song le trót đã chọn đường rồi, tiền-trình chớ hỡi, sạch lòng thời thôi. Nguyễn-đình Chiểu câu-nệ cho đến đỗi chữ quốc-ngữ mà cũng cấm con-cháu học. Hoài cựu chúa như tiên-sinh khôn xiết nói cho cùng. Một tấm cô-trung tự-nhiên ảnh-hưởng xa đến con-cháu. Đọc bổn tuồng PHONG BA ĐÌNH của người con thứ bảy của tiên-sinh là ông Nguyễn-đình Chiêm, ta chớ lạ Nhạc Phi mắng Trương Bảo không cho phá linh-ngữ cứu mình, mà lại còn mừng vì Trương Bảo chết, thời cha con mình được chết trung. Lại người con thứ năm của tiên-sinh là bà Sương Nguyệt Anh 12cũng không nguôi lòng hoài cựu chúa. Khi vua Thành-thái dự yến ở Sài-gòn, bà có bài thi cảm-khái, ý rất chua-chát : Ngàn thu nay gặp hội minh-lang, Thiên-hạ ngày nay chí mở-mang. Tấc đất ngọn rau tràn dưới mắt, Đai cơm bầu nước chật ven đàng. https://thuviensach.vn Vui lòng thánh-đế trên xe ngựa, Xót dạ thần-dân chốn lửa than. Nước mắt cô cùng trời đất biết, Biển dâu một cuộc nghĩ mà thương ! Nguyễn-đình Chiểu mà được đọc những văn-phẩm của con mình như thế, thời nơi chín suối âu cũng ngậm cười. Tiên-sinh một đời vốn ôm chí cả. Thương vì : Đã cam chút phận dở-dang, Tri quân hai chữ mơ-màng năm canh. Đã cam lỗi với thương sanh, Trạch dân hai chữ luống doanh ở lòng. Đã cam thẹn với non sông, Cứu thời hai chữ luống trông thuở nào. (NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) Thôi thời sự chẳng như nguyền, hãy lo bề minh-triết bảo thân làm trọng. Cái tư-tưởng thoát trần của tiên-sinh cũng từ đó mà nảy ra. Thân tiên sinh đương ở trong vòng lịch-sử xung-đột, mà chí tiên-sinh lẩn-quất nơi lưu thủy cao sơn : Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh-lợi chi sờn lòng đây. (LỤC VÂN TIÊN) Lão chài thốt ra lời ấy trong truyện, chính là cái bóng của tiên-sinh. Khóa lợi vòng danh, lánh mình cho vẹn, nếu không là anh-hùng tạo thời-thế, thời chớ cho thời-thế khuất anh-hùng. Bởi thế cho nên mấy lần tiếp ông chủ tỉnh Bến-tre, tiên-sinh mấy lần cảm ơn mà từ-khước những món quà vinh hoa phú-quí : Huống ta là kẻ không ngôi, Tài chi sửa gối làm tôi nước loàn ? Tốt hơn là : Xưa nay lẽ có thạnh suy, Gặp sau chịu vậy, hỏi chi sự đời. https://thuviensach.vn Ta nghe quân-tử vui trời, Chỗ lo chẳng vượt khỏi nơi ngôi mình. Dầu còn lòng chánh làm lành, Lành nào phải hỏi tiền-trình làm chi. (NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) Không còn thể vẫy-vùng, tiên-sinh đành an mạng, mà giữ lấy lòng thanh-cao, để cho mặc lượng cao dày xử với dân. Đọc NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP của tiên-sinh, chẳng những là ta nhập môn đạo Kỳ Hoàng quen với Linh Khu, Tố Vấn, Nan Kinh, là những bổn cội-gốc của đông-y mà ngày nay nhiều thầy thuốc bắc không biết đến tên, lựa chi là nói đến nghĩa của nó. Đọc NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP ta lại còn rõ được lòng và thấy được khí-tiết của Đồ Chiểu. Lại đọc DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU ta thấy một vị đạo-sĩ trong truyện này, tức cũng là đại-diện của tiên-sinh, đã có lời : …Trọn dạo thì thôi, Làm người lựa phải trau-giồi tánh danh. Trời cao đất rộng thinh-thinh, Non xanh nước biếc mà đành phôi-pha. Hỏi thì ta phải nói ra, Ba ngàn thế-giới ta là vô danh. Danh dã không màng, lợi đã không màng, cho nên vãn cảnh của tiên sinh thật là cảnh tịch-liêu trong tâm-hồn. Người vì nước đã rủ nhau chết ngặt hầu hết rồi. Tiên-sinh sống thừa, tiếng đồng vọng của cuộc đời đến tiên-sinh không còn phản xạ. Ngồi giảng nghĩa năm kinh bốn truyện ở tận nơi chân trời góc biển, tiên-sinh để trí vẩn-vơ theo ngọn triều biến-cố lan-bủa dần từ Nam ra Bắc. Ngày 6-6-1884 Triều-đình ký tờ hòa-ước Patenôtre, ngày 17-8 năm ấy vua Hàm-nghi lên ngôi, ngày 6-7 năm sau vua Hàm-nghi chạy trốn. Những cái tin như thế, mỗi cái tới là cõi lòng tiên-sinh mỗi thêm héo-don, như cỗi thu mỗi lượt gió may hiu-hắt thổi là mỗi lác-đác rơi vàng. https://thuviensach.vn Tháng giêng năm nhâm-tí (tháng 2-1888) vua Hàm-nghi bị bọn phản thần khám-phá tông-tích, sắp bị nả-tróc. Bấy giờ Nguyễn-đình Chiểu đã già rồi, có thể đã suy-nhược đồi đường, dầu cho tinh-thần có còn muốn phấn đấu mà làm sao chống nổi lại ngọn triều ác-liệt mãnh tấn. Nghe tin vua Hàm-nghi chẳng lành, tiên-sinh không ngớt thở dài than-khóc, cơm-cháo lánh mùi, mà thỏn-mỏn chết dần. Ngày hai-mươi-bốn tháng năm, năm mậu tí (3-7-1888) tiên-sinh buông hơi thở cuối cùng ở Ba-tri. https://thuviensach.vn PHẦN THỨ HAI : TRÍCH-LỤC VĂN-PHẨM CỦA NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU I. THỂ THẤT-NGÔN « NGŨ-LUÂN TUYỆT CÚ » 1. CHA CON Cha phải cha, con phải đạo con, Rằng lành rằng thảo tiếng hay còn. Cây kiều, cây tử đời thường vi, Chẳng trái lòng nhau mới đặng tròn. 2. VUA TÔI Vua phải vua, tôi phải đạo tôi, Sửa-sang giềng-mối mới nên ngôi. Minh hương hai chữ vầy trên dưới, Nước trị nhà an bốn biển vui. 3. VỢ CHỒNG Vợ phải đạo vợ, chồng phải chồng 13 Vợ chồng là đạo đất trời thông. Khó-nghèo đều chịu, giàu đều hưởng, Kết tóc trăm năm trọn một lòng. 4. ANH EM Anh phải anh, em phải đạo em. Huân tri hai ống thổi nghe êm, Sanh đồng một cội là xương-thịt, Sống thác nương nhau ở diệu-mềm. 5. BẬU BẠN Làm người bậu bạn muốn nên danh, Lời thẳng khuyên nhau ở lấy lành. https://thuviensach.vn Giao mặt xưa rằng vàng ngọc báu, Giúp tình nhân-nghĩa thêm rất xinh. (Năm bài này rút ở tập DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « TẶNG KHỔNG-TỬ » Biết ơn phu-tử, nghĩa quân-thần, Nhờ có trời sanh đức Thánh-nhân. Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn, 14 Dấu xe hành đạo rạch trong trần. 15 Trăm đời còn cảm lời than phụng, 16 Muôn thuở đều thương tiếng khóc lân. 17 Phải đặng bút châu biên sách Hán, 18 Mọi nào dám tới cạo đầu dân. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « ĐẠO NGƯỜI » Đạo trời nào phải ở đâu xa, 19 Gội tấm lòng người có giải ra. Mến nghĩa bao đành làm phản nước, Có nhân nào nỡ phụ tình nhà. Xưa nay đều chọn đường trung-nghĩa, Sách-vở còn ghi lẽ chánh-tà. Năm phẩm rừng nhu săn-sóc lấy, 20 Ấy là đạo vị ở mình ta. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « TẶNG QUAN-VÂN-TRƯỜNG » Tấm lòng ngay chúa thấu trời cao, Năm ải khôn ngừa một lưỡi đao. https://thuviensach.vn Núi đất ba lời gìn nghĩa Hớn ; Sông vàng hai trận trả ơn Tào. Cuốn kinh bát loạn tay nào mỏi, Ngọn đuốc phù nguy gió dễ xao ! Phải thuở Kinh-châu mà giữ chặc, Ngụy Ngô hai nước há nài sao ? (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « NGỰA TIÊU-SƯƠNG » Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu-sương, Lầm đứa gian mưu nghĩ khá thương ! Giậm vó chẳng màng ăn cỏ Tống, Quài đầu lại hí, nhớ tàu Lương. Chẳng cho chủ khác ngồi lưng cổ, Thà chịu vua ta nắm khớp cương. Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cũ, Làm người bao nỡ phụ quê-hương. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « CON DÊ » Ngọn roi Tô Võ dấu vừa qua, Dê của ai nuôi lại thả ra ? Bờ-cõi mấy năm từng dọn vén, Râu ria một lũ tới xông pha. Nằm cao dầu chẳng kiêng thần miểu, Ăn bậy sao không sợ chủ nhà ? Phải đặng lưỡi gươm ngươi Hứa Chử, Be he đâu dám giậm vườn ta. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) https://thuviensach.vn « NGƯ » Ai nói rằng nghề hạ bạc hư ? Chớ chê chài lưới thói bần xừ. Biếng theo ông Lữ câu danh-lợi, Sánh với thầy viên bói thủy-ngư. Chở cá giang-hồ trăm chợ đủ, Chiếc thuyền phong-nguyệt bốn mùa dư. Trọn nhờ lộc nước vui ngày tháng. Giềng-mối trong tay nắm chặt khư. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « BỐC » Trải đời thường chuộng báu thi qui 21 Nồng-nực mùi hương chúa Phục-hi 22 Tám quẻ bố ra đường bí-yếu, Sáu hào xây để máy u-vi. Kiết-hung muôn việc vài lời đoán, Thời-vận ngàn năm một lẽ suy. Bày vẻ khắp trời đường họa phước, Nào con mắt tục mấy người tri. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « XÚC CẢNH » Cây ngỏ ngùi ngùi ngóng gió đông, Chúa xuân đâu hỡi, có hay không ? Mây giăng ải bắc trông tin nhạn, Ngày xế non nam bặt bóng hồng. Bờ-cõi xưa còn chia đất khác, 23 Nắng sương nay dễ đội trời chung. Bao giờ thánh-đế ơn soi thấu, https://thuviensach.vn Một trận mưa nhuần rửa núi sông. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « TRỜI BÃO » Phi-Liêm binh-mã đóng nơi nào ? 24 Oai gió đưa ra sóng biển nhào. Thổi nóc miểu chùa hơi vụt-vụt, Xô nhầu cây đá tiếng ào-ào. Ai rằng chầm Lộc mê Ngu Thuấn, 25 Ta nhớ sông Tri giải Hớn Cao. Một trận bão rồi bờ-cõi sạch, Trời thu như cũ mãi không hao. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « NƯỚC LỤT » Mưa từ chặn, gió từ hồi, Thế-giới bao nhiêu nước khoả rồi. Lũ kiến bất tài đòi chỗ khắp, Củi rều vô dụng kết bè trôi. Lao-xao cụm luộc nghe chim óng, 26 Lổm-xổm giường cao thấy chó ngồi. Nỡ để dân đen trên gác yếu, Nào vua Hạ Võ ở đâu ôi ! (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « CHẠY GIẶC » Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây, Một bàn cờ thế phút sa tay ! Bỏ nhà lũ chó băng-xăng chạy, Mất ổ bầy chim dáo-dát bay. https://thuviensach.vn Bến Nghé của-tiền tan bọt nước, Đồng-nai tranh ngói nhuốm màu mây. Hỡi trang dẹp loạn ! rày đâu vắng ? Nỡ để dân đen mắc nạn này. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « TỪ-BIỆT CỐ-NHÂN » Vì câu danh-nghĩa phải đi ra, Day mủi thuyền nam dạ xót-xa. Người dễ muốn chi nương đất khách, Trời đà khiến vậy mến vua ta. Một phương thà tránh đường gai-góc, Trăm tuổi cho tròn phận tóc da. Chén rượu đỏ lòng xin cạn chén, Nhớ nhau : ngày khác… biết sao mà ! (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « LÀM THUỐC » Trời đông sùi-sụt gió mưa tây, Đau ốm lòng dân cậy có thầy. Phương cũ vua tôi gìn trước mắt, 27 Mạng nay già trẻ gởi trong tay. Trận đồ tám quẻ còn roi dấu, 28 Binh-pháp năm mùi sẵn cỏ cây. Hỡi bạn y-lâm ! ai muốn hỏi, Đò xưa bến cũ có ta đây. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « TỰ THUẬT » 29 Xe ngựa lao-xao giữa cõi trần, https://thuviensach.vn Biết ai thiên-tử, biết ai thần ? Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng 30 Sách Lỗ biên rồi khó thấy lân. 31 Khỏe mắt Hi-Di trời Ngũ-Quí. 32 Mỏi lòng Gia-cát đất tam phân. Công-danh chi nữa ăn rồi ngủ, Mặc lượng cao dày xử với dân. (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) « ĐIẾU PHAN THANH GIẢN » 33 Non nước tan-tành, hệ bởi đâu ? Dàu dàu mây bạc cõi Ngao-châu 34 Ba Triều công-cán vài hàng sớ 35 Sáu tỉnh cương-thường một gánh thâu. Trạm bắc ngày chiều tin điệp vắng, Thành nam đêm quạnh tiếng quyên sầu. Minh-sanh chín chữ lòng son tạc 36 Trời đất từ đây mặc gió thu. 37 (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) * Lịch-sĩ tam triều độc-khiết thân, Vi quân nam bảo nhất phương dân. Long-hồ ninh phụ thơ sanh lão, Phụng-các không qui học-sĩ thần. Bỉnh tiết tằng lao, sanh Phú Bậc, Tận trung hà hận, tử Trương Tuần 38 Hữu thiên ! Lục tỉnh tồn vong sự 39 An đắc thung-dung tựu nghĩa-thần 40 (Chép theo NGUYỄN-ĐÌNH CHIÊM) https://thuviensach.vn « ĐIẾU PHAN CÔNG TÒNG » (Ở làng Bình-đông quận Ba-tri – Bến-tre – tử trận năm 1868 41 ở Giồng gạch, cách chợ Ba-tri 2 km). Gồm có mười bài liên-hoàn bát cú : I. Thương ôi ! người ngọc ở Bình-đông, Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông. Biết đạo khác phe con mắt tục, Dạy dân giữ vẹn tấm lòng công. Đặng danh vừa rạng bề nhà-cửa, Vì nước riêng đền nợ núi-sông. Một trận trải gan trời đất thấy, So xưa nào thẹn tiếng anh-hùng. II. Anh-hùng thà thác chẳng đầu Tây, Một giấc sa-trường phận rủi may. Viên đạn nghịch-thần treo trước mắt, Lưỡi gươm địch-khái nắm trong tay. Đầu tang ba tháng trời riêng đội, Lòng giận ngày thu đất nổi dày. Tiết mới một lòng ra đất trụm, Cái xên con rã nghĩ thương thay ! III. Thương tay, tạo-vật khuấy người ta, Nam đổi làm Tây, chính lại tà. Trống nghĩa bảo an theo sấm rạp, Cờ thù công-tử guộng mây qua. Én vào nhà khác toan nào kịp, Hươu thác tay ai, vọi hỡi xa. Trong số nên hư từng trước mắt, Người ơi ! trời vậy tính sao ra. IV. Sao ra nhảy-nhót giữa vòng danh, Son đóng chưa khô ấn đốc-binh. Đuốc gió nhẹ xao đường thủy-thạch, https://thuviensach.vn Cỏ hoa ngùi động cửa trâm-anh. Trên dòng lửa cháy cờ tam-sắc, Dưới gảnh đèn lờ bản thất-tinh. Dẫu khiến nghe can vùng đất hiểm, Chờ trời nào đến tuổi vong-linh. V. Vong-linh sớm gặp buổi đồi-suy, Trăm nét cân-đo, ít lỗi-nghi. Bóng-bọt hình-hài vừa lố thấy, Ngút mây phú-quí bỗng tan đi. Sanh năm mươi tuổi ăn-chơi mấy, Quan bảy tám ngày sướng-ích chi. E nỗi dạ-đài quan lớn hỏi : « Cớ sao xếu-mếu cõi Ba-tri ? » VI. Ba-tri từ vắng tiếng hơi chàng, Gió thảm mưa sầu khá xiết than. Vườn luống trông xuân hoa ủ-dột, Ruộng riêng buồn chủ lúa khô-khan. Bầy ma bất chánh duồng làm nghiệt. Lũ chó vô cô cũng mắc nàn. Người ấy vì ai ra cớ ấy, Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan. VII. Quan Phan thác trọn chữ trung-thần, Ôm tiết như người cũng nghĩa dân. Làng đế đành theo ông hữu đạo, Cõi phàm hổ ngó lũ vô quân. Lòng son xin có hai vầng tạc, Giồng-gạch thà không một tấm thân. Ai khiến cuộc hòa ra cuộc chiến ? Người qua An-lái luống bâng-khuâng. VIII. Bâng-khuâng ngày xế cả than trời, Ai đổ cho người gánh nạn đời. https://thuviensach.vn Nếm mật Cối-kê đâu chẳng giận, Cắp dùi Bác-lãng há rằng chơi. Một lòng cung-kiếm rồi vay trả, Sáu ải tang-thương mặc đổi dời. Thôi mất cũng cam, còn cũng khổ, Nay Kim mai Tống, thẹn làm người. IX. Làm người trung-nghĩa đáng bia son, Đứng giữa càn-khôn tiếng chẳng mòn. Cơm-áo đền-bồi ơn đất nước, Râu mày giữ-vẹn phận tôi con. Tinh-thần hai chữ phao sương tuyết, Khí-phách nghìn thu rỡ núi non. Gẫm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ, Lòng đây tưởng đó mất như còn, X. Như còn chẳng gọi thế rằng cô, Cái chuyện hoa-vi trước vẽ đồ. Sở hỡi trót ghi cừu họ Ngũ, Hán đâu khỏi trả hận thằng Nô. Vàng tơ sử Mã giồi đường sứ, Búa vớt kinh Lân lấp dấu hồ. Ngày khác xa thơ về một mối, Danh thơm người tới cõi Hoàng-đô. « ĐIẾU TRƯƠNG ĐỊNH » (12 bài) I. Trong Nam tên họ nổi như cồn, Mấy trận Gò-công nức tiếng đồn. Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch-quỉ, Hơi gươm thêm rạng thể hoàng-môn. Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ, Quả ấn Bình-tây đất vội chôn. Nỡ khiến anh-hùng rơi giọt lụy https://thuviensach.vn Lâm-dâm ba chữ điếu linh-hồn. II. Linh-hồn nay đã tách theo thần, Sáu tỉnh còn roi dấu tướng-quân. Mực sở lãnh-binh mờ mắt giặc, Son bằng ứng nghĩa thắm lòng dân. Giúp đời dốc trọn ơn nam-tử, Ngay chúa nào lo tiếng nghịch-thần. Ốc ngỡ tướng tinh rày trổ mặt, Giúp xong nhà nước buổi gian-truân. III. Gian-truân kể xiết mấy nhiêu lần, Vì nước đành trao một tấm thân. Nghe chốn Lý-nhân người sảng-sốt, Nhìn cồn Đa-phước cảnh bâng-khuâng. Bát cơm Kê-lữ chi sờn buổi, Mảnh áo Mông-lung chẳng nệ phần. Chí dốc ra tay nâng vạc ngã, Trước sau cho trọn chữ quân-thần. IV. Quân-thần còn gánh nặng hai vai, Lỡ dở công-trình hệ bởi ai ? Trăm đám mộ binh vầy lớn nhỏ, Một gò cô-lũy chống hôm mai. Lương-tiền nhà ruộng ba mùa trước, Thuốc đạn ghe buôn bốn biển ngoài. May rủi phải chăng, trời đất biết, Một tay chống-chỏi mấy năm dài. V. Năm dài nhửng mảng ngóng tin vua, Nín nhục thầm toan lẽ được thua. U kế năm hằng còn chỗ đoái, Ngô Tôn tăm chước đợi ngày đua. Bày lòng thần-tử vài hàng sớ, Giữ mối giang-sơn mấy đạo bùa, https://thuviensach.vn Phải đặng tuổi trời cho mượn số, Cuộc này ngay vạy có phân-bua. VI. Phân-bua trời đất biết cho lòng, Công-việc đâu đâu cũng muốn xong, Cám nỗi nhà nghiêng lăm chống cột. Nài bao bóng xế luống day đòng, Đồng-nai, chợ Mỹ, lo nhiều phía. Bến-nghé Sài-gòn, kể mấy đông, Dẫu biết dùng binh nhờ đất hiểm. Chẳng đành xa bỏ cõi Gò-công. VII. Gò-công binh-giáp hỡi chàng-ràng, Đoái Bắc trông Nam luống thở-than. Trên trại Đồn-đàn hoa khóc chủ, Dưới vàm Bao-ngược sóng kêu quan. Mây giăng Truông-cóc đường quân vắng, Trăng xế Gò-rùa tiếng đẩu tan. Mấy dặm non-sông đều xửng-vững, Nạn dân ách nước để ai toan ? VIII. Ai toan cho thấu máy trời sâu ? Sự thế nghe thôi đá lắc đầu ! Giặc cỏ om-sòm mưa lại rưới, Binh sương lác-đác nắng liền thâu. Cờ lau đã xếp trên Giồng-tháp, Trống sấm còn gầm dưới Cửa-khâu. Cảnh ấy những mơ người ấy lại, Hội nầy nào thấy tướng-quân đâu. IX. Tướng-quân đâu hỡi có hay chăng ? Sáu tỉnh cơ-đồ, nửa đã ngăn. Cám nỗi kiến-ong ra sức dẹp, Quản bao sâu-mọt chịu lời nhăng. Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp, https://thuviensach.vn Cỏ úa hoa tàn mả Lý Lăng 42 Thôi vậy thời vầy, thôi cũng vậy, Anh-hùng đến thế dễ ai dằn ? 43 X. Dễ ai dằn-thúc lối sau nầy, Trời bởi chưa cho vội đổi xây. Thà buổi tràng-sa da ngựa bọc, Khỏi nơi Đạo-chích tiếng muông rầy. Lục-lâm mấy chặng hoa sầu bạn, Thủy-hử vì đâu nhạn rẽ bầy ? Hay vậy cõi biên giong vó ký, Náu-nương chờ vận có đâu vầy. XI. Đâu vầy sấm chớp nổ thình-lình, Gió bặt thêm buồn mấy đạo binh. Ngựa trạm xăng-văng miền Bắc-khuyết, Xe nhung ngơ-ngẩn cõi Tây-ninh. Bài văn phá Lỗ, cờ chưa tế, Tấm bảng phong-thần gió đã kinh. Trong cuộc còn nhiều tay tướng-tá, Lời nguyền trung-nghĩa há làm thinh. XII. Làm thinh hổ đứng giữa hai ngôi, Nếm mật từ đây khó nỗi ngồi. Mũi giáo Thi Toàn đừng để sét, Lưỡi gươm Dự Nhượng phải toan giồi. Đánh Kim chi sá thằng Lưu Dự, Giúp Tống xin phò gã Nhạc Lôi. Dâng hộ nước Nam về một mối, Ngàn năm miếu vũ-rạng công tôi. « HOÀI CỔ » Từ thuở Đông-Châu xuống đến nay, https://thuviensach.vn Đạo trời rậm-rạp mấy ai hay. Hạ Thương đường cũ gai bò lấp, Văn-võ nền xưa lúa trổ đầy. Năm bá mượn vay nhân-nghĩa mọn, Bảy hùng giành xé lợi-danh bay. Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn, Sử Mã không ngăn mọi rợ bầy. Giùi mõ Mặc Dương khua rộn-rực, Tiếng chuông Phật-lão gióng vang dầy. Lửa Tần tro Hạng vừa nguôi dấu, Am Hán chùa Lương nổi tiếng ngầy. Trong đám cữu-lưu đều nói tổ, Bên đường tam-giáo cũng xưng thầy. Khe đào động lý nhiều đường trốn. Rừng trúc đền mai lắm bạn say, Pháp bán Thi Thư sâu-mọt nát, Màu xuê Lễ Nhạc bụi tro dày Mấy giòng bến cũ chia nguồn nước, Trăm đám rừng hoang bít cội cây. Hơi chánh ngàn năm về cụm núi, Thói tà bốn biển đọng vừng mây. Đất trời ngày khác an ngôi cũ, Mừng thấy non sông bặt gió tây. (Chép theo bổn sao-lục bằng quốc-ngữ của NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU) II. THỂ LỤC-BÁT « ĐẠI-HỌC CHI ĐẠO » Tôn-sư khi ấy hiện hình, https://thuviensach.vn Trao cho quyển sách văn-minh vở lòng. Dạy rằng : Hai gã coi chung, Việc trong kim cổ sẵn dùng nhiều nơi. Thánh xưa hiền trước để lời, Phò vua, giúp nước, sửa đời, dạy dân. Học cho biết lẽ quân-thần, Biết phần phụ-tử, biết phần hiếu-trung. Dặn-dò tua khá thìn lòng, Chớ tham của hoạnh 44 đừng mong thói tà. Nhiều người theo đạo nho ta, Tiếng đồn thời khá, vậy mà làm nhăng. Bởi vì không xét lòng hằng, Bỏ quê cội-gốc, theo phăng ngọn-ngành. Giàu-sang có số trời giành, Trau mình giữ thẳng làm lành mới nên. Hai con chữ dạ cho bền, Một câu « minh-đức » chớ quên thơ nầy. Thơ rằng : Trên là quan trưởng, dưới là dân, Hư tấm lòng rồi, cực tấm thân. Đi học phải toan tầm cội-gốc, Đặng thời chớ khá dứt nguồn-ân. Bốn mùa đông rạng đều theo số, Trăm họ giàu-nghèo cũng có phần. Xin giữ lòng hằng chuyên việc học, Một câu phước họa để trời cân. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « KHUYÊN ĐỜI » Hòa-thượng cũng người học nhu, Tên là Trần Kỷ ở Phù-đồ-sa. https://thuviensach.vn Lắm phen ứng cử đăng khoa, Thi văn chẳng đỗ, lòn ra cửa thiền. 45 Giận đời nhiều việc đảo-điên, Làm thi khuyến thế miệng liền ngâm chơi. Thi rằng : Người xưa nay trót đứng xem chơi, Nào muốn cưu chi cái sự đời. Phụng Thuấn, lân Nghiêu, tuồng trước nát, Hươu Tần, rắn Hán, thói sau dời. Thánh-hiền để tiếng vài pho sách, Tạo-hóa theo mình mấy tấc hơi. Trong cuộc phù-sinh ai cũng thế, Rằng hay rằng dở chẳng qua trời. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « ĐƯA DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU » Hai người từ-biệt Lão Nhan, Ra nơi Vân-động theo đàng ngày xưa. Tri Niên họ Lý theo đưa, Dùng-dằng cửa động còn chưa chỉ đường. Chuốc ra hai chén quỳnh-tương, Rằng xin gượng uống về đường cho an. Từ đây xuống chốn dương-gian, Non tiên xa cách khôn đàng trở lên. Gặp nhau biết lấy chi đền, Chút duyên bèo nước nào quyên tình nầy. Ngàn năm bóng gió ở đây, Riêng than chim nhạn rẽ bầy kêu xa. Vội-vàng nào kịp hái hoa, Dương-quan nhành liễu gọi là đưa nhau. Của đưa nào báu chi đâu, https://thuviensach.vn Sao bằng mùi đạo tám câu năm vần. Ta xin bắt-chước cổ-nhân, Gọi thơ đưa bạn dương-trần ngày nay. Thơ đưa Dương Từ : Thiên-thai xa cách cõi Nam-khương, Hoa cỏ ngùi ngùi cám họ Dương. Chùa Phật không cầm cây lão mai. Động tiên xin chuốc chén quỳnh-tương. Chút tình bóng gió riêng cưu bạn, Mấy dặm non sông vội tách đường. Đói lạnh dấu xưa ai cũng biết, Ngươi về nhà nước hiếm người thương. Thơ đưa Hà Mậu : Long-môn chốn cũ lại bôn-ba, Non nước bâng-khuâng cám họ Hà, Nước thánh năm đời lòa mắt tục. Rượu tiên một thuở rửa lòng tà, Đào-nguyên khó hẹn tin bèo nhóm, Vân-động riêng buồn tiếng hạc xa. Khôn-dại sự đời ngươi đã thấy, Nên mình rồi phải giúp người ta. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « THANH PHONG, MINH NGUYỆT » Môn rằng chẳng những tài nghề, Bạn thầy như ngọc chương-khuê đức tuyền. Người ta mong học hi hiền, Thầy ta hi thánh, bàn nguyền hi thiên. Bạn thầy mong học hi thiên, Có nghe tên họ đời truyền hai ông : Hiệu xưng rằng Hưởng Thanh Phong, https://thuviensach.vn Rằng Ảnh Minh Nguyệt, hai ông bạn thầy. Thanh Phong cầm tiết chẳng sai, Bụi nhơ chẳng chút, so tày giá trong. Lấy lòng tạo-hóa làm lòng, Cho người nghe tiếng, khó mong thấy hình. Thanh Phong vốn đã sạch mình, Lại thêm Minh Nguyệt tài lành thú cao. Tốt thay Minh Nguyệt thú cao ! Đường trong trời đất chỗ nào chẳng thông. Lòng gương soi khắp non sông, Đêm thanh cảnh vắng, bạn cùng văn-nhân Hai ông khí-tượng tinh-thần, Một người một vẻ mười phân rỡ-ràng. Ở theo một đấng thanh-nhàn, Lành trao đạo vị chẳng mang lụy đời. Thầy ta thường bữa ngâm chơi, Khen hai ông ấy có lời thi ngâm : Khen Thanh Phong : Tiếng ra đời bụi chẳng nhơ mình, Người triết yêu ta một chữ thanh. Khinh thói (…) trời tan tiếng oán, Sạch (…) dãy đất giúp (…) sanh 46 Êm lòng Sào Hứa chơi khe biếc, Mát mặt Di Tề ngó núi xanh. Ba chục sáu cung đâu chẳng biết, Đức làm quân-tử đặng thơm danh. Khen Minh Nguyệt : Khỏi vòng hối thực thấy ra mình, Đời tối trông ta một chữ minh. Bóng thỏ ven mây lồng đất trắng, Gương thiềm đáy nước vẽ trời xanh. https://thuviensach.vn Ra vào chẳng nhọc người giong bước, Tròn méo nào cho vật giấu hình. Hai-chục-tám sao đều chạy mặt, Theo thời biết mấy lúc hư dinh. 47 (Trích NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP) « HOA SEN LỖI THÌ » Xảy nghe trên huyện Nam-khương, Tờ đòi sĩ-tử tựu trường ứng thi. Bao nhiêu chúng bạn đều đi, Anh em giành thứ nhất nhì đậu cao. Về nhà sắm-sửa niếp bao, Lên Hà-đông trấn đặng vào thu-vi. 48 Hai chàng cất gánh ra đi, Nửa đường xảy gặp trò thi trở về. Nói rằng có bản chiêu đề, Rao cho sĩ-tử trở về khoa sau. Ngày nay có giặc tây-châu, Lịnh sai quan Trấn họ Âu dẹp loàn, Học trò ai nấy đều than, Ba năm một hội lỡ-làng công-phu. Ra về đương lúc sơ-thu, Ven đường thấy cảnh, dạ sầu nào nguôi. Khắp nơi bò cõi ngậm-ngùi, Gió tây dìu-dặt mấy mùi kỳ-hoa. Lá cây vàng rụng trơ chà, Chim kêu giéo-giắt người xa thêm sầu. Hai chàng nghĩ việc trước sau, Về đường phân nói cùng nhau mấy lời. Trân rằng hổ đứng dưới trời, Phận làm nhân-tử ở đời chẳng may. https://thuviensach.vn Cha thời sống thác nào hay, Mẹ thời già-yếu liền ngày ngồi trông. Tưởng là đèn sách nên công, Sớm cho gặp hội mây rồng hiển-dương. Hay đâu thời buổi nhiễu-nhương, Lở bề báo hiếu, lỡ đường lập thân. Luận theo trong cõi phàm-trần, Ngọc lành chờ giá biết phần ai mua. Sau dầu đặng lộc nhà vua, Thung-huyên chếch-mác se-sua ai nhờ ? Bửu rằng danh-lợi phỉnh-phờ, Ví như hình vẽ khôn dò sâu nông. Trời tây khó nỗi vị lòng, Ngày xuân nhặc thúc như vòng én mau. Thương thay mẹ đã bạc đầu, Chưa hay bóng xế nhành dâu buổi nào. Không nhà không cửa nài sao, Chịu ơn nghĩa cậu biết bao giờ rồi. Tình người ở bạc như vôi, Mấy ai biết đạo tài-bồi lấy nhau. Ta dầu tốt báu như châu, Về nơi đáy biển ai hầu biết cho. Anh em tỏ tấm lòng lo. Xảy đà gần đến bến đò sông Tương. Thấy tòa cổ-miếu bên đường, Cây cao bóng mát, vách tường phấn tô. Cùng nhau tránh nắng bước vô, Trước sân thấy có một hồ hoa sen. Một hồ sen nở lỏa bèn, Hoa đua nở nhụy, hoa chen ngậm cười. Trân rằng cảnh khéo trêu ngươi, Gẫm hoa sen nọ giống người tài-hoa. https://thuviensach.vn Ta nghe sen nở bông ra, Sớm là mùa hạ, muộn là mùa thâu. Hỡi ôi ! Sen chẳng gặp chầu, Muộn dầu trổ tốt ai hầu khen chi ? Hai chàng làm một bài thi, Vịnh hoa sen muộn, ngụ suy việc mình. Vịnh Thu-Liên : Sen hỡi là sen ! tiếng chẳng hèn, Thấy sen lỡ vận tiết cho sen. Ngậm cười trước hạ, hèn cùng thưởng, Đua nở mùa thu, tốt mấy khen. Gương mặt bất phàm đâu biết đặng, Bèo tai vô dụng gọi rằng quen. Phải mà oanh gặp nơi tiên cảnh, Lá rộng cao che khắp các bèn. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « NGHI-VỆ CỦA KHỔNG-TỬ » (DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU lên đến Huyền-thiên gặp Khổng-tử đi chầu Ngọc-hoàng Đại-đế). Phút đâu trên chốn tây-lâu, Nổ ba tiếng sấm nhòm chầu các cung. Áo, xiêm, đai, mão lạnh-lùng, Tinh-quân các vị ròng ròng tới nơi. Hai người đứng nép coi chơi, Những người chầu-chực nhà trời là ai. Thấy đi có tấm thẻ bài, Đề rằng Khổng-tử đại-tài thánh-vương. Ngồi trong kiệu ngọc tán vàng, Một ông Khổng-tử dung-nhan tốt lành. Theo sau biết mấy thần linh, https://thuviensach.vn Coi trong thẻ bạc đề danh đại hiền. Dương Từ coi thẻ khen liền, Hèn chi vua chúa chính-chuyên miễu thờ. Cho hay muôn nước đều thờ, Đạo ông Khổng-tử thiệt là giáo dân. Trong đời biết chữ nhân luân, Biết đường trị loạn muôn phần nhờ ai ? Nhớ câu : « Kế vảng khai lai », Thiệt ông Khổng-tử đại-tài thánh-vương. Đâu đâu cũng kính cũng nhường, Môn-đồ cũng đặng hiển-vang trên đời. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « MỘT NGƯỜI ĐẠO-SĨ » Xảy vừa trời sáng ra đi, Hỏi rằng « Húy tự tên gì dạy tôi ? » Sĩ rằng : « Trọn đạo thời thôi, « Người đời lựa phải trau-giồi tánh danh. « Trời cao đất rộng thinh thinh, « Non xanh nước biếc đã đành phui-pha. « Hỏi thời ta phải nói ra : « Ba ngàn thế-giới ta là vô danh ». (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « TIÊN ĐẠO » Dương Hà hai gã tiền quì, Hỏi rằng : nho-đạo dám bì tiên chăng ? Tôn-sư thong-thả đáp rằng : « Đạo tiên cũng ở trong hằng đạo nhu. « Đạo tiên theo việc nhàn du, https://thuviensach.vn « Dạo chơi non nước chẳng cầu công-danh. « Đạo nhu lo việc kinh-dinh, « Giúp trong nhà nước cho minh cương-thường. « Tiên xưa ở chốn thi-đường, « Một câu nho-giáo lòng càng chẳng quên. « Muốn theo tiên-đạo cho bền, « Phải tùng nho-đạo cho mới nên phận mình. « Hai người đều khá hồi trình, « Đạo nào làm phải mặc tình rắp theo ». Thưa rằng : « Trót phận cheo leo, « Non xanh nước biếc xin theo đạo thầy ». Thưa rằng : « Một cõi tiên nầy, « Tiền duyên chưa dứt ở đây khó bề. « Sao sao cũng phải trở về, « Sửa-sang nhà-cửa trọn bề sẽ hay. … … … Niên 49 rằng : « Một gốc thiên dân. « Người tiên sánh với phàm-trần đâu xa. « Từ trong tám thú 50 trở ra, « Việc đời rồi rảnh ấy là thần-tiên ». (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « NHỮNG NGƯỜI XỬ-SĨ THUỞ XƯA » Di Tề chẳng khứng giúp Châu, Ăn rau non Thú, phải âu trọn mình. Thà như Quỉ Cốc tiên-sinh, Gặp đời Chiến-quốc thanh-danh chẳng sờn. Thà như bốn lão Thương-san, Hồng bay, hạc lánh, ai ràng-buộc đâu. Thà như hai họ Nghiêm Châu, Chẳng tham lộc Hán, buông câu mặc tình. https://thuviensach.vn Thà như Ngũ Liễu tiên-sinh, Gặp cơn Tấn loạn giữ mình cũng xong. Họ Đào tể-tướng sơn trung, Chúa Lương khuất lễ mấy dùng đặng sa ! Họ Dương dạy học Phần Hà, Buổi Tùy không đạo ở nhà cũng hay. Trúc Lâm bảy bạn điềm say, Nước loàn bầu rượu, còn ai chê mình. Lung du là bọn Lan Đình, Bụi Hồ chẳng đến nhơ hình chiếc ghe. Sách nêu xử-sĩ nhiều bề, Hành tàng hai chữ, ít nghe phụ lòng. Vòng danh khóa lợi thả giong, Vật ngoài gió-bụi, người trong tiên-thần. Thôi thời thôi vậy giữ phần, Làm chi cho khổ tấm thân mới từ. (Trích NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP) « MỘT LÃO TIỀU NÓI CHUYỆN VỚI DƯƠNG-TỪ » Xảy nghe bên cụm cây xanh, Có người đốn củi lanh-chanh hát rằng : Núi non đây nhiều cây nghinh-ngáng, Dọn trống đường nhờ cán búa ta. Búa trong tay liền ngày đốn củi, Vui rừng trời tránh buổi loạn ly. Cội cây im phải tìm núp bóng, Mặc người đời dù lọng nghinh-ngang. Dương Từ nghe hát mấy lời, Xăm xăm bước tới thấy người tiều-phu, Hỏi rằng : « Nhà-cửa ở đâu ? « Còn trong miểu ấy công hầu bực chi ? » https://thuviensach.vn Tiều rằng : « Trong miếu « Hiếu Từ », « Thờ ông Mẩn Tử thuở kỳ Xuân-thu. … … … « Thảo thân một tấm lòng bền, « Cảm-tình mẹ ghẻ chẳng quên con chồng. « Nhớ câu « Hiếu đễ thanh phong ». « Người trong nước Lỗ đều mong học đòi. « Sắc phong một thuở hẳn-hòi, « Hiếu Từ hai chữ dấu roi để đời. « Ta đây một họ cùng người, « Kêu bằng ông tổ ba-mươi-bốn đời ». Từ rằng : « Xin hỏi vài lời, « Người là vốn thiệt cũng người trâm-anh. « Sao không ra lập công-danh, « Noi theo ông tổ hiển-vinh mà nhờ ? » Tiều rằng : « Trước mắt sờ-sờ, « Xưa qua nay lại dễ chờ-đợi chi. « Đua theo hai chữ « tương khi », « Trên quyền, dưới lợi, đoái gì thiên luân. « Nước thời chia bốn năm phần, « Can qua chẳng biết mấy lần đánh nhau. « Trong thời gian-nịnh giụm đầu, « Ngoài thời dua-mị đua cầu tham quan. « Chánh ra dữ quá cọp vàng, « Lòng dùng độc quá hổ-mang thuồng-luồng. « Bốn phương mọi rợ luông-tuồng, « Nay giành ải hổ, mai ruồng ải lang. « Nơi nơi trộm cướp dấy loàn, « Lê dân hết sức, của tan chẳng còn. « Cõi trong trời đất thon-von, « Khói mây đen nghẹt, nước non đeo sầu. « Biết đời Tam-Đại là đâu. https://thuviensach.vn « Gặp khi Thúc-Quí phải âu lánh mình ». Từ rằng : « Bờ-cõi thinh-thinh, « Chẳng tham danh lợi, lánh mình chớ lo. « Ở trong tạo-hóa một lò, « Thiếu chi nghề-nghiệp, mà phô theo tiều ? » Tiều rằng : « Cửa thánh gương treo, « Dùng đời chẳng đặng thời theo đời dùng ». … … … « Khéo khôn ắt có mỏi lòng, « Mỏi lòng rồi lại mắt vòng họa tai. « Thử coi con thú vật ngoài, « Như voi, như cọp mấy ai dám bì. « Voi kia cao lớn đen sì, « Cặp ngà không dụng, can chi lụy mình ? « Cọp kia nanh-vuốt như binh, « Tấm da không dụng, ai đành đâm chi ? « Lấy trong việc ấy mà suy, « Những nghề đời dụng ra gì xưa nay. « Ta như cán búa trong tay, « Theo nơi rừng-bụi tháng ngày thảnh-thơi. « Bữa dùng một gánh củi trời, « Cá cơm rượu thịt tháng ngày cũng no. « Giữ câu phủ ngưởng bo bo, « Kính thờ trên dưới miễn cho xong mình. « Xin đứng hổ với thần linh, « Cùng người đừng thẹn uổng sinh trong đời. « Xin đừng đổi hóa lẽ trời, « Cũng đừng trốn lánh việc đời thời xong ». (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « CÂU CHUYỆN NGƯ-PHỦ » https://thuviensach.vn Dương Từ đi đến sông Châu, Ngẩn-ngơ nào biết đò đâu đưa mình. Ngó lên trên khúc sông quanh, Thấy bên vực hẩm có manh cỏ bồng. Một người đứng giữa khoan lồng, Gay chèo miệng hát tiếng lồng dậy-vang. Hát rằng : Bến sông Châu vực sâu cá ở, Thương người hiền gặp thuở loạn ly. Nước vần quanh, bầy kinh rẽ bạn, Thấy anh-hùng hoạn-nạn khá thương. Chiếc thuyền câu đậu đâu nên đó, Nước ly loàn giàu có màng chi ! Dương Từ nghe tiếng hát kỳ, Bước lên trên vực coi thời thế nao ? Mình hơn tám thước rất cao, Mặt đen tóc quắn khác nào võ-phu. Dương Từ bước xuống ngư châu, Xin đưa qua đó sẽ âu hoàn tiền. Ngư rằng : « Người ở chùa chiền, « Đi đâu nên nỗi mà phiền ta đưa « Nhắm hình chẳng phải người xưa, « Lánh nơi hoạn nạn tới trưa lỡ-làng. Ta nghe trong chốn Lư-giang, « Có ông ngư-phủ đưa chàng Ngũ Viên. « Lại nghe Đình Trưởng dừng thuyền, « Chở ông Hạng Võ qua miền Ô-giang. « Hai người vì bởi lánh nàn, « Một lo rửa oán, hai toan rửa thù. « Sợ đời bắt kẻ tóc râu, « Nào ai bắt đứa trọc đầu làm chi ? « Nói rồi ra lẽ thị phi, https://thuviensach.vn « Dễ đưa qua đó, tiếc gì công ta ». Cầm chèo thong-thả đưa qua, Dương Từ đến bến tính ra tiền đò. Ngư rằng : « Lòng chẳng bo bo, « Phòng tham tiền-bạc so đo với người. « Trót đà làm phải trên đời, « Ngàn vàng chẳng báu, một lời rất sang ». Từ rằng : « Ta tiếc cho chàng, « Chẳng phen lương-đống, cũng trang anh-hùng. « Nghe rằng : nước Tấn chinh đông, « Cầu đặng võ-sĩ ra công can thành, « Cớ sao chẳng xuống Nam-kinh, « Phò vua giúp nước, lập danh để đời ? « Cá tôm đặng mấy mươi lời, « Theo nghề chài-lưới, quên nơi sang-giàu ». Ngư rằng : « Lời khéo cợt nhau, « Ai từng khát nước, gối đầu bờ ao ? « Người nay có khác xưa nào, « Đất dày thăm-thẳm, trời cao mù-mù. « Bốn mùa thành-quách làm xâu, « Dân gầy, nước ốm, mỡ dầu cũng khô. « Thấy đời danh-lợi biếng phô, « Khác nào con chấu nhảy vô vòng đèn ». Từ rằng : « Xưa sách còn khen, « Công thành danh toại ai bèn chi ai ? » Ngư rằng : « Xưa đấng hiền-tài, « Lập thân, há chẳng biết tài bảo than ? « Dầu vinh cũng tiếng nhơn thần, « Trâu cày ngựa cỡi cái thân ra gì ? « Chớ ăn lộc nước đời suy, « Bẫy chim lưới thỏ, e khi mắc nàn. « Trối ai ra sức muông săn, https://thuviensach.vn « Một mai hết thỏ cọp ăn tới mình. « Sao bằng một cõi an sinh, « Sông sâu vực thẳm ai dành chi ai. « Sẵn dòng chèo quế một cây. « Thuyền nan một chiếc đỡ ngày hôm mai. « Theo sông khúc vắn khúc dài, « Năm ba sợi nhợ, một vài cần tre. « Đêm trăng ngày gió bạn-bè, « Vui câu hát xướng, vui ve rượu đào. « Thả trôi gành hạc, bãi ngao, « Thú vui non nước mặc dầu nghinh-ngang. « Cá tôm sẵn lộc trời ban, « Phận đà no đủ còn màng của chi ? » Nói rồi thong-thả chèo đi, « Dương Từ khen đó tính cơ lâu dài. Than rằng : thương đấng anh-tài, Sanh không gặp thuở, khó nài thân sau ! » Ai ôi ! lộc trọng quyền cao, Thú hèn cũng có anh-hào chớ khinh. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « THÚ NGƯ-ÔNG » Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh-lợi chi sờn lòng đây. Nay doi mai vịnh vui vầy, Ngày kia hóng gió, đêm nầy chơi trăng. Một mình thong-thả làm ăn, Khỏe vải chèo kéo, mệt quăng câu dầm. Nghêu-ngao nay chích, mai đầm, Một bầu trời đất, vui thầm ai hay. (Trích LỤC VÂN TIÊN) https://thuviensach.vn « THÀ ĐUI » Sự đời thà khuất đôi tròng mắt, Lòng đạo xin tròn một tấm gương. Khách rằng : Nghe tiếng người đồn, Chúa Liêu khiến sứ tới môn Đan-kỳ. Sứ đem lễ trước nhân-sư, Về Liêu làm chức Thái-y trong tòa. Nhân-sư xưng bệnh chẳng ra, Chưa hay xưng bệnh ấy là bệnh chi. Nhập Môn nghe nói sợ nghi, Vội-vàng ngày ấy liền đi thăm thầy. Ngư Tiều sắm lễ học thầy, Đều theo Đường-thị lối này đam đi. Ba người lên chốn Đan-kỳ, Gió nam may thổi, vừa khi sáng chiều. Trời tây cảnh-vật buồn hiu, Hồ sen ngúc tỏa, non kiều mây bay. Nơi nơi tang thạch bóng dài, Canh lui dặm liễu, mục quày đường dê. Ngày chiều nhả bức hồng nghê, Hươu vào động núi, hạc về đình xưa. Ba người tới cửa vừa ưa, Thấy người Đạo Dẫn đứng chờ trước sân. Cùng nhau gặp mặt chào mừng, Đam vào tịnh-thất, vừa chừng huỳnh-hôn. Ngư, Tiều cùng gã Nhập Môn, Một đêm gạn hỏi chuyện tôn-sư dài. Dẫn rằng chuyện chẳng khá nài, Nhân-sư bệnh ở Thiên-thai lánh đời. Dạy ta thay mặt đổi lời, Về đây từ tạ sứ vời Tây-liêu. Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu. https://thuviensach.vn Xung hai con mắt bỏ liều cho đui. Gặp cơn trời tối thà đui, Khỏi gay con mắt lại nuôi đặng lòng. … … … Thầy rằng trời đất xưa nay, Khi vần vốn có đổi-thay chánh-tà. Xen hình hơi chánh lui ra, Dưới là ngũ-nhạc, trên là tam-quang. Nhờ hơi quang-nhạc sáng đàng, Ở đời Ngũ-đế tam vương trị vì. Ấy rằng khí vận thanh thì, Ba giềng năm mối, trọn nghì nhân-luân. Đến khi vận ách trời truân, Ghe chèo chầm Sở tạm lần Châu-đông. Nối ra năm bá, bảy hùng, Đua tranh danh-lợi, lấp giòng nghĩa-nhân. Ấy rằng quang-nhạc khí phân, Thánh-hiền mờ dấu, nhân-luân rối nùi. Khiến nên mọi rợ dể-duôi, Tôi loàn con giặc phanh-phui sự đời. Hơi tà ngăn bủa khắp nơi, May còn hơi chánh ở đời bao nhiêu. Cho hay hơi chánh chẳng nhiều, Thời cùng mới thấy tiết nêu phẩm đề. … … … Đến nay người triết ra đàng, Dưới trời hơi chánh cũng tan lần mòn. Thử xem trong cuộc nước non, Bốn chia năm xé, thon-von dường nào ! Nhảy vòng phú-quý lao-xao, Sớm tôi tối chúa ra vào ghìm nhau. Muôn dân ép tháo mỡ dầu, https://thuviensach.vn Ngày trau khí-giới, tháng xâu đền-đài. Thêm bè gian-nịnh oằn vai, Gây nên mọi rợ từ ngoài lăng trong. Đánh nhau thây bỏ đầy đồng, Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình. Dầy-dầy tranh đất tranh thành, Ngựa xe rần-rộ bụi binh tối trời. Mây sầu gió thảm đòi nơi, Sấm đông, tuyết hạ, khác đời Trung-ngươn. Ấy rằng quang-nhạc khí hôn, Năm hành, ba đấng rối bồn như tơ. Dầu sanh Y Phó đời giờ, E theo cày ruộng, đào bờ mà thôi. Huống ta là kẻ không ngôi, Tài chi sửa gối làm tôi nước loàn. Đã cam chút phận dở-dang, Trí quân, hai chữ mơ-màng năm canh. Đã cam lỗi với thương sanh, Trạch dân, hai chữ luống đoanh ở lòng. Đã cam thẹn với non sông, Cừu thời, hai chữ luống trông thuở nào. Nói ra thời nước mắc trào, Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi. Kinh lân dấu thánh coi rồi, Thời trời đã vậy, thôi thôi nào cầu ! Thà cho trước mắt mù-mù, Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân. Thà cho trước mắt vô nhân, Chẳng thà ngồi ngó sinh-dân nghiên-nghèo. Thà cho trước mắt vắng hiu, Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phân xâm. Thà cho trước mắt tối dầm, https://thuviensach.vn Chẳng thà thấy đất lục trầm can qua. Dầu đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dầu đui mà khỏi danh nhơ, Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình. Dầu đui mà đặng trọn mình, Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu. Sáng chi theo thói tha cầu, Dọc ngang chẳng đoái trên đầu có ai ? Sáng chi đắm sắc, tham tài, Lung lòng nhân-dục mang tai-họa trời ? Sáng chi sàm-nịnh theo đời, Nay vinh mai nhục mang lời thị-phi ? Sáng chi nhân-nghĩa bỏ đi, Thảo ngay chẳng biết, lỗi-nghì thiên luân ? Thấy rồi muôn việc trong trần, Xin còn hai chữ « tâm thần » ở ta. Nguyện cùng tạo-hóa lại qua, Làm xe, làm đạn, phận già thảnh-thơi. Kêu trâu kêu ngựa mặc người, Cánh trùng, gan chuột, theo trời phú cho. … … … Như thầy chẳng những bảo thân, Lại hay bảo đạo mười phân vững-vàng. Thánh môn lời dạy rỡ-ràng : Nước an làm trí, nước loàn làm ngu. Từ xưa có kẻ gọt đầu, Giả câm giả dại, lánh xâu nước loàn. Vả nay trời bắt gian-nan, Thà không mắt thấy, khỏi mang dạ sầu. … … … Cho hay hai chữ đạo tâm, https://thuviensach.vn Người đui lặng giữ ít lầm-lỗi chi. Thánh-hiền xưa cũng yêu vì, Nay bè ngu-xuẩn thấy khi, chê-cười. (Trích NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) « LÀM PHƯỚC KHÔNG NHẰM » Tiều rằng : « Hỏi việc bất bình, « Xưa nay nhiều kẻ làm lành, làm duyên. « Những người cúng phật cúng tiên, « Cất chùa, cất miểu bạc-tiền đua nhau. « Những người đắp sửa đường cầu, « Làm chay, hát bội, của giàu thí ra. « Ta nghe làm phước nhiều nhà, « Cớ sao mắc họa, lại ra bần xừ ? » Môn rằng : « Đời lắm danh hư, Lo câu « tích đức hữu dư » sao nhằm ? Kẻ giàu muốn đặng ngàn trăm, Cho vay một vốn hơn năm mươi lời. Kẻ giàu cậy thế lấn hơi, Tham-lam của quấy, ăn-chơi phí xài. Lấy câu « huyết hạn chi tài ». Cúng chùa, cúng miểu nào ai chứng lòng. Trong mình thảo thuận vốn không, Gọi rằng làm phước, phước tròng vào đâu ? Thấy câu « thiện ác đáo đầu »… … … Lành đâu chẳng trả, dữ đâu không đền. Người tua xét lại hai bên, Ít lành, nhiều dữ, chẳng nên trách trời. (Trích NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) « DƯƠNG TỪ XUẤT GIA » https://thuviensach.vn Nay đà sanh đặng nam-nhi, Nam-mô hai chữ từ bi thân già. Bao nhiêu thế-tục gần xa, Nhân-tình ấm-lạnh trải qua đã rồi. Trong vòng danh-lợi thôi thôi ! Huỳnh-lương nửa gối mấy hồi chiêm-bao. Sang-giàu lòng chẳng ước-ao, Hoa tàn, mây nổi, nước xao, trăng lờ. Hai con tuổi hởi còn thơ, Hôm mai ấm-lạnh cậy nhờ hiền-thê. Trong tay một chuổi bồ-đề, Trăm năm cam lỗi lời thề nước non. Trả rồi nợ vợ, nợ con, Từ đây mới giữ lòng son tu hành. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « CHÀI LƯỚI DẸP NGHỀ » Đã nên chài lưới dẹp nghề, Khỏi lo tôm cá chở về chợ tan. Đã cho bầy thủy-tộc an, Long-vương nào giận quăng bàn thầy Viên. Từ đây sóng gió ra thuyền, Khỏi nơi lặn-lội, lên miền sạch thơm. Đặng theo sâm quế mùi thơm, Dầu cho bữa cháo, bữa cơm cũng đành. Nguyện làm một kẻ y-sanh, Lấy câu âm đức đổi danh lão chài. (Trích NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) « MỘT CẢNH » https://thuviensach.vn Hữu tình thay, ngọn gió đông ! Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang. Cỏ thơm hớn-hớn bên đàng Như tuồng mừng khách đông hoàng đến đây. Líu-lo chim nói trên cây, Như tuồng chào hỏi khách nay đến nhà. Hai bên cây mọc giao hòa, Như tuồng đón rước giang-hà người sang. Dưới khe nước chảy tợ đàn, Như tuồng mừng bạn hương-quan tách vời. Trăm hoa đua nở miệng cười, Như tuồng mừng-rỡ gặp người cố-tri. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « MỘT CẢNH ÂM-PHỦ » Đi vừa một lúc xa xa, Phút đâu bãi cát Huỳnh-sa gần kề. « Huỳnh-sa » hai chữ bản đề, Mắt nhìn cảnh-vật não-nề khá thương. Dàu dàu cỏ héo, hoa tàn, Xơ rơ trên bãi cát vàng buồn thay ! Gió âm heo-hắt lá cây, Mưa tuôn bặc-bặc, bóng cây mờ-mờ. Khắp xem bốn phía bụi bờ, Éo-le cảnh vật dật-dờ ở đây. (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « TỘI CỦA BÀ MỤ DỐT » Lặng nghe kể tội mụ bà, Quỉ cầm thẻ án trước đà reo rân. https://thuviensach.vn Rao rằng : làm mụ bất nhân, Khiến người sanh đẻ tấm thân mắc nàn. Vả trời phú tánh đã an, Có cho ai ngược, ai ngang bao giờ ? Bào thai đã định ngày giờ, Mười trăng chưa đủ, phải chờ mới nên. Vợ người chuyển bụng đau rên, Mụ bà chẳng hỏi nhớ quên tháng ngày. Lên giường vội-vã ra tay, Rằng : ta sửa bụng cho quày đầu ra. Vài giờ chưa thấy sổ ra, Thọc tay lỗ đẻ sờ mà thăm coi. Coi rồi chẳng thấy lố mòi, Khiến xin hốt thuốc giục đòi cho mau. Dối rằng gần ló mào, cau, Bảo người rán rặn làm nhau đẻ đùa. Hai tay bóp bụng đẩy xua, Thấy lâu rồi lại thăm vô cửa mình. Chúc nguyền bà chúa thai sinh, Đức thầy đức mụ thần-linh giúp cùng. Làm tuồng chộn nhộn sợ lung, Chủ nhà van-vái tứ tung linh tàng. Khiến con trong bụng chẳng an, Ngặt mình nên phải tìm đàng đặng ra. Lầy-quầy chưa kịp hạ ra, Mụ bà tay chận kéo ra vội-vàng. Những tuồng đi ngược đi ngang, Cũng vì tay mụ lòng toan sanh cầm. Dân ngu chẳng biết lỗi-lầm, Người khôn cũng mắc ầm-ầm nhiều nơi. Vì ai khuấy rối lẽ trời, Khiến bầy yểu-tử ra vời chẳng lâu ? https://thuviensach.vn (Trích DƯƠNG TỪ – HÀ MẬU) « PHÉP BẢO-DƯỠNG » Kỳ Hoàng 51 xưa đã mở đàng. Sách y nay có lời bàn « thiên chân ». Thiên chân tiết giải rõ phân, Coi vào thấy gốc, giữ thân nuôi lòng. Muốn bề ăn-ở đặng xong, Rượu trà có mực, dịch phòng chớ dâm. … … … Người xưa ăn-ở thật-thà, Ít ai đắm rượu, tham hoa quên mình. Vốn không làm quấy nhọc hình, Nào lo mắc bệnh thất-tình, lục-dâm. Thiên niên 52 hai chữ trọn cầm, Vừa chừng trăm tuổi mới trầm về quê. Người nay ăn-ở khác bề, Rượu dầm trong bụng, sắc kề bên thân. No say rồi lửa dục hừng, Đốt trong khí huyết, tinh-thần còn chi ! Chịu đau lấy chứng nan y, Bốn năm mươi tuổi chết đi uổng đời. Coi thiên « Bảo-dưỡng » mấy lời, Biết người thọ yểu, số trời nào riêng. … … … Ta nghe thánh trước bảo răn, Đau hay cầu thuốc, chi bằng ngừa đau. 53 (Trích NGƯ TIỀU VẤN-ĐÁP) III. THỂ TỨ-LỤC https://thuviensach.vn « THƠ CHO NGUYỄN-ĐÌNN TỰ » Dẫn : Khi ở Tân-thuận (hạt Gia-định), cụ Đồ Chiểu nghe được tin người em trai là Nguyễn-đình Tự (7-4-1839 – 25-8-1891), ở lối Cầu Bang ky (Gia-định), sắp cưới một người thiếp, cụ bèn gởi bức thơ nầy : 1. Thương tình bào-đệ, Gởi bức tâm thơ. 2. Nghe em lâm toan việc tóc tơ, Nên anh mới nhả lời vàng ngọc. 3. Hễ làm người có học, Cho biết lễ trong nhà. 4. Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia, Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự ? 5. Ví dầu muốn nơi nào thiếp-nữ, Thì (hãy) giao quyền tại chánh thê. 6. Thuận chị em, trên dưới gia tề Nghịch chồng vợ, cửa-nhà hư-hại. 7. Trong phép xử gia-môn đặng phải, Ngoài tiếng đồn phong-hóa mới xinh. 8. Lẽ cũng cho một gáo múc đòi chình, Khuyên chớ để đôi rìu cuôi một cội. 9. Vả đương lúc sự đời bối-rối, Nào xiết lo nghiệp cả bâng-khuâng. 10. Phận thiếp-thê mà có như Tề Nhân, Niềm tử-tức thà không như Bá Đạo. Em ơi ! 11. May mà có mơi cơm chiều cháo, Hơn là người ăn tuyết nằm sương. 12. Ở nước loàn há sợ chữ thiên ương, Theo đạo học phải dằn lòng nhân-dục. 13. Ham sung-sướng chẳng qua nuôi khẩu phúc, E nghiên-nghèo (còn) nhọc đến thân danh. https://thuviensach.vn 14. Bực quan-quyền, chiếu bông gối dựa mới là vinh, Hàng dân-thứ, quần nhiễu áo sô sao chẳng nhục ? 15. Trau-giồi lắm cho đẹp con mắt tục, Ghen-ghét nhiều lại chát cái tai phi. 16. Vậy thà cam hai chữ bố-y, Chi nhọc đến một đều mao-ốc. 17. Bì sao kẻ thế gia vọng tộc, Coi lấy người tiện-sĩ bần nhu. 18. Thời thế nầy thà chịu làm ngu, Học-hành vậy cũng kêu là trí. 19. Em sao chẳng nghĩ, Anh rất đổi lo ! 20. Bề ở-ăn như cá núp trong nò, Thân đùm-đậu như én nằm trên gác. 21. Cám nỗi phụ-huynh thêm bát-ngát. Phận làm tử-đệ há nguôi ngoai ? 22. Sung-sướng chi, mà chồng một vợ hai, Giàu-sang mấy, mà quần đôi áo cặp ? 23. Thân rảnh sao chẳng cấp, Tánh xấu cũng nên chừa. 24. Trời, khôn lường trưa sớm nắng mưa, Người, đâu biết hôm mai họa phước. Chi bằng : 25. Giữ câu kiệm-ước, Lánh bợm phong-lưu. 26. Việc nghĩ đà (?) oán-hận chẳng nên cưu, Thói ve-vản ăn-chơi đừng bắt-chước. 27. Hàng đi đứng tua dè nước bước, Lời nói-năng (phải) giữ miệng-môi. 28. Phận áo-cơm đã đủ thời thôi, Ơn đất-nước ngày an cũng tốt. 29. Bề ăn-ở chi bằng đái chốt (?) https://thuviensach.vn Dạ thảo ngay chí dốc keo sơn. 30. Có nghĩa tình anh Tấn em Tần, Đừng nghe chuyện cha Hồ mẹ Hán. 31. Đọc sách y-phương, cho biến án, Làm thầy nho-sĩ, phải theo tai. 32. Dược trị đau chớ khá học sơ-sài, Phép dạy trẻ chớ nên oai bẩm-trợn. 33. Nghe nhiều kẻ tiếng đời nhơ-bợn, Muốn cho em mùi đạo thơm-tho. 34. Khá nhớ lời gia-giáo dặn-dò, Khuyên chớ để xử thân lầm-lỗi. 35. Nay gởi vài lời huấn hối, Xưa còn trăm chữ minh-châm. 36. Nhớ để lời hôm sớm vịnh ngâm, Hãy chữ dạ khỏi đều quá thất. (Bức thư này do ông Nguyễn văn Nghĩa, giáo-học ở Thủ-đức sao lục). IV. VĂN-TẾ « VONG-HỒN DÂN MỘ NGHĨA » Tự-đức thập tứ niên, thập nhất ngoại, thập ngũ nhật chi dạ ; Thống quân (Bùi quang Mỗ) suất tướng nghĩa-binh tựu Cần-giuộc ; Công phá dương huyện, thiêu đắc dương di đạo đường, đạo quán, thích trúng dương quan tri huyện, tịnh Chà-và Ma-ni đẳng ; Nghĩa-binh trận vong, cai thập ngũ danh, Kỳ Tú-tài Nguyễn-đình Chiểu phụ tế văn : 54 … … … Khá thương thay ! 10. Nào phải thiệt quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh ; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. 11. Mười tám ban võ-nghệ nào đợi tập-rèn, chín-mươi trận binh-thơ không chờ bày-bố. https://thuviensach.vn 12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi ; Trong tay cầm một ngọn tầm-vong, chi nài sắm dao tu, nón gỏ. … … … 16. Những lăm lòng nghĩa lâu dung ; Đâu biết xác phàm vội bỏ ! 17. Một chắc sa-trường rằng chữ hạnh, nào hay yên ngựa chở thây ; Trăm năm âm-phủ ấy chữ qui, nào đợi gươm hùm treo mộ. 18. Đoái sông Cần-giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng ; Nhìn chợ Trường-bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ. … … … Thôi thôi ! 24. Chùa Tân-thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng song gởi lại bóng trăng rằm ; Đồn Lang-sa một phút đặng trả hờn, chút phận bạc trôi theo giòng nước đổ. 25. Đau đớn bấy ! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo-lét trong lều ; Não-nùng thay ! vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật-dờ trước ngỏ. Ôi ! 26. Một trận khói tan ; Ngàn năm tiết rỡ. … … … 28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn, sáu tỉnh chúng đều khen ; Thác đã ưng đình-miểu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời, ai cũng mộ. 29. Còn đánh giặc, mất cũng đánh giặc, linh-hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyền được trả thù kia ; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó. 30. Nước mắt anh-hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân ; Cây hương nghĩa-sĩ thắp thêm thơm. Cám bởi một câu vương thổ. (Rút Quốc-âm thi-tập của Paulus Của) « TẾ NGHĨA-SĨ TRẬN VONG TRONG SÁU TỈNH » https://thuviensach.vn (Trọn bài gồm có ba-mươi-bảy câu, nay trích mấy câu) … … … 11. Man-mác trăm chiều tâm-sự, sống những lo trả nợ cho đời ; Phui pha một mảnh hình-hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất. 12. Nghĩ nỗi anh-hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than ; Tưởng câu danh-lợi tuồng đời, trường quỉ-hủy mặc dầu ai náo-nức. Ôi ! 13. Lòng nghĩa-dân phải với ngô-quân, Tiếng nghịch-đảng lỗi cùng địch vức. 14. Gần : Côn-lôn, xa : đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn ; Hàng cai đội, bực quản-cơ, xương-thịt rã-rời ai cất ? 15. Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn qui kỳ ; Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thơ nhàn đem tin-tức. 16. Thấp-thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gởi lại bóng trăng thu ; Bơ-vơ nước quỉ non ma, hơi âm-sát về theo luồng gió bấc. Như vậy thời : 17. Số dẫu theo sáu nẻo luân hồi, khí sao để trăm năm ức-uất. 18. Trời Gia-định ngày chiếu ráng bắn, âm-hồn theo con bóng ác dật dờ ; Đất Biên-hòa đêm vắng trăng lờ, oan quỉ nhóm ngọn đèn trời heo-hắt. 19. An-hà quận đương khi bạch-trú, gió cây vụt thổi, cát xoáy bay con trốt dậy bên thành ; Long-tường giang mỗi lúc huỳnh-hôn, khói nước xông mù, lửa đóm nháng binh ma chèo dưới vực. Ôi ! 20. Nhìn mấy chặn cờ lau trống sấm, mỉa-mai trần nghĩa bởi binh-tình ; Thảm đòi ngăn ngựa gió xe mây, mường-tượng vong linh về chiếu-lật. 21. Người lạc phách theo miền giang-hải, cung ngao lẩn thẩn, đành một câu thân-thế phù trầm ; Kẻ du-hồn ở cõi sơn-lâm, lũy kiến đồn ong, còn bốn chữ âm dung phảng-phất. Trời đất ôi ! 22. Sống muốn cho an, thách sao rằng bức. https://thuviensach.vn 23. Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu-phạt, phận thần-dân đâu chẳng toan còn, Chưa kịp nghe tiếng trống an-nhương, nghĩa quân-phụ nào dè thoạt mất. 24. Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can-qua sống ở cũng ghê mình ; Hoặc là e cho trời nam Tống bắc Kim, đường binh-cách thác đi cho khuất mặt. 25. Tiếc non nước ấy, nhân-dân dường ấy, gây sự nầy nào thấy phép tẩy oan ; Biết cha mẹ đâu, tộc-loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu truất. 26. Tuy uổng mạng, hãy chờ khi sách mạng, sẵn vòng quả báo vấn vương ; Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh-đài bức-tức. … … … 34. Cảnh nam-thổ phơi màu hoa thảo, động tình oan nửa úa nửa tươi ; Cõi tây-thiên treo bức vân-hà, kết hơi oán chặn thưa chặn nhặt. 35. Ngày gió thổi, lao-xao tinh dã-mã, thoạt nhóm, thoạt tan, thoạt lui, thoạt tới, như tuồng báng dạng tinh-binh ; Đêm trăng lờ, giéo-giắt tiếng đề quyên, dường hờn, dường mến, dường khóc, dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất. 36. Xưa nghe có bến sông Vị-thủy, lấy lễ nhơn-đầu tế đảng hồn oan ; Nay biết đâu bãi cát Trường-sa, mượn của âm-phủ độ bầy quỉ ức. 37. Đốt lọn nhang trần trời đất chứng, chúc, gọi là làm lễ vãng vong ; Đọc bài văn tế quỉ-thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất. (Rút trong Thi-phú Văn-từ của Võ Sâm) « VĂN-TẾ PHÓ QUẢN-CƠ TRƯƠNG ĐỊNH » (Trọn bài ba-mươi hai câu, nay lược bỏ mấy câu) Nhớ tướng-quân xưa : … … … https://thuviensach.vn 3. Gặp thuở bình cư, làm người chí đại. 4. Từ thuở ở hàng viên-tử, pháp-binh trăm trận đã làu ; Đến khi ra quản đồn-điền, võ-nghệ mấy ban cũng trải. 5. Lúc giặc đánh tới theo quan Tổng-đốc, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên ; Lúc cuộc tan về ở huyện Tân-hòa, đấp lũy, hàn sông, giữ một góc bày lòng địch-khái. 6. Chợt thấy cánh buồm lai sứ 55, việc giảng-hòa những tưởng rằng xong ; Đã đành tấm giấy tựu phong, phận Thiên-tử há đâu dám cãi. 7. Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên-tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền ; Theo bụng dân phải chịu tướng-quân phù, gánh-vác một vai khổn ngoại. 8. Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa 56, sĩ-phu lắm kẻ vui theo ; Tóm muôn dân gầy sổ mộ quân, luật-lịnh nào ai dám nhại. 57 9. Văn thì nhờ Tham-biện, Thương-biện, giúp các cơ bàn-bạc nhung công ; Võ thì dùng Tổng-binh, Đốc-binh, coi mấy đạo sửa-sang khí-giới. Thương ôi ! 10. Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ-ràng ; Ấn bạc mưu binh, nào từng trễ-nải. 11. Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào ; Ai muốn đem gươm báu cang tương, chôn hơi ngoài ải. Há chẳng thấy ? 12. Sức giặc Lang-sa ; Nhiều phương quỉ-quái. 13. Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang ; Kéo lên bờ Ma-ni, Ma-tà, đạn bắn như mưa vải. 14. Dầu những đại-đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng ngàn cân ; Huống chi cô lũy ngày nay, đâu dám chắc treo mành một dải. Nhưng vậy mà. 15. Vì nước tấm thân đã nấy : còn mất cũng cam ; Giúp đời cái nghĩa đáng làm : nên hư nào nại. https://thuviensach.vn 16. Rạch-lá, Gò-công mấy trận, người thấy đã kinh ; Cửa Khâu, Trại Cá các nơi, ai nghe chẳng hãi. 17. Nào nhọc sức hộ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên ; Nào nhọc quan võ-khố bình-cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giang thương đạo tải. … … … Ôi ? 21. Sự thế bởi bên Hồ bên Hớn, bao giờ về một mối xa thơ ? Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tai tướng soái ! 22. Nào phải kẻ táng sư đầu giặc, mà để nhục miểu đường ; Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái ? 23. Hoặc là chuộng một lời hòa nghị, vận Nam Thiên phải bắt Nhạc Phi về ; Hoặc là lo trăm họ hoành la, thời U-địa chẳng cho Dương Nghiệp lại. 24. Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồn ; Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sau chẳng đoái ! 25. Còn chi nữa ; cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi may rủi một trường không ; Thôi đã đành : bóng tà dương gắm-ghé kẻ day đòng, quày gót lại hơn thua trăm trận bãi. Ôi ! 28. Làm ra cớ ấy, tạo-hóa ghét nhau chi ? Nhắc đến đoạn nào, anh hùng rơi lụy mãi ! 27. Cuộc trung-nghĩa hai năm làm đại-tướng, nhọc-nhằn vì nước, nào khờn tiếng thị, tiếng phi ; Cõi An-hà một chức chịu Lãnh-binh, lây-lất theo thời, chưa chắc đâu thành, đâu bại. 28. Khóc là khóc : nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi ; Than là than : bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ-ngẩn một phường trẻ dại. 29. Tướng-quân còn đó, các nơi đạo-tặc thảy kiêng-dè ; Tướng-quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa-binh thêm bái-xái. https://thuviensach.vn 30. Nào đã đặng mấy hồi thích-lý, màng hùm che mặt rằng xuê ; Thà chẳng may một giấc chốn trường-sa, da ngựa bọc thây mới phải. Ôi ! 31. Trời Bến-nghé mây mưa sùi-sụt, thương đứng anh-hùng gặp lúc gian-truân ; Đất Gò-công cây cỏ ủ-ê, cảm niềm thần-tử hết lòng trung-ái. 32. Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây ; Này thác về thành, xin dưng hộ một câu phục thái. (Rút Thi-phú văn-từ của Võ Sâm) « THẢO THỬ HỊCH » … … …Tượng mảng 1. Lẽ trời sanh vật, vật ấy nhiều loài. 2. Lấy câu thuận tánh làm lành ; Thấy chữ nghịch thường mà ngán. 3. Nhỏ là loài ong-kiến, còn biết nghĩa quân-thần ; Lớn là loài hổ-lang, cũng niệm tình phụ-tử. 4. Kìa như nha báo tai, thước báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin ; Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc. 5. Lò tạo-hóa nhúm nhen khắp vật vật nào hay khuấy-rối sự nhà ; Thợ hóa-công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước ? Nay có con chuột. 6. Long mọc xồm-xàm, tục kêu xù, lắt. 7. Tánh hay ăn vặt, lòng chẳng kiêng dè. 8. Chỗ ở-ăn hang-lỗ nhiều bề, đường qua lại đào ra hai ngách. 9. Nghe hơi động vội-vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo ; Chờ đêm khuya sẽ lén-lúc nhau, liến hơn cha khỉ. 10. Gọi danh-hiệu : chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em giòng-họ nhiều tên ; Tra quán-chỉ : ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu-bạn non-sông lắm lối. https://thuviensach.vn 11. Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thằm tối biết bao nhiêu ; Vắn dài râu mọc hai chia, vắng mặt chủ lung-lăng đà lắm lúc. 12. Vả sáu-mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tánh linh tâm ; Thì mười-hai chi-tuế ở đầu, cũng đáng cư-nhân do nghĩa. 13. Cớ sao lại đem lòng quỉ-quái ? Cớ sao còn làm thói gian-tham ? 14. Túi Đông Pha từng bữa tha gừng, ruộng Đông Quách ghe phen cắn lúa. 15. Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang ; Nệm mền của chúng che thân, cắn nát hết lại tha vào tổ. 16. Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan ; Hoặc leo dây ngóng cổ gặm dò heo, để án con đòi mang tiếng khổ. 17. Vậy cũng gọi mình hay ngũ kị, vậy cũng khoe ngồi trước tam tài. 18. Chẳng xét mình vê nuốt dưới cầu, lại quen thói lần mò bên vách. 19. Sách Lỗ-sử biên câu « thực giác », vì miệng ai cho nên vua lỗi đạo thờ trời ; Thơ Quốc-phong để chữ « thực miêu », vì miệng ai cho nên dân xa làng bỏ đất ? 22. Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau ; Nhiều chỗ than vách ngã thềm xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đức bẩn ? 21. Nền xã-tắc là nơi báo-bổ, can chi mi đào lỗ đào hang ? Chốn miếu đường là chỗ thanh-tân cớ chi ngươi cắn màn cắn sáo ? Kẻ trinh-nữ ghét thằng cường-bạo. cũng còn mang tiếng « thử dâm ». Án Long-đồ tra đứa gian-tà, hãy còn mắc cái câu « thư thủ ». 23. Gối ngỏa chú Nghiêu Phu đà đến bể, khen cho quỉ-quái chẳng chừa ; Gậy phi-long Linh Kiết đã tưng-bừng, sao hãy yêu-tinh không gớm ? 24. Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thiệt tướng gian ; Diễm-cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhựt là sao dữ. https://thuviensach.vn 25. Sâu-hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử, cục cứt ra cũng nhọn hai đầu ; Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc. 26. Tuy là tướng hữu bì hữu chất ; Thật là loài vô lễ vô nghi. 27. Luận tội kia đã đáng phân thi, thứ tay nọ cũng vì kiêng vật. 28. Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương ; Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo. 29. Ngao-ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô-thước phanh phui ; Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Huỳnh-hà ráo cạn. 30. Ví có ngàn dòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm ; Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá. 31. Tội dường ấy đã nên ác quá ; Ta tới đây há dễ nhiêu dung ! 32. Ấn tiên-phong nấy gả rắn-rồng ; Phi hậu-tập sai chim bà-cắc. 33. Sắm-sửa binh sương giáp sắt ; Trau-giồi ngựa gió xe trăng. 34. Giống trống sấm xuất binh ; Phất cờ lau lập trận. 35. Đuốc Điền Đơn sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngách u-vi ; Đèn Lý Bạch đái tùy, đặng chờ thuở xét soi hang uất-khúc. 36. Hàng hàng bố liệt thương đao ; Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột ! Phải nghe ta dặn, sắm-sửa đủ đồ 37. Cuốc xuổng đào hang ; Phảng mai chận ngách. 38. Trả, trách, nồi, niêu rửa sạch, thượng kỳ : phù địch-khái chi tâm ; Tiêu, hành, sả, ớt, muối dâm, thứ dĩ : tạ chúng nhân chi khẩu. 39. Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam-bành ; Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục-tặc. 40. Bốn phương đều ngợi chữ thăng-bình ; Thiên hạ cũng vui câu án đổ. (Chép theo Quốc-âm thi-tập của Paulus Của, Saigon, 1907) https://thuviensach.vn V. BẠT Nghĩ từ ngộ biến đến giờ Xuân qua Thu lại khó mờ đau-thương. Khóc người tử tán hà phương, Lòng tôi là huyệt ủ hương hồn Người. Trên mười năm, trải qua chuỗi ngày âm-thầm đau-tủi cạnh mấy mụn con thơ, nguồn an-ủi duy-nhất của đời tôi. Dù vậy khi nghe có ai nhắc-nhở đến tên Phan Văn Hùm, lòng tôi sao khỏi bồi-hồi cảm-động. Sao khỏi hình dung lại những ngày sống êm êm bên cạnh nhau, cùng nhau chia sớt nỗi gian-lao cùng-khổ, và cũng cùng nhau phập-phồng lo sợ trong cảnh giông tố phũ-phàng. Có ai nghe người ta ca-tụng sự-nghiệp tên tuổi người thân-yêu mình mà không hãnh-diện say-sưa. Một hôm, giám-đốc nhà Tân Việt đến tôi ngỏ ý định tái bản quyển « Nỗi lòng Đồ Chiểu » – quyển sách mà từ lâu tôi thiết-tha chuẩn-bị nhưng còn thiếu phương-tiện thực-hành. Lòng tôi rộn lên một niềm vui mới. Quyển « Nỗi lòng Đồ Chiểu » là một kỷ-niệm đặc biệt ra đời một lượt với thằng trai út của chúng tôi. Anh Hùm tôi viết « Nỗi lòng Đồ Chiểu » vì nghĩa chung, trọng tiết-tháo trung-kiên của bậc tiền-bối, nhưng tình riêng sao cho khỏi vì biết tôi mà biết đến cội-nguồn. Độc-giả thời xưa, có người hơi đa sự bảo rằng : « Nỗi lòng Đồ Chiểu » tức là nỗi lòng Phan Văn Hùm. Sự thật có phải như thế chăng ? Tôi xin nhường quyền cho tri-kỷ bốn phương của anh Hùm tôi phán-đoán. Riêng tôi, dù không dám tự nhận tri-kỷ của Phan Văn Hùm, song cũng thông-cảm được phần nào ý và lòng tác-giả. Các bạn tôi lại hỏi, tại sao tôi không nói gì với quyển « Ngồi tù khám lớn », quyển sách đầu tiên được tái bản sau khi tác-giả qua đời, mà chỉ thấy https://thuviensach.vn mấy lời của Phan Tùng Mai, con tôi ? Đó cũng chỉ là một chuyện lòng, thưa các bạn ! « Ngồi tù khám lớn » ra đời thuở tôi còn cài tóc, tình khế-nghị mới bắt đầu chớm-nở trong lòng đôi bạn vong niên : tôi chưa được dự phần trong sự-nghiệp văn-chương của tác-giả. Trái lại « Nỗi lòng Đồ Chiểu »chẳng những vì tôi mà có, hơn nữa anh Hùm tôi vẫn cho phép tôi sửa-chữa những chỗ bất đồng hoặc câu văn nào tác-giả sơ-sót viết mà không đọc lại. Bất cứ kỷ-niệm gì của người chồng vắn số đối với tôi đều thiêng-liêng cao-quí. Nhất là những tác-phẩm của người, trong đó quyển « Nỗi lòng Đồ Chiểu » nhắc-nhở tôi thâm-thiết hơn cả. Nếu anh Hùm tôi còn, không biết anh có bằng lòng cho tái-bản hay chăng ? Hay cũng như cố tổ tôi, cụ Đồ Chiểu, vẫn không hài lòng những tác-phẩm xa xưa của người. Và nếu có sự gì phật ý, bên kia thế-giới, hẳn anh Hùm tôi cũng tha thứ cho vợ con. Về giá-trị văn-chương, lịch-sử tôi xin thưa một lần nữa : « Phẩm-bình đã có các bậc học-giả cao-minh uyên-bác ». Sau hết, tôi thành-thật cảm ơn nhả-ý của ông Tân Việt khi chia cho tôi một phần trách-nhiệm trong việc tái-bản « Nỗi lòng Đồ Chiểu ». MAI HUỲNH HOA https://thuviensach.vn