🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Tù Nhân Của Địa Lý
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
Lời Tựa
Lời giới thiệu
Chương Một: Nga
Chương Hai: Trung Quốc
Chương Ba: Hoa Kỳ
Chương Bốn: Tây Âu
Chương Năm: Châu Phi
Chương Sáu: Trung Đông
Chương Bẩy: Ấn Độ và Pakistan Chương Tám: Triều Tiên và Nhật Bản Chương Chín: Châu Mỹ Latinh Chương Mười: Bắc cực
Kết luận
Thư mục
Lời cảm ơn
Chú thích
https://thuviensach.vn
Lời Tựa
Chúng ta đang sống trong một thời đại bất ổn khác thường, chuyện đó không có gì phải bàn cãi. Chúng ta được bảo rằng, thế giới chưa bao giờ bất định như bây giờ. Những phán đoán như vậy gợi nên những phản hồi thận trọng và thậm chí đa nghi hơn. Thế giới vốn dĩ vẫn luôn bất ổn, và tương lai vẫn luôn khó lường ngay chính từ định nghĩa của nó. Những mối lo âu hiện tại của chúng ta chắc chắn còn tệ hại hơn. Dù không nói đến điều gì khác, lễ kỷ niệm một trăm năm của sự kiện 1914 đủ để gợi nhắc chúng ta về điều đó.
Dù sao, chắc chắn những thay đổi căn bản đang diễn ra, và những thay đổi đó có ý nghĩa thực sự đối với tương lai của chúng ta và của con cái chúng ta, dù chúng ta đang sống ở đâu đi nữa. Những thay đổi về kinh tế, xã hội và nhân khẩu học, tất cả đều liên quan tới sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, đều có những hệ lụy toàn cầu, cho thấy sự khác biệt rõ giữa thời đại chúng ta đang sống với những thời đại trước. Hẳn đây là lý do vì sao chúng ta nói rất nhiều về “tình trạng bất định khác thường“ và tại sao việc bình luận về “địa chính trị” lại trở thành một ngành đang phát triển.
Tim Marshall có thừa tư cách, cả về cá nhân và chuyên môn, để đóng góp cho cuộc tranh luận này. Ông đã trực tiếp tham gia vào nhiều quá trình phát triển ấn tượng nhất trong vòng hai mươi lăm năm qua. Như ông nhắc chúng ta trong Lời giới thiệu, ông từng có mặt tại tiền tuyến ở Balkan, Afghanistan và Syria. Ông nhận ra rằng các quyết định và các sự kiện, những mâu thuẫn quốc tế và những cuộc nội chiến, chỉ có thể được thấu hiểu bằng cách xem xét đầy đủ những hy vọng, sợ hãi và định kiến do lịch sử hình thành và đến lượt chúng đã bị thúc ép như thế nào bởi môi trường vật lý xung quanh - tức là địa lý - môi trường mà trong đó các cá nhân, xã hội và quốc gia đã phát triển.
https://thuviensach.vn
Kết quả là, cuốn sách này chứa đầy những kiến giải sâu sắc có liên quan trực tiếp đến an ninh và đời sống ổn định của chúng ta. Điều gì đã tác động đến hành động của Nga tại Ukraine? Phải chăng (người phương Tây) chúng ta đã không thể lường trước được điều đó? Nếu như vậy thì tại sao? Moscow sẽ còn đẩy sự việc đi xa tới đâu nữa đây? Rốt cuộc, liệu Trung Quốc đã cảm thấy an toàn hay chưa trong phạm vi đường biên giới đất liền mà họ cho là tự nhiên, và điều này sẽ gây ảnh hưởng ra sao đến Hoa Kỳ, đến đường lối tiếp cận quyền lực hàng hải của Bắc Kinh? Điều này có ý nghĩa gì đối với các quốc gia khác trong khu vực, bao gồm cả Ấn Độ và Nhật Bản? Trong hơn hai trăm năm, Hoa Kỳ đã hưởng lợi từ những hoàn cảnh địa chính trị và nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng ưu đãi. Giờ đây, họ có được nguồn tài nguyên dầu khí trái với thông lệ. Liệu điều này có ảnh hưởng đến chính sách toàn cầu của họ hay không? Hoa Kỳ có lực lượng và khả năng phục hồi phi thường, vậy tại sao người ta lại nói về sự suy yếu của Hoa Kỳ nhiều như vậy? Liệu sự chia rẽ sâu sắc và những cảm xúc mãnh liệt tại Bắc Phi, Trung Đông và Nam Á có là thứ bất trị, hay chúng ta vẫn có thể tìm thấy hy vọng nào đó cho tương lai? Cuối cùng, và có lẽ là điều quan trọng nhất đối với Vương quốc Anh, một trong những nền kinh tế lớn nhất và mang tính toàn cầu nhất: châu Âu phản ứng thế nào với sự bấp bênh, xung đột ở gần và cả ở xa? Như Tim đã chỉ ra, trong bảy mươi năm qua (và đặc biệt là từ năm 1991), châu Âu đã trở nên ấm êm với hòa bình và thịnh vượng. Phải chăng chúng ta đang đứng trước nguy cơ chấp nhận điều đó như một sự hiển nhiên? Liệu rồi đây chúng ta vẫn hiểu được những gì đang xảy ra xung quanh mình chăng?
Nếu bạn muốn suy nghĩ về những câu hỏi trên, hãy đọc cuốn sách này.
Sir John Scarlett KCMG OBE
Cục trưởng Cục Tình báo (MI6), 2004-2009
https://thuviensach.vn
Lời giới thiệu
Vladimir Putin nói mình là người có tín ngưỡng, nhiệt thành ủng hộ Giáo hội Chính thống Nga. Nếu quả thực như vậy, hẳn là mỗi đêm ông thường đi ngủ với lời cầu nguyện và chất vấn Thiên Chúa rằng: “Tại sao Người không tạo thêm chút núi non ở Ukraine? “
Giá như Chúa tạo ra những ngọn núi ở Ukraine, thì vùng bình nguyên mênh mông nay là Bắc Âu đã không phải là lãnh thổ từ đó khuyến khích những cuộc tấn công liên miên vào đất Nga. Nhưng sự thể đã vậy, Putin không còn lựa chọn nào khác: ông ít nhất phải cố kiểm soát đồng bằng này từ phía tây. Quốc gia nào cũng phải như vậy, dù lớn hay nhỏ. Bối cảnh địa lý cầm tù các nhà lãnh đạo của họ, cho họ ít lựa chọn và ít không gian để xoay xở hơn bạn tưởng. Điều này từng đúng với Đế chế Athens, Ba Tư hay Babylon và trước đó nữa; và đúng với mọi thủ lĩnh tìm kiếm một vùng địa thế cao hơn để che chở cho bộ lạc của mình.
Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của địa cầu. Công nghệ dường như có thể vượt qua khoảng cách không gian tinh thần và vật chất giữa chúng ta nhưng chúng ta dễ quên rằng miền đất nơi chúng ta sinh sống, làm việc và nuôi dạy con cái là vô cùng quan trọng, và sự lựa chọn của những cá nhân lãnh đạo bảy tỉ cư dân của hành tinh này ở một mức độ nhất định sẽ luôn bị định hình bởi sông, núi; sa mạc, hồ và biển, là những thứ ràng buộc tất cả chúng ta - như xưa nay vẫn vậy.
Nói chung, không có chuyện nhân tố địa lý này quan trọng hơn những nhân tố địa lý kia. Núi non không quan trọng hơn sa mạc, cũng như sông
https://thuviensach.vn
ngòi không hơn gì rừng rậm. Trong các phần khác nhau của hành tinh, các đặc điểm địa lý khác nhau là một trong những nhân tố chính quyết định những gì con người có thể và không thể làm.
Nói chung, địa chính trị nhìn vào những cách thức theo đó các vấn đề quốc tế có thể được hiểu thông qua các nhân tố địa lý; không chỉ là cảnh quan tự nhiên - như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc sự kết nối của mạng lưới sông ngòi - mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực văn hóa và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh, từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo.
Những thực tế địa lý tự nhiên vốn làm nền tảng cho chính trị quốc gia và quốc tế thường bị bỏ qua trong các cuốn sách về lịch sử cũng như trong các báo cáo về thời sự thế giới. Địa lý học rõ ràng là một phần cơ bản của câu hỏi “tại sao“ cũng như câu hỏi “cái gì”. Lấy ví dụ như Trung Quốc và Ấn Độ: hai quốc gia vĩ đại với các quần thể dân cư khổng lồ chia sẻ một đường biên giới rất dài nhưng không đứng chung hàng về chính trị hoặc văn hóa. Chẳng ngạc nhiên nếu hai gã khổng lồ đó từng gây chiến với nhau vài ba lần, nhưng sự thực, ngoài trận chiến kéo dài một tháng vào năm 1962, họ chưa bao giờ đánh nhau thực sự. Tại sao? Bởi giữa họ là rặng núi cao nhất thế giới, và trên thực tế, việc đưa các binh đoàn lớn xuyên ngang hoặc vượt qua dãy Himalaya là điều không thể. Dĩ nhiên, khi công nghệ trở nên tinh vi hơn ắt sẽ có những cách để vượt qua trở ngại này, nhưng rào cần tự nhiên vẫn còn đó, và vì vậy cả hai quốc gia đều hướng chính sách đối ngoại của mình vào các khu vực khác trong khi vẫn để mắt trông chừng nhau.
Cá nhân các nhà lãnh đạo, các tư tưởng, công nghệ và những nhân tố khác, tất thảy đều có vai trò trong việc định hình các sự kiện, nhưng chúng là tạm thời. Mỗi thế hệ mới vẫn phải đối mặt với những chướng ngại tự nhiên do dãy Hindu Kush và dãy Himalaya tạo ra; những thách thức tạo ra
https://thuviensach.vn
bởi mùa mưa; và những bất lợi trong việc bị giới hạn khả năng tiếp cận các khoáng sản tự nhiên hoặc nguồn lương thực.
Tôi bắt đầu quan tâm đến chủ đề này khi theo dõi để tường thuật các cuộc chiến ở Balkan vào những năm 1990. Tôi đã quan sát tận mắt các nhà lãnh đạo của các sắc tộc khác nhau, ví dụ như Serbia, Croatia hay Bosnia, khi họ cố ý nhắc “bộ tộc” mình nhớ về sự phân chia từ thời cổ đại và, hắn nhiên, cả những mối nghi kỵ từ đời xưa, trong một khu vực tập trung nhiều sắc dân đa dạng. Một khi các nhà lãnh đạo đã chia rẽ các dân tộc, sẽ không mất nhiều công sức để đẩy các dân tộc ấy chống lại nhau.
Dòng sông Ibar ở Kosovo là một ví dụ hàng đầu. Sự cai trị của đế chế Ottoman đối với Serbia đã được củng cố nhờ trận chiến Kosovo Polje năm 1389, diễn ra gần nơi sông Ibar chảy qua thành Mitrovica. Suốt những thế kỷ sau đó, dân chúng người Serb bắt đầu rút lui sang bên kia dòng Ibar, trong khi dân Albania theo đạo Hồi dân dân từ vùng núi Malezija tràn xuống Kosovo, nơi họ trở thành đa số từ giữa thế kỷ 18.
Lướt nhanh tới thế kỷ 20, vẫn tồn tại một sự phân chia sắc tộc - tôn giáo rõ ràng được đánh dấu bằng dòng sông này. Sau đó vào năm 1999, bị vùi dập bởi NATO từ trên không và Quân Giải phóng Kosovo trên mặt đất, quân đội Yugoslav (Serbia) rút lui qua sông Ibar, nhanh chóng theo sau họ là hầu hết số dân cư Serbia còn lại. Con sông trở thành đường biên giới de facto (trên thực tế) của cái mà một số quốc gia hiện nay công nhận là một nhà nước Kosovo độc lập.
Thành Mitrovica cũng là nơi lực lượng tiền phương của lục quân NATO dừng chân. Trong suốt cuộc chiến ba tháng này đã có những đe dọa úp mở rằng NATO có ý định xâm chiếm toàn bộ Serbia. Sự thực thì những sự ràng buộc cả về địa lý cũng như chính trị cũng có nghĩa là các lãnh đạo NATO không bao giờ thực sự có được lựa chọn đó. Hungary đã nói thẳng là họ sẽ không cho phép một cuộc xâm lược phát xuất từ lãnh thổ của họ, vì họ
https://thuviensach.vn
e sợ sự trả thù nhắm vào 350.000 người sắc tộc Hungary sống ở miền Bắc Serbia. Giải pháp khác là xâm chiếm từ phía nam, cách này có thể giúp họ tiến tới sông Tbar nhanh gấp đôi; nhưng nếu vậy NATO sẽ phải đối mặt với những dãy núi chắn ngay trên đầu họ.
Tôi đang làm việc với một nhóm người Serbia tại Belgrade vào thời điểm ấy và hỏi họ chuyện gì sẽ xảy ra nếu NATO tiến vào: “Tim ạ, chúng tôi sẽ bỏ máy ảnh xuống và cầm súng lên”, đó là câu trả lời của họ. Họ là những người dân Serbia theo chủ nghĩa tự do, những người bạn tốt của tôi và những người phản kháng chính phủ của họ, nhưng họ vẫn lôi bản đồ ra để chỉ cho tôi thấy nơi người Serbia sẽ bảo vệ lãnh thổ của mình trong vùng núi non, và nơi NATO sẽ phải dừng bước. Cũng có đôi chút khuây khỏa khi nhận được một bài học địa lý về lý do tại sao những lựa chọn của NATO bị hạn chế nhiều hơn so với những gì cỗ máy tuyên truyền Brussels1 công bố.
Sự hiểu biết về tầm quan trọng mang tính quyết định của cảnh quan tự nhiên trong việc đưa tin tức ở Balkan đã giúp tôi đứng vững trong những năm tiếp theo. Ví dụ, vào năm 2001, vài tuần sau sự kiện ngày 11 tháng Chín, tôi đã chứng kiến một minh chứng về việc khí hậu, thậm chí với công nghệ hiện đại, vẫn đóng vai trò quyết định ra sao đến những khả năng quân sự của thậm chí một đội quân hùng mạnh nhất thế giới. Tôi đang ở miền Bắc Afghanistan, đã vượt con sông biên giới từ Tajikistan bằng bè, để liên lạc với quân Liên minh phương Bắc (Northern Alliance) khi ấy đang chiến đấu với Taliban.
Các máy bay tiêm kích và máy bay ném bom của Hoa Kỳ bay ngang trên đầu, bắn phá vào các cứ điểm của Taliban và Al-Qaeda trên những đồng bằng và ngọn đồi lạnh lẽo đầy khói bụi ở phía đông Mazar-e- Sharif để dọn đường cho bộ binh tiến vào Kabul. Sau một vài tuần, rõ ràng quân Liên minh phương Bắc đang rục rịch để di chuyển về phía nam. Và rồi cả thế giới thay màu.
https://thuviensach.vn
Cơn bão cát dữ dội nhất tôi từng trải qua thổi tới, biến tất cả mọi thứ thành màu vàng nhờ nhờ. Tại đỉnh điểm của cơn bão, bạn không thể nhìn xa hơn một vài mét trước mặt, và điều duy nhất rõ ràng là công nghệ vệ tinh ở đỉnh cao của khoa học của người Mỹ đã bất lực, đui mù khi đối mặt với khí hậu của vùng đất hoang đã này. Tất cả mọi người, từ Tổng thống Bush và Hội đồng tham mưu Liên quân cho đến quân đội Liên minh phương Bắc trên bộ, chỉ còn cách chờ đợi. Sau đó trời đổ mưa, còn cát đã phủ lên mọi thứ và ai nấy đều mình mẩy lấm bùn. Mưa rơi nặng hạt đến nỗi những túp lều đóng bùn nơi chúng tôi trú ngụ trông như thể đang tan chảy. Một lần nữa, rõ ràng ý định tiến quân về phía nam đã bị trì hoãn cho đến khi địa lý đã hoàn tất việc cất lên tiếng nói của nó. Các quy luật của địa lý, mà Hannibal, Tôn Tử và Alexander Đại đế đều biết, vẫn thích dụng cho các nhà lãnh đạo ngày nay.
Gần đây hơn, năm 2012, tôi nhận được một bài học địa-chiến lược nữa: trong khi Syria sa vào cuộc nội chiến bùng nổ hết cỡ, tôi đứng trên một đỉnh đôi tại Syria, nhìn xuống thung lũng phía nam thành phố Hama, và thấy một xóm nhỏ đang bốc cháy ở phía xa. Những người bạn Syria chỉ cho tôi ngôi làng lớn hơn nhiều cách đó khoảng một dặm, họ nói đó là nơi cuộc tấn công được bắt đầu. Sau đó họ giải thích rằng, nếu một phe có thể đẩy một số người vừa đủ từ phe kia ra khói thung lũng, khi đó thung lũng này sẽ được sáp nhập vào một vùng đất khác vốn dẫn tới con đường cao tốc duy nhất của đất nước, và như vậy sẽ hữu ích trong việc khoét được một máng từ vùng đất có thể sinh sống tiếp giáp nhau, mà một ngày nào đó có thể tạo nên một nhà nước nhỏ nếu như Syria không thể tái hợp một lần nữa. Nơi trước đó tôi chỉ thấy là một ngôi làng nhỏ đang bốc cháy, thì giờ đây tôi đã nhận ra tầm quan trọng chiến lược của nó và hiểu các thực tế chính trị được định hình ra sao bởi những thực tế địa lý tự nhiên cơ bản nhất.
Địa chính trị ảnh hưởng đến mọi quốc gia, dù trong thời chiến, như trong các ví dụ ở trên, hay trong thời bình. Ở mỗi một vùng đất mà bạn có thể nhớ ra, đều sẽ có vài ví dụ. Trong những trang sách này, tôi không thể
https://thuviensach.vn
khám phá được tất cả: Canada, Úc và Indonesia chỉ được đề cập ngắn gọn, mặc dù tôi có thể dành hẳn một cuốn sách riêng cho Úc và cách thức mà theo đó địa lý của quốc gia này đã định hình mối liên hệ của nó với các vùng khác của thế giới, về vật chất cũng như văn hóa. Thay vào đó, tôi sẽ tập trung vào các thế lực và các khu vực có thể minh họa tốt nhất các điểm chính của cuốn sách này, giới thiệu khái quát di sản địa chính trị từ quá khứ (sự hình thành quốc gia); những tình huống cấp bách nhất mà chúng ta phải đối mặt ngày hôm nay (những bất ổn liên tục ở Ukraine, ảnh hưởng bành trướng của Trung Quốc); và nhìn tới tương lai (sự cạnh tranh ngày càng tăng ở Bắc cực).
Trong chương về Nga, chúng ta thấy sự ảnh hưởng của Bắc cực, và khí hậu băng giá của nó đã hạn chế khả năng để nước Nga trở thành một thế lực toàn cầu thực sự như thế nào. Trong chương về Trung Quốc, chúng ta thấy những hạn chế của một thế lực không có một lực lượng hải quân toàn cầu, và hiện Trung Quốc đang tìm cách thay đổi điều này với sự khẩn trương thấy rõ. Chương về Hoa Kỳ minh họa cho các quyết định khôn ngoan để mở rộng lãnh thổ trong những khu vực trọng điểm cho phép Hoa Kỳ có được vận mệnh hiện đại của mình trong vai trò một siêu cường trên hai đại dương như thế nào. Châu Âu cho ta thấy giá trị của bình nguyên và các con sông tàu thuyền dễ lưu thông trong việc kết nối các vùng miền với nhau và tạo ra một nền văn hóa có khả năng khởi động một thế giới hiện đại, trong khi châu Phi là một ví dụ điển hình về những ảnh hưởng của sự cô lập.
Chương về Trung Đông cho thấy lý do tại sao việc vạch ranh giới trên bản đồ nếu xem nhẹ địa thế, và quan trọng không kém, xem nhẹ các nền văn hóa địa lý trong một khu vực xác định, thì sẽ gây ra hệ lụy bất ổn. Chúng ta sẽ còn tiếp tục chứng kiến sự bất ổn đó ngay trong thế kỷ này. Chủ đề tương tự cũng được trình bày trong các chương về châu Phi và Ấn Độ - Pakistan. Những cường quốc thuộc địa đã vạch ra các đường biên giới nhân tạo trên giấy, chẳng đếm xỉa gì đến những thực tế địa lý tự nhiên của khu vực đó, kết quả là đã tạo ra một số trong những biên giới nhân tạo nhất mà thế giới từng
https://thuviensach.vn
chứng kiến. Hiện tại, ở Trung Đông một nỗ lực đang được thực hiện để vẽ lại những đường biên giới đó bằng máu.
Nhật Bản và Hàn Quốc rất khác so với trường hợp của Kosovo hay Syria, ở chỗ họ hầu như đông nhất về sắc tộc. Nhưng họ có những vấn đề khác: Nhật Bản là một quốc đảo không có tài nguyên thiên nhiên, trong khi sự chia cắt hai miền Triều Tiên vẫn còn là vấn đề đang chờ được giải quyết. Trong khi đó, châu Mỹ Latinh là một trường hợp bất thường. Ở xa về phía nam, Mỹ Latinh bị cắt đứt với thế giới bên ngoài khiến việc giao thương quốc tế trở nên khó khăn, và địa lý nội bộ của nó là rào cản đối với việc hình thành một khối thương mại thành công như Liên minh châu Âu.
Sau cùng, chúng ta đến một trong những nơi hoang vu nhất trên Trái đất - Bắc cực. Trong hầu hết lịch sử, con người đã phớt lờ nó, nhưng trong thế kỷ 20, chúng ta tìm thấy nguồn năng lượng tại đây, và nền ngoại giao trong thế kỷ 21 sẽ xác định xem ai là người sở hữu - hay buôn bán - nguồn tài nguyên đó.
Việc nhìn nhận địa lý như một nhân tố quyết định trong tiến trình lịch sử nhân loại có thể bị diễn giải là một cách nhìn ảm đạm về thế giới, đó là lý do tại sao nó không được ưa thích trong một số cộng đồng trí thức. Nó cho thấy tự nhiên có quyền lực mạnh hơn con người, và chúng ta cũng chỉ có thể làm được đến thế trong việc quyết định số phận của chính mình mà thôi. Tuy nhiên, các nhân tố khác rõ ràng cũng có ảnh hưởng đến các sự kiện. Bất kỳ người có lý trí nào đều có thể nhận thấy công nghệ hiện đang bẻ cong các quy tắc thép của địa lý.
Công nghệ đã tìm ra phương cách để vượt lên trên, luồn xuống dưới, hoặc xuyên qua một số rào cản. Máy bay Hoa Kỳ giờ đây có thể bay thẳng một lèo từ Missouri tới Mosul để thực hiện nhiệm vụ ném bom mà không cần phải đáp dọc đường để tiếp nhiên liệu. Việc này có nghĩa là, cùng với các nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm lớn, Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn không
https://thuviensach.vn
cần một đồng minh hay một thuộc địa để mở rộng tầm với ra khắp thế giới. Tất nhiên, nếu có một căn cứ không quân trên đảo Diego Garcia, hoặc quyền xuất nhập thường trực vào hải cảng ở Bahrain, họ sẽ có nhiều lựa chọn hơn; nhưng điều đó không nhất thiết cho lắm.
Như vậy, giống như Internet, không lực cũng đã thay đổi các quy tắc [của địa lý], dù theo một cách khác. Nhưng địa lý, và cách thức mà lịch sử của các quốc gia đã tự thiết lập trong địa lý ấy, vẫn rất quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về thế giới hôm nay và tương lai của chúng ta.
Xung đột ở Iraq và Syria có nguồn gốc từ việc các cường quốc thuộc địa phớt lờ những quy tắc về địa lý, trong khi sự kiện Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng lại phát sinh từ việc tuân theo những quy tắc này; chính sách đối ngoại toàn cầu của Hoa Kỳ cũng bị định đoạt bởi chúng, và thậm chí sự phát huy quyền lực của vị thế siêu cường mới nhất này cũng chỉ có thể làm giảm nhẹ bớt các quy tắc mà thiên nhiên, hoặc Thiên Chúa, đã an bài.
Những quy tắc đó là gì? Khởi đầu sẽ là vùng đất nơi quyền lực khó bề phòng vệ, và vì thế trong nhiều thế kỉ, các nhà lãnh đạo của nó đã bù đắp điều này bằng cách bành trướng ra bên ngoài. Đó là vùng đất mà phía Tây của nó không có núi non: nước Nga.
https://thuviensach.vn
Chương Một: Nga
Rộng lớn (tính từ; so sánh: rộng lớn hơn, rộng lớn nhất): diện tích hay kích thước rộng lớn, mênh mông.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Nga là một đất nước rộng lớn. Rộng lớn nhất. Mênh mông. Diện tích của Nga là sáu triệu dặm vuông, bao phủ mười một múi giờ; là quốc gia lớn nhất thế giới.
Rừng, hồ, sông ngòi, lãnh nguyên đóng băng, thảo nguyên, rừng taiga và vùng núi của nước Nga, tất thảy đều mênh mông. Kích thước này đã hằn sâu trong nhận thức tập thể của chúng ta. Dù chúng ta có ở nơi đâu, thì nước Nga vẫn luôn ở đó, có thể nằm về phía đông, phía tây, phía bắc hay phía nam - nhưng luôn luôn có Gấu Nga vĩ đại.
Không phải một điều tình cờ mà gấu là biểu tượng của quốc gia bao la này. Gấu luôn ở đó, đôi khi ngủ đông, đôi khi gầm gừ, oai phong nhưng hung dữ. Gấu là một từ có trong tiếng Nga, nhưng người Nga luôn ngại ngần khi gọi sinh vật này bằng tên thật, họ sợ rằng điều đó sẽ gợi nhắc đến mặt tối của nó. Họ gọi nó là medved, “kẻ thích mật ong”.
Ít nhất có 120.000 medved sống tại một đất nước năm vắt từ châu Âu sang châu Á. Phía tây của Dãy núi Ural là phần nước Nga thuộc châu Âu. Phía đông dãy núi là Siberia, trải dài một lèo đến tận biển Bering và Thái Bình Dương. Thậm chí ngay trong thế kỷ 21, đi ngang qua đất nước này bằng đường sắt cũng phải mất sáu ngày. Các nhà lãnh đạo của nước Nga phải nhìn xuyên suốt những khoảng cách như vậy, những khác biệt như vậy, rồi đề ra những chính sách phù hợp; trong mấy thế kỷ nay họ đã hướng mắt về mọi phương, nhưng chủ yếu tập trung vào phía tây.
Khi các nhà văn tìm đường đến trái tim của chú gấu này, họ thường sử dụng lời nhận xét nổi tiếng về nước Nga của Winston Churchill, vào năm 1939: “Đó là một câu đố được bọc trong một bức màn bí ẩn, giấu bên trong một cỗ máy mã hóa”, nhưng ít người nói trọn câu nói ấy, nó kết thúc bằng, “nhưng có thể có một chiếc chìa khóa. Chìa khóa đó chính là lợi ích quốc gia Nga”. Bảy năm sau, ông đã dùng chiếc chìa khóa này để mở ra đáp án
https://thuviensach.vn
của ông cho câu đố đó và khẳng định, “Tôi bị thuyết phục rằng không có gì họ ngưỡng mộ bằng sức mạnh, và không có gì họ ít tôn trọng bằng sự yếu đuối, đặc biệt là sự yếu đuối về quân sự.”
Có thể lúc bấy giờ ông đang nói về giới lãnh đạo đương nhiệm của Nga, bất chấp việc được bao bọc kỹ trong tấm áo dân chủ, về bản chất vẫn là một thể chế độc tài lấy lợi ích quốc gia làm cốt lõi.
Khi Vladimir Putin không nghĩ về Thiên Chúa, hay những rặng núi, ông ta nghĩ về bánh pizza. Cụ thể là, hình dạng của một lát bánh pizza - hình nêm.
Đầu nhọn của hình nêm này là Ba Lan. Nơi đây, dải Đồng bằng Bắc Âu mênh mông trải từ nước Pháp đến dãy Ural (rặng núi kéo dài khoảng một ngày đặm từ nam chí bắc, tạo thành một ranh giới tự nhiên giữa châu Âu và châu Á) chỉ rộng ba trăm dặm. Bình nguyên này chạy từ biển Baltic ở phía bắc đến dãy núi Carpathian Ở phía nam: Đồng bằng Bắc Âu bao quanh miền Tây và miền Bắc nước Pháp, nước Bỉ, Hà Lan, miền Bắc nước Đức và hầu hết Ba Lan.
Từ góc nhìn của Nga, đây là một thanh kiếm mà hai cạnh lưỡi đều sắc. Ba Lan hiện diện như một hành lang khá hẹp mà Nga có thể đưa quân đội đi xuyên qua khi cần thiết và nhờ vậy ngăn chặn kẻ địch tiến đến Moscow. Nhưng từ đầu nhọn này; hình nêm cũng bắt đầu trải rộng ra; khi chạm đến biên giới Nga, nó đã rộng hơn hai ngàn dặm, và từ đó đi tới Moscow và xa hơn nữa địa hình thảy đều bằng phẳng. Ngay cả khi có một quân đội lớn, bạn cũng phải vô cùng vất vả để phòng thủ bằng vũ lực đọc toàn bộ tuyến đường này. Tuy nhiên, Nga chưa bao giờ bị xâm chiếm từ hướng này, một phần là nhờ chiều sâu có tính chiến lược của nó. Một đội quân đến thời điểm tiếp cận được Moscow thường phải duy trì một đường hậu cần dài dằng dặc đến mức không kham nổi, một sai lầm mà Napoleon đã phạm phải vào năm 1812, và Hitler lặp lại năm 1941.
https://thuviensach.vn
Tương tự tại miền Viễn Đông nước Nga, chính địa lý đã che chở cho đất nước này. Việc di chuyển một quân đội từ châu Á lên phần đất Nga thuộc châu Á là vô cùng khó khăn; hầu như không có gì để làm mục tiêu tấn công ngoài tuyết, và bạn bất quá cũng chỉ có thể tiến tới dãy Ural. Sau đó, bạn sẽ chỉ chiếm được một phần lãnh thổ mênh mông, trong những điều kiện khắc nghiệt, với đường tiếp tế hậu cần dài dặc cùng nguy cơ bị phản công thường trực.
Bạn có lẽ cho rằng không ai từng có ý định xâm lược nước Nga, nhưng đó không phải là suy nghĩ của người Nga, và họ có lý. Trong vòng năm trăm năm trở lại đây, họ đã bị xâm lược một vài lần từ phía tây. Người Ba Lan vượt qua Đồng bằng Bắc Âu năm 1605, sau đó là người Thụy Điển dưới thời của vua Charles XII vào năm 1708, người Pháp dưới quyền Napoleon vào năm 1812, và người Đức hai lần, trong cả hai cuộc Thế chiến năm 1914 và 1941. Nhìn theo một cách khác, nếu tính từ cuộc xâm lược của Napoleon năm 1812, rồi tính cả cuộc Chiến tranh Crimea năm 1853-1856 và hai cuộc Thế chiến cho đến năm 1945, như vậy người Nga phải chiến đấu trong hoặc xung quanh Đông bằng Bắc Âu trung bình ba mươi ba năm một lần.
Vào cuối Thế chiến II năm 1945, người Nga chiếm giữ một vùng lãnh thổ chiếm đoạt được từ nước Đức tại Trung và Đông Âu, một số vùng trở thành một phần của Liên bang Xô viết, khi nó ngày càng trở nên giống với Đế chế Nga cổ. Năm 1942, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được hình thành bởi sự kết hợp của châu Âu và các quốc gia Bắc Mỹ, để phòng vệ châu Âu và Bắc Đại Tây Dương trước hiểm họa tấn công từ phía Liên bang Xô viết. Để đáp lại, đa số các quốc gia cộng sản ở châu Âu - dưới sự lãnh đạo của Nga - thành lập Khối Hiệp ước Warsaw năm 1255, một hiệp định phòng thủ và tương trợ về quân sự. Hiệp ước này được coi là vững như thành đông, nhưng sau vài năm của thập niên 1980, nó đã bị gỉ sét, và sau khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, nó tan thành khói bụi.
https://thuviensach.vn
Tổng thống Vladimir Putin không phải người hâm mộ vị tổng thống Liên Xô cuối cùng, Mikhail Gorbachev. Ông đổ lỗi cho Gorbachev vì đã làm suy yếu an ninh Nga và đề cập đến sự tan rã của Liên bang Xô viết trong những năm 1990 như “một thảm họa địa chính trị lớn của thế kỷ”.
Kể từ đó, người Nga lo lắng canh chừng trong khi NATO cứ từ từ lén đến gần, kết nạp thêm các nước mà Nga tuyên bố là các nước này đã từng hứa sẽ không tham gia: Séc, Hungary và Ba Lan vào năm 1999, Bulgaria, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania và Slovakia vào năm 2004 và Albania trong năm 2009. NATO nói rằng chẳng có một cam kết nào như vậy từng được đưa ra.
Nga, như mọi cường quốc khác, đang nghĩ cho một trăm năm tới và hiểu rằng trong khoảng thời gian đó, mọi thứ đều có thể xảy ra. Một thế kỷ trước, ai có thể đoán được là các lực lượng quân đội Hoa Kỳ sẽ đóng quân tại Ba Lan và các quốc gia vùng Baltic, cách Moscow chỉ vài trăm dặm? Đến năm 2004, mới mười lăm năm kể từ năm 1989, tất cả các thành viên cũ của Khối Hiệp ước Warsaw trước đây, trừ Nga, đều tham gia NATO hoặc Liên minh châu Âu.
Tâm trí của chính quyền Moscow nhờ đó mà đã được tập trung, và nhờ cả lịch sử của nước Nga nữa.
Nước Nga là một khái niệm khởi đầu từ thế kỷ 9 và là một liên bang lỏng lẻo của các bộ lạc Đông Slav được gọi là Rus Kiev, gốc gác tại Kiev và các thành thị khác dọc theo sông Dnieper, ngày nay thuộc Ukraine. Người Mông Cổ trong khi mở rộng đế quốc của họ, đã liên tục tấn công vùng đất này từ phía nam và phía đông, sau cùng tràn vào vùng đất này vào thế kỷ 13. Khi đó, nước Nga non trẻ được dời về hướng đông bắc, trong và xung quanh thành phố Moscow. Nước Nga sơ khai này, được gọi là Đại Công quốc Muscovy, không thể phòng thủ được. Không có núi, không có sa mạc chỉ có vài con song. Bốn bề đều là bình nguyên, và bên kia thảo nguyên ở phía nam
https://thuviensach.vn
và phía đông là người Mông Cổ. Kẻ xâm lược có thể tiến vào bất kỳ nơi nào họ chọn, và hầu như không có vị trí phòng thủ tự nhiên nào để đồn trú.
Xuất hiện Ivan Bạo Chúa, vị Sa Hoàng đầu tiên. Ông ta đã thực hiện khái niệm tấn công để phòng thủ - có nghĩa là bắt đầu sự bành trướng bằng cách củng cố ngay từ cứ địa của mình và hướng ra bên ngoài. Cách này sẽ dẫn tới sự vĩ đại. Đây là một con người đã chủ trương lý thuyết cho rằng cá nhân có thể thay đổi lịch sử. Nếu không có nhân vật kết hợp cả tính tàn nhẫn quyết liệt và có tầm nhìn này, lịch sử Nga đã rất khác với ngày nay.
Nước Nga non trẻ bắt đầu bành trướng từ từ dưới thời ông nội của Ivan, tức Ivan Đại đế, nhưng sự bành - trướng này đã tăng tốc sau khi Ivan trẻ lên nắm quyền năm 1533. Nga xâm lấn về phía đông đến dãy Ural, về phía nam đến biển Caspi và phía bắc tiến đến vành đai Bắc cực. Nga tiếp cận được biển Caspi, sau đó là biển Đen, do vậy nó tận dụng lợi thế của dãy Caucasus làm thành rào cản một phân giữa nó và Mông Cổ. Một căn cứ quân sự được xây dựng ở Chechnya nhằm ngăn chặn bất kỳ kẻ nào lăm le tấn công, dù là những đoàn kỵ binh thiện nghệ của Mông Cổ, của Đế chế Ottoman hay của người Ba Tư.
Tuy có vài thất bại, nhưng trong thế kỷ tiếp theo, Nga đã vượt qua dãy Ural và tiến dần vào Siberia, cuối cùng sáp nhập toàn bộ dải đất đến bờ Thái Bình Dương xa tít về phía đông. Giờ đây, người Nga đã có một vùng đệm không hoàn chỉnh và một vùng nội địa - có chiều sâu chiến lược – một nơi nào đó có thể rút về trong trường hợp bị xâm lấn. Sẽ không có ai tấn công họ bằng vũ lực từ Bắc Băng Dương, cũng không có ai cố vượt qua dãy Ural để đến vùng đất của họ. Dải đất của họ đang trở thành nước Nga như chúng ta biết hiện nay, và để đến được nơi đó từ phía nam hay đông nam, bạn phải có một đội quân khổng lồ, một đường tiếp vận hậu cần rất dài và phải chiến đấu để vượt qua nhiều cứ điểm phòng ngự.
https://thuviensach.vn
Vào thế kỷ 18, dưới thời Peter Đại đế, người đã sáng lập Đế chế Nga vào năm 1721, và sau đó là Nữ hoàng Catherine Đại đế, nước Nga nhìn về hướng tây, mở rộng đế chế thành một trong những thế lực lớn của châu Âu, được thôi thúc chủ yếu bởi thương mại và chú nghĩa dân tộc. Một nước Nga an toàn hơn và hùng mạnh hơn giờ đây có đủ sức chiếm cứ Ukraine và vươn tay đến dãy Carpathian. Nó đã chiếm hầu hết những gì mà ngày nay chúng ta gọi là các quốc gia vùng Baltic - Lithuania, Latvia và Estonia. Do đó, nó được che chở khỏi bất kỳ cuộc đột nhập nào qua đường bộ, hoặc từ phía biển Baltic.
Giờ đây, Nga đã có một vành đai khổng lồ quây quanh Moscow, trung tâm của đất nước. Bắt đầu từ Bắc cực, vành đai này đi xuống vùng Baltic, qua Ukraine, rồi đến dãy Carpathian, biển Đen, Caucasus và Caspi, quay trở lại dãy Ural chạy dài đến Vành đai Bắc cực.
Trong thế kỷ 20, nước Nga cộng sản đã thành lập Liên bang Xô viết. Đằng sau lời hùng biện “Người lao động toàn thế giới liên hiệp lại”, Liên Xô rõ ràng chỉ đơn giản là Đế quốc Nga mà thôi. Sau Chiến tranh Thế giới II, nó trải dài từ Thái Bình Dương đến Berlin, từ Bắc cực đến biên giới Afghanistan - một siêu cường kinh tế; chính trị và quân sự, chỉ có Hoa Kỳ mới là đối thủ.
Nga là đất nước lớn nhất thế thế giới, kích cỡ gấp đôi Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc, gấp năm lần Ấn Độ, gấp hai mươi lăm lần Vương quốc Anh. Tuy nhiên, nó có dân số tương đối nhỏ, chỉ khoảng 144 triệu người, ít hơn cả Nigeria hoặc Pakistan. Mùa canh tác nông nghiệp ngắn và phải chật vật lắm Nga mới phân phối tương đối thỏa đáng hoa màu thu hoạch cho vùng đất trải dài mười một múi giờ mà Moscow cai quản.
Nga, cho tới chân dãy Ural, là một cường quốc châu Âu trong chừng mực nó tiếp giáp với đại lục châu Âu, nhưng nó không phải là một cường quốc châu Á mặc dù có chung đường biên giới với Kazakhstan, Mông Cổ,
https://thuviensach.vn
Trung Quốc và Bắc Triều Tiên và có chung hải giới với một số nước bao gồm Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Cựu ứng cử viên phó tổng thống Hoa Kỳ, Sarah Palin từng bị chế giễu khi báo chí đưa tin bà nói rằng “Bạn thực sự có thể nhìn thấy nước Nga từ vùng đất này ở Alaska”, một câu nói bị bóp méo bởi cách đưa tin của truyền thông thành “Bạn có thể nhìn thấy nước Nga từ cửa nhà tôi”. Điều bà thực sự đã nói là, “Bạn có thể thấy nước Nga từ dải đất này của Alaska, từ một hòn đảo tại Alaska”. Bà đã nói đúng. Một hòn đảo Nga trong eo biển Bering cách một hòn đảo của Hoa Kỳ, đảo Little Diomede, chỉ có hai dặm rưỡi và có thể quan sát bằng mắt thường. Bạn thực sự có thể nhìn thấy nước Nga từ Hoa Kỳ.
Cao trên đỉnh núi trong dãy Ural có một cây thập giá đánh dấu nơi mà châu Âu dừng lại và châu Á bắt đầu. Khi bầu trời quang đãng, đó là một nơi tuyệt đẹp và bạn có thể vươn tầm mắt qua những rừng thông trải dài nhiều dặm về phía đông. Vào mùa đông, tuyết bao phủ khắp nơi, cũng như bình nguyên Siberia bạn nhìn thấy dưới chân trải dài về phía thành phố Yekaterinburg. Khách du lịch thích đến thăm nơi này để được đặt một chân ở châu Âu và một chân ở châu Á. Cây thập tự đó là thứ để nhắc bạn nhớ rằng nước Nga rộng lớn thế nào khi bạn biết nơi đặt nó chỉ là một phần tư quãng đường đi ngang qua đất nước này. Bạn có thể đã đi 1.500 dặm từ Saint Petersburg, xuyên qua miền tây nước Nga, để đến được dãy Ural này, nhưng bạn còn phải đi 4.500 dặm nữa trước khi đến được eo biển Bering, để có thể trông thấy bà Palin, ở phía đối diện, là Alaska thuộc Hoa Kỳ.
Chẳng bao lâu sau khi Liên Xô sụp đổ, tôi đã đến Ural, tại điểm mốc nơi châu Âu trở thành châu Á, dẫn theo một tổ quay phim người Nga. Người quay phim là một cựu binh trong nghề làm phim, tóc hoa râm, lầm lì, khắc kỷ, và là con trai của một người quay phim của Hồng Quân, đã từng quay rất nhiều thước phim trong cuộc vây hãm Stalingrad của người Đức. lôi hỏi
https://thuviensach.vn
ông, “Vậy ông là người châu Âu hay là người châu Á?” Ông nghĩ vài giây, rồi trả lời, “Đều không phải - tôi là người Nga“.
Vì nhiều lý do, Nga không phải là một thế lực châu Á, bất kể đặc tính Âu châu của nước này là nhiều hay ít. Mặc dù 75% lãnh thổ của nó nằm ở châu Á, nhưng chỉ có 22% dân sống tại đó. Siberia có thể là: “chiếc rương báu vật” của nước Nga, chứa đựng phần lớn tài nguyên khoáng sản, dầu khí, nhưng đó là một vùng đất khắc nghiệt, đóng băng hàng tháng liền, với những khu rừng bạt ngàn (rừng taiga), đất đai quá cằn cỗi không thể canh tác và những vùng đầm lầy rộng lớn. Chỉ có hai mạng lưới đường sắt chạy từ tây sang đông - Tuyến đường Xuyên Siberia và Tuyến đường Baikal Amur. Chỉ có vài tuyến đường vận chuyển bắc nam và do đó không có cách nào dễ dàng để Nga phát huy quyền lực của mình về phía nam tới Mông Cổ hoặc Trung Quốc hiện đại: họ thiếu nguồn nhân lực và: đường tiếp vận để làm điều đó.
Trung Quốc cũng rất có thể kiểm soát được một phần của Siberia trong tương lai xa, nhưng điều này có thể nhờ vào tỉ lệ sinh đẻ của nước Nga giảm và dân Trung Quốc di cư lên phía bắc. Ngay hiện giờ, xa về phía tây đến tận Siberia lầy lội, giữa dãy Ural ở phía tây và sông Yenisei cách một ngàn dặm về phía đông, bạn cũng có thể bắt gặp các nhà hàng Trung Quốc trong hầu hết các thị trấn và thành phố. Đang có thêm nhiều doanh nghiệp khác nhau tràn đến những không gian thưa thớt dân cư của vùng Viễn Đông của Nga thậm chí càng có nhiều khả năng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc hơn, và rốt cuộc là theo sự kiểm soát chính trị của họ.
Bên ngoài miền đất trung tâm của Nga, phần lớn dân số của Liên bang Nga không thuộc sắc tộc Nga và chẳng mấy trung thành với Moscow, dẫn đến một hệ thống an ninh khắt khe tương tự như thời kỳ Liên bang Xô viết. Trong thời kỳ đó, Nga thực tế là một thế lực thực dân cai trị các quốc gia và các dân tộc mà họ cảm thấy mình không có gì chung với những ông chú của
https://thuviensach.vn
họ; các bộ phận của Liên bang Nga - ví dụ như Chechnya và Dagestan ở vùng Caucasus - vẫn giữ cảm nhận ấy cho tới nay.
Vào cuối thế kỷ trước, do căng mình quá sức, chỉ tiêu nhiều hơn lượng tiền kiếm được, nền kinh tế của ngôi nhà thương điên trên một vùng đất không dành cho con người và thất bại ở vùng núi non Afghanistan, tất cả đã dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và chứng kiến Đế quốc Nga ít nhiều co rút về hình dạng của thời kỳ tiền cộng sản, với biên giới phía châu Âu kết thúc ở Estonia, Latvia, Belarus, Ukraine, Georgia và Azerbaijan. Cuộc xâm lược của Liên Xô vào Afghanistan năm 1979, nhằm hỗ trợ chính phủ cộng sản Afghanistan chống lại du kích quân Hồi giáo chống cộng sản, chưa bao giờ nhằm đem lại những niềm hân hoan của chủ nghĩa Marx-Lenin cho người dân Afghanistan. Mục đích của nó vẫn luôn nhằm đảm bảo cho Moscow quyền kiểm soát không gian này để ngăn chặn bất kỳ thế lực nào khác làm điều tương tự:
Điều quan trọng là cuộc xâm chiếm Afghanistan còn đem lại hy vọng cho giấc mơ Nga vĩ đại rằng quân đội của họ có thể “giặt ủng trong làn nước ấm áp của Ấn Độ Dương” - theo lời của chính trị gia Nga theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Vladimir Zhirinovsky - và nhờ đó đạt được một thứ Nga chưa bao giờ có: một hải cảng nước ấm không bị đóng băng vào mùa đông, cho phép tự do tiếp cận các tuyến thương mại chủ chốt của thế giới. Các hải cảng trên Bắc cực, như Murmansk, đóng băng vài tháng mỗi năm: Vladivostok, cảng lớn nhất của Nga ở Thái Bình Dương, bị đóng băng trong khoảng bốn tháng và bao quanh là biển Nhật Bản, vốn là vùng biển người Nhật chỉ phối. Điều này không chỉ làm ngưng trệ dòng chảy thương mại; nó còn ngăn chặn hạm đội Nga hoạt động như một thế lực toàn cầu. Ngoài ra, vận tải đường thủy rẻ hơn nhiều so với đường bộ hoặc đường không. Tuy nhiên, giấc mơ về những tuyến đường biển nước ấm mở ra đại dương đã tuột dần khỏi tay nước Nga, và nay có lẽ còn xa vời hơn so với 200 năm về trước. Trải nghiệm Afghanistan đôi khi còn được gọi là “Cuộc chiến Việt Nam của Nga”. Nhưng còn hơn thế nữa, những đồng bằng Kandahar, và
https://thuviensach.vn
vùng núi non Hindu Kush là chứng minh cho cái quy luật nói rằng Afghanistan là “Mồ chôn của các đế chế”.
Việc thiếu một hải cảng nước ấm có lối ra trực tiếp với các đại dương luôn là gót chân Achilles của nước Nga, nó hệ trọng về mặt chiến lược không kém gì Đồng bằng Bắc Âu. Nga đang ở trong tình trạng bất lợi về mặt địa lý, chỉ nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt nó mới thoát khỏi vị thế một thế lực yếu ớt hơn nhiều. Không ngạc nhiên khi Peter Đại đế, theo di chúc của ông năm 1725, khuyên các con “tiếp cận càng gần Constantinople và Ấn Độ càng tốt. Bất cứ kẻ nào nắm quyền cai trị ở đó sẽ là bá chủ thực sự của thế giới. Do đó, liên tục kích động chiến tranh, không chỉ ở Thổ Nhĩ Kỳ, mà còn ở Ba Tư... Xâm nhập vịnh Ba Tư, tiến đến Ấn Độ”.
Khi tan rã, Liên bang Xô viết phân chia thành mười lăm quốc gia. Địa lý đã trả được mối hận với ý thức hệ Xô viết. Bản đồ Nga tái hiện một hình ảnh hợp lý hơn, trong đó núi, sông, hồ và biển phác họa địa phận mỗi dân tộc, cư trú riêng rẽ với nhau, và từ đó họ phát triển ngôn ngữ và phong tục khác nhau như thế nào. Một ngoại lệ đối với quy tắc này là các quốc gia “stan”, ví dụ Tajikistan, biên giới của các quốc gia này bị Stalin vẽ ra đầy dụng ý, nhằm làm suy yếu họ bằng cách đảm bảo mỗi quốc gia đều có nhiều người thiểu số đến từ các quốc gia khác.
Nếu bạn nhìn suốt một thời kỳ dài của lịch sử - mà hầu hết các nhà ngoại giao và các nhà hoạch định quân sự đều làm như vậy - thì vẫn có đủ mọi lá bài để chơi cho mỗi một quốc gia vốn trước đây cấu thành Liên bang Xô viết, thêm vào vài thứ khác vốn trước đây thuộc Khối Hiệp ước quân sự Warsaw. Họ có thể được chia thành ba nhóm: nhóm quốc gia trung lập, nhóm thân phương Tây và nhóm thân Nga.
Các quốc gia trung lập - Uzbekistan, Azerbaijan và Turkmenistan – là những nước có ít lý do để liên minh với Nga và phương Tây. Đó là vì cả ba
https://thuviensach.vn
quốc gia này đều tự sản xuất năng lượng và không phải nhờ vào phe nào để đảm bảo cho an ninh hoặc thương mại của họ.
Nhóm các nước thân Nga gồm Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Belarus và Armenia: Nền kinh của các nước này gắn liền với Nga giống như phần lớn nền kinh tế của Đông Ukraine thuộc vào Nga (một lý do nữa cho cuộc nổi dậy ở đó). Quốc gia lớn nhất trong số này, Kazakhstan, dựa dẫm vào Nga về mặt ngoại giao, và nhóm dân cư thiểu số thuộc sắc tộc Nga của nước này khá lớn và đã được hòa nhập chặt chẽ vào xã hội Kazakhstan. Năm quốc gia này, ngoại trừ Tajikistan đã tham gia cùng Liên bang Nga trong Liên minh kinh tế Á-Âu mới (một kiểu tổ chức Liên minh châu Âu của các nước nghèo), lần đầu kỷ niệm ngày thành lập vào tháng Một năm 2016. Và cả năm nước đều nằm trong liên minh quân sự với Nga gọi là tổ chức liên minh quân sự tập thể (Collective Security Treaty Organization – CSTO). CSTO loay hoay trầy trật bởi một cái tên không thể thu gọn thành một từ, và bởi bản chất của một khối Warsaw bị hạ cấp. Nga vẫn duy trì sự hiện diện quân sự tại Kyrgyzstan, Tajikistan, Armenia.
Sau cùng là những quốc gia thân phương Tây, trước đây họ nằm trong khối hiệp ước Warsaw, nhưng nay tất cả đều đã gia nhập vào NATO và Liên minh châu Âu: Balan, Latvia, Lithuania, Estonia, Séc, Bulgaria,
Hungary, Slovakia, Albania và Romania. Không phải trùng hợp ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia trong số này là những nước từng bị ảnh hưởng nặng nề nhất dưới chế độ chuyên quyền Liên Xô. Cộng thêm Georgia, Ukraine và Moldova, đều muốn tham gia vào cả hai tổ chức trên nhưng đang bị giữ ngoài tầm tay do nằm sát Nga về địa lý và do cả ba đều có quân đội Nga hoặc quân của phe thân Nga trên đất của họ. Việc bất kỳ quốc gia nào trong số này trở thành thành viên của NATO có thể là môi lửa cho một cuộc chiến tranh.
https://thuviensach.vn
Tất cả những điều kể trên giải thích tại sao, trong năm 2013, khi cuộc đấu đá chính trị về phương hướng của Ukraine ngày càng sôi sục, Moscow đã trở nên quyết liệt.
Chừng nào một chính phủ thân Nga còn nắm quyền tại Kiev, người Nga vẫn có thể tự tin rằng khu vực đệm của họ vẫn còn nguyên vẹn và được canh giữ cho đồng bằng Bắc Âu. Họ cũng có thể chấp nhận ngay cả một nước Ukraine trung lập có tính toán, nếu hứa không gia nhập Liên minh châu Âu (EU) hay NATO và duy trì hợp đồng cho Nga thuê dài hạn cảng nước ấm Sevastopol ở Crimea. Việc Ukraine phụ thuộc vào Nga về nguồn năng lượng.cũng khiến cho lập trường ngày càng trung lập là điều có thể chấp nhận được, cho dù có gây khó chịu. Nhưng một Ukraine thân phương Tây với tham vọng gia nhập vào hai liên minh phương Tây khổng lồ, và đe dọa quyền tiếp cận của Nga vào cảng biển Đen của họ ư? Một Ukraine ngày nào đó thậm chí còn có thể là nhà của một căn cứ hải quân NATO ư? Điều đó không thể chấp nhận được.
Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych đã cố bắt cá hai tay. Ông tán tỉnh phương Tây, nhưng thần phục Moscow - vì thế Putin đã khoan dung với ông. Khi ông gần như sắp ký một hiệp định thương mại lớn với EU, một hiệp định có thể dẫn đến tấm thẻ thành viên, Putin bắt đầu quay sang gây sức ép.
Với giới tinh hoa về chính sách đối ngoại của Nga, tư cách thành viên EU chỉ đơn giản là cái vỏ bọc cho tư cách thành viên NATO, và với nước Nga, việc Ukraine có tư cách thành viên NATO chính là một lằn ranh đỏ. Putin gây sức ép lớn lên Yanukovych, đưa cho ông ấy một lựa chọn không thể chối từ, thế là vị tổng thống Ukraine chuồn khỏi thỏa thuận với EU và ký một hiệp ước với Moscow, do đó châm ngòi cho những sự phản kháng mà kết cuộc là ông bị lật đổ.
https://thuviensach.vn
Người Đức và người Mỹ chống lưng cho các đảng đối lập, cụ thể là Berlin coi chính trị gia cựu vô địch quyền Anh thế giới Vitali Klitschko là người của họ. Phương Tây lôi kéo Ukraine về phía họ cả về tri thức cũng như kinh tế khi giúp phe thân Tây Âu ở Ukraine ngả thêm về phía tây bằng cách đào tạo và tài trợ cho một số nhóm dân chủ đối lập.
Cuộc chiến đường phố bùng nổ ở Kiev và các cuộc biểu tình lan rộng trên khắp đất nước. Tại miền đông Ukraine, đám đông xuống đường để ủng hộ Tổng Thống trong khi tại miền Tây, ở các thành phố như Lviv (trước đây thuộc Ba Lan), đang loay hoay cố thoát khỏi bất kỳ ảnh hưởng nào của phe thân Nga.
Vào giữa tháng Hai năm 2014, chính phủ không còn kiểm soát được Lviv và các vùng đô thị khác nữa. Sau đó, vào ngày 22 tháng Hai, sau khi hàng chục người bị giết tại Kiev, Tổng thống lo sợ cho mạng sống của mình đã bỏ chạy. Các phe chống Nga, trong đó một số thân phương Tây và một số ủng hộ chủ nghĩa phát xít, đã cướp chính quyền. Từ thời điểm đó hạt xúc xắc định mệnh đã được gieo xuống. Tổng thống Putin không có nhiều lựa chọn - ông ấy phải thôn tính Crimea. Tại đó không chỉ có nhiều người Ukraine nói tiếng Nga, mà quan trọng nhất là có cảng Sevastopol.
Nhu cầu khẩn thiết về địa lý này, và toàn bộ động thái dịch chuyển về phía đông của NATO, chính là điều mà ông Putin nghĩ đến, nên trong một bài phát biểu về cuộc thôn tính này, ông nói, “Nga đã rơi vào một vị thế mà họ không thể thoái lui. Nếu bạn nén chặt cái lò xo đến giới hạn của nó, nó sẽ bật trở lại dữ dội. Bạn phải luôn nhớ điều này.“
Sevastopol thực sự là cảng nước ấm trọng yếu duy nhất của nước Nga. Tuy nhiên, con đường thoát khỏi biển Đen và đi vào Địa Trung Hải bị hạn chế bởi Công ước Montreux năm 1936, nó trao quyền kiểm soát eo biển Bosporus cho Thổ Nhĩ Kỳ - nước hiện là thành viên NATO. Các tàu hải quân Nga có thể vượt qua eo biển, nhưng với số lượng hạn chế, và điều này
https://thuviensach.vn
sẽ không được phép trong trường hợp có xung đột. Thậm chí sau khi vượt qua eo Bosphorus, người Nga còn phải tìm đường qua biển Aegean trước khi vào Địa Trung Hải, và còn phải vượt qua eo Gibraltar để vào Đại Tây Dương, hoặc xin phép xuôi theo kênh đào Suez để đến Ấn Độ Dương.
Nga có một căn cứ hải quân nhỏ tại Tartus trên bờ biển Địa Trung Hải thuộc Syria (điều này phần nào giải thích sự ủng hộ của họ đối với chính phủ Syria khi xung đột nổ ra vào năm 2011), nhưng đó chỉ là một cơ sở tiếp liệu và hậu cần hạn chế, chứ không phải là một căn cứ quân sự quan trọng.
Sau khi sáp nhập Crimea, người Nga không lãng phí thời gian. Họ đang xây dựng hạm đội biển Đen tại Sevastopol và xây dựng một quân cảng mới ở thành phố Novorossiysk của Nga, dù không phải là một bến cảng nước sâu tự nhiên, nhưng nó sẽ bổ sung năng lực cho người Nga. Tám mươi tàu chiến mới được đưa biên chế cùng một số tàu ngầm. Hạm đội vẫn còn chưa đủ mạnh để đột phá ra biển Đen trong thời chiến, nhưng năng lực của nó ngày càng tăng. Vào tháng 7 năm 2015, Nga công bố học thuyết hải quân mới của mình và trong đó, ngay trong đầu danh sách các mối đe dọa lợi ích của Nga là NATO. Nó gọi việc bố trí quân đội và trang thiết bị quân sự của NATO gần biên giới nước Nga là không thể chấp nhận được, đó là tóm tắt về cuộc khẩu chiến.
Để đối phó với vấn đề này, trong thập niên tiếp theo, chúng ta có thể sẽ thấy Hoa Kỳ khuyến khích đối tác NATO của họ là Romania tăng cường hạm đội trên biển Đen trong khi vẫn dựa vào Thổ Nhĩ Kỳ để kiểm soát tuyến đường qua eo biển Bosphorus.
Crimea từng là một phần của nước Nga suốt hai thế kỷ, trước khi được Khrushchev tặng cho Cộng hòa Xô viết Ukraine vào năm 1954, tại thời điểm mà người ta tưởng Liên Xô sẽ tồn tại mãi mãi và do đó Crimea sẽ vĩnh viễn nằm dưới tầm kiểm soát của Moscow. Giờ đây, Ukraine không thuộc về Nga, thậm chí không thuộc về phe thân Nga, Putin hiểu rằng tình hình đã
https://thuviensach.vn
thay đổi. Các nhà ngoại giao phương Tây có hiểu được điều này không? Nếu không, tức là họ đã không hiểu gì về Quy tắc A, Bài Một, trong giáo trình Ngoại giao Nhập môn: khi đối mặt với một điều được coi là mối đe dọa sống còn, một cường quốc sẽ sử dụng vũ lực. Còn nếu họ hiểu, thì họ phải coi việc Putin sáp nhập Crimea là giá tương xứng phải trả cho việc lôi kéo Ukraine vào châu Âu hiện đại và vào không gian chịu ảnh hưởng của phương Tây.
Một cách nhìn thoáng hơn là Hoa Kỳ và châu Âu nóng lòng chào đón Ukraine gia nhập vào thế giới dân chủ với tư cách thành viên chính thức của các thiết chế tự do và pháp quyền của mình, và Moscow không thể làm gì chống lại điều đó. Đó là quan điểm không tính đến thực tế rằng địa chính trị vẫn còn tồn tại ở thế kỉ 21, và Nga không chơi trò pháp quyền.
Hừng hực khí thế chiến thắng, chính phủ lâm thời mới thành lập của Ukraine đã ngay lập tức đưa ra một số tuyên bố ngớ ngẩn, chí ít là ý định bãi bỏ tiếng Nga như ngôn ngữ chính thức thứ hai ở các khu vực khác nhau. Vì các khu vực này vốn có nhiều người nói tiếng Nga và có cảm tình với Nga, và thực tế bao gồm cả Crimea, điều đó chắc chắn châm ngòi cho sự phản ứng dữ dội. Nó cũng trao cho Tổng thống Putin sự tuyên truyền ông cần có để lập luận rằng dân gốc Nga tại Ukraine cần được bảo vệ. Kremlin có một đạo luật bắt buộc chính phủ phải bảo vệ “người sắc tộc Nga”. Khó có thể định nghĩa cụ thể về thuật ngữ đó, bởi với cách nói như thế nó có thể được định nghĩa theo bất kỳ cách nào mà Nga cảm thấy phù hợp với mỗi cuộc khủng hoảng tiềm tàng có thể bùng phát trong Liên Xô cũ. Khi thấy thích hợp, “sắc tộc Nga“ sẽ được Kremlin định nghĩa đơn giản là những người sử dụng tiếng Nga như ngôn ngữ thứ nhất. Tại một thời điểm khác, luật về quyền công dân mới sẽ được áp dụng, nó nói rằng nếu ông bà của bạn sống ở Nga, và tiếng Nga là bản ngữ của bạn, thì bạn có thể được nhận quyền công dân Nga. Do đó, khi khủng hoảng nảy sinh, người dân sẽ có xu hướng chấp nhận hộ chiếu Nga để phòng hờ, và đó chính là đòn bẩy cho sự xâm nhập của Nga vào cuộc xung đột.
https://thuviensach.vn
Khoảng 60% dân số của Crimea thuộc “sắc tộc Nga”, vậy là Kremlin chỉ việc bước qua một cánh cửa đã mở. Putin hỗ trợ các cuộc biểu tình chống Kiev, và khuấy động cho tình hình thêm náo loạn đến mức sau cùng ông ta “phải” phái quân đội của mình ra khỏi ranh giới của căn cứ hải quân và xuống đường phố để bảo vệ người dân. Quân đội Ukraine trong khu vực này không đủ sức để chống lại cả nhân dân và quân đội Nga, và họ nhanh chóng rút lui. Crimea một lần nữa de facto (trên thực tế) lại thuộc về Nga.
Bạn có thể lập luận rằng Tổng thống Putin có một sự lựa chọn: ông ấy có thể tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Nhưng vì ông ấy đang chơi quân bài địa lý mà Thiên Chúa đã chia cho nước Nga, nên điều này chưa bao giờ thực sự là một lựa chọn của Putin. Ông ấy sẽ không phải là người “làm mất Crimea“”, và cùng với nó là cảng nước ấm thích hợp duy nhất mà đất nước ông có quyền tiếp cận.
Không ai nhào tới giải cứu Ukraine khi họ mất một phần lãnh thổ tương đương với kích thước của Bỉ, hoặc bang Maryland của Hoa Kỳ. Ukraine và các nước láng giềng biết một sự thật về địa lý rằng: trừ phi bạn nằm trong NATO, còn không thì Moscow ở gần, mà Washington DC lại rất xa. Với Nga, đây là một vấn đề sống còn: họ không thể chấp nhận để mất Crimea, nhưng phương Tây thì có thể.
- EU áp đặt các lệnh trừng phạt hạn chế - hạn chế là một số nước châu Âu, trong đó có Đức, phụ thuộc năng lượng của Nga để sưởi ấm các ngôi nhà của họ vào mùa đông. Các đường ống dẫn chạy từ đông sang tây và Kremlin có thể mở hoặc đóng những cái van của đường ống.
Năng lượng như một quyền lực chính trị sẽ còn được triển khai nhiều lần trong những năm tới, và khái niệm: “người sắc tộc Nga” sẽ được sử dụng để biện minh cho bất cứ động thái nào của Nga.
https://thuviensach.vn
Trong một bài phát biểu năm 2014, Tổng thống Putin đã nhắc đến “Novorossiya” hay “Nước Nga mới”. Những người theo dõi điện Kremlin phải hít một hơi thật sâu. Ông ấy đã làm sống lại cái địa danh dành cho các vùng đất hiện là miền Nam và miền Đông Ukraine, các vùng đất mà Nga đã giành được từ tay Đế chế Ottoman dưới triều đại Nữ hoàng Catherine Đại đế vào cuối thế kỷ 18. Catherine tiếp tục đưa người Nga định cư ở những khu vực này và yêu cầu tiếng Nga phải là ngôn ngữ thứ nhất. “Novorossiya” chỉ được nhượng lại cho nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine mới thành lập, vào năm 1922. “Tại sao?” Putin đặt câu hỏi tu từ, “Hãy để Thiên Chúa phán xét họ”. Trong bài phát biểu của mình ông ấy đã liệt kê các vùng đất thuộc Ukraine gồm Kharkiv, Luhansk, Donetsk, Kherson, Mykolaiv và Odessa trước khi nói, “Nga đã mất những lãnh thổ này vì nhiều lý do, nhưng ở đó vẫn còn có nhân dân”.
Mấy triệu người thuộc sắc dân Nga vẫn còn nằm trong vùng thuộc Liên Xô cũ, nhưng nằm ngoài nước Nga.
Không có gì ngạc nhiên, sau khi chiếm Crimea, Nga tiếp tục khuyến khích các cuộc nổi dậy của những phe thân Nga tại các trung tâm công nghiệp phía đông Ukraine ở Luhansk và Donetsk. Nga có thể dễ dàng đưa quân đến bờ phía đông của sông Dnieper tại Kiev. Nhưng họ không cần phải nhức đầu về chuyện đó. Khuyến khích sự bất ổn ở biên giới phía đông của Ukraine và nhắc cho Kiev nhớ rằng ai thực sự kiểm soát nguồn cung cấp năng lượng, đó chính là cách ít đau đớn và ít tốn kém hơn nhiều, để đảm bảo rằng sự mê đắm của Kiev với phương Tây đàng điếm kia không biến thành một cuộc hôn nhân được hoàn tất trong phòng ngủ của EU hoặc NATO.
Việc ngấm ngầm hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở phía đông Ukraine cũng sẽ đơn giản về mặt hậu cần và còn dễ bề phủ nhận trên trường quốc tế. Việc trơ tráo nói dối trong phòng họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc quả là đơn giản nếu đối thủ không có bằng chứng mười mươi về hành động của bạn, và quan trọng hơn, không muốn có bằng chứng mười mươi nếu bằng
https://thuviensach.vn
chứng ấy buộc họ phải làm một điều gì đó để có nó. Nhiều chính trị gia phương Tây thở phào nhẹ nhõm và lầm bẩm, “Ơn Chúa, Ukraine không nằm trong NATO, nếu không chúng ta đã phải hành động.”
Việc sáp nhập Crimea cho thấy Nga sẵn sàng hành động quân sự như thế nào để bảo vệ những gì mà họ coi là lợi ích của mình trong vùng họ gọi là “ngoại vi” của mình. Họ phải một phen đấu trí để các thế lực bên ngoài Nga vẫn chưa xong việc với Ukraine, cũng như các nơi khác. Vùng Donbass, chiến sự vẫn lác đác tùy lúc. Một vụ bộc phát bạo lực tại đó vào mùa hè năm 2017 gây thiệt mạng cho một số binh lính Ukraine, khiến Hoa Kỳ phải cân nhắc tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraine, và Nga thực hiện các cuộc tập trận lớn trên biên giới Ukraine.
Trừ phi cảm thấy bị đe dọa, Nga có thế sẽ không phái quân đội của mình vào các nước vùng Baltic, hoặc tiến xa hơn hiện nay tại Georgia; nhưng Nga sẽ gia tăng quyền lực của mình tại Georgia, và trong thời kỳ biến động này, không thể loại trừ khả năng xảy ra hành động quân sự xa hơn.
Tuy nhiên, cũng như các hành động của Nga trong cuộc chiến với Georgia năm 2008 từng là lời cảnh báo để NATO không tiến đến gần hơn, thông điệp của NATO gửi đến Nga vào mùa hè năm 2014 là “Bấy nhiêu về phía tây là đủ và đừng xa hơn nữa”. Một vài chiến đấu cơ của NATO đã bay tới các quốc gia vùng Baltic, các cuộc tập linh đã được công bố ở Ba Lan, và Hoa Kỳ bắt đầu lên kế hoạch “bố trí sẵn” các phần cứng quân sự ở càng gần Nga càng tốt. Đồng thời, bộ trưởng Quốc phòng và ngoại trưởng cũng có những chuyến viếng thăm ngoại giao bất ngờ đến các quốc gia vùng Baltic, Georgia và Moldova để khẳng định sự hậu thuẫn của NATO đối với họ.
Một số nhà bình luận đã lên tiếng dè bỉu phản ứng này, lập luận rằng sáu chiến đấu cơ phản lực Eurofighter Typhoon của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh bay trên không phận Baltic khó có thể cản trở người Nga. Tuy nhiên, phản ứng này là một tín hiệu ngoại giao, và tín hiệu có ý nghĩa rõ
https://thuviensach.vn
ràng - NATO sẵn sàng chiến đấu Quả thực họ sẽ phải sẵn sàng, bởi vì nếu họ không phản ứng trước một cuộc tấn công vào một quốc gia thành viên, họ sẽ lập tức bị coi là thứ bỏ đi. Hoa Kỳ - kẻ đã và đang tiến dần đến một chính sách đối ngoại mới theo đó họ cảm thấy ít bị gò bó trong các cơ cấu hiện tại và sẵn sàng dựng nên những cơ cấu mới khi nhận thức điều đó là cần thiết - vẫn chẳng mấy ấn tượng với cam kết về ngân sách quốc phòng của các quốc gia châu Âu. Trong vai trò một ứng cử viên tổng thống, Donald Trump đã gợi ý rằng NATO là “phế phẩm”; khi trở thành tổng thống, vào mùa xuân năm 2017, ông ấy đã đảo ngược lời phát biểu này, nhưng rõ ràng Trump muốn chọc tức các quốc gia NATO khác, và đã có một sự gia tăng nhỏ trong chỉ tiêu quốc phòng của một vài thành viên2.
Tổng thống Trump cũng không thể làm rõ liệu Hoa Kỳ sẽ tự động tới giúp đỡ một đồng minh NATO chiến hữu của mình hay không, nhưng một lần nữa, khi những thực tế và những rắc rối về quốc phòng, chiến tranh, tuyên truyền vận động và địa chính trị trở nên rõ ràng, thì sau cùng Trump đã cam kết theo Điều 5 của NATO vào mùa xuân năm 2017. Với trường hợp ba nước vùng Baltic, quan điểm của NATO tất rõ ràng. Vì cả ba nước đều là thành viên NATO, việc Nga xâm lược vũ trang vào bất kỳ nước nào sẽ kích hoạt Điều 5 của Hiệp ước thành lập NATO, trong đó nêu rõ: “Một cuộc tấn công vũ trang chống lại một hoặc nhiều quốc gia [thành viên NATO] tại châu Âu hay Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các thành viên”, và nói thêm rằng NATO sẽ đến giải cứu nếu cần thiết. Điều 5 đã từng được viện dẫn trong các cuộc tấn công chống khủng bố của Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, mở đường cho sự can thiệp của NATO vào Afghanistan.
Tổng thống Putin là người luôn quan tâm đến lịch sử. Ông ý tỏ ra đã học những bài học của thời kỳ Liên Xô, trong đó Nga đã quá căng sức và buộc phải chùng lại. Một cuộc tấn công công khai vào các quốc gia vùng Baltic cũng là một hành động quá căng sức và không có khả năng xảy ra. Nhất là khi NATO và các bậc thầy chính trị của nó biết rõ Putin đã hiểu tín
https://thuviensach.vn
hiệu của họ. Nhưng vào năm 2016, tổng thống Nga đã phát đi tín hiệu riêng của mình. Ông đã đổi lời lẽ trong tài liệu học thuyết chiến lược quân sự tổng thể của Nga và đi xa hơn so với các báo cáo nghiên cứu chiến lược hải quân 2015: lần đầu tiên, Hoa Kỳ được gọi là “mối đe dọa từ bên ngoài” đối với Nga.
Nga không cần phải đưa một sư đoàn thiết giáp vào Latvia, Lithuania hay Estonia để gây ảnh hưởng đến các sự kiện ở đó, nhưng nếu có làm vậy, Nga vẫn có thể biện minh cho hành động của mình bằng cách tuyên bố rằng các cộng đồng lớn người Nga tại đó đang bị phân biệt đối xử. Trong cả hai quốc gia Estonia và Latvia, khoảng một phần tư dân số thuộc sắc tộc Nga, và tại Lithuania là 5,8%. Tại Estonia, những phát ngôn viên của cộng đồng Nga nói rằng họ có ít đại diện trong chính phủ và hàng ngàn người không có bất kỳ một thứ giấy tờ công dân nào. Điều này không có nghĩa là họ muốn trở thành một phần của Nga, nhưng họ là một trong những đòn bẩy mà Nga có thể sử dụng để gây ảnh hưởng đến các sự kiện.
Các cộng đồng dân cư nói tiếng Nga tại các nước Baltic có thể bị khuấy động để khiến cho cuộc sống trở nên khó khăn. Hiện có rất nhiều đảng phái chính trị được thành lập đầy đủ, đang tồn tại và đại diện cho nhiều người trong cộng đồng nói tiếng Nga. Nga cũng kiểm soát hệ thống sưởi ấm trung tâm trong nhà của người dân vùng Baltic. Nga cũng ấn định mức giá người dân phải trả cho hóa đơn khí đốt tiêu thụ để sưởi ấm mỗi tháng, và nếu muốn Nga cứ việc tắt hệ thống đó đi.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Một số quốc gia từng là thành viên của Liên bang Xô viết trước đây mong muốn thắt chặt quan hệ hơn với châu Âu, nhưng tại một số khu vực nhất định, như vùng Transnistria ở Moldova, vẫn còn rất thân Nga, và tiềm tàng nguy cơ xung đột trong tương lai.
Nga sẽ tiếp tục thúc đẩy lợi ích của mình tại các quốc gia vùng Baltic. Các nước này là một trong những mắt xích yếu trong chuỗi phòng thủ của Nga kể từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ, một lỗ thủng khác trên bức tường thành mà họ muốn chứng kiến sẽ tạo thành một vòng cung từ biển Baltic, chạy về phía nam, sau đó về phía đông nam nối với dãy Ural.
Điều này đưa chúng ta đến một khe hở khác trên bức tường thành và một khu vực khác Moscow xem như là một vùng đệm tiềm năng. Luôn nằm trong tầm ngắm của Kremlin là Moldova.
Moldova trình ra như một vấn đề khác biệt cho tất cả các bên. Một cuộc tấn công của Nga vào Moldova nhất thiết phải đi qua Ukraine, qua sông Dnieper và rồi vượt qua biên giới quốc gia khác đề vào Moldova. Điều đó có thể được thực hiện - với tổn thất sinh mạng đáng kể và bằng cách sử dụng Odessa làm điểm tập trung quân - nhưng sẽ không còn khả năng phủ nhận [hành động xâm lược]. Mặc dù điều này sẽ không kích động chiến tranh với NATO (Moldova không phải là thành viên của NATO) nhưng nó sẽ dẫn tới các biện pháp trừng phạt đối với Moscow ở mức độ chưa từng thấy, và xác nhận những gì mà người viết tin là đã và đang xảy ra, rằng mối quan hệ đang nguội lạnh giữa Nga và phương Tây đã trở thành một cuộc chiến tranh lạnh mới. Việc Donald Trump lên nắm quyền đã khiến một số nhà phân tích đồn đoán Nga tin rằng họ có thể đã được “bật đèn xanh“ để hành động xa hơn nữa tại Ukraine. Tuy nhiên chỉ vài tuần sau khi nhậm chức, bộ trưởng Quốc phòng và ngoại trưởng Hoa Kỳ đã phát biểu một loạt những cảnh báo nhằm vào Moscow. Những phát biểu này cho thấy, mặc dù nhà trắng có thể tìm kiếm các mối quan hệ tốt đẹp hơn với Nga, thực tế địa
https://thuviensach.vn
chính trị đặt ra những giới hạn mà Moscow hẳn sẽ khôn ngoan không dám mạo hiểm.
Tại sao Nga muốn có Moldova? Bởi vì khi dãy núi Carpathian lượn vòng về hướng tây nam để trở thành dãy núi Transylvanian Alps, phía đông nam là đồng coi là một hành lang bằng phẳng dẫn vào nước Nga; và cũng y như Nga muốn kiểm soát đồng bằng Bắc Âu tại mũi nhọn của nó ở Ba Lan, họ muốn kiểm soát vùng đồng bằng bên bờ biển Đen - còn được gọi là Moldova - trong vùng đất trước đây là Bessarabia.
Sau Chiến tranh Crimea (giữa Nga và các đồng minh Tây Âu bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman khỏi Nga), Hiệp ước Paris năm 1856 đã trả lại một số vùng của Bessarabia cho Moldova, do đó chia cắt Nga khỏi sông Danube. Nga mất gần một thế kỷ để lấy lại quyền tiếp cận dòng sông, nhưng cùng với sự sụp đổ của Liên Xô, thêm một lần nữa Nga phải rút về phía đông.
Tuy nhiên, trong thực tế, Nga vốn đã kiểm soát một phần Moldova - một vùng có tên là Transnistria, nằm ở phía đông sông Dniester, là con sông biên giới với Ukraine. Với sự khôn ngoan của mình, Stalin đã bế trí số lượng lớn người Nga tại đó, giống như điều ông ta đã làm ở Crimea sau khi trục xuất phân lớn sắc dân Tatar.
Ít nhất 50% dân số Transnistria hiện tại nói tiếng Nga hoặc tiếng Ukraine, và đó là bộ phận dân cư thân Nga. Khi Moldova trở thành quốc gia độc lập vào năm 1291, cộng đồng dân cư nói tiếng Nga làm loạn và, sau một giai đoạn đấu tranh ngắn ngủi, đã tuyên thành lập nước cộng hòa Transnistria ly khai. Nước này đã giúp chon Nga đưa quân đội đồn trú ở đó, và vẫn duy trì lực lượng hai ngàn quân cho đến ngày nay.
Việc Nga tăng cường quân ở Moldova là khó xảy ra, nhưng Kremlin có thể đang sử dụng sức mạnh kinh tế của mình cũng như lợi dụng tình hình bất
https://thuviensach.vn
ổn ở Transnistria để gây ảnh hưởng ngăn chính phủ Moldova gia nhập EU hay NATO.
Moldova phải dựa vào Nga để thỏa mãn nhu cầu năng lượng, nông sản của họ được bán về phía đông, và lượng nhập khẩu rượu vang Moldova thượng hạng vào Nga có xu hướng tăng hoặc giảm tùy theo tình trạng quan hệ giữa hai nước.
Bên kia biển Đen, ở phía đối diện Moldova là một quốc gia sản xuất rượu vang khác: Georgia. Quốc gia này không có vị trí cao trong danh sách các khu vực phải được kiểm soát của Nga vì hai lý do. Thứ nhất, cuộc chiến Georgia-Nga năm 2008 đã khiến phần lớn đất nước này bị quân đội Nga chiếm đóng. Hiện quân đội Nga đang kiểm soát hoàn toàn các vùng Abkhazia và Nam Ossetia. Thứ hai, Georgia nằm ở phía nam dãy Caucasus và Nga cũng có quân đội đóng tại nước Armenia láng giềng. Moscow cũng muốn tăng thêm một lớp vào vùng đệm nhưng họ có thể tồn tại mà không cần chiếm phần còn lại của Georgia. Tình thế đó cũng tiềm ẩn khả thay đổi nếu Georgia tiếp cận tấm thẻ thành viên NATO. Đây chính là lý do tại sao cho đến giờ Georgia vẫn bị các chính phủ NATO từ chối, vì họ muốn né một cuộc xung đột không thể tránh khỏi với Nga.
Đa số dân chúng của Georgia muốn thắt chặt hơn quan hệ với các nước EU, nhưng cú sốc của cuộc chiến tranh năm 2008, khi thời điểm đó Tổng thống Mikheil Saakashvili ngây thơ nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ đến giải cứu sau khi ông chọc giận người Nga, đã khiến các phe nhóm chính trị phải cân nhắc đi hàng hai để được an toàn hơn. 'Năm 2013, họ đã bầu ra một chính phủ, và tổng thống mới Giorgi Margvelashvili có thái độ hòa hảo hơn nhiều với Moscow. Cũng như tại Ukraine, người dân bằng bản năng biết rõ sự thật hiển nhiên mà bất kỳ ai ở quanh khu vực đó cũng công nhận, đó là: Washington ở rất xa, và Moscow thì rất gần.
https://thuviensach.vn
Vũ khí mạnh nhất của Nga hiện nay, ngoài tên lửa hạt nhân, không phải là quân đội và không quân Nga, mà là khí đốt và dầu mỏ. Nga chỉ đứng sau Hoa Kỳ trong tư cách nhà cung cấp khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới, và dĩ nhiên họ cũng vận dụng sức mạnh này để giành lợi thế. Quan hệ với Nga càng tốt, bạn phải trả ít tiền cho năng lượng; ví dụ Phần Lan có một thỏa thuận tốt hơn đối với các nước Baltic. Chính sách này được sử dụng rất tích cực, và Nga có ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng của châu Âu lớn đến mức đã có những động thái được tiến hành để giảm bớt tác động của nó. Nhiều quốc gia ở châu Âu đang cố gắng vứt bỏ phụ thuộc năng lượng vào Nga, không phải bằng đường ống cấp khí đốt thay thế từ các quốc gia ít hung hăng hơn mà bằng cách xây dựng hải cảng.
Tính trung bình, hơn 25% lượng khí đốt và dầu của châu Âu đến từ Nga; nhưng thường thì một quốc gia càng gần Moscow, sự phụ thuộc của nó vào Nga càng lớn. Điều này đến lượt nó lại làm giảm bớt các lựa chọn trong chính sách đối ngoại của nước đó. Latvia, Slovakia, Phần Lan và Estonia phụ thuộc 100% vào khí đốt của Nga. Cộng hòa Séc, Bulgaria và Lithuania phụ thuộc 80%, Hy Lạp, Áo và Hungary là 60%. Khoảng một nửa lượng tiêu thụ khí đốt của Đức đến từ Nga, và điều này, cùng với các thỏa thuận thương mại giá trị lớn khác, chính là một phần lý do tại sao các chính trị gia Đức có xu hướng không mấy mặn mà trong việc chỉ trích những hành vi gây hấn của Kremlin so với một quốc gia như Anh, vì Anh chỉ phụ thuộc vào Nga 13%, đồng thời còn có ngành công nghiệp sản xuất khí đốt riêng, bao gồm một mỏ dự trữ có thể cung cấp cho Anh trong chín tháng.
Có một số tuyến đường ống lớn chạy từ đông sang tây phát xuất từ Nga, một số cung cấp dầu và một số thì cung cấp khí đốt. Chính những tuyến đường ống dẫn khí đóng vai trò quan trọng nhất.
Ở phía bắc, qua biển Baltic, là tuyến đường ống Dòng chảy phương Bắc (Nord Stream), nối trực tiếp với Đức. Phía dưới tuyến đường ống này, cắt ngang Belarus, là tuyến Yamal, cung cấp cho Ba Lan và Đức. Ở phía
https://thuviensach.vn
nam tuyến Dòng chảy Xanh (Blue Stream), dẫn khí đốt tới Thổ Nhĩ Kỳ qua biển Đen. Cho đến đầu năm 2015, có một dự án được trù định, gọi là Dòng chảy phương Nam (South Stream), vẫn sử dụng cùng một tuyến đường ống nhưng phân nhánh vào Hungary, Ào, Serbia, Bulgaria và Ý. Dòng chảy phương Nam là nỗ lực của Nga để đảm bảo ngay cả trong tình trạng có tranh chấp với Ukraine, họ vẫn sở hữu một tuyến ống chính đến các thị trường lớn tại Tây Âu và Balkan. Một số nước EU đã gây áp lực lên các nước láng giềng của họ nhằm bác bỏ kế hoạch này, và Bulgaria đã thực tế rút khỏi dự án khi nói rằng đường ống này không thể đi qua lãnh thổ của mình. Tổng thống Putin phản ứng bằng cách tiếp cận Thổ Nhĩ Kỳ với một đề xuất mới, còn được gọi là Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ (Turk Stream).
Các dự án Dòng chảy phương Nam và Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ của Nga tránh đi qua Ukraine là hệ quả của những tranh chấp về giá cả với nước này trong giai đoạn 2005-2010, những tranh chấp này tại nhiều thời điểm khác nhau khiến cho lượng cung cấp khí đốt cho mười tám quốc gia bị cắt giảm. Các quốc gia châu Âu nào được hưởng lợi từ Dòng chảy phương Nam thì đè đặt thấy rõ trong việc chỉ trích Nga suốt cuộc khủng hoảng Crimea năm 2014.
Hoa Kỳ vào cuộc, với một chiến lược đôi bên cùng thắng cho Hoa Kỳ và châu Âu. Nhận thấy rằng châu Âu cần khí đốt, nhưng không muốn bị coi là yếu đuối khi đối mặt với chính sách đối ngoại của Nga, Hoa Kỳ tin rằng mình có lời giải. Sự bùng nổ ồ ạt trong ngành sản xuất khí đá phiến ở Hoa Kỳ không chỉ giúp họ có khả năng tự túc về năng lượng mà còn có thể bán phần thặng dư cho một trong những vùng tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới - châu Âu.
Để làm điều này, khí đốt cần phải được hóa lỏng và vận chuyển qua Đại Tây Dương. Việc này lại đòi hỏi phải có các bến cảng và trạm cuối khí hóa lỏng LNG (liquefied natural gas: khí tự nhiên hóa lỏng) được xây dựng dọc bờ biển châu Âu để nhận hàng và hóa khí trở lại. Washington đã duyệt
https://thuviensach.vn
giấy phép cho các trang thiết bị hạ tầng xuất khẩu, và châu Âu đang bắt đầu một dự án dài hạn để xây dựng thêm nhiều trạm cuối LNG. Ba Lan và Lithuania đang xây dựng các trạm cuối LNG. Các nước khác như Cộng hòa Séc muốn xây dựng các đường ống kết nối với các trạm cuối này, vì hiểu rằng khi đó họ có thể hưởng lợi không chỉ từ khí đốt hóa lỏng Hoa Kỳ, mà còn từ các nguồn cung cấp từ Bắc Phi và Trung Đông. Kremlin sẽ không còn có khả năng đóng van nguồn cung cấp.
Người Nga, nhìn thấy mối họa lâu dài, đã chỉ ra rằng khí đốt bơm qua đường ống dẫn rẻ hơn LNG, và Tổng thống Putin, với biểu cảm “Tôi đã làm gì sai?” hiện trên khuôn mặt, nói rằng châu Âu vốn dĩ đã có khí đốt đáng tin cậy và rẻ hơn từ đất nước của ông. LPG không thể thay thế hoàn toàn khí đốt của Nga, nhưng nó sẽ củng cố vị thế yếu kém của châu Âu cả trong việc đàm phán giá cả lẫn trong chính sách đối ngoại. Để ứng phó với nguy cơ giảm doanh thu tiềm tàng, Nga đang lên kế hoạch đặt các đường ống theo hướng Đông Nam và hi vọng sẽ tăng lượng khí đốt bán cho Trung Quốc.
Đây là một cuộc chiến kinh tế đặt căn bản trên địa lý và là một trong những ví dụ của thời hiện đại, khi công nghệ đang được tận dụng để vượt qua những câu thúc về địa lý của các thời đại trước.
Rất nhiều thứ đã nảy sinh từ nỗi đau về kinh tế mà Nga phải chịu trong năm 2014 khi giá dầu giảm xuống dưới 50 USD/thùng, và thậm chí còn thấp hơn nữa trong năm 2015. Ngân sách của Moscow trong năm 2016 và khoản chi tiêu dự đoán cho năm 2017 được căn cứ trên mức giá 50 USD/thùng, và mặc dù Nga đã bơm ra lượng dâu kỷ lục, họ biết rằng họ vẫn không thể cân bằng được ngân sách. Nga mất khoảng hai tỷ USD doanh thu cho mỗi đô la giảm giá dầu và nền kinh tế Nga phải lãnh đủ, gây ra nhiều khó khăn cho người dân thường, nhưng những dự đoán về sự sụp đổ của nhà nước Nga đã trật lất. Nga sẽ phải vật lộn để tài trợ cho khoản chỉ tiêu quân sự tăng vọt, nhưng bất chấp những khó khăn mà họ phải đối mặt, Ngân hàng Thế giới dự đoán rằng trong nửa sau của thập niên này, nền kinh tế Nga sẽ tăng trưởng
https://thuviensach.vn
nhẹ. Nếu những mỏ dầu khổng lồ ở biển Kara của Bắc cực mới được khám phá có thể được dẫn vào bờ thì sự tăng trưởng đó sẽ lành mạnh hơn.
Bên ngoài khu vực trung tâm, Nga thực sự có tâm với chính trị ở phạm vi toàn cầu, và biết sử dụng ảnh hưởng của mình, đặc biệt là ở châu Mỹ Latinh, nơi họ kết bạn với bất kỳ quốc gia Nam Mỹ nào có mối quan hệ ít thân thiện nhất với Hoa Kỳ, ví dụ như Venezuela. Nga cố gắng chặn đứng các động thái của Hoa Kỳ tại Trung Đông, hoặc ít nhất đảm bảo cho họ có tiếng nói trong mọi vấn đề, họ chi tiêu một khoản rất lớn vào các lực lượng quân đội ở vùng Bắc cực, và không ngừng quan tâm đến Greenland để duy trì các yêu sách về lãnh thổ. Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, Nga ít tập trung hơn vào châu Phi, nhưng vẫn cố gắng duy trì sự ảnh hưởng của mình tại đó, mặc dù Nga đang thất bại trước Trung Quốc [ở châu Phi].
Họ có thể là đối thủ cạnh tranh của nhau, nhưng hai gã khổng lồ này cũng hợp tác ở các cấp độ khác nhau. Khi Moscow biết rằng châu Âu có tham vọng lâu dài hòng chấm dứt sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng của Nga, Nga tìm tới Trung Quốc như một khách hàng thay thế. Trung Quốc chiếm thế thượng phong trong vai trò thị trường của người mua (buyer's market), nhưng các kênh liên lạc giữa hai bên thì thân thiện và được vận dụng tốt. Từ năm 2019, Nga sẽ cung cấp cho Trung Quốc ba mươi tám tỷ mét khối khí đốt mỗi năm theo một thỏa thuận trị giá 400 tỷ USD kỳ hạn ba mươi năm.
Thời kỳ Nga bị coi là mối đe dọa quân sự với Trung Quốc đã trôi qua, và ý tưởng cho rằng quân đội Nga sẽ chiếm Mãn Châu, như họ từng làm năm 1945, là điều không thể tưởng tượng được, mặc dù họ luôn để mắt dè chừng nhau ở những vùng đất họ muốn là thế lực thống trị, như Kazakhstan chẳng hạn. Tuy nhiên, họ không còn cạnh tranh vị trí lãnh đạo hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu, và điều này đã giải thoát cho đôi bên để họ có thể hợp tác ở cấp độ quân sự tại bất cứ nơi nào họ có lợi ích trùng hợp. Một ví dụ có vẻ kỳ quặc xảy ra vào tháng Năm năm 2015, khi họ tiến hành
https://thuviensach.vn
các cuộc tập trận quân sự bắn đạn thật chung ở Địa Trung Hải. Việc Bắc Kinh đưa quân vào một vùng biển cách căn cứ nước nhà chín ngàn dặm là một phần trong nỗ lực của họ nhằm mở rộng tầm hoạt động hải quân ra quy mô toàn cầu. Trong khi đó, Moscow đã có ý dòm ngó những mỏ khí đốt được phát hiện trong vùng Địa Trung Hải, đang lôi kéo Hy Lạp, đồng thời muốn bảo vệ quân cảng nhỏ bé của mình trên bờ biển Syria. Ngoài ra, cả hai bên đều rất thích thú được quấy nhiễu các lực lượng của NATO trong khu vực, bao gồm cả Hạm đội 6 của Hoa Kỳ có căn cứ tại Naples [thuộc nước Ý].
Trong nước, Nga đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nhân khẩu học không phải vấn đề nhỏ. Sự sụt giảm mạnh trong tăng trưởng dân số có lẽ đã được ngăn chặn, nhưng đó vẫn còn là vấn đề. Tuổi thọ trung bình của người Nga thấp hơn 65, khiến Nga bị xếp vào nửa dưới trong số 193 nước thành viên thuộc Liên Hiệp Quốc, và hiện chỉ có 144 triệu người Nga (không tính Crimea):
Từ Đại Công quốc Muscovy, qua thời Peter Đại đế, alin và hiện giờ là Putin, mỗi nhà lãnh đạo Nga đều phải đối mặt với cùng những vấn đề giống nhau. Cho dù ý thức hệ của những người cầm quyền có là chế độ Sa hoàng, chủ nghĩa cộng sản hoặc chủ nghĩa tư bản thân hữu đi nữa - thì các hải cảng vẫn bị đóng băng, và Đồng bằng Bắc Âu vẫn cứ bằng phẳng.
Việc xóa bỏ những đường biên giới của các quốc gia dân tộc, và tấm bản đồ mà Ivan Bạo Chúa phải đương đầu cũng vẫn chính là những vấn đề mà ngày nay Vladimir Putin đang phải đối mặt.
https://thuviensach.vn
Chương Hai: Trung Quốc
“Trung Quốc là một nền văn minh giả dạng là một quốc gia” Lucian Pye nhà khoa học chính trị.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Tháng Mười năm 2006, trong khi một đội tàu siêu sân bay của hải quân Hoa Kỳ dẫn đầu bởi chiếc USS Kitty Hawk dài 320 mét đang tự tin vượt biển Hoa Đông giữa miền Nam Nhật Bản và Đài Loan, thận trọng để ý việc của mọi người xung quanh, thì một tàu ngầm hải quân Trung Quốc trồi lên mặt nước ngay giữa đội hình mà không hề cảnh báo.
Một tàu sân bay Hoa Kỳ thuộc kích cỡ như vậy thường được bao quanh bởi khoảng mười hai tàu chiến khác, được che chắn trên không và có tàu ngầm bảo vệ dưới nước. Con tàu của Trung Quốc, một tàu ngầm tấn công lớp Tống, có thể rất im lặng khi chạy bằng điện năng, nhưng dù sao sự kiện này vẫn tương đương với việc một nhà quản lý của Pepsi-Cola bất ngờ xuất hiện giữa một cuộc họp hội đồng quản trị của Coca-Cola sau khi nghe lén dưới gầm bàn nửa giờ.
Cảm xúc của người Mỹ là vừa kinh ngạc vừa tức giận. Kinh ngạc bởi vì họ không ngờ Trung Quốc có thể làm điều đó mà không bị họ phát hiện, tức giận bởi vì họ đã không phát hiện được và vì họ coi đó là hành động khiêu khích, đặc biệt là tàu ngầm Trung Quốc nằm trong tầm ngư lôi của Kitty Hawk. Họ lên tiếng phản đối, có lẽ hơi ồn ào quá, và người Trung Quốc phát biểu: “Ôi! Thật là trùng hợp, việc chúng tôi nổi lên ở giữa đội chiến hạm của quý vị vốn nằm ngoài khơi bờ biển của chúng tôi, chúng tôi nào có biết.”
Đây là thuật ngoại giao pháo hạm đảo ngược của thế kỷ 21; khi xưa người Anh thường bố trí một tàu chiến ngoài khơi vùng bờ biển của một thế lực nhỏ nào đó để báo hiệu ý định của họ, nay người Trung Quốc đột ngột xuất hiện ngoài khơi vùng bờ biển của chính họ như một thông điệp rõ ràng: “Hiện nay chúng tôi là một cường quốc hàng hải, đây là thời của chúng tôi, và đây là vùng biển của chúng tôi.” Trung Quốc phải mất đến bốn ngàn năm, nhưng rốt cuộc họ đã bắt đầu tiếp cận một hải cảng - và một tuyến đường vận chuyển - ngay gần nơi bạn.
https://thuviensach.vn
Cho đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ là một thế lực hải quân - với diện tích đất liền rộng lớn, rất nhiều những đường biên giới và tuyến đường biển ngắn kết đến các đối tác thương mại, họ không cần thiết phải mạnh về hải quân, và hiếm khi có ý muốn bành trướng về mặt ý thức hệ. Thương nhân Trung Quốc từ lâu đã giăng buồm vượt đại dương để buôn bán hàng hóa, nhưng hải quân của họ không tìm cách lấn chiếm lãnh ngoài vùng đất của mình; cộng với những khó khăn của việc tuần tra các tuyến đường biển dài trên Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương khiến cho những nỗ lực đó chẳng bõ công. Trung Quốc vẫn luôn là một thế lực trên đất liền, với đất rộng và người đông - hiện đã gần 1,4 tỷ người.
Khái niệm về Trung Quốc xét như một thực thể có dân cư đã bắt đầu gần bốn ngàn năm trước. Cái nôi của nền văn minh Trung Quốc là vùng được gọi là Bình nguyên Hoa Bắc, người Trung Quốc gọi vùng này là Trung nguyên. Một dải đất thấp rộng lớn diện tích gần 160.000 dặm vuông, nó nằm phía dưới vùng Nội Mông, phía nam Mãn Châu, trong và xung quanh lưu vực sông Hoàng Hà và trải xuống lưu vực sông Dương Tử; cả hai con sông này chảy từ tây sang đông. Đây là một trong những khu vực có mật độ dân cư đông nhất trên thế giới.
Lưu vực sông Hoàng Hà thường xuyên phải hứng chịu những đợt lũ lụt tàn phá, vì vậy dòng sông này nhận được biệt hiệu không ai ưa thích là “Tai họa của con dân Hán“. Quá trình công nghiệp hóa trong khu vực thực sự khởi đầu vào những năm 1950 và đã nhanh chóng tăng tốc trong ba thập niên vừa qua. Dòng sông bị ô nhiễm nặng nề này hiện bị tắc nghẽn với đầy rẫy những chất thải độc hại đến mức đôi khi nó thậm chí phải vùng vẫy để chảy ra tới bờ biển. Tuy nhiên, sông Hoàng Hà với Trung Quốc cũng như sông Nile với Ai Cập - là cái nôi của nền văn minh, nơi người dân học cách làm ruộng, chế tạo giấy và thuốc súng.
https://thuviensach.vn
Ở phía bắc vùng đất tiền-Trung Hoa này là những dải đất khắc nghiệt của sa mạc Gobi, mà giờ đây thuộc về Mông Cổ. Về phía tây, dải đất dần nâng cao cho đến khi nó trở thành cao nguyên Tây Tạng, tiến đến chân dãy Himalaya. Phía đông nam và phía nam giáp với biển.
Vùng đất trung tâm được biết đến với tên gọi bình nguyên Hoa Bắc, là một đồng bằng rộng lớn và màu mỡ với hai con sông chính và một bầu khí hậu cho phép người ta thu hoạch gạo và đậu nành hai vụ một năm, khuyến khích dân số phát triển nhanh. Đến thế kỉ thứ 15 trước công nguyên tại vùng đất trung tâm này, từ hàng trăm thành bang nhỏ tranh đoạt thôn tính lẫn nhau, đã xuất hiện phiên bản sớm nhất của một nhà nước Trung Hoa - nhà Thương. Đây chính là nơi mà dân tộc Hán dần hình thành, bảo vệ vùng đất trung tâm và kiến tạo một vùng đệm xung quanh họ.
Dân tộc Hán hiện chiếm hơn 90% dân số Trung Quốc, thống trị Trung Quốc cả chính trị và kinh tế. Họ được phân chia thành những nhóm sử dụng tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông và nhiều ngôn ngữ địa phương khác, nhưng được thống nhất bởi tính cách sắc tộc và, ở một mức độ chính trị là bởi sự thôi thúc về địa chính trị để bảo vệ vùng đất trung tâm. Tiếng Quan thoại, có nguồn gốc ở phần phía bắc của khu vực, là ngôn ngữ ưu thế và là phương tiện truyền thông của chính phủ, truyền hình và giáo dục quốc gia. Tiếng Quan Thoại giống tiếng Quảng Đông và nhiều tiếng địa phương khác về chữ viết, nhưng ngôn ngữ nói thì rất khác biệt.
Vùng đất trung tâm là trọng tâm về chính trị, văn hóa, nhân khẩu học và - quan trọng nhất - về nông nghiệp. Khoảng một tỷ người sống trong khu vực này của Trung Quốc, mặc dù về diện tích nó chỉ bằng một nửa của Hoa Kỳ nơi có dân số 322 triệu người. Do địa hình của vùng đất trung tâm tạo thuận lợi cho sự định cư và lối sống canh tác nông nghiệp, nên các triều đại sơ kỳ đã cảm thấy bị đe dọa bởi các vùng đất không thuộc về người Hán ở xung quanh, đặc biệt là Mông Cổ với những toán chiến binh du mục hung tợn.
https://thuviensach.vn
Trung Quốc đã chọn chiến lược tương tự như Nga: lấy công làm thủ, dẫn tới quyền lực. Như chúng ta sẽ thấy, tại đây có những rào cản tự nhiên che chắn cho họ - nếu người Hán có thể tiếp cận và thiết lập sự kiểm soát tại vùng này. Đó là một cuộc tranh đấu trường kỳ hàng thiên niên kỷ, chỉ được hoàn tất trọn vẹn với sự kiện sáp nhập Tây Tạng vào năm 1951.
Đến thời của triết gia Trung Quốc nổi tiếng Khổng Tử (651-479 trước Công nguyên) đã hình thành một cảm nghĩ mạnh mẽ về bản sắc Trung Hoa, về sự phân chia giữa vùng văn minh Trung Hoa và những vùng “man di” xung quanh nó. Đây là một cảm thức về bản sắc được chia sẻ bởi khoảng sáu mươi triệu con người.
Đến năm 200 trước công nguyên, Trung Quốc đã bành trướng về hướng Tây Nam, nhưng vẫn chưa với tới Tây Tạng ở phía tây nam, về phía bắc tới vùng thảo nguyên Trung Á và phía nam xuống tận đến biển Đông (mà họ gọi là biển Hoa Nam). Vạn Lý Trường Thành được khởi công xây dựng từ triều đại nhà Tần (221-207 trước Công nguyên), và hình dạng Trung Quốc trên bản đồ bắt đầu định hình như nước Trung Hoa hiện đại mà chúng ta nhìn nhận ngày nay. Tuy nhiên phải hơn hai ngàn năm trôi qua trước khi biên giới Trung Quốc hiện nay được cố định.
Giữa năm 605 và 609 Công nguyên, kênh đào Đại Vận Hà, mất mấy thế kỷ xây dựng và ngày nay là con đường thủy nhân tạo dài nhất thế giới, đã được kéo dài và cuối cùng nối liền sông Hoàng Hà với sông Dương Tử. Nhà Tùy (581-618 Công nguyên) đã kiểm soát được một số lượng lớn nhân công và sử dụng họ để nối liền những phụ lưu tự nhiên sẵn có thành một tuyến đường thủy có khả năng thông thương giữa hai con sông lớn. Tuyến đường thủy này kết nối hai vùng Hoa Bắc và Hoa Nam chặt chẽ hơn bao giờ hết. Mấy triệu nô lệ phải lao động năm năm để hoàn tất công trình, nhưng bài toán được đặt ra từ xưa về việc làm cách nào vận chuyển hàng hóa từ
https://thuviensach.vn
nam tới bắc nay đã được giải quyết. Tuy vậy, một bài toán khác vẫn tồn tại cho đến ngày nay - lũ lụt.
Người Hán vẫn tranh đoạt thôn tính lẫn nhau, nhưng ngày càng giảm dần, và vào đầu thế kỉ thứ 11, họ buộc phải tập trung sự chú ý vào những đợt sóng xâm lăng Mông Cổ tràn xuống từ phương Bắc. Người Mông Cổ đánh bại bất cứ vương quốc nào chống lại họ, dù phía nam, và đến năm 1279, thủ lĩnh của họ là Hốt Tất Liệt trở thành người ngoại tộc đầu tiên cai trị toàn bộ đất nước này trên ngôi vị hoàng đế của triều đại Mông Cổ (nhà Nguyên). Gần chín mươi năm trôi qua trước khi người Hán giành lại quyền tự chủ cùng với sự thành lập nhà Minh.
Vào thời điểm này, Trung Quốc ngày càng có nhiều tiếp xúc với thương nhân và sứ giả từ các quốc gia châu Âu đang trỗi dậy, như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chống lại bất kỳ hình thức hiện diện thường trực nào của châu Âu, nhưng ngày càng mở cửa các vùng duyên hải để buôn bán. Đây vẫn còn là một nét đặc trưng của Trung Quốc cho đến ngày nay: khi Trung Quốc mở cửa, các vùng duyên hải phát triển phồn thịnh nhưng các khu vực sâu trong đại lục thường bị bỏ quên. Sự thịnh vượng do thương mại đem lại đã làm cho các thành phố ven biển như Thượng Hải trở nên giàu có, nhưng sự giàu có ấy không lan tới vùng nông thôn. Tình trạng này càng làm gia tăng dòng di dân khổng lồ đổ vào các khu đô thị, và cũng làm nổi bật sự khác biệt giữa các vùng miền.
Vào thế kỷ 18, Trung Quốc đã vươn tay tới một số vùng thuộc Miến Điện và Đông Dương ở phía nam. Vùng Tân Cương phía tây bắc cũng bị chinh phục và trở thành tỉnh lớn nhất của nước này. Là một vùng gồm núi non hiểm trở và các lòng chảo sa mạc rộng lớn, Tân Cương rộng 642.820 dặm vuông, gấp đôi diện tích của Texas - hoặc tính theo cách khác, bạn có thể xếp gọn Anh, Pháp, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hà Lan và Bỉ bên trong địa giới tỉnh này mà vẫn còn đủ chỗ cho Luxembourg, thậm chí cả Liechtenstein nữa.
https://thuviensach.vn
Nhưng, khi tăng diện tích, Trung Quốc đồng thời cũng chuốc thêm những vấn đề khác. Tân Cương, một khu vực có dân cư theo Hồi giáo, là nguồn gốc của những bất ổn, thậm chí bạo động trường kỳ cũng như ở các khu vực khác; nhưng đối với dân tộc Hán, đây là một vùng đệm đáng giá để chấp nhận rắc rối, thậm chí càng đáng giá hơn sau khi đất nước Trung Quốc hứng chịu vận xấu đổ xuống đầu họ trong thế kỷ 19 và 20 cùng với sự xuất hiện của người châu Âu.
Các cường quốc thực dân kéo đến, trong số đó có người Anh, và chia cắt đất nước này thành những vùng ảnh hưởng của họ. Điều đó đã, và vẫn là nỗi nhục nhã lớn nhất mà người Trung Quốc phải chịu đựng kể từ cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Đây là một câu chuyện mà đảng Cộng sản thường xuyên sử dụng; một phần vì nó đúng, nhưng cũng vì nó hữu dụng trong việc che đậy các thất bại và chính sách đàn áp của đảng Cộng sản.
Sau đó, người Nhật - một cường quốc mới nổi đang trên đà bành trướng lãnh thổ - đã xâm lược với cuộc tấn công vào năm 1932 và lần nữa vào năm 1937, sau đó họ xâm chiếm hầu hết vùng đất trung tâm cũng như Mãn Châu và Nội Mông. Năm 1945, vào giai đoạn cuối của thế chiến thứ II Nhật đầu hàng Mỹ vô điều kiện và theo đó rút quân khỏi Trung Quốc, mặc dù ở Mãn Châu, họ được thay thế bởi quân đội Liên Xô đang tiến vào, sau đó quân Liên Xô cũng rút lui năm 1946.
Một số nhà quan sát bên ngoài nhận định rằng những năm hậu chiến có thể mang lại nên tự do dân chủ cho Trung Quốc. Nhưng đó là một lối suy nghĩ viển vông, giống như những gì người phương Tây ngây thơ đã viết trong những ngày đầu của cuộc cách mạng “Mùa xuân Ả-rập3“ mới đây, thì trường hợp của Trung Quốc cũng vậy, chúng dựa trên sự thiếu hiểu biết về những động lực nội bộ của dân chúng, của chính trị và địa lý trong khu vực.
https://thuviensach.vn
Thay vào đó, lực lượng dân tộc chủ nghĩa (Quốc dân đảng) dưới quyền Tưởng Giới Thạch và quân đội cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông đã đánh nhau để tranh giành quyền lực tối cao cho đến năm 1949, khi đảng Cộng sản giành thắng lợi và những người theo Quốc dân đảng rút sang Đài Loan. Cùng năm đó, đài phát thanh Bắc Kinh tuyên bố: “Quân Giải phóng Nhân dân phải giải phóng mọi vùng lãnh thổ thuộc Trung Quốc, bao gồm Tây Tạng, Tân Cương, Hải Nam và Đài Loan.”
Mao Trạch Đông tập trung quyền lực tới một mức độ chưa từng thấy trong các triều đại trước đó. Ông ấy ngăn chặn ảnh hưởng của Nga tại Nội Mông và mở rộng ảnh hưởng của Bắc Kinh vào sâu lãnh thổ Mông Cổ. Năm 1951 Trung Quốc hoàn tất việc sáp nhập Tây Tạng (một vùng lãnh thổ rộng mênh mông khác không thuộc về người Hán), và đến thời điểm này bản đồ trong sách giáo khoa Trung Quốc bắt đầu mô tả Trung Quốc trải dài thậm chí lấn sang các nước cộng hòa Trung Á. Đất nước đã được ghép nối lại hoàn chỉnh, Mao dùng phần còn lại của cuộc đời mình để đảm bảo đất nước tồn tại nguyên vẹn như vậy và củng cố quyền kiểm soát của đảng Cộng sản trong mọi mặt của đời sống, nhưng - quay lưng lại với phần lớn thế giới bên ngoài. Đất nước - tiếp tục nghèo khổ đến tuyệt vọng, đặc biệt là các miền - đất xa ở những vùng duyên hải, nhưng đất nước được thống nhất.
Những người kế nhiệm Mao cố gắng biến cuộc Vạn lý Trường chinh tới chiến thắng của Mao thành một cuộc trường chinh kinh tế hướng tới sự thịnh vượng. Vào đầu những năm 1980, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã đặt ra thuật ngữ “Chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc” (Trung Quốc đặc sắc Xã hội chủ nghĩa), mà thực tế nên được dịch là “Đảng Cộng sản toàn quyền kiểm soát trong một nền kinh tế Tư Bản”. Trung Quốc trở thành một cường quốc thương mại lớn và một gã khổng lồ quân sự mới nổi. Vào cuối thập niên 1990, Trung Quốc đã được khôi phục sau cuộc thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, lần lượt lấy lại Hồng Kông và Macau từ tay Anh và Bồ Đào Nha, và đã có thể nhìn ra xung quanh biên giới
https://thuviensach.vn
của mình, đánh giá mức độ an ninh của mình và lên kế hoạch cho bước xuất hành vĩ đại hướng ra thế giới.
Nếu nhìn vào biên giới hiện đại của Trung Quốc, chúng ta thấy một cường quốc vĩ đại giờ đây tự tin rằng nó được đảm bảo bởi các đặc điểm địa lý của mình, cho phép nó phòng vệ và làm thương mại hữu hiệu. Tại Trung Quốc, các hướng của la bàn luôn được liệt kê theo thứ tự đông-nam-tây-bắc, nhưng chúng ta hãy bắt đầu từ hướng bắc và di chuyển theo chiều kim đồng hồ.
Ở phía bắc, chúng ta thấy đường biên giới dài 2.906 dặm với Mông Cổ. Nằm vắt ngang biên giới này là sa mạc Gobi. Các chiến binh du mục từ thời cổ đại có thể đã tấn công về phía nam qua sa mạc này, nhưng một binh đoàn thời hiện đại tập kết tại đây sẽ bị phát hiện ra hàng tuần trước khi sẵn sàng tiến quân, và họ cũng cần đến các tuyến tiếp vận dài đến khó tin chạy dọc qua một địa hình không hiếu khách trước khi có thể tiến vào Nội Mông (một phần của Trung Quốc) và đến gần vùng trung tâm. Hầu như không có đường xá phù hợp để vận chuyển những chiến xa hạng nặng, rất ít vùng có thể cư trú được. Sa mạc Gobi là một hệ thống cảnh báo sớm kiêm tuyến phòng thủ vĩ đại. Bất kỳ sự bành trướng nào của Trung Quốc lên phía bắc sẽ không phải bằng quân sự, mà phát xuất từ những thỏa thuận thương mại, khi Trung Quốc cố gắng hút cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên của Mông Cổ, chủ yếu là khoáng sản. Việc này cũng làm gia tăng lượng di dân từ Hán vào Mông Cổ.
Ngay cạnh đó, về phía đông, là đường biên giới của Trung Quốc với Nga, chạy dài một mạch đến Thái Bình Dương - hoặc ít nhất đến phân khu biển Nhật Bản của nó. Phía trên là vùng Viễn Đông núi non thuộc Nga, một lãnh thổ bao la, không hiếu khách, với dân cư thưa thớt. Dưới đó là Mãn Châu, vùng đất mà người Nga sẽ phải vượt qua nếu họ muốn đến được dải đất trung tâm Trung Quốc. Dân số Mãn Châu là 100 triệu người và đang đà gia tăng; ngược lại, vùng Viễn Đông của Nga chỉ có dưới bảy triệu người và
https://thuviensach.vn
không có dấu hiệu tăng trưởng dân số. Người ta có thể chờ đợi một cuộc di cư quy mô lớn từ phía nam ngược lên phía bắc, và điều này sẽ đem lại cho Trung Quốc một lợi thế trong mối quan hệ với Nga. Từ góc nhìn quân sự, địa điểm tốt nhất để vượt qua biên giới là nơi nằm gần cảng Vladivostok của Nga trên Thái Bình Dương, nhưng Nga có rất ít lý do, và hiện tại không dự định nào, để làm vậy. Thực tế, các biện pháp trừng phạt gần đây của phương Tây đối với Nga do cuộc khủng hoảng của Ukraine đã thúc đẩy Nga tiến hành những thỏa thuận kinh tế lớn với Trung Quốc theo những điều kiện giúp Nga không bị nhấn chìm, nhưng những thỏa thuận này có lợi hơn cho Trung Quốc. Nga là đối tác yếu thế trong mối quan hệ này.
Bên dưới vùng Viễn Đông của Nga, dọc miền duyên hải, là biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông (mà Trung Quốc gọi là Hoa Nam), thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có nhiều bến cảng tốt và vẫn luôn được sử dụng cho mục đích thương mại. Tuy nhiên, bên kia bờ biển là một loạt vấn đề đến từ những đảo quốc - một trong số đó có hình dạng giống như Nhật Bản mà chúng ta sẽ bàn đến sau.
Tiếp tục theo chiều kim đồng hồ, chúng ta đến biên giới đất liền kế tiếp: Việt Nam, Lào và Miến Điện. Việt Nam là một nỗi bực bội đối với Trung Quốc. Trong nhiều thế kỷ, hai dân tộc đã tranh chấp về lãnh thổ, và điều không may cho cả hai là khu vực miền nam này có một biên giới mà quân đội có thể vượt qua chẳng mấy khó khăn - điều này phần nào giải thích sự thống trị và chiếm đóng của Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam suốt một ngàn năm từ 111 trước Công nguyên đến 938 Công nguyên và cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi năm 1979. Tuy nhiên, khi sức mạnh quân sự của Trung Quốc ngày càng gia tăng, Việt Nam sẽ ít có khả năng để mình bị lôi kéo vào một trận đấu súng, và sẽ kết thân hơn nữa với Hoa Kỳ để được bảo vệ, hoặc bắt đầu lặng lẽ thay đổi sách lược ngoại giao để làm bạn với Bắc Kinh. Việc cả hai nước trên danh nghĩa đều theo lý tưởng cộng sản là chẳng tác động gì mấy đến tình trạng quan hệ của họ: chính sự chia sẻ về mặt địa
https://thuviensach.vn
lý đã quy định mối quan này. Nhìn từ góc độ của Bắc Kinh, Việt Nam chỉ là một mối đe dọa nhỏ và một vấn đề có thể xử lý được.
Biên giới với Lào là địa hình đồi gò rừng rậm, thương nhân rất khó vượt qua - và thậm chí càng phức tạp hơn đối với quân đội. Khi di chuyển theo chiều kim đồng hồ tới Miến Điện, rừng rậm đồi gò trở thành vùng núi non vươn cao dần đến độ cao hơn sáu ngàn mét ở cực tây và bắt đầu nhập vào dãy Himalaya.
Điều này đưa chúng ta đến Tây Tạng và tầm quan trọng của nó đối với Trung Quốc. Dãy Himalaya chạy dọc chiều dài biên giới Trung - Ấn trước khi hạ dần xuống để trở thành rặng Karakorum tạo ranh giới với Pakistan, Afghanistan và Tajikistan. Đây là phiên bản Vạn Lý Trường Thành tự nhiên của Trung Quốc, hoặc - nếu nhìn từ phía New Delhi - là Vạn Lý Trường Thành của Ấn Độ. Bức tường tự nhiên này đã tách biệt hai nước đông dân nhất trên hành tinh cả về mặt quân sự cũng như kinh tế.
Trung-Ấn cũng có tranh chấp: Trung Quốc đòi “bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, Ấn Độ nói Trung Quốc đang chiếm Aksai Chin; nhưng mặc dù pháo binh họ chĩa vào nhau vươn qua bức tường chắn tự nhiên này cả hai bên đều có những việc cần làm hơn là khơi lại trận đụng độ quân sự nổ ra vào năm 1962, khi một loạt tranh chấp bạo lực trên biên giới đạt đến đỉnh điểm là những trận chiến khốc liệt quy mô lớn trên vùng núi. Tuy nhiên sự căng thẳng vẫn còn đó và mỗi bên cần thận trọng xử lý tình huống.
Hầu như không có quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ, và điều này có vẻ sẽ không thay đổi trong tương lai gần. Dĩ nhiên biên giới này thực ra là biên giới Tây Tạng - Ấn Độ. Và đó chính là lý do tại sao Trung Quốc luôn muốn kiểm soát Tây Tạng.
Đây là địa chính trị của nỗi lo sợ. Nếu Trung Quốc không kiểm soát Tây Tạng, thì luôn có khả năng Ấn Độ sẽ cố gắng làm điều đó. Điều đó sẽ
https://thuviensach.vn
trao cho Ấn Độ những cao điểm kiểm soát cao nguyên Tây Tạng và một căn cứ để từ đó đưa quân vào Trung nguyên Trung Hoa, cũng như quyền kiểm soát thượng nguồn ở Tây Tạng của ba con sông lớn của Trung Quốc, sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và sông Mekong. Đây cũng là lý do tại sao Tây Tạng được mang biệt danh “Tháp nước của Trung Quốc”. Trung Quốc, một quốc gia có lượng nước sử dụng tương tự như Hoa Kỳ, nhưng với dân số gấp năm lần, rõ ràng sẽ không cho phép điều đó.
Vấn đề không phải ở chỗ Ấn Độ muốn cắt nguồn cung cấp nước của Trung Quốc hay không, mà là liệu Ấn Độ có đủ sức làm như vậy hay không. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc đã cố gắng đảm bảo để điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Diễn viên Richard Gere và phong trào tự do cho Tây Tạng sẽ còn tiếp tục lên tiếng chống lại sự bất công của việc xâm chiếm Tây Tạng, và giờ đây là việc định cư của người Hán tại Tây Tạng, nhưng trong Cuộc tranh chấp giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma, phong trào giành độc lập cho Tây Tạng, các ngôi sao Hollywood với Đảng Cộng sản Trung Quốc - kẻ đang thống trị nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - sẽ chỉ có một người chiến thắng.
Khi người phương Tây, dù là diễn viên Hollywood Richard Gere hay cựu Tổng thống Mỹ Obama, nói về Tây Tạng, Trung Quốc thấy vô cùng khó chịu. Họ không thấy nguy hiểm, không sợ bị lật đổ, mà chỉ thấy khó chịu. Họ không nhìn sự việc qua lăng kính nhân quyền, mà qua lăng kính an ninh địa chính trị, và chỉ tin rằng phương Tây đang cố gắng làm suy yếu an ninh của họ. Tuy nhiên, an ninh Trung Quốc đã và sẽ không bị làm suy yếu, ngay cả khi có nhiều cuộc nổi loạn hơn nữa chống lại người Hán. Nhân khẩu học và địa chính trị đều chống lại sự độc lập của Tây Tạng.
Người Trung Quốc đang xây dựng “sự thực trên thực địa” (facts on the ground) trên “nóc nhà của thế giới”. Vào những năm 1950, quân đội Trung Quốc bắt đầu xây dựng các tuyến đường vào Tây Tạng, và kể từ đó họ đã góp phần đưa thế giới hiện đại đến vương quốc cổ xưa này; nhưng các tuyến đường bộ này, và bây giờ là đường sắt cũng đưa người Hán đến đây.
https://thuviensach.vn
Từ lâu người ta đã bảo rằng không thể xây dựng một tuyến đường sắt xuyên qua vùng đất đóng băng vĩnh viễn, qua núi non và thung lũng của Tây Tạng. Các kỹ sư giỏi nhất của của châu Âu, những người đã từng đục xuyên qua dãy Alps, cho biết điều đó không thể thực hiện được. Cho đến năm 1988, tác giả du ký Paul Theroux4 đã viết trong cuốn sách Riding the Iron Rooster: “Dãy Côn Lôn là thứ khiến đường sắt sẽ không bao giờ đến được Lhasa.” Côn Lôn chia cắt tỉnh Tân Cương với Tây Tạng, và Theroux cám ơn vì điều đó: “Đó hắn là một điều tốt lành. Cho đến khi nhìn thấy Tây Tạng, tôi vẫn tưởng rằng mình yêu thích đường sắt. Và rồi tôi nhận ra rằng mình thích sự hoang dã hơn rất nhiều.” Nhưng người Trung Quốc đã xây dựng tuyến đường sắt đó. Có lẽ chỉ họ mới có thể làm được điều này. Đường vào Lhasa, thủ phủ Tây Tạng, được chủ tịch Trung Quốc lúc bấy giờ là Hồ Cẩm Đào khánh thành năm 2006. Giờ đây, tàu khách và tàu hàng đổ đến từ Thượng Hải và Bắc Kinh mỗi ngày bốn chuyến, và hằng ngày.
Những chuyến tàu này mang theo nhiều thứ, ví dụ như hàng tiêu dùng từ mọi miền Trung Quốc, máy vi tính, tivi màu và điện thoại di động. Chúng mang đến những khách du lịch hỗ trợ cho nền kinh tế địa phương, chúng mang đời sống hiện đại đến một vùng đất cổ xưa và nghèo khó, một sự cải thiện lớn lao về mức sống và chăm sóc sức khỏe, và cũng mang lại tiềm năng đưa hàng hóa của Tây Tạng ra thế giới bên ngoài. Nhưng những chuyến tàu đó cũng đưa đến vài triệu di dân người Trung Quốc gốc Hán.
Con số thực tế khó có thể biết được: phong trào Tây Tạng Tự do tuyên bố rằng trong vùng văn hóa Tây Tạng rộng lớn, người Tây Tạng hiện nay là thiểu số, nhưng chính phủ Trung Quốc nói rằng ở Khu Tự trị Tây Tạng, hơn 90% dân chúng là người Tây Tạng. Cả hai bên đều cường điệu các con số, nhưng bằng chứng cho thấy chính phủ Trung Quốc có mức độ cường điệu cao hơn. Con số đó không bao gồm những di dân người Hán vốn không được đăng ký thường trú, nhưng người quan sát bình thường có thể thấy
https://thuviensach.vn
rằng hiện nay các khu dân cư người Hán thống trị trong các vùng đô thị Tây Tạng.
Đã có thời đại đa số dân cư Mãn Châu, Nội Mông và Tân Cương là người thuộc sắc tộc Mãn Châu, Mông Cổ và Duy Ngô Nhĩ (Uighur); hiện giờ trong cả ba tỉnh trên người Hán chiếm đa số, hoặc đang trở thành đa số. Tình trạng như vậy cũng sẽ xảy ra với Tây Tạng.
Điều này có nghĩa là sự oán giận đối với người Hán sẽ tiếp tục biểu lộ qua bạo loạn như sự kiện năm 2008, khi người dân Tây Tạng biểu tình chống Trung Quốc tại Lhasa, đốt và cướp phá tài sản của người Hán, hai mươi mốt người chết và hàng trăm người bị thương. Sự trấn áp của chính quyền sẽ tiếp tục, phong trào Tây Tạng Tự do sẽ tiếp tục, tăng sĩ sẽ tiếp tục tự thiêu để cảnh báo thế giới về tình cảnh của người Tây lạng - còn người Hán vẫn sẽ tiếp tục di cư đến.
Dân số khổng lồ của Trung Quốc, hầu hết sống trong vùng trung tâm, đang tìm kiếm cách để mở rộng. Cũng giống như người Mỹ từng hướng mắt nhìn về phía tây, người Trung Quốc cũng vậy, và cũng giống như những con Ngựa sắt (tàu lửa) đã đưa dân di cư gốc châu Âu đến vùng đất của thổ dân Comanche và Navajo, những con Gà sắt5thời hiện đại đang đưa người Hán tới Tây Tạng.
Sau cùng, kim la bàn di chuyển qua biên giới với Pakistan, Tajikistan và Kyrgyzstan (tất cả đều là vùng núi) trước khi đến biên giới giáp với Kazakhstan, dẫn ngược về phía bắc, trở lại Mông Cổ. Đây là Con đường Tơ lụa cổ đại, là cầu nối thương mại trên đất liền từ Trung Hoa ra thế giới bên ngoài. Về mặt lý thuyết, nó là một điểm yếu trong hệ thống phòng thủ của Trung Quốc, một khoảng trống giữa vùng núi non và sa mạc; nhưng nó nằm xa dải đất trung nguyên, dân Kazakhs không ở vị thế có thể đe dọa Trung Quốc, và Nga cách xa mấy trăm dặm.
https://thuviensach.vn
Phía đông nam giáp biên giới Kazakhstan này là Tân Cương, tỉnh “bán tự trị” bất kham của Trung Quốc, và dân cư ở đó là người Duy Ngô Nhĩ bản địa theo Hồi giáo, họ nói thứ tiếng cùng ngữ hệ với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Tân Cương giáp biên giới với 8 quốc gia: Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ.
Tân Cương đã từng và sẽ luôn có bất ổn. Người Duy Ngô Nhĩ đã hai lần tuyên bố nhà nước độc lập “Đông Turkestan”, trong những năm 1930 và những năm 1240. Họ chứng kiến sự sụp đổ của Đế quốc Nga dẫn đến hệ quả là các nước láng giềng Xô viết cũ của họ ở vùng “Stan” trở thành các quốc gia có chủ quyền. Họ được truyền cảm hứng bởi phong trào độc lập của Tây Tạng, và hiện nay nhiều người đang kêu gọi tách khỏi Trung Quốc.
Cuộc bạo loạn giữa các sắc tộc bùng nổ trong năm 2009, dẫn đến hơn hai trăm người chết. Bắc Kinh phản ứng theo ba cách: tàn nhẫn đàn áp những người bất đồng, đổ tiền vào khu vực này, và vẫn tiếp tục ồ ạt đưa lao động người Hán tới. Đối với Trung Quốc, Tân Cương quá quan trọng về mặt chiến lược và vì vậy không thể cho phép phong trào đòi độc lập trỗi dậy: Tân Cương không chỉ chia sẻ biên giới với tám quốc gia, do đó là vùng đệm cho dải đất trung tâm, mà nó còn có dầu mỏ, và là nơi an toàn để bố trí các địa điểm thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Lãnh thổ này cũng là con át chủ bài trong chiến lược kinh tế “Một vành đai, Một con đường”. Thật kỳ quặc khi con đường này lại là đường biển - kiến tạo nên một tuyến đường cao tốc trên biển để chuyên chở hàng hóa. Vành đai ở đây là “Vành đai kinh tế kiểu Con đường Tơ lụa” - một tuyến đường bộ được hình thành từ thời Con đường Tơ lụa ngày xưa, chạy thẳng qua Tân Cương đó sẽ nối tiếp xuống phía nam tới cảng nước sâu khổng lồ mà Trung Quốc đang tiến hành xây dựng tại Gwadar, Pakistan. Vào cuối năm 2015, Trung Quốc đã ký một hợp đồng thuê cảng 40 năm. Hải cảng này là một phần trong biện pháp mà theo đó “Vành đai và Con đường” sẽ được kết nối.
https://thuviensach.vn
Hầu hết các thị trấn và thành phố mới mọc lên ở Tân Cương chủ yếu là người tộc Hán định cư, họ bị thu hút bởi công ăn việc làm trong các nhà máy mới mà chính quyền trung ương đầu tư. Một ví dụ điển hình là thành phố Thạch Hà Tử, cách tám lăm dặm về phía tây bắc thủ phủ Urumqi. Trong tổng số 650.000 dân cư của vùng, có ít nhất 620.000 người được cho là thuộc dân tộc Hán. Trên tổng thể, ước chừng Tân Cương có khoảng 40% người Hán, theo một ước tính dè dặt - và thậm chí đa số dân của chính Urumqi cũng là người Hán, mặc dù các số liệu chính thức rất khó nắm bắt và không phải lúc nào cũng đáng tin cậy do tính nhạy cảm về chính trị của chúng.
Đã xuất hiện một “Đại hội Đại biểu Duy Ngô Nhĩ thế giới” đóng trụ sở tại Đức, và “Phong trào Giải phóng Đông Turkestan“ được thành lập ở Thổ Nhĩ Kỳ; nhưng những người Duy Ngô Nhĩ chủ trương ly khai không có một nhân vật kiểu như Đạt Lai Lạt Ma để có thể thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông, và sự nghiệp giành độc lập của họ hầu như không được thế giới biết đến. Trung Quốc cố gắng giữ tình trạng y nguyên như vậy, đảm bảo cho họ quan hệ thân thiện với càng nhiều các quốc gia láng giềng càng tốt, nhằm ngăn chặn các phong trào độc lập có tổ chức tìm được tuyến tiếp tế hậu cần hoặc căn cứ nào đó để rút lui. Bắc Kinh cũng chủ chương tô vẽ những người chủ chương ly khai y như khủng bố Hồi giáo. Al-Qaeda và các nhóm khác có cơ sở tại những nơi như Tajikistan quả thực là đang nỗ lực liên kết với các phần tử ly khai Duy Ngô Nhĩ, nhưng phong trào này chủ yếu là mang tính dân tộc chủ nghĩa. Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng súng, bom, và dao trong khu vực này, nhắm vào các mục tiêu là chính phủ và/ hoặc người Hán, trong vài năm vừa qua có vẻ như sẽ tiếp tục và có thể leo thang thành một cuộc nổi dậy bùng nổ hết cỡ.
Năm 2016, các quan chức chính quyền địa phương cho biết rằng nỗ lực loại bỏ các phần tử cực đoan đã “làm suy yếu đáng kể” phong trào Hồi giáo mới manh nha này. Tuy nhiên, với việc quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cho biết họ đã bắt giữ 324 nghi can là phần tử thánh chiến Hồi giáo từ Tân Cương đang
https://thuviensach.vn
trên đường tới Syria trong năm 2015, cố gắng xoa dịu dư luận trong tuyên bố trên dường như không có kết quả. Sự thất bại toàn diện của Nhà nước Hồi giáo (IS) tại lraq và các vùng thuộc của Syria vào năm 2017 cũng đã gia tăng nguy cơ những chiến binh hiếu chiến từ nước ngoài trở về quê quán nhưng không chịu an phận.
Trung Quốc sẽ không nhượng bộ lãnh thổ này, và cũng như ở Tây Tạng, cơ hội giành độc lập của Tân Cương đang dần khép lại. Cả hai đều là vùng đệm, trong đó có một vùng là tuyến ngoại thương lớn trên bộ, và quan trọng nhất - cả hai (mặc dù với thu nhập giới hạn) cho một nền kinh tế phải liên tục sản xuất và bán hàng nếu Trung Quốc cứ tiếp tục tăng trưởng và để ngăn ngừa nạn thất nghiệp hàng loạt. Nếu không làm được điều đó nhiều khả năng dẫn đến sự bất ổn dân sự trên diện rộng, đe dọa quyền kiểm soát của đảng Cộng sản và sự thống nhất của đất nước Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc có những lý do tương tự để chống lại xu hướng dân chủ và các quyền cá nhân. Nếu người dân được quyền tự do bỏ phiếu, sự thống nhất của người Hán có thể bắt đầu rạn nứt, hoặc có nhiều khả năng hơn, các vùng nông thôn và thành thị sẽ nảy sinh xung đột. Điều đó, đến lượt nó, sẽ khuyến khích dân cư trong vùng đệm trở nên táo bạo hơn, và làm Trung Quốc suy yếu thêm. Mới chỉ là một thế kỷ trôi qua kể từ lần nhục nhã gần đây nhất, khi Trung Quốc bị các cường quốc nước ngoài ức hiếp; đối với Bắc Kinh, sự thống nhất và sự tiến bộ kinh tế là những ưu tiên hàng đầu so với các nguyên tắc dân chủ.
Cách nhìn của người Trung Quốc về xã hội rất khác với phương Tây. Tư duy phương Tây thấm nhuần ý tưởng về quyền cá nhân; tư duy Trung Quốc coi tập thể cao hơn cá nhân. Điều mà phương Tây coi là quyền con người thì lãnh đạo Trung Quốc coi là những lý thuyết nguy hiểm gây hại cho đa số, và phân lớn dân chúng chấp nhận rằng, ít nhất, gia đình họ tộc phải được đặt lên trên so với cá nhân.
https://thuviensach.vn
Có lần tôi đã đưa vị đại sứ Trung Quốc ở London tới một nhà hàng Pháp cao cấp với hy vọng ông ta sẽ lặp lại câu trả lời được trích dẫn nhiều lần của Thủ tướng Chu Ân Lai cho câu hỏi của Richard Nixon: “Tác động của cuộc Cách mạng Pháp là gì?” Vị thủ tướng trả lời: “Quá sớm để nói.” Đáng buồn là điều này không xảy ra, nhưng tôi đã nhận được một bài giảng nghiêm khắc rằng sự áp đặt đầy đủ của “cái mà quý vị gọi là nhân quyền” ở Trung Quốc sẽ dẫn tới tình trạng bạo lực và chết chóc trên diện rộng như thế nào. Sau đó tôi nhận được câu hỏi, “Tại sao anh nghĩ những giá trị của các anh sẽ áp dụng được trong một nền văn hóa mà các anh không hiểu?”
Thỏa thuận giữa các lãnh đạo đảng và người dân Trung Quốc, cho một thế hệ hiện nay, vẫn là “Chúng tôi sẽ làm cho các anh sống tốt hơn - các anh sẽ tuân thủ mệnh lệnh của chúng tôi”. Chừng nào nền kinh tế còn giữ được đà tăng trưởng, giao kèo vĩ đại này vẫn có thể tồn tại lâu dài. Nếu nền kinh tế khựng lại, hoặc suy thoái, thỏa thuận đó sẽ bị hủy bỏ. Tâm mức hiện thời của các cuộc biểu tình, và sự tức giận trước tình cảnh tham nhũng và thiếu hiệu quả chính là bằng chứng cho những điều sẽ xảy ra nếu thỏa thuận đó tan vỡ.
Còn một vấn đề đang lớn dần đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc là khả năng cung cấp lương thực cho dân cư. Theo bộ Nông nghiệp, hơn 40% đất trồng trọng đang bị ô nhiễm hoặc có lớp đất bề mặt đang bị bào mòn dần.
Trung Quốc rơi vào một trò chơi đuổi bắt. Họ cần phải duy trì công nghiệp hóa do họ đang hiện đại hóa và nâng cao mức sống, nhưng chính quá trình đó lại đe dọa đến việc sản xuất lương thực. Nếu Trung Quốc không thể giải quyết được vấn đề này thì, tình trạng bất ổn sẽ xảy ra.
Hiện nay có khoảng 500 cuộc biểu tình mỗi ngày trên khắp Trung Quốc, chủ yếu là biểu tình ôn hòa, về nhiều vấn đề khác nhau. Nếu xuất hiện
https://thuviensach.vn
tình trạng thất nghiệp hàng loạt, hoặc nạn đói ở quy mô lớn, hai vấn đề này sẽ bùng nổ cả về số lượng và mức độ sử dụng bạo lực cả hai bên.
Vì vậy, về phương diện kinh tế, hiện nay Trung Quốc cũng có một thỏa thuận lớn với thế giới - “Chúng tôi sẽ làm ra những thứ rẻ tiền - các anh mua nó với giá rẻ.
Tạm gác lại cái thực tế là chi phí lao động ở Trung Quốc đang tăng lên và đang bị cạnh tranh bởi Thái Lan và Indonesia, cạnh tranh là về giá nếu không phải là về lượng. Điều gì sẽ xảy ra nếu các nguồn tài nguyên cần thiết để sản xuất hàng hóa trở nên cạn kiệt, nếu ai đó giành được tài nguyên trước, hoặc nếu hàng hóa bị phong tỏa trên đường biển - cả xuất và nhập khẩu? Đề đối phó với chuyện đó, bạn sẽ cần có hải quân.
Người Trung Quốc là dân đi biển cừ khôi, đặc biệt là trong thế kỷ 15, khi họ rong ruổi trên Ấn Độ Dương. Những chuyến thám hiểm của Đô đốc Trịnh Hòa đã mạo hiểm đi xa tới tận Kenya. Nhưng đây là những cuộc thao diễn nhằm kiếm tiền, không phải là những trù tính về quyền lực, và chúng không được hoạch định để thiết lập những căn cứ tiên phương nhằm hỗ trợ các hoạt động quân sự.
Sau khi mất bốn ngàn năm hỗn loạn để củng cố khối đại lục của mình, Trung Quốc hiện đang xây dựng một lực lượng Hải quân Nước xanh dương (blue-water navy). Hải quân Nước xanh lục (Green-water navy) tuần tra lãnh hải của Trung Quốc, trong khi Hải quân Nước xanh dương tuần tra các đại dương. Phải mất ba mươi năm nữa (giả định rằng nền kinh tế vẫn phát triển), Trung Quốc mới xây dựng được lực lượng hải quân đủ mạnh để có thể thực sự thách thức lực lượng hải quân hùng mạnh nhất từng thấy trên thế giới - hải quân Hoa Kỳ. Nhưng về trung hạn và ngắn hạn, trong khi xây dựng, huấn luyện học hỏi, hải quân Trung Quốc sẽ va chạm với các đối thủ trên biển; và việc xử lý những va chạm ấy ra sao - đặc biệt là với Hoa Kỳ - sẽ xác định cục diện quyền lực chính trị lớn của thế kỷ này.
https://thuviensach.vn
Những trẻ hiện đang được huấn luyện trên chiếc tàu sân bay “second hand” (tàu Liêu Ninh) mà Trung Quốc tận dụng từ ụ tàu phế thải của Ukraine sẽ là những người, nếu họ lên đến cấp bậc đô đốc, có đủ kiến thức để biết cách đưa một biên đội tàu sân bay mười hai chiến hạm đi vòng quanh thế giới rồi quay về - và tham chiến dọc đường nếu cần thiết. Như một số nước Ả-rập giàu có giờ đây đã hiểu, bạn không thể đến siêu thị và mua một đội quân thiện chiến.
Mùa hè năm 2017, người Trung Quốc đưa tàu Liêu Ninh tới cảng Hồng Kông, đi cùng là hai tàu khu trục tên lửa dẫn đường, một tàu chiến nhỏ với tên lửa dẫn đường và hai tàu hộ vệ cỡ nhỏ. Đó là thời điểm tôn vinh chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình - nhưng đồng thời đó cũng là một lời nhắc nhở cho Hồng Kông, và cả thế giới, về việc ai là kẻ thực sự nắm quyền kiểm soát Hồng Kông, và ai chủ định kiểm soát biển Đông một ngày gần đây.
Một vài tháng trước đó, Trung Quốc đã hạ thủy tàu sân bay thứ hai của mình. Con tàu này có thể vượt biển, nhưng chưa sẵn sàng tham gia chiến đấu. Tàu sân bay thứ ba dự định sẽ được xuất xưởng năm 2021. Người ta nghi ngờ việc con tàu này sẽ sử dụng năng lượng hạt nhân, và nó thiếu một số năng lực của các tàu sân bay Hoa Kỳ; tuy nhiên, nó sẽ cho phép Trung Quốc vươn xa hơn và có nhiều lựa chọn hơn.
Dần dần, Trung Quốc sẽ đưa ngày càng nhiều tàu chiến ra các vùng biển ngoài khơi của họ, và ra Thái Bình Dương. Mỗi lần thêm một tàu Trung Quốc được hạ thủy, Hoa Kỳ sẽ bớt đi một ít không gian trên các vùng biến. Hoa Kỳ biết điều này, và biết Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng một hệ thống tên lửa đất đối hạm để nhân đôi lý do tại sao hải quân Hoa Kỳ, hay bất kỳ đồng minh nào của họ, một ngày nào đó sẽ phải suy nghĩ kỹ về việc đi ngang biển Đông. Hay đúng hơn, đi ngang bất kỳ vùng biển “Trung Hoa” nào khác. Hỏa lực đất đối hạm ngày càng mạnh của Trung Quốc sẽ cho phép hải quân đang phát triển của họ có thể mạo hiểm rời xa bờ biển hơn vì vai
https://thuviensach.vn
trò phòng thủ của hải quân sẽ bớt quan trọng hơn. Một dấu hiệu về điều này đã xuất hiện vào tháng Chín năm 2015 khi Trung Quốc cho năm tàu chiến đi qua (một cách hợp pháp) các vùng lãnh hải của Hoa Kỳ ở ngoài khơi Alaska. Sự việc này xảy ra tại thời điểm ngay trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Tập không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Eo biển Bering là con đường nhanh nhất để tàu chiến Trung Quốc đến Bắc Băng Dương, và chúng ta sẽ còn thấy nhiều tàu Trung Quốc hơn ở ngoài khơi bờ biển Alaska trong những năm tới. Trong khi đó, những dự án không gian đang trên đà phát triển của Trung Quốc sẽ dõi theo mọi động thái của Hoa Kỳ và đồng minh.
Như vậy, sau khi đã đi theo chiều kim đồng hồ quanh biên giới đất liền, giờ đây chúng ta nhìn về phía đại dương nằm ở hướng đông, nam và tây nam.
Giữa Trung Quốc và Thái Bình Dương là quần đảo mà Bắc Kinh gọi là “Chuỗi đảo thứ nhất” trong chiến lược Chuỗi ngọc trai. Ngoài ra còn có tường Chín đoạn (đường lưỡi bò), gần đây đã trở thành mười đoạn vào năm 2013 để bao gồm cả Đài Loan. Trung Quốc tuyên bố đây là đường đánh dấu lãnh hải của mình. Cuộc tranh chấp về quyền sở hữu hơn 200 hòn đảo nhỏ và những rạn san hô đang đầu độc mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng. Niềm tự hào dân tộc khiến Trung Quốc muốn kiểm soát hành lang xuyên qua chuỗi đảo này; còn địa chính trị bắt họ phải làm như vậy. Sự kiểm soát này giúp họ tiếp cận các tuyến vận tải đường biển quan trọng nhất thế giới trên biển Đông. Trong thời bình, tuyến đường này được để mở ở nhiều vị trí khác nhau, nhưng trong thời chiến, chúng có thể dễ dàng bị chặn lại, do đó phong tỏa Trung Quốc. Tất cả các cường quốc đều tận dụng thời gian hòa bình để chuẩn bị cho thời điểm chiến tranh nổ ra.
Thông lộ ra Thái Bình Dương bị cản trở trước hết bởi Nhật Bản. Tàu Trung Quốc xuất phát từ biển Hoàng Hải và vòng qua bán đảo Triều Tiên sẽ phải băng qua biến Nhật Bản và ngược lên để vượt qua eo biển La Perouse
https://thuviensach.vn
phía trên Hokkaido rồi đi vào Thái Bình Dương. Phần lớn vùng biển này thuộc lãnh hải của Nhật Bản hoặc Nga, và vào thời điểm căng thẳng chính trị lên cao, hệ thậm chí là có chiến sự, Trung Quốc sẽ không thể tiếp cận được, Nhưng kể cả khi làm được điều đó, họ vẫn phải bẻ lái qua quần đảo Kuril ở phía đông bắc của Hokkaido, nằm dưới quyền kiểm soát của Nga nhưng Nhật Bản cũng đang đòi quyền sở hữu.
Nhật bản còn tranh chấp với Trung Quốc về chuỗi đảo không có người ở mà họ gọi là Senkaku và người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, nằm ở phía đông bắc Đài Loan. Đây là vấn đề gây bất đồng lớn nhất trong tất cả các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ giữa hai nước. Thay vào đó, nếu tàu Trung Quốc đi qua, hoặc thực ra là rời cảng, từ biển Hoa Đông ngoài khơi Thượng Hải và đi theo một đường thẳng ra Thái Bình Dương, thì họ phải vượt qua quần đảo Ryukyu, bao gồm Okinawa - nơi không chỉ có một căn cứ quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ, mà còn một số lượng cực nhiều tên lửa đất đối hạm mà người Nhật có thể bố trí dày đặc tại mũi đất của hòn đảo này. Thông điệp từ Tokyo là: “Chúng tôi biết các anh đang đi ngang ngoài kia, nhưng đừng làm phiền chúng tôi trên đường ra.
Một mồi lửa tiềm tàng nữa cũng có nguy cơ bùng nổ, với việc Nhật Bản tập trung vào các mỏ khí đốt ở biển Hoa Đông. Bắc Kinh đã tuyên bố một “Vùng nhận dạng phòng không“ bao trùm hầu hết vùng biển này, yêu cầu bất kỳ ai cũng phải thông báo trước khi bay qua nó. Hoa Kỳ và Nhật đang cố phớt lờ tuyên bố này, nhưng nó sẽ trở thành một vấn đề nóng bỏng vào một thời điểm nào đó mà Bắc Kinh lựa chọn, hoặc khi có một sự cố bị xử lý sai lầm.
Bên dưới Okinawa là Đài Loan, nằm ngoài khơi bờ biển Trung Quốc và tách biển Hoa Đông ra khỏi biển Đông (mà Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam). Trung Quốc tuyên bố Đài Loan là tỉnh thứ hai mươi ba của mình, nhưng hiện tại Đài Loan là một đồng minh của Hoa Kỳ với lực lượng hải quân và không quân được Washington trang bị đến tận răng. Đài Loan thuộc
https://thuviensach.vn
quyền kiểm soát của người Trung Hoa từ thế kỷ 17, nhưng chỉ bị cai trị bởi Trung Quốc trong 5 năm ở thế kỷ trước (từ năm 1945 đến năm 1949).
Tên chính thức của Đài Loan là Cộng hòa Trung Hoa (ROC), để phân biệt nó với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, mặc dù cả hai bên đều tin rằng họ phải có quyền quản hạt đối với cả hai vùng lãnh thổ. Đây là một tên gọi mà Bắc Kinh có thể chấp nhận được vì nó không tuyên xưng Đài Loan là một quốc gia riêng biệt. Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc xâm lược, chiếu theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979. Tuy nhiên, nếu Đài Loan tuyên bố độc lập hoàn toàn với Trung Quốc, điều mà Trung Quốc sẽ coi như một hành động chiến tranh, thì Hoa Kỳ không bắt buộc phải đến giải cứu Đài Loan, vì động thái tuyên bố độc lập sẽ bị coi là một sự khiêu khích.
Chính phủ hai bên ganh đua quyết liệt để giành sự công nhận cho chính mình và sự phủ nhận cho phía bên kia ở mỗi một quốc gia trên thế giới, và trong hầu hết các trường hợp Bắc Kinh là bên chiến thắng. Khi bạn có một thị trường tiềm năng 1,4 tỷ người để mời chào so với thị trường 23 triệu người của đối thủ, thì hầu hết các quốc gia không phải cân nhắc quá lâu. Tuy nhiên có hai mươi quốc gia (chủ yếu là các quốc gia đang phát triển như Swaziland, Burkina Faso và các đảo São Tomé và Príncipe) lựa chọn Đài Loan, và thường được tưởng thưởng hào phóng.
Trung Quốc quyết tâm phải có được Đài Loan, nhưng còn lâu mới đủ khả năng thách thức nó về mặt quân sự. Thay vào đó, họ đang sử dụng sức mạnh mềm, bằng cách tăng cường thương mại và du lịch giữa hai thể chế. Trung Quốc muốn lôi kéo Đài Loan trở lại vòng tay của mình. Vào thời điểm diễn ra cuộc biểu tình sinh viên năm 2014 tại Hồng Kông, một trong những lý do khiến giới chức trách không lập tức đánh họ văng khỏi đường phố - như họ đã làm tại Urumqi chẳng hạn - là do ống kính máy quay của toàn thế giới đang chĩa vào đó và sẽ thu được những cảnh bạo lực. Ở Trung Quốc, phần lớn những thước phim này sẽ bị kiểm duyệt, nhưng ở Đài Loan,
https://thuviensach.vn
người dân sẽ thấy những gì cả thế giới đã thấy và họ sẽ tự hỏi mình muốn một mối quan hệ gần gũi đến mức nào với một thế lực như vậy. Bắc Kinh do dự; họ đang chơi trò chơi dài hạn.
Cách tiếp cận bằng quyền lực mềm nghĩa là thuyết phục người dân Đài Loan rằng họ không có gì phải sợ khi trở về với “Đất mẹ”. Vùng Nhận dạng Phòng không, việc cho tàu ngầm nổi lên gần tàu Hoa Kỳ và việc xây dựng lực lượng hải quân đều nằm trong một kế hoạch dài hạn nhằm làm suy yếu quyết tâm của Hoa Kỳ hòng bảo vệ một hòn đảo cách 140 dặm ngoài khơi Trung Quốc đại lục, nhưng cách vùng duyên hải phía tây của Hoa Kỳ tới 6.400 dặm.
Từ biển Đông, tàu Trung Quốc vẫn gặp nhiều vấn đề, cho dù họ hướng đến Thái Bình Dương hay sang Ấn Độ Dương - vốn là con đường vận chuyển hàng hải của thế giới cho mặt hàng khí đốt và dầu mỏ, không có nó Trung Quốc sẽ sụp đổ.
Để đi về phía tây đến với các quốc gia xuất khẩu năng lượng vùng vịnh Ba Tư, họ phải đi qua Việt Nam. Như chúng ta đã lưu ý, Việt Nam gần đây đã bắt đầu thương lượng với Hoa Kỳ. Họ còn phải đi gần Philippines, một đồng minh của Hoa Kỳ, trước khi cố gắng xuyên qua eo biển Malacca nằm giữa Malaysia, Singapore và Indonesia, tất cả đều có quan hệ với Hoa Kỳ về ngoại giao và quân sự. Eo biển này trải dài xấp xỉ năm trăm dặm và rộng chưa đầy hai dặm ở nơi hẹp nhất của nó. Nó luôn luôn là một nút thắt - và Trung Quốc vẫn luôn dễ bị mắc kẹt tại đó. Tất cả các quốc gia nằm dọc theo và ở gần những ngả đường vào eo biển này đều lo ngại trước ưu thế áp đảo của Trung Quốc, và hầu hết đều có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh,
Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn bộ biển Đông, và các nguồn cung cấp năng lượng được cho là năm dưới đáy vùng biển này. Tuy nhiên, Malaysia, Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Brunei cũng có những tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc và chống lẫn nhau. Ví dụ, Philippines
https://thuviensach.vn
và Trung Quốc tranh cãi gay gắt về Đá Vành Khăn, một rạn san hô lớn hình vòng thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam trên biển Đông mà một ngày nào đó có thể sẽ xứng với tên gọi của nó (tên tiếng Anh của Đá Vành Khăn là Mischief: mối bất hòa). Mỗi rạn trong số hàng trăm rạn san hô đang tranh chấp, đôi khi chỉ là một mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước, cũng có thể biến thành một cuộc khủng hoảng ngoại giao, bởi vì xung quanh mỗi mỏm đá là một tranh chấp tiềm tàng về khu vực đánh cá, quyền thăm dò tài nguyên và chủ quyền lãnh thổ.
Để xúc tiến các mục tiêu của mình, Trung Quốc sử dụng các phương pháp hút cát và bởi lấp để bắt đầu biến một loạt các rạn và vòng san hô trong lãnh thổ tranh chấp thành các đảo nhỏ. Ví dụ, Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường 5a của Việt Nam hiện nay đã là một hòn đảo hoàn chỉnh với một hải cảng và đường băng có thể tiếp nhận chiến đấu cơ phản lực, giúp Trung Quốc kiểm soát không phận trong khu vực tốt hơn trước đây rất nhiều. Một rạn san hô khác đã có các đơn vị pháo binh đóng quân tại đó.
Phát biểu vào mùa hè năm 2015, bộ trưởng Quốc _ phòng Hoa Kỳ, Ash Carter nói, “Việc biến một mỏm - đá ngầm thành một sân bay đơn giản không đem lại các quyền hạn về chủ quyền lãnh thổ cũng chẳng được quyền cấp phép quản lý quá cảnh hàng không hoặc hàng hải quốc tế.“ Phát biểu này được đưa ra chẳng bao lâu sau khi Trung Quốc tuyên bố đã chuyển tư thế quân sự của mình trong khu vực, từ phòng thủ sang vừa tấn công vừa phòng thủ. Động thái này nhấn mạnh ý định của Trung Quốc muốn làm kẻ thiết lập luật chơi trong khu vực, và vì điều đó Trung Quốc phải nắm chắc các tuyến đường qua biển Đông, cả vì mục đích xuất khẩu hàng hóa của mình ra thị trường thế giới, cũng như việc nhập các mặt hàng thiết yếu vào Trung Quốc để chế tạo những hàng hóa xuất khẩu ấy - trong đó có dầu mỏ, khí đốt và các kim loại quý - cho nên Trung Quốc không thể để cho con đường này bị phong tỏa. Ngoại giao là một giải pháp; phát triển hải quân là một giải pháp khác; nhưng giải pháp đảm bảo nhất vẫn là các đường ống dẫn, đường bộ và hải cảng.
https://thuviensach.vn
Về ngoại giao, Trung Quốc sẽ cố gắng lôi kéo các quốc gia Đông Nam Á tách khỏi Hoa Kỳ bằng cả cây gậy và củ cà rốt. Dùng quá nhiều gậy, các quốc này vẫn trông chờ vào sự bảo hộ đến từ bên kia Thái Bình Dương.
Các bản đồ khu vực mà Trung Quốc hiện đang in ra cho thấy họ coi gần như toàn bộ biển Đông là của họ. Đây là một tuyên bố tỏ rõ ý định, được hậu thuẫn bằng các cuộc tuần tra hải quân hung hăng và các tuyên bố chính thức. Bắc Kinh toan tính thay đổi cách suy nghĩ và hành xử của Hoa Kỳ - liên tục thúc đẩy mưu đồ riêng của mình cho đến khi những kẻ cạnh tranh với họ phải nhường bước. Nguy cơ mất mát ở đây chính là khái niệm về các vùng biển quốc tế và quyền đi lại tự do trong thời bình; đó không phải là điều các cường quốc khác dễ dàng từ bỏ.
Với ý nghĩ đó, Anh đã thông báo vào mùa hè năm 2017 rằng một trong những sứ mệnh đầu tiên được thực hiện bởi hai tàu sân bay mới của họ chính là một cuộc hành quân vì “quyền tự do hàng hải” xuyên qua biển Đông. Bắc Kinh giữ một quan điểm rất mập mờ về điều này, dù đây được coi là một hành động khiêu khích, và điều đáng chú ý là người Anh đã không nói cụ thể khi nào họ sẽ bắt đầu cuộc hành quân.
Tác giả địa chính trị Robert Kaplan đã dẫn giải lý thuyết cho rằng biển Đông đối với Trung Quốc trong thế kỷ 21 cũng tương tự vùng Caribe đối với Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Hoa Kỳ đã củng cố khối đại lục của họ, trở thành một cường quốc trên hai đại dương (Đại Tây Dương và Thái Bình Dương), và sau đó tiến tới kiểm soát các vùng biển xung quanh, đẩy Tây Ban Nha ra khỏi Cuba.
Trung Quốc cũng có ý định trở thành cường quốc hai đại dương (Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Để đạt được điều này, Trung Quốc đang đầu tư vào các cảng nước nước sâu ở Miến Điện, Bangladesh, Pakistan và Sri Lanka - những khoản đầu tư mang lại cho họ các mối quan hệ tốt, mang lại
https://thuviensach.vn
cho hải quân tương lai của họ khả năng có được các căn cứ thân thiện để ghé qua hoặc trú đóng, và các mối làm ăn thương mại bắc cầu trở lại quê nhà.
Các cảng tại Ấn Độ Dương và vịnh Bengal là một phần của kế hoạch lớn hơn để đảm bảo tương lai của Trung Quốc. Việc thuê cảng nước sâu mới tại Gwadar, Pakistan, sẽ là chìa khóa (nếu khu vực Baluchistan của Pakistan đủ ổn định) để tạo ra một tuyến đường bộ thay thế dẫn tới Trung Quốc. Từ bờ biển phía tây của Miến Điện, Trung Quốc đã xây dựng các đường ống dẫn khí thiên nhiên và dầu mỏ nối vịnh Bengal với vùng Tây Nam Trung Quốc - một biện pháp của Trung Quốc nhằm giảm bớt sự phụ thuộc đáng quan ngại vào eo biển Malacca, nơi gần 80% nguồn cung cấp năng lượng của họ được vận chuyển qua. ĐIều này phần nào giải thích lý do tại sao, khi Miến Điện bắt đầu từng bước mở cửa ra thế giới bên ngoài vào năm 2010, Trung Quốc không phải là kẻ duy nhất đắp con đường đến tận cửa nhà họ. Hoa Kỳ và Nhật Bản nhanh chóng thiết lập những quan hệ tốt hơn và cả Tổng thống Obama lẫn Thủ tướng Abe đều đích thân đến thăm Miến Điện để bày tỏ sự tôn trọng. Chính quyền Trump nói rằng họ không muốn bị vướng vào những chuyện mạo hiểm ở nước ngoài, nhưng trò đôi co ở Miến Điện không phải là một trò mạo hiểm, đó là một chiến lược dài hạn. Nếu Hoa Kỳ có thể gây ảnh hưởng đến Miến Điện, điều đó góp phần chặn đứng Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc đang thắng trong ván cờ đặc biệt này trên bàn cờ toàn cầu, nhưng Hoa Kỳ vẫn có khả năng giành ưu thế chừng nào chính quyền Miến Điện còn tin rằng Washington sẽ đứng về phía họ.
Trung Quốc cũng đang xây dựng các cảng ở Kenya, các tuyến đường sắt ở Angola và một đập thủy điện ở Ethiopia. Họ đang lùng sục suốt chiều dài và chiều rộng của toàn bộ châu Phi để vơ vét khoáng sản và kim loại quý.
Các công ty và công nhân Trung Quốc tràn đi khắp thế giới; dần dần quân đội Trung Quốc sẽ theo sau. Quyền lực lớn dẫn đến trách nhiệm lớn. Trung Quốc sẽ không để mặc các tuyến đường biển trong khu vực của mình
https://thuviensach.vn
cho Hoa Kỳ kiểm soát. Sẽ có những sự kiện đòi hỏi Trung Quốc phải hành động ở bên ngoài khu vực của mình. Thiên tai hoặc một vụ khủng bố/bắt con tin liên quan đến một số lượng lớn công nhân Trung Quốc sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải hành động, và việc đó tất sẽ dẫn đến việc thiết lập các căn cứ ở hải ngoại, hoặc ít nhất là sự chấp thuận từ các quốc gia khác cho phép Trung Quốc đi qua lãnh thổ của họ. Hiện có hàng chục triệu người Trung Quốc trên khắp thế giới, trong một số trường hợp họ lưu trú trong những khu nhà tập thể liên hợp khổng lồ dành cho công nhân ở nhiều vùng của châu Phi.
Trung Quốc sẽ phải phấn đấu để trở nên nhanh nhạy trong thập niên tới. Họ hầu như không thể điều động trang thiết bị cứu trợ của Quân đội Nhân dân trong công tác giải quyết hậu quả của trận động đất tàn khốc năm 2008 tại Tứ Xuyên. Họ huy động được quân đội, nhưng không thể huy động trang thiết bị của quân đội; việc di chuyển ra nước ngoài với tốc độ cao còn là một thách thức lớn hơn nữa.
Điều này sẽ thay đổi. Trung Quốc không bị áp lực hoặc bị thúc đẩy bởi vấn đề nhân quyền, xét về phương diện ngoại giao hoặc kinh tế, trong các giao dịch với thế giới. Họ được an toàn trong biên giới của mình trong khi căng sức chống lại các mối liên kết của “Chuỗi đảo thứ nhất” trong Chuỗi ngọc trai, và hiện nay đang tự tin tiến ra toàn cầu. Nếu có thể tránh được một cuộc xung đột nghiêm trọng với Nhật Bản hay Hoa Kỳ, khi ấy nguy cơ thực sự duy nhất đối với Trung Quốc là chính bản thân họ.
Có 1,4 tỷ lý do tại sao Trung Quốc có thể thành công, và 1,4 tỷ lý do tại sao Trung Quốc không thể vượt qua Hoa Kỳ để trở thành thế lực lớn nhất trên thế giới. Một công cuộc đại suy thoái trong thập niên 1930 có thể khiến Trung Quốc thụt lùi nhiều thập niên. Trung Quốc đã tự khóa mình vào nền kinh tế toàn cầu. Nếu chúng ta không mua, họ sẽ không thể sản xuất. Và nếu họ không sản xuất, sẽ xảy ra thất nghiệp hàng loạt. Nếu có sự thất nghiệp hàng loạt và dài hạn, trong một thời đại khi người Trung Quốc là một dân
https://thuviensach.vn
tộc sống chen chúc trong các khu đô thị, tình trạng bất ổn xã hội tất phải xảy ra trên quy mô chưa từng thấy – giống như tất cả những thứ khác của Trung Quốc hiện đại.
https://thuviensach.vn
Chương Ba: Hoa Kỳ
“Những tin đồn về cái chết của tôi đã bị thổi phồng quá nhiều” Mark Twain.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Vị trí, vị trí và vị trí. Nếu bạn trúng số và đang muốn Vẫn một nơi để sống, quốc gia đầu tiên mà các tay cò nhà đất chỉ cho bạn sẽ là Hoa Kỳ.
Câu trích dẫn của Twain nhắc tới những tin tức thất thiệt về cái chết của ông, nhưng có thể lúc ấy ông cũng đang nói đến những tin tức thái quá về sự sụp đổ của Hoa Kỳ.
Nó có một nơi cư trú tuyệt vời, cảnh quan tráng lệ và nguồn nước thì sạch miễn chê, các tuyến giao thông hoàn hảo. Còn hàng xóm? Hàng xóm cũng tất tử tế, không bao giờ có chuyện rắc rối.
Nếu bạn chia cắt không gian sống này thành nhiều phần nhỏ, điều đó sẽ làm giảm đáng kể giá trị của nó - đặc biệt nếu làm cho cư dân không nói cùng một ngôn ngữ và trả tiền thuê nhà bằng các loại tiền tệ khác nhau - nhưng khi không gian sống ấy thống nhất như một mái nhà, một gia đình, thì không gì có thể tốt hơn.
Có năm mươi tiểu bang Hoa Kỳ, nhưng chúng quy tụ lại thành một quốc gia theo cách mà hai mươi tám quốc gia có chủ quyền của Liên minh châu Âu không bao giờ có thể làm được. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều có bản sắc dân tộc đậm nét hơn, xác định hơn so với bất kỳ tiểu bang nào của Hoa Kỳ. Thật dễ dàng để thấy một người Pháp, trước tiên có chất Pháp, kế đến mới là chất châu Âu, hoặc một người dân EU chẳng trung thành mấy với ý tưởng của châu Âu; nhưng thật dễ để tìm thấy một người Mỹ gắn bó với Hợp chúng quốc của mình theo cách mà rất ít người châu Âu nào có được với Liên minh châu Âu của họ. Điều này có thể được giải thích bằng địa lý, và bởi lịch sử về quá trình thống nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Phác họa lại quốc gia rộng lớn này bằng những nét vẽ đậm, phóng khoáng, từ đông sang tây, bạn có thể chia nó thành ba phần.
https://thuviensach.vn
Đầu tiên là Bình nguyên Bờ Đông dẫn đến dãy Appalachia, một khu vực được tưới tiêu tốt nhờ những con sông ngắn nhưng dễ dàng giao thông, cùng với thổ nhưỡng màu mỡ. Sau đó, đi xa hơn về phía tây, bạn có Đại bình nguyên trải dài tới tận dãy Rocky, và bên trong lãnh thổ này là lưu vực Mississippi với mạng lưới vĩ đại các con sông, có thể giao thông qua lại, chảy vào sông Mississippi chạy thẳng một lèo xuống tận vịnh Mexico. Vịnh biển này được che chở bởi bán đảo Florida và một số hòn đảo. Một khi vượt qua vùng núi non hùng vĩ ở rặng núi của dãy Rocky là lúc bạn đến được vùng sa mạc, tiếp đó là dãy Sierra Nevada, rồi một đồng bằng ven biển hẹp, và cuối cùng đến bờ biển Thái Bình Dương.
Ở phía bắc, phía trên Ngũ Đại Hồ, là Lá chắn Canada, vùng núi đá tiền kỷ Cambria lớn nhất thế giới, một phần lớn của nó tạo thành rào chắn cho các khu định cư của con người. Về phía tây nam - sa mạc. Địa lý quy định rằng nếu một thực thể chính trị có thể hình thành và sau đó kiểm soát dải đất “sáng tươi từ đại dương bên này đến đại dương bên kia“ (Katharine Lee Bates), thì nó sẽ là một thế lực vĩ đại, vĩ đại nhất mà lịch sử từng biết đến. Một khi đã đạt được quyền lực đó, Liên bang Hoa Kỳ sẽ gần như bất khả xâm phạm về mặt quân sự. Như chúng ta đã thấy ở chương về Nga, Hoa Kỳ có “chiều sâu chiến lược“ để một lực lượng phòng thủ có thể lùi sâu. Kích thước của Canada, (và Mexico ở một mức độ kém hơn) cũng là một lợi thế (của Hoa Kỳ). Còn bất kỳ thế lực thù địch nào cố gắng xâm nhập bằng sức mạnh từ đường biển sẽ phải chấp nhận những đường tiếp vận hậu cần kéo dài đến khó tin, điều này cũng đúng với các lực lượng trên bộ.
Điều quan trọng không kém, trong thời hiện đại, là bất cứ kẻ nào đủ dại dột để rắp tâm xâm lược Hoa Kỳ sẽ sớm phải suy nghĩ về thực tế là Hoa Kỳ có hàng trăm triệu khẩu súng, sẵn sàng cung cấp cho một dân chúng vô cùng coi trọng cuộc sống, tự do và sự mưu cầu hạnh phúc của mình. Ngoài quân đội hùng mạnh, Hoa Kỳ còn có Vệ binh quốc gia (National Guard), cảnh sát tiểu bang và như chúng ta thấy trong những dịp khác nhau vào năm 2015, lực lượng cảnh sát đô thị có thể chuyển thành một đơn vị quân đội. Trong
https://thuviensach.vn
trường hợp bị xâm lược, mỗi thị trấn của Hoa Kỳ như Folsom, Fairfax hay Farmerville sẽ nhanh chóng biến thành một thành phố tương tự như Fallujah của Iraq.
Nhưng để có được vị trí địa lý hiếm hoi gần như bất khả xâm phạm trước mọi cuộc tấn công thông thường, trước tiên Hoa Kỳ phải giành được không gian này và thống nhất nó. Công việc này đã được hoàn tất một cách nhanh chóng đến mức đáng kinh ngạc, nếu xét đến kích thước của lục địa là ba ngàn dặm từ bờ đông đến bờ tây.
Khi những người châu Âu lần đầu tiên bắt đầu đổ bộ và định cư vào đầu thế kỷ 17, họ nhanh chóng nhận ra rằng vùng bờ biển phía đông của lãnh thổ “nguyên sơ” này có đầy rẫy những bến cảng tự nhiên và đất đai màu mỡ. Đây là một nơi họ có thể sinh sống, và không giống như ở cố hương, đây là một nơi họ hy vọng có thể sống tự do. Thế rồi thế hệ con cháu của họ tiếp tục phủ nhận sự tự do của thổ dân bản địa, nhưng đó không phải là ý định của những di dân đầu tiên. Địa lý lôi kéo họ đến từ bên kia Đại Tây Dương với số lượng ngày càng đông.
Thuộc địa cuối cùng trong số mười ba thuộc địa đầu tiên được thành lập là Georgia vào năm 1732. Mười ba thuộc địa đó ngày càng trở nên có tư tưởng độc lập suốt cho đến cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (1775- 1783). Vào lúc khởi đầu của giai đoạn ấy, các thuộc địa dần dần kết nối với nhau, trải dài một ngàn dặm từ Massachusetts Ở phía bắc, xuống đến Giorgia. Và có một dân số tổng cộng ước tính khoảng 2,5 triệu người. Các thuộc địa này được bao bọc bởi Đại Tây Dương về phía đông, và dãy Appalachia về phía tây. Dãy Appalachia dài 1.500 dặm, cảnh quan hùng vĩ, nhưng so với dãy Rocky thì không được cao lắm. Tuy nhiên, chúng vẫn tạo thành một rào cản ghê gớm đối với hành trình di cư có một rào cản khác, một rào cản chính trị. Chính phủ Anh ngăn cấm việc định cư ở phía tây dãy Appalachia vì nước Anh muốn đảm bảo thương mại và thuế má vẫn nằm lại bên bờ biển phía đông.
https://thuviensach.vn
Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776) nói rõ: “Trong tiến trình lịch sử nhân loại, khi một dân tộc thấy cần rũ bỏ những mối liên hệ chính trị ràng buộc họ với một dân tộc khác và cân giành lấy một địa vị riêng biệt, bình đẳng trong hàng cường quốc trên trái đất này - địa vị mà các quy luật của thiên nhiên và của đấng cai quản muôn loài cho phép họ được hưởng - thì vì nghiêm túc tôn trọng phán xét của nhân loại, họ không thể không tuyên bố những căn nguyên khiến họ phải ly khai.” Tuyên ngôn tiếp tục trình bày khá chi tiết những căn nguyên đó, và khẳng định (mà không mảy may gợi nhắc đến sự trớ trêu của chế độ chiếm hữu nô lệ) rằng hiển nhiên tất cả con người sinh ra được bình đẳng. Nhưng cảm nghĩ cao quý ấy đã tiếp thêm năng lượng cho sự thắng lợi trong cuộc Chiến tranh giành độc lập, từ đó khai sinh một quốc gia mới.
Vào đầu thế kỉ 19, lãnh đạo của quốc gia mới này vẫn chưa biết rằng họ cách xa “Biển Nam” hoặc “Thái Bình Dương” hàng ngàn dặm. Sử dụng những đường mòn của người Indian bản địa, một vài nhà thám hiểm, chỉ có thể nói là gan dạ nhất, đã vượt qua dãy Appalachia và đến được Mississippi. Họ nghĩ rằng từ nơi đây họ có thể tìm thấy đường thủy dẫn đến đại dương và nhờ đó nối liên với những vùng đất rộng lớn mà người Tây Ban Nha đã khám phá dọc các vùng duyên hải tây nam bên Thái Bình Dương, bao gồm cả Texas và California ngày nay.
Tại thời điểm đó, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ non trẻ còn xa mới được an toàn, và nếu bị cầm chân trong các đường biên giới lúc bấy giờ, thì nó sẽ phải tranh đấu dữ dội lắm mới trở thành một cường quốc vĩ đại. Công dân Hoa Kỳ thời đó đã có thể lui tới được con sông Ohio, ở ngay phía tây của dãy Appalachia, nhưng sông Ohio dẫn vào Mississippi, con sông mà bờ tây của nó do người Pháp kiểm soát suốt một dải đến tận thành phố New Orleans. Sự kiểm soát này cho phép người Pháp làm chủ tuyến thương mại của Hoa Kỳ từ vịnh Mexico hướng về Cựu Thế giới, cũng như vùng lãnh thổ rộng lớn kéo dài về phía tây mà nay là vùng đất trung tâm của Hoa Kỳ. Năm
https://thuviensach.vn
1802, một năm sau khi Thomas Jefferson đảm nhận chức vụ tổng thống, ông viết: “Trên Địa Cầu có một vị trí duy nhất, mà ai sở hữu nó thì chính là kẻ thù tự nhiên và thường xuyên của chúng ta đó là New Orleans.”
Pháp chính là kẻ đó, và vì vậy, chính là vấn đề, nhưng kỳ lạ thay, giải pháp không phải là chiến tranh.
Năm 1803, Hoa Kỳ chỉ đơn giản mua lại quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Louisiana từ tay Pháp. Vùng đất này trải dài từ vịnh Mexico về phía tây bắc đến thượng nguồn của các con sông nhỏ góp nước của các chi lưu chảy vào sông Mississippi trong dãy Rocky. Đó là một khu vực có điện tích tương đương với Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Anh và Đức ngày nay cộng lại. Cùng với lãnh thổ trên là lưu vực Mississippi, lộ trình dẫn đến sự vĩ đại của Hoa Kỳ phát xuất từ đó.
Chỉ bằng một nét bút, và trao tay món tiên trị giá 15 triệu đô la, vụ mua bán Louisiana năm 1803 đã làm tăng gấp đôi kích thước của Hoa Kỳ, và trao cho nó quyền bá chủ trên các tuyến vận tải đường thủy nội địa lớn nhất thế giới. Như nhà sử học người Mỹ Henry Adams đã viết, “Chưa bao giờ Hoa Kỳ nhận được nhiều như vậy với một chi phí nhỏ đến thế.”
Lưu vực Mississippi có nhiều dặm thủy vận hơn so với tất cả phần còn lại của thế giới cộng lại. Không nơi nào khác có nhiều con sông có đầu nguồn không nằm trong cao nguyên như vậy, và có dòng nước êm đềm chạy thẳng đến tận đại dương vượt qua những khoảng cách rộng lớn. Sông Mississippi được nuôi dưỡng bởi phần lớn hệ thống sông ở lưu vực này, bắt nguồn gần Minneapolis và kết thúc cách đó 1.800 dặm trong vịnh Mexico. Vì vậy, các con sông chính là đường vận tải tự nhiên cho hoạt động thương mại ngày càng phát triển, dẫn đến một hải cảng lớn, và toàn bộ tuyến vận tải này đều sử dụng những bè nổi thủ công mà cho đến ngày nay vẫn rẻ hơn gấp nhiều lần so với đi đường bộ.
https://thuviensach.vn