🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Nguyên Tắc Vàng Của Napoleon Hill - Napoleon Hill Ebooks Nhóm Zalo LỜI GIỚI THIỆU N hư hàng triệu độc giả trên thế giới, có lẽ bạn cũng đã từng đọc qua những tác phẩm của Napoleon Hill và đã thu được những bài học bổ ích. Dù bạn là người tôn sùng những trang viết của ông hay đây là lần đầu tiên bạn đọc tác phẩm của Napoleon Hill, chắc chắn bạn sẽ luôn tìm thấy lợi ích thiết thực từ những trang sách ông viết về tiềm năng của con người chúng ta. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là tập hợp các bài viết trong những tạp chí đã được Hill xuất bản hơn 80 năm về trước. Hilts Golden Rule Magazine (Tạp chí Những nguyên tắc vàng của Hill) cùng Hilĩs Magazine (Tạp chí Hill) đã được xuất bản một vài năm trước khi cuốn sách đầu tiên của Hill xuất hiện, Những lời khuyên của Hill nằm trong một loạt các bài viết về tiềm năng của con người. Những ngọn núi hẻo lánh của vùng Wise County, Virginia, nơi Hill được sinh ra vào năm 1883, đã không tạo nhiều cơ hội cho một cậu trai sinh trưởng trong nghèo khó. Mẹ của Hill mất năm ông lên 10, cha ông tái hôn vài năm sau đó, Nhưng mẹ kế của Hill - bà Martha - đã chở che và mang lại phúc lành cho cuộc đời cậu thiếu niên sớm chịu nhiều bất hạnh, Bà là một góa phụ trẻ sinh trưởng trong một gia đình có học thức, cha bà là bác sĩ; và bà cảm thấy yêu mến đứa con trai riêng hiếu động, tinh nghịch của chồng, Thành viên mới này của gia đình Hill đã trở thành nguồn động viên cho cả cuộc đời ông sau này, Về sau, Hill đã tin cậy người mẹ kế của mình không khác gì Abraham Lincoln - Tổng thống thứ 16 của Mỹ - đã tin cậy người mẹ kế của ông, Hill đã từng tuyên bố rằng: “Dù tôi có trở thành người như bây giờ hay như tôi từng khao khát, thì tôi vẫn luôn mang ơn người phụ nữ đáng kính này”, Năm lên 13 tuổi, với sự giúp đỡ của mẹ kế, Hill đã có bước đi đầu tiên trong sự nghiệp của mình khi trở thành một nhân viên đánh máy, Sau đó một loạt các bài báo của ông được đăng, sự kiện này đã thôi thúc ông theo đuổi nghề viết sách chuyên nghiệp. Sau hai năm học trung học, Hill ghi danh vào một trường kinh doanh, Học xong, ông làm việc cho Ngài Rufus Ayres - Tổng chưởng lý(1) bang Virginia, cũng là thành viên của chính quyền liên bang và đã từng lọt vào danh sách ứng cử viên Thượng viện, Ngài Ayres là người giàu có và quyền lực, thích đầu tư vào ngành ngân hàng, khai thác gỗ, khai thác than, Nhưng rồi Hill đột nhiên chuyển hướng sang ngành Luật, ông thuyết phục em trai là Vivian cùng ông nộp đơn vào trường Luật Georgetown và viết sách để trả tiền học phí cho hai anh em. Vivian đã theo đuổi và tốt nghiệp trường Luật Georgetown trong khi Napoleon lại bỏ đi theo hướng khác. Ong tìm được một công việc ở tạp chí Bob Taylor thuộc quyền sở hữu của Robert Taylor - Thượng nghị sĩ của tiểu bang Tennessee khi đó. ơ đây Hill được giao nhiệm vụ viết về những câu chuyện thành công, trong đó có câu chuyện về sự phát triển của thành phố Mobile thuộc tiểu bang Alabama, được biết đến như là một thành phố cảng nổi tiếng. Khi Hill được cử đến gặp Andrew Carnegie(2) ở căn biệt thự 45 phòng của ông, cuộc phỏng vấn nhẽ ra chỉ tiến hành trong thời gian ngắn đã kéo dài tới 3 ngày. Cuộc phỏng vấn của Hill với Carnegie nói về sự thành công và việc phát triển những triết lý về thành công, những điều mà về sau Hill đã truyền lại cho hàng triệu độc giả qua các cuốn sách của mình. Cuộc sống của Hill từ đó thay đổi mạnh mẽ, và chuyến phiêu lưu của cuộc đời ông gắn liền với cuộc phỏng vấn những người thành công. Những cuộc trò chuyện đó giúp ông hiểu được nguyên nhân tại sao một vài người đạt được thành công trong khi những người khác lại không. (1) Tổng chưởng lý (Attorney General): Người đứng đầu cơ quan tư pháp của một địa phương, ở cấp độ cao hơn là Bộ trưởng Bộ Tư pháp của một quốc gia; một chức vụ cao cấp, hoạt động với tư cách người cố vấn pháp lý cho chính phủ. (2) Andrew Carnegie (1835-1919): Ông “vua thép” của Mỹ, sinh tại Scotland. Từ một người không một xu dính túi, ông trở thành tỷ phú và tạo cơ hội cho rất nhiều người khác trở thành triệu phú trong ngành công nghiệp thép. Qua sự giới thiệu của Carnegie, Hill đã được gặp gỡ Henry Ford, Thomas Edison, George Eastman, John D. Rockefeller và những nhân vật nổi tiếng khác của thời đại. Trước khi Hill viết cuốn sách đầu tiên, cuộc hành trình trải nghiệm và thu thập kiến thức của Hill về những nguyên tắc dẫn đến thành công đã kéo dài suốt 20 năm với hơn 500 lần phỏng vấn. Hill sống đến năm 87 tuổi, và suốt cuộc đời ông đã phát triển những triết lý về các nguyên tắc đạt được thành công mà giá trị thực tiên của chúng đến nay vẫn được đánh giá cao, Tác phẩm đầu tiên của Hill thực ra là tập hợp 8 băng ghi âm mà ông đặt tên là The Law of success (Quy luật của sự thành công), xuất bản vào năm 1928, ông nhận được nhuận bút từ 2,000 đến 3,000 đô-la một tháng, đó là một khoản tiền khổng lồ vào lúc ấy và Hill đã mua một chiếc Rolls-Royce để đi thăm lại con sông Guest River ở vùng núi Wise County, Virgina - miền đất gắn bó với tuổi thơ ông, Hill đã viết một tập sách nhỏ có tên The Magic Ladder to Success (Những nấc thang kỳ diệu dẫn đến thành công), và khi cuốn sách này được xuất bản dưới dạng tóm gọn của cuốn The Law of Success, nó còn được bổ sung thêm một chương Forty Unique Ideas (Bốn mươi sáng kiến độc đáo) bàn về việc làm thế nào để kiếm tiền, Trong số những sáng kiến đó của Hill thì có sáng kiến về trạm đổ xăng tự động để những tay lái mô-tô có thể tự đổ xăng cho xe của mình bất kể ngày hay đêm; hoặc những ổ khóa không có chìa để chống trộm; nước giải khát làm từ rau củ tươi không dùng chất bảo quản, Hãy nhớ rằng, lúc này chỉ đang là năm 1930, và những sáng kiến này đã cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Hill, Một bằng chứng khác về năng lực trác tuyệt của Hill được thể hiện ở một thực tế rằng rất nhiều những cuốn sách dạy kỹ năng sống được xuất bản ngày nay đều là sự kế thừa và tiếp nối những gì mà Hill đã chiêm nghiệm và đúc rút từ hơn 80 năm về trước. Ngày nay, có một số cuốn sách viết về quy luật thu hút sự thành công, như thể đó là những nguyên tắc mới được phát hiện, Thực ra, Hill đã viết về những nguyên tắc được gọi là “mới” này trên tạp chí Hilts Golden Rule Magazine từ tháng 3 năm 1919, nay được tập hợp lại làm Bài học thứ 4 trong sách: Quy luật tương tác. Ngày càng có nhiều những cuốn sách lấy tư liệu tham khảo từ các tác phẩm của Hill, Những luận điểm của Hill thường xuyên được các tác giả khác trích dẫn - nguyên văn hoặc có khi bị thay đổi đôi chút. Năm 1937, Hill viết cuốn sách nổi tiếng nhất của ông Think and Grow Rich(3). Cuốn sách được tái bản ba lần trong năm đó với giá 2,5 đô-la một cuốn (lúc này đang là thời kỳ Đại khủng hoảng(4), mà không cần phải quảng cáo rầm rộ như ngày nay, Cho đến nay, cuốn sách này đã bán được hơn 60 triệu bản trên toàn thế giới và vẫn duy trì mức bán ra với con số khoảng 1 triệu bản mỗi năm, Ngày nay, một cuốn sách được xem là bán chạy nhất chỉ ở khoảng 100 ngàn bản. Tất cả các cuốn sách của Hill đều bán được hơn số này, và hầu hết chúng đều vượt quá con số một triệu bản. Các nhà xuất bản ước lượng rằng những cuốn sách được xem là được ưa chuộng ngày nay có tuổi thọ từ một đến hai năm. Trong khi đó, cuốn sách The Law of Success của Hill đã được xuất bản liên tục kể từ năm 1928, cuốn Think and Grow Rich là từ năm 1937, cuốn Master Key to Riches từ năm 1945, cuốn Success Through a Positive Mental Attitude(5) từ năm 1960, cuốn Grow Rich with Peace of Mind từ năm 1967 và cuốn You Can Work Your Own Miracles là từ năm 1971. Nói cách khác, những cuốn sách của Hill ngày càng được bán ra với số lượng lớn, vượt gấp nhiều lần so với lần đầu tiên xuất bản. - Don M. Green Giám đốc điểu hành Quỹ Napoleon Hill (3) First News đã dịch và xuất bản ở Việt Nam với tựa Cách Nghĩ để Thành Công. (4) Thời kỳ Đại khủng hoảng: Thời kỳ suy thoái kinh tế đầu tiên diễn ra từ năm 1929 đến năm 1933, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán phố Wall vào ngày 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Nó bắt đầu ở Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng ra toàn châu Âu và khắp nơi trên thế giới. (5) First News đã dịch và xuất bản ở Việt Nam với tựa Tư Duy Tích Cực Tạo Thành Công. Để tiếp cận những lợi ích có sẵn từ một tác phẩm, đầu tiên bạn phải chuẩn bị cho mình khả năng tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả. Chúng tôi đề xuất với bạn 2 nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc 1: Hãy học cách Nhận biết (Recognize), Liên hệ (Relate), Thấu hiểu (Assimilate) và Áp dụng (Apply) những nguyên tắc, kỹ thuật và phương pháp từ những điều mà bạn thấy, nghe, đọc hoặc trải nghiệm mà có thể nhờ chúng, bạn sẽ đạt được những mục tiêu của mình. Chúng được gọi là Cách thức R2A2. R2 được viết tắt từ Nhận biết (Recognize), Liên hệ (Relate) và A2 được viết tắt của Thấu hiểu (Assimilate) và Áp dụng (Apply). Nguyên tắc 2: Hãy điều khiển suy nghĩ, kiểm soát cảm xúc và tự hoạch định số phận của chính bạn bằng cách thúc đẩy bản thân đạt được những mục tiêu quan trọng. Trong quá trình áp dụng cách thức này, hãy luôn giữ những mục tiêu trong tâm trí bạn và sẵn sàng để tiếp nhận những thông tin hữu ích. Khi bạn đọc, hãy tập trung vào những nội dung có liên quan đến mục tiêu của bạn. Hãy đọc như thể tác giả viết riêng cho bạn. Hãy gạch dưới những câu văn hoặc đoạn văn mà bạn cảm thấy quan trọng đối với mình. Viết ngay ngoài lề cuốn sách khi bạn gặp những ý tưởng làm bạn hứng khởi, hay những ý kiến phù hợp với lợi ích của bạn. Khi bạn đọc và áp dụng cách thức R2A2, hãy nhớ rằng phần thứ hai (phần A2 - Thấu hiểu và Áp dụng) là phần quan trọng nhất. Có rất nhiều người đã lướt nhanh qua phần này và có khuynh hướng né tránh nó. Đây cũng chính là những người luôn viện cớ hoặc đổ lỗi cho người khác về sự thất bại của họ. Nếu như bạn không hành động thì cuốn sách này sẽ không mang lại tác dụng xứng với số tiền bạn đã bỏ ra mua nó. - Quỹ Napoleon Hill 1 DI TRUYỀN XÃ HỘI VÀ DI TRUYỀN THỂ CHẤT C ha mẹ tạo ra bạn về mặt thể chất, nhưng về mặt tinh thần, chính BẠN mới là người quyết định mức độ trưởng thành của mình. Như bất cứ ai khác, bạn là sự tổng hợp của hai yếu tố: di truyền và môi trường sống. Dù ít hay nhiều, bạn sẽ thừa hưởng từ cha mẹ, hoặc từ ông bà của mình một vài đặc điểm về hình dạng như vóc dáng, màu tóc, màu mắt, làn da... và một số đặc điểm khác về tính cách. Những đặc tính này được truyền lại thông qua sự di truyền thể chất, cho nên phần nhiều đặc điểm cơ thể của bạn là kết quả từ những căn nguyên mà bạn không có khả năng kiểm soát hoặc thay đổi. Những đặc tính di truyền từ xã hội do bạn thu nhận từ môi trường sống thì lại khác. Bạn có thể thay đổi chúng theo ý muốn của mình. Dĩ nhiên, những đặc tính di truyền từ xã hội được hình thành trước tuổi lên 10 sẽ khó thay đổi hơn dù bạn có vận dụng đến sức mạnh của ý chí, bởi vì chúng đã được định hình sâu đậm trong bạn. Ngay từ khi chào đời, bạn đã tiếp xúc với thế giới và hình thành những ấn tượng xã hội thông qua năm giác quan. Những bài hát bạn yêu thích, những bài thơ làm bạn xúc động, những cuốn sách bạn say mê, những bài giảng khiến bạn hào hứng, những cảnh vật bạn nhìn ngắm mải mê... tất cả những ấn tượng ấy đều góp phần cấu thành cái gọi là di truyền xã hội trong bạn. Khi bạn tin tưởng vào một điều gì đó và làm theo thì hành động ấy chính là kết quả của những ấn tượng giác quan xảy đến khi tâm hồn bạn tiếp xúc với thế giới. Niềm tin của bạn đúng hoặc sai là tùy thuộc vào tính đúng hay sai, hợp lý hay vô lý của những ấn tượng giác quan này. Nếu như trong quá trình học tập ở trường, bạn được các thầy cô dạy cách suy nghĩ đúng đắn, cách để vượt qua những định kiến về chủng tộc, tín ngưỡng, chính trị và sở thích hay cách để thấy được rằng chẳng có gì ngoài sự thật mới có thể trường tồn trong tâm trí bạn hoặc cách để thoát khỏi những ấn tượng giác quan sai lầm, thì bạn đã rất may mắn vì được sống trong một môi trường có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển nhân cách. Nếu như đặc tính di truyền về mặt thể chất không thể thay đổi được thì ngược lại, những đặc tính di truyền từ xã hội lại có thể thay đổi. Nói cách khác, những tư tưởng mới có thể được tạo ra để thay thế cho những suy nghĩ đã cũ, hay sự thật có thể thay thế cho những sai lầm. Một trí tuệ vĩ đại có thể trú ngụ trong một cơ thể ốm yếu, bé nhỏ nếu ta biết định hướng cho trí tuệ đó một cách đúng đắn thông qua những đặc tính di truyền từ xã hội. Ngược lại, một cơ thể khỏe mạnh lại có thể là nơi trú ngụ của một tâm hồn yếu ớt, nhu nhược cũng thông qua những di truyền xã hội. Tâm trí là sự tổng hợp của tất cả những ấn tượng giác quan mà bộ não ta tiếp nhận; vì vậy, sẽ rất nguy hiểm nếu xuất hiện những ấn tượng giác quan sai lầm, và càng nguy hiểm hơn nếu đó là những ấn tượng sai lầm chứa đựng những định kiến, thù hận, hay những sai lầm tương tự. Ta cần phải tránh xa những điều đó. Có thể ví von tâm trí bạn giống như một cánh đồng màu mỡ. Chúng ta sẽ có được những vụ mùa bội thu nhờ vào những hạt giống tốt và những tác động tích cực lên nó. Có thể kể đến những nguồn gốc có ảnh hưởng nhiều nhất đến khuynh hướng cấu thành tính cách của bạn: đầu tiên là cách giáo dục mà bạn nhận được từ gia đình, bố mẹ; thứ hai là những ý kiến từ bạn bè và những người cố vấn; thứ ba là những bài giảng từ trường học; và cuối cùng là những tờ báo ra hàng ngày, các tạp chí hàng tháng và tất cả những phương tiện truyền thông khác bạn được tiếp xúc. Thông qua bốn kênh dẫn này, bất cứ tư tưởng, suy nghĩ hay quan điểm nào, dù tốt hay xấu, cũng đều có thể để lại những dấu ấn vĩnh viễn trong tâm trí trẻ em; thậm chí có khi còn dẫn đến nhiều hậu quả tồi tệ mà khi lớn lên, dẫu muốn ta cũng không thể xóa bỏ hay thay đổi được. Tuy nhiên, nếu như kiểm soát được bốn nguồn gốc này thì tư tưởng của một con người hay của cả một dân tộc hoàn toàn có thể thay đổi, đến một thế hệ nào đó, tư tưởng cũ sẽ phải “nhường ngôi” cho một tư tưởng mới phù hợp hơn. Tóm lại, ta thấy rằng rất cần thiết để nhắc lại hai điểm chính sau đây: Điểm thứ nhất - Bất cứ tư tưởng hay thói quen nào nếu muốn được in dấu mãi mãi trong tâm trí của một con người thì cần phải được in dấu từ thời thơ ấu, thông qua những đặc tính di truyền từ xã hội. Nếu một tư tưởng được nuôi dưỡng tốt thì nó sẽ trở thành một phần vĩnh cửu ở lại trong tâm trí con người suốt đời, trừ phi có những ảnh hưởng lớn mạnh hơn khiến người đó hình thành một tư tưởng khác có khuynh hướng chống lại thậm chí đánh bại tư tưởng cũ, nhưng điều này rất hiếm khi xảy ra. Ta gọi nguyên tắc này là sự di truyền xã hội, bởi vì nó tạo ra một môi trường mà ở đó những phẩm chất nổi trội của một người sẽ được nuôi dưỡng và phát triển thông qua năm giác quan; và chúng khác biệt với những đặc tính thể chất mà người đó được thừa hưởng từ cha mẹ. Điểm thứ hai - Một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động tâm trí của một người là tâm trí con người thường có khuynh hướng muốn đạt được những điều bị kiềm chế, bị cấm đoán hoặc là khó đạt được. Khi bạn lấy một vật ra khỏi tầm với của một người nghĩa là bạn đã thiết lập nên tâm trí người đó một ước vọng là phải lấy lại vật đó cho bằng được. Khi bạn cấm một người làm điều gì đó, người ta lại càng tha thiết muốn làm hơn nữa. Con người thường trở nên phẫn nộ khi bị ép buộc. Vì vậy, để nuôi dưỡng một tư tưởng trong tâm trí của một người và để tư tưởng đó có thể in đậm mãi mãi, thì ta cần tìm cách để người đó thích thú chào đón và sẵn sàng chấp nhận nó. Tất cả những người bán hàng chuyên nghiệp đều rất quen thuộc với nguyên tắc này, họ đã cố ý thể hiện tất cả những ưu thế trong dịch vụ, hàng hóa của mình khiến những khách hàng tiềm năng không thể nhận ra rằng tâm lý muốn mua món hàng đó không phải bắt nguồn từ tâm trí họ, mà chính là do những người bán hàng định hình trong họ. Đây là hai nguyên tắc thực sự đáng giá đã được những nhà lãnh đạo tài năng vận dụng để đạt được thành công. Bất kể bạn đang làm công việc bán hàng, y học, luật gia, thương thuyết, viết sách, dạy học, quản lý thương nghiệp hay công nghệ, nếu học tập và ứng dụng hai nguyên tắc này, thành quả của bạn sẽ tăng lên rất nhiều, có khi khiến bạn bất ngờ về chính khả năng của mình. Bạn là sự tổng hợp của hai yếu tố, di truyền và môi trường sống. Bạn không thể quyết định những đặc điểm di truyền của mình, nhưng bạn có thể tự mình xây dựng những ưu điểm nổi bật về tính cách, cũng như tự vượt qua những điểm yếu còn tồn tại của bản thân. Và chắc chắn bạn hoàn toàn CÓ THỂ thay đổi môi trường, suy nghĩ, mục đích và mục tiêu sống của mình. Điều này tùy thuộc vào BẠN, do bạn có MUỐN hay không mà thôi. 2 TỰ ÁM THỊ N ói một cách đơn giản, tự ám thị là những đề nghị mà một người tự đưa ra cho chính mình. Trong quyển sách thành công xuất sắc “As a Man Thinketh”, James Allen đã mang đến cho nhân loại một bài học quý giá về sự tự ám thị bằng việc chỉ ra rằng một người có thể thay đổi thực sự bản thân mình thông qua quá trình tự ám thị. Bài học này, như James Allen nói, được xem như một phương tiện để khuyến khích mọi người khám phá và nhận thức ra chân lý rằng “bản thân mỗi người là tác phẩm của chính họ”, thông qua những suy nghĩ họ đã tự lựa chọn và phát triển. Tâm trí lúc này đóng vai trò như một người thợ dệt xuất sắc đã dệt nên lớp vỏ bọc của cả tính cách bên trong lẫn hình thức bên ngoài. Đặc biệt, nếu từ xưa đến nay việc dệt vá phải tiến hành trong hoàn cảnh u tối, đau khổ và đầy căm giận, thì ở đây người thợ dệt lại làm việc trong niềm vui của sự khai sáng và hạnh phúc. Bài học này không phải là một bài thuyết giáo, cũng không phải là một chuyên luận về đạo đức. Nó là một luận thuyết mang tính khoa học mà qua đó người tiếp nhận có thể hiểu được lý do tại sao nấc thang đầu tiên trong chiếc thang thần kỳ dẫn đến thành công lại nằm ở chính luận thuyết này, và làm thế nào để có thể khiến các nguyên tắc phía sau nấc thang đó trở thành một công cụ hữu hiệu giúp họ giải quyết những vấn đề kinh tế quan trọng nhất của cuộc sống. Bài học này dựa trên những thực tế sau: 1. Mỗi một chuyển động của cơ thể con người đều được kiểm soát và định hướng bởi suy nghĩ, đây là nơi mà tâm trí chiếm vị trí trung tâm bằng cách gửi ra những mệnh lệnh từ bộ não. 2. Tâm trí được chia thành hai bộ phận, một bộ phận được gọi là ý thức (làm công việc định hướng những hoạt động của cơ thể khi ta tỉnh) và một bộ phận gọi là tiềm thức (điều khiển những hoạt động của cơ thể khi ta ngủ). 3. Sự hiện diện của bất kỳ ý nghĩ hoặc tư tưởng nào trong một tâm trí ý thức (hoặc tâm trí tiềm thức) đều nhằm mang đến cái gọi là “cảm giác kết nối” và thúc đẩy sự chuyển động cơ thể của con người bằng cách chuyển đổi từ suy nghĩ thành hành động. Ví dụ, một người có thể phát triển sự can đảm và tự tin bằng cách tuyên bố một cách lạc quan hoặc luôn giữ vững lời tuyên bố này trong tâm trí: “Mình tin vào bản thân. Mình rất can đảm. Mình có thể hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào”. Chúng ta gọi đó là tự ám thị. Ngay bây giờ chúng tôi sẽ chỉ ra cho bạn những phương pháp hợp lý có thể giúp bạn bước những bước chân đầu tiên lên chiếc thang thần kỳ tiến đến thành công. Để bắt đầu, hãy cân nhắc và kiên nhẫn cho đến khi tìm được cái gì là công việc mà bạn thực sự muốn gắn bó và cống hiến cả đời, đồng thời hãy suy xét một cách thận trọng rằng sự lựa chọn của bạn sẽ ảnh hưởng ra sao tới những người liên quan. Sau khi quyết định công việc của mình là gì, bạn hãy viết ra một bản tuyên bố rõ ràng về nó và cam kết sẽ ghi nhớ nó. Mỗi ngày một vài lần, đặc biệt là buổi tối trước khi đi ngủ, hãy lặp lại những lời bạn đã viết trong bản mô tả công việc của mình, hãy quả quyết với bản thân rằng cho dù thế nào bạn nhất định sẽ vẫn gắn chặt đời mình với những ràng buộc cần thiết để đạt được mục tiêu đó cũng như tất cả những mục tiêu đã xác định trong đời. Hãy nhớ rằng trí não của bạn thực sự là một cái nam châm, nó sẽ hút về phía bạn những ai có cùng suy nghĩ và tư tưởng với bạn, để rồi tâm trí bạn sẽ tiếp thu và gắn kết mạnh mẽ với những suy nghĩ và tư tưởng ấy. Chúng ta ai cũng biết có một định luật được gọi là định luật hấp dẫn, nguyên tắc mà theo đó nước thường chảy về chỗ trũng và mọi thứ trong vũ trụ đều có đặc tính riêng. Cũng giống như ý nghĩa của định luật về trọng trường đã giữ các hành tinh ở đúng vị trí, thử hình dung nếu không có định luật hấp dẫn, các phân tử cấu tạo thành cây sồi có thể bay lung tung, trộn lẫn với các phân tử của cây dương để tạo thành loài cây nửa sồi nửa dương. Nhưng hiện tượng kỳ lạ như vậy chưa bao giờ xảy ra. Dựa theo định luật này để áp dụng xa hơn chút nữa, có thể nhận thấy điều gì ở quy luật hấp dẫn giữa đàn ông và phụ nữ? Chúng ta biết rằng những người đàn ông thành công, giàu có thì thường kết bạn với những phụ nữ cùng tầng lớp với mình, trong khi những người sa cơ lỡ vận cũng thường tìm đến với những phụ nữ có cùng cảnh ngộ. Điều đó diễn ra một cách tự nhiên như hiện tượng nước luôn chảy về chỗ trũng. Người xưa có câu “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, đó là một thực tế không thể tranh cãi. Vì vậy, nếu đúng là con người luôn luôn tìm đến những người bạn đồng hành có cùng lý tưởng và suy nghĩ với họ, thì bạn có thể thấy được tầm quan trọng của việc kiểm soát, định hướng cho suy nghĩ và tư tưởng của chính mình, để từ đó bạn có thể phát triển một cách chính xác loại “nam châm” mong muốn trong trí não để thu hút người khác về phía bạn. Hoặc nếu đúng là sự hiện hữu của bất cứ suy nghĩ nào trong tâm trí ý thức của bạn đều có xu hướng thúc đẩy hành động, thì bạn có thể thấy được lợi ích của việc chọn lựa một cách có cân nhắc những suy nghĩ mà bạn cho phép tâm trí của mình chú trọng vào nó. Hãy dành thời gian đọc và suy nghĩ cặn kẽ ý nghĩa của những thông điệp này và sau đó hệ thống lại những luận điểm chính cần ghi nhớ, bởi vì đây là nền tảng từ những thực tế mang tính khoa học giúp con người đạt được tất cả những thành quả quan trọng nhất của đời mình. Chúng ta chỉ đang mới bắt đầu xây dựng lòng đường mà trên đó bạn sẽ du hành cùng với sự nghi ngờ, chút nản lòng, chút ngập ngừng, cả những thất bại, và chúng tôi muốn bạn có được sự hiểu biết thật đầy đủ về chính mình cũng như nắm rõ từng ngóc ngách nhỏ nhất của con đường đó. Không ai định nghĩa được chính xác suy nghĩ là gì, nhưng các nhà tâm lý và nhà khoa học, những người đã từng nghiên cứu về nó đều nhất trí với giải thích rằng suy nghĩ là một dạng năng lượng mạnh làm nhiệm vụ dẫn đường cho các hoạt động của cơ thể con người, mỗi ý nghĩ trong tâm trí thông qua những suy nghĩ được mở rộng và tập trung sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động cơ thể một cách tự nhiên, dù là ý thức hay tiềm thức. Tự ám thị, không gì khác hơn chính là một ý nghĩ được giữ trong tâm trí thông qua suy nghĩ, là phương pháp duy nhất được biết đến để một người có thể thay đổi bản thân thành một hình mẫu mà họ đã lựa chọn để vươn tới. Làm thế nào để phát triển tính cách thông qua sự tự ám thị? Đây là phần thích hợp để người viết cuốn sách này có thể giải thích cùng bạn về những phương pháp mà nhờ đó tác giả đã thật sự thay đổi được bản thân mình trong khoảng thời gian 5 năm. Trước khi đi vào chi tiết, bạn hãy cùng chúng tôi nhớ về một khuynh hướng thường gặp của con người, đó là con người chúng ta thường hay nghi ngờ những điều mình không hiểu và g g y g g g g tất cả những gì không thể chứng minh được, dù bằng trải nghiệm của bản thân hay từ sự quan sát thực tế. Chúng tôi cũng xin nhắc cùng bạn rằng ngày nay không phải là kỷ nguyên dành cho một “Thomas đa nghi”(6). Tác giả của bạn là một người đàn ông tương đối trẻ vào thời gian này, tuy nhiên ông đã chứng kiến sự ra đời của những phát minh và phát kiến vĩ đại nhất của con người, một số trong đó còn được gọi là “những bí mật” của tự nhiên. Ông ta hoàn toàn có lý khi nhắc bạn rằng suốt 60 năm qua, khoa học đã thực sự vén bức màn ngăn cách chúng ta với ánh sáng của chân lý, mang đến nhiều công cụ văn hóa, tiến bộ và phát triển hơn hết thảy những gì đã từng được phát minh trước đó trong lịch sử loài người. Trong những năm trước đây, chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của bóng điện, máy sắp chữ, máy in, tia X-quang, điện thoại, ô tô, máy bay, tàu ngầm, điện báo vô tuyến cùng vô số những công cụ khác phục vụ đắc lực cho cuộc sống con người với khuynh hướng giúp chúng ta loại bỏ dần các bản năng của loài thú mà con người từng sở hữu trong thời kỳ mông muội xưa kia. Khi những dòng chữ này được viết ra, chúng tôi được thông báo rằng Thomas A. Edison đang nghiên cứu về một thiết bị sáng chế mới mà ông tin rằng nó sẽ giúp những linh hồn đã chết có thể giao tiếp được với những người còn sống. Giả sử ngày mai ở East Orange, New Jersey người ta thông báo rằng Edison đã hoàn thành cỗ máy này và đã liên lạc được với những linh hồn ở nơi xa xôi, thì tác giả của cuốn sách này sẽ không chế giễu lời tuyên bố đó. Nếu không tin ngay vào lời nói này cho đến khi nó được chứng minh, thì ít nhất chúng tôi cũng sẽ khoan nhận xét về tính đúng sai của vấn đề, bởi vì trong vòng 30 năm qua chúng tôi đã chứng kiến rất nhiều những điều không thể được biến thành có thể, đến nỗi chúng tôi tin tưởng rằng: trên đời này có rất ít thứ là không thể làm được một khi con người đã đặt tâm trí vào công việc với một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển được, và không biết đến thất bại là gì. Theo chúng tôi được biết trong lịch sử hiện đại của Mỹ, thì những người lái tàu hỏa lão luyện nhất nước đã chế giễu ý tưởng của Westinghouse khi ông cho rằng có thể dùng áp suất của không khí để hãm phanh của một đoàn tàu hỏa. Nhưng chính những người này đã phải chứng kiến việc cơ quan lập pháp New York thông qua một bộ luật bắt buộc các công ty đường sắt phải áp dụng “sáng chế ngớ ngẩn” này. Và chính bộ luật này đã khiến ngành đường sắt đạt được tốc độ cao và độ an toàn tin cậy như ngày nay. Chúng tôi cũng phải nhắc lại rằng, nếu Napoleon Bonaparte lừng danh không cười nhạo yêu cầu của Robert Fulton trong một cuộc phỏng vấn, thì có lẽ thủ đô nước Pháp bây giờ đang nằm trên lãnh địa nước Anh ngày nay, và nước Pháp đã có thể thống lĩnh toàn bộ đế chế Anh. Fulton đã gửi lời tới Napoleon rằng ông đã sáng chế ra một cỗ máy hơi nước có thể khiến các con tàu đi ngược gió, nhưng do Napoleon chưa từng thấy bao giờ một phát minh kỳ lạ như vậy, nên đã trả lời rằng ông không có thời gian cho các trò đùa ngớ ngẩn, và các con tàu thì không thể đi ngược gió bởi vì chúng chưa bao giờ đi được như vậy. Tác giả nhớ rất rõ rằng, có một dự luật đã từng được đưa ra bàn luận trong Quốc hội nhằm xin ngân sách để thí nghiệm chiếc máy bay do Samuel Pierpont Langley thiết kế. Nhưng việc này đã bị từ chối ngay lập tức, và giáo sư Langley đã bị cười nhạo là kẻ mơ mộng hão huyền hay ba hoa. Chưa ai từng thấy một người điều khiển một cỗ máy trong không trung, và chẳng ai tin rằng điều đó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, càng ngày chúng ta càng trở nên cởi mở hơn trong cách nhìn nhận về các thế lực mà chúng ta chưa thể hiểu được; ít nhất là đối với những người không muốn trở thành trò cười cho các thế hệ mai sau. Trước khi đưa bạn đến với câu chuyện những nguyên tắc nhất định, chúng tôi cần nhắc bạn nhớ về “những điều đã từng được cho là không thể” trong quá khứ đã trở thành những điều thực tiễn sau đó. Vì chúng tôi có lý do để tin rằng những ai chưa từng trải nghiệm sẽ khó mà chấp nhận nếu không có dịp kiểm chứng những nội dung chúng tôi đã trình bày. Bây giờ chúng tôi sẽ kể bạn nghe những trải nghiệm lạ lùng nhất nhưng cũng có thể nói là kỳ diệu nhất trong quá khứ của mình. Những trải nghiệm này thực sự liên quan đến lợi ích của những ai đang nghiêm túc tìm kiếm các cách thức và phương tiện giúp tự phát triển bản thân, phát huy những tiềm năng nhằm xây dựng một tính cách nổi bật. Cách đây vài năm, khi chúng tôi lần đầu tiên hiểu được nguyên tắc tự ám thị, chúng tôi đã vạch ra kế hoạch áp dụng nguyên tắc này để phát triển những phẩm chất mà mình đã từng ngưỡng mộ từ những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử. Kế hoạch như sau: Mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi tập cho mình thói quen nhắm mắt lại và tưởng tượng ra ở trước mặt mình là một chiếc bàn tư vấn lớn. Sau đó chúng tôi tưởng tượng ra hình ảnh những người đang ngồi quanh chiếc bàn đó, họ là những người có cuộc sống và những phẩm chất mà chúng tôi mong ước có được, thông qua nguyên tắc tự ám thị. Ví dụ, chúng tôi chọn một số tấm gương tiêu biểu như là Lincoln, Emerson, Socrates, Aristotle, Napoleon, Jefferson, Elbert Hubbard, Henry Ward Beecher và những nhà hùng biện nổi tiếng người Anh khác. Mục đích của chúng tôi là để in dấu vào tiềm thức của mình, thông qua sự tự ám thị, lối suy nghĩ rằng chúng tôi đang phát triển những phẩm chất nổi bật nhất mà chúng tôi ngưỡng mộ ở các nhân vật vĩ đại này. Cứ mỗi đêm như vậy, trong khoảng một hoặc hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi đều trải qua cuộc gặp gỡ tưởng tượng ở cái bàn tư vấn ấy. Sự thật là, cho tới tận bây giờ chúng tôi vẫn tiếp tục bài thực hành này, và mỗi ngày lại nhận thêm vào bản thân những phẩm chất mới ở những người mới mà chúng tôi muốn học hỏi ở họ, thông qua việc thi đua với chính họ. Chúng tôi muốn có được những phẩm chất đáng chú ý nhất ở Lincoln, đó là luôn có mục đích nghiêm túc, luôn đối xử công bằng với tất cả mọi người dù là bạn bè hay kẻ thù, luôn theo đuổi lý tưởng là sẽ nâng đỡ quần chúng nhân dân và những người bình thường, khơi dậy ở họ một dũng khí để phá vỡ các tiền lệ và thiết lập những nề nếp mới khi xã hội đòi hỏi phải như vậy. Tất cả những phẩm chất mà chúng tôi rất ngưỡng mộ ở Lincoln, chúng tôi đã sắp xếp theo thứ tự ưu tiên sau đó yêu cầu tâm trí tiềm thức sử dụng hệ thống những hình ảnh tưởng tượng này như một kế hoạch để xây dựng tính cách cho mình. Chúng tôi mong ước được học từ Napoleon phẩm chất kiên định; khả năng chuyển biến những tình huống bất lợi trở thành có lợi; sự tự tin, khả năng truyền cảm hứng và lãnh đạo mọi người; năng lực sắp xếp công việc của bản thân và những người thân cận, bởi vì chúng tôi biết rằng những sức mạnh thật sự chỉ có thể đến thông qua cách tổ chức thông minh cùng những nỗ lực có định hướng đúng đắn. Emerson được người ta biết đến là một người có tầm nhìn sáng suốt và nhạy bén đối với tương lai, và chúng tôi muốn học theo điều đó. Chúng tôi muốn có khả năng hiểu được ngôn ngữ của thiên nhiên như chính nó hiển thị ở dòng suối chảy róc rách, trong tiếng chim hót líu lo, trong tiếng trẻ em nô đùa hồn nhiên, trên bầu trời xanh cao vút, hay ở những ngân hà tinh tú, nơi thảm cỏ xanh mượt và cả những bông hoa xinh đẹp. Chúng tôi còn muốn có được khả năng phân tích cảm xúc của loài người, khả năng hiểu được mối quan hệ nhân quả như ông. Chúng tôi muốn học ở Elbert Hubbard quyền năng sử dụng từ ngữ tài tình cùng với khả năng lý giải về xu hướng của thời đại; khả năng kết hợp ngôn từ để có thể chuyển tải một cách chính xác và mạch lạc các suy nghĩ của mình, đồng thời có thể viết ra những câu chữ có vần có điệu thuyết phục người đọc cả về ý nghĩa ngôn từ lẫn tính chân thật của nó. Chúng tôi muốn học ở Beecher năng lực mạnh mẽ để chiếm được cảm tình của công chúng, khả năng phát biểu với uy lực và sức thuyết phục tuyệt vời khiến người nghe có thể cảm nhận và chia sẻ cùng ông những niềm vui, nỗi buồn, hay những chìm nổi bấp bênh. Khi tôi hình dung những người đàn ông này ngồi trước mặt tôi quanh chiếc bàn tư vấn, tôi có thể hướng sự chú ý của mình đến mỗi người trong một vài phút, và tự bảo với bản thân rằng mình đang được thừa hưởng và phát triển các phẩm chất nổi bật từ những nhân vật ngồi trước mặt. Nếu bạn muốn khóc thương cho tôi vì sự ngu dốt khi tạo ra các nhân vật trong trí tưởng tượng để tự xây dựng tính cách riêng cho mình, hãy cứ khóc. Nếu bạn có những lời muốn chỉ trích về việc thực hành của tôi, cứ chỉ trích. Nếu bạn có cảm giác muốn dè bỉu tôi nhưng lại phải cố gắng diễn đạt cho tự nhiên để che giấu một khuôn mặt cau có, xin cứ tự nhiên, bởi vì tôi sắp sửa đưa ra cho bạn những bằng chứng chắc chắn sẽ khiến bạn phải chấm dứt những hành động như thế, để nhìn lại và ngẫm nghĩ. Trước khi bắt đầu những buổi gặp gỡ tưởng tượng ở bàn tư vấn, tôi đã nỗ lực rất nhiều trong việc diễn thuyết nơi công cộng, nhưng đều gặp phải những thất bại thảm hại. Tuy nhiên, trong bài diễn văn đầu tiên mà tôi cố gắng truyền tải sau một tuần thực hành những cuộc gặp gỡ này, tôi đã gây ấn tượng cho thính giả đến mức tôi được mời quay lại vào một buổi khác để nói về chủ đề này một lần nữa, và từ ngày đó cho tới khi viết những dòng chữ này, tôi vẫn không ngừng tiến bộ. Năm ngoái, công việc diễn thuyết của tôi thành công và có ảnh hưởng đến nỗi tôi đã được mời đến nhiều vùng lớn hơn ở nước Mỹ để diễn thuyết trước những câu lạc bộ, các tổ chức, trường học hàng đầu và những buổi gặp gỡ đó được chuẩn bị rất chu đáo. Ở thành phố Pittsburgh(7), suốt tháng 5 năm 1920, tôi đã giảng về cuốn “Những nấc thang kỳ diệu dẫn đến thành công” (The Magic Ladder to Success) trước tổ chức Advertising Club. Trong số thính giả của tôi có một vài doanh nhân dẫn đầu ở nước Mỹ, những viên chức từ công ty thép Carnegie, công ty H. J. Heinz Pickle, Joseph Horne Department Store và nhiều công ty lớn khác của thành phố. Họ đều là những người có đầu óc phân tích nhạy bén. Nhiều người trong số họ đã tốt nghiệp cao đẳng và đại học. Đó là những người có thể nhận biết được điều gì đó có lý hay không trong những thông tin họ nhận được. Ở cuối buổi nói chuyện, họ đã bảo với tôi rằng tôi là người diễn thuyết tuyệt vời nhất mà tổ chức này từng mời tới. Không lâu sau khi rời khỏi Pittsburgh, tôi nhận được một huân chương từ Liên hiệp Advertising Clubs thế giới, để ghi nhớ đến sự kiện vừa rồi, trên huy chương ghi rằng: “Đa tạ ngài Napoleon Hill vì đã đến với chúng tôi, ngay 20/05/1920”. Xin bạn đừng xem những điều tôi nói trên đây như là sự bộc phát của tính tự cao tự đại. Tôi đang đưa cho bạn những sự thật, những cái tên, ngày tháng và nơi chốn cụ thể. Và tôi làm như vậy chỉ với mục đích cho bạn thấy rằng tôi đã thực sự phát triển được trong tôi phẩm chất mà tôi vô cùng ngưỡng mộ ở Henry Ward Beecher, tất cả là nhờ vào chiếc bàn tư vấn tưởng tượng. Phương pháp tôi dùng để phát triển khả năng đó chính là tự ám thị. Tôi đã lấp đầy tâm trí mình bằng những suy nghĩ rằng tôi sẽ sánh kịp, thậm chí vượt trội Beecher trước khi tôi kết thúc bài tập này và kiên quyết đây phải là kết quả duy nhất, sẽ không còn kết quả nào khác. Nhưng đây cũng chưa phải đã kết thúc câu chuyện của tôi - câu chuyện mà hàng trăm ngàn người sống khắp nơi gần như là ở mỗi thành phố, thị trấn và thôn xóm trên khắp nước Mỹ đã từng quen biết tôi đều có thể chứng thực! Ngay lập tức, tôi đã bắt đầu thay thế hành động không tha thứ bằng hành động tha thứ, tôi đã bắt đầu tranh đua với lãnh tụ Lincoln bất diệt ở những phẩm chất tuyệt vời về sự công bằng đối với tất cả mọi người. Những năng lực mới bắt đầu đến, không chỉ ở khả năng nói trước đám đông của tôi, mà còn ở khả năng viết lách, và tôi thấy việc phát triển vững chắc các khả năng để thể hiện bản thân với sức mạnh và tính thuyết phục trong những trang viết mà tôi từng ngưỡng mộ ở Elbert Hubbard(8) cũng hiển nhiên như việc tôi có thể nhìn thấy mặt trời trong một ngày quang đãng. Nói thêm về sự tiến bộ ở khả năng viết lách của tôi, cách đây không lâu, Myers, một nhân viên của Công ty Packing Morris ở Chicago, đã nhận xét rằng các bài xã luận của tôi trên Hilưs Golden Rules Magazine đã nhắc ông ta nhớ đến Elbert Hubbard quá cố. Ông còn nói thêm rằng ông vừa tuyên bố với các cộng sự của mình một vài ngày trước đó là tôi không những viết tốt như Elbert Hubbard, mà thậm chí là còn tốt hơn. Một lần nữa, tôi nhắc bạn rằng đừng vội bỏ qua những điều tôi vừa kể trên, cũng như đừng vội đánh giá tôi là một kẻ ba hoa. Nếu khả năng sử dụng ngôn ngữ của tôi cũng tốt như Hubbard, đó là bởi vì tôi đã có mong muốn làm được như vậy, tôi đã nghiêm túc áp dụng sự tự ám thị để hình thành trong tâm trí mục tiêu là mình không những phải đuổi kịp Hubbard, mà thậm chí mình còn phải vượt trội hơn bậc tiền bối nếu có thể. Sẽ không có hòa bình vĩnh cửu trên thế giới cho tới khi loài người được dạy rằng những xung đột vũ lực không thể quyết định vấn đề về đạo lý. Tôi không phải không lưu tâm đến thực tế rằng việc thể hiện tính tự cao tự đại chẳng qua là một sự yếu kém không thể tha thứ, dù là với một người diễn thuyết hay một tác giả. Hơn nữa, chẳng ai khác mà chính là vị tác giả của bạn đây sẽ vô cùng khinh thường những người như vậy. Tuy nhiên, tôi cũng phải nhắc bạn rằng khi một tác giả nhắc đến những trải nghiệm của bản thân mình với mục đích đem đến cho độc giả của ông ta những tư liệu xác thực về một chủ đề được đưa ra, thì không phải lúc nào cũng xuất phát từ tính tự cao tự đại, mà có khi phải can đảm lắm mới làm được như vậy. Trong trường hợp đặc biệt này, tôi sẽ cố gắng không sử dụng tự do đại từ nhân xưng “tôi” mà tôi đang dùng khá nhiều ở các dòng trên. Không phải tôi sợ là làm như vậy mọi người sẽ không đánh giá cao những nỗ lực của tôi. Chỉ đơn giản là tôi đang kể lại những trải nghiệm của bản thân chỉ bởi vì tôi biết chúng đích thực và đáng tin cậy. Vậy nên tôi cho rằng liều lĩnh chấp nhận khả năng mình bị gán cho cái tính tự cao tự đại thì sẽ vẫn tốt hơn nhiều so với việc sử dụng những minh họa mang tính giả thuyết về phương pháp tự ám thị, hay là viết về một người thứ ba nào đó. Giá trị của việc lập ra mục tiêu rõ ràng trong cuộc sống Tác giả của bạn quan tâm và chú ý đến việc lập ra những mục tiêu rõ ràng trong cuộc sống không khác gì quan tâm đến kế hoạch của tòa nhà chọc trời nếu ông nghĩ đến việc xây một công trình như vậy. Những thành tựu của bạn trong cuộc sống sẽ không thể nào rõ ràng hơn là những kế hoạch mà nhờ vào đó bạn đạt được những mục tiêu của mình. Khoảng hơn một năm rưỡi trước khi viết những dòng này, tôi đã kiểm tra lại câu tuyên bố về mục tiêu được vạch ra cho cuộc sống của mình, và tôi thay đổi lời tuyên bố về “Thu nhập” như sau: Mình sẽ kiếm được 100 ngàn đô-la mỗi năm bởi vì mình cần khoản tiền này để theo đuổi chương trình giáo dục tại Trường Kinh tế Thương mại. Trong vòng chưa tới 6 tháng kể từ ngày tôi đổi nội dung trong bản tuyên bố về mục tiêu rõ ràng của cuộc sống, tôi được một lãnh đạo tập đoàn đặt vấn đề hợp tác kinh doanh với mức lương 105.200 đô-la một năm, trong đó 5.200 đô-la là để trả cho chi phí đi lại từ nơi này đến nơi khác để làm việc, vì nơi đó cách xa Chicago, nếu như trừ đi khoản này thì số tiền thỏa thuận còn lại bằng chính xác số tiền mà tôi đã đặt ra trong bản tuyên bố về mục tiêu của mình. Tôi chấp nhận lời đề nghị trên, và trong vòng chưa tới 5 tháng, tôi đã kiếm được cho công ty tôi đang làm việc một giá trị tài sản ước tính trên 20 triệu đô-la. Tôi phải kiềm chế để không nêu tên ai cả chỉ bởi vì tôi buộc lòng phải nói rằng người chủ của tôi đã tìm thấy một kẽ hở để khỏi phải trả tôi số tiền lương 100 ngàn đô-la đã được thỏa thuận. Có hai thực tế đáng chú ý ở đây mà tôi muốn bạn lưu tâm đến, đó là: Đầu tiên, tôi được đề nghị đúng số tiền mà tôi đã đặt ra trong bản mục tiêu, là số tiền mà tôi dự định phải kiếm được trong năm kế tiếp. Thứ hai, tôi thực sự đã đạt được số tiền đó (và thực tế là nhiều lúc còn cao hơn số đó) mặc dù tôi không nhận được số tiền của mình. Bây giờ, hãy quay trở lại với lời tuyên bố của tôi rằng tôi sẽ “kiếm được 100 ngàn đô-la một năm” và tự hỏi bản thân bạn rằng “Sẽ khác biệt thế nào nếu lời tuyên bố là “Tôi sẽ kiếm được và sẽ NHẬN được 100 ngàn đô-la một năm”? Thẳng thắn mà nói, tôi không biết là có khác biệt gì không giữa hai lời tuyên bố trên nếu chỉ chú trọng về mặt câu từ. Nhưng xét từ một phương diện nào đó, chắc chắn sẽ có một sự khác biệt rất lớn. Liệu ai có đủ thông thái để khẳng định hoặc phủ định cái định luật của sự cuốn hút mà dựa vào đó chúng ta đạt được những gì chúng ta tin tưởng và nhận được những gì chúng ta cần, với điều kiện là những điều chúng ta cần đó có thể đạt được và nó được đặt trên sự công bằng, tính công lý và một kế hoạch cụ thể? Tôi tin rằng không ai có thể đánh bại được mục tiêu của những người luôn biết lên kế hoạch cho các nỗ lực của mình. Chính nhờ sức mạnh diệu kỳ từ việc lên kế hoạch này mà tác giả của bạn đã đạt được chỗ đứng trong xã hội như là ông mong ước với một tốc độ đáng kinh ngạc, và ông biết rằng ai cũng có thể làm được như vậy. Phục vụ và hy sinh là chìa khóa để đến với những thành công vĩ đại nhất. Trong những bài diễn văn của tôi suốt 12 tháng qua, ít nhất là cả ngàn lần, tôi đã tuyên bố quan điểm chủ đạo của mình rằng khi một người bỏ thời gian để xây dựng một kế hoạch cụ thể, khả thi, hợp lý và có lợi cho những người liên quan, sau đó củng cố niềm tin và không bao giờ chịu khuất phục để hoàn thành nó, thì anh ta không thể nào thất bại. Tôi chưa bao giờ bị cho là quá cả tin hay mê tín. Tôi cũng chưa bao giờ ấn tượng bởi những thứ gọi là sự kỳ diệu, nhưng tôi buộc phải thừa nhận rằng nhờ vào việc áp dụng những nguyên tắc tự ám thị mà tôi đã làm được nhiều điều diệu kỳ, thể hiện qua sự tiến bộ vượt bậc của bản thân trong suốt 20 năm qua. Tôi đã theo dõi sự phát triển và nảy nở của tâm trí mình, và dù rằng tôi chẳng mấy khi ấn tượng với “sự kỳ diệu” - đơn giản vì đó là những điều mà tôi không cắt nghĩa được, nhưng tôi cũng phải công nhận rằng “sự kỳ diệu” thật sự đã nhiều lần tìm đến tâm trí tôi mà tôi chẳng thể nào tìm ra nguyên nhân. Mặc dù chưa hiểu hết trọn vẹn nhưng tôi cũng biết được rằng hành động thể hiện ra bên ngoài luôn luôn hài hòa và phù hợp với những suy nghĩ đã chi phối tâm trí tôi, đó là những suy nghĩ mà tôi tự hình thành nên trong tâm trí, hoặc là những suy nghĩ mà tôi định sẵn cho tâm trí rằng chúng sẽ phải chi phối đến các hoạt động của cơ thể mình. Những trải nghiệm riêng của tôi đã chứng minh một cách thuyết phục rằng phẩm chất không bao giờ có được một cách tình cờ! Phẩm chất được tạo nên theo chỉ dẫn như là một ngôi nhà được xây dựng phù hợp với bản vẽ trước đó. Những trải nghiệm của tôi cũng chứng minh được rằng một người có thể tái xây dựng phẩm chất của mình trong một thời gian ngắn đáng kinh ngạc, có thể từ một vài tuần cho đến một vài năm, tùy thuộc vào sự quyết đoán và ước vọng khi anh ta đặt ra cho mình nhiệm vụ phải xây dựng phẩm chất đó. Hạnh phúc là điều tốt đẹp duy nhất. Hạnh phúc bắt đầu ở đây và ngay lúc này. Và cách để được hạnh phúc là làm người khác cũng hạnh phúc như mình. - Robert G. Ingersoll Một vài tháng trước khi bắt đầu những bài giảng về tâm lý học ứng dụng, tôi đã có một trải nghiệm thu hút đông đảo sự chú ý của các nhóm có quan tâm tại thành phố Chicago. Vốn là khi tôi đang bước ra khỏi thang máy trong tòa nhà thương mại của A.C McClurg & Company (công ty chuyên về văn phòng phẩm và là hiệu sách lớn nhất tại Chicago), nhân viên thang máy đã để tuột cánh cửa khiến tôi bị mắc kẹt giữa cánh cửa và tường của thang máy. Ngoài việc làm cho tôi bị đau, sau vụ tai nạn ấy tay áo tôi bị rách tươm và trông như chẳng thể nào vá lại được nữa. Tôi phản hồi vụ tai nạn cho ông Ryan là quản lý của cửa hàng, và ông ấy đã nhã nhặn báo với tôi rằng tôi sẽ được bồi hoàn thiệt hại. Một lúc sau, công ty bảo hiểm cử nhân viên đến, xem xét chiếc áo của tôi và trả tôi 40 đô-la tiền bồi thường cho cánh tay áo bị rách. Khi cuộc hòa giải kết thúc và những người liên quan đều hài lòng, tôi mang chiếc áo đến cho thợ may, và chiếc áo được sửa khéo đến nỗi không ai nhận ra là đã từng có một vết rách. Tiền sửa áo chỉ hết 2 đô-la. Vậy là tôi còn dư đến 38 đô-la, nhưng công ty bảo hiểm đã tỏ ra hài lòng, và tôi nghĩ họ hài lòng cũng phải bởi vì số tiền 40 đô-la bồi thường đó còn chẳng đủ để mua nửa cái áo kia. Về phía A.C McClurg & Company thì dĩ nhiên hài lòng vì thiệt hại của tôi đã được công ty bảo hiểm giải quyết, còn họ chẳng mất gì trong vụ này cả. Nhưng tôi lại không hài lòng! Tôi có thể sử dụng 38 đô-la kia. Về mặt luật pháp, nó thuộc về tôi, tôi được phép sở hữu nó, và chẳng ai dám đặt nghi vấn về quyền lợi của tôi hay cách mà tôi có được số tiền này. Nếu công ty bảo hiểm biết rằng cái áo có thể sửa lại như mới, thì có thể họ đã không trả cho tôi 40 đô-la, nhưng tất nhiên họ đâu biết rằng sửa áo chỉ tốn của tôi có 2 đô-la? Tôi đã tự dằn vặt lương tâm của mình về số tiền 38 đô-la, và lương tâm đã không cho phép tôi giữ số tiền này, vì vậy cuối cùng tôi đã đưa ra quyết định là phải trả lại một nửa, giữ lại một nửa. Tôi lấy lý do là tôi đã tốn thời gian mang đi sửa, đồng thời chỗ rách sau này có thể lại bị lộ ra ngoài. Đắn đo suy nghĩ khá lâu, đong đếm kỹ lưỡng những thiệt hơn của mình, cuối cùng tôi cũng tìm được những lý do chính đáng cho việc giữ lại một nửa số tiền. Khi tôi mang trả nửa số tiền, đại diện của McClurg & Company đề nghị tôi cứ giữ nó và quên việc này đi, nhưng tôi đã đáp lại như sau: “Vấn đề là như thế này. Tôi có thể giữ lại số tiền ấy. Nhưng tôi không sao quên được nó!”. Có một lý do chính đáng để tôi hoàn lại số tiền 20 đô- la. Không phải là vì đạo đức hay vì lòng trung thực. Cũng không phải vì lợi ích của McClurg & Company hay của công ty bảo hiểm. Khi quyết định hoàn lại tiền, tôi không bao giờ xem xét cho McClurg hay công ty bảo hiểm. Họ hoàn toàn ở ngoài cuộc bởi vì họ đã hài lòng rồi. Điều tôi thật sự suy xét đến lúc đó chính là phẩm chất của chính bản thân tôi, vì tôi biết rằng mỗi hành động tôi làm đều có ảnh hưởng đến đạo đức của tôi, và rằng phẩm chất này không thể khác hơn là sẽ hình thành thói quen và hành vi đạo đức của tôi. Tôi biết không nên giữ lại 20 đô-la nếu như tôi không xứng đáng được nhận nó. Điều này chẳng khác gì mấy so với việc một người bán táo đặt một quả táo hỏng vào trong một thùng táo ngon trước khi cất giữ chúng cho mùa đông. Tôi trả lại 20 đô-la bởi vì tôi muốn thuyết phục bản thân mình rằng không có thứ vật chất nào có thể làm ảnh hưởng đến phẩm chất của tôi, trừ khi tôi biết là nó tích cực. Tôi trả lại số tiền cũng chính là đã cho tôi một cơ hội lý tưởng để thử thách chính mình, kiểm tra xem liệu tính trung thực của tôi đã bắt nguồn từ lợi ích của bản thân hay xuất phát từ một cái gì đó có giá trị lớn lao hơn khiến một người có thể trở nên trưởng thành thực sự và có thể làm gương cho người khác. Tôi tin rằng khi một người lập một kế hoạch dựa trên những nguyên tắc hợp lý, nếu kế hoạch đó đúng đắn và công bằng với những người liên quan, và nếu bản thân người đó có trong mình một phẩm chất giàu tiềm năng và luôn tự tin từ những hành động nhỏ nhất làm thỏa mãn tiềm thức người đó, thì người đó sẽ đạt được thành công. Thành công ấy xảy đến kỳ diệu như đã nhận được sự giúp đỡ của một nguồn lực mạnh mẽ nào đó mà không gì trên trái đất này có thể lay chuyển được, một nguồn lực mà ít ai có thể hiểu đúng về nó. Sức mạnh là những tri thức đúng đắn được kiểm soát và định hướng dựa vào sự công bằng đối với những người liên quan. Có hai loại sức mạnh tồn tại trong mỗi con người. Loại đầu tiên đạt được thông qua việc tổ chức các khả năng của bản thân, và loại còn lại đạt được thông qua việc tổ chức và kết hợp khả năng của nhiều cá nhân khác nhau để cùng đi đến những mục đích chung. Tuy nhiên, nếu không được tổ chức hợp lý và có định hướng, con người ta sẽ chẳng có một sức mạnh nào. Bạn không thể tổ chức các khả năng của bản thân nếu không sử dụng nguyên tắc tự ám thị, bởi đơn giản bạn không thể nào tiếp thêm sức mạnh cho các khả năng, cảm xúc, trí tuệ, lý luận, hay là các chức năng cơ thể mà không kết hợp chúng lại và biến chúng thành kế hoạch hành động. Cũng sẽ chẳng có kế hoạch nào dù lớn hay nhỏ có thể phát triển trong tâm trí bạn nếu bạn không sử dụng nguyên tắc tự ám thị. Tâm trí cũng giống như một khu vườn màu mỡ, tại đó các hoạt động của cơ thể sẽ được điều khiển tương ứng với những suy nghĩ chi phối đến tâm trí, dù những suy nghĩ này được đưa ra một cách thận trọng và được lưu giữ cho tới khi chúng ăn sâu và bén rễ trong đầu bạn, hay đơn giản đó chỉ là một ý nghĩ thoảng qua chốc lát như những kẻ lang thang không mời mà tới. Sẽ chẳng có cách nào để thoát khỏi ảnh hưởng của những suy nghĩ thống trị. Sẽ không thể nào vừa miên man nghĩ về sự thất bại, cuộc sống nghèo khổ, tâm trạng thất chí lại vừa có cảm giác tận hưởng thành công, sự giàu sang và nghị lực. Bạn có thể chọn những gì tâm trí bạn chú ý, nhờ đó, bạn có thể kiểm soát được sự phát triển nhân cách của mình, và hơn thế, bạn cũng có thể giúp định hình nhân cách của những người mà bạn muốn lôi cuốn. Tâm trí của bạn có ẩn chứa một sức hút kỳ lạ sẽ hút về phía bạn những người mà bạn gần gũi nhất, hay một ngôi vị bạn muốn đạt được trong đời. Vì thế, chính bạn sẽ tạo cho mình quyền được kiểm soát tâm trí một khi dám suy nghĩ rằng nhất định bạn sẽ thu hút về phía mình những người bạn muốn giao du và những thứ bạn muốn giành được trong cuộc sống. Tự ám thị là nền tảng để xây dựng một tính cách cuốn hút, bởi vì tính cách này sẽ được phát triển để tương xứng với những suy nghĩ thống trị có lợi cho tâm trí, và chính những suy nghĩ này cũng sẽ kiểm soát hoạt động của cơ thể. Áp dụng nguyên tắc tự ám thị, cũng giống như bạn đang vẽ một sơ đồ hay lên một kế hoạch làm việc cho tâm trí tiềm thức của mình. Sau khi học được cách tập trung tuyệt đối hoặc dồn hết sự chú ý của mình vào việc xây dựng kế hoạch, thì ngay lập tức bạn có thể kiểm soát được tâm trí tiềm thức của mình, và nó sẽ nói cho bạn biết bạn phải bắt tay từ đâu và thực hiện kế hoạch của mình như thế nào. Khi mới bắt đầu, chúng ta cần phải lặp đi lặp lại những gì được phác thảo ra trong bản kế hoạch để tâm trí tiềm thức có thể nắm rõ kế hoạch và chuyển nó thành hành động. Bởi vậy, đừng nên nản lòng nếu bạn chưa đạt được kết quả ngay. Chỉ những người “bậc thầy” mới có thể ngay lập tức kiểm soát được tâm trí tiềm thức của mình. Để khép lại bài học này, tôi muốn nhắc lại rằng ẩn sau nguyên tắc tự ám thị còn có một điều quan trọng mà bạn không được bỏ qua, là yêu cầu về một khát vọng mạnh mẽ và sâu sắc. Đó chính là sự khởi đầu của việc tổ chức các suy nghĩ, vì bạn có thể tạo ra trong thế giới thực tại này bất kỳ điều gì nếu như bạn mong muốn được có nó một cách mãnh liệt. Mong muốn mãnh liệt là khởi đầu tốt đẹp nhất cho mọi thành công. Sự tự ám thị đơn giản chỉ là một nguyên tắc dùng để nối liền mong muốn với tiềm thức của bạn. Có thể qua chính những trải nghiệm của bản thân mình, bạn cũng có thể tự chứng minh được rằng một người có thể dễ dàng đạt được những gì mà người đó thực sự mong muốn. Ở chương sau, chúng ta sẽ đến với bài học “ám thị” và cách để sử dụng những cá tính cuốn hút của bạn sau khi bạn đã phát triển chúng thông qua sự tự ám thị. Có thể bạn chưa biết, sự ám thị chính là nền tảng cốt lõi dẫn đến thành công trong kinh doanh. (6) “Doubting Thomas” (Thomas đa nghi): Theo Kinh thánh, Thomas đã nghi ngờ tin vui các môn đệ báo cho ông rằng Chúa đã phục sinh. Tên gọi “Thomas đa nghi” được dùng với hàm ý chỉ những người có tính hay nghi hoặc, không tin vào những chuyện không có bằng chứng rõ ràng, nằm ngoài sức tưởng tượng. (7) Tên một thành phố thuộc bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. (8) Elbert Green Hubbard (1856 – 1915): Nhà báo, nghệ sĩ kiêm nhà sản xuất danh tiếng trong giới xuất bản ở Hoa Kỳ, tác giả bài viết gây tiếng vang: “A Message to Garcia”. 3 SỰ ÁM THỊ T rong bài học trước, chúng ta đã được hiểu về ý nghĩa của sự tự ám thị và những nguyên tắc để sử dụng nó. Tự ám thị có nghĩa là tự đưa ra những đề nghị cho bản thân mình còn bây giờ chúng ta sẽ đến với nguyên tắc tâm lý tiếp theo - sự ám thị. Về cơ bản, ám thị được giải thích như sau: Ám thị là một nguyên tắc tâm lý mà nếu sử dụng đúng cách chúng ta có thể gây ảnh hưởng, điều khiển và kiểm soát tâm trí của người khác. Đây là nguyên tắc chủ yếu được sử dụng trong quảng cáo và bán hàng. Đây cũng là nguyên tắc đã được thể hiện qua bài diễn thuyết tuyệt vời mà Mark Antony đã dùng để chinh phục người La Mã cổ đại được dẫn ra trong cuốn “Tâm lý bán hàng ”(9) (Napoleon Hill). (9) Tức là quyển The Psychology of Salesmanship của William Walker Atkinson. Ám thị chỉ khác tự ám thị ở một điểm - đó là chúng ta sử dụng nó để gây ảnh hưởng lên tâm trí của người khác, trong khi tự ám thị là gây ảnh hưởng lên tâm trí của chính mình. Trong rất nhiều dịp, tôi đã chứng minh trước các lớp học của mình sức mạnh đáng kinh ngạc của sự ám thị qua những ví dụ sau: Tôi lấy một cái chai loại 60ml dán nhãn là “Dầu bạc hà”, sau đó đưa ra một giải thích ngắn nhằm chứng minh về sự quyến rũ của mùi bạc hà. Kế tiếp, tôi đưa một cái chai khác ra trước lớp để tất cả có thể trông thấy, và tôi bảo rằng chai này có chứa dầu của lá bạc hà, và chỉ cần một vài giọt nhỏ lên chiếc khăn tay mà tôi đang cầm thì mùi hương cũng có thể lan đến tới cuối phòng trong khoảng 40 giây. Tiếp theo, tôi mở nắp chai và nhỏ một vài giọt lên khăn tay, đồng thời quay mặt đi để ngụ ý rằng mùi thơm rất nồng. Rồi tôi yêu cầu mọi người trong lớp học hãy nhanh chóng đưa tay lên khi ngửi thấy luồng hơi đầu tiên của hương bạc hà. Ngay lập tức, có đến 75% cánh tay giơ lên. Sau đó tôi cầm cái chai, uống một cách chậm rãi và thích chí bảo rằng thực ra chai này chỉ chứa nước lã! Dĩ nhiên không ai ngửi thấy mùi bạc hà cả! Khứu giác của họ đã bị đánh lừa, tất cả là do sự ám thị gây ra. Tại thị trấn nhỏ nơi tôi lớn lên có một người phụ nữ lớn tuổi suốt ngày kêu ca rằng bà cảm thấy mình sắp chết vì ung thư. Bà đinh ninh là bất cứ cơn đau nào của mình cũng đều là dấu hiệu của bệnh ung thư. Tôi đã thấy bà đặt tay mình lên ngực và rên rỉ: “Tôi chắc chắn là tế bào ung thư đang phát triển trong ngực tôi”. Những khi kêu ca về căn bệnh tưởng tượng của mình, bà lại đặt tay lên ngực trái vì bà tin rằng đây là nơi căn bệnh ung thư sẽ tấn công. Khi tôi viết đến đây, tôi được biết rằng bà lão đó đã chết vì bị ung thư ngay tại ngực trái, đúng vị trí mà bà thường đặt tay lên mỗi khi kêu ca về bệnh ung thư của mình! Nếu sự ám thị thực sự có thể biến các tế bào khỏe mạnh của cơ thể thành tế bào ký sinh - mầm mống hình thành bệnh ung thư, thì liệu bạn có tưởng tượng được rằng cũng chính sự ám thị sẽ giúp cơ thể loại trừ những tế bào bệnh tật và thay thế chúng bằng những tế bào khỏe mạnh không? Nếu mọi người trong lớp học có thể bị tác động bởi nguyên tắc ám thị và tin rằng họ đang ngửi mùi bạc hà trong khi đó chỉ là nước lã, thì liệu bạn có thế thấy rằng nếu biết áp dụng đúng cách nguyên tắc này, bạn hoàn toàn có thể hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ hay không? Nhờ vào nguyên tắc ám thị, các bác sĩ tâm lý đã chữa lành bệnh cho rất nhiều trường hợp. Theo nhiều tài liệu đáng tin cậy, các bác sĩ dùng thuốc ngày càng ít đi và thay vào đó họ gia tăng sử dụng các liệu pháp tâm lý. Trong gia đình tôi có hai người là bác sĩ, họ đã nói với tôi rằng so với mấy năm trước thì bây giờ họ ngày càng khai thác tối đa tác dụng của những “đơn thuốc tâm lý”. Một trong hai người đã kể với tôi rằng có trường hợp một bệnh nhân đã dịu hẳn cơn đau đầu trong một vài phút sau khi uống thứ thuốc mà người bệnh đó tin là aspirin, nhưng thực ra đó chỉ là bột mì trắng. Thôi miên cũng chính là phương pháp được thực hiện hoàn toàn thông qua sự ám thị. Trái ngược với lối suy nghĩ thông thường, một người không thể bị thôi miên nếu bản thân họ không đồng thuận. Sự thật thì hiện tượng thôi miên được tạo ra không phải do tâm trí của người điều khiển mà do chính ảo giác tâm lý của người được thôi miên. Tất cả những gì người điều khiển thôi miên có thể làm khi đang thôi miên một người là “vô hiệu hóa” tâm trí ý thức của người này, sao cho nó trở thành tâm trí tiềm thức và sau đó đưa ra những ám thị mà người điều khiển thôi miên mong muốn. Bằng cách “vô hiệu hóa” tâm trí của đối tượng, chúng ta có thể điều khiển tâm trí ý thức của họ. Chúng ta sẽ quay trở lại với vấn đề này sau để giải thích về một số phương thức khiến tâm trí ý thức có thể bị làm cho tê liệt, nhưng trước tiên hãy nghe giải thích về phương thức thôi miên đã được một chuyên gia thôi miên mô tả như sau: Dành ra một hoặc hai giờ trò chuyện thân mật với đối tượng về những thất bại mà anh ấy muốn quên lãng và nắm được những xu hướng vượt trội hay những suy nghĩ đang kiểm soát anh, làm cho anh cảm thấy yên tâm, và trên hết là phải thu phục được lòng tin của anh ấy, rồi tôi mới yêu cầu anh tìm một vị trí tựa thoải mái trên xô-pha. Sau đó tôi lại tiếp tục trò chuyện nhẹ nhàng, nhàm tạo cho người đó một cảm giác mơ màng. Tôi nói như sau: “Tôi hy vọng anh sẽ nhìn vào viên kim cương này (hoặc có thể chọn bất cứ vật gì trong tầm nhìn của đối tượng) trong một tâm thế mơ mộng, bồng bềnh, trống rỗng. Đừng suy nghĩ gì cả, đừng tập trung tâm trí hay nhìn chàm chàm vào nó, hãy thả lỏng các cơ bắp toàn thân để hình ảnh trước mắt mờ dẩn. Đừng nỗ lực nhìn rõ vật thể. Thay vào đó, hãy nhìn xuyên qua viên đá, như thể anh đang nhìn vào một thân cây trơ trọi đứng giữa anh và khoảng xa xăm trong tẩm nhìn của anh. Đừng cố làm gì cả, vì anh chẳng thể làm gì đâu. Đừng tự hỏi điều gì đang diễn ra, vì chẳng có gì đang diễn ra cả. Đừng sợ hãi, cũng đừng nghi ngờ, hay thiếu tin tưởng. Đừng mong ước sẽ có gì xảy ra hay nhìn xem việc gì đang diễn ra - cũng đừng tìm cách để phân tích những diễn biến trong tâm trí anh. Anh đang bị vô hiệu hóa, trở nên lười biếng, bàng quan trước mọi thứ. Anh đang mong được chìm trong giấc mộng, điều này sẽ xảy đến khi các giác quan của anh tạm thời mất khả năng nhận thức, trí não rơi vào trạng thái trống rỗng - mi mắt trĩu nặng, đôi tai cứ trơ trơ ra, các cơ bắp và làn da mất cảm giác, không bị tác động do nhiệt độ, độ ẩm, không khí, v.v. Cảm giác thẫn thờ này sẽ kéo mi mắt của anh xuống, các giác quan của anh dẩn dẩn bị tê liệt, và anh sẽ đẩu hàng sự thôi thúc như là có một tấm màn ngăn cách giữa anh và thế giới đẩy màu sắc, ánh sáng ở bên ngoài. Và đôi mắt của anh tìm kiếm sự sẻ chia trong sự nghỉ ngơi của các giác quan. Bóng tối là giấc ngủ của đôi mắt, sự im lặng là giấc ngủ của đôi tai, và đôi tai của anh bảo vệ sự yên tĩnh của tâm trí bảng cách bỏ qua những âm thanh bên ngoài. Tiếng nói của tôi đây cũng không còn làm anh bận tâm, và những tác động cũng như những quyết định có vẻ như đã chìm vào nơi xa xăm bí ẩn. Cảm giác dễ chịu đẩu hàng trước những ảnh hưởng mà anh không thể kháng cự hoặc không muốn kháng cự sẽ đến với anh và bao bọc lấy cơ thể anh, và anh đang hạnh phúc. Giấc ngủ êm đềm cũng sẽ đến với anh”. Như đã trình bày ở phần trước, bạn có thể thấy rằng nhiệm vụ đầu tiên của nhà thôi miên là làm cho ý thức của đối tượng bị thôi miên trở nên bất lực. Sau khi một phần hay toàn bộ tâm trí của người ấy bị “vô hiệu hóa” hay làm cho tê liệt, nhà thôi miên mới bắt đầu điều khiển đối tượng bằng cách tác động ám thị trực tiếp lên tâm trí tiềm thức của anh ta. Tâm trí tiềm thức lúc này sẽ làm bất cứ điều gì mà nó được sai khiến. Nó sẽ không thắc mắc tại sao, nhưng sẽ hành động dựa trên những ấn tượng giác quan mà nó được tiếp nhận thông qua 5 giác quan. Khi lý trí hoạt động tại tâm trí ý thức, nó đóng vai trò như một lính gác. Lúc ta thức giấc, nó sẽ bảo vệ các cổng giác quan thị giác, khứu giác, xúc giác, vị giác và thính giác; nhưng ngay khi ta đi ngủ hoặc khi ta trở nên nửa tỉnh nửa mê vì bất cứ nguyên nhân gì, thì người lính gác này cũng không làm việc. Có rất nhiều cấp độ thôi miên mà một người có thể bị tác động thông qua nguyên tắc ám thị. Một chuyên gia thôi miên khi biểu diễn trên sân khấu thường kiểm soát hoàn toàn tâm trí của những người tham gia, và khiến họ làm những hành động gây cười. Cũng có những dạng thôi miên nhẹ hơn khi một người có thể bị kiểm soát mà không ý thức được điều này. Đây là dạng thôi miên “vô hình”, một dạng thôi miên làm người ta không chú ý. Chúng tôi muốn bạn học được cách thôi miên này, bởi nó góp phần giúp bạn tạo ảnh hưởng với người khác. Dù đối tượng bị thôi miên mất kiểm soát hoàn toàn hay chỉ một phần, thì cũng cần có một điều kiện là tâm trí họ phải có sự cả tin. Nhà thôi miên dù là chuyên nghiệp hay không chuyên, trước tiên đều phải đặt đối tượng của mình vào sự cả tin rồi sau đó mới định hướng hay điều khiển tâm trí của họ. Nói cách khác, trước khi một tâm trí bị ảnh hưởng thông qua sự ám thị, thì nó phải bị “vô hiệu hóa”. Điều này mang chúng ta quay trở lại với câu hỏi về việc mô tả những phương pháp để “vô hiệu hóa” một tâm trí. Tôi có thể mô tả tốt nhất việc “vô hiệu hóa” một tâm trí bằng trường hợp cụ thể sau. Cách đây một vài năm, cảnh sát đã bắt một nhóm lừa đảo khét tiếng, nhóm này đã dựng nên các tiệm bói toán tại Chicago. Cầm đầu là một người đàn ông tên Bertsche. Mục đích của nhóm này là lừa tiền của những người cả tin, mê tín. “Bà thầy bói” - một thành viên trong nhóm - nắm vững hầu hết bí mật đời tư của khách hàng như tài sản, khả năng tài chính và những thông tin cần thiết khác. Để có được những thông tin này không có gì khó khăn bởi vì công việc của các tiệm bói toán này là tư vấn cho khách hàng về công việc, tình cảm, sức khỏe... Do đó, bọn tội phạm dễ dàng thu thập thông tin về những con mồi được chọn và chuyển đến cho người cầm đầu là tên Bertsche. Khi cơ hội đến,“bà thầy bói” sẽ khuyên nạn nhân của mình đến gặp một doanh nhân đáng tin cậy, tất nhiên là bà ta phải đưa ra những thông tin khiến nạn nhân tin rằng nhân vật này không hề có bất kỳ mối quan hệ xa gần nào với bà cả. Đồng thời, nạn nhân được biết rằng họ sắp có dịp được gặp một “quý nhân”. Ngay sau đó, tên Bertsche xuất hiện tại tiệm bói toán và tán chuyện với “bà thầy bói” về một vài việc đầu tư kinh doanh, và “tình cờ” được giới thiệu để làm quen với nạn nhân. “Đây là một người rất giàu có”, bà thầy bói đã giới thiệu về Bertsche như vậy với nạn nhân. Sau đó “bà thầy bói” tiếp tục kể rằng đây là một quý ông rất tốt bụng, luôn muốn giúp đỡ những người khác thành công trong kinh doanh. Tên Bertsche lúc này ăn vận rất bảnh bao, ra dáng một người sang trọng và giàu có. Hắn ta gặp nạn nhân, chào hỏi một cách lịch thiệp, rồi sau đó nhanh chóng ra về với lý do là có một cuộc hẹn quan trọng với “ngài Morganbilt”. Lần kế sau đến tiệm, nạn nhân lại được gặp tên Bertsche và hắn đang “chuẩn bị đến gặp một phú thương khác tên là Vandermorgan”. Tên này luôn xuất hiện trong tình trạng vội vã với mục đích tạo ấn tượng hắn là một người quan trọng. Điều này được lặp lại một vài lần, cho tới khi nạn nhân bắt đầu cảm thấy Bertsche quả thực là một người giàu có bận rộn, và ông ta có rất ít thời gian để dành cho người khác. Cuối cùng, sau khi nạn nhân đã qua cấp độ bị lôi kéo thứ nhất và bắt đầu cảm thấy thật hân hạnh biết mấy nếu họ được Bertsche mời ăn tối, rồi điều mà họ tưởng là không thể này đã trở thành có thể. Bertsche đã mời họ đi ăn tối. Nạn nhân sẽ được dẫn đến những quán ăn sang trọng nhất, hay những quán café đẹp nhất và được đãi một bữa thịnh soạn. Tên Bertsche sẽ mời bữa này, có vẻ như hắn là một người lúc nào cũng sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ. Trong túi của tên Bertsche có một tờ giấy ghi chép mọi thông tin về nạn nhân. Do đó hắn nắm rõ mọi sở thích, nhu cầu của nạn nhân. Trò chơi bắt đầu! Nếu nạn nhân thích đua ngựa, dĩ nhiên “ngài” Bertsche giàu có, lịch sự và chu đáo sẽ mang ra con ngựa thuần của ông cho nạn nhân tùy ý sử dụng. Nếu nạn nhân thích xe hơi, “ngài” Bertsche cũng sẽ đợi sẵn trước cửa với một chiếc ô-tô thời thượng. Nạn nhân sẽ được thưởng thức các loại hình giải trí đa dạng đúng theo nhu cầu, và chi phí cho những lần vui chơi này luôn luôn được “ngài” Bertsche - lúc này đã được gọi là “người bạn đáng tin cậy” - đài thọ. Những thủ tục này được tiếp diễn cho tới khi tâm trí của nạn nhân đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa! Nói cách khác, cho tới khi nạn nhân hoàn toàn không còn cảm thấy nghi ngờ về bất cứ điều gì có thể xảy đến hay bất cứ điều gì Bertsche khuyên bảo. Tên Bertsche đã hoàn toàn chiếm được lòng tin của nạn nhân theo cách như thế. Với một vài trường hợp, tên Bertsche có thể phải đóng kịch với nạn nhân trong cả 6 tháng trước khi tìm ra cơ hội chín muồi để đánh lừa nạn nhân, và thông thường cái giá nạn nhân phải trả cho những trò vui và “phí tổn của vở kịch” bọn lừa đảo này dựng nên là vô cùng lớn. Theo như bản báo cáo của những trường hợp được đưa ra ánh sáng, một vài nạn nhân của Bertsche đã đưa ra khoảng 50 ngàn đô-la gọi là “đầu tư” cho những phi vụ không có giá trị mà tên này giới thiệu, vì hắn đã “vô tình” đánh tiếng rằng hắn cũng đã đầu tư vào những phi vụ như vậy và đã thu được lợi nhuận cao. Trong một trường hợp khác, hắn ta cũng giả vờ vô tình để lộ ra tài khoản tiền lãi trị giá 10.000 đô mà hắn vừa nhận được từ một vụ đầu tư chỉ tốn 20.000 đô cho một tập đoàn nào đó. Hắn ta rất thông minh khi thuyết phục những con mồi của mình đầu tư vào một trong những phi vụ “ma” mà hắn bịa đặt ra bằng cách vờ như sơ suất để lộ thông tin, khiến cho những nạn nhân tội nghiệp cứ ngỡ rằng họ vừa chớp được cơ hội làm giàu. Sự ám thị được áp dụng một cách tài tình bao giờ cũng có sức mạnh thần kỳ, và tên Bertsche “giàu có” đã thuộc nằm lòng bí quyết này. Có trường hợp, người ta kể lại rằng một nạn nhân của tên này, là một người phụ nữ, cả tin đến mức đã rút một khoản tiền rất lớn từ ngân hàng để đưa cho Bertsche và cố thuyết phục hắn ta giúp mình dùng số tiền này để đầu tư. Tên này từ chối và bảo bà là hắn vẫn còn khoản đầu tư của riêng mình nữa, nên không thể đầu tư giúp cho người khác lúc này. Lý do tên Bertsche từ chối người phụ nữ này là bởi vì hắn còn muốn lừa gạt của bà số tiền nhiều hơn nữa. Hắn ta biết bà có bao nhiêu tiền, và hắn có ý định sẽ chiếm đoạt bằng hết. Vì vậy, người phụ nữ rất vui sướng khi một vài ngày sau đó Bertsche gọi điện và thông báo rằng thông qua một người bạn rất đặc biệt của hắn, bà có cơ hội đầu tư vào một khoản cổ phiếu rất có giá trị, và cho biết là bà có thể mua toàn bộ. Hắn ta không bảo đảm với bà rằng cơ hội thành công là 100%, nhưng bà có thể thử xem thế nào. Và người phụ nữ này đã làm theo hắn! Tất nhiên số tiền sau đó đã rơi vào túi Bertsche. Bạn thấy đấy, ám thị có hiệu quả hơn nhiều so với những lời yêu cầu hay đề nghị bắt buộc. Với trường hợp cụ thể này, tôi muốn bạn thấy được chính xác sự “vô hiệu hóa” một tâm trí là như thế nào. Tất cả những điều cần làm để vô hiệu hóa một tâm trí, khiến nó sẵn sàng chấp nhận và hành động theo sự điều khiển của ta là hãy làm cho người đó trở nên cả tin tột độ, hoặc ít ra là phải cả tin hơn mức bình thường. Có hàng ngàn cách để vô hiệu hóa tâm trí của một người, khiến họ sẵn sàng đón nhận bất cứ suy nghĩ nào mà ta muốn gieo vào tâm trí họ thông qua sự ám thị. Không cần thiết phải cố gắng để liệt kê tất cả những cách này ra, bởi vì mỗi người đều có thể dựa vào kinh nghiệm riêng của bản thân để tự thu gom các kiến thức thực hành cần thiết của nguyên tắc và phương thức ứng dụng sự ám thị. Trong một số trường hợp, có thể phải mất đến một vài tháng bạn mới điều khiển được tâm trí của một người thông qua sự ám thị. Nhưng cũng có những trường hợp bạn chỉ cần tốn một vài phút hay thậm chí là một vài giây. Bạn có thể xem đó như là một thực tế tích cực, tuy nhiên, thực tế là bạn không thể gây ảnh hưởng lên tâm trí của một người chống đối với bạn, hay người không có niềm tin tuyệt đối vào bạn. Vì vậy, dù bạn đang chuẩn bị diễn thuyết, bán hàng, hay bào chữa cho một vụ án trước bồi thẩm đoàn, thì bước đầu tiên bạn cần thực hiện bao giờ cũng là làm sao giành được sự tin tưởng của những người mà bạn muốn tác động. Hãy đọc bài diễn văn tuyệt vời của Mark Antony trong lễ chôn cất Caesar (trong tác phẩm của Shakespeare), bạn sẽ thấy ông ấy đã chinh phục hoàn toàn nhóm người thù địch chính bằng cách thức đơn giản chúng ta đang đề cập trong bài học này. Hãy cùng phân tích những dòng mở đầu bài diễn văn tuyệt vời này, bởi vì trong đó chứa đựng một bài học có hiệu quả bậc nhất về tâm lý ứng dụng. Lúc đó, khi đám đông quần chúng đang bị Brutus thuyết phục về những lý do khiến hắn giết chết Caesar, Mark Antony - một danh tướng tài ba đồng thời là một người bạn của Caesar - bước ra vũ đài trình bày quan điểm của ông về cái chết của Caesar. Đám đông phản đối ông, hơn nữa họ còn cho rằng ông có âm mưu tấn công Brutus. Là một người có trí tuệ khôn ngoan vượt bậc, Mark Antony đã chẳng hề chống chế trước lời buộc tội của đám đông. Ông chỉ nói: “Các bạn, hãy lắng nghe tôi. Tôi đến đây để tiễn đưa Caesar, chứ không phải để ca ngợi ông ấy”. Đám người cho rằng Antony đến là để ca ngợi người bạn của ông (mà thật sự mục đích của Antony là vậy), nhưng Antony ban đầu cố gắng không thể hiện điều đó cho tới khi tâm trí của đám người này bị vô hiệu hóa và được chuẩn bị để đón nhận những lời ông định nói một cách đầy thiện ý. Nếu trình tự bài phát biểu của Mark Antony bị đảo ngược, và nếu ông có ý định chế giễu Brutus như là một kẻ ngụy quân tử ngay từ lúc đầu, nhiều khả năng ông sẽ bị ám sát. Một trong những luật sư thành công và có năng lực nhất mà tôi từng gặp cũng đã áp dụng nguyên tắc tâm lý tương tự như phương pháp Mark Antony đã sử dụng. Một lần tôi được nghe ông này cãi trước một bồi thẩm đoàn, ban đầu, sau vài phút nghe ông trình bày tôi còn tin rằng ông đang say rượu hoặc là bất thình lình bị mất trí. Ông luật sư bắt đầu bằng việc tán dương đức hạnh của đối thủ, và có vẻ như đang ông giúp họ chống lại thân chủ của mình. Ông bắt đầu bằng câu: “Thưa các vị, mặc dù lúc này tôi không muốn làm các vị giật mình, nhưng đúng là ở đây có rất nhiều chi tiết chống lại thân chủ của tôi”, và nhờ vậy ông đã thu hút được sự chú ý của tất cả mọi người (Tất nhiên, những điểm bất lợi này đã được nhóm luật sư đối lập chỉ ra trong phiên tòa). Sau khi tiếp tục nói về những điểm bất lợi này, ông đột ngột dừng lại, và với sự xúc động sâu sắc, ông tiếp tục: “Nhưng tất cả những điều tôi vừa trình bày là do các luật sư bên kia đưa ra. Vậy thì chúng ta đã biết tất cả các lý lẽ của họ là như vậy, còn bây giờ là những lý lẽ của phía tôi”. Kể từ đó, người luật sư này đánh vào tâm trí của bồi thẩm đoàn như thể một nhạc sĩ dương cầm đang đánh với từng sợi dây đàn, và chỉ trong vòng 15 phút, ông đã làm cho họ xúc động đến rơi lệ. Cuối bài phản biện, ông ngồi phịch xuống ghế, trông như kiệt sức vì xúc động. Sau nửa giờ hội ý, bồi thẩm đoàn trở ra và tuyên án vô tội cho thân chủ của ông. Nếu người luật sư bắt đầu biện hộ bằng cách nêu lên những điểm yếu của đối thủ và nhấn mạnh quá sớm với bồi thẩm đoàn về những ưu điểm của thân chủ mình, thì chắc chắn ông sẽ thất bại. Nhưng, theo như tôi được biết, có thể nói người luật sư này là một học trò nhỏ của Shakespeare. Ông ta đã áp dụng phương pháp tâm lý của nhân vật Mark Antony trong hầu hết các phiên bào chữa của mình, và ông là một trong những số ít những luật sư hiếm khi thất bại. Nguyên tắc này cũng được một người bán hàng thành công sử dụng, người này không chỉ cố để không “hạ gục” đối thủ của mình, mà ngược lại còn ca ngợi anh ta. Hẳn là chẳng ai có thể xem mình là một người bán hàng chuyên nghiệp nếu như không tiếp thu được nguyên tắc tâm lý của Mark Antony và học được cách để sử dụng chúng. Bài diễn văn này là một trong những bài học hiệu quả nhất về nghệ thuật bán hàng. Nếu một người bán hàng bị thất bại thì chắc chắn đến 99% nguyên nhân là bởi vì người đó thiếu sự chuẩn bị đúng đắn để có thể thuyết phục khách hàng. Người đó đã bỏ nhiều thời gian để cố gắng tiếp cận khách hàng nhưng anh ta đã quá nôn nóng. Một người bán hàng muốn thành công thì cần phải chuẩn bị tâm lý cho khách hàng để họ sẵn sàng tiếp nhận những đề nghị mà không hề đặt ra nghi vấn hay chống lại. Tâm trí con người rất phức tạp. Một trong những đặc điểm của nó là tất cả những ấn tượng tác động đến phần tiềm thức đều được não ghi nhận và quản lý theo nhóm, và các nhóm này liên kết với nhau rất chặt chẽ. Vậy nên khi một trong những ấn tượng này được chuyển vào phần tâm trí ý thức, thì các ấn tượng còn lại cũng có khuynh hướng đi theo cùng. Ví dụ, chỉ cần một hành động hay một lời nói không đủ độ tin cậy thì cũng đủ để một người hồi tưởng lại tất cả những thứ đã làm mình nghi ngờ trước đó. Giống như một viên đá cuội được ném xuống mặt nước sẽ tạo gợn sóng và lan ra rất nhanh, tâm trí tiềm thức cũng có khuynh hướng gửi đến tâm trí ý thức tất cả những cảm xúc hay ấn tượng giác quan tương tự được tập hợp lại khi chỉ cần một trong số chúng được đánh thức. Khi đánh thức cảm giác nghi ngờ của một người thì cũng có nghĩa là đánh thức tất cả những trải nghiệm về sự nghi ngờ của người đó đã có từ trước. Đó là lý do tại sao người bán hàng thành công thường cố gắng tránh các chủ đề có thể đánh thức “những mối nghi ngờ” của người mua hàng. Những người bán hàng giỏi đã đúc rút được kinh nghiệm rằng việc đả kích một đối thủ cạnh tranh có thể dẫn đến hậu quả là khơi dậy những cảm xúc tiêu cực ở khách hàng, và dĩ nhiên trong trường hợp này thì người bán hàng không thể vô hiệu hóa tâm trí của khách hàng được. Nguyên tắc này tỏ ra rất hiệu quả trong việc kiểm soát từng cảm xúc cũng như từng ấn tượng giác quan trú ngụ trong tâm trí của một người. Ví dụ, khi ta có cảm giác sợ hãi, thì thời điểm ta cho phép sự sợ hãi tiếp cận với tâm trí ý thức của ta cũng chính là lúc những cảm giác tương tự khác tiếp cận tâm trí ý thức của ta. Vì có sự tồn tại của cảm giác sợ hãi, cảm giác can đảm không đủ mạnh để thu hút sự chú ý của tâm trí ý thức. Cảm giác này sẽ “hất cẳng” cảm giác kia. Chúng không thể cùng tồn tại, bởi vì chúng không hòa hợp với nhau. Vì mỗi một ý nghĩ trong tâm trí ý thức đều có khuynh hướng thu hút về phía mình những ý nghĩ hòa hợp và gắn kết. Cho nên, đúng như bạn đang thấy, những cảm giác, ý nghĩ và cảm xúc nếu muốn thu hút được sự chú ý của tâm trí ý thức thì cần nhận được sự trợ giúp đỡ của một đội quân luôn trong tư thế sẵn sàng hỗ trợ chúng. Khi gieo vào tâm trí ai đó một tham vọng rằng người đó sẽ thành công ở mọi mặt, thông qua sự ám thị, bạn sẽ thấy rằng những tiềm năng của người đó sẽ được đánh thức và họ sẽ được tiếp thêm sức mạnh. Khi gieo vào tâm trí con trai bạn tham vọng trở thành một bác sĩ, luật sư, kỹ sư hay một nhà kinh doanh thành công thông qua sự ám thị, đồng thời tránh tất cả ảnh hưởng không tốt đến con, bạn sẽ thấy con trai bạn đạt được mục tiêu như mong đợi. Gây ảnh hưởng lên tâm trí của một đứa trẻ thông qua sự ám thị dễ hơn tâm trí của một người trưởng thành, vì trong tâm trí của trẻ em thì không có nhiều phản ứng đối nghịch khiến quy trình “vô hiệu hóa” tâm trí bị phá vỡ, và dĩ nhiên là một đứa trẻ thì bao giờ cũng “cả tin” hơn một người trưởng thành. Nguyên tắc ám thị còn ẩn chứa trong nó con đường lý tưởng đạt đến thành công trong việc tổ chức và quản lý con người. Những người quản lý, quản đốc hay chủ tịch của một tổ chức nếu thất bại trong việc tiếp thu và áp dụng nguyên tắc này thì cũng chẳng khác gì họ đang tự tước đi sức mạnh to lớn nhất của mình về khả năng kiểm soát nhân viên. Một trong những người quản lý thành công và có sức ảnh hưởng nhất mà tôi từng biết là người không bao giờ phê bình cấp dưới của mình. Ngược lại, ông còn luôn tán dương họ! Ông dùng nhiều hình thức để khích lệ những tiến bộ mà họ đã đạt được. Cho dù trên thực tế, các nhân viên có yếu kém trong công việc, ông cũng không bao giờ khiển trách. Bằng cách liên tục tác động vào tâm trí của nhân viên mình thông qua sự ám thị rằng họ “đang tiến bộ”, những nhân viên của ông đã dần dần có được những biến đổi tích cực. Một ngày nọ, người quản lý này dừng lại ở bàn làm việc của một nhân viên có tình trạng làm việc sa sút. Người đó làm việc theo chỉ tiêu sản phẩm. Nhà quản lý đã đặt tay lên vai anh ta và bảo: “Jim, tôi thấy anh làm tốt hơn tuần vừa rồi đấy. Có vẻ như anh đang truyền nhiệt huyết cho các nhân viên khác. Tôi rất mừng cho anh. Cứ tiếp tục cố gắng nhé, tôi sẽ luôn ở bên anh”. Sự việc trên xảy ra vào khoảng 1 giờ chiều. Tối đó, bảng đánh giá công việc của Jim cho thấy rằng anh đã làm nhiều hơn 25% khối lượng công việc anh làm trong ngày trước đó! Nếu ai đó nghi ngờ về những hiệu quả kỳ diệu của sự ám thị, thì có nghĩa là họ đã không dành thời gian để tìm hiểu về nó. Bạn có nhận thấy rằng những người thân thiện, nhiệt tình, hoạt bát, giao tiếp tốt thường dễ dàng thu hút người khác hơn không? Và chắc chắn, nếu để ý, bạn cũng sẽ thấy rằng những người cáu kỉnh, rầu rĩ, khép kín thì sẽ không bao giờ thành công trong việc thu hút người khác về phía mình hay tạo được sức ảnh hưởng để lôi kéo mọi người hành động theo ý tưởng của họ. Nguyên tắc ám thị có phát huy được hiệu quả hay không là phụ thuộc ở việc ta có nhận thức được ý nghĩa của nó hay không. Cũng giống như quy luật về lực hấp dẫn, thông qua nguyên tắc tự ám thị, chúng ta tạo được ảnh hưởng đến những người xung quanh, khiến họ đón nhận những gì chúng ta muốn tác động lên họ và chi phối đến mọi hành động, phản ứng của họ sau đó. Có lẽ bạn đã từng nhìn thấy cảnh một người cáu kỉnh thể hiện sự bất mãn đối với những người mà anh ta giao du. Một người khích động và một người gây rối có thể hủy hoại toàn bộ nỗ lực của cả một nhóm người, để rồi cuối cùng chẳng làm nên chuyện gì cả. Mặt khác, một người vui vẻ, lạc quan, trung thành và nhiệt tình sẽ gây được ảnh hưởng tích cực lên cả nhóm người và có thể truyền cho họ tinh thần lạc quan của mình. Sự thật là chúng ta vẫn đang liên tục tác động đến những người xung quanh bằng cảm xúc và suy nghĩ của mình. Có nhiều trường hợp, chúng ta làm việc này trong vô thức. Ở bài học tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ cho bạn phương pháp để áp dụng một cách có ý thức nguyên tắc ám thị này, thông qua quy luật tương tác. Ở bài học này, bạn đã học được một trong những nguyên tắc chủ đạo của tâm lý học, là sự ám thị. Bạn được học rằng có hai bước để vận dụng nguyên tắc này là: Đầu tiên, phải “vô hiệu hóa” tâm trí của đối tượng trước khi bạn muốn tác động lên họ thông qua sự ám thị. Thứ hai, để “vô hiệu hóa” một tâm trí, bạn phải tạo ra “sự cả tin” lấn át những niềm tin thông thường mà đối tượng đang có. Thật may mắn nếu bạn là một người biết kiềm chế cái tôi của mình, dẹp bỏ tính tự cao tự đại và sẵn sàng truyền đạt suy nghĩ của bản thân đến người khác mà không cần phải nhắc họ về nguồn gốc của ý tưởng đó. Một người mở đầu câu chuyện bằng câu nói: “Như ông đã biết đấy, ông Smith” thay vì nói câu “Hãy để tôi nói cho ông về điều mà ông chưa được biết, ông Smith”, thì nghĩa là người đó đã biết sử dụng nguyên tắc ám thị. Một trong những người bán hàng thành công và thông minh nhất tôi từng biết là người hiếm khi nào tự tán dương về các thông tin mà anh ta muốn truyền tải đến khách hàng tiềm năng của mình. Câu cửa miệng của anh luôn là: “Chắc hẳn ông đã biết về điều này rồi.”. Nếu một người tìm mọi cách sử dụng vốn kiên thức uyên thâm của họ nhằm “vô hiệu hóa” tâm trí của ta thì khả năng thành công của họ là rất thấp. Hậu quả là thay vì “mê hoặc” tâm trí của chúng ta, những người này lại khơi dậy trong ta tâm lý phản kháng và tất nhiên là họ đã thất bại trong việc áp dụng nguyên tắc ám thị. B 4 QUY LUẬT TƯƠNG TÁC ài học này sẽ giải thích cho chúng ta một trong những nguyên tắc chủ yếu và quan trọng nhất của tâm lý: Quy luật tương tác. Tâm lý con người cũng giống như mặt đất, chúng ta gieo ở đó hạt mầm gì thì nó sẽ mọc lên và sinh sôi nảy nở thông qua 5 giác quan. Tâm trí có xu hướng “phản ứng lại điều tương tự”, nghĩa là những hành vi tốt sẽ được đáp trả lại bằng những điều tốt, ngược lại, sự bất công và độc ác cũng được đáp trả tương ứng. Dù cho những hành vi này được điều khiển thông qua ám thị hay tự ám thị, thì trí óc vẫn định hướng các hoạt động thể chất dựa vào những ấn tượng giác quan mà nó tiếp nhận được; vì vậy, nếu bạn muốn tôi “phản ứng lại điều tương tự”, bạn hoàn toàn có thể làm được bằng cách định hình trong tâm trí tôi những ấn tượng giác quan hay những ám thị mà thông qua đó bạn muốn tôi có những hành động đáp trả lại. Ví dụ như bạn có thể xúc phạm hay làm tôi bực bội, thì nhanh như chớp, tâm trí tôi sẽ định hướng cho cơ thể đáp trả lại bạn điều tương tự, đó chính là “phản ứng lại điều tương tự”. Bài học về quy luật tương tác sẽ dẫn chúng ta đến với một phạm vi mới. Ta có thể gọi đó là phạm vi của những hiện tượng tâm lý chưa xác định, và để lý giải được những hiện tượng này có lẽ cần có sự hỗ trợ của khoa học vật lý. Tuy chưa có sự lý giải thỏa đáng về luật tương tác, nhưng các nhà khoa học vẫn công nhận đây là một nguyên tắc đã được định hình. Chúng ta vẫn sử dụng điện mặc dù vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về dạng năng lượng này, tương tự như vậy, hãy sử dụng những nguyên tắc tương tác một cách khôn ngoan. Có một dấu hiệu khích lệ cho thấy ngày càng có nhiều tác giả hiện đại tập trung nghiên cứu quy luật tương tác. Dù mỗi người trong họ còn có những lời giải thích khác nhau, nhưng có vẻ như tất cả đều đồng ý với những đặc điểm cơ bản của cái gọi là nguyên tắc “tương tác lẫn nhau”. Xung quanh đề tài này, Phu nhân Tổng thống Woodrow Wilson có viết: “Có một quy luật tâm lý là tất cả những gì chiếm giữ tâm trí ta đều sẽ được định hình có mục tiêu. Và mỗi người chúng ta đều có thể chứng minh quy luật này từ những trải nghiệm của riêng mình. Ví dụ, bạn có thể gặp một từ mà bạn không biết nghĩa. Bạn chưa từng nghe từ đó hay trông thấy nó bao giờ, nhưng sau khi bạn đã biết nó rồi, bạn sẽ thấy mình bắt gặp nó hoài. Gần đây tôi cũng gặp một việc tương tự và có phán hơi kỳ quặc. Tôi đọc và nghiên cứu một đề tài mà tôi rất thích, đề tài này chắc chắn chưa bao giờ được xếp vào loại chủ đề nóng hổi. Tôi không nhớ đã từng thấy nó được đề cập đến ở bất kỳ một kênh thông tin đại chúng nào gán đây, nhưng kỳ lạ là kể từ khi tôi nghiên cứu về nó, tôi lại bắt đầu bắt gặp và thu thập được rất nhiều bài báo, bài tạp chí khác nhau viết về đề tài này. Bạn có thể dễ dàng đi theo sự vận hành của quy luật này, dù ở bất cứ điều gì, kể cả chi tiết nhỏ nhất. Một hai ngày trước, có một người bạn đến gặp tôi và đứng sững ngay trước cửa phòng tôi đang ngồi. - Trời ơi, hoa! - Cô ấy hét lên. - Có phải hoa hồng không? Trong giọng nói của cô ấy có chút sợ hãi, tôi nghĩ cô trách tôi vì đã không chịu mua trái phiếu. Tuy nhiên sau đó cô giải thích ràng mình rất khổ sở vì hoa hồng, và cứ vào khoảng tháng 6 khi những bông hoa hồng đang nở, mùi hương của chúng khiến cô ấy bị sốt. - Trường hợp này chắc hiếm lắm, đúng không? - Tôi hỏi sau khi nhanh chóng mang hoa ra khỏi phòng. - Không đâu, - cô ấy trả lời. - Trường hợp như tôi rất phổ biến. Hầu hết những người tôi quen biết đều bị như vậy cả. Mặc dù hàng ngày tôi cũng tiếp xúc với rất nhiều người như cô ấy, có khi còn nhiều hơn do đặc thù công việc, nhưng ngoài cô ấy ra, tôi chưa gặp ai khác mắc phải chứng bệnh kỳ lạ này cả. Một lần nữa tôi phải hỏi lại rằng tại sao khi những suy nghĩ của chúng ta được liên tục chuyển đến một vài người liên quan, thì rất có khả năng chúng ta sẽ nghe nhắc về những người đó hoặc gặp họ trong một thời gian ngắn sau đó? Chúng ta có thể không hề mảy may nghĩ đến người này hàng tháng trời hoặc hàng năm trời, nhưng dường như vẫn thấy hình bóng của họ ở đâu đó. Tôi biết có rất nhiều lời giải thích khác nhau cho những hiện tượng này, nhưng không có lời giải thích nào hoàn toàn thỏa đáng. Dù thế, thực tế là chúng ta vẫn đang gửi đi những thông điệp vào vũ trụ và sẽ nhận được sự phản hồi. Đó là quy luật tương tác. Phải chăng điều này có thể giải thích cho thực tế là những người hay than phiền thì luôn tìm ra nhiều chuyện mới để than phiền, những người ủ rũ thì lúc nào cũng có cả tá chuyện để u buồn, những người thích gây gổ và hung dữ thì thường muốn chọc tức những người vô can để họ cũng nổi giận bừng bừng? Gần đây, tôi đã nghe một người phụ nữ than phiền về sự bất công của số mệnh và so sánh cuộc đời cô với một người mà cô quen biết. - Hãy nhìn cô ấy mà xem, - người phụ nữ nói. - Tôi phải làm việc vất vả, xoay xở chật vật hàng mấy năm trời. Những gì tôi có được đều từ sự nỗ lực hết mình sau hàng ngàn lần thất vọng. Còn con nhỏ đó giỏi giang chẳng bằng một nửa tôi, lại không siêng năng, thế mà lại may mắn như thế. Thật chẳng công bằng gì cả. Nhưng sự thật là tất cả mọi chuyện đều công bằng. Tôi biết cả hai người phụ nữ này. Điều khác biệt giữa họ là trong khi người phụ nữ thứ nhất luôn chuẩn bị để đón nhận những điều tồi tệ nhất, thì người phụ nữ thứ hai lại chỉ mong muốn những điều tốt đẹp. Người phụ nữ thứ hai luôn đón nhận những điều tồi tệ như chuyện đương nhiên và tìm mọi cách để thích ứng với nó. Đây là phản ứng đầu tiên của cô, và cũng là cách cô chọn để ứng phó với cuộc đời. Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng trải qua những ngày mà tất cả mọi việc đều tồi tệ. Chắc chắn không có một thế lực xấu nào tìm cách làm cho chúng ta trở nên khốn đốn cả, mặc dù người ta thường có khuynh hướng tin vào thế lực xấu đó hơn là tìm hiểu tại sao lại có những chuyện xui xẻo cứ quanh quẩn đeo bám chúng ta từ sáng sớm đến tối mịt. Trên thực tế, mọi người đều trải qua những tình huống tương tự câu chuyện trên, nhưng hầu hết chúng ta chỉ nhận thức một cách mơ hồ hoặc chưa kịp nhận ra. Điều đầu tiên và quan trọng nhất để bạn có thể làm chủ được quy luật này đó là bạn phải luyện tập khả năng làm chủ bản thân. Bạn phải học cách vượt qua được tất cả sự đối xử bất công, ngược đãi mà không được trả đũa lại. Để vận dụng quy luật tương tác một cách hiệu quả, bạn phải có khả năng tự chủ cao độ. Nhờ vào nguyên tắc tương tác, chúng ta thực sự có thể biến kẻ thù thành bằng hữu. Nếu bạn có kẻ thù và mong muốn chuyển thành bằng hữu, bạn hoàn toàn có thể chứng minh sự đúng đắn của quy luật này một khi bạn có thể quên đi cái tôi của mình và bớt ngoan cố hơn. Hình thành thói quen nói với kẻ thù bằng những lời chân thành. Hãy cố gắng tử tế với anh ta. Ban đầu, anh ta sẽ không dễ gì thay đổi, nhưng dần dần sẽ chịu ảnh hưởng trước cách cư xử của bạn và đáp trả lại bạn điều tương tự. Đây gọi là việc “lấy ơn trả oán”. Bạn chính là người quyết định những điều mà bạn muốn đối phương hành động, và cũng chính bạn là người quyết định mình có đạt được điều này thông qua quy luật tương tác hay không. “Quy luật tự nhiên rất đơn giản: chúng ta chỉ nhận được khi chúng ta cho đi”. Đúng vậy,“Chúng ta chỉ nhận khi chúng ta cho đi”! Đó không phải là điều chúng ta mong muốn đến với chúng ta, mà là điều chúng ta cho đi. Tôi rất mong các bạn vận dụng quy luật này trong cuộc sống. Không chỉ có những ích lợi hữu hình, hơn thế nữa, nó còn đem đến hạnh phúc và những kết quả hơn cả mong đợi. Rốt cuộc thì chỉ có sự cố gắng phấn đấu mới cho ta những thành công thật sự. 5 SỨC MẠNH CỦA TÂM TRÍ T âm trí con người là tập hợp của nhiều phẩm chất và xu hướng. Nó gồm có: thích và ghét, lạc quan và bi quan, căm thù và yêu thương, tiêu cực và tích cực, lòng tốt và ác tâm. Tâm trí được hình thành từ tất cả những phẩm chất đó và nhiều phẩm chất khác nữa. Nó là sự pha trộn giữa các phẩm chất, và những tâm trí khác nhau sẽ có những phẩm chất không giống nhau. Học cách sử dụng tâm trí tuyệt vời của bạn Những phẩm chất nổi trội phần lớn được hình thành do ảnh hưởng của môi trường sống, thông qua tập luyện, mối quan hệ với người khác và đặc biệt là do chính suy nghĩ của mỗi người! Bất cứ suy nghĩ nào được duy trì liên tục trong tâm trí, hay suy nghĩ được định hình thông qua sự tập trung và chuyển đến tâm trí ý thức thì thường sẽ cuốn hút về phía nó những phẩm chất tương tự. Một suy nghĩ giống như là một hạt giống được gieo xuống mặt đất, nó sẽ phát triển, và nhân lên gấp nhiều lần; vì thế sẽ thật nguy hiểm khi cho phép tâm trí tồn tại bất kỳ suy nghĩ xấu nào. Những suy nghĩ này sớm muộn gì cũng tìm cách giải thoát thông qua các hoạt động thể chất. Nguyên tắc tự ám thị giúp cho những suy nghĩ được hình thành trong tâm trí và tập trung chuyển hóa thành hành động. Nếu nguyên tắc ám thị được hiểu rộng rãi và được dạy ở nhà trường, nó sẽ làm thay đổi các tiêu chuẩn đạo đức của thế giới trong vòng 20 năm. Qua nguyên tắc này, tâm trí con người có thể thoát khỏi những xu hướng tiêu cực bằng cách liên tục xây dựng các xu hướng tích cực. Những đặc tính của tâm trí con người cần được nuôi dưỡng và sử dụng để duy trì sự sống. Trong vũ trụ luôn có một quy luật nuôi dưỡng và sử dụng, quy luật này áp dụng cho mọi sự sống. Quy luật này cho biết rằng mọi sự sống nếu không được nuôi dưỡng hay sử dụng thì sẽ chết đi, và tâm trí chúng ta cũng vậy. Cách duy nhất để phát triển những đặc tính của tâm trí là phải tập trung vào nó, nghĩ về nó và sử dụng nó. Những xu hướng lệch lạc, xấu xa của tâm trí có thể bị xóa sạch nếu ta bỏ đói nó cho đến chết bằng cách không sử dụng nó! Hãy tưởng tượng xem nguyên tắc này sẽ có tác dụng như thế nào nếu được áp dụng ở những đứa trẻ mẫu giáo có tâm trí trong trẻo và nhạy cảm? Nguyên tắc tự ám thị là một trong những quy luật cơ bản của ứng dụng tâm lý. Am hiểu đúng đắn về quy tắc này cùng với sự hợp tác của các tác giả, triết gia, giáo viên, diễn giả sẽ có thể định hướng được toàn bộ khuynh hướng tâm lý của loài người trong vòng 20 hoặc chưa đến 20 năm. Bạn có thể chưa có cơ hội được học và tìm hiểu về nguyên tắc tự ám thị ở trường, nhưng không gì có thể cản trở bạn học tập, tìm hiểu, áp dụng nguyên tắc này bằng chính nỗ lực của cá nhân bạn ngay từ bây giờ. Hãy học một vài điều tuyệt vời về tâm trí con người. Đó chính là nguồn gốc sức mạnh. Nếu bạn từng giải thoát bản thân mình khỏi những lo lắng vụn vặt và những ham muốn tài chính, thì đó chính là nhờ những nỗ lực tuyệt vời của tâm trí bạn. Người biên tập cuốn sách này lúc đó tuy còn trẻ tuổi, nhưng ông đã có được bằng chứng xác thực về hàng ngàn trường hợp những người đã chuyển từ thất bại đến thành công với một tốc độ nhanh chóng đáng kinh ngạc, có thể chỉ trong một vài giờ hoặc một vài tháng. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay cũng là một minh chứng sống cho việc một người hoàn toàn có thể kiểm soát được khả năng tài chính của mình, bởi vì đây là đỉnh thành công được xây đắp từ kinh nghiệm của 15 năm thất bại! Bạn có thể đi từ thất bại đến thành công nếu bạn hiểu được và ứng dụng một cách thông minh những nguyên tắc tâm lý. Bạn có thể đạt được bất cứ điều gì bạn mong muốn. Bạn có thể trong phút chốc tìm thấy hạnh phúc một khi bạn làm chủ nguyên tắc này, và bạn có thể thành công về tài chính nếu bạn nhanh chóng tiếp thu những bài thực hành. Không có gì huyền bí trong tâm trí con người. Tâm trí hoạt động hòa hợp với những quy luật vật lý, kinh tế và các nguyên tắc. Bạn không cần sự giúp đỡ của bất kỳ ai trên trái đất này nhằm vận động tâm trí của chính mình hoạt động như bạn mong muốn. Bất kể bạn đang giữ địa vị nào trong cuộc sống, bạn vẫn hoàn toàn có thể kiểm soát và điều khiển tâm trí của mình, rèn luyện nó hướng đến những điều đúng đắn thay vì cho phép người khác áp đặt những suy nghĩ của họ lên bạn. Hãy học cách sử dụng sức mạnh của tâm trí, nó sẽ giúp bạn thoát khỏi sự sợ hãi, tiếp thêm cho bạn nghị lực và lòng can đảm. Cách thu hút người khác bằng quy luật tương tác Để đạt được tiếng tăm hay sự giàu có, đòi hỏi bạn phải có người giúp sức. Bất kể địa vị của bạn bây giờ là gì và những thành quả bạn đạt được to lớn như thế nào, nhưng nếu muốn tồn tại lâu dài thì nhất định bạn phải có được sự ủng hộ của người khác. Việc bạn có thể giữ mãi uy tín hay địa vị của mình mà không cần sự ủng hộ của mọi người xung quanh cũng khó như việc bạn có thể bay lên mặt trăng. Bạn sẽ không thể đạt thành tựu nếu không được sự ủng hộ của những người bên cạnh bạn, trừ trường hợp bạn được thừa kế. Sự dư dả về tiền bạc hoặc đạt được vị thế nhất định chắc chắn phụ thuộc vào việc bạn mở rộng các mối quan hệ và thu hút mọi người về phía mình như thế nào. Không cần phải là một triết gia nhìn xa trông rộng mới có thể phát hiện được rằng nếu một người giao thiệp tốt với mọi người, anh ta sẽ nhận được rất nhiều lợi ích từ mạng lưới các mối quan hệ của mình. Vậy thì, con đường để đạt được danh tiếng và tiền bạc, cũng như nhiều thành quả khác, sẽ thông qua trái tim của những người mà ta giao thiệp. Qua quy luật tương tác, bạn có thể thuyết phục mọi người đáp lại những gì bạn làm cho họ. Chúng ta hãy cùng xem xét về cách khai thác quy luật này để xem nó có thể phục vụ cho bạn hay không. Để bắt đầu, chắc bạn không cần phải được nhắc lại rằng con người có xu hướng đáp trả lại những gì họ nhận được, dù điều họ nhận được là sự hợp tác hay sự đối lập. Nếu bạn gây thù chuốc oán với một người, thì kết quả cũng rõ ràng như hai cộng hai bằng bốn, người đó sẽ trả đũa bạn theo cách tương tự. Ngược lại, nếu bạn trở thành một người bạn hay đối xử tử tế với anh ta, hẳn anh ta cũng sẽ tử tế với bạn. Đừng để ý đến trường hợp có người không phản ứng lại sự tương tác. Đó là ngoại lệ. Nếu tính trung bình thì phần lớn mọi người đều phản ứng một cách vô thức theo sự tương tác. Những người thích gây gổ sẽ gặp phải những kẻ ưa gây chuyện. Và chẳng có gì ngạc nhiên khi một người luôn thân thiện, cư xử tốt với mọi người sẽ được tất cả mọi người yêu mến, trong khi những kẻ cáu kỉnh và xấu tính thì bị xa lánh. Quy luật tương tác là nguồn năng lượng lớn lao, có ảnh hưởng lên toàn vũ trụ. Bạn sẽ nhận ra quy luật này khi bạn thấy quả sồi rơi xuống đất trong ánh mặt trời ấm áp, hay nhìn một chồi non vươn lên để hấp thụ dinh dưỡng và phát triển thành một cây sồi cứng cáp. Chắc ít ai chú ý đến việc một quả sồi cuốn về phía nó bất cứ thứ gì giúp nó đâm chồi nảy lộc và phát triển thành một cây sồi. Và có lẽ cũng chưa ai từng thấy loại cây nào nửa phần trên là sồi nửa phần dưới là dương. Trong quả sồi chỉ có thể là những thành phần tương thích để tạo nên một cây sồi. Mỗi suy nghĩ được lưu lại trong bộ não con người hấp thụ những yếu tố tương thích với nó, cho dù đó là suy nghĩ mang tính xây dựng hay phá hoại, tử tế hay xấu xa. Bạn nghĩ về sự căm thù và đố kỵ nhưng lại mong đợi bộ não tiếp nhận một kết quả trái ngược là điều không thể, chẳng khác gì việc bắt một quả sồi mọc ra cây dương. Đơn giản, vì nó trái ngược với quy luật tương tác. Khắp vũ trụ, mọi thứ đều hướng về trung tâm của lực hút. Những người có suy nghĩ và xu hướng tương tự nhau thì thu hút lẫn nhau, vì vậy bạn thu hút nhóm người nào về phía mình chính là do khuynh hướng của tâm trí bạn. Bạn có thể điều khiển xu hướng đó và định hướng chúng theo ý mình, và rồi thu hút về phía mình bất cứ mẫu người nào mà bạn mong muốn. Đây là một quy luật tự nhiên, bất di bất dịch, dù chúng ta có nhận thức để sử dụng nó hay không. Cách tạo nên số phận Ông Carnegie qua đời, để lại tài sản vài trăm triệu đô- la sau khi đã cho đi nhiều triệu đô. Có hàng ngàn người ước ao số tài sản đó của ông. Cũng như có hàng ngàn người nghĩ suy tìm cách để có thể kiếm được cho mình số tài sản như ông Carnegie. Hãy xem cách ông Carnegie kiếm tiền. Có thể nó sẽ giúp bạn nảy ra một vài ý tưởng để tạo dựng tài sản cho mình. Ông không phải thiên tài. Carnegie cũng giống như những người bình thường khác, không có gì đặc biệt. Nhưng Carnegie đã tích lũy được hàng triệu đô-la nhờ biết chọn lọc, kết hợp và quản lý chất xám của người khác! Ông sớm nhận ra rằng trong bất cứ công việc nào, ví dụ như kinh doanh thép, cho dù một người tài năng đến đâu nhưng chỉ có một mình thì cũng chẳng thể làm được gì. Ông ta cũng nhận ra rằng hầu hết các ngành công nghiệp và kinh doanh đều cần ít nhất 2 loại người - người thực hiện và người điều hành. Carnegie lựa chọn những người ưu tú, tổ chức, hướng dẫn và giữ lửa nhiệt tình trong họ để họ đem lại những giá trị công việc tốt nhất. Ông đã khiến mọi người cùng hợp tác với ông. Không một ai có thể làm giàu như Carnegie mà không sử dụng chất xám của người khác. Giá trị chất xám của một cá nhân hoạt động riêng lẻ đem lại giá trị không lớn, nhưng giá trị chất xám được tích lũy từ một tập thể sẽ tạo nên những giá trị không giới hạn. Nếu bạn muốn trở nên giàu có, bạn hãy học cách thu hút những người có các khả năng mà bạn không có. Nếu bạn thuộc nhóm người điều hành, hãy lựa chọn kết giao với những người có thể trở thành người thực hiện. Một tổ chức muốn thành công phải được tạo thành từ những người có kết hợp đầy đủ những khả năng cần thiết để thành công. Một số người kiếm ra tiền nhưng không có khả năng quản lý tài sản. Một số khác thì có khả năng giữ tiền và tài sản nhưng không có khả năng kiếm tiền. Nếu kết hợp hài hòa cả hai yếu tố trên thì ta sẽ có được một tập thể vừa biết kiếm tiền vừa biết giữ tiền. Nhiều doanh nghiệp tăng trưởng chậm và kém phát triển, cuối cùng dẫn đến phá sản, lý do là doanh nghiệp đó có quá nhiều người có cùng một khả năng này nhưng lại thiếu người có khả năng cần thiết khác. Việc kinh doanh muốn thành công thì ngoài thực lực, còn cần phải có những bộ óc khôn ngoan, tập hợp các phẩm chất của người thực hiện và người điều hành. Thời đại lý tưởng nhất trong lịch sử Bây giờ không còn là thời đại dành cho những ai chỉ biết tin vào những điều họ đã hiểu rõ. Và cũng không còn là thời đại dành cho những người luôn nghi ngờ về khả năng của tâm trí con người. Tự nhiên sẽ tiết lộ điều bí ẩn của mình cho những ai muốn tìm hiểu. Nếu hiện tượng sấm sét ngày xưa có thể đe dọa những người thiếu hiểu biết, mê tín dị đoan thì bây giờ khoa học đã lý giải được. Khoa học ngày càng hỗ trợ đắc lực cho cuộc sống con người. Khoa học không chỉ giúp gia tăng tốc độ của đoàn tàu, giúp việc nấu nướng trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn, khởi động các bánh xe công nghiệp mà còn có thể làm cho âm thanh truyền từ đầu này đến đầu kia quả đất chỉ trong vòng một giây. Điện là nguồn năng lượng đã có cách đây 300 năm, nhưng khi đó chúng ta chưa hiểu rõ về điện nên cho rằng nó có sức phá hoại. Chúng ta không biết rằng đến một ngày nào đó nó có thể phục vụ nhu cầu khổng lồ của đời sống con người nên chúng ta đã không nỗ lực để làm chủ nó cho tới tận những năm gần đây. Bây giờ dù cũng chẳng biết gì hơn về điện, nhưng chúng ta đã bắt đầu thử nghiệm nó, và đây chính là một bước tiến trong hành trình khám phá nguồn năng lượng này. Ngày nay, điện giúp truyền âm thanh của con người đi vòng quanh trái đất. Một ngày kia, điện sẽ mang con người đến bất cứ địa điểm nào với một tốc độ đáng kinh ngạc. Phương tiện khai thác điện của con người bây giờ còn nhiều hạn chế, nhưng chúng ta sẽ sớm học được cách để điều khiển và kiểm soát nguồn năng lượng của vũ trụ bằng một quy trình đơn giản cũng giống như cách chúng ta hút nước ra khỏi thùng bằng cách áp dụng quy luật trọng lực. Làm sao để chúng ta có thể khám phá hết tiềm năng của điện? Làm sao để chúng ta có thể làm chủ được nguồn năng lượng này và sử dụng nó theo ý muốn? Chúng ta chỉ có thể trả lời được những câu hỏi trên bằng cách thử nghiệm, bằng cách sử dụng trí tưởng tượng! Thời đại ta đang sống là thời đại của trí tưởng tượng, tìm hiểu và thử nghiệm. Loài người đang bắt đầu vượt qua mọi nỗi sợ hãi và nghi ngờ để nắm bắt những công cụ và phương tiện đang bày ra trước mắt mình. Thời đại bạn đang sống là thời đại lý tưởng nhất của lịch sử loài người, lý tưởng không chỉ trong sự phát triển của máy móc mà còn trong sự phát triển của tinh thần. Chúng ta không chỉ khám phá ra được cách để bay lên không trung, bơi dưới đáy đại dương, sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại nhanh chóng kết nối mọi người trên khắp mọi miền của thế giới, mà chúng ta còn lý giải được nguồn gốc của những thành tựu này - đó chính là nhờ trí tuệ của con người! Nếu năm mươi năm vừa qua là thời kỳ của những khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử loài người thì năm mươi năm tiếp theo có thể chúng ta sẽ đạt được những bước tiến vượt bậc trong việc phát triển tâm trí con người như là những gì ta đã làm được với máy móc trong năm mươi năm vừa qua. Hãy từ bỏ thù hằn Thời gian và công sức phải bỏ ra để trả đũa một người làm ta giận dữ có thể sẽ giúp chúng ta trở nên giàu có nếu thời gian và công sức này được định hướng bằng những nỗ lực mang tính xây dựng. Vì thế, hãy xây dựng thay vì đạp đổ. Bản thân tôi tin rằng một người bình thường đa phần đã bỏ phí ba phần tư cuộc đời mình cho những nỗ lực vô ích và không mang tính xây dựng. Có một cách để trừng phạt người cư xử tệ với bạn, đó là hãy cư xử tử tế với họ. “Lấy ơn trả oán” là hành động của người tử tế đáp lại những hành vi tội ác. Thời gian dành cho thù hận không chỉ gây lãng phí mà còn giết chết những cảm xúc tươi đẹp, khiến cho một người trở nên vô dụng trong những công việc cần tính xây dựng. Những suy nghĩ thù hận chẳng gây hại cho ai ngoại trừ đối với chính người nuôi suy nghĩ ấy. Rượu và thuốc lá gây tổn hại cho cơ thể con người không bằng những suy nghĩ thù hằn và giận dữ. Người may mắn là người đủ trưởng thành và sáng suốt để vượt lên sự ngoan cố, ích kỷ, tham lam, những đố kỵ vụn vặt. Đây là những thói xấu sẽ dẫn đến bạo lực. Chưa bao giờ có sự giận dữ nào có thể mang lại kết quả tích cực cho một người. Một tâm hồn vĩ đại chỉ có thể trú ngụ ở những người biết kiềm chế sự giận dữ, không bao giờ cố gắng hủy hoại kẻ thù của mình hay đánh bại đối thủ trong các nhiệm vụ được giao. Những ai có thể tha thứ và quên đi những tổn thương mà người khác gây ra cho mình thì đó quả là những người đáng cảm phục, vì tâm hồn họ thực sự cao đẹp. Tôi tự hỏi không biết đến bao lâu thì người với người mới có thể cùng nhau đi trên một con đường, tay trong tay, cùng giúp đỡ nhau bằng tình yêu thương và sự che chở, thay vì đố kỵ, tranh giành, thậm chí là tàn sát lẫn nhau? Đến khi nào chúng ta mới nhận thức được rằng mức độ thành công thực sự trong cuộc sống được đo bằng thái độ chúng ta cư xử với những người xung quanh mình? Đến khi nào thì chúng ta mới hiểu rằng niềm hạnh phúc lớn lao nhất chỉ dành cho những người biết khinh bỉ những hành vi hèn hạ, hãm hại người khác? 6 XÂY DỰNG LÒNG TỰ TIN N hững nguyên tắc khoa học được đề cập trong chương này đã từng mang đến thành công và hạnh phúc cho hàng triệu người. Ý tưởng viết nguyên tắc “Xây dựng lòng tự tin” đã được tác giả triển khai từ hơn bảy năm trước và được xem là một nhánh của tâm lý học ứng dụng. Sau đó, các luận điểm chính của nguyên tắc này đã được phát hành dưới dạng những quyển sổ tay nhỏ, và đã có hơn ba trăm nghìn bản đến tay người có nhu cầu. Thậm chí, một xí nghiệp đã cho in nội dung của luận thuyết “Xây dựng lòng tự tin” vào mặt sau bảng lương của tất cả các nhân viên đang làm việc trong xí nghiệp. Bài học mà bạn sẽ tiếp cận sau đây có nguồn gốc rất thú vị. Tôi có bằng chứng chứng tỏ rằng có nhiều người đã tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống nhờ vào những trải nghiệm từ bài học mà bạn sẽ được giới thiệu ngay sau đây. Một nhân cách đẹp luôn được nuôi dưỡng bằng một trái tim nhân ái và biết thổn thức với những đau khổ vì sự tranh giành lẫn nhau của loài người. Một ví dụ điển hình cho sự chuyển biến đầy ngoạn mục từ thất bại sang thành công đã xảy ra bốn năm trước khi tôi viết những dòng này, ngay trong thời loạn lạc. Ngày nọ, một người đàn ông lang thang đến gõ cửa văn phòng của tôi. Khi ngước nhìn lên, tôi trông thấy một người đàn ông đang đứng ngay cạnh cửa, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai - trông ông ta có vẻ rất buồn và tuyệt vọng. Tôi dự định sẽ dành cho người đàn ông này mười lăm phút, nhưng lập tức ông ta khiến tôi hết sức ngạc nhiên khi rút từ túi áo ra một quyển sổ tay nhỏ có lớp giấy màu nâu bọc bên ngoài. Đó chính là quyển sổ tay chép lại nội dung của bí quyết “Cách xây dựng lòng tự tin”. Ông nói: “Hẳn là số phận đã đưa đẩy nên tình cờ tôi mới có được quyển cẩm nang này. Chiều hôm qua, khi tôi đang trên đường đến Hồ Michigan để làm công việc thường ngày của mình là đóng cọc thì có người đã đưa nó cho tôi. Thế là tôi đọc. Nó khiến tôi phải lắng dịu lòng mình, gạt bỏ những lo toan thường ngày và suy ngẫm. Và giờ đây, tôi nhận ra anh chính là người có thể giúp tôi trở về con người thật của chính mình”. Tôi ngước nhìn người đàn ông một lượt. Trông ông ta khá lôi thôi trong bộ quần áo cáu bẩn và nhàu nát. Dáng vẻ bên ngoài cho thấy ông không mấy quan tâm đến bản thân mình: bộ râu dài che gần hết gương mặt, bên dưới là đôi dép cũ đã sờn rách. Tuy nhiên, ông đã đến tìm tôi nhờ giúp đỡ và tôi không thể nào từ chối được. Tôi mời ông vào văn phòng. Thực ra, tôi không nghĩ ra cách nào để giúp ông, nhưng làm sao tôi đủ nhẫn tâm để nói với ông điều đó. Tôi yêu cầu ông hãy kể chuyện của mình và chia sẻ với tôi điều đã khiến ông rơi vào trạng thái tuyệt vọng đến vậy. Rồi ông đã kể với tôi tất cả, một cách chân tình: trước chiến tranh, ông là một chủ xưởng giàu có bậc nhất ở bang Michigan. Chiến tranh nổ ra, toàn bộ nhà xưởng của ông đều bị phá hủy. Sự nghiệp sụp đổ, tất cả tiền dành dụm cũng không còn - ông trở nên trắng tay. Thất bại khiến ông mất hết niềm tin vào bản thân, ông đau buồn đến mức từ bỏ gia đình và đi lang thang khắp nơi như một kẻ hành khất. Nghe xong chuyện, tôi chợt nảy ra kế hoạch giúp đỡ người đàn ông tội nghiệp này. Tôi nói: “Câu chuyện của ông khiến tôi rất xúc động, tôi ước mình có thể làm gì đó cho ông, nhưng quả thật tôi không thể làm gì được”. Tôi lặng lẽ quan sát. Gương mặt ông đột nhiên chuyển sang tái nhợt. Tôi nói tiếp: - Tuy nhiên, tôi biết một người trong tòa nhà này có thể giúp ông, và tôi sẽ giới thiệu ông với ông ấy. Nếu đặt lòng tin ở ông ấy, ông sẽ có thể vượt qua cú sốc này và tìm lại chính mình trong vòng chưa đến sáu tháng. Người đàn ông vui mừng nói xen vào: - Vì Chúa, hãy đưa tôi đến gặp ông ấy. Tôi dẫn người đàn ông vào phòng thí nghiệm của mình và yêu cầu ông ngồi đối mặt với một bức màn lớn được giăng ngang cửa. Đoạn tôi giơ tay kéo bức màn sang một bên. Phía sau bức màn là một tấm gương lớn, và người mà tôi đã hứa sẽ giới thiệu cùng ông - không ai khác, chính là hình ảnh phản chiếu của ông trong gương. Tôi chỉ tay vào tấm gương rồi nói: - Chỉ duy nhất một người trong cuộc đời này có thể giúp ông. Nếu ông không ngồi đây và nhìn thẳng vào sự thật, không nhận ra sức mạnh tiềm ẩn của chính bản thân mình thì ông chỉ có mỗi việc là quay về và tiếp tục công việc đóng cọc ở Hồ Michigan. Bởi vì sao? Vì ông đã chứng tỏ mình là một kẻ vô dụng. Người đàn ông tiến đến gần tấm gương lớn, áp sát gương mặt của mình vào. Rồi ông lùi lại, hai hàng nước mắt bắt đầu trào ra. Tôi tiễn ông ta đến thang máy và nói lời chào tạm biệt. Tôi thầm nhủ mình sẽ không gặp lại người đàn ông đó một lần nữa. Nhưng khoảng bốn ngày sau, tôi tình cờ gặp lại ông trên đường phố Chicago. Và tôi không thể tin vào mắt mình: người đàn ông đó đang bước khoan thai đầy vẻ tự tin. Bộ quần áo nhàu nát ngày trước đã được thay bằng một bộ com-lê tươm tất. Đó chỉ có thể là dáng vẻ của một người thành công, và ông bước đi như thể ông cảm nhận được điều đó. Trông thấy tôi, ông tiến đến gần và bắt tay chào lịch sự. Ông nói: - Anh Hill này, anh đã làm thay đổi cả phần đời còn lại của tôi đấy. Anh đã cứu vớt đời tôi khi giúp tôi nhận ra đúng con người thật và giá trị thật của mình - những điều mà trước đây tôi chưa từng biết. Tôi đang dự định đến gặp anh đây. Và tôi tin lần tới chúng ta gặp nhau, anh sẽ nhận ra ở tôi một con người khác với con người trước đây anh từng biết. Tôi dự định gửi anh một tờ chi phiếu, tôi sẽ ghi tên anh ở đầu và ký tên tôi ở cuối tờ chi phiếu này. Phần số tiền tôi không điền, tôi muốn anh hãy tự điền vào - điều đó thể hiện tôi đã có thể làm chủ chính mình và rằng anh xứng đáng được như vậy. Nói xong, người đàn ông quay đi và hòa mình vào dòng người tấp nập trên đường phố Chicago. Tôi nhìn theo ông ấy, tự hỏi liệu mình còn có cơ hội gặp lại người đàn ông đó một lần nào nữa không, rằng ông có thật sự làm lại cuộc đời hay không. Tôi tự đặt ra cho mình thật nhiều câu hỏi. Mọi việc diễn ra giống như tôi vừa đọc một câu truyện cổ Ả Rập, và tâm trí bị bủa vây bởi sự tò mò và hiếu kỳ. Điều cuối cùng tôi muốn nói để làm lời kết cho câu chuyện này chính là việc người đàn ông đó đã tìm gặp tôi một lần nữa - như lời ông đã hứa. Ông đã gầy dựng lại sự nghiệp thành công. Nếu tôi đề cập danh xưng của ông tại đây, ắt hẳn bạn sẽ nhận ra ngay bởi vì người đàn ông mà tôi đang nói đến đã được công nhận là một trong những thương gia hàng đầu trên thế giới. Tôi cố gắng thuyết phục ông chia sẻ câu chuyện đời mình để mọi người có thể noi gương và học hỏi. Tôi hy vọng mình sẽ thành công bởi vì ngoài kia, hàng triệu người đang đánh mất niềm tin vào bản thân và không hề nhận ra chỉ có bản thân họ mới có thể giúp họ - cũng giống như trường hợp của ông. Tôi tin họ sẽ tìm thấy hình ảnh của chính mình trong câu chuyện người thật - việc thật này. Tiếp theo đây, tôi muốn giới thiệu với bạn một bài báo bàn về sự chuyển biến tâm trạng của một người vừa trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời. Bài báo sẽ giúp bạn nhận ra phương pháp ứng dụng nguyên tắc tự ám thị, tập trung phát triển những tố chất cần thiết để xây dựng lòng tự tin, hướng đến thành công. Có hai mục tiêu quan trọng mà con người luôn khát khao tìm kiếm. Một là được hạnh phúc, hai là có một cuộc sống sung túc - nói khác đi là có thật nhiều tiền! Để đạt được hai mục tiêu này, yếu tố cần và đủ chính là lòng tự tin, mà quan trọng hơn cả là phải tự tin vào chính bản thân mình; nếu không, bạn rất dễ mất đi điểm tựa và buông xuôi tất cả. Như vậy, dù cố gắng đến đâu, bạn vẫn không thể có cuộc sống hạnh phúc nếu không tin vào bản thân mình! Dù cố gắng làm việc trong lĩnh vực đúng khả năng và nguyện vọng của mình thì bạn vẫn không thể sung túc hơn, bạn chỉ có thể tạo ra một khoản vừa đủ để trang trải cho cuộc sống một khi bạn đã đánh mất lòng tin vào bản thân! Không ai khác, chính bạn mới có thể giúp bạn thành công. Nếu nỗ lực phấn đấu, bạn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc. Nếu nỗ lực làm việc, bạn sẽ vững vàng hơn với nghề nghiệp cũng như cuộc sống của mình. Ngay khi nhận ra và hiểu thấu sự thật này, bạn sẽ thấy có một nguồn sinh khí dồi dào đang lan truyền trong cơ thể, một nguồn sức mạnh mới mà bạn không thể ngờ rằng mình đã sở hữu nó từ rất lâu. Khi đó, bạn sẽ đạt được nhiều hơn bởi vì bạn dám thử sức và đảm nhận nhiều trọng trách! Và bạn sẽ nhận ra - có thể là lần đầu tiên trong đời - rằng bạn có khả năng đạt được bất kỳ mục tiêu nào mà bạn mong muốn! Bạn sẽ nhận ra những thành tựu mà bạn đạt được có thể không có ý nghĩa gì nhiều đối với những người xung quanh nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt đối với bạn bởi vì chúng thể hiện bạn là ai và bạn có giá trị như thế nào. Chúng tôi khuyến khích bạn hãy tìm mua quyển sách Những bài viết của Emerson(10) và đọc chương nói về lòng tự tin. Bạn sẽ cảm thấy mình đang được tiếp thêm nguồn cảm hứng, lòng nhiệt thành và sự quyết tâm. (10) Ralph Waldo Emerson (1803–1882) là nhà viết tiểu luận, nhà thơ, triết gia người Mỹ. Những bài viết của Emerson (Emerson’s Essays) ra đời năm 1841. Tuyển tập này có những bài tiểu luận được viết theo những chủ đề như lịch sử, tính tự lập, tình yêu, tình bạn, nghệ thuật... Sau khi đã đọc xong, bạn hãy tiếp tục đọc đến chương nói về quy luật của sự bù trừ. Trong hai phần này, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy nhiều chân lý thú vị. Trong quá trình xây dựng lòng tự tin, một trong những bước quan trọng đầu tiên là bạn phải loại bỏ hoàn toàn suy nghĩ rằng bạn không thể hoàn thành những việc mà mình đang đảm trách. Nỗi sợ chính là nhân tố cốt lõi khiến bạn đánh mất sự tự tin, và chúng tôi sẽ hướng dẫn bạn cách để vượt qua sự sợ hãi và rèn luyện lòng dũng cảm. Bên trong mỗi con người đều tiềm ẩn một trí tuệ phi thường, nhưng đó sẽ chỉ là một phần tiềm thức mãi mãi ngủ yên nếu không được đánh thức bằng trực giác và sự tự tin của chính bạn. Một khi nhận ra mình nắm giữ trong tay chìa khóa của sự tự tin, ộ ậ g g y ự ự bạn sẽ ngạc nhiên trước những thành quả mà mình đạt được. Mọi người cũng sẽ thán phục và ngưỡng mộ sự biến chuyển đầy thú vị đang diễn ra trong chính con người bạn. Khi đó, sự tự nhận thức về bản thân và lòng tự tin sẽ tạo thành sức mạnh khổng lồ giúp bạn vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể và tiến đến thành công. Một cuộc phân tích về những người thành công trên thế giới đã chỉ ra rằng tố chất thành công của họ chính là sự tự tin. Chúng tôi giới thiệu ngay sau đây “7 suy nghĩ rèn luyện lòng tự tin” nhằm giúp bạn xây dựng ý tưởng và đạt được mục tiêu nhờ nguyên tắc tự ám thị và tập trung. Bạn cần liên tục truyền lửa cho những ý tưởng đó cho đến khi chúng được hiện thực hóa bằng hành động. Những nguyên tắc này đều mang tính khoa học. Các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới đã nghiên cứu và xác minh những nguyên tắc này hàng nghìn lần để cho ra kết quả chuẩn xác nhất. Để thấy được giá trị của chúng, bạn chỉ cần ứng dụng ngay với chính bản thân mình, giống như hàng trăm người khác vẫn đang làm, bằng cách ghi nhớ những điều dưới đây: 1. Tôi biết tôi có khả năng hoàn thành mọi trọng trách được giao. Tôi cũng biết rằng để thành công, tôi chỉ cần luôn ghi nhớ nguyên tắc này và cương quyết thực hiện bằng những hành động cụ thể. Tôi sẽ tập cho mình quen với ý nghĩ đó. 2. Tôi biết rằng các suy nghĩ của mình cuối cùng cũng sẽ hợp thành một dạng vật chất và trở thành những hành động cụ thể trong thế giới thực. Chính vì vậy, tôi sẽ tập trung duy trì thói quen nghĩ về mẫu người mà tôi mong muốn trở thành, tôi sẽ phác hoạ chân dung con người đó vào tiềm thức, và dần chuyển hóa tư duy thành hiện thực. (Hãy miêu tả cụ thể mong muốn hoặc mục tiêu mà bạn đã xác định). 3. Tôi đang chú tâm rèn luyện những nguyên tắc cốt lõi mà thông qua đó, tôi có thể đạt được thành công trong cuộc sống. Suốt quá trình rèn luyện, tôi đang dần trở nên tự tin và phấn khởi hơn. Tôi học được cách biết thông cảm cho những người xung quanh, tôi đang dần trở nên mạnh mẽ hơn cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Tôi đang học cách mỉm cười bằng trái tim và thể hiện nụ cười đó trên gương mặt của mình. 4. Tôi bắt đầu kiểm soát và chế ngự thói quen bỏ dở công việc. Kể từ đây, tôi sẽ lên kế hoạch thực hiện tất cả những điều tôi mong muốn, hình dung cụ thể những việc mình sẽ làm và sẽ không để bất kỳ điều gì ngăn cản tôi hiện thực hóa những mục tiêu của mình. 5. Tôi vạch ra kế hoạch những việc mình sẽ làm tiếp theo trong vòng năm năm. Cứ mỗi năm năm như thế, tôi dự tính những cái được và mất trong quá trình thực hiện những mục tiêu của mình dựa trên việc tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc phải đạt được kết quả tốt nhất! 6. Tôi nhận ra thành công chỉ thật sự đến nếu tôi biết ứng dụng những Nguyên tắc vàng. Chính vì vậy, tôi sẽ không đặt nặng vấn đề lợi ích như tất cả mọi người vẫn thường xem trọng. Tôi sẽ thành công chỉ bằng cách tập hợp và tận dụng những nguồn lực có sẵn. Tôi sẵn lòng giúp đỡ mọi người, và tôi tin mọi người cũng sẽ sẵn lòng giúp tôi. Tôi sẽ cho mọi người thấy tôi thân thiện và sẵn sàng làm bạn với họ, và tôi tin họ cũng sẽ kết bạn với tôi. Tôi sẽ loại bỏ mọi sự sợ hãi trong tôi và thay vào đó là sự quyết đoán và lòng quả cảm. Tôi sẽ củng cố niềm tin và loại bỏ sự hoài nghi. Tôi sẽ thay thế lòng thù hận bằng sự cảm thông và yêu thương con người. 7. Tôi sẽ học cách đứng vững trên đôi chân của mình và thể hiện suy nghĩ của mình thật rõ ràng, sử dụng ngôn từ sao cho thật chuẩn xác và khéo léo cùng với sự tự tin trong những trường hợp cần bảo vệ lý lẽ. Tôi đối xử tử tế với mọi người, và tôi hy vọng họ cũng sẽ cảm thấy tin cậy, gần gũi với tôi. Tôi sẽ loại bỏ lòng đố kỵ và thay vào đó bằng sự sẵn lòng giúp đỡ người khác khi cần. Chúng tôi đặc biệt muốn hướng sự chú ý của bạn đến phần thứ hai của luận thuyết xây dựng lòng tự tin. Sau lời trích dẫn bên dưới, bạn cần thiết phải xác định “mục tiêu cốt lõi” của mình một cách cụ thể và rõ ràng. Bằng cách hình dung và quy nạp mục tiêu đó vào tiềm thức, bạn đang áp dụng nguyên tắc tự ám thị; bằng cách ghi nhớ nội dung của “7 suy nghĩ rèn luyện lòng tự tin” và liên tục tự nhắc nhở mình nhiều lần trong ngày, bạn đang rèn luyện nguyên tắc tập trung. Cách phản ứng tốt nhất trước những lời bình phẩm là vững tin vào bản thân, không phản bác cũng không tranh cãi. Hãy làm việc và cống hiến như một người quét đường tận tuỵ, rũ bỏ mọi tham vọng; cuộc sống sẽ trở nên nhẹ nhàng và bạn sẽ nhanh chóng tìm lại niềm tin của mình. Phương pháp ấy chưa bao giờ thất bại. Tâm trí của bạn được ví như tấm kính của máy chụp ảnh. Sau khi vận dụng “7 suy nghĩ rèn luyện lòng tự tin”, bạn chủ động phác họa “mục tiêu cốt lõi” trong tâm trí - hình ảnh đó được ví như khi bạn nheo mắt trước ống kính của máy ảnh và nhắm vào một tiêu điểm nào đó. Khi các chi tiết của “mục tiêu cốt lõi” được xâu chuỗi và lưu lại, bạn sẽ nhận ra mỗi cử chỉ và hành động của bạn đều có xu hướng chuyển hóa những hình họa mô phỏng đó thành sự thật. Mọi việc diễn ra như sau: đầu tiên, tâm trí phác họa hình ảnh mà bạn đang mong muốn, sau đó nó tạo ra động lực thúc đẩy bạn phải hành động để biến suy nghĩ thành hiện thực. Đừng để sự sợ hãi chi phối bạn bởi vì đó chính là rào cản lớn nhất khiến bạn đánh mất lòng tin vào chính mình. Sau khi bạn đã thật sự ghi nhớ “7 suy nghĩ rèn luyện lòng tự tin”, hãy tạo thói quen thực hành nói to chúng ít nhất hai lần một ngày. Bản thân những suy nghĩ của bạn đều có xu hướng thúc đẩy cơ thể phải hành động, nhưng chỉ những suy nghĩ được xác nhận bằng lời nói mới tạo động lực khiến bạn thực hiện hơn là những suy nghĩ chợt thoáng qua. Nói rộng hơn, những suy nghĩ được ghi chép lại và được xác nhận bằng lời nói sẽ có tác dụng tạo động lực hơn những suy nghĩ chỉ được giữ kín trong lòng. Chính vì vậy, chúng tôi không những khuyến khích bạn ghi nhớ mà còn khuyên bạn hãy rèn luyện ít nhất hai lần một ngày trong ít nhất hai tuần. Bằng cách đó, bạn sẽ nắm vững ba bước quyết định giúp bạn đạt được mục tiêu: Bước 1: Bạn thử phác họa và hình dung mục tiêu của mình. Bước 2: Bạn đưa suy nghĩ đó vào hiện thực thông qua việc xác nhận mục tiêu bằng lời nói. Bước 3: Bạn bắt đầu quá trình chuyển hóa suy nghĩ thành hành động cụ thể bằng cách ghi lại những mục tiêu ấy lên giấy. Ba bước trên đây có thể giúp bạn hoàn thành mục tiêu theo nhiều cách, mà trước hết là bạn đã có trong tay một sơ đồ cụ thể về mục tiêu của mình. Như một kiến trúc sư thực thụ, bạn tạo ý tưởng, phác họa những đường nét đầu tiên trong tâm trí và rồi hiện thực hóa suy nghĩ của mình bằng hình vẽ trên giấy. Công việc của một kiến trúc sư đến đây là kết thúc! Chúng tôi khuyến khích bạn đứng trước một tấm gương để nhìn rõ từng cử chỉ của môi khi bạn lặp lại những từ ngữ trong quá trình rèn luyện lòng tự tin. Hãy nhìn thẳng vào hình ảnh phản chiếu của mình trong gương như thể bạn đang đối mặt với một người hoàn toàn khác, và đừng ngần ngại trò chuyện với chính mình trước gương. Điều quan trọng là bạn hãy thôi thúc họ - hay chính bạn phải nói và làm một điều nào đó. Dần dần, bạn sẽ thấy cơ mặt của mình được giãn ra và thoải mái hơn. Bạn sẽ cảm nhận một nguồn động lực và cảm hứng sục sôi được thể hiện ngay trên gương mặt mà trước đây bạn chưa từng được thấy. Lẽ dĩ nhiên, sự thay đổi này sẽ được chính những người xung quanh xác nhận. Bạn không cần đóng khung hành động của mình chính xác theo từng lời nói ở trên mà hãy chọn lựa những điểm phù hợp với mình nhất. Trên thực tế, bạn hoàn toàn có thể tự sáng tạo theo ý mình. Bạn hãy tự do phóng bút, miễn là câu chữ thể hiện rõ ràng những ý nghĩ mà bạn dự định thực hiện. Hãy quan sát thật kỹ cẩm nang này và xem đó như một bản thảo mô tả cụ thể hình mẫu của người mà bạn muốn trở thành. Đừng quên ghi chú lại những cảm xúc bạn muốn mình cảm nhận được cũng như những hành động bạn muốn thực hiện, và điều quan trọng là hãy có vài dòng mô tả về hình ảnh của chính mình - hình ảnh mà bạn mong đợi người khác thấy ở bạn. Bạn đừng quên đây cũng chính là một kế hoạch làm việc cụ thể của bạn, và sẽ đến một lúc nào đó - dù chỉ là một khoảnh khắc thoáng qua - bạn cũng sẽ có xu hướng làm theo những điều mình đã từng viết ra ngày hôm nay. Hãy tập thói quen rèn luyện để những suy nghĩ trên ăn sâu vào tâm trí và coi đó như là một phương pháp cầu nguyện trong trường hợp bạn là một tín đồ mộ đạo. Nếu bạn tin vào những lời cầu nguyện - tin một cách tuyệt đối - thì sẽ không một phút giây nào bạn có thể nghi ngờ tính thực tiễn của những điều bạn ghi chép lại. Chẳng lẽ bạn không nhận ra nguồn cảm hứng và sức mạnh bạn có được từ bảy suy nghĩ trên là vô cùng đặc biệt? Chẳng lẽ bạn không cảm nhận được rằng niềm tin của bạn một khi được củng cố sẽ tác động tức thì đến việc bạn hiện thực hóa những mong muốn và khát khao của mình? Chẳng lẽ bạn không nhận ra tính thực tiễn của phương pháp này đối với những thành tựu mà bạn đạt được nhờ vào việc sử dụng một nguồn sức mạnh phi thường - lòng tự tin? Phương pháp này không mâu thuẫn với bất kỳ tín ngưỡng nào. Những cá nhân thuộc các tôn giáo khác nhau đều nhận ra cầu nguyện chính là hạt giống ươm mầm cho quyết tâm và hành động. Nếu phương pháp cầu nguyện đã được tất cả tôn giáo tôn sùng, nó xứng đáng được vận dụng để hỗ trợ cho việc đạt đến mục tiêu của con người. Việc xây dựng và củng cố lòng tự tin chính là một mục tiêu lớn mà chúng ta phải theo đuổi. Chúng tôi không thể giải thích hết sự kỳ bí trong những lời cầu nguyện, nhưng điều đó không ngăn chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và vận dụng nó vào cuộc sống con người - đặc biệt trong việc tạo động lực giúp con người chuyển hóa những suy nghĩ thành ngôn từ - từ ngôn từ thành hành động cụ thể thông qua “7 suy nghĩ rèn luyện lòng tự tin”. Mục tiêu xây dựng và củng cố lòng tự tin trong mỗi người hoàn toàn không đi ngược với mục tiêu phát triển nhân loại của mọi tôn giáo. Có mục tiêu nào xứng đáng hơn mục tiêu giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ và những lời nguyền rủa? Và bảy suy nghĩ cốt lõi giúp bạn xây dựng lòng tự tin sẽ giúp bạn xóa bỏ sự sợ hãi, để thay vào đó bằng sự tự tin và quyết đoán. Bằng cách rèn luyện như đã được hướng dẫn, người thực hiện sẽ được đặt vào tình thế phải phát triển sự tự tin, và họ sẽ được thử thách niềm tin bởi chính những lời cầu nguyện do mình tạo nên. Bạn có cảm nhận được những lời cầu nguyện mang lại cho bạn một đức tin tuyệt đối - giúp bạn có cảm hứng và động lực để hoàn thành tất cả công việc dù khó khăn của mình? Bảy suy nghĩ được đề xuất ở trên không nhất thiết chỉ dùng cho việc khơi dậy và phát triển lòng tự tin. Bạn hoàn toàn có thể thay đổi và dùng nó để củng cố những tố chất khác, chẳng hạn như để theo đuổi xúc cảm hạnh phúc- bạn hãy yên tâm, nó sẽ giúp mang lại những điều bạn mong muốn. Phủ nhận tác động từ những suy nghĩ này tức là bạn phủ nhận niềm tin vào những lời cầu nguyện. Bạn đã nắm trong tay chìa khóa mở ra cánh cửa để đạt được những điều bạn mong muốn. Hãy gọi tên chiếc chìa khóa kỳ diệu này bằng bất bất cứ tên gì mà bạn thích. Bạn có thể lý giải bằng các luận cứ khoa học, hoặc có thể xem đây như một sức mạnh siêu nhiên liên quan đến một hiện tượng thần bí mà con người vẫn chưa tìm ra lời đáp. Tuy nhiên, dù hiểu theo cách nào, cả hai trường phái này đều cho cùng một kết quả - đó là chúng sẽ mang đến sự thành công. Nếu cầu nguyện mang lại những tác động tích cực trong mọi trường hợp, chắc rằng phương pháp này sẽ được dùng làm bước đệm để phát triển một điều mà con người luôn khát khao tìm kiếm - chính là xúc cảm hạnh phúc. Hạnh phúc dựa trên nền tảng của sự tự tin là hạnh phúc bền vững nhất. Cầu nguyện sẽ giúp bạn cảm nhận rằng bạn không cô độc, rằng bạn luôn được chở che và bảo bọc bởi một đấng quyền năng. Chẳng lẽ bạn không thấy rằng phương pháp này đã mang lại cho bạn cơ hội rèn luyện sự tự tin? Chẳng lẽ bạn không nhận ra chỉ cần có niềm tin, bạn sẽ không bao giờ thất bại? Chẳng lẽ bạn không nhận ra hơn cả một thói quen, cầu nguyện đã trở thành một đức tin mà bạn luôn trân trọng giữ gìn? Niềm tin chính là nền tảng của văn minh. Mọi thứ đều có thể khi bạn đặt niềm tin làm viên gạch đầu tiên để xây dựng và phát triển lòng tự tin cho mình. Không gì có thể phá vỡ thế gọng kìm vững chắc đó, và bạn sẽ vượt qua được mọi trở ngại cũng như loại bỏ được mọi rào cản trên con đường tiến đến mục tiêu đã định. Một khi đã xác định vận dụng phương pháp này, bạn hãy vững lòng tin và đừng để mình lay chuyển. Nếu nghi ngờ thì chính bạn đang phủ nhận những tác động tích cực từ phương pháp nguyện cầu. Sự sợ hãi và thiếu niềm tin luôn là rào cản lớn nhất ngăn con người đến với những điều mình mong muốn. Một khi giải quyết được hai rào cản trên, bạn sẽ thấy sự chuyển hoá tức thì ngay chính trong con người mình để trở thành một người hoàn toàn khác - mạnh mẽ và chủ động. Bạn sẽ thấy mình có khả năng bỏ xa những kẻ yếu thế và ung dung sánh vai trong hàng ngũ những người dẫn đầu. Khả năng lãnh đạo chỉ xuất hiện khi bạn vững vàng một lòng tin dành cho chính mình, và bạn biết cách làm sao để nuôi dưỡng và duy trì niềm tin đó. Hãy luôn ghi nhớ rằng bạn có thể trở thành bất kỳ ai mà bạn mong muốn. Hãy xác định rõ mục tiêu và điều gì khiến bạn khao khát nhất, sau đó, hãy đặt ra một nền tảng vững chắc giúp bạn đạt được mục tiêu. Một mục tiêu được khẳng định chính là viên gạch đầu tiên xây đắp thành công - đó cũng chính là hạt giống, là cội rễ của mọi thành tựu mà con người đạt được. Hãy thổi bùng sức sống trong bạn bằng những mục tiêu, những khát vọng chính đáng. Ngay lập tức bạn sẽ cảm nhận được những chuyển biến trong chính cơ thể mình, giúp bạn ngày càng tiến gần hơn đến thành công. B 7 MÔI TRƯỜNG VÀ THÓI QUEN ài học sau đây sẽ giới thiệu về một nguyên tắc phổ biến khác trong lĩnh vực tâm lý học. Môi trường: Trí não con người được mặc định xu hướng phản ứng trước thay đổi của môi trường sống và tạo ra những hành động cụ thể nhằm thích nghi với môi trường đó. Trí não sẽ dần chuyển biến theo hướng gần sát với những tác động của môi trường. Theo cách này, hoạt động bộ não con người được ví như sự thay đổi màu da của loài tắc kè hoa khi môi trường xung quanh thay đổi. Chỉ có những người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết mới có khả năng miễn nhiễm trước những tác động của môi trường bên ngoài. Thói quen: Thói quen được tạo nên từ môi trường. Thói quen được định nghĩa là một hành động, một suy nghĩ được lặp đi lặp lại trong thời gian dài. Một khi thói quen được định hình thì rất khó để phá vỡ hay thay đổi bởi nó đã tạo thành một phản xạ không điều kiện trong tiềm thức. Sức mạnh của giáo dục nằm ở chỗ chúng ta có thể tạo nên những khuôn mẫu nhân cách phù hợp cho thế hệ trẻ và gây dựng những thói quen tốt có sức ảnh hưởng lâu dài. - Giám mục Francis Atterbury (1663-1732) Bộ não con người tạo nên những phản ứng dựa trên các tác động từ môi trường bên ngoài. Thói quen chính là hệ quả của những phản ứng đó và nó được lưu vào tiềm thức. Thói quen được ví như đường rãnh trên chiếc đĩa hát, bộ não con người lại được ví như đầu kim chạy trên rãnh đĩa. Khi một thói quen được tạo lập (dựa trên sự lặp đi lặp lại của một hành động hay suy nghĩ), bộ não có xu hướng gắn chặt vào thói quen đó và làm theo nó giống như việc đầu kim của chiếc máy hát sẽ chạy vòng quanh các rãnh của đĩa từ ngoài vào trong. Như vậy, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc chọn lựa môi trường sống phù hợp, bởi vì đó chính là nền tảng hình thành và phát triển nhân sinh quan của mỗi người. Môi trường tạo ra những nhân tố tác động đến tư duy, và thói quen chính là hệ quả của những tác động này và biến chúng thành những hành động được lặp đi lặp lại. Cũng vì lý do này mà hệ thống quản lý phạm nhân của chúng ta đang diễn ra theo chiều hướng ngày một tiêu cực: trái với mục tiêu cải tạo và giáo huấn phạm nhân trở thành những con người lương thiện, chúng ta đang góp phần tạo nên nhiều tội phạm hơn cho xã hội. Một khi vấn đề về môi trường và thói quen được mọi người hiểu cặn kẽ thì cách quản lý cũng như khung hình phạt của chúng ta sẽ được xem xét và điều chỉnh lại. Chúng ta sẽ chấm dứt việc nhốt nhiều phạm nhân trong cùng một nơi - trông không khác nào bạn đang giam giữ một bầy gia súc. Bên cạnh đó, việc bắt ép phạm nhân phải mặc những bộ quần áo tù nên được bãi bỏ - bởi chúng chỉ khiến họ nhớ đến việc họ là tội phạm! Thay cho cách quản lý cũ, chúng ta sẽ bố trí các phạm nhân sinh hoạt trong một môi trường mới tốt đẹp hơn, và mọi thứ ở đây sẽ luôn khiến họ cảm nhận được rằng họ đang từng bước được chuyển hóa để trở lại là những công dân bình thường. Trong thời đại phát triển với nhiều thành tựu vượt bậc của con người, nhà tù nên được xem như một loại hình bệnh viện đặc biệt mà ở đó, những con người trót lầm lạc sẽ được cải huấn và quay trở lại cuộc sống bình thường. Quan niệm trừng phạt kẻ phạm tội trước đây cần được thay thế bằng một quan niệm mới đó là quan niệm tìm cách cải biến họ trở thành những con người lương thiện. Bằng cách vận dụng quy luật tương tác tâm lý, sự ám thị và tự ám thị, chúng ta sẽ dần xóa bỏ những khung hình phạt cứng nhắc và tiếp cận với nhiều phương pháp cải tạo phù hợp nhằm giúp phục hồi nhân phẩm cho các phạm nhân và sớm đưa họ trở về xã hội. Việc giao phó cho các phạm nhân thực hiện một số công việc nhất định trong một chừng mực nào đó được xem là hướng đi đúng. Ngoài ra, những đợt ân xá phạm nhân cũng là một bước tiến bộ khác. Sẽ đến lúc những kẻ chống lại pháp luật không còn bị giam giữ trong những nhà tù tối tăm, bẩn thỉu mà sẽ được trị liệu tâm lý tại các bệnh viện kết hợp với các phương pháp rèn luyện thể chất và tư duy. Những cải cách như thế trong hệ thống quản lý phạm nhân là một trong những tiến bộ vĩ đại của thời đại ngày nay! Có được sự thay đổi này phần nhiều dựa vào những mặt khác nhau của lĩnh vực tâm lý học. Trên thực tế, sau khi tâm lý học trở thành một môn học chính thức được giảng dạy tại trường học, tỷ lệ tội phạm vị thành niên đã được giảm thiểu. Tuy nhiên, chúng ta không nên bàn quá xa vượt khỏi chủ đề môi trường và thói quen trong bài học này. Một vài nhận định của nhà tâm lý vĩ đại Edward E. Beals sau đây về bản chất và những đặc điểm của thói quen sẽ cho chúng ta một cái nhìn cận cảnh về vấn đề khá thú vị này. Thói quen Thói quen là một phản xạ thường thấy ở con người, tuy nhiên, nó thường được nhìn nhận dưới một góc độ trái ngược sau khi đã loại bỏ các yếu tố tích cực. Nhiều quá trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người là loài sinh vật chỉ “sống theo thói quen”, và “ngày qua ngày, chúng ta càng củng cố, vun đắp cho các thói quen khiến chúng trở thành những phản xạ không điều kiện rất khó thay đổi”. Tuy nhiên, lời nhận định trên chỉ đúng khi chúng ta nhìn nhận ở góc độ con người là những nô lệ của thói quen và luôn bị thói quen chi phối. Ở một góc độ khác, vẫn còn khá nhiều vấn đề cần xem xét xoay quanh khái niệm thói quen, và chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trong chương này. Nếu như thói quen có khả năng ức chế và chi phối hoạt động tư duy của con người trong nhiều trường hợp thì một câu hỏi được đặt ra là: liệu phản ứng này có thể được kiểm soát và điều chỉnh để phục vụ con người giống như những hiện tượng tự nhiên hay không? Nếu việc này là khả thi, con người có thể làm chủ thói quen cũng như ứng dụng những tác động tích cực của thói quen để làm lợi cho mình, thay vì phải bị động lệ thuộc vào thói quen và học cách chấp nhận. Những nhà tâm lý học hiện đại đã khẳng định với chúng tôi rằng thói quen hoàn toàn có thể được kiểm soát và điều chỉnh theo ý muốn của con người. Như vậy, con người có quyền phủ nhận sự thống trị tuyệt đối của thói quen lên hành động cũng như tính cách. Hàng nghìn người đã ứng dụng quan niệm mới này vào cuộc sống, để cảm nhận được ràng có nhiều trải nghiệm mới mẻ giúp khôi phục những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã gầy dựng nên. Thói quen là một dải đất tinh thần mà trên đó, mỗi hành động của chúng ta sẽ góp phần tạo nên một lối đi ngày càng trở nên rộng rãi và thân quen như con đường mình đi qua mỗi ngày. Nếu bạn phải làm việc trên một thửa ruộng hay trong một khu rừng, tôi chắc rằng bạn sẽ chọn lựa con đường mòn thông thoáng và dễ đi nhất, hơn là chấp nhận băng ngang thửa ruộng hoặc khu rừng và tự mình tạo ra một lối đi mới. Phản ứng của bộ não con người cũng diễn ra như vậy - nó có xu hướng nghiêng về những phản ứng không đòi hỏi sự kháng cự cao và tuân theo những hoạt động đã sớm được định hình. Thói quen được tạo nên từ những hành động lặp đi lặp lại, hình thành theo một quy luật tự nhiên, thể hiện ở tất cả các sinh vật sống và cả những vật vô tri vô giác. Xin lấy ví dụ về điều thứ hai như sau, tờ giấy một khi đã có nếp gấp thì khi mở nó ra, những lần gấp sau thường vẫn theo nếp gấp cũ ấy. Những người sử dụng máy may cũng như các máy móc, thiết bị khác đều biết ràng một khi máy móc, thiết bị được lập trình và khởi động, chúng sẽ tự động thực hiện lại quy trình như cũ vào những lần tiếp theo. Quy luật này cũng diễn ra tương tự đối với các loại nhạc khí. Quần áo hoặc găng tay sau khi sử dụng một thời gian sẽ hiện lên những nếp gấp trùng khớp với hình dạng cơ thể của người dùng, và những nếp gấp này sẽ càng lúc càng hiện rõ hơn nếu được sử dụng nhiều. Tuy phải băng qua núi đồi, các vùng miền khác nhau nhưng bao giờ sông, suối cũng sẽ tuôn chảy theo một lộ trình nhất định. Chỉ cần để ý một chút, chúng ta có thể nhận thấy quy luật này đang diễn ra khắp nơi, ở tất cả các sự vật và hiện tượng xung quanh mình. Những mô tả trên giúp chúng ta hiểu thêm về bản chất của thói quen, để định hình những dải đất tinh thần mới, những “nếp gấp” mới. Và hãy luôn nhớ rằng: cách tốt nhất (một số người cho là cách duy nhất) để loại bỏ thói quen cũ là hãy tạo ra một thói quen mới để chế ngự và thay thế cho những thói quen không mong muốn. Tạo ra dải đất tinh thẩn mới sẽ khiến dải đất cũ không còn ở thế độc tôn nữa, và đến một lúc nào đó nó sẽ tự động biến mất. Những thói quen mới được hình thành, qua ngày ngày được rèn luyện sẽ trở thành một phản xạ tự nhiên. Việc tạo lập và định hình những thói quen tốt rất quan trọng, nên tôi không có ý định hối thúc bạn phải bắt đẩu ngay. Hãy đều đặn rèn luyện và rèn luyện - như thể một người làm đường kiên nhẫn và tận tụy. Các nguyên tắc sau đây sẽ giúp bạn định hình cho mình những thói quen mới tốt hơn: 1. Bước đầu tiên của quá trình hình thành một thói quen mới là bạn hãy xác định thật rõ tính cách, từng suy nghĩ và hành động của mình. Hãy nhớ rằng bạn đang thực hiện những bước đẩu tiên để tạo nên một dải đất tinh thần mới, vạn sự khởi đầu nan, những bước đi đầu tiên bao giờ cũng khó khăn. Chính vì vậy,