🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Người Thắng Cuộc
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
NHỮNG NGƯỜI THẮNG CUỘC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I
ÂM MƯU SÁT HẠI HITLER
CHƯƠNG II
“ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN"
CHƯƠNG III
“NĂM MƯƠI NGÀN NGƯỜI ĐỨC PHẢI BỊ BẮN" CHƯƠNG IV
"ĐẰNG SAU CÁI BÌ THƯ"
CHƯƠNG V
SỰ IM LẶNG KHỦNG KHIẾP
CHƯƠNG VI
"NGƯỜI MỸ TRĂM PHẦN TRĂM”
CHƯƠNG VII
ĐÀN ÁP NGƯỜI DO THÁI
CHƯƠNG VIII
“CHÚNG TA SẼ HẾT SỨC BẬN RỘN"
CHƯƠNG IX
“VIỆC ĐƯA HỌ VÀO CÁC PHÒNG HƠI NGẠT KHÔNG HẲN ĐÃ XẤU"
CHƯƠNG X
“AI ĐÓ ĐÃ PHẢI NẮM VAI TRÒ LÃNH ĐẠO"
CHƯƠNG XI
“KITÔ GIÁO VÀ LÒNG TỐT"
CHƯƠNG XII
"QUÁ KHẨN THIẾT"
CHƯƠNG XIII
https://thuviensach.vn
“ANH CÓ MUỐN TÔI VAN XIN NHƯ FALA"
CHƯƠNG XIV
“ỒN ÀO KHÔNG CHỊU ĐƯỢC"
CHƯƠNG XV
"HỮU DỤNG NHƯ MƯỜI SƯ ĐOÀN MỚI CỦA ĐỨC" CHƯƠNG XVI
"XIN CHÚA BAN SỨC MẠNH CHO TỔNG THỐNG” CHƯƠNG XVII
"MỐI RÀNG BUỘC DUY NHẤT LÀ LÒNG CĂM THÙ CHUNG CỦA HỌ"
CHƯƠNG XVIII
"TRANH LUẬN VỀ TƯƠNG LAI THẾ GIỚI”
CHƯƠNG XIX
"CHẲNG CÓ QUYỀN LỰC TRẦN THẾ NÀO CÓ THỂ GIỮ ÔNG TA Ở LẠI ĐÂY”
CHƯƠNG XX
“CHÚNG TA PHẢI HÀNH XỬ CHUYỆN ĐÓ THẾ NÀO?" CHƯƠNG XXI
"TÔI CHƯA BAO GIỜ ỦNG HỘ KẾ HOẠCH ĐIÊN RỒ NÀY" CHƯƠNG XXII
"ÔNG VÀ TÔI PHẢI GÁNH TRÁCH NHIỆM NẶNG NỀ" CHƯƠNG XXIII
“TÔI GHÉT CHUYẾN ĐI ẤY CỠ NÀO!"
CHƯƠNG XXIV
"CHÚNG TA ĐANG ĐỂ TRÔI ĐƯỜNG BIÊN GIỚI XUỐNG TRUNG TÂM NƯỚC ĐỨC"
CHƯƠNG XXV
"TINH THẦN VÀ TÂM HỒN CỦA MỘT DÂN TỘC ĐƯỢC TÁI SINH"
CHƯƠNG XXVI
NHỮNG NGƯỜl THẮNG CUỘC
CHÚ GIẢI VÀ LỜI CẢM TẠ CỦA TÁC GIẢ
https://thuviensach.vn
CHÚ THÍCH
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
LỜI NÓI ĐẦU
Sách này kể câu chuyện về sự thành công quan trọng của nước Mỹ. Trong Thế chiến II, nhiều người Mỹ khăng khăng cho rằng, ngay cả các nước Đồng minh có thắng cuộc chiến, thì một ngày nào đó thế giới lại phải đương đầu với một sự điên cuồng của một nước Đức quân phiệt theo tầm nhìn về một tương lai nào đó của Adolf Hitler. Nhưng, hầu như sáu mươi năm sau Ngày Chiến Thắng Ở châu Âu, nước Đức vẫn dân chủ và thái bình.
Những người thắng cuộc lập luận rằng thành công này đã chịu ơn tài lãnh đạo của Franklin Roosevelt rất nhiều - và cả Harry Truman, trong bốn tháng sau cái chết của Franklin Delano Roosevelt. Cuốn sách này cho thấy rằng trong khi Roosevelt và sau đó là Truman đánh cuộc chiến châu Âu và thương lượng với quân đồng minh, Winston Churchill và Joseph Stalin, họ đã có mục tiêu lớn hơn là chỉ đánh bại Đức quốc xã. Họ quyết định rằng cái hệ thống Đức đã sản sinh ra Hitler và phong trào ghê tởrn của hắn phải bị biến đổi để nước Đức không bao giờ còn đe dọa thế giới một lần nữa.
Khi quyết định dứt khoát ấy được đưa ra, trong suốt Thế chiến II, chẳng phải Roosevelt cũng chẳng phải Truman, đã xử lý một cách hoàn mỹ vấn đề nước Đức. Trong những độc bạch riêng đầy tự tin của ông về đặc tính dân tộc Đức, Franklin Roosevelt không đề cập nạn tàn sát người Do Thái. Kiểu ơ hờ tồi tệ trước cuộc đấu tranh giải cứu những người tị nạn Do Thái khỏi tay Hitler. Ông đã chẳng nỗ lực thật sự để xem xét liệu việc đánh bom các trại tử thần có thể cứu được nhiều sinh linh. Suốt năm cuối của cuộc chiến, sự sa sút do căn bệnh mà ông đã giấu dân chúng, Roosevelt không còn có thể, như ông đã từng có thể, cân nhắc cả trăm nhân vật và vấn đề khác nhau, điều đã khiến ông ngày càng mắc sai lầm. Còn như Truman, ông chuốc lấy việc phải thực hiện những ý định riêng của Franklin Roosevelt đối với nước Đức hậu chiến mà không được Roosevelt nói rõ cho biết những ý định ấy là gì.
https://thuviensach.vn
Tuy nhiên, trên hết, Những người Thắng cuộc chỉ ra cho thấy rằng, trong khi lãnh đạo anh dũng cuộc chiến chống lại Đức quốc xã, Franklin Roosevelt và Truman cũng giúp đặt cơ sở cho người Đức thời hậu chiến để tránh cho họ và thế giới một Adolf Hitler khác sau này. Cùng với việc đánh bại đế quốc Nhật, đưa nước Nhật tới nền dân chủ và cản trở Liên bang Liên Xô, thì đấy là một trong những thành tựu quốc tế to lớn nhất thuộc thế kỷ XX của Mỹ.
Sách này viện đến những tài liệu liên quan đến Liên Xô, Anh và Đức, nhưng nó tập trung vào phần câu chuyện của nước Mỹ, nhất là vai trò ngầm chủ yếu của người bạn thân cận nhất của Franklin Roosevelt trong Nội các, Bộ trưởng Tài chính Henry Morgenthau, Jr. Sách này cho thấy nỗi khiếp đảm của Morgenthaura sao khi biết về nạn tàn sát người Do Thái đã buộc ông phải cắt đứt tình bạn với Tổng thống để làm việc cật lực hơn hòng cứu người Do Thái. Nhưng rồi, “bị ám ảnh" bởi nước Đức, ông đã cố gắng thuyết phục Roosevelt ủng hộ kế hoạch tàn bạo của ông để phá hủy các nhà máy và các hầm mỏ của Đức sau chiến tranh và "mặc xác những người Đức bại trận". Như cuốn sách cho thấy, quyết định của Franklin Roosevelt thay đổi nước Đức hậu chiến đã khiến ông tán thành kế hoạch của Morgenthau và thúc ép Churchill đang còn do dự cũng làm như vậy. Vào một lúc bị khích động. Tổng thống đã buột miệng nói rằng các đàn ông Đức sẽ bị "thiến" hết.
Tuy nhiên, cuối cùng Roosevelt hiểu rằng, dù giận dữ chính đáng với Đức quốc xã và khiếp sợ sự hồi sinh của nước Đức hậu chiến, kế hoạch của Morgenthau có thể trái với các truyền thống khoan dung cổ xưa của Mỹ, và hiểu rằng, khi đổ thêm dầu vào cơn oán giận nước Đức, có thể tạo những điều kiện làm nảy sinh một Hitler khác. Giờ thì lịch sử cho thấy rằng, do phá hủy rào cản của quyền lực Liên Xô và ngăn cách Đức khỏi Anh và Mỹ, kế hoạch cũng có thể mở ra con đường để Liên bang Liên Xô thống trị châu âu hậu chiến. Như cuốn sách này thuật lại, vào cuối đời của ông, Roosevelt đã đạt được dự án khác, được Truman chấp nhận theo các yếu tố cần thiết của nó, được tính toán để ngăn trở bất kỳ tham vọng đe dọa nào của Liên
https://thuviensach.vn
Xô đối với châu Âu - và cho người Đức thời hậu chiến cơ hội tự khẳng định.
Tôi bắt đầu viết Những người Thắng cuộc năm 1992, ngay sau khi Đông và Tây Đức thống nhất. Tôi đã nghiên cứu và viết trong bốn năm, sau đó để bản thảo gần hoàn tất qua bên để đợi việc công bố một số tài liệu lịch sử mật trước đây của Mỹ, Anh và Liên Xô - và để viết hai tập tác phẩm bộ ba về những băng ghi âm Nhà Trắng của Lyndon Johnson. Được củng cố bằng hàng ngàn tài liệu mới được công bố, tôi hoàn thành bộ sách năm 2001 và 2002.
Thời gian thêm vào sau này đem lại không những thông tin mật mà cả sự hiểu biết muộn màng. Giả như tôi đã viết và xuất bán cuốn sách này ngay sau khi nước Đức được thống nhất, có thể tôi đã cảm thấy ngập ngừng hơn khi viết về sự thử nghiệm dân chủ của nó đã thành công. Nhưng sau hơn một thập niên thực hiện dân chủ ở một đất nước đã một thời thê lương, nó càng dễ hơn để đi đến khẳng định vững vàng về cách thức hai Tổng thống Mỹ giúp vào để khả thể hóa nó.
https://thuviensach.vn
I
ÂM MƯU SÁT HẠI HITLER
Nếu những người âm mưu khéo léo hơn thì ngày thứ Năm 20 tháng Bảy 1944 đã là ngày kết thúc cuộc đời của Adolf Hitler trên trái đất. Sáu tuần sau Ngày - D, Mỹ, Anh và các đồng minh của họ đổ một triệu quân lên đất Pháp. Hồng quân hành quân theo hướng tây. Khi các tướng lĩnh của Hitler đề nghị rút quân về sâu các tuyến phòng thủ, Quốc trưởng lắc đầu, hét lên, "Thắng hoặc chết!”
Lúc này Hitler bị săn lùng tại Wolf’s Lair, sở chỉ huy chiến trường của ông ta gần Rastenburg, trong khu rừng ẩm thấp, u ám thuộc Đông Phổ. Buổi trưa, trong doanh trại, ông lắng nghe báo cáo đầy thất vọng của một trong các tướng lĩnh về việc rút quân ở mặt trận phía Đông. Trong căn phòng ẩm thấp, Hitler gỡ kiếng ra, điều ông rất miễn cưỡng làm công khai và dùng khăn tay lau trán. Các cận vệ SS và các nhân viên tốc ký đứng giống như những con mèo hoảng sợ quanh chiếc bàn dài đồ sộ bằng gỗ sồi. Các bản đồ được trải ra. Hitler cúi người trên chúng và nheo mắt nhìn qua chiếc kính lúp, gương mặt ông nhăn nhó trước các hung tin.
Một viên sĩ quan ba mươi bảy tuổi tên là Claus vonStauffenberg sải bước vào phòng. Đấy là một nhà quý tộc người Bavaria, tóc vàng hoe, xương gò má sắc lẹm, bị chột một mắt và mất bảy ngón tay do mìn của quân Đồng minh ở Tunisia khi chiến đấu vì nước Đức. Quốc trưởng và hai mươi bốn người khác trong phòng không hề biết chuyện Stauffenberg được phân công trong ârn rnưu bí rnật được sắp xếp lỏng lẻo chống lại Hitler, bao gồrn các sĩ quan quân đội, nhà ngoại giao, doanh nhân, mục sư, trí thức, lớp tiểu chủ quý tộc.
https://thuviensach.vn
Một số người muốn các sử gia sau này ghi lại rằng không phải mọi người Đức đều là đảng viên Đức quốc xã (Nazi). Một số người hoàn toàn muốn cho đất nước họ không bị quân đội Liên Xô, Mỹ và Anh xâm chiếm. Những người khác bị khuấy động bởi cuộc chiến của Hitler chống người Do thái. Trong nhiều năm, có nhiều người âm mưu tìm cách giết Hitler bằng súng trường và chất nổ, nhưng Quốc trưởng luôn thoát chết.
Phẫn nộ với những gì nghe được về hành động hung ác của đảng viên quốc xã ở Nga, Stauffenberg tự học cách sử dụng ba ngón tay còn lại để làm nổ bom. May là vào tháng Bảy năm 1944, ông được triệu tập đến Wolf's Lair để giúp Hitler tóm tắt về mặt trận phía Đông. Khi Stauffenberg bước vào phòng, Quốc trưởng bắt tay ông, nhìn chòng chọc vào ông để đánh giá, rồi quay trở lại các tấm bản đồ.
Bên trong cặp tài liệu của Stauffenberg, một quả bom định giờ được bọc trong một chiếc áo sơ rni. Khi tham mưu trưởng cất giọng đều đều thuyết trình, Stauffenberg đặt cặp tài liệu dưới gầm bàn. Cởi mũ và thắt lưng để ra phía sau như thể sắp bước ra ngoài một lát, Stauffenberg ra khỏi phòng và rời khỏi doanh trại.
Vào khoảng 12 giờ 45, một tiếng nổ lớn và một ngọn lửa xanh xoáy lên cùng một đám khói đen.
Phía ngoài doanh trại, Stauffenberg nhìn thấy người ta khiêng ra một chiếc cáng, bên trên là một xác người phủ áo choàng của Hitler. Chạy vội ra xe để trốn đi Berlin, ông đoán chừng là Adolf Hitler không còn nữa. Stauffenberg hy vọng sẽ được nghe lời tuyên bố công khai về vụ ám sát Hitler, về cuộc khởi nghĩa quân sự và sự thiết lập một chính phủ chống quốc xã ở Berlin.
Nhưng khi ông đến Bộ Tổng Tham mưu trên Đường Bendler, thì chỉ có một tình trạng hỗn độn. Những người âm mưu không tin là Hitler đã bị giết. Kinh ngạc, Stauffenberg hét lên, "Chính mắt tôi nhìn thấy xác Hitler được khiêng ra!"
Nhưng ông đã lầm. Cố gắng nhìn bản đồ rõ hơn, một trong các sĩ quan hầu cận của Quốc trưởng đã đẩy chiếc cặp tài liệu ra phía sau các chân bàn đồ sộ, bảo vệ Hitler thoát khỏi cái chết chắc chắn. Stauffenberg và sĩ quan
https://thuviensach.vn
phụ tá, Werner Von Haeften, một cộng tác viên, cảm thấy cần đặt gấp quả bom thứ hai vào cặp tài liệu. Nếu họ thực hiện được như thế, chắc chắn Hitler sẽ bị giết chết.
Thay vào đó, khi làn khói tan, Hitler vẫn còn đứng đó. Với cặp mắt đỏ ngầu phát ra từ gương mặt đen màu bồ hóng ông dập bụi lửa bám vào quần. Tóc ông dựng đứng thành từng lọn trên đầu. Hai màng tai bị thủng đang chảy máu. Tay phải xuôi thòng bên mình.
Nước mắt giàn giụa, Field Marshal Wilhelm Keitel vòng tay ôm choàng lấy Hitler: "Quốc trưởng còn sống? Quốc trưởng còn sống!" Sau khi thay bộ quân phục mới, với vẻ hồ hởi vì còn sống, Hitler gần như vui vẻ. Ông cười giòn với các thư ký, một lần nữa mọi thứ lại biến thành tốt đẹp với tôi! Thêm một bằng chứng nữa cho thấy định mệnh đã chọn tôi thực thi sứ mệnh của tôi?" Trưa hôm đó ông khoe bộ quần áo bị cháy xém với nhà độc tài người Ý bị trục xuất Benito Mussolini đang ghé thăm: "Hãy nhìn bộ quân phục của tôi! Hãy nhìn các vết cháy!” Hitler yêu cầu gửi bộ quân phục cho Eva Braun gìn giữ như bằng chứng về vận mệnh lịch sử của ông.
Khi các tướng lĩnh gọi điện thoại từ các vùng đất xa xôi thuộc Đức Quốc xã để biết có phải Hitler đã chết như tin đồn không, Quốc trưởng điên tiết với những kẻ đưa ra câu hỏi. Giận sùi bọt mép, ông la toáng, “Những kẻ phản bội trong lòng dân tộc xứng đáng với cái chết nhục nhã nhất... Hãy tiêu diệt chúng!... Ta sẽ đưa vợ con chúng vào các trại tập trung và không hề khoan dung!" Ông đứng trước mặt con chó bẹc giê của mình: “Này Blondi! hãy nhìn vào mắt ta. Mày có là kẻ phản bội giống như các tướng lĩnh trong hàng ngũ của ta không?"
Người của Hitler không cần phải mất nhiều thời gian mới tìm ra được kẻ đứng phía sau âm mưu. Ở Berlin, Stauffenberg và ba người đồng mưu bị bắt giữ. Tòa án năm phút, "nhân danh Quốc trưởng,” xác minh và tuyên bố họ phạm tội phản quốc. Trong mảnh sân đầy bóng tối, họ bị buộc vào cột trước đội hành quyết.
Ngay trước giờ hành quyết, còn nhớ đến đất nước trước thời Hitler, Stauffenherg hét to, "Nước Đức bất diệt!”
https://thuviensach.vn
Một giờ đêm giờ Berlin, ngày thứ sáu 21 tháng Bảy, Hitler phát biểu trên đài phát thanh từ Wolf's Lair.[1] Sau một đoạn quân nhạc, ông tuyên bố, "Hỡi đồng bào thuộc giòng giống Đức!" Một một đám ít ỏi các sĩ quan cực kỳ ngu xuẩn, điên khùng, vô đạo đức và đầy tham vọng" đã âm mưu giết ông và tư lệnh tối cao Đức quốc - "một tội ác chưa hề có trong lịch sử Đức quốc.
"Những người âm mưu không có “mối ràng buộc và không có gì chung với nhân dân Đức." Ông vẫn “hoàn toàn bình an vô sự, không hề bị xây xát nhỏ nào." Thất bại của âm mưu là dấu hiệu rõ ràng từ sự Quan phòng (của Thượng đế) cho biết tôi phải tiếp tục công việc của tôi."
Hitler xác nhận rằng nước Đức đã thất bại trong Thế chiến I vì các nhà chính trị hèn nhát ở Berlin đã phản bội các tướng lĩnh. Ông nói, những người âm mưu mới nhất đã lập kế hoạch “đâm dao sau lưng chúng ta như chúng đã làm năm 1918. Nhưng lần này chúng đã sai lầm rất nghiêm trọng." Chúng ông thét lên: “Mọi người Đức, bất kỳ ai, đều có bổn phận chiến đấu với các thành phần này ngay tức khắc với quyết tâm liên tục… Hãy tiêu diệt chúng ngay tức thì!"
Lo ngại cho tính mệnh, Hitler không bao giờ nói trước công chúng nữa. Qua lệnh của ông hàng trăm người bị tình nghi có âm mưu bị bắt giữ, bị tra tấn và bị hành hình. Năm ngàn người bà con khác và những người bị nghi ngờ có cảm tình với bọn chống Đức quốc xã bị đưa đến các trại tập trung. Bản án dành cho gia đình Stauffenberg là tru diệt tới thành viên cuối cùng của gia đình."
Hitler ra lệnh “treo cổ một số người chủ mưu như treo thú vật bị giết mổ." Bộ phim hành quyết được gửi gấp đến Wolf’s Lair để làm vui lòng Quốc trưởng. Theo một báo cáo, Hitler và tuyên truyền viên chính của ông, Joseph Goebbels, trong rạp hát riêng của Quốc trướng, xem cuộn phim chiếu những con người ở trần bị treo lủng lẳng bằng dây đàn dương cầm, đang rên xiết dàu khổ và hấp hối trong khi những chiếc quần không có dây lưng tuột xuống để lộ tấm thân trần truồng.
https://thuviensach.vn
Trong nhiều năm, Goebbels đòi phải truy sát kẻ thù của Hitler bằng quyết tâm máu lạnh.” Nhưng khi các đảng viên quốc xã cao cấp nhìn thấy các hình ảnh đu đưa, cực kỳ ghê tởm của những người âm mưu vô tri vô giác, thì ngay cả Goebbels máu lạnh cũng phải nhắm mắt không dám nhìn.
Khi Hitler chấm dứt bài nói chuyện từ Wolf's Lair, Franklin Roosevelt cho phát thanh bài nói chuyện của ông từ California. Nói từ một toa xe lửa riêng tại căn cứ hải quân San Diego, ông chấp nhận việc Đảng Dân chủ giới thiệu ông ra ứng cử Tổng thống năm 1944. Vì các lý do an ninh thời chiến, công chúng chỉ biết căn cứ nằm trên "bờ biển Thái Bình dương."
Tổng thống đang có chuyến đi kiểm tra quân sự dài mười bốn ngàn dặm trong thời gian năm tuần đến Thái Bình dương, Hawaii (Hawaii) và Alaska. Chuyến xe lửa đặc biệt chín toa của ông di chuyển chậm chạp từ Chicago đến thành phố Kansas, El Paso và Phoenix, để giết thời giờ, trước khi đến San Diego và để khỏi phải ngủ đêm trên chuyến xe lửa đang chạy, các nhân viên mật vụ cố gắng giữ bí mật nơi ở của Roosevelt. Ở mỗi trạm dừng, người ta yêu cầu Tổng thống và đoàn tùy tùng ở lại trên toa. Nhưng con chó Fala, gốc Scottie nổi tiếng của Roosevelt phải được mang đến để ông yên tâm. Khi những người khuân vác và những người soát vé ở toa Punman (toa xe lửa hạng sang) nhìn thấy Fala, họ biết đích xác ai đang ở trên toa có tên gọi "Main 985."
Người ta có thể mong đợi Roosevelt vui sướng khi nghe được tin tức về hành động phi thường có thể đánh đổ được Adolf Hitler. Nếu một chính phủ mới, hậu - Hitler chấp nhận yêu cầu của phe Đồng minh đầu hàng vô điều kiện, sẽ cứu được hàng triệu mạng người và cho phép Bộ Ba - Roosevelt, Joseph Stalin và Winston Churchill - đưa toàn bộ lực lượng quân Đồng minh vào cuộc chiến tranh chống Nhật.
Nhưng Roosevelt biết cuộc đời không đơn giản. Trong nhiều tháng, tình báo Mỹ bí mật báo cho ông biết về các âm mưu chống Hitler. Vào đầu tháng Bảy 1944, Allen Dulles thuộc Văn phòng Vụ Chiến lược (Office of Strategic Services) báo cáo từ Bern, Thuỵ Sĩ, rằng "vài tuần tới là cơ hội cuối cùng cho chúng ta chứng minh quyết tâm của chính người Đức giải thoát nước Đức khỏi tay Hitler cùng bè lũ của ông ta và thiết lập một chế độ
https://thuviensach.vn
bớt hà khắc.” Tám ngày trước khi Stauffenherg đánh bom, Dulles cho biết “một sự kiện đầy kịch tính” có thể sẽ xảy ra ở phía bắc."[2] Roosevelt chắc chắn hiểu được rằng một ủy ban hành chính mới, hậu - Hitler có thể sẽ cần sự thỏa thuận được đàm phán. Có thể yêu cầu rằng các thành viên nhất định trong bộ tư lệnh quân sự cấp cao, chính phủ và các thể chế khác của Đức vẫn giữ nguyên chức vụ. Điều này sẽ làm mất tác dụng ý định đã tuyên bố là tái thiết một nước Đức thời hậu chiến từ cơ sở trở lên để nó không bao giờ có thể đe dọa thế giới một lần nữa. Chủ trương chính thức của quân Đồng minh là đầu hàng vô điều kiện. Nhưng Roosevelt biết rằng nếu chính phủ ít người thời hậu - Hitler mong ước hòa bình, Churchill và bản thân Roosevelt khó mà thuyết phục được các dân tộc đã kiệt quệ vì chiến tranh tiếp tục chiến đấu và chịu tổn thất thêm hàng trăm hàng ngàn nhân mạng nứa.
Dulles báo cáo có một nhóm người âm mưu chống Hitler muốn “ngăn chặn không để cho Trung Âu... bị Nga kiểm soát.” Roosevelt biết là Churchill có thể rất thèm khát giao dịch với một chính phủ Đức mới có khả năng cứu mạng sống người Anh và chặn đứng quân Liên Xô ở châu Âu, xúi giục sự đương đầu trực tiếp với Stalin. Khả năng xấu hơn là chính phủ hậu - Hitler có thể đứng về phía nhân dân Liên Xô chống lại Anh - Mỹ.
Khi nói về vụ ám sát hụt, các phóng viên ở San Diego đã quấy rầy các sĩ quan phụ tá của Roosevelt để biết được phản ứng của Tổng thống đối với tin này. Tổng thống không bình luận gì. Ông nói bất cứ điều gì cũng là đang đùa với lửa. Nếu ông công khai chúc mừng âm mưu, ông có thể rút lui khỏi chính sách đầu hàng vô điều kiện. Nếu ông lên án, vô hình trung ông lãnh đạm với sự phát triển dẫn đến kết thúc nhanh chiến tranh. Nếu ông phản đối âm mưu mà cuối cùng lại thành công, Stalin sẽ có được cơ hội tốt hơn để giao dịch với chính phủ mới hậu - Hitler, có khả năng cho phép Liên Xô thống trị Âu châu.
Thay vì thế, Roosevelt viết một thông điệp riêng với những từ ngữ thận trọng cho Stalin, đề nghị rằng âm mưu trên đáng động viên vì nó cho thấy kẻ thù Quốc xã đang trong tình trạng lộn xộn: "Chúng tôi vừa nhận được tin
https://thuviensach.vn
tức về những khó khăn trong nước Đức và đặc biệt trong tổng hành dinh của Hitler. Càng hay.” Với cùng sự thừa nhận hồ hởi rằng âm mưu chỉ có thể là một tin vui, Roosevelt viết cho vợ ông là Eleanor, “Em thân yêu... Anh có thể phải vội vã về sớm nếu cuộc nổi loạn ở Đức này tồi tệ hơn nữa! Tuy vậy, anh vẫn sợ nó không xảy ra."
Một tối thứ sáu ở Chicago, với sự đồng ý của Roosevelt, các đảng viên Đảng Dân chủ bầu thượng nghị sĩ Harry Truman thuộc bang Missouri làm Phó Tổng thống. Ở San Diego, Truman được bầu chọn thận trọng, Tổng thống và Fala di chuyển trong đêm tối đến Broadway Pier và đáp chuyến tàu tuần dương nặng nề Baltimore, về Honolulu. Để bảo vệ Roosevelt khỏi bị Nhật tấn công, một chiếc tàu trắng mới được bốn tàu khu trục hộ tống. Tàu đi theo một lộ trình không thể dự đoán và được tô đen từ tối đến sáng. Suốt chuyến đi, thủy thủ đoàn bị ngăn cấm không cho cắt các lọn lông của Fala gửi về nhà.
Tổng thống ngủ yên giấc và ngồi trên đài chỉ huy của tàu, thưởng ngoạn ánh mặt trời và các cơn gió mát. Trong khung cảnh thơ mộng của vùng Thái Bình dương và sau này trên tàu, Roosevelt nhận được các báo cáo tình báo rằng sau khi Hitler bị giết hụt, các “cuộc thanh trừng đẫm máu” nội bộ của Quốc trưởng thật "tàn nhẫn." Rất nhiều người Đức bị bắt bớ đến nỗi các trường học và các tòa nhà công cộng lớn khác đều được sử dụng làm nhà tù phụ.” Người ta thông tin cho Roosevel tbiết rằng sau khi Hitler thanh lọc toàn bộ, người Đức có thể phải chờ quân đội Đức suy sụp hẳn mới có thể tự giải thoát mình khỏi các đảng viên Đức quốc xã.”
Khi tàu Baltimore đến Honolulu, cờ Tổng thống được kéo lên. Sự việc này khiến Cục Tình báo khó chịu, nhưng lúc này hầu như mọi người ở thủ phủ Hawaii đều biết là Roosevelt đang đến. Vẫn ở lại trong biệt thự do một triệu phú nghiện rượu nặng đã tự tử để lại, Tổng thống có buổi trò chuyện được cho là "tuyệt vời" với Tướng Douglas MacArthur về cuộc chiến tranh Thái Bình dương.
Đúng một tuần sau khi Hitler bị ám sát hụt, Roosevelt đưa ra lời bình luận công khai đầu tiên về âm mưu này. Khi Tổng thống ngồi với các phóng viên trên mảnh sân màu ngọc lục bảo trong dinh thự của thống đốc Hawaii,
https://thuviensach.vn
ông rất thận trọng: “Tôi không nghĩ tôi biết nhiều về điều đó hơn các ông... Tất cả chúng ta đều có những ý nghĩ riêng về nó."[3] Ông tiếp tục xác nhận một lần nữa yêu cầu đầu hàng vô điều kiện của quân Đồng minh: trên thực tế, mọi người Đức đều khước từ việc họ đầu hàng trong trận chiến cuối cùng. Nhưng lần này, họ sẽ hiểu ra điều đó!”
Từ Moscow, các tuyên truyền viên của Stalin tán thành: nước Đức Hitler sẽ bị buộc phải đầu hàng không phải bởi các sĩ quan nổi dậy, nhưng bởi chúng ta và quân Đồng minh của chúng ta!”
Churchill chế giễu âm mưu chống Hitler. Trước Hạ viện, ông giải thích rằng các sĩ quan cao cấp Đức chỉ đang cố gắng tránh né sự bại trận hoàn toàn, không thể tránh được qua hành động tàn sát lẫn nhau."[4]
Sự trình bày qua loa của Thủ tướng che đậy một bí mật mà một số ít người trong chính phủ Nữ hoàng biết. Theo các tài liệu tình báo Anh tiết lộ năm 1998, chính các gián điệp của Churchill tìm cách ám sát Hitler. Dưới mật mã Operation Foxley, họ vạch kế hoạch bỏ thuốc độc vào trà cho Hitler uống, tẩm vi khuẩn chết người vào quân phục Hitler, đánh lật tàu, hoặc bắn tỉa.[5]
Một đại tá Anh biết về hoạt động này không thể hiểu vì sao họ phải theo dõi Hitler: ông ta đang làm tốt công tác làm thất bại cuộc chiến! Ông cảnh báo rằng việc giết Quốc trưởng có thể liên kết những người Đức chống lại quân đội Đồng minh. Ám sát sẽ “phong thánh" cho Hitler và "khai sinh ra thần thoại cho rằng nước Đức sẽ được cứu rỗi nếu Hitler còn sống." Một sĩ quan Anh khác nói, “Tôi nghĩ người ta sẽ để cho Hitler sống cho đến khi ông chết già trước mắt dân tộc mà ông đã lừa dối... Hãy biến ông thành trò cười.
"Một tình báo viên Anh điềm đạm hơn nhấn mạnh rằng họ tiếp tục cố gắng. Ông ta viết, “Ảnh hưởng thần thoại" Hitler trên dân tộc Đức đang "hợp nhất đất nước đó lại” khi quân Anh - Mỹ chiến đấu giải phóng châu Âu.
Roosevelt nhất trí với Stalin và Churchill rằng vấn đề quan trọng mà chiến tranh châu Âu để lại là những gì đã xảy ra với nước Đức. Ông tin
https://thuviensach.vn
rằng nền hòa bình bền vững tùy thuộc vào việc ông và Churchill có thể duy trì tình hữu nghị với Liên bang Liên Xô và việc nước Đức có thể được biến đổi để không bao giờ có thể là mối đe dọa thế giới nữa.
Nhưng bằng cách nào đây? Kể cả khi chiến tranh châu Âu lên đến đỉnh điểm và quân đội Đồng minh chọc thủng biên giới nước Đức, Tổng thống vẫn từ chối cam kết. Ông cáu tiết nói với các sĩ quan phụ tá rằng điều này phụ thuộc nhiều vào việc chúng ta và quân Đồng minh tìm được điều gì khi chúng ta vào tới nước Đức - còn hiện nay chúng ta chưa đến được đó.“
Với lòng tin quá mức vào khả năng nắm vững các sự kiện, Franklin Roosevelt tiếp tục mở rộng ý kiến cho đến khoảnh khắc khả thi cuối cùng.
https://thuviensach.vn
II
“ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN"
Không một Tổng thống Hoa Kỳ nào khác có kinh nghiệm sớm về đất nước Đức hơn Franklin Roosevelt. Sau khi người cha cao tuổi của ông bị một cơn đau tim, cha mẹ ông mang đứa con trai duy nhất đến Đức tám lần, ở đó họ điều trị trong khu an dưỡng y khoa Bad Nauheim nổi tiếng.
Suốt chuyến tham quan đầu tiên năm 1891 lúc chín tuổi, Franklin ghi danh học sáu tuần lễ tại một trường học địa phương - chủ yếu để hoàn thiện tiếng Đức. Bà mẹ Sara của ông ghi lại, “Khá vui, nhưng tôi không nghĩ là cháu học được gì nhiều." Gia đình Roosevelt sống trong một khách sạn của chủ nhân người Anh là Villa Britannia. Anglophile, mê thích văn hóa Pháp, họ coi phần lớn người Đức thì thô lỗ và thấp kém. Sara phàn nàn về việc phải ăn tối với "kẻ đáng ghét Đức."
Nước Đức mà lần đầu tiên Franklin gặp gỡ, được tạo ra cách đây hai mươi năm, sau Chiến tranh Pháp - phổ, bởi “Thủ tướng Thép" Otto von Bismarck - hai mươi vương quốc cổ xưa, các thành phố và tỉnh thành tự do được rèn thành một Đế chế Đức đơn độc. Năm 1890, Bismarck bị Kaiser Wilhelm II, người nói về "vận mệnh” cai trị của nước Đức, hạ bệ.
Tình cờ, năm 1901, Roosevelt gặp Kaiser bằng xương bằng thịt. Ở tuổi mười chín, khi ông và mẹ ông xuống tàu tới vịnh Fio ở Na Uy, họ chạm trán chiếc du thuyền trắng bóng loáng Hohernzollern của Wilhelm II và được mời lên boong dùng trà. Theo hồi ức của Roosevelt, ông đã ăn trộm một cây viết chì có dấu răng của Kaiser.
Nhiều năm sau, khi làm Tổng thống, Roosevelt thích tin rằng kinh nghiệm trước kia của riêng ông về nước Đức đem lại cho ông sự hiểu biết
https://thuviensach.vn
đặc biệt về đời sống chính trị và tâm lý Đức. Ông nhớ lại học trò Đức hay huyên thuyên về “cuộc chiến chắc chắn xảy ra với Pháp và về việc xây dựng Đế chế Đức thành cường quốc mạnh nhất thế giới.” Ông nhấn mạnh rằng trong chuyến tham quan đầu tiên của ông, nước Đức "không phải là một nước quân sự." Hoạt động chính trị mang tính địa phương và có “đời sống gia đình tử tế." Ông nhớ lại, vào những năm cuối thập niên 1890, trai gái đều mặc quân phục và được dạy “đi diễu hành."
Roosevelt chia sẻ các định kiến xã hội của mẹ mình. Năm 1905, khi đi hưởng tuần trăng mật với Eleanor, ông viết cho mẹ từ một suối nước khoáng ở Đức rằng "bằng thái độ quyết liệt” ông sắp đặt ngồi càng xa nơi người Đức dùng bữa càng tốt - bốn cái chuồng heo dài, ở đó có sự phân hạng kỳ lạ các sinh vật phải chết (heo là loài phải chết, đúng không nào?) tiêu thụ thức ăn," Ông chú thích, mỗi khi người Đức nói về người họ hàng xa của ông, Tổng thống Thedore Roosevelt, họ đều có "sự hận thù và thái độ đố ky nhất định.” Cũng trong chuyến đi đó, khi Eleanor và ông đi xe lửa qua vùng nông thôn Đức, một hành khách Đức lỗ mãng chồm qua ông để đóng cửa sổ mà không xin phép gì hết. Eleanor viết cho mẹ chồng rằng cô “nghĩ Franklin sẽ nổi sùng và không tránh được xung đột.”
Trong suốt Thế chiến II, khi tiến hành chiến tranh chống Hitler, Roosevelt kể cho bạn bè và gia đình nghe những câu chuyện hấp dẫn - có khả năng là được phóng đại hoặc tưởng tượng ra - về các cuộc chạm trán chớp nhoáng thời trẻ với chủ nghĩa độc đoán Đức. Ông kể rõ rằng khi đạp xe với thầy phụ đạo qua miền nam nước Đức, trong có một ngày ông bị chặn lại kiểm tra bốn lần[6].
Một chuyện kể khác, có lẽ để tô điểm thêm cho tuần trăng mật chạm trán một tay người Đức thô lỗ trên xe lửa, ông kể rằng khi đi cùng với mẹ và một người bạn của mẹ đến Berlin, “một sĩ quan Phổ” đã đóng cửa sổ toa xe lại. Vì người bạn của mẹ "nhức đầu” nên Roosevelt lại mở cửa sổ ra. Theo ông kể thì tên Phổ lại đóng nó lại. Thế là Roosevelt đánh tên Phổ gục xuống sàn, và vì việc này ông bị ném vào nhà tù ở Berlin: “Mẹ tôi gọi điện đến sứ quán Mỹ, nhưng chúng vẫn giữ tôi vài giờ rồi mới chịu thả ra.”
https://thuviensach.vn
Kiến thức sâu rộng hơn của Roosevelt về nước Đức được thu thập trong Thế chiến I. Khi cuộc chiến nổ ra ở châu Âu năm 1914, ông đã là Thứ trưởng Bộ Hải quân lúc ba mươi hai tuổi. Tổng thống Woodrow Wilson ra sắc lệnh mang tính trung lập, nhưng Roosevelt tự viết, tôi hy vọng Anh quốc sẽ gia nhập và cùng với Pháp và Nga thúc đẩy hòa bình ở Berlin!”
Sau khi Hoa Kỳ tham chiến vào tháng Tư 1917, Roosevelt phát biểu bài diễn văn chống "chủ nghĩa hoàng đế" (Kaiserism) và “chủ nghĩa Phổ" (Prussianism). Ông nhấn mạnh rằng người Đức là dân tộc “bị lạc đường” "bị lệ thuộc vào sự cai trị của đẳng cấp quân sự” và "bị dắt đi theo con đường họ không thể hiểu được.” Mùa hè năm 1918, khi đi thị sát các chiến trường ở Pháp và Bỉ, ông viết trong nhật ký về các tù nhân Đức là “lũ đù, đần độn” và “giàn thiêu xác lính Đức" làm tổn thương những chiếc mũi nhạy cảm của chúng ta.”
Các quyết định của Tổng thống Wilson về nước Đức báo trước các quyết định mà Roosevelt phải đưa ra cho thế hệ sau này trong Thế chiến II. Cam kết với quyền tự quyết bằng Mười Bốn Điểm và thúc đẩy hòa bình của Liên Hợp Quốc, Wilson nói ông không có ước muốn đi diễu hành chiến thắng vào Berlin."
Roosevelt nhấn mạnh là Anh, Pháp và Hoa Kỳ không can thiệp sâu vào nước Đức, người Đức không thực sự bại trận. Chủ nghĩa quân phiệt hung hãn của Đức vẫn tồn tại. Ông muốn người Đức cắt đứt và thanh lọc.” Khi người ta yêu cầu ông cho lời khuyên về các điều khoản hòa bình cho hải quân Đức, Roosevelt biện hộ cho sự đầu hàng vô điều kiện. Ông nói, “Bài học duy nhất mà người Đức sẽ học được là bài học thất trận."
Tháng giêng 1919, sau đợt ngừng bắn ngắn, ông đưa vợ đến pháo đài cổ ở Ehrenbreitstein, trên sông Rhine và sông Mosel. Ông đã nhìn thấy pháo đài khi còn là thiếu niên và muốn thấy nó phất phới lá cờ Mỹ. Khi không trông thấy gì hết, ông bị xúc phạm khi được cho biết vị sĩ quan Mỹ ở địa phương không muốn làm người Đức đau khổ. Roosevelt đặt vấn đề với Tướng Joan .J. Pershing, chỉ huy trưởng Quân viễn chinh Mỹ. Tướng này liền ra lệnh kéo cờ Mỹ lên trong vòng một giờ."
https://thuviensach.vn
Theo Hiệp ước Versailles, Đức được lệnh phải cắt giảm quân đội; phi quân sự hóa vùng bờ đông sông Rhine; giao nộp các thuộc địa; nhượng đất cho Bỉ, Pháp, Đan Mạch và Ba Lan; chịu trách nhiệm hoàn toàn Thế chiến I; và bồi thường thiệt hại chiến tranh cho quân Đồng minh về các tổn thất do chiến tranh gây ra - giá chót cũng hàng tỉ mỹ kim. Thủ tướng Pháp, Georges Clemenceau, nhấn mạnh đến nhiều điều của hiệp ước này trước những phản đối của Wilson. Quân Đồng minh cũng áp đặt một cơ cấu chính trị mới, dựa trên chế độ bầu cử theo tỷ lệ, để ngăn ngừa một chế độ độc tài khác.
Cuối cùng, phần lớn điều này đã nuôi dưỡng chủ nghĩa cực đoan Đức Adolf Hitler và những người khác nhồi nhét ý rằng quân đội của họ bị các chính trị gia "tội phạm” “đâm sau lưng” và cản trở không cho chúng ta thắng trận. Cơ quan lập pháp mới bị đẩy vào hoàn cảnh bế tắc và hỗn loạn, khi không một ai trong nhiều đảng phái chính trị mới chứng tỏ có đủ khả năng lập một chính phủ ổn định.
Một số người Mỹ phàn nàn hòa bình ở Đức là quá nhân nhượng. Quân Đồng minh chỉ chiếm giữ vùng bờ đông sông Rhine và để chính phủ Đức vẫn tiếp tục. Năm năm sau khi kết thúc Thế chiến I, Tướng Pershing phàn nàn rằng quân Đồng minh không bao giờ chắc chắn là người Đức “biết họ bị đánh bại," và ông nói thêm, "Điều đó sẽ phải được thực hiện một lần nữa.”
Roosevelt đồng tình. Trong thập niên 1920, là luật sư và doanh nhân từ sau khi bình phục khỏi chứng liệt, chứng bệnh ông mắc phải ở tuổi ba mươi chín, ông cảm thấy hiệp ước Versailles vừa quá cứng rắn, đè nặng lên nước Đức nghĩa vụ tài chính và những nghĩa vụ khác khiến nó chỉ phẫn nộ mà không bao giờ hoàn thành, nhưng lại nhẹ nhàng vì nó không đủ sức giữ người Đức khỏi lòng ham muốn chiến tranh và có khả năng tiến hành chiến tranh.[7] Ông buồn rầu quan sát thấy rằng những nỗi sợ hãi tồi tệ nhất đã bộc lộ. Chế độ dân chủ Weimar chìm xuống trong tình trạng lạm phát tăng rất nhanh, nợ và bồi thường thiệt hại chiến tranh, sự oán giận sự ác nghiệt
https://thuviensach.vn
của hiệp ước Versailles, và sự tin tưởng bị Hitler xúi giục cho rằng những kẻ phản bội quân đội Đức đã cố ngăn trở nước Đức khỏi vận mệnh lịch sử. Roosevelt nghĩ rằng Wilson ắt phải nhấn mạnh rằng những kẻ chiến thắng chiếm đóng nước Đức và huấn luyện người Đức từ bỏ các tham vọng cũ về chế độ độc tài, một quân đội hùng mạnh và một đế chế thế giới. Khi ông thấy Hitler nhanh chóng nắm quyền lực trước khi ông nhậm chức năm 1933, Roosevelt sớm thấy rõ hơn đa số người Mỹ là, trong nhiệm kỳ của ông, nước Mỹ có thể bị buộc phải trả giá cho những sai lầm của Wilson. Tháng Chạp 1941, khi đài phát thanh phát bài nói chuyện với người Mỹ sau trận Trân Châu Cảng, Rooservelt nhấn mạnh rằng nước Mỹ có thể "không chấp nhận kết quả giành chiến thắng cuối cùng và hoàn toàn." Sau này trong chiến tranh, Tổng thống nói rằng khi đã giành chiến thắng ở châu Âu, quân Đồng minh phải chú ý đến bài học năm 1918. Ở Đức, họ không được cấp phát hạt giống tội ác mà chúng ta đã hủy diệt không cho nảy mầm và sinh sôi nảy nở sau này nữa.”
Tháng giêng 1943, Tổng thống nắm bắt được cơ hội để thực hiện điều ông thuyết trình. Sau chuyến bay nhọc nhằn kéo dài bốn mươi tám giờ trên chiếc Pan American được trưng dụng, chuyến hành trình hàng không đầu tiên ở cương vị Tổng thống, ông đáp xuống thành phố cảng cổ Casablanca thuộc Ma Rốc (Morocca) để hội kiến với Winston Churchill.
Vì phải đối phó với cuộc tấn công mạnh của Đức vào phía tây Liên bang Liên Xô nên Stalin không tới được. Lực lượng Anh - Mỹ vừa mới chặn đứng đợt tấn công của Hitler vào Bắc Phi, nhưng các đảng viên Đức quốc xã vẫn còn kiểm soát châu Âu từ Đại Tây dương đến Leningrad và Stalingrad. Trước hội nghị Casablanca, Roosevelt đã cảnh báo Churchill là đừng “làm cho Stalin có ấn tượng rằng chúng ta đang dàn xếp mọi chuyện giữa chúng ta trước khi chúng ta gặp ông ta.”
Stalin đang công khai chỉ trích quân đồng minh vì đã từ chối không mở mặt trận thứ hai chống Hitler như đã hứa - cuộc tấn công vào Tây Âu sẽ làm giảm sức ép của Đức lên Hồng quân. Đại sứ Anh ở Moscow, Clark Keer, báo cho Churchill biết là quân Liên Xô đang dọa cắt dứt quan hệ với Anh và Mỹ nếu mặt trận thứ hai không được mở sớm. Một số quan chức Liên
https://thuviensach.vn
Xô đang lớn tiếng tự hỏi rằng liệu Anh - Mỹ có đang bí mật âm mưu để cho người Đức làm đổ máu một Liên Xô đang khô cạn, rồi sau đó sẽ sắp đặt nền hòa bình riêng với Berlin.
Tại Casablanca, Roosevelt và Churchill nhất trí đưa ra tuyên bố chung rằng quân Đồng minh “kiên quyết theo đuổi chiến tranh đến phút cuối." Theo quan điểm của Roosevelt, điều này sẽ ngăn chặn việc lặp lại các sai lầm của Wilson khi giải quyết vấn đề nước Đức hồi cuối Thế chiến I, và xoa dịu nỗi lo của Stalin về quyết tâm của Anh - Mỹ. Đây sẽ là lời tuyên bố thách thức khi quân Đồng minh quay trở lại nện gót giày trên châu Âu. Nó cũng giải quyết các bất đồng giữa Bộ Ba và trong mỗi chính phủ của họ về các mục tiêu chiến tranh. Qua bữa tiệc trưa, Roosevelt đề nghị họ sử dụng cụm từ "đầu hàng vô điều kiện.”
Churchill có những ngờ vực riêng nhưng quá lệ thuộc vào sự ủng hộ Anh của Roosevelt nên đã cố gắng bày tỏ lòng nhiệt tình.[8] Ông nói, "Tuyệt! Tôi có thể thấy Goebbels và những kẻ còn sót lại sẽ kêu thét lên như thế nào.”
Roosevelt nói, “Đó chỉ là điều dành cho Nga... Joe có thể tự thu xếp được"
Tại buổi họp báo đánh dấu kết thúc hội nghị Casablanca, Roosevelt nói với các phóng viên, “Tôi nghĩ chúng ta đều có sẵn nó trong trái tim và trong đầu của chúng ta, nhưng tôi không nghĩ nó đã từng xuất hiện trên giấy... và đó là... hòa bình ấy chỉ có thể đến với thế giới nhờ xóa bỏ hẳn quyền lực chiến tranh Đức - Nhật. Điều này có nghĩa là Đức, Ý và Nhật phải đầu hàng vô điều kiện." Quân Đồng minh sẽ chiến đấu để diệt “các thứ triết lý ở những quốc gia dựa vào sự xâm chiếm và chinh phục người khác.” Ông tuyên bố rằng người ta phải gọi Casablanca là hội nghị "đầu hàng vô điều kiện.” Churchill phụ họa theo, "Nhất trí, nhất trí!”
Sau khi qua trở về Luân Đôn, Churchill bảo vệ chủ trương đầu hàng vô điều kiện trước Hạ viện: “Hai lần trong cả cuộc đời chúng ta" người Đức “nhấn chìm thế giới vào những cuộc chiến bành trướng và tấn công... Chính thể chuyên chế Quốc xã và chủ nghĩa quân phiệt Phổ là hai yếu tố chính
https://thuviensach.vn
trong đời sống người Đức phải bị tiêu diệt hoàn toàn... Nếu châu Âu và thế giới không muốn có một cuộc xung đột thứ ba và khủng khiếp hơn nữa”. Tài hùng biện của Thủ tướng che đậy sự kiện ông không hoàn toàn tin điều ông đang nói. Ông đã miễn cưỡng tranh cãi với Roosevelt ở Casablanca, nhưng ông bi quan cho rằng đầu hàng vô điều kiện sẽ xoa dịu Stalin. Về sau ông nói với Bộ Chiến tranh, “Không gì trên thế giới được Stalin chấp nhận thay thế cho việc chúng ta sắp đặt năm mươi hay sáu mươi phần chia ở nước Pháp vào mùa xuân năm nay”.
Hơn cả Roosevelt, Churchill lo lắng đầu hàng vô điều kiện sẽ khiến cho người Đức chiến đấu mạnh hơn chống lại quân Đồng minh và kéo dài chiến tranh thêm: Nếu người Đức không có gì để hy vọng sau khi quân Đồng minh chiến thắng, tại sao họ không chiến đấu đến cùng? Sau hội nghị Casablanca, các tuyên truyền viên của Joseph Coebbels cảnh báo dân tộc Đức rằng đòi hỏi đầu hàng vô điều kiện là bằng chứng cứng rắn cho thấy nếu quân Đồng minh chiến thắng, họ sẽ biến dân Đức thành nô lệ và tiêu diệt dân Đức.
Churchill cũng không chia sẻ các khát vọng không tưởng của Roosevelt muốn biến đổi xã hội Đức hậu chiến. Nghi ngờ Stalin, ông biết bức tường thành chính bảo vệ ngăn không cho Liên Xô thống trị châu Âu thời hậu chiến có thể phải là Đức. Để giữ cho bức tường thành này nằm đúng vị trí, có thể Anh - Mỹ phải bảo đảm rằng cơ sở hạ tầng Đức sẽ hoạt động càng sớm càng tốt sau khi họ chiến thắng.
Churchill quyết định sẽ giải thích việc đầu hàng vô điều kiện theo cách của riêng ông. Bí mật, ông nói với các cộng sự rằng, đối với ông, đơn giản là sau chiến thắng, quân Đồng minh sẽ “hào phóng" ở Đức, tháo gỡ các cam kết trước kia - không phải những kẻ chiến thắng cảm thấy được phép “cư xử dã man" hoặc “loại bỏ nước Đức ra khỏi các quốc gia châu Âu."
Stalin được thông tin về tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Roosevelt và Chruchill ngay lúc Hồng quân đẩy lùi quân Đức ở Leningrad. Như Churchill dự kiến trước, vị lãnh đạo Liên Xô không vui về điều này. Ông giận dữ vì các đồng minh không tham khảo ý kiến ông trước. Ông hiểu ngay rằng họ có thể sử dụng nó như vật thay thế tồi tàn cho mặt trận thứ hai
https://thuviensach.vn
mà ông đang chờ đợi. Hơn cả Churchill, ông sợ rằng đòi hỏi đầu hàng vô điều kiện sẽ thống nhất và tôi luyện dân tộc Đức chống lại quân Đồng minh.
Stalin cũng miễn cưỡng công khai nói những điều có thể làm cho người Đức thời hậu chiến hằn học chống lại Liên bang Liên Xô. Ông biết khó khăn của việc biến đổi người Đức theo cách của Liên Xô. Có lần ông đã nói, "Chủ nghĩa Cộng sản hợp với nước Đức giống như yên ngựa hợp với con bò.“ Và cũng như Lenin, ông không bao giờ ngừng mơ đến một nước Đức Cộng sản - hay ít nhất thì nước Đức đó, với sức mạnh công nghiệp và nhân sự lành nghề, có thể được tạo ra để giúp hiện đại hóa nước Nga. Ông quyết định là hàng triệu binh lính Liên Xô không nên bỏ mạng trong Thế chiến II chỉ để đối mặt với một nước Đức thù địch. Ông vẫn còn giận về sự kiện Hitler bất ngờ xâm lược Liên bang Liên Xô hồi tháng Sáu 1941.
Giải pháp của Stalin đối với nước Đức thời hậu chiến là nước đôi. Công khai tránh lối nói khoa trương chống Đức mà ông nghe được từ Roosevelt và Churchill, ông tế nhị đánh điện cho người Đức báo rằng Liên Xô có thể là kẻ chiến thắng thân thiện nhất trong những kẻ chiến thắng tiềm năng của họ. Ông tự mình đòi hỏi các đồng minh cam kết thực hiện những biện pháp khắc nghiệt để đập tan quyền lực nước Đức thời hậu chiến - chia cắt đất nước, xét xử và hành hình hàng loạt, cưỡng bức lao động, trục xuất hàng triệu người Đức ra khỏi lãnh thổ Đức, cũng như những đòi hỏi truyền thống hơn là bồi thường thiệt hại chiến tranh và giải trừ quân bị. Các biện pháp như thế có thể giữ nước Đức không đe dọa Liên bang Liên Xô một lần nữa đối với thế hệ mới hoặc thế hệ sau nữa. Chúng cũng có thể tạo ra khoảng không quyền lực cho phép Liên bang Liên Xô tiến vào Trung Âu thời hậu chiến.
Tháng Hai 1942, Stalin làm rõ với thế giới rằng ông không tán thành quan điểm cho rằng không có sự khác biệt giữa đảng viên Đức quốc xã và dân tộc Đức. Ông tuyên bố, “Những tên Hitler đến rồi đi, nhưng dân tộc Đức, đất nước Đức vẫn còn.” Khi tố giác “chuyện tầm phào" trên “báo chí nước ngoài" cho rằng Hồng quân muốn “tiêu diệt nước Đức,” ông xác nhận
https://thuviensach.vn
mục tiêu duy nhất của ông là “hất cẳng quân xâm lược Đức ra khỏi đất nước chúng tôi."
Mùa hè năm 1943, Stalin hình thành điều có nghĩa là chính phủ Đức lưu vong của riêng ông, Uỷ ban Nhà nước cho một nước Đức Tự do. Các thành viên của nó bao gồm các Đảng viên Cộng sản Đức cũ đã trốn qua Moscow và các tù nhân chiến tranh cấp cao của Đức bị Liên Xô bắt tại Stalingrad. Được thiết kế để lôi kéo “nhân dân lao động” Đức, cương lĩnh của nó là ca tụng niềm hãnh tiến của sự hợp tác Xô - Đức. Một số thành viên của Ủy ban nhanh chóng được cho biết là sau chiến tranh, không giống như một số kẻ thù của Đức, Liên bang Liên Xô quyết định duy trì một đất nước Đức thống nhất và một quân đội Đức hùng mạnh.
Stalin công khai xác nhận rằng Ủy ban của nước Đức Tự do có ý định làm giảm sức kháng cự của nước Đức. Với ý tốt, nhiều nhà kế hoạch của Mỹ và Anh e sợ mục đích thực sự của nó là để phục vụ như mũi nhọn chính trị của sự ảnh hưởng của Liên Xô lên nước Đức thời hậu chiến. Trong hoàn cảnh tốt nhất theo quan điểm của Stalin, ủy ban mới có thể là đại diện của chính quyền bù nhìn Đức hậu chiến do Liên Xô kiểm soát. Một số bài phát trên đài phát thanh tới nước Đức nói rõ rằng Liên Xô chiếm đóng sẽ nhân hậu hơn là Anh - Mỹ chiếm đóng.
William Bullitt, từng là đại sứ của Roosevelt ở Liên Xô và Pháp, cảnh báo với Tổng thống rằng "mục tiêu của Stalin là thiết lập một chính quyền hợp tác với kẻ địch tại Đức."[9] Ông viết, sau khi quân Đồng minh chiến thắng, Hoa Kỳ phải chặn đứng "dòng amip Đỏ" và “giữ cho đảng viên đảng Cộng sản Liên Xô không thay thế đảng viên Đức quốc xã thống trị châu Âu."
Trong khi công khai sử dụng ủy ban Đức Tự do và phương tiện khác để thuyết phục người Đức về tính thân thiện của Liên Xô, Stalin bí mật thúc ép đồng minh phải bảo đảm rằng nước Đức thời hậu chiến bị chia cắt. Ngay tháng Chạp 1941, khi gặp bộ trưởng ngoại giao Anh Anthony ở Moscow, ông bí mật đòi hỏi Đông Phổ, vùng đất thuộc sông Rhine, Bavaria và Áo đều được chia thành các quốc gia riêng biệt, và Pháp chiếm hữu toàn bộ
https://thuviensach.vn
lãnh thổ Đức lên đến sông Rhine. Khi Eden báo cáo lại với Churchill, Thủ tướng trả lời rằng việc công khai đưa ra ý tưởng chia cắt nước Đức ngay lúc này sẽ “tập hợp mọi người Đức đồng lòng với Hitler."
Tại Nhà Trắng vào tháng Ba 1943, Eden cảnh báo Roosevelt rằng khi kết thúc chiến tranh, Stalin với lòng nghi ngờ thâm căn cố đế người Đức, sẽ "khăng khăng đòi" chia cắt nước Đức. Nếu Roosevelt và Churchill không “đả thông" với Stalin về nước Đức thời hậu chiến, thì hoặc nước Đức sẽ đi theo Chủ nghĩa Cộng sản hoặc sẽ là một đất nước vô chính phủ hoàn toàn."
Roosevelt vẫn bị thất bại của Woodrow Wilson ám ảnh. Ông cho Eden biết ông hy vọng "chúng ta sẽ không sử dụng các phương pháp đã thảo luận ở Versailles" áp đặt sự phân chia nước Đức. Cách tốt hơn là "khuyến khích những khác biệt và các tham vọng sẽ phát sinh trong phạm vi nước Đức” dành cho những đất nước riêng biệt thời hậu chiến. Ông nhắc nhớ là trước thời Bismarck đã có nhiều quốc gia và nhiều dân tộc Đức. Ngay cho dù không có hành động tự phát như thế, thì Phổ, với truyền thống quân phiệt của nó, chắc chắn phải bị loại trừ: "Người Phổ không được phép thống trị toàn nước Đức."
Eden nản lòng trong việc làm cho Nhà Trắng phải kinh hoảng với những gì ông bí mật gọi là “sự sẵn lòng tắc trách” của Roosevelt. Ông mỉa mai tự hỏi liệu Tổng thống có học lịch sử và địa lý châu Âu qua việc đam mê sưu tầm tem không. Ông cảm thấy Roosevelt “dường như tự thấy mình có trách nhiệm sắp đặt vận mệnh cho nhiều vùng đất” giống như “pháp sư khéo léo tung hứng những trái cầu dinamit, mà ông không thể hiểu được bản chất của chúng."
Eden không hiểu rõ thái độ của Roosevelt là phải suy nghĩ kỹ. Ông nhanh chóng nhận ra rằng lời khuyên của ông về tính cứng rắn với nước Đức đã tạo ra nhiều ấn tượng lên Tổng thống hơn ông tưởng.
https://thuviensach.vn
III
“NĂM MƯƠI NGÀN NGƯỜI ĐỨC PHẢI BỊ BẮN"
Mùa thu năm 1943, Stalin càng mất kiên nhẫn trước chuyện Anh - Mỹ không mở mặt trận thứ hai như họ đã cam kết. Tháng Chín năm đó, ông bị xúc phạm một lần nữa khi Churchill và Roosevelt làm tê liệt Liên Xô bằng sự đầu hàng vô điều kiện của chính quyền Ý mới của Tướng Pietro Badoglio, người lật đổ Mussolini.
Roosevelt yêu cầu Ngoại trưởng Cordell Hull bay tới Moscow gặp Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Molotov, cùng với Anthony Den. Hull kiệt sức, ông bị tiểu đường và bệnh lao nhưng ông giấu. Ông sợ bị gạt ra và vì trước giờ chưa hề đi máy bay, ông xúc động khi được mời tham gia chuyến đi này đến nỗi không cần hỏi ý kiến bác sĩ hoặc vợ, ông trả lời đồng ý ngay với Tổng thống.
Trong nhiều năm, một cựu nghị sĩ già từ bang Tennessee thực thi chức vụ Ngoại trưởng của Roosevelt như bà vú già u sầu. Với vẻ duyên dáng và lòng trung thành, Hull cố gắng làm cho Tổng thống thích chuyện phiếm về những ý tưởng trái với thông lệ, và là người làm cho đời sống Hull đáng thương hơn để mưu mẹo làm lung lạc ông bằng những phô trương không dứt các công vụ riêng. Ông phàn nàn, "Tôi chỉ không biết điều gì đang xảy ra còn Tổng thống sẽ không để tôi giúp ông ta.”
Tổng thống kín đáo đùa bỡn về tật nói ngọng của Hull và thích nhại lại ông, "Lạy Chúa ‘Giê su!’” Trong một thập niên, ông thực hiện nhiều công việc quan trọng qua thứ trưởng ngoại giao Sunner Welles, một người bạn cũ
https://thuviensach.vn
của gia đình Roosevelt mà Hull căm ghét lên án là “kẻ đáng ghét tiêu biểu của nước Mỹ.”
Roosevelt yêu cầu Welles tham dự hội nghị Moscow thay Hull. Nhưng mùa thu năm 1943, Tổng thống kết luận là các tin đồn phổ biến về những quan hệ đồng tính lén lút của Welles được Hull hăm hở loan truyền vời sự phẫn nộ màu mè - làm cho ông thành người không đảm bảo về mặt an ninh, thúc ép Roosevelt phải buộc lòng trục xuất người bạn cũ khỏi đời sống hoạt động xã hội.
Roosevelt để Hull ở lại Washington khi ông đến Casablanca gặp Churchill. Lúc Hull biết được Roosevelt đòi hỏi đầu hàng vô điều kiện, ông hết sức lúng túng. Ông sợ đòi hỏi như thế sẽ kéo dài chiến tranh chống Đức và khiến cho Đồng minh “tiếp quản từng thời kỳ" của đời sống Đức sau chiến thắng ở châu Âu. Như Hull sau này nhớ lại, ông yêu cầu Tổng thống cho ông biết "phần chính trị" trong quan hệ thư từ bí rnật giữa Tổng thống với Churchill. Roosevelt nói "ông sẽ cho tôi biết, nhưng ba giờ sau, tôi nhận được một thông điệp báo Tổng thống quyết định không cho tôi biết."
Sau trận Trân Châu Cảng, Roosevelt giao việc lập kế hoạch thời hậu chiến ở Đức và phần còn lại của thế giới cho Bộ Ngoại giao Mỹ. Theo quan điểm của Tổng thống, thì một ai đó phải làm điều ấy trong khi ông chú tâm vào các vấn đề cấp bách hơn của việc thắng trận. Mặc dù tận tình gặp gỡ các ủy ban kế hoạch thời hậu chiến, song ông tin rằng vào thời điểm kết thúc Thế chiến II, bất kỳ kế hoạch nào cũng phải dược duyệt lại một trăm lần và ông luôn giữ quyền quyết định tối cao trong tay mình.
Trong khi Roosevelt tiếp tục điều hành cuộc chiến, không nhà kế hoạch của Hull hình dung ra một nền kinh tế Đức thời hậu chiến vững chắc, tự trang trải, giúp khôi phục lại sự lành mạnh xã hội và có khả năng tái thiết châu Âu. Mậu dịch tự do sẽ làm vững chắc thêm nền dân chủ và tính ổn định của nước Đức.
Tháng Chín 1943, Roosevelt gửi cho Hull một bản sao lá thư được in trong tạp chí New York Times do bạn ông là Gerard Swope, chủ tịch General Electric viết. Swope đề nghị là sau cuộc chiến, quân Đồng minh
https://thuviensach.vn
đập tan nước Đức, thắt chặt thêm các quyền lực nghiêm ngặt lên nền công nghiệp nặng của Đức và “giải giáp quân đội.”
Roosevelt thích lá thư đó. Hull thất kinh. Tại Nhà Trắng, thứ tư ngày 5 tháng Mười, ông nói với Tổng thống rằng nước Đức thời hậu chiến vẫn thống nhất, mặc dầu bị tách thành Đông Phổ, với những thay đổi biên giới không quan trọng khác: Sự chia cắt có sẵn sẽ ít tai họa cho cả Đức lẫn chúng ta."
Roosevelt không tán thành. Ông nhắc Hull nhớ rằng ông đã từng du lịch và học tập ở Đức. Ông có thể nói tiếng Đức và ông hiểu đất nước này nhiều hơn Hull. Ông nói có thể các ký ức của ông "quá cũ" không "có giá trị,” nhưng theo ông, cách duy nhất để ngăn chặn một cuộc chiến khác là chia cắt nước Đức.
Ông bảo Hull, giai đoạn ngay sau chiến tranh sẽ là "phương pháp thử và sai." Nhưng trước hết họ sẽ cắt nước Đức thành ba hoặc nhiều bang hơn, chỉ bị ràng buộc bởi hệ thống dịch vụ "công cộng, và tước đoạt mọi hoạt động quân sự" và "công nghệ vũ khí" của các nước mới đó. Đông Phổ bị tách khỏi nước Đức, “và mọi yếu tố nguy hiểm về dân số bị loại bỏ bằng vũ lực.” Và người Đức thời hậu chiến sẽ phải bồi thường thiệt hại chiến tranh cho các quốc gia là nạn nhân của Hitler - giống như sau Thế chiến I, “không có tiền nhưng có thiết bị và nhân lực.”
Như thường lệ, Roosevelt rút ra từ các kinh nghiệm ký ức nửa vời ở nước Đức, với suy nghĩ có chút thận trọng hoặc dọc được về đất nước này hay tương lai của nó. Thí dụ, ông cho thấy có ít hiểu biết về sự khác biệt giữa các chế độ chuyên quyền của Kaiser cuối cùng và Hitler - hoặc về nước Phổ, mà ông quan niệm sai là hạt nhân quân phiệt của tội ác quốc xã. Không phải nước Phổ mà Bavaria mới là nơi phát triển Chủ nghĩa Phát xít Đức. Tính chất rực rỡ tầm thường của chữ vạn Hitler đã lăng mạ các bản năng tự kiềm chế và lòng kính trọng truyền thống của dân Phổ xưa.
Hull không biết điều đó, vì Roosevelt không cho ông đọc các bức điện và tài liệu mật thích đáng, nhưng ưu thế đầu tiên của Roosevelt lúc này là xoa dịu Stalin, người mà ông đoán chừng đang quan tâm đến việc Đức phải bồi thường thiệt hại chiến tranh và bị chia cắt. Ông muốn Hull cho Stalin
https://thuviensach.vn
biết rằng ngay cho dù việc mở ra mặt trận thứ hai có thể phải chờ thêm nữa, thì về nước Đức hậu chiến, đồng minh Mỹ của ông ta vẫn đồng tình. Sau khi trào ra một số lượng máu đáng kể trong suốt chuyến bay, Hull đến Moscow vào thứ ba ngày 18 tháng Mười 1943. Theo đề nghị của Roosevelt, ông nói với Bộ trưởng ngoại giao Molotov của Stalin rằng sau chiến tranh, nước Phổ, “nguồn gốc mọi tội ác”, phải bị tách ra khỏi nước Đức. Ông nói, nhiều chuyên gia của ông "cực kỳ đa nghi" về sự chia cắt thêm nữa nhưng ý tưởng có được sự ủng hộ “nơi các vị trí cao" ở Washington, và Mỹ có "đầu óc thoáng." Chắc chắn sức mạnh của Đức sẽ bị phân tán."
Molotov trả lời, Liên Xô sẽ tán thành bất kỳ biện pháp nào “làm cho nước Đức thành vô hại trong tương lai."
Hull đưa ra các đề nghị xuất phát từ điều mà ông và Roosevelt nghĩ là Stalin đòi hỏi một nền hòa bình cứng rắn với nước Đức thời hậu chiến. Nghe có vẻ cứng rắn hơn những nhà kế hoạch của riêng ông, ông đề xuất quân Đồng minh giải tán quân đội Đức và buộc Đức chấm dứt sản xuất vũ khí, bao gồm cả các nguyên liệu "cần thiết” để chế tạo ra chúng.[10] Nước Đức hậu chiến phải bồi thường thiệt hại chiến tranh bằng hàng hóa và dịch vụ cho những “tổn thất vật chất" đã gây ra cho Liên bang Liên Xô và các quốc gia khác. Đây không phải là miếng mồi nhỏ nhử dân Liên Xô đang ham muốn tái thiết.
Hull đề nghị là sau khi Đức thua trận, Đức sẽ cùng bị ba quân đội Đồng minh chiếm đóng và được Hội đồng Quân quản Đồng minh cai trị. Theo bản tuyên ngôn nhân quyền, hội đồng sẽ giúp thành lập một chính quyền dân chủ Đức, cung cấp cho người Đức "mức sống có thể chấp nhận được."
Molotov bảo rằng các ý tưởng của Hull nghe có vẻ hứa hẹn chừng nào chúng còn là lời đề nghị tối thiểu và không phải là lời đề nghị tối đa." Molotov cứng rắn đối với Đức hơn Hull, nhưng Ngoại trưởng Hull cảm thấy là việc Liên Xô công kích người Đức có thể giữ Stalin khỏi cố gắng tạo ra một nền hòa bình riêng biệt với Berlin, có thể dẫn đến một nước Đức Cộng sản thời hậu chiến.
https://thuviensach.vn
Khi cuộc thảo luận hướng đến tội phạm chiến tranh Đức, Hull sôi nổi bộc bạch: "Nếu tôi có quyền, tôi sẽ bắt Hitler, Mussolini, Tojo, phe trục và đưa chúng ra xét xử trước tòa án binh dã chiến.[11] Và rạng sáng ngày hôm sau sẽ xảy ra một biến cố lịch sử!" Molotov và các sĩ quan phụ tá của ông vỗ tay reo hò.
Kết thúc hội nghị, Hull, Den và Molotov đưa ra thứ được sớm biết đến là “Tuyên ngôn Moscow" về các tội ác chiến tranh. Sử dụng ngôn ngữ được Churchill soạn thảo từ trước, họ quy định những người Đức bị kết tội là có hành động tàn ác "sẽ bị gửi trở lại những đất nước mà họ đã thực hiện các hành vi tàn ác ấy.” Ba kẻ chiến thắng cùng xét xử các tội phạm chiến tranh chính nào có những vi phạm không giới hạn trong một quốc gia.
Mục đích duy nhất của Tuyên ngôn Moscow là ngăn chặn không cho người Đức phạm các hành động tàn ác mới khi quân đội Hitler rút đi. Điều này cho thấy quân Đồng minh sẽ truy nã chúng “đến chân trời góc bể."
Khi Hull quay về Washington, Eleanor Roosevelt nhận thấy ông “nhiệt tình với mọi người Nga," những người ông nhận thấy “giống như họ hàng nhà quê của bạn lên thành phố.” Hull “tin chắc rằng họ sẽ không tạo ra một nền hòa bình riêng biệt" với nước Đức.
Hội nghị Moscow được hoạch định như sự kiện mở đầu cho hội nghị thứ nhất giữa Roosevelt, Stalin và Churchill ở Tehran do Liên Xô chiếm đóng. Khi Hull về đến Washington, ông nhận thấy Tổng thống "trông mong một cuộc gặp gỡ Stalin với lòng hăm hở của một cậu bé."
Stalin đòi hỏi hội nghị phải được tổ chức ở nơi thuận tiện cho bản thân ông. Bằng sự nhắc nhớ không quá rào đón rằng Liên Xô đang gánh phần chiến tranh của con sư tử chống lại Đức ông nói với Roosevelt là ông không thể bỏ vị trí quân sự của mình và dọa sẽ hoãn lại hội nghị đã hứa cho đến khi Roosevelt và Churchill mở được mặt trận thứ hai. Tổng thống đồng ý với đề nghị của Stalin tổ chức hội nghị ở Tehran, và thêm vào trong bức điện rằng ông hy vọng buổi họp kín sẽ làm lung lay hơn nữa nhuệ khí của Đức quốc xã."
https://thuviensach.vn
Sáng thứ bảy 13 tháng Mười Một 1943, Roosevelt ở trên boong tàu U.S.S Iowa trong Vịnh Chesapeak. Mặc dù Hull không gây ngăn trở gì cho ông ở Moscow, song Tổng thống vẫn để ông ở nhà.
Tổng thống viết trong nhật ký, “Đó là một ngày đẹp trời nhưng lạnh. Tôi đang đầm mình trong sự an lạc và cảm giác thoải mái - và tôi lạc quan về các kết quả." Ám chỉ đến tính bí mật của chuyến đi, ông bổ sung, "Tôi bị ám ảnh với câu hỏi khi nào thì con mèo sẽ rời khỏi túi xách!" Trong chuyến đi trên Thái Bình dương, ông viết, tôi thích thú trong chiếc quần bạc màu và chiếc áo đi câu.”
Bàn bạc trên boong tàu với các Tham mưu trưởng, Roosevelt vẽ ba đường cắt ngang bản đồ Địa lý Quốc gia Đức. Ông nói, Thực ra sẽ có ba nước Đức sau chiến tranh." Các đất nước này lấy theo ba khu vực bị Mỹ, Anh và Liên Xô chiếm đóng. Điều này ắt sẽ được Stalin "tán thành." Ông nói, một nước Đức phía nam theo Công giáo. Nước Đức phía tây bắc theo Tin lành. Ông đùa rằng tôn giáo của nước Đức phía bắc sẽ là "Chủ nghĩa Phổ."
Roosevelt tiên đoán Churchill sẽ cố gắng đánh tráo lấy nước Đức phía nam có đất liền bao quanh, giáp với nước Pháp, trên nước Mỹ. Ông sẽ từ chối. Ông không muốn vướng vào các vấn đề với nước Pháp sau chiến tranh: “Pháp là một em bé Anh." Thay vào đó, Roosevelt muốn lấy nước Đức phía tây bắc, bao gồm các thành phố cảng như Bremen và Hamburg. Ông cũng bảo các tướng lĩnh, "Mỹ phải có Berlin.”
Tổng thống dự kiến là khi kết thúc chiến tranh châu Âu, “dứt khoát sẽ có cuộc chạy đua vào Berlin." Mỹ phải sẵn sàng đưa “các sư đoàn vào Berlin càng nhanh càng tốt" để không một người Nga nào có thể chiếm được Berlin trước khi Anh - Mỹ đến được đó. Sĩ quan phụ tá Harry Hopkins của Roosevelt lặp lại một cách máy móc rằng Mỹ "phải sẵn sàng đưa một sư đoàn không vận vào Berlin trong vòng hai giờ sau khi Đức sụp đổ."
Roosevelt bảo các tướng lĩnh rằng sau chiến thắng ở châu Âu, ông muốn đưa ra một lực lương chiếm đóng khoảng một triệu binh lính Mỹ. Tham mưu trưởng Quân đội, Tướng George Marshall, hỏi ông lính Mỹ sẽ ở lại châu Âu trong bao lâu.
https://thuviensach.vn
Roosevelt trả lời, “Ít nhất là một năm nhưng cũng có thể là hai năm." Sau khi dừng lại ở Cairo để gặp Churchill và nhà lãnh dạo Trung Hoa là Tưởng Giới Thạch, Tổng thống đến Tehran ngày thứ bảy 27 tháng Mười Một 1943. Mặc dù cuộc gặp gỡ được giữ bí mật, song cũng có các khả năng gây nguy hiểm cho tính mạng của Bộ Ba. Tướng công an Heinrich Himmler của Hitler, đi đến chỗ cực đoan là hỏi các pháp sư và là nhà thần bí Đức xem các nhà lãnh đạo quân Đồng minh sẽ họp khi nào và ở đâu. Cơ quan Tình báo Liên Xô cảnh báo Cục Tình báo của Roosevelt rằng các gián điệp Đức quốc xã đã nhảy dù xuống Tehran.
Để tránh nguy hiểm, Tổng thống di chuyển từ sân bay vào thành phố bằng xe quân sự bình thường. Trong chiếc Limousin của Tổng thống là một Roosevelt giả, khoác áo choàng sang trọng, đầu đội mũ phớt hiệu, tay cầm đót thuốc lá, nhe răng cười với binh lính Iran xếp hàng dọc theo hai bên lộ. Tổng thống đồng ý ở tại ngôi biệt thự xây bằng gạch vàng trong khuôn viên tòa đại sứ Liên Xô để tránh các chuyến di chuyển nguy hiểm trong thành phố.
Tại tòa đại sứ Liên Xô trưa chủ nhật 28 tháng Mười Một, rõ ràng Stalin khó chịu về chuyến gặp gỡ đầu tiên với Roosevelt. Để làm cho Stalin dễ chịu, Tổng thống mời ông một điếu thuốc. Stalin nói, “Bác sĩ không cho tôi hút thuốc.” Roosevelt trả lời, “Không cần phải vâng lời bác sĩ.”
Sau này, tại phiên họp đầu tiên của Bộ Ba, Churchill tuyên bố là căn phòng chứa đựng sự “tập trung quyền lực lớn nhất” mà thế giới "từng thấy." Roosevelt đùa bỡn, vì ông là "người trẻ nhất trong ba người hiện diện" nên ông muốn chúc mừng "các bậc tiền bối." Ông tiên đoán là ba quốc gia vĩ đại của chúng ta” sẽ "hợp tác chặt chẽ để khởi tố chiến tranh" và “vì các thế hệ tương lai.”
Để bắt đầu các cuộc thảo luận trên cơ sở quan hệ đúng mực, Roosevelt mở đầu đàm phán về cuộc đổ bộ Anh - Mỹ vào châu Âu tháng Năm 1944. Ông hy vọng cuộc đổ bộ sẽ chuyển hướng ít nhất ba mươi hay bốn mươi sư đoàn Đức ra khỏi mặt trận Liên Xô. Stalin tiên đoán người Đức sẽ "chiến đấu như quỷ sứ” để ngăn chặn cuộc đổ bộ vào Pháp.
https://thuviensach.vn
Tối đó, sau bữa ăn tối theo kiểu Mỹ với thịt bò và khoai tây chiên, Stalin nói với Roosevelt và Churchill rằng họ “quá lỏng lẻo" về nước Đức hậu chiến. Làm thế nào họ có thể cải tạo được một dân tộc vâng lời một cách mù quáng? Ông nhớ lại trong chuyến tham quan Leipzig năm 1907, ông nhìn thấy hai trăm người Đức bỏ lỡ một cuộc biểu tình lớn quan trọng vì không có ai trên sân ga xe lửa bấm vé cho họ.
Điều khiến Tổng thống ngạc nhiên là Stalin quấy rầy ông về sự đầu hàng vô điều kiện. Nó đang hàn gắn người Đức lại với nhau và đòi trả giá bằng mạng sống quân Đồng minh. Việc đưa ra các điều khoản đặc biệt về đầu hàng, “bất kể khắc nghiệt thế nào," sẽ thúc đẩy nhanh đến ngày người Đức đầu hàng.
Không hề muốn tranh cãi, Roosevelt thay đổi đế tài. Ám chỉ đến từ ngữ tiếng Đức chỉ đế chế, ông nói điều rất quan trọng là phải loại bỏ khỏi đầu óc người Đức khái niệm “Đế chế Đức”… Cần phải loại bỏ từ ngữ này ra khỏi ngôn từ.”
Stalin nói loại bỏ từ ngữ thì chưa đủ. Bản thân từ Đế chế Đức phải bị vô hiệu hóa, để không bao giờ nhấn chìm thế giới vào chiến tranh thêm một lần nào nữa." Sau chiến thắng ở châu Âu, quân Đồng minh phải nắm giữ các "vị trí chiến lược cần thiết để ngăn chặn không để chủ nghĩa quân phiệt Đức tái phục hồi."
Stalin nhất mạnh rằng lãnh thổ Đức phía đông Sông Oder được nhượng cho Ba Lan. Roosevelt và Churchill không phản đối. Trong cùng tinh thần ấy, Tổng thống nói ông muốn chắc chắn là cửa vào Biển Baltic luôn được mở. Có thể hải phận quốc tế sẽ được hình thành quanh Kênh đào Kiel, nối liền Baltic với Biển Bắc.[12]
Stalin đỏ mặt. Khi câu nói của Roosevelt được thông dịch, ông cho rằng Tổng thống đang chất vấn việc Liên Xô chiếm giữ Latvia, Lithuania, và Estonia năm 1940.
Trong khi chờ sửa chữa sự lầm lẫn về thông dịch, Roosevelt thình lình cảm thấy không được khỏe. Sắc mặt của ông tái xanh và mồ hôi chảy xuống
https://thuviensach.vn
cằm, ông đưa bàn tay run rẩy đỡ lấy trán và lảo đảo rời khỏi phòng. Nhân viên tình báo Mike Reilly của Tổng thống nói, “Tổng thống ốm rồi!” Roosevelt bệnh vì chuyến đi gian khổ, nhưng một số người Mỹ ở trong phòng lại kinh hãi vì cho rằng Tổng thống bị đánh thuốc độc. Sau khi Roosevelt ra khỏi phòng, Stalin ngồi vào tràng kỷ cùng với Churchill và báo cho ông biết nước Đức có mọi khả năng khôi phục sau cuộc chiến." Dân tộc Đức là "dân tộc có tài và dễ dàng đe dọa thế giới một lần nữa trong vòng mười năm hay hai mươi năm sau."
Churchill nhất trí. Nếu điều đó xảy ra, chúng ta sẽ phản bội binh lính của chúng ta." Tại sao không tước đoạt nước Đức hậu chiến mọi kỹ nghệ hàng không và mọi công nghiệp liên quan đến vũ khí?
Stalin nói, "Chưa đủ. Các nhà máy sản xuất đồ dùng có thể được biến thành nhưng nhà máy sản xuất máy bay. Các nhà máy sản xuất đồng hồ có thể chế tạo mồi nổ cho đạn dược." Churchill ắt nhớ lại việc người Đức đã dùng "súng đồ chơi” để dạy hàng ngàn người cách bắn súng trong thập niên 1930. Stalin nói ông đã ra lệnh cho các tù nhân Đức triệu tập trước ông để giải thích vì sao họ điên cuồng xâm nhập vào nhà người Nga và hãm hiếp phụ nữ Nga. Họ trả lời rằng Hitler bảo họ làm thế. Stalin nói ông đã treo cổ bọn chúng.
Sau hiệp ước Versailles, Stalin nói, "hòa bình có vẻ như chắc chắn nhưng nước Đức hồi phục rất nhanh." Churchill cho biết vấn đề là năm 1919, các cường quốc đều “có kinh nghiệm” về nước Đức - và Nga không mưu đồ hòa bình. Ông nói, sau Thế chiến II, không có lý do gì để quân đội Nga, hải quân Anh và không lực Hoa Kỳ lại không thể liên kết lại để gìn giữ hòa bình ở châu Âu trong năm mươi năm. Thủ tướng thừa nhận là ông không đồng ý với điểm nhấn của Roosevelt cho rằng không có sự khác biệt nào giữa Hitler và dân tộc Đức. Ông nói, trong thời chiến, bạn không bao giờ được phân biệt giữa các nhà lãnh đạo của kẻ thù với dân tộc của họ. Nhưng quả thực, ông và Stalin phải công nhận rằng chiến tranh này phần lớn là tội lỗi của các nhà lãnh đạo Đức." Quân Đồng minh có thể biến đổi dân tộc Đức thành một thế hệ "hy sinh, cần cù và có giáo dục."
https://thuviensach.vn
Việc lắng nghe Churchill chỉ để Stalin khẳng định quan điểm, với cái nhìn thận trọng vào quyền lực của Liên Xô trong thế giới thời hậu chiến ông cho rằng, cá nhân Churchill có cảm tình với nước Đức. Ông quả quyết với Thủ tướng rằng ông chưa đề nghị được điều gì đủ để giải quyết vấn dề nước Đức.”
Trưa ngày thứ hai, vì sức khỏe của Roosevelt khá hơn nên hội nghị lại tiếp tục. Giống như ở mọi cuộc hội nghị thượng đỉnh trong thời chiến của họ, Bộ Ba thảo luận một loạt vấn đề, trừ một đề tài không thay đổi là nước Đức và tương lai nước Đức hậu chiến.
Stalin phàn nàn về những gì ông nhìn thấy như sự thiếu tự tin kỳ lạ của Churchill về nước Đức. Với chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870 và hai cuộc thế chiến trong lịch sử, thì tại sao người ta không nghĩ là Đức sẽ bắt đầu một thế chiến thứ ba vào năm 1959 hay 1960?
Roosevelt mô tả hy vọng của ông về một chế độ bốn cảnh sát thời hậu chiến - Liên bang Liên Xô, Anh Mỹ và Trung Hoa - và tổ chức Liên Hiệp Quốc sẽ bảo vệ thế giới chống lại Đức và Nhật.[13] Họ có thể "ngay lập tức chuyển động" chống lại bất kỳ chút biểu hiện đầu tiên nào cho thấy Đức hướng công nghiệp theo chiến tranh."
Stalin không đồng ý. "Người Đức đã cho thấy họ có khả năng che giấu các dấu hiệu như thế." Ông nhấn mạnh là cần phải có "một điều gì đó nghiêm nghị hơn."
Tối đó, Nguyên soái tổ chức chiêu đãi bữa tối gồm củ cải và cá Churchill nâng cốc chúc mừng "Stalin Vĩ đại." Nhưng Stalin trả lời, "Ngài là người ủng hộ Đức!” Ông nói thái độ của Churchill như muốn bảo “Ma quỷ là người Cộng sản và Chúa bạn tôi là người Bảo thủ." Stalin bổ sung thêm rằng quan điểm của riêng ông là "Nếu Đức động đậy, nó sẽ sớm bị buộc phải ngừng lại.”
Stalin tiếp tục, "Chí ít cũng năm mươi ngàn người - và có thể là một trăm ngàn người - trong ban tham mưu Đức phải đền tội.” Sau đó ông nâng ly. "Tôi đề xuất chào mừng một tòa án khả thi nhanh nhất cho hết mọi tội phạm chiến tranh của nước đức - tòa án trước tiểu đội hành quyết? Tôi nâng
https://thuviensach.vn
cốc chúc mừng chúng ta đã nhất trí là giết chúng ngay khi chúng ta tóm được chúng. Tất cả bọn chúng? Chí ít cũng phải năm mươi ngàn.” Những gì Churchill nghe được đã làm ông rất lo lắng. Ông biết rằng đòi hỏi của Stalin đã vượt quá Tuyên ngôn Moscow về các Tội ác Chiến tranh ký kết hồi tháng Mười giữa ba cường quốc. Ông trả lời, nhân dân Anh sẽ không bao giờ ủng hộ một cuộc thảm sát hàng loạt như thế... tôi sẽ không tham gia bất kỳ cuộc thảm sát máu lạnh nào." Các tội phạm chiến tranh “phải đền tội," nhưng ông không đồng ý hành hình những người lính chiến đấu bảo vệ tố quốc của họ: tôi thích được dẫn ra vườn hơn, ngay lúc này, và tự sát hơn là bôi nhọ danh dự đất nước tôi bằng hành động ô nhục như thế." Roosevelt nói, “Như thường lệ, dường như chức năng của tôi là hòa giải cuộc tranh luận này.” Bỡn cợt, ông yêu cầu họ thỏa hiệp một con số nhỏ hơn - “thí dụ như bốn mươi chín ngàn năm trăm chẳng hạn." Một trong các khách mời trong bữa tối đó là con trai Elliott của Tổng thống, một phi công trinh sát có căn cứ ở Anh. Anh nâng ly lên và nói, “Binh lính Anh, Mỹ và Nga sẽ giải quyết gần hết con số năm mươi ngàn đó nơi chiến trường, và tôi hy vọng năm mươi ngàn tội phạm chiến tranh đó sẽ được chăm sóc - cũng như hàng trăm hàng ngàn đảng viên Đức quốc xã khác nữa!”
Stalin đứng bật dậy, ôm chầm lấy Elliott và sau đó chạm ly với anh. Bị xúc phạm, Churchiìl nói với con trai Tổng thống: "Tôi rất yêu mến anh, Elliott ạ, nhưng tôi không thể tha thứ cho anh vì đã đưa ra lời phát biểu đê tiện như thế. Sao anh dám làm một việc như thế!" Churchill oai vệ bước ra khỏi bàn ăn, nhưng Stalin đuổi theo ông, nắm vai ông kéo lại và nói ông chỉ đùa thôi mà.
Khi Thủ tướng trở về phòng sau bữa tối, bác sĩ Lord Moran ghi lại là ông bị rơi vào một trong các tình trạng "suy nhược nặng." Với sự hiểu biết theo bản năng về lịch sử và những nỗi thăng trầm của quyền lực quốc gia, Churchill dự đoán một ngày nào đó có thể có một cuộc chiến với người Nga “đẫm máu hơn” cuộc chiến với nước Đức: “Tôi muốn ngủ hàng tỷ năm... Các vấn đề rất lớn đang mở ra trước mắt chúng ta, và chúng ta chỉ là các hạt bụi đã lắng lại trong đêm trên bản đồ thế giới.”
https://thuviensach.vn
Elliott xin lỗi cha vì đã làm cho Churchill bực bội, nhưng Tổng thống chỉ cười: "Hãy quên chuyện đó đi. Vì sao ư, Win - son sẽ quên tất cả khi ông ta thức dậy.”
Tổng thống đã sai lầm. Sau này Elliott buồn bã ghi nhận rằng trước hội nghị Tehran, Churchill đã tính mời anh vào các kỳ nghỉ cuối tuần của ông ở vùng quê Chequers, nơi ông chính thức lui về ở ẩn. Nhưng sau khi nghe Elliott nâng cốc chúc mừng Stalin, Thủ tướng không bao giờ mời anh nữa.
Chiều tối thứ tư, ngày 01 tháng Chạp, Roosevelt nói với Churchill và Stalin rằng vấn đề trước mắt họ là "chia cắt hay không chia cắt nước Đức." Quyết định chứng tỏ rằng ông chia sẻ nhiệt tình của Stalin đối với việc phá hủy hoàn toàn quyền lực Đức thời hậu chiến, ông nâng phần chia cắt nước Đức từ ba lên năm phần. Ông bổ sung thêm cảng Humburg, Kênh đào Kiel và các khu mỏ công nghiệp giàu có Ruhr và Saar phải nằm dưới quyền kiểm soát quốc tế.
Churchill nói, “Nếu tôi có thể sử dụng cách diễn đạt Mỹ, thì Tổng thống đã nói đầy mồm rồi đấy!” Ông xem xét một số chỉnh lý trên bản đồ nước Đức nhưng cam kết chính quyền của Nữ hoàng chỉ chia cắt nước Phổ.
Stalin nói, “Nếu nước Đức bị chia cắt, nó sẽ thực sự bị chia cắt.” Chọn nước Phổ ra là không đủ. Các viên chức Phổ có thể đem lại chất liên kết, nhưng "mọi người Đức đều rất hiếu chiến," như Anh - Mỹ đã phát hiện ra khi họ bắt đầu chiến đấu ở Bắc Âu.
Rất muốn thân thiện với Stalin, Roosevelt nhanh chóng rút lui khỏi các học thuyết suông về nước Phổ. Ông thừa nhận là từ Thế chiến I, thực sự “không có khác biệt nào" giữa người Phổ và người Đức. Nước Đức phía nam chỉ không có truyền thống "đẳng cấp sĩ quan."
Churchill cảnh báo là ngay cho dù Roosevelt thành công trong việc chia cắt nước Đức thành bảy phần, thì "sớm muộn gì họ cũng sẽ hợp nhất lại thành một quốc gia... Vấn đề chính là giữ cho nước Đức bị chia cắt, chí ít trong năm mươi năm."[14]
Stalin chế giễu là cho dù quân Đồng minh có làm gì đi nữa thì người Đức cũng vẫn luôn muốn tái thống nhất. Những kẻ chiến thắng trong Thế
https://thuviensach.vn
chiến II phải duy trì sức mạnh để “đánh bại người Đức" nếu người Đức tìm cách tái thống nhất bằng vũ lực và bắt đầu "đi đến một cuộc chiến mới.” Churchill nói Stalin có vẻ muốn có "một châu Âu chỉ bao gồm ít tiểu bang” bị “chia cắt" và "yếu đi.” Ông không cần bổ sung thêm là một châu Âu như thế sẽ bị một Liên bang Liến Xô hùng mạnh thống trị. Stalin nói, “Không phải châu Âu mà là nước Đức."
Roosevelt đứng về phía Stalin: “Nước Đức ít nguy hiểm đối với nền văn minh khi nó nằm trong 107 tỉnh." Churchill nói với các đồng minh của mình rằng ông hy vọng họ không đi đến cực đoan đó.
https://thuviensach.vn
IV
"ĐẰNG SAU CÁI BÌ THƯ"
Thứ tư ngày 12 tháng Giêng 1944, Fanklin Roosevelt quay về Nhà Trắng, bị căn bệnh mà bác sĩ gọi là cúm, bị nhiễm trong suốt chuyến đi Tehran. Trong phòng ngủ, Tổng thống trỗi dậy trên chiếc giường màu gụ cũ kỹ, dán nhiều dấu hiệu hải quân và tranh ảnh gia đình, Roosevelt giơ tay ra chào đón Tướng Dwight Eisenhower.
Ông vừa bổ nhiệm Ike làm Tư lệnh Tối cao của chiến dịch Overlord, cuộc xâm lăng của Anh - Mỹ vào Bắc Âu. Tại Tehran, khi Stalin hỏi Roosevelt ai sẽ lãnh đạo cuộc xâm lăng lớn, Tổng thống cho biết ông chưa quyết định. Stalin trả lời là người Anh và người Mỹ không cần phải e sợ. Roosevelt nhận được một thông điệp. Dừng lại ở Tunis trên đường về Washington, ông nói với Eisenhower rằng Eisenhower sẽ là chỉ huy.
Eisenhower luôn ngạc nhiên về khả năng tinh thông địa lý của Roosevelt. Sau này ông viết, “Những chốn tối tăm nhất ở các đất nước xa xăm luôn được đặt chính xác trên bản đồ trí não của Tổng thống. Nhưng ông cũng bị bối rối bới việc Roosevelt khăng khăng giữ ý định riêng. Những năm sau ông thường cãi bướng cho rằng Roosevelt "hầu như là một người cực kỳ ích kỷ khi tin vào trì thông minh của mình."
Giữ bí mật về hội nghị Tehran, Roosevelt không hề nói chút gì với Ike về những thảo luận của ông với Stalin và Churchill đối với vấn đề chia cắt nước Đức. Eisenhower lập luận chống lại việc chia cắt một quốc gia chiến bại thành ba khu vực bị chiếm đóng. Ông nói, để duy một chỉ huy và một chính quyền quân sự của Đồng minh điều hành cả nước Đức sẽ đơn giản hơn và có thể bảo đảm hơn điều mà Hồng quân đã hành xử.
https://thuviensach.vn
Roosevelt bảo đảm với ông rằng ông có thể nắm được người Nga. Ngay khi quay về Hoa Thịnh Dồn, ông động viên Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson chấm dứt quan điểm trước kia về lực lượng đồng chiếm đóng Anh - Mỹ - Xô. Thay vào đó, mỗi quốc gia sẽ bổ nhiệm một thủ lĩnh quân đội điều hành phần mình chiếm đóng.
Tại hội nghị Tehran, Bộ Ba yêu cầu Hội đồng Cố vấn châu Âu, gồm ba cường quốc vừa được thiết lập, đề nghị các khu vực dành cho nước Đức. Roosevelt nhận thức rằng Hội đồng Cố vấn châu Âu là một thứ gì đó để trì hoãn và khiến Liên Xô tập thói quen hỏi ý kiến phương Tây về các vấn đề hậu chiến.
Cố vấn Mỹ, đại sứ ở Luân Đôn, John Winant, tự coi mình không phải là người của Hull nhưng là người của Tổng thống.[15] Winant phàn nàn với Roosevelt rằng Hull ra lệnh cho ông, nhưng ngoại trưởng không biết Tổng thống dã nói gì tại Tehran về sự chia cắt lâu dài nước Đức hoặc bất kỳ điều gì khác. Winant biết, vì ông có mặt tại Tehran, nhưng ông không biết mình có nhiệm vụ phải cho Hull biết đến chừng mực nào.
Sau này Winant thẳng thắn bộc lộ với Roosevelt bằng điện tín mà trong toàn bộ lịch sử được ghi lại,” ông không nghĩ là bất kỳ nhiệm vụ nào do các chính quyền đưa ra vì các mục đích quan trọng lại không được các chính quyền tạo ra nó ủng hộ hơn Hội đồng Cố vấn châu Âu." Đây đúng là điều Roosevelt ghi nhớ.
Tại Hội đồng Cố vấn châu Âu, Winant không quy phục Bộ Ngoại giao và những đề nghị khác mà ông biết là được soạn thảo là lờ cuộc đàm phán bí mật cứng rắn của Roosevelt về nước Đức. Các trang giấy như thế dự tính nước Đức quay lại các đường biên giới trước thời Hitler, duy trì guồng máy hành chính tập trung và tái thiết nền công nghiệp - có những hạn chế về tiềm năng gây ra chiến tranh - để đất nước này dễ dàng “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới.
Ở Luân Dồn, trong ngày khai trương Hội đồng, thứ sáu ngày 14 tháng Giêng 1944, thành viên Anh, Ngài William Strang, đề nghị chia cắt nước Đức thành vùng đông bắc cho Liên Xô, vùng tây bắc cho Anh và vùng tây
https://thuviensach.vn
nam cho Mỹ.[16] Một trăm dặm về phía vùng của Liên Xô, Berlin sẽ cùng bị cả ba cường quốc đồng chiếm đóng và, không như các khu vực khác, Berlin sẽ được Hội đồng Kiểm soát Đồng minh cùng cai quản.
Căn cứ vào các sự kiện quân sự lúc bấy giờ, đề nghị cửa Anh là quá nhiều cho phương Tây. Chiến dịch Overlord vẫn chỉ là một lời hứa hẹn. Ai biết liệu cuộc xâm chiếm của Anh - Pháp có thành công không? Hơn nứa, Anh tự cấp cho mình và cho Mỹ gần như hai phần ba nước Đức năm 1937.
Không biết gì về Anh - Mỹ, Stalin thực sự xem xét lời đề nghị rộng rãi hơn đối với phương Tây. Văn khố Liên Xô bật mí trong thập niên 1990 bao gồm một tài liệu phác thảo là khu vực cho Liên Xô mở rộng về hướng tây không xa hơn Sông Elbe.[17]
Các cố vấn của Stalin muốn tán thành kế hoạch của Anh. Theo công khố Liên Xô vừa được công bố, họ bí mật đề nghị là không những Berlin mà cả Humburg và Kênh đào Kiel phải được đồng chiếm đóng, giống như Roosevelt đã đề nghị tại Tehran. Nhưng Stalin từ chối. Ông cũng không phục hồi lại đề nghị của ông tại Tehran là Liên Xô xứng đáng hưởng quyền lợi ở Ruhr được quốc tế hóa. Có lẽ ông hy vọng Anh - Mỹ sẽ đền đáp bằng cách từ bỏ ý định đồng chiếm đóng Berlin. Họ đã không làm thế.
Khi Roosevelt biết tin về các vùng được Anh và Liên Xô tán thành, ông tức tối. Ông nói với Bộ Ngoại giao rằng các vùng phải “y theo những gì tôi đã quyết định những tháng trước." Nhưng Hull và Thứ trưởng Ngoại giao mới Edward Stettinius không biết Tổng thống muốn nói gì. Họ đề xuất với Roosevelt rằng sẽ hữu ích cho họ nếu họ được xem hồ sơ mật về các cuộc đàm phán tại Tehran. Nhưng Tổng thống từ chối.
Dĩ nhiên là các đồng tướng lĩnh đều biết hết về Tehran. Họ đào xới bản đồ Địa lý Quốc gia mà Roosevelt đã vẽ nguệch ngoạc lên trong khi xuôi tàu đến hội nghị Bộ Ba và chuyển nó thành dự thảo chính thức. Khi Winant nhìn thấy tấm bản đồ, ông kinh ngạc. Các vùng được đề nghị sẽ cắt nát địa lý nước Đức và các đường biên giới hành chính hiện hành. Vùng cho Mỹ bao gồm bốn mươi sáu phần trăm lãnh thổ nước Đức. Trong nhiều năm đổ máu và hy sinh, Liên Xô chỉ được hai mươi phần trăm chẳng đáng gì.
https://thuviensach.vn
Khi Winant trình bày dự thảo cho Hội đồng Cố vấn châu Âu ở Luân Đôn, uỷ viên Liên Xô Feodor Gusev điên tiết lên. Ông phàn nàn rằng Mỹ tham lam khủng khiếp, đòi chiếm đất nước chỉ có quân đội trên lục địa châu Âu hiện bị giữ ở Ý.
Trong phòng Bầu dục, thứ hai ngày 03 tháng Tư - 1944, cố vấn của Winant là George Kennan dưa vấn đề ra với Roosevelt. George Kennan là nhà ngoại giao Mỹ sau này nổi tiếng về tư duy chiến lược sau Thế chiến II. Tổng thống bảo Kennan là ông sẽ không chấp nhận kế hoạch của Churchill dồn trách nhiệm vùng phía nam và các vấn đề của nước Pháp thời hậu chiến cho ông.
Kennan giải thích ông sẽ thảo luận đường biên giới khu vực dành cho Liên Xô. Ông trình bày cho Roosevelt kế hoạch rút ra từ các vạch nguệch ngoạc của Tổng thống trên bản đồ Địa lý Quốc gia. Tổng thống cười: “Sao vậy, đó chỉ là điều tôi vẽ ở sau cái bì thư thôi mà.” Ông ra lệnh cho Winant chấp thuận kế hoạch của Anh trừ việc Mỹ gửi hàng cho nước Đức phía nam.
Winant có một lo lắng khác. Hội đồng Cố vấn châu Âu tán thành việc cả ba cường quốc đồng chiếm đóng Berlin, chia Berlin thành ba vùng chiếm đóng, nhưng không ai yêu cầu Liên Xô bảo đảm các quyền được đi ngang qua khu vực của họ đến thành phố. Cảnh giác với việc tin vào thiện chí của Liên Xô, Eisenhower đề nghị vị trí của chính quyền quân sự Đồng minh của nước Đức hậu chiến không phải ở Berlin mà ở "thủ đô đóng quân," được xây dựng ở giao điểm giữa ba vùng chiếm đóng.
Winant được các viên chức cấp cao Bộ Ngoại giao cho biết là Berlin sẽ không có vấn đề gì. Không những có sự hợp tác giữa Liên Xô và phương Tây. mà nếu Liên Xô chấp nhận phương Tây được quyền hiện diện ở Berlin thời hậu chiến, đương nhiên họ cũng phải thừa nhận quyền được đi ra đi vào thành phố. Với điều này, nước Anh đồng ý.
Vấp phải một trong các sai lầm lớn trong chính sách ngoại giao hiện đại, Winant được lệnh không được đưa vấn đề quyền lui tới với người Nga vì nó sẽ làm cho họ rất nghi ngờ. Roosevelt hay Churchill cũng không xem vấn đề kết giao với Stalin là vấn đề nghiêm trọng.
https://thuviensach.vn
Sau hội nghị Tehran, Stalin ép Roosevelt bớt đòi hỏi bắt nước Đức đầu hàng vô điều kiện. Khi Molotov nói với đại sứ Mỹ Averell Harriman ở Moscow rằng Stalin cảm thấy nếu người Đức không biết chính xác điều gì sẽ xảy ra sau khi bại trận, Hitler và Goebbels sẽ lợi dụng "nỗi sợ hãi điều không biết" của họ và củng cố ý chí chiến đấu của người Đức."
Khi đặt ra kế hoạch xâm lăng nước Pháp, Eisenhower cũng cảm thấy rõ theo cách ấy. Các chuyên gia tâm lý bảo ông rằng nếu “một cách thức riêng” được tạo ra trong Ban Tham mưu Đức “có khi là một Badoglio của Đức.”[18] Eisenhower yêu cầu cả Roosevelt lẫn Churchill đưa ra một hy vọng nào đó để người Đức giảm sức chống cự khi lực lượng Anh - Mỹ đổ bộ vào bờ biển. Thủ tướng viết thư cho Roosevelt hỏi xem liệu Tổng thống có muốn cùng ông thăm dò vấn đề với "Cậu Joe” Stalin không.[19]
Roosevelt trả lời rằng họ không biết đủ là liệu đầu hàng vô điều kiện có thực sự làm cho người Đức củng cố thêm sức phản kháng để tiếp tục bất kỳ “cuộc đánh cá" nào như thế không. Ông nhắc Churchill nhớ lại rằng ông đã bảo đảm với đồng bào Mỹ vào ngày lễ Giáng sinh qua đài phát thanh là quân Đồng minh không có ý định nô lệ hóa dân tộc Đức," mà chỉ “dứt khoát giải thoát họ khỏi chủ nghĩa phát xít Đức, chủ nghĩa quân phiệt Phổ và ý niệm quái dị, tai hại cho rằng họ tạo nên “Chủng tộc Thượng đẳng.” (Master Race)
Churchill bảo Eden rằng ông không thể không đồng ý: “Tôi phải nói tôi nghĩ các tướng lĩnh đều sai lầm khi bắt đầu run sợ trước trận chiến." Thủ tướng nói với Eisenhower rằng, tại hội nghị Tehran, ông và Roosevelt đồng ý để cho Nga chiếm số lượng lớn máy móc của Đức sau chiến tranh - và Stalin muốn sử dụng hàng triệu người Đức giúp tái thiết nước Nga. Do đó, lời phát biểu thẳng thắn về những gì sẽ xảy ra cho nước Đức sẽ không nhất thiết có tác dụng làm yên lòng dân tộc Đức." Họ “có thể thích những nỗi sợ rnơ hồ về sự đầu hàng vô diều kiện hơn.” Roosevelt phàn nàn với Hull về việc Churchill và Stalin nỗ lực cắt xén chính sách của ông. Ông nói vào tháng Tư 1865, trước khi Tướng Ulysses S. Grant đầu hàng, Tướng Robert E. Lee nêu lên các điều kiện và Grant bảo
https://thuviensach.vn
ông là ông phải tin vào tính thẳng thắn bẩm sinh của Grant. Khi Lee đề cập đến bầy ngựa của các sĩ quan Liên minh, Grant trả lời họ đã đem chúng về nhà để cầy ruộng vụ mùa xuân”[20]. Roosevelt nói, "Một vài tình tiết như điều này sẽ có tác động lên người Đức hơn "nhiều cuộc đàm luận."
Tháng Ba 1944, Đô đốc William Leahy, người chỉ huy các Tham mưu trưởng báo cáo với Roosevelt rằng “những kẻ cướp” Đức quốc xã ở Berlin đang nói với người Đức rằng kẻ thù của họ có ý định “tiêu diệt” họ. Lẽ nào quân Đồng minh không thể đưa ra một bằng chứng rằng chỉ "sự xâm lược quân sự” của Đức mới phải bị tiêu diệt?
Roosevelt trả lời là ông "không muốn" nói "chúng tôi không có ý định hủy diệt nước Đức” chừng nào người Đức còn tiếp tục sử dụng thuật ngữ Đế chế Đức. "Thời gian học tập khá lâu và kinh nghiệm cá nhân đi đi lại lại nước Đức" đã làm cho ông tin rằng "sắc lệnh, luật pháp hay quân luật không thể làm thay đổi triết lý của Đức." Nó sẽ phải "tiến hóa" và có thể mất đến “hai thế hệ."
Ngoài ra, Tổng thống không muốn đóng sầm cánh cửa trước mặt Churchill hoặc các tướng lĩnh của ông. Với cuộc đổ bộ vượt biển Măng sơ (Man che) hiện được lên kế hoạch hồi tháng Sáu, ông hỏi Churchill, "Ông nghĩ gì về lời một mình tôi phát biểu theo các dòng chứ này, được phát hành sau Ngày - D?" (ngày đổ bộ của quân Anh - Mỹ lên miền bắc nước Pháp 6/6/1944 trong Thế chiến II). Ông có thể tuyên bố rằng Anh - Mỹ đã tìm được cách “phá hủy toàn bộ" không những dân tộc Đức mà cả “triết lý của người Đức từng tuyên bố là họ có thể khuất phục cả thế giới."
Churchill trả lời, “Nếu giữa chúng ta chỉ có một điều duy nhất là người Đức có một triết lý tội ác, thì có ít lý do để chiến tranh tiếp tục." Sau đó, ngày 06 tháng Sáu 1944, quân đội Anh Mỹ hùng dũng đổ bộ vào Pháo đài châu Âu của Hitler.
Từ Bern, Allen Dulles thuộc OSS nhấn mạnh rằng chính sách đầu hàng vô điều kiện của Roosevelt là một "quà tặng lý tưởng" cho các đảng viên Đức quốc xã kéo dài chiến tranh và trả giá bằng tính mạng của quân Đồng minh. Trong hơn một năm, Dulles lo lắng về các dấu hiệu cho thấy Liên Xô
https://thuviensach.vn
có thể tìm cách hòa giải với Berlin. Ông xem Uỷ ban nước Đức Tự do (Free Germany Committee), giấc mộng chính quyền Đức lưu vong (Dream German government - in - exile) của Stalin, là mối đe dọa đối với “sự bảo vệ chế độ dân chủ phương Tây ở Trung Âu.” Ông khuyến cáo Washington là nếu Churchill và Roosevelt quá cứng rắn với vấn đề đầu hàng vô điều kiện, “Moscow là nguồn hy vọng duy nhất cho người Đức."
Dulles phát triển các nguồn có kết quả giữa những người Đức âm mưu chống Hitler. Khi một số người đưa ra khả năng có thể diễn ra một nền hòa bình riêng khác với Anh - Mỹ, Dulles mong mỏi được tự do thăm dò nó. Ông bắt bẻ Washington, "Tôi không hiểu chính sách của chúng ta là gì và đề nghị điều gì mà chúng ta có thể cung cấp cho phong trào kháng chiến." Tháng Tư 1944, một nhóm người âm mưu yêu cầu Dulles bảo đảm rằng nếu họ lật đổ được Hitler và chế độ của Hitler, Anh và Mỹ sẽ đàm phán một nền hòa bình với chính quyền mới thời hậu - quốc xã, rồi sau đó quân đội Đức sẽ tăng tốc chống lại Liên Xô. Dulles báo cáo với Washington rằng những kẻ âm mưu hăm hở ngăn chặn không cho Trung Âu nằm dưới tầm kiểm soát của Nga về mặt ý thức hệ và về mặt thực tế.” Ông bông đùa nhận xét rằng những kẻ âm mưu có vẻ bị kẹt trong “tình trạng khó xử cổ xưa là đầu hàng phương Đông hay đầu hàng phương Tây: người Đức có thể chưa bao giờ nhận thức được cách chọn lựa thứ ba là đầu hàng cả hai cùng một lúc."
Chiều ngày 20 tháng Bảy 1944, tại tòa đại sứ Mỹ ở Bern, Dulles được tin Stauffenberg đã rục rịch. Sau này ông thông tin cho Roosevelt và Chỉ huy OSS William Donovan rằng theo một trong hai đầu mối liên lạc chính với những kẻ âm mưu, Hanh Gisevius,[21] mà sau đó trốn khỏi Berlin và bay đến Thuỵ Sĩ, Stauffenberg có thể đã cố gắng môi giới một nền hòa bình Đức - Xô riêng biệt và một chính quyền "công nhân và nông dân" ở Berlin. Gisevius xác nhận rằng các “Tướng trên tuyến cũ" trong phạm vi âm mưu ủng hộ nền hòa bình riêng khác với Anh - Mỹ nhưng không phản đối Stauffenberg "vì ông là người duy nhất muốn liều mạng" và là người duy nhất ở vào vị trí đặt được bom."
https://thuviensach.vn
Sau vụ ám sát hụt, và sau khi Hitler thanh trừng đẫm máu những kẻ thù nội bộ tiềm năng, chiến tranh tiếp tục cho đến khi quân Đồng minh đổ bộ vào Berlin. Dulles tìm được một cách mới nhất để cắt xén chuyện đầu hàng vô điều kiện. Ông khuyến cáo Roosevelt và Donovan rằng khi binh lính Anh - Mỹ đặt chân lên đất Đức, sẽ có “sự phản kháng kiên cường” nếu họ không có “đúng loại người Đức” làm cộng tác viên. Ông nhấn mạnh rằng Anh và Mỹ cố gắng làm cho các sĩ quan quân đội Đức ở địa phương dọn đường cho quân Anh - Mỹ chiếm đóng thành phố và làng mạc. Nếu các sĩ quan Đức giao bóng, “chứng tỏ rằng họ không bị đóng dấu là tội phạm chiến tranh,” họ sẽ được "đối xử trân trọng.”
Dulles nhấn mạnh rằng kế hoạch này có thể “chia rẽ quân đội Đức trước khi các hiệu quả thành công của Liên Xô ở phương Đông tạo ra sự hỗn loạn ở Đức." Ông cảnh báo nếu không có điều đó, nhiều người Đức sẽ chấp nhận một “nước Đức được Bolshevik hóa” để rút ngắn chiến tranh.
Roosevelt lo lắng về chuyện quân Anh - Mỹ khi đổ bộ lên Pháo đài châu Âu sẽ gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Đức. Ông yêu cầu nhà viết diễn văn Robert Sherwood lần đầu tiên thử lời phát biểu có thể phát đi cho binh lính Đức một khi quân Đồng minh đến Pháp. Sherwood, người từng viết các vở kịch nổi tiếng Idiot’s Delight và Abe Lincoln in Illinois, đã viết bản thảo, “Các nhà lãnh đạo Đức quốc xã, những người đã dẫn các bạn vào chiến tranh từ một động cơ không tốt hơn sự thèm khát quyền lực và xâm lược, đã thất bại." "Hy vọng còn lại duy nhất" của các nhà lãnh đạo này lúc là “nếu bạn có thể được tạo ra để kháng cự đủ lâu dài”, bạn có thể có được một nền hòa bình thỏa hiệp.
Lời tuyên bố nói, "Vô nghĩa biết bao! Đoàn quân chiến thắng không bao giờ thỏa hiệp.” Thay vào đó, nước Đức phải “đền tội" vì "đã cố tình tiêu diệt tính mạng và tài sản" của mình, với chủ nghĩa quốc xã “bị hủy diệt hoàn toàn." Càng chiến đấu nhanh và kết thúc thảm hại, “nền văn minh tốt hơn sẽ càng nhanh đến trên toàn thế giới.” Trong thế giới đó, nước Đức đúng lúc và khi nó... chứng tỏ mình xứng đáng, sẽ có được vị trí xứng đáng."
https://thuviensach.vn
Trung tuần tháng Bảy, một tháng sau Ngày - D, Roosevelt nói với Hull "tiến độ của quân Đồng minh trên mọi mặt trận” chiến tranh không “đủ ấn tượng" để phát đi lời tuyên bố như thế.
Trong hai năm đầu quân Mỹ đánh nhau với quân Đức, trung tâm của nhiều cuộc đàm phán bí mật của Franklin Roosevelt về nước Đức hậu chiến có một khoảng trống kỳ lạ. Suốt những cơn nổi giận chống “các địa chủ quý tộc" và “chủ nghĩa quân phiệt Phổ" và việc người Đức thích mặc quân phục diễu hành, ông không đề cập đến nguyên nhân lớn nhất vì sao bất kỳ con người văn minh nào của thập niên 1940 đều phải lo lắng đến đặc điểm quốc gia Đức.
https://thuviensach.vn
V
SỰ IM LẶNG KHỦNG KHIẾP
Franklin Roosevelt bắt đầu nhận được thông tin ngay từ đầu năm 1942 rằng Adolf Hitler, dưới vỏ bọc bí mật, đang thực hiện lời đe dọa "tiêu diệt chủng tộc Do Thái." Người ta có thể trông mong Tổng thống tiếp tục phát thanh bằng ngôn ngữ sôi nổi cho người Mỹ biết chính xác chính phủ của ông đã biết được gì về các trại tập trung chết người của Đức quốc xã, và tội ác không thể tưởng tượng được này đúng là đang được quân Đồng minh chiến đấu để loại ra khỏi thế giới.
Nhưng Roosevelt không nói gì hết. Ông cũng không ra lệnh cho các cơ quan tuyên truyền Mỹ công bố mọi điều chính phủ biết về sự tiêu diệt dân tộc Do Thái. Thay vào đó, chí ít vào những tháng đầu của năm 1944, các tham khảo của Tổng thống về đề tài này chỉ mơ hồ và hiếm hoi. Ông không đề cập đến đề tài trong hội nghi Bộ Ba tại Tehran, trong liên lạc thư từ bí mật với Churchill hoặc, ngoại trừ kiểu cách quanh co nhất, trong các tuyên bố công khai của ông.
Tháng Bảy 1942, chủ tịch Hội nghị Do Thái Mỹ, Giáo sĩ Stephen Wise, đề nghị Tổng thống đọc một bài phát biểu trước đại hội Madison Square Garden chống lại việc Hitler đàn áp người Do Thái. Wise đề nghị Roosevelt nói rằng các cường quốc phe Trục sẽ không thành công trong việc hủy diệt người Do Thái, như chúng đã nhiều lần đe dọa làm thế, hơn chuyện họ sẽ thành công trong việc nô lệ hóa nhân loại." Ông nên nói rằng “mọi người Mỹ" đều khóc than "hành vi tàn bạo các đảng viên Đức quốc xã đã làm chống lại các nạn nhân Do Thái."
https://thuviensach.vn
Nhưng Tổng thống không đề cập đến hành động hủy diệt hoặc các “nạn nhân Do Thái.” Thay vào đó, ông phát biểu rằng người Mỹ "đồng cảm với mọi nạn nhân của tội ác của Đức quốc xã, và làm cho các thủ phạm “có trách nghiệm giải trình chính xác trong ngày đền tội chắc chắn sẽ đến."[22]
Tháng Chạp 1942, khi Giáo sĩ Wise và các nhà lãnh đạo Do Thái khác muốn cung cấp cho Roosevelt các chi tiết về “tai họa nổi trội nhất trong lịch sử Do Thái," Tổng thống cố gắng đưa đẩy họ cho Bộ Ngoại giao, nhưng họ thúc ép và giành được một cuộc hội kiến cá nhân. Tại Nhà Trắng, Wise trao tay cho Roosevelt bản ghi nhớ dày hai mươi trang về “kế hoạch tiêu diệt” của Đức quốc xã và yêu cầu ông nói cho thế giới biết về thảm kịch và ra sức “ngăn chặn nó."
Sử dụng một trong các thủ đoạn đặc trưng để kiểm soát cuộc đàm luận, Tổng thống huyên thuyên trong gần nửa giờ đồng hồ, không để ai xen được lời nào vào. Liệu họ có biết là ông vừa bố nhiệm Herbert Lehman - người kế vị ông làm Thống đốc bang New York (New York) và là một người Do Thái - đứng đầu Bộ mới: Trợ cấp và Tái định cư người nước ngoài không? Ông nói là nó đem đến cho ông “sự mãn nguyện ghê gớm." Sau chiến thắng của quân Đồng minh, các “địa chủ quý tộc" Đức phải quỳ gối trước Lehman xin bánh mì!
Cuối cùng khi Wise cố gắng đề nghị Roosevelt nói với thế giới về cuộc chiến mà Hitler chống người Do Thái và cố gắng ngăn chặn nó, Tổng thống trả lời là chính quyền của ông đã biết nhiều sự kiện, song chưa biết phải làm gì. Hitler và bè lũ là “thí dụ cực đoan về trường hợp bệnh tâm thần quốc gia,” nhưng quân Đồng minh không cần đoán chắc rằng cả dân tộc Đức là những tên giết người hoặc tán thành hành dộng của Hitler. Ông cho rằng sự trừng phạt có thể sẽ phải chờ đợi đến sau chiến tranh: “Nhà máy của thần thánh xay chậm, nhưng nó xay cực kỳ tốt." Bị thúc ép phải tuyên bố, ông khuyên các nhà lãnh đạo cho phát mại tuyên bố Madison Square Carden mà ông đã đưa cho họ hồi tháng Bảy. Ông nhấn mạnh rằng lời tuyên bố được trích dẫn chính xác.
https://thuviensach.vn
Wise và các đồng sự phớt lờ tính nghiêm khắc của Roosevelt và cho công bố thông cáo báo chí xác nhận Tổng thống bị “choáng" khi biết rằng, vì luật lệ của Đức quốc xã và các tội ác của Đức quốc xã mà hai triệu người Do Thái đã bỏ mạng ở châu Âu. Ngày 17 tháng Chạp 1942, qua khởi xướng của Anh, quân Đồng minh đưa ra tuyên ngôn chống "bỏ trần và bỏ đói” và “hành hình hàng loạt" mà các đảng viên Đức quốc xã áp đặt trên hàng trăm hàng ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội."
Tháng Bảy 1943, tại Nhà Trắng, Trung úy Jan Karski thuộc quân đội bí mật Ba Lan cho Roosevelt biết về vụ thảm sát hàng loạt người Do Thái mà ông đã chứng kiến xảy ra tại trại tập trung ở Ba Lan: "Chính quyền bí mật của chúng tôi hết sức đoán chắc rằng người Đức quyết tâm tiêu diệt toàn bộ dân số Do Thái ở châu Âu." Tổng thống chăm chú lắng nghe, nhưng khi Karski khẩn nài Roosevelt cho quân Đồng minh can thiệp, Tổng thống trá lời, “Hãy nói cho đất nước ông biết là chúng tôi sẽ chiến thắng."
Năm 1942 hay 1943, Roosevelt không muốn đấu tranh với bộ máy quan liêu của ông và các thành viên đối lập trong Quốc hội nên cho nới lỏng các hạn chế di dân để cứu người Do Thái ở châu Âu. Như sử gia Richard Breitma đã viết, chính quyền Roosevelt "không hành động tương xứng sự quyết tâm điên cuồng tiêu diệt “chủng tộc” Do Thái của Hitler với quyết tâm cứu người Do Thái có thể cứu được."
Vì sao Tổng thống phản ứng lại tin tức gây sửng sốt từ châu Âu bằng sự yên lặng giả tạo? Trong suốt Thế chiến I không thành viên nào trong chính quyền Woodlow Wilson được nói thẳng hơn Roosevelt về việc làm thế nào các viên chức của Kaiser đã rơi “vào các tình cảnh quá mức và khủng khiếp của cuộc chiến tranh trong thời Trung cổ." Là Thứ trưởng Hải quân, Roosevelt yêu cầu dịch một cuốn sách viết về đề tài này bằng tiếng Đức sang tiếng Anh để người Mỹ có thể biết người Đức thuộc loại dân tộc nào.
Giống như nhiều người Mỹ khác, kể cả một số nhà lãnh đạo Do Thái, tuy Roosevelt thấy được bằng chứng cụ thể về điều được học giả Walter Laquer gọi là "bí mật khủng khiếp” của Hitler, song ông không thể hiểu được rằng đây là tội ác khác hẳn mọi tội ác trong lịch sử thế giới - cố gắng có hệ thống để giết chết cả một dân tộc, mà các thế hệ sau này sẽ nhớ đến là
https://thuviensach.vn
“Nạn tàn sát người Do thái thời Hitler" (the Holocaust). Như Laqueur quan sát, thông tin không phải là cùng một thứ với kiến thức. Nếu không có sự hiểu biết lịch sử lớn hơn về những gì người Đức của Hitler đang làm, Roosevelt vẫn cứ tập trung vào mục tiêu độc nhất là sự đầu hàng vô điều kiện của nước Đức. Bằng tiêu chuẩn này, bất cứ một mục tiêu chiến tranh nào khác ngay cả cứu cả một dân tộc, cũng đều là trò điên cuồng. Đó là lý do vì sao thực chất ông nói với Karski rằng đáp án của ông cho vấn đề này là “thắng trận."
Roosevelt cảm thấy ông có một số ảnh hưởng giới hạn với Stalin và Churchill cũng như với Quốc hội và nhân dân Mỹ, và như sử gia Robert Dallek đã nói, trong tất cả những việc ông muốn sử dụng nó thì “các vấn đề người tí nạn được xếp vào cuối danh sách." Tổng thống hẳn là nhạy cảm với những phàn nàn cũ rích cho rằng chính quyền của ông "Chính sách Do Thái" (Jew Deal) - quá chan chứa với người Do Thái và rằng ông đã âm mưu lôi kéo đất nước vào “chiến tranh Do Thái” ở châu Âu. Ông chưa bao giờ đánh giá thấp chủ nghĩa bài Do Thái (anti - semitism) trong xã hội Mỹ. Trước Thế chiến II, ông đã cảnh báo đại sứ Joseph ở Luân Đôn, “Nếu quanh đây có một kẻ mị dân theo kiểu Huey Long đề cập đến chủ nghĩa bài Do Thái, có thể có nhiều máu chảy trên đường phố Nữa Ước hơn ở Berlin."
Có thể Roosevelt sợ rằng lời phàn nàn công khai của Tổng thống Mỹ có thể khuyến khích Hitler giết chết hết người Do Thái nhanh hơn nữa. ông có thể cảm thấy việc kịch hóa "Giải pháp cuối cùng” của Hitler và việc bảo người Mỹ rằng điều mà quân Đồng Minh chiến đấu chống lại, có thể làm suy yếu chính sách đầu hàng vô điều kiện của ông. Tổng thống có thể tranh cãi rằng điều này có thể kích động mạnh các nhà lãnh đạo Do Thái đòi hỏi các mục tiêu quân sự phải được mở rộng từ chiến tranh với Hitler nói chung, bao gồm việc đặc biệt truy đuổi những người Dực và bộ máy mà họ sử dụng để tiêu diệt người Do Thái. Roosevelt có thể sợ rằng điều này sẽ kéo dài chiến tranh và chia rẽ nhân dân Mỹ trong cuộc chiến tranh ở châu Âu - đặc biệt là thời điểm chưa chắc chắn rằng quân Đồng minh sẽ thắng trận ở châu Âu.
https://thuviensach.vn
Roosevelt là người kiến lập hoạt động chính trị hiện đại của nhóm có chung lợi ích ở Mỹ, và từ quan điểm của ông, năm 1942 và 1943, lá phiếu của các cử tri Do Thái đã nằm sẵn trong túi ông. Mỗi kỳ trong ba kỳ thắng cử Tổng thống, họ đều bỏ phiếu cho ông đa số từ tám mươi ba đến chín mươi phần trăm. Hơn nữa, với một số ngoại lệ rõ rệt, áp lực làm giảm bớt đau khổ của người Do Thái ở châu Âu từ nhiều nhà lãnh đạo Do Thái vẫn nhẹ nhàng. Nhiều người Do Thái quốc tịch Mỹ, kể cả những người hiểu được tầm quan trọng của những gì đang lộ ra, miễn cưỡng trông giống như các luật sư biện hộ đặc biệt trong thời chiến.
Để biện hộ, Roosevelt cũng cho rằng ông phải đối phó với quân Đồng minh. Việc mở rộng các mục tiêu chiến tranh của quân Đồng minh, bao gồm hành động giải cứu người Do Thái ở châu Âu, không khiến Churchill bực mình. Thủ tướng thỉnh thoảng hăm hở liều giúp người Do Thái. Dẫu sao ông chưa bao giờ thích chủ trương đầu hàng vô điều kiện.
Nhưng còn Stalin thì sao? Theo tính toán khả thi của Roosevelt, kẻ giết hàng triệu người Kulak (phú nông ở Nga) không thể cảm thấy được sự vi phạm trắng trợn tội diệt chủng - và Stalin không hề thích người Do thái. Trong thời điểm Roosevelt sử dụng chủ trương đầu hàng vô điều kiện như phương tiện giữ cho Stalin khỏi quá giận dữ về việc ông và Churchill trì hoãn cuộc xâm chiếm Ngày - D đến giữa năm 1944, Tổng thống có thể cảm thấy việc đi trệch mục đích chiến tranh duy nhất được hứa hẹn có thể khiến cho nhà lãnh đạo Liên Xô không tin vào các ý định của ông đặc biệt nếu ông nghi ngờ rằng hình phạt có thể được mở rộng cho mọi thủ phạm giết người hàng loạt và diệt chủng.[23] Tháng Tư 1943, người Đức tiết lộ vụ thảm sát Katyn - cuộc thảm sát hàng loạt hoặc hơn bốn ngàn viên chức Ba Lan do cơ quan an ninh Liên Xô, NKVD, gây ra.
Mùa thu năm 1943, Winston Churchill đang tìm cách ngăn chặn hành động tàn bạo của Đức. Ông hy vọng khi Hồng quân bắt đầu quay trở lại nơi Đức quốc xã đóng quân, dân châu Âu có thể bị dọa giẫm gia nhập vào "các hành động tàn bạo, các cuộc thảm sát và những cuộc hành hình" của Hítler.
https://thuviensach.vn
Churchill là tác giả bí mật của Tuyên ngôn Moscow của các Ngoại trưởng của quân Đồng minh, Cordell Hull, Anthony Den và Vyacheslav Molotov. Tuy Tuyên ngôn không đề cập đến người Do thái, song nó cảnh báo rằng những người chịu trách nhiệm về các “hành vi tàn ác" sẽ bị truy đuổi “đến tận cùng thế giới." Churchill bảo Eden rằng Tuyên ngôn Moscow ít ra cũng làm cho “một số tên hung ác xấu hổ vì bị đánh đồng với những tên đồ tể hiện giờ biết mình sẽ bị đánh bại.”
Nhưng cũng khoảng thời gian đó, Nội các Chiến tranh (War Cabinet) của Churchill quyết định rằng quân Đồng minh cuối cùng phải chịu trách nhiệm trừng phạt các hành động tàn bạo liên luỵ đến lãnh thổ của kẻ thù. Tuy nhiên, vào khoảng tháng Mười Một 1943, hơn ba triệu người Do Thái ở châu Âu bị giết.
Khi chiến tranh Hitler chống dân Do Thái ở châu Âu diễn ra khốc liệt, Franklin Roosevelt vẫn giữ im lặng. Trước năm 1944, ông tránh tranh luận vấn đề này. Ông không công khai nó cho mọi người biết. Ông không tiêu đồng tiền chính trị nào vào việc giải cứu và vấn đề người tị nạn. Toàn bộ điều này làm suy yếu tiền đề sừng sững thời chiến mà khi lập kế hoạch cho nước Đức hậu chiến, ông thẳng thắn đương đầu với những vấn đề nền tảng nhất về đạo đức và đặc điểm quốc gia Đức.
Không thể hoặc không muốn hiểu tầm quan trọng lịch sử đáng sợ về những gì đang diễn ra ở châu Âu, Roosevelt khi bảo vệ mình đã cho rằng việc ném tất cả các nguồn lại phía sau mục đích chiến thắng của quân Đồng minh trước kia là cách tốt nhất để cứu người Do Thái. Tuy nhiên, Hitler càng cảm thấy thua trận, các hành động tiêu diệt của Đức quốc xã càng tăng tốc hơn. Như một số quan sát đen tối vào một thời điểm nào đó, thời điểm quân Đồng minh chiến thắng Thế chiến II ở châu Âu, có thể không một người Do Thái nào được cứu.
Khoảng cuối năm 1943, Henry Morgenthau Jr., Bộ trưởng Bộ Tài chính của Roosevelt, người hàng xóm ở Dutchess County và là bạn thân nhất ở Nội các, rất lo lắng về sự yên lặng từ Phòng bầu dục.
Một người Do Thái tên là Morgenthau, thế tục đến nỗi tuy đã năm mươi hai tuổi song chưa bao giờ tham dự một buổi Lễ Vượt qua. Như Roosevelt
https://thuviensach.vn
đã biết, Morgenthau và người cha giàu có của ông, một người trước kia ủng hộ Franklin Roosevelt, không phải là người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Khi tờ nhật báo theo chủ nghĩa Do Thái khiển trách Bộ trưởng Tài chính là “Lãnh đạo theo tín ngưỡng của người Do Thái,” Tổng thống bỡn cợt với Quan tòa Felix Frankfurter rằng ông và Eleanor sẽ đánh điện cho Morgenthau báo rằng “chúng tôi sẽ không nhận ông nếu ông không đến với một bộ râu rậm rạp," nhưng sau đó ông đã bị "ông già này từ chối.”
Trong suốt thập niên làm Bộ trưởng Bộ Tài chính, bạn của Roosevelt lảng tránh các vấn đề Do Thái. Nhưng bằng chứng từ các trại tập trung biến ông thành người quá khích. Khi Giáo sĩ Wise, người ca tụng cuộc hôn nhân giữa Morgenthau và vợ ông là Elinor, đã mang đến cho ông bức điện từ Thuỳ Sĩ và thông tin khác về quân Đức của Hitler đang giết hàng triệu người Do Thái như thế nào, Morgenthau bảo ông, "Làm ơn đi Stephen, đừng gửi cho tôi các chi tiết đẫm máu.” Wise tiếp tục thúc ép, giải thích chuyện các hài cốt của các bạn tù được làm thành xà phòng như thế nào. Ông nói, các đảng viên Đức quốc xã “đang chế tạo các chụp đèn từ da của người Do Thái."
Như phụ tá thân tín Henrietta Klotz của Bộ trưởng Tài chính nhớ lại, ông chủ của bà “càng ngày càng xanh xao hơn, và tôi nghĩ ông sẽ đổ nhào xuống.” Morgenthau kêu gào, "Tôi không thể chịu đựng thêm được nữa!”
https://thuviensach.vn
VI
"NGƯỜI MỸ TRĂM PHẦN TRĂM”
Mối quan hệ giữa Morgenthau với Franklin Roosevelt là nguyên tắc chỉ đạo không những trong sự nghiệp công khai của ông mà, trong phạm vi rộng, còn là đặc tính của ông nữa. Một lần ông nói với phụ tá rằng tình bạn giữa ông với Tổng thống là "điều quan trọng nhất” trong đời ông. Chính Roosevelt, Thống đốc bang New York năm 1929, đã cất nhắc ông lên từ tình trạng vô danh của một đứa con nhút nhát duy nhất của một người có vai vế trong nghề bất động sản thành đạt ở New York. Và chính tình bạn với Roosevelt đã cho Morgenthau ý thức về sự công nhận và sự an toàn cá nhân như một người Do Thái muốn được nghĩ là, như con trai lớn của ông sau này phát biểu, “một người Mỹ trăm phần trăm.”
Chào đời năm 1891, Henry Morgenthau, Jr., xuất thân từ những người Do Thái quốc tịch Đức, là giáo sĩ Do Thái, ca trưởng ca đoàn nhà thờ, giáo viên tiếng Hebrew, tư tế nghi lễ và chuyên gia tài chính. Ông nội của ông, Lazarus Morgenthau, đến nước Mỹ thời hậu - Nội Chiến sau khi vướng vào các vấn đề tài chính ở Đức.
Bộ trưởng Tài chính tương lai phải trải qua một cuộc sống xa cách người cha tự phụ. Người con trai trùng tên của Henry Jr. rất lâu sau này nhớ lại rằng Henry Sr. có "nhiều tham vọng cho bản thân” và “cha tôi thực sự là phần mở rộng tuyệt đối cái tôi và tham vọng của ông.” Là người tài trợ cho chiến dịch tranh cử Tổng thống đầu tiên của Woodrow Wilson, đại sứ ở Thổ Nhĩ Kỳ suốt Thế chiến I, Henry Sr. mong muốn được sống giữa người Mỹ tầng lớp thượng lưu và vì con trai, ông làm những việc trong đời sống ngoài
https://thuviensach.vn
tầm với xã hội và nghề nghiệp của riêng ông. Con gái Ruth của ông nói cuộc đời của Henry Sr. "tập trung vào công việc, tham vọng và con trai." Henry Jr. nhớ lại cách mà cha ông đã phải đấu tranh cho từng phân đường trong xây dựng và bất động sản ở New York như thế nào: "Lý thuyết ông dành cho tôi là con có thể bắt đầu từ trên đỉnh và cứu tất cả... ông rất muốn tôi làm việc với ông.”
Khi còn là thanh niên, Henry Jr. khiếm khuyết kiến thức nên ông nói và viết khó khăn. Nghèo nàn như một học sinh Exeter, ông bỏ học sau năm học thứ hai. Cha ông kèm ông học và gửi ông đến Cornell theo học kiến trúc nhằm giúp cha khi ông tham gia vào công việc của cha. Nhưng người con bỏ học nửa chừng. Theo lệnh cha, có một thời gian ông làm công việc chấm công tại một công trường xây dựng, nhưng ông phải bỏ việc ngay vì bị bệnh thương hàn.
Được gửi tới dưỡng bệnh tại một trại chăn nuôi ở Texas, chàng trai Morgenthau phát hiện ra là ông thực sự yêu thích nghề nông. Ông quay trở lại Cornell học nông nghiệp và năm 1913, ở tuổi hai mươi hai, ông dùng tiền của gia đình mua một nông trại tồi tàn rộng một ngàn mẫu ở East Fishkill, Dutchess County, New York. Sau này Morgenthau kể lại, đó là "hành động liều mạng để thoát khỏi" người cha đầy tham vọng. Công việc đồng áng là "công việc duy nhất” mà cha ông "không biết - một chút gì."
Người cha hy vọng rằng khoản tiền trước kia ($20,000 - khoảng $200,000 theo thời giá năm 2002) ông tài trợ cho ứng cử viên chính trị Thống đốc bang New Jersey đột nhiên được bầu, có thể khiến cho tân Tổng thống Wilson bổ nhiệm ông vào Nội các và có thể là Bộ Tài chính. Nhưng Wilson chỉ đưa ra chức vụ đại sứ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Morgenthau Sr. điên tiết lên. Trong nhiều năm, tòa đại sứ đó là nơi ở dành cho những người Do Thái có đóng góp. Với cái nhìn thoáng hơn về chính mình, ông phàn nàn với Wilson rằng người Do Thái quốc tịch Mỹ rất nhạy cảm với quan điểm Thổ Nhĩ Kỳ là vị trí ngoại giao duy nhất mà người Do Thái có thể khao khát." Tại sao không phải là Trung Quốc?
Cáu tiết, Wilson trả lời rằng nhiều công việc của Mỹ ở Trung Quốc là công việc truyền giáo, đòi hỏi một công sứ Thiên Chúa giáo. Và liệu
https://thuviensach.vn
Morgenthau có hiểu rằng chính người Thổ Nhĩ Kỳ đã giám sát người Do Thái ở Palestine không? Khi người bạn là Giáo sĩ Wise của Morgenthau tán thành lý lẽ của Wilson, Morgenthau chấp nhận công việc. Là đại sứ, ông tạo ấn tượng sâu sắc trên con trai ông bằng cách tiến hành một chiến thuật một mình làm cho Mỹ can thiệp khi người Thổ Nhĩ Kỳ vi phạm cuộc thảm sát hàng loạt chống lại người Armenia năm 1915.
Năm 1916, Henry Jr. kết hôn với Elinor Fatman, cháu gái của chủ tập đoàn Lehman Brothers, người quyết định đạt được những gì mà ông không có trong hoài bão và trong tính thân thiện. Vẫn giữ một căn hộ ở New York, họ mua thêm một ngàn mẫu đất khác ở Duchess County để xây dựng Fishkill Farms, trồng khoai tây, cải bắp, bí, lúa mạch đen, bắp, trâu bò thịt, táo và đồng thời nuôi ba đứa con - Henry III, Robert và Joan. Cuộc sống điền chủ làm ông xa cách với cha, mà theo Elinor nhớ lại, là người "cố gắng điều chỉnh cuộc sống của ông và thống trị tư tưởng của ông."
Henry Morclenthau III viết, ngay từ đầu đời, tôi đã ý thức được tình trạng bất ổn của cha mẹ tôi trong tính chất Do Thái. Họ giả bộ vui vẻ, trong khi vẫn rất cảnh giác với sự tấn công từ người ngoài." Ông nói, đối với họ, làm người Do Thái là “một loại khuyết tật bẩm sinh không thể loại trừ tận gốc rễ, nhưng bằng cách xử thế thích đáng, có thể khắc phục được nếu không được trong thế hệ này thì cũng có thể trong thế hệ kế tiếp.
Khi lên năm tuổi, được người khác hỏi là theo tôn giáo nào, Henry III tìm đến mẹ xin hướng dẫn. Là “người đồng hóa vững chắc" hơn chồng, Elinor bảo con, “Chỉ nói với họ rằng con là người Mỹ." Như người con trai nhớ lại, cha mẹ ông không tham dự giáo đường Do Thái từ khi ông trưởng thành và có “ý tránh" các câu lạc bộ thành phố và thôn quê, Thánh đường Emanu - El được Mỹ hóa, và những vùng thôn quê ở Westchester County đã đem lại cho người Do Thái quốc tịch Đức sống ở New York một “cảm giác dễ chịu trong cộng đồng.”[24]
Như Henry III nhớ lại, ông nội ông "sợ bất kỳ điều gì có thể đe dọa sự thân Mỹ của ông" và do đó “không muốn cha tôi dính líu vào những gì liên quan đến người Do Thái." Ông lão bị chủ nghĩa phục quốc Do Thái khai
https://thuviensach.vn
trừ. Mặc dù đã một thời làm chủ tịch Giáo đường Do Thái Tự do của Giáo sĩ Wise ở New York, song Henry Sr. đã bất hòa với Wise về khát vọng nồng nhiệt của vị giáo sĩ này đối với quê hương Do Thái ở Palestine. Ông già Morgenthau chế nhạo, “Chúng tôi, những người Do Thái ở Mỹ nhận thấy nước Mỹ là Thiên đàng của chúng tôi. Tôi là người Mỹ.”
Franklin Roosevelt không mất thời gian đón chào người mới đến tỉnh nhà. Hai người đàn ông đều yêu mến đất cát và tự xưng mình là nông dân. Hai người vợ trở thành hai người bạn thân. Khi gia đình Morgenthau đến uống trà tại ngôi nhà lớn ở Hyde Park, bà mẹ Sara của Roosevelt viết trong nhật ký, "Morgenthau trẻ thoải mái, nhưng khiêm tốn, trang trọng và thông minh. Người vợ rất Do Thái, nhưng dáng vẻ rất xinh xắn."
Như một nhà chính trị khao khát làm Thống đốc bang New York và sau này làm Tổng thống, Roosevelt biết rằng mình sẽ có các lợi ích chính trị khi làm bạn với chàng trai trẻ Morgenthau. Ông biết cha của Morgenthau, mà ông gọi là "Cậu Henry,” là nhà tài trợ đáng tin cậy để cải thiện các ứng cử viên Đảng Dân chủ. Và trong một bang có quá nhiều cử tri người Do Thái, những người dễ tự hỏi liệu một ứng cử viên Thiên Chúa giáo nào đó có bí mật chống Do Thái không, thì việc có được ít nhất một người bạn thân là người Do Thái sẽ hữu ích cho Roosevelt.[25] Roosevelt gọi bạn ông là “Henry the Morgue," một lối đùa bỡn khôi hài sắc mặt buồn khổ của Morgenthau, và yêu cầu ông giúp đỡ trong hoạt động chính trị. Ông thúc đẩy Morgenthau ra làm cảnh sát trưởng ở Dutchess County, có thể biết rằng, trong khi một đảng viên Đảng Dân chủ và một người Do Thái không thể thắng cử thì lời đề nghị lại đẩy mạnh cái tôi mong manh của Morgenthau lên. Trước hết, ông chắc chắn rằng Morgenthau trung thành, thận trọng và không có những tham vòng đối chọi với các tham vọng của ông.
Đối với Morgenthau, tình bạn với Roosevelt trở thành một điều rất quý giá. Roosevelt là người anh lớn mà Morgenthau chưa bao giờ có, một người có rất nhiều đức tính mà ông không có - ba hoa, hướng ngoại, cởi mở, tự tin. Việc được người bảo trợ ở Thung lũng Hudson ôm chặt dìu đi xa sẽ dẹp
https://thuviensach.vn
tan mọi tự ti xã hội mà chàng trai trẻ cảm thấy, đặc biệt trong một tỉnh thành không thích gì người Do Thái là Thành phố New York. Và với sự nghiệp được buộc chặt vào sự nghiệp của Roosevelt, bầu trời ắt phải có giới hạn.
Morgenthau giữ gìn tình bạn như thể nó là một trong các giỏ hoa phong lan của ông. Trong việc này ông được người vợ khôn ngoan và mẫn cán hướng dẫn và tình bạn giữa hai người vợ củng cố thêm tình bạn giữa hai ông chồng.[26] Elinor Morgenthau tự làm cho mình hữu dụng về mặt chính trị bằng cách gia nhập vào phân hội phụ nữ của Đảng Dân chủ ở New York.
Gỡ bỏ tính bài Do Thái trong tầng lớp mình, bà Roosevelt cẩn trọng bảo vệ người bạn Do Thái của mình khỏi bị xã hội coi khinh. Có lần bà viết cho một người bạn khác theo đạo Tin lành, "Bà còn xấu hơn Elinor Morgenthau và không có cả lý trí của bà ta nữa!" Khi bà Morgenthau không được nhận làm hội viên trong Câu lạc bộ Kiều dân quý tộc ở New York, bà Roosevelt từ chức để phản đối.
Năm 1938, Elinor Morgenthau nói với Đệ nhất Phu nhân rằng bà lập kế hoạch tổ chức cho con gái Joan của bà một bữa tiệc đầu đời. Bà Roosevelt đề nghị tổ chức ở Nhà Trắng. Khi Tổng thống được xe đưa đến Phòng phía Đông, ông hôn người thiếu nữ trẻ và nói, “Xin lỗi, ta không thể nhảy bản nhạc đầu tiên với cháu.” Các khách mời nghe ông nói điều này đã rơi nước mắt.
Tuy nhiên, bà Roosevelt giận điên lên vì Elinor cảm thấy sự phân biệt xã hội mà Đệ nhất Phu nhân xem là điều duy nhất trong đầu bà. Có lần Đệ nhất phu nhân đã viết cho bà, "Tôi luôn cảm thấy bà thường bị tổn thương bởi những điều tưởng tượng và muốn bảo vệ bà. Nhưng nếu con người có một mối quan hệ lành mạnh... nó phải dựa vào một loại cơ sở bình đẳng nào đó. Đơn giản là bà không thể bị thương tổn quá dễ dàng. Cuộc sống quá ngắn không thể đương đầu được với nó!"
Sau năm 1921, khi chứng liệt của Roosevelt loại bỏ ông ra khỏi chính trị, ông trải qua nhiều thời gian hơn ở Hyde Park và với người láng giềng ở Dutchess County. Tăng tham vọng làm chuyên gia nông trại của Roosevelt, Morgenthau bỏ tiền mua tờ báo Nhà nông Mỹ (American Agriculturalist) và
https://thuviensach.vn
cho người khác tin rằng bỏ tiền ra mua Fishkill Farms là một việc làm thành công. Sau này Henry III cảm thấy cả cha mình cũng tin vào “thành công hoang đường" về nông trại của ông - "mặc dù ông luôn rất dễ chạm tự ái khi bất kỳ người nào dám chất vấn ông quá cặn kẽ về thành công này.”
Tính nhút nhát của Morgenthau vẫn còn đó. Tại hội nghị các chủ trại ở Dutchess County, ông lúng túng đến nỗi Elinor, một cựu sinh viên kịch nghệ trường Vassar, phải đọc bài diễn văn mà đáng lý ra ông phải đọc. Khi Roosevelt ra ứng cử chức Thống đốc bang New York năm 1928, Morgenthau lên kế hoạch các trạm dừng lại để vận động, thuê mướn các ban nhạc và lái xe đưa ứng cử viên đi bảy ngàn năm trăm dặm vào Buick cổ. Khi trúng cử, Roosevelt bổ nhiệm ông làm chủ tịch ban cố vấn nông trang của ông và sau đó làm ủy viên bảo tồn. Elinor Morgenthau viết cho Thống đốc nói về niềm vui thích "trong khi ông thăng tiến trong công việc," ông đang cho "Henry cơ hội thăng tiến." Biết cách làm vui lòng Henry, Roosevelt đề tặng phía sau tấm ảnh chụp họ trong một chiếc xe mui trần.
Khi Roosevelt trúng cử Tổng thống năm 1932, Morgenthau hy vọng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nông nghiệp, sự kiện này sẽ làm cho ông trở thành người Do Thái thứ hai trong lịch sử tham gia Nội các của Tổng thống. Nhưng các nhà lãnh đạo nông trường ở miền Trung Tây và miền Nam khinh thường ý tưởng giao việc cho một người Do Thái đồng thời là người New York (mặc dù bang New York có nền nông nghiệp đáng kể). Thay vào đó, Roosevelt bổ nhiệm Morgenthau làm chủ tịch Quản trị Tín dụng Nông trang.
Mùa thu năm 1933, Bộ trưởng Tài chính thứ nhất của Roosevelt, William Woodin ngã bệnh nặng. Morgenthau nói với phụ tá thân tín Henrietta Klotz, đã làm việc với ông từ năm 1922, rằng ông muốn giữ thư ký tận tuy Missy Lehand của Roosevelt và phụ tá Harry Hopkins lại để nói chuyện về cách làm thế nào giành được chức vụ đó. Klotz cảnh báo ông là Missy và Hopkins “ghét" ông và sẽ ngăn cản nếu họ biết ông muốn gì. Morgenthau theo lời khuyên của cô là đến gặp thẳng Roosevelt và “trực tiếp nói chuyện.” Chống lại áp lực phải bổ nhiệm ông trùm bảo thủ Jesse Jones
https://thuviensach.vn
ở Houston, Tổng thống giao Bộ Tài chính cho người bạn ở Hudson Vailey. Như Morgenthau nhớ lại, khi nghe được tin này, ông “toát mồ hôi lạnh." Vận may gạt bỏ Bộ trưởng Bộ Tài chính mới là "con trai của người Do Thái nhân đức," người đã dành gần hết cuộc đời làm “nông nghiệp." Những người khác buộc Roosevelt tội theo chủ nghĩa kết bè kết đảng (cronyism). Nhà tài trợ Gladys Straus thuộc Đảng Cộng hòa ở New York, bản thân là người Do Thái, lém lỉnh nói rằng Roosevelt đã cố gắng tìm “một người Do Thái duy nhất trên thế giới không biết gì về tiền." Sau này bà Klotz nhớ lại là khi ông già Morgenthau biết con trai ông có được công việc mà trước kia ông khao khát, ông nói, “Tôi không biết vì sao [Roosevelt] lại chọn con trai tôi làm Bộ trưởng Tài chính. Nó không đủ khả năng... Tôi mới có thể làm công việc đó."
Lúc đó yêu cầu đầu tiên về Bộ trưởng Tài chính của Roosevelt không phải là giỏi chuyên môn mà là tính kiên định. Cố vấn chính trị và là mưu sĩ lâu năm của Tổng thống, Louis Hoe, nói với Morgenthau rằng ông đã "giành được” công việc mới bằng "lòng trung thành" của ông trong khi những người khác hạ Roosevelt xuống.
Mùa thu năm ấy, Tổng thống suýt phạm luật khi ông phá giá đồng mỹ kim bằng hành động mua số lượng lớn vàng. Bực tức Thứ trưởng Tài chính Dan Acheson từ chức. Qua việc bổ nhiệm Morgenthau, Roosevelt cho rằng ông không bao giờ phải lo lắng sợ Bộ trưởng Tài chính bỏ đi không báo trước.
Hăm hở thiết lập địa vị trong lịch sử, Morgenthau lắp đặt trong văn phòng một hệ thống ghi âm, được kích hoạt bằng một nút ấn dưới gầm bàn giấy, ghi lại các cuộc trò chuyện và các cú điện thoại quan trọng nhất.[27] Ông là thành viên Nội các duy nhất có mối quan hệ gia đình xa xưa với Tổng thống, kể cả bữa cơm trưa vào ngày thứ hai ở Nhà Trắng. Những người gây trở ngại cho Bộ Tài chính có thể không bao giờ biết được những gì Morgenthau hay vợ ông có thể nói về họ với Roosevelt trong bữa cơm tối gia đình tại Nhà Trắng hoặc tại Dutchess County.
https://thuviensach.vn
Trong các cuộc họp Nội các, Roosevelt và bạn ông thường chuyển các ghi chép ngớ ngẩn cho nhau giống như các học sinh. Ám chỉ đến Bộ trưởng Lao động, Frances Perkins, Morgenthau viết nguệch ngoạc, "Làm thế nào ông thích được chiếc mũ mới của Quý bà Perkins?” Roosevelt trả lời, “CHIC(K)" (gà con) và Morgenthau đánh trả, “CLUCK!” (kêu cục cục).
Tuy nhiên, Morgenthau biết mình là bạn thân nhất của Roosevelt trong Nội các, đồng thời cũng là một thành viên ít độc lập nhất. Khác với các đồng sự khác, ông không có các cử tri trung thành bên ngoài để bảo vệ ông nếu ông gặp chuyện không hay phải lo nghĩ - không chỉ những người Do Thái có tổ chức, mà còn có một số người khinh ông không quan tâm gì đến di sản của mình. Bộ trưởng Bưu điện James Parley, người biết rõ sự bảo trợ hơn mọi người khác ở Washington, phàn nàn rằng sự bổ nhiệm Morgenthau là điều tồi tệ nhất cho cả hai lĩnh vực: Tổng thống "không được người Do Thái tín nhiệm" và bị những người theo chủ nghĩa bài Do Thái chỉ trích.
Morgenthau biết các may rủi của việc lệ thuộc vào vị Tổng thống lanh lợi. Nhiều năm sau ông đau khổ nhớ lại cách Roosevelt kích người này chống lại người khác" và “không bao giờ để cho bất kỳ ai quanh ông có được sự bảo đảm hoàn toàn rằng ngày mai vẫn còn có việc làm. Điều đó cho bạn một cảm giác bồn chồn lo lắng, cảm giác không an toàn." Suốt mười hai năm trong chính phủ Roosevelt, biết là bạn ông có thể sa thải ông bất cứ lúc nào, nên ông chưa bao giờ mua nhà ở Washington. Thay vào đó, ông dời gia đình từ một nơi ở có sẵn đồ đạc đến một nơi ở khác.
Khi Roosevelt cười với ông, Morgenthau hồ hởi. Khi Roosevelt phớt lờ ông, ông ngã lòng chán nản. Năm 1939, ông phàn nàn với Eleanor Roosevelt rằng Tổng thống “hay bắt nạt tôi, hăm dọa tôi và hết sức khó chịu," và nói thêm là ông đang tự hỏi liệu Tổng thống có “tìm cách tống khứ tôi đi không." Bà an ủi ông bằng cách giải thích rằng chồng bà đặc biệt cứng rắn với những người thân cận của mình.”
Ngay từ đầu Thế chiến II, Roosevelt làm cho Morgenthau hy vọng bằng cách bảo ông, "ông và tôi sẽ cùng điều hành chiến tranh này." Sau đó, giống như người tình bị phụ bạc, Morgenthau buồn rầu theo dõi Tổng thống
https://thuviensach.vn
nghiêng về phía đối thủ của ông Harry Hopkins, được Roosevelt đưa vào Nhà Trắng làm cố vấn tâm phúc thời chiến.
Ngay sau trận Trân Châu Cảng, Roosevelt dùng cơm trưa với Morgenthau và Leo Crowley, một tín đồ Công giáo là Người trông coi Tài sản Nước ngoài.[28] Như Morgenthau sau này ghi lại, Tổng thống bảo với họ, “Các ông biết đây là một đất nước Tin lành, và người Công giáo và người Do Thái ở đây phải mặc nhiên chịu đựng." Roosevelt tiếp tục nói rằng “có đi theo bất kỳ điều gì tôi muốn hay không là tùy ở các bạn.”
Biết Roosevelt quá rõ, Morgenthau không hề ngạc nhiên về những gì nghe được, nhưng ông hiếm khi nghe Tổng thống phát biểu dở như thế. Việc họ được cho biết là họ “phải mặc nhiên chịu đựng" ở Mỹ không khuyến khích Morgenthau hoặc một số người Do Thái khác bước vào trong quỹ đạo của Tổng thống, chẳng hạn như Samuel Rosenman. luật sư đặc biệt của Roosevelt, và David Niles, phụ tá hành chính, để thúc ép ông về các vấn đề Do Thái.
Năm 1938, sau khi Hitler gây ra cuộc tàn sát người Do Thái ở nước Đức, Morgenthau đề nghị Mỹ lấy Anh và Pháp làm nơi ẩn náu cho người tị nạn Do Thái, đổi lấy việc hủy số nợ của Thế chiến I của Anh và Pháp. Nhưng Roosevelt trả lời, “Không hay. Như thế người Do Thái sẽ mất từ năm đến năm mươi năm để khắc phục cơn xúc động." Tổng thống nói thẳng với Tổng thững Paraguay về việc chứa chấp người tị nạn Do Thái để lấy tiền và yêu cầu Morgenthau cho danh sách một ngàn người Do Thái giàu nhất ở Mỹ. Nhưng Morgenthau trả lời, “Trước khi ông nói đến tiền, ông phải có một kế hoạch."
Tháng Mười Một 1939, Giáo sĩ Wise yêu cầu Morgenthau can thiệp khi người Pháp chặn người tị nạn Do Thái ở các cảng của Pháp. Morgenthau trả lời rằng khi các cảm xúc cá nhân khiến tôi quan tâm đến vấn đề,” ông sẽ “trung thành với nguyên tắc" là Bộ trưởng Tài chính, ông không thực hiện “loại công việc” này.
Trước Thế chiến II, bất kỳ điều sai quấy nào Morgenthau có thể cảm thấy về việc ông dè dặt trong việc giúp đỡ giải cứu người tị nạn Do Thái
https://thuviensach.vn
khỏi Hitler đều được thăng hoa vào việc ông nhiệt tâm sẵn sàng bảo vệ và giúp đỡ nước Anh. Hơn đa số thành viên trong Nội các Roosevelt. Ông tin chắc rằng Mỹ sẽ có thể can thiệp vào châu Âu. Ông nói với Roosevelt, nếu chúng ta không chặn đứng Hitler ngay từ bây giờ, ông ta sẽ tiến thẳng đến Biển Đen. Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Số phận của châu Âu trong một trăm năm nứa sẽ bị chiếm làm thuộc địa." Là Bộ trưởng Tài chính thời chiến của Roosevelt, Morgenthau giúp tài trợ cho trận chiến hao tiền tốn của nhất trong lịch sử thế giới. Nhưng ngay sau đó Cordell Hull than phiền rằng Morgenthau đang cố làm “Ngoại Trưởng thứ hai."
Năm 1942 quân Đồng minh cử Đô đốc Jean Darlan dưới chế độ Vichy của Pháp, cộng tác với các đảng viên Đức quốc xã, làm cao ủy ở Bắc Phi về một vấn đề gây tranh cãi dữ dội là giữ cho quân đội Pháp khỏi chống đối cuộc xâm lăng của họ. Khi Darlan thúc ép tôn trọng các nghị định của Đức quốc xã, Morgenthau giận dữ phàn nàn với Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, Henry Stimson, rằng Darlan đã "bán nhiều ngàn người làm nô lệ."
Khác với các viên chức Mỹ khác, Morgenthau từ chối tách dân tộc Đức ra khỏi chính quyền tàn ác của họ. Ông là tín đồ gốc tin là tội lỗi tập thể dành cho các tội ác chiến tranh của Đức. Tháng Tư 1943, được mời nói về chiến tranh tại Carnegie Hall ở Thành phố Nữ Ước, ông lên kế hoạch cam kết rằng quân Đồng minh sẽ “làm rung chuyển nước Đức cho đến khi nó mục nát." Nhưng một nhân viên kiểm duyệt của Văn phòng Bộ Thông tin Chiến tranh cho ông biết là "hầu hết người Đức" đều là người tốt," và “thật xấu hổ khi nói về họ theo cách này." Dưới sức ép, Morgenthau bị thuyết phục phải thay đổi lời tuyên bố đối với "nước Đức Quốc xã."
Suốt cuộc đời, Morgenthau bị chứng đau nửa đầu và các cơn nôn mửa, buộc ông phải sống nhiều giờ và nhiều ngày trong phòng tối. Những gì ông biết năm 1942 và 1943 từ Giáo sĩ Wise và những người khác về các trại tập trung ở châu Âu đã làm xáo trộn giấc ngủ của ông hơn bao giờ hết.
Henrietta Klotz, người sùng bái Morgenthau trong thời gian phục vụ ông hơn hai mươi năm, đã hù dọa ông chủ của bà về những người Do Thái ở châu Âu. Với tóc màu vàng hoe và cặp mắt xanh rực sáng, Bà Klotz sinh ra trong một gia đình Do thái chính thống nghèo khổ. Như Henry Morgenthau
https://thuviensach.vn
nhớ lại, bà là “giải pháp khiến ông quan tâm đến các vấn đề Do Thái.” Bằng "mối xúc cảm sống sượng thẳng thắn," bà hiểu thấu "tính dè dặt” của người cha của ông, người có vẻ bề ngoài rất tình cảm.”
Như ông chồng Herman của Klotz nhớ lại, bà "kích động, thúc ép và khó chịu” nói với Morgenthau rằng ông phải “đi thẳng đến Nhà Trắng và đòi Tổng thống phải hành động để làm giảm đến mức tối thiểu hành động giết người Do Thái.” Do dó, "mỗi sáng khi bà đến văn phòng," Morgenthau “ngại ngùng nhìn bà, vì bà nhắc mãi điệp ngữ khi nào?"
Ba luật sư của Bộ Tài chính - John Pehle, Randolph Paul và Josiah Dubois, tất cả đều theo Thiên Chúa giáo - thông tin cho Morgenthau biết rằng Thứ trưởng Ngoại giao Breckinridge Long, chống đối người nước ngoài, đặc biệt người Do Thái, đang cố gắng cản trở luồng tiền, thông tin và hộ chiếu có thể cứu người Do Thái thoát khỏi Hitler. Nhà nước cũng ngăn chặn các nỗ lực tìm nơi ẩn náu cho người Do Thái ở Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỳ Sĩ và Palestine.
Tháng Chạp 1943, Morgenthau giận dữ sắp xếp cuộc tranh cãi cuối cùng với Long và bảo ông, "Breck, chúng ta có thể thẳng thắn một chút. Chung quy chỉ là ông đặc biệt chống Do Thái." Khi Long chối, Morgenthau tiếp tục, “Bbreck, nước Mỹ được tạo ra làm nơi ẩn náu cho những người bị ngược đãi trên toàn thế giới, bắt đầu với Plymouth. Và là Bộ trưởng Tài chính cho 135 triệu người, tôi đang thực hiện điều này với cương vị Bộ trưởng Bộ Tài chính, và không với cương vị người Do Thái.” Đây không phải là điều Morgenthau có thể nói cách đây một năm.
Chủ của Long, Cordell Hull, cũng hết sức muốn giải cứu người Do Thái. Lý do thứ nhất là ông có khuynh hướng ủng hộ những tay ngoại giao nhà nghề trong Bộ Ngoại giao như Long. Lý do khác là ở Bộ, người ủng hộ đồng tình nhất việc giúp những người tị nạn Do Thái, trước khi ông bị trục xuất, là kẻ thù không đội trời chung với Hull, Sumner Welles.
Còn một lý do khác nữa mang tính cá nhân hơn. Vợ Hull, trước kia là Frances Witz ở Staunton, Virginia, mang nửa dòng máu Do Thái trong người. Như sử gia Irwin Gellman đã viết, trong nhiều năm Hull che giấu lai lịch Do Thái của vợ mình vì sợ nó sẽ gây ra cuộc tranh cãi và ngăn trở ông
https://thuviensach.vn
thực hiện được ước muốn mãnh liệt là ra ứng cử Tổng thống. Tháng Tám 1936 tập san American Eulletin nhấn mạnh rằng Hull là "tên nô lệ" của người Do Thái, “phản bội” chức vụ "để làm thoả mãn tính tham lam của những người đổi tiền.” Các tiểu luận khác buộc tội Frances thúc ép lợi nhuận của ngân hàng Do Thái ủng hộ Hull trong các hoạt động chính trị để ông giúp những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Như Gellman viết Hull “cố ý lảng tránh vấn đề người tị nạn,” lo lắng những người theo chủ nghĩa Do Thái "sẽ cho rằng vợ ông thúc ép ông ủng hộ các mục tiêu của người Do Thái."
Đa số bạn bè của Hull nhón gót đi quanh đề tài về dòng giống Do Thái của vợ ông. Nhưng lúc này, Morgenthau không còn kiên nhẫn với những chi tiết vụn vặt được nữa. Ông thẳng thừng bảo Hull rằng nếu ông “là một thành viên Nội các của nước Đức ngày nay, thì Hull có thể đã ở trong trại tập trung, và chỉ Chúa mới biết vợ Hull đang ở đâu."
Morgenthau nhận thấy Ngoại trưởng “chỉ bối rối." Ngã lòng, Bộ trưởng Tài chính phàn nàn với các cộng sự, Roosevelt sẽ không tiếp tục kích động Hull. Ông chưa bao giờ. Và Hull sẽ không tiếp tục kích động Long.” Morgenthau muốn Tổng thống sa thải Hull, nhưng lại biết rằng Roosevelt không muốn: "Có lần tôi hỏi Tổng thống là ông muốn an sinh Xã hội làm gì hoặc tiền trợ cấp dưỡng lão? ông không bao giờ sa thải bất kỳ ai!”
Morgenthau đau đớn nhận thấy thái độ của Tướng Eisenhower đối với những người tị nạn “không khác" với thái độ của người Anh tức là “đây là một điều khó chịu dáng nguyền rủa.” Phụ tá thân cận Harry Dexter White của Morgenthau trả lời rằng thái độ của chính quyền Mỹ đối với các người tị nạn "tồi tệ hơn thái độ của người Anh" vì nó bị phủ lớp đạo đức giả. Chúng tôi không bắn họ. Chúng tôi không để cho người khác làm điều đó. Chúng tôi chỉ bỏ đói họ!”
Bộ trưởng Tài chính biết là chỉ có một tòa phán xét sau cùng. Sau này Pehle nói là Morgenthau đánh giá mối quan hệ của ông với Tổng thống cao hơn mọi điều khác,” và "ông không muốn đứng ra như một người Do Thái." [29] Dubois nhớ lại đã có “cảm giác” từ “một ít điều” mà Morgenthau nói
https://thuviensach.vn
với ông rằng "Roosevelt không phải là người vĩ đại nhất - chúng ta hãy diễn đạt theo cách này - về vấn đề Do Thái ấy."
Ngay từ đầu chiến tranh, Morgenthau yên lặng và cẩn trọng cố gắng giúp nhưng người tị nạn Do Thái. Nhưng sau khi ông biết hết sự thật về các trại tập trung của Đức quốc xã và cách mà Long và các viên chức Mỹ khác đóng sầm cửa vào khả năng mà những người Do Thái bị đầy đọa có thể được cứu thoát bằng cách nào đó, thì một điều gì đó trong ông tan vỡ.
Như Henry III nhớ lại, cha của Morgenthau và vợ ông “không muốn nhìn thấy ông dính líu vào các công việc Do Thái." Nhưng khoảng năm 1944, Morgenthau bố đã tám mươi tám tuổi và Elinor Morgenthau đang yếu đi vì bệnh tim mạch. Henry III ghi chép rằng lúc bấy giờ Elinor "ít ảnh hưởng đến ông, và bà Klotz có nhiều ảnh hưởng đến ông hơn."[30] Ông tự biện rằng tính mãnh liệt mới của Bộ trưởng Tài chính về các vấn đề Do Thái cũng có thể là “cuộc nổi loạn chậm chống lại cha mình."
Có lý do nào biện minh cho thái độ thay đổi của Morgenthau, đó chính là khoảnh khắc quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông. Nếu việc đi đến với Roosevelt làm cho Tổng thống nghĩ ông là người cầu xin đặc biệt cho đồng hương Do Thái, hẳn đúng là như thế. Nếu tính dũng cảm của ông gây nguy hiểm cho mối quan hệ đáng quý với Tổng thống, ắt cũng là như thế. Như Randolph Paul nhớ lại, chủ ông “đang nắm cuộc đời chính trị của ông trong tay ông.”[31] Đã quyết định, ngay từ khoảnh khắc đó Morgenthau là một con người khác hẳn.[32]
Nhiều năm sau, Morgenthau gặp Gerhart Riegner thuộc Hội đồng Do Thái Thế giới, người gửi bức điện từ Geneva cảnh báo ông về các trại tập trung và hoàn cảnh tuyệt vọng của những người tị nạn. Morgenthau chào Riegner, "Đây là người đồng hương đã ìàm thay đổi cuộc đời tôi!"
Morgenthau xin diện kiến Tổng thống vào ngày Chủ nhật trung tuần tháng Giêng. Ông mang theo phiên bản một tài liệu do các phụ tá của ông giao cho, gọi là “Báo cáo Bộ trưởng về sự phục tùng Chính quyền này trong Tội ác giết người Do Thái." Báo cáo bắt đầu một cách buồn rầu, một trong
https://thuviensach.vn
các tội ác lớn nhất trong lịch sử, cuộc tàn sát dân tộc Do Thái, đang tiếp tục không hề giảm sút."
Trước khi Morgenthau đến Nhà Trắng, phụ tá Tosiah Dubois nói với ông, “Nếu điều đó có ý nghĩa, và nếu ông muốn, ông có thể nói với Tổng thống rằng nếu Tổng thống không hành động dựa vào báo cáo này, tôi sẽ từ chức và gửi báo cáo này cho báo chí.”
https://thuviensach.vn
VII
ĐÀN ÁP NGƯỜI DO THÁI
Chủ nhật ngày 16 tháng Giêng 1944, ngay đầu giờ chiều, Roosevelt đón Morgenthau và các phụ tá của ông tại cầu thang Phòng Bầu dục ở khu dành cho gia đình trong Nhà Trắng. Tổng thống vẫn còn bị "cúm" trong chuyến đi Tehran. Tuy không thích Tổng thống song Randolph Paul ngạc nhiên vì Roosevelt "ăn mặc rất thanh lịch.”
Như Morgenthau sau này nhớ lại, ông cảm thấy “rất lo" về buổi diện kiến này. Ông đưa cho Tổng thống bản cáo trạng ông buộc tội Breckiridge Long và Bộ Ngoại giao về "sự chần chừ trắng trợn" và "cố gắng ngăn chặn hành động cứu nguy người Do Thái khỏi tay Hitler."
Roosevelt xem lướt qua báo cáo và chăm chú lắng nghe trong khi Morgenthau và John Pehle tóm tắt. Báo cáo cảnh báo rằng một “số lớn người Mỹ" nhìn thấy “rõ ràng chủ nghĩa bài Do Thái" phía sau các hành động của Bộ Ngoại giao, có thể “nổ thành vụ tai tiếng xấu xa... Việc giải cứu người Do Thái khỏi bị hủy diệt là một niềm tin quá lớn không thể vẫn nằm trong tay của chung người lãnh đạm, nhẫn tâm và có lẽ cả thù địch nữa."
Roosevelt bảo vệ Bộ Ngoại giao của mình. Ông nói, Long đã “hơi ngâm giấm" người tị nạn sau khi Giáo sĩ Wise khuyên ông nhận một danh sách dài tên của họ, “nhiều người trong số đó đã hóa thành những con người xấu."
Morgenthau trả đũa, Chưởng lý Francis Biddle đã bảo đảm với Nội các rằng chỉ ba người tị nạn Do Thái được nhận vào trong suốt Thế chiến II, và đó là điều động chê trách." Ông đòi hỏi Long phải bị tước hết trách nhiệm
https://thuviensach.vn
về người tị nạn. Morgenthau đưa cho Roosevelt một phác thảo mệnh lệnh hành pháp "đoán trước kế hoạch của các đảng viên Đức quốc xã tiêu diệt mọi người Do Thái và các tộc người thiểu số khác.” Nó sẽ tạo ra một Bộ Tị nạn Chiến tranh (War Refugee Board) mới, bao gồm Ngoại trưởng và Bộ trưởng Tài chính, dưới sự giám sát trực tiếp của Tổng thống. Morgenthau cạnh báo rằng các thành viên của Thượng và Hạ viện đang phàn nàn về việc Bộ Ngoại giao lề mề lê gót. Nếu Roosevelt không hành động. Quốc hội, Quốc hội có thể quật đổ "thái độ lãnh đạm” của Tổng thống thành bị kết tội và suốt năm tranh cử.
Roosevelt từ chối cam kết. Sau bốn mươi phút, vợ ông bước vào phòng và kết thúc cuộc diện kiến: “Xem nào Franklin. Hãy nhớ là anh chưa được khỏe đâu nhé."
Morgenthau lo lắng là sự mãnh liệt của ông đã làm xa lánh Tổng thống. Ông viết trong nhật ký, “Tôi rất thành thật... nhưng ông không có vẻ gì là hứng thú.” Chiều tối hôm đó, ông thăm dò nhiệt độ Roosevelt bằng cách gọi điện thoại cho ông lấy cớ muốn hỏi ý kiến ông về bài diễn văn, trong đó ông khiển trách các "tên đầu sỏ Đức đáng ghét.”
Roosevelt nói, "Tốt." Morgenthau hỏi lại, "Ngài chắc chứ?” Tổng thống trả lời, “Chắc. Nhưng ông có thể thêm vào chữ “đã được chứng minh” sau chữ các tên đầu sỏ.”
Morgenthau viết trong nhật ký, "Ông đùa giỡn và bỡn cợt tôi và có vẻ như đang trong tâm trạng rất vui." Bộ trưởng Tài chính rất yên lòng vì Roosevelt dường như "không có phản ứng bất lợi trong tâm trí của ông về tôi, điều này đcmg cổ vũ... Tôi hy vọng ông sẽ nhìn thấy điều này qua việc tôi chăm sóc ông."
Sáu ngày sau, Roosevelt thành lập Bộ Tị nạn Chiến tranh. Nhưng ông thận trọng đặt Bộ trưởng Chiến tranh của ông làm một thành viên. Ông biết sự hiện diện của Henry Stimson điềm đạm, người bị nghi ngờ sử dụng nguồn quân sự giúp người tị nạn, sẽ giữ cho nhóm mới này khỏi quá trơ tráo.
Vì sao Tổng thống đã hành động? Ông hiểu rằng khi quân Đồng minh đầy lùi sự bạo ngược của Đức quốc xã ở châu Âu năm 1944, và nếu có sự
https://thuviensach.vn
tin tưởng mạnh hơn vào chiến thắng, sẽ có các cơ hội giải cứu mới. Ông không muốn Quốc hội nghe được là ông không hành động. Roosevelt cũng có thể lo lắng là nếu không quá thường dính líu với một người Do thái như Morgenthau quá lo lắng về vấn đề, ông có thể rơi vào mối nguy hiểm sắp tới với các cử tri Do Thái đang giận dữ trong các bang lớn, mang tính quyết định.
Trong ba mùa thắng cử đầu tiên, Roosevelt lệ thuộc vào số lượng phiếu bầu khổng lồ của người Do Thái. Ông biết rằng nếu mùa bầu cử năm 1944 sắp đến mà bị giảm sự ủng hộ của người Do Thái, có thể mang ý nghĩa thất bại. Và có một cơ hội thuận tiện là đối thủ tháng Mười Một của ông sẽ là Thống đốc bang New York, Thomas Dewey, người có các mối quan hệ tuyệt vời với các nhà lãnh đạo Do Thái và có thể tìm cách vượt trội hơn Tổng thống về vấn đề người tị nạn và tổ quốc Do Thái ở Palestine, để có được các cử tri Do Thái.
Vui thích vì những gì ông chủ của họ đã làm, các phụ tá của Morgenthau viết cho ông một lá thư khen ngợi "lòng dũng cảm và tài năng của nhà chính trị” mà với nó "ông và chỉ mình ông" mới giúp làm thay đổi thái độ của Chính quyền này đối với việc cứu nguy người Do Thái và các dân tộc bị ngược đãi khác" khỏi "bị tiêu diệt.” Morgenthau đã nói trước với họ, “Nhưng bi kịch là - mẹ kiếp! - việc này đã phải thực hiện từ tháng Hai cơ." Nhớ đến hành động thúc giục của bà Klotz, sau này ông viết thư tay cho bà rằng bất kỳ công trạng nào tôi đáng được" về việc giúp để cứu thoát người tị nạn Do Thái, tôi đều muốn bà cùng hưởng."
Roosevelt muốn có "một nhân vật nổi tiếng" làm giám đốc bộ. Morgenthau đề nghị đối thủ năm 1940 của Tổng thống, Wendell Willkie, nhưng thư ký Crace Tully của Roosevelt nói với Bộ trưởng Tài chính rằng Tổng thống không muốn cho Willkie bất kỳ “sự phô trương đề cao" nào, vì ông đang tìm kiếm sự chỉ định của Đảng Cộng hòa năm 1944. Morgenthau chuyển sang Pehle, biết rằng người của mình làm giám đốc sẽ giúp ông kiểm soát được tổ chức. Roosevelt chấp thuận. Khoảng cuối cuộc chiến tranh, Bộ Tị nạn Chiến tranh đã giúp giải thoát được hai trăm ngàn người Do Thái ở Đông Âu, Pháp, Ý, Bắc Phi và các nơi khác.
https://thuviensach.vn
Ở Luân Đôn, Bộ trưởng Ngoại giao Anh Anthony Den, người không có cùng nhiệt tình giúp người tị nạn của Churchill, dã bí mật phàn nàn rằng Roosevelt thành lập một bộ để xoa dịu “lượng lớn cử tri Do Thái" ở Mỹ trước mùa bầu cử tháng Mười Một. Henry Stimson cũng không vui gì về bộ này. Ông sợ rằng nó sẽ hướng sự chú ý từ việc thắng trận và áp lực công khai rất lớn để dưa người tị nạn Do Thái đến Palestin, chống lại người Ả Rập và phá hỏng nguồn cung cấp dầu. Ông đã chuyển bổn phận giao dịch với bộ sang cho thư ký phụ tá John McCloy.
Morgenthau viết thư yêu cầu McCloy gửi cho các sĩ quan chỉ huy quân đội Mỹ một bản sao chỉ thị mới của Roosevelt là bộ phải thực hiện mọi việc để có thể giúp các nạn nhân của Đức quốc xã đang "trong cơn nguy hiểm chết người sắp xảy đến," bao lâu "còn phù hợp với sự theo đuổi một cuộc chiến thắng lợi.” McCloy đã thực hiện, nhưng cảnh báo Bộ Tham mưu rằng ông "rất thận trọng trong việc đưa Quân đội dính líu vào chuyện này trong khi chiến tranh còn đang tiếp diễn."
Khi đích thân chịu trách nhiệm về người tị nạn Do Thái. Roosevelt kết thúc tình trạng bình thản công khai của mình về những gì Hitler đang làm đối với người Do Thái ở châu Âu. Tháng Ba 1944, Hitler ra các chỉ thị cho chính quyền Hungary (Hungary) mới hành động chống lại hơn 750.000 người Do Thái ở đó. Các nhà lãnh đạo Do Thái Mỹ khẩn khoản Roosevelt và những người khác nhớ đến một chế độ mới ở Budapest có thể hãm hại người Do Thái, vì có thể sẽ có sự trừng phạt hà khắc một khi quân Đồng minh chiến thắng.
Tháng đó, được Morgenthau kích động một lần nứa, Roosevelt không trì hoãn hoặc đưa ra ruột phát biểu bằng văn bản chặt chẽ nào mà không đề cập đến người Do Thái. Thế nhưng, thứ sáu ngày 24 tháng Ba 1944, trong một phiên họp ở Phòng Bầu dục với các phóng viên, ông đưa ra lời tuyên bố thẳng thắn nhất đời ông về “Giải pháp cuối cùng”. Lần đầu tiên ông nói với dân Mỹ bằng ngôn ngữ bình dị về những gì sau này được biết đến là nạn tàn sát người Do Thái vào thời Hitler. Để bảo đảm rằng đồng minh của ông hiểu được là ông không mở rộng các mục tiêu chiến tranh, trước hết ông làm sáng tỏ lời phát biểu với Stalin và Churchill.
https://thuviensach.vn
Từ bản chính, Roosevelt đọc, “Một trong các tội ác ghê tởm nhất của toàn bộ lịch sử - do các đảng viên Đức quốc xã khởi sự trong ngày hòa bình và chủng nhân lên gấp một trăm lần trong thời chiến - thảm sát người Do Thái hàng loạt, có hệ thống ở châu âu vẫn tiếp tục không hề giảm sút từng giờ một... Chưa một ai tham gia vào các hành động tàn bạo này bị trừng trị... Tất cả những người cố tình tham dự vào việc lưu đầy người Do Thái đến chết ở Ba Lan hay lưu đầy người Na Uy và người Pháp đến chết ở Đức đều phạm tội sát nhân".
“Hitler đang phạm các tội ác chống lại nhân loại nhân danh dân tộc Đức. Tôi yêu cầu mọi người Đức và tất cả mọi người... ở mọi nơi dưới sự thống trị của Đảng Quốc xã trình bày cho thế giới thấy bằng hành động mà trong thâm tâm không đồng tình với tội ác điên cuồng này. Hãy che giấu các nạn nhân bị săn đuổi này. Hãy giúp họ vượt qua biên giới và hãy làm những gì có thể để cứu họ khỏi tay đao phủ của Đức quốc xã."
Roosevelt nói, khi "các hoạt động quân sự cho phép," Mỹ sẽ tìm được “những nơi trú ẩn tị nạn” cho "mọi nạn nhân của đao phủ Quốc xã Đức và Nhật."[33]
Các phóng viên chỉ nêu ra một câu hỏi về lời tuyên bố: Thế Tổng thống có kế hoạch đưa người tị nạn đến Mỹ không? Ông trả lời, "Ồ chưa, vì chưa có đủ người đến.”
Khi Morcenthau đấu tranh giúp người tị nạn, ông đụng đầu với John McCloy, người đồng tình với Stimson rằng lực lượng vũ trang Mỹ phải được sử dụng để giải cứu các nạn nhân của Đức quốc xã nếu việc làm như thế không phải là “kết quả trực tiếp" của các hoạt động quân sự nhằrn để thắng trận. Những năm sau này, McCloy nhớ lại rằng Morgenthau “quá giận dữ” về cách Hitler đối xử với người Do Thái đến nỗi “ông sẽ làm mọi việc trong quyền lực của mình" đề chống lại nó. Ông nghĩ Morgenthau "không khoan nhượng.”
McCloy bắt đầu cuộc sống trong một khuôn khổ giản dị. Chào đời ở Philadelphia năm 1895, cha ông, một nhân viên bảo hiểm đã mất lúc ông mới bốn tuổi, mẹ ông phải hành nghề thợ làm tóc. Sau khi học Luật ở
https://thuviensach.vn
Aamherst và Harvard, ông tham chiến ở Pháp trong Thế chiến I và có thời gian ngắn phục vụ cho Quân đội Mỹ ở Đức. Năm 1930, ông kết hôn với Ellen Zinsser, chào đời tại Mỹ và là con gái của một người Đức giàu có tới Mỹ hồi đầu thế kỷ.
Là luật sư tại Phố Wall theo Đảng Cộng hòa trong thập rên 1920, McCloy dành nhiều thời gian “thu tiền nợ” ở Đức. Ông nhớ lại, chúng ta đều là người châu âu trong cách nhìn của chúng ta, và mục đích của chúng ta là thấy nó được tái thiết." Ông tin rằng thay vì hòa bình nhằm trừng phạt được áp đặt lên nước Đức trong hiệp ước Versailles, những người chiến thắng phải kéo nước bại trận vào nền kinh tế châu Âu và ủng hộ nó như bức tường thành chống lại chủ nghĩa Bolshevik Liên Xô.
Năm 1939, sau gần một thập niên làm việc, McCloy đòi được tiền bồi thường thiệt hại đáng kể từ người Đức cho các nguyên đơn Mỹ về vụ nổ năm 1916, được cho là do các kẻ phá hoại người Đức thực hiện, tại kho đạn dược ở New Jersey có tên là “Black Tom.” Chiến thắng của ông làm ông nổi tiếng là chuyên gia về gián điệp của Đức.
Năm sau, Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson, người biết McCloy là người chơi quần vợt “xuất sắc" tại Câu lạc bộ Quý tộc Ausable ở bắc New York, yêu cầu ông khuyên cơ quan tình báo Quân sự ngăn chặn sự phá hoại của người Đức. Từ lâu, Stimson đã sử dụng người cố vấn hợp với ông làm người môi giới, người săn tin, người giải quyết và người dàn xếp. Mccloy bỏ Phố Wall đi làm phụ tá toàn thời gian cho Bộ trưởng. Trước kế hoạch Thuê - Mượn vũ khí năm 1941 của Roosevelt, McCloy và Morgenthau cùng làm công việc rót tiền viện trợ của Mỹ cho Anh quốc tham chiến. Như McCloy nhớ lại, “Tôi biết ông ta rất rõ, vì ông ở cạnh tôi suốt - “Hãy cho tôi biết đạn dược này sẽ đi đâu?... Thế ông không thể vận chuyển chúng bằng tàu ra nước ngoài nhanh hơn cách ông hiện đang làm hay sao?"
Giống như Stimson, McCloy nhấn mạnh rằng cách tốt nhất để giúp người Do Thái và các nạn nhân khác của Hitler chỉ là thắng trận nhanh bao nhiêu có thể. Tháng Hai 1944 họ chứng tỏ câu nói mang tính hướng dẫn, chúng ta phải luôn ghi nhớ sự trợ giúp hiệu quả nhất cho các nạn nhân của hành động ngược đãi của kẻ thù là bảo đảm Phe Trục sớm bại trận."
https://thuviensach.vn
Nhà viết sử Kai Bird của McCloy tin rằng McCloy không phải là người chống Do Thái nhưng ông “chia sẻ một số các định kiến như thế” được nhiều người cùng thế hệ và địa vị xã hội với ông” thấu hiểu. Nhớ lại những câu chuyện về hành động tàn bạo của Thế chiến I đã được chứng minh là không có thật, McCloy không chắc chắn là ông nên tin bao nhiêu vào thông tin về các trại tập trung Đức quốc xã. Ông cảm thấy phần công việc của ông là bảo vệ Stimson chống lại sự biện hộ đặc biệt này. Ông nói với sử gia người Anh Martin Gilbert trong những năm đầu thập niên 1980 về chuyện là đại thể ông bị các lời thỉnh cầu của người Do Thái quấy rầy biết bao nhiêu trong suốt cuộc chiến tranh.
Cuối mùa xuân năm 1944, Morgenthau đang thúc ép Bộ Tị nạn Chiến tranh tìm một căn cứ Quân sự không dùng đến hay một nơi trú ẩn khác nào đó ở Mỹ, nơi một nhóm nhỏ người tị nạn đa phần là người Do Thái từ Ý có thể tạm thời trú ngụ. Thứ ba ngày 01 tháng Sáu, khi Josiah Dubois đặt vấn đề với McCloy qua điện thoại, McCloy bảo ông rằng việc của Quân đội không phải là chăm sóc người tị nạn.
Phản ứng của McCloy làm Morgenthau bị tổn thương và trưa hôm đó ông mang bản ghi chép cuộc nói chuyện đến buổi họp Nội các cho Roosevelt, Hull và Stimson đọc. Stimson phát cáu vì McCloy đã không chỉ dẫn cho ông tường tận về người tị nạn: “Điều phiền hà với McCloy là ông luôn chạy theo trái banh." Nhưng ông thẳng thắn nói với Tổng thống là ông nhất trí với Mccloy rằng vấn đề người tị nạn "không phải là việc của Bộ Chiến tranh."
Roosevelt trả lời là “dù trong hoàn cảnh nào thì những người này cũng phải quay trở về.”
Sau cuộc họp. Stimson đưa ra một bản ghi nhớ viết rằng “một người nào đó" ở Nội các, ám chỉ đến Morgenthau, đã phê bình McCloy là “kẻ áp bức người Do Thái.” Khi McCloy đọc tài liệu này, ông điên tiết lên. Biết được McCloy giận dữ, Morgenthau đề nghị ông ta sáng sớm hôm sau đến ngôi nhà đá mà ông mướn trên đường Belmont trong khu Kalorama giàu có gần Washington để xua tan bầu không khí nặng nề.
https://thuviensach.vn
Đến sớm hơn mười phút, McCloy trực tiếp nói với Morgenthau, “Tôi biết tôi bị phê bình ở Nội các.” Ông lặp lại vài lần, một ai đó trong Nội các nói tôi là kẻ đàn áp người Do Thái. Đó là điều khủng khiếp."
Morgenthau không trực tiếp thừa nhận là ông đưa ra lời phê bình nhưng nói, “Đó là lý do vì sao tôi muốn mời ông đến đây để nói chuyện thẳng thắn với ông.” Ông giải thích rằng ông phàn nàn với Roosevelt và Stimson về việc Mccloy kéo lê vấn đề người tị nạn từ Ý. Stimson "bực mình” vì chúng ta đang thảo luận điều mà ông ta không biết... Ông biết đấy, ông phải nói với Stimson những vấn đề này hai, ba lần thì ông ta mới nắm được."[34]
Morgenthau vui mừng lợi dụng sự lúng túng của Mccloy để khiến ông ta dành căn cứ Quân đội không sử dụng cho người tị nạn: "Đây là bằng chứng cho phần thế giới còn lại biết đến chúng ta, chính quyền Mỹ, không quá cao ngạo đòi hỏi phần thế giới còn lại làm những điều mà chúng ta không muốn làm. Đó chỉ là những vì người Đức vẫn nói.”[35].
Lúng túng, Mccloy bảo ông rằng Pháo đài Ontario, ở Oswego, New York, có thể chứa được một ngàn tám trăm người tị nạn. Hăm hở chứng minh mình không phải là kẻ đàn áp người Do Thái, ông nói rằng “Quân đội muốn là con đường sắt trên mặt đất để mang những người này ra,” nhưng một ai khác phải nuôi dưỡng và chăm sóc người tị nạn sau khi họ đến.[36] Ông hứa sẽ “làm rõ điều này với Stimmie”
Hồ hởi với chiến thắng nhưng kiệt sức vì phải đương đầu với Mccloy, lúc 9 giờ 15 buổi sáng, Morgenthau nói với các phụ tá, "Tôi vui vì mình đã hành động nhanh chóng, và lúc này tôi rất muốn đi ngủ!" Ông nói rằng McCloy là "một con người" và “thẳng thắn mà nói, ông là một con người bị làm phiền.”
Ở Budapest, bất chấp lời cảnh báo vào mùa xuân của Roosevelt, chế độ mới đang bắt đầu tiến hành chiến tranh chống người Do Thái ở Hungary. Tổng thống được thông báo cho biết là Adolf Eichmann thuộc Bộ An ninh của Đức quốc xã (Reich Security Min Office), người đang điên cuồng thực hiện “Giải pháp cuối cùng”, đã đưa ra đề nghị trao đổi một triệu người Do Thái lấy xe tải và các tài sản khác[37]
https://thuviensach.vn
Mặc dù lo sợ phải thương lượng với Hitler, Morgenthau và Pehle vẫn yêu cầu Roosevelt theo đuổi lời thăm dò, hy vọng nó có thể đình chỉ việc lưu đầy người Do Thái. Roosevelt nói ông muốn quan tâm đến các cuộc đàm phán gián tiếp, bí mật với người Đức nếu có "các khả năng cứu thoát mạng sống từ xa,” với điều kiện là Mỹ có thể từ chối những cuộc đàm phán nếu chúng bị công khai phơi bày ra.
Ngoại trưởng Anh Anthony Eden nghi ngờ mục đích duy nhất của lời đề nghị đổi "hàng hóa lấy máu” của Eichman là lôi kéo Anh - Mỹ vào quan hệ bí mật với Hitler. Cố gắng chia rẽ quân Đồng minh, các đảng viên Đức quốc xã tiết lộ những cuộc thảo luận với Stalin để đưa ông ra đọ sức với Roosevelt và Churchill.
Để giữ cho Stalin khỏi bị kích động, Anh - Mỹ thận trọng bảo đảm rằng Moscow được thông tin về đề nghị của Eichmann. Nhưng Liên Xô phản đối “bất kỳ cuộc đàm phán nào" với chính quyền Hitler. Churchill thiết tha muốn giúp đỡ người Do Thái, nhưng ông đành thúc thủ, "Chắc chắn chúng ta không thể đàm phán với người Đức về vấn đề này".
Khoảng đầu tháng sáu 1944, chỉ trong ba tuần, Đức quốc xã đã đưa đi đầy hơn một phần ba người Do Thái ở Hungary. Các nhà lãnh đạo Do Thái đang đề nghị một biện pháp cụ thể hơn để chống lại nhưng kẻ giết người. Jacob Rosenheim, nhà lãnh dạo Do Thái chính thống trên thế giới, và nhung người khác viết cho Morgenthau, Bộ Chiến tranh, Bộ Tị nạn Chiến tranh và các viên chức Mỹ - Anh khác, khẩn nài họ thả bom các tuyến đường xe lửa từ Hungary đến trại tập trung tại Auschwitz ở Ba Lan. Rosenheim cảnh báo, “Hãy đếm từng ngày một."
Hành động theo các chỉ thị của Churchill, Eden tự hỏi sao chính các lò sát sinh không bị ném bom. Churchill ra lệnh, "Hãy dùng Không lực loại bỏ tất cả, và nếu cần gì hãy báo cho tôi biết.” Ông bảo Eden, "Chắc chắn đây có thể là tội ác lớn nhất và khủng khiếp nhất đang diễn trong toàn bộ lịch sử thế giới và nó được thực hiện bởi bộ máy khoa học do chúng con người văn minh trên danh nghĩa nhân danh một quốc gia vĩ đại và một trong nhưng chủng tộc thượng đẳng ở châu Âu." Bộ trưởng Không quân của Churchill,
https://thuviensach.vn
Ngài Alexander Sinclair, khuyên rằng các phi công ném bom Mỹ đang ở vị trí tốt nhất để thực hiện công việc nhưng có thể “tốn kém và nguy hiểm.” Ngày 24 tháng Sáu, trong cương vị giám đốc điều hành Bộ Tị nạn Chiến tranh, John Pehle thận trọng yêu cầu McCloy khảo sát vấn đề. Gần như chắc chắn làm mất uy tín địa vị của Morgenthau, Pehle viết cho McCloy nói rằng ông đã có "vài nghi ngờ" về việc bỏ bom Auschwitz.[38] Khi thực hiện công việc như thế có thích hợp cho Quân đội Mỹ không, và liệu các tuyến đường xe lửa có bị phá hủy đủ lâu để cứu người Do Thái ở Hungary không? Bộ Tị nạn Chiến tranh kết luận rằng, nếu bị bỏ bom, các tuyến đường vận chuyển có thể nhanh chóng được sửa chữa lại. Tuy nhiên, Pehle gửi cho Mccloy một bản sao chép bức điện của Bộ Tị nạn Chiến tranh gửi từ Thuỵ Sĩ, liệt kê năm lộ trình lưu đầy chính từ Hungary và yêu cầu ném bom chúng. Khi nhận được thư, phụ tá của McCloy, Đại tá Harrison Cerhardt, nhắc nhớ McCloy rằng ông đã nói với ông ta “hủy" lời đề nghị Rosenheim, “nhưng vì các chỉ thị đó mà chúng tôi đã nhận được lá thư gắn bó từ Pehle." McCloy xem đề nghị như sự vi phạm rõ ràng lời tuyên bố chính thức của ông và của Stimson là tài nguyên quân sự chỉ được sử dụng để thắng trận. Ngày 04 tháng Bảy 1944, ông viết cho Pehle rằng việc đánh bom các tuyến xe lửa sẽ có kết quả đáng ngờ" và “có thể chỉ được thực hiện bởi chiến thuật nghi binh của không lực chủ yếu để yểm trợ cho sự thành công của lực lượng của chúng ta hiện đang giao chiến trong các cuộc hành quân quyết định" vào châu Âu.[39] Sau này McCloy sử dụng cùng cách diễn đạt này để bác bỏ các đề nghị ném bom Auschwitz.
Sử gia Arthur Schlesinger, Jr., có lý khi cho rằng Franklin Roosevelt "hơn bất kỳ ai, xứng đáng được tín nhiệm để huy động lực lượng tiêu diệt hành động dã man của Đức quốc xã.” Tuy nhiên, nửa thế kỷ sau, một trong các khía cạnh gây tranh luận nhất về tài lãnh đạo trong Thế chiến II của Roosevelt là việc Mỹ không bỏ bom Auschwitz. Những người bảo vệ tích cực nhất cho Roosevelt nhấn mạnh rằng cách tốt nhất để cứu người Do Thái là chiến thắng ở mặt trận châu Âu nhanh bao nhiêu có thể. Họ nhất trí với quan điểm của McCloy là việc hướng những người ném bom và phi hành
https://thuviensach.vn