🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm: Những ngã tư và những cột đèn Tác giả: Trần Dần
Thể loại: Tiểu thuyết
Nhà phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 10/2014
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
I
Đông 1954
II
III
Xuân 1955
Hè 1955
IV
V
VI
Thu 1955
VII
VIII
Tối thứ bảy
Sáng thứ hai
Đông 1955
IX
X
XI
9 giờ khói
XII
XIII
XIV
XV
XVI
TRẦN DẦN 1926-1997
TRẦN DẦN (1926-1997) sinh tại Nam Định. Năm 1948 ông gia nhập Vệ Quốc Đoàn, và năm 1954 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Năm 1994, tập thơ Cổng tỉnh được xuất bản, sau đó được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2007 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Vãn học Nghệ thuật, năm 2008 giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội và năm 2009 tác phẩm Trần Dần - THƠ được trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô.
Những tác phẩm của Trần Dần do Nhã Nam xuất bản:
- Trần Dần - THƠ
- Đi! Đây Việt Bắc
- Những ngã tư và những cột đèn
LỜI NÓI ĐẦU
Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường.
Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966.
Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987.
Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc.
Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990.
Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.
Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy,
tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989.
Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ.
Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới.
Vũ Văn Kha
Kính gửi đồng chí đánh máy. Đề nghị đồng chí, nếu có thể, chú í cho mấy điểm:
1. Về trình bày, cứ đánh liền không xuống dòng. Chữ đầu đánh luôn từ đầu dòng, không thụt vào. Coi như cuốn sách gồm từng ô, như ô ruộng đầy chữ. Giữa các ô có những vệt trắng, 1 dòng, 3 dòng, 5 dòng, tùy theo, như những bờ vùng, bờ thửa. Những vệt trắng này, xin để trắng, đừng đánh sao.
2. Chỗ nào đề bằng con số, xin cứ đánh con số. Ví dụ: 8 giờ 30, mùa đông 1959, v.v…
3. Chữ y, trong cuốn sách này, đa trường hợp viết lại là i, xin cứ đánh i. 4. Có những chữ dính liền, ví dụ Cônhăc, Côtab, Lily, xin cứ để dính liền.
5. Những chữ điệp nhiều nguyên âm, ví dụ xìì, khèè, v.v…, xin cứ để như thế.
Tôi đề nghị như vậy, không phải vì tôi muốn lập dị. Tôi rất cám ơn. Hà Nội 1965, TRẦN DẦN
“Tộiphạm,vàcácthứtộiphạm,phảitựgánhlấytộilỗicủamình”.
I
Tháng sáu 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật. Những xê dịch lủng củng, lỉnh kỉnh, của các con số, làm sao giúp tôi luôn luôn 37° không lên cơn sốt? Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím. Bên kia cửa sổ tôi xanh: có sáu cây bàng lá xanh và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng và phố thời chiến vắng lặng. Tôi không tìm được, ở đâu trong nhật kí, trang cuối một cuộc chiến tranh, và ở đâu, trang đầu một cuộc chiến tranh nữa. Nhưng tôi biết, một buổi chiều bình thường, bỗng dưng ngoảnh lại, đã thấy những đám khói sau lưng. Một buổi chiều khác, đã thấy chiến tranh bao vây mọi phía, lấp kín mọi lối đi về. Tôi chuẩn bị một cuốn sách, chép lại từ 250 trang nhật kí, lem nhem mực tím, xen lời kể các nhân chứng, của chiến tranh, của tình bạn, tình iêu. Tôi đi ngược lại thời gian, ngược về những ngày, chiến tranh còn lấp lửng, trong hòa bình. Tôi chuẩn bị cất vào thời gian, những lưu niệm phức tạp, và cả những không vui nào nữa. Nhật kí bắt đầu một buổi tối, không chính xác, năm 1954. Anh Dưỡng là chủ nhân, của nhật kí. Anh thuộc con số những người tham gia trực tiếp hai cuộc chiến tranh, mỗi lần trên một chiến tuyến. Hai cuộc chiến tranh, là hai cuộc đời, không thể chia sẻ, cho nhau. Hai cuộc chiến tranh, là quá khứ của anh, là tương lai của anh, cũng chẳng thể liên quan được đến nhau. Giữa hai cuộc chiến tranh, là ba cuốn sổ tay, khổ 20x18, loại bìa dằn di. Sau này các cửa hàng mậu dịch quốc doanh không bán loại sổ tay này nữa. Sau này tôi hiểu tại sao, anh Dưỡng đã không chọn, những sổ tay bìa hoa hồng, hoặc hoa sen, hoặc hoa đào. Giữa hai cuộc chiến tranh, là nhật kí.
Không biết, tôi đã đọc ở đâu, một í kiến về thời gian, như thế này: hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG. Cái KHÔNG thứ nhất là dĩ vãng, vốn đã có, bây giờ không có nữa. Cái KHÔNG thứ hai là tương lai, bây giờ chưa có, vì vậy bây giờ cũng không. Hiện tại chính là khoảng sột soạt giữa hai bờ vực ấy, giữa hai cái KHÔNG ấy. Cho nên hiện tại cũng không là gì cả. Í kiến này giúp đỡ tôi, trong nhiều năm dài, và giải thích vì sao, có động từ hi vọng, vì sao, có động tác ghi nhật kí. Cả hai đều xảy ra, vào một thời điểm, mang tên hiện tại, nhưng trong một khoảnh khắc nhất định. Khoảnh khắc này có thể đo được, bằng những giọt đồng hồ, bằng những quyển lịch, tức là bằng những đồ vật hiện hữu. Những đồ vật hiện hữu, do đó, đã giúp cho hiện tại, từ KHÔNG trở thành CÓ. Chính vì vậy mà người đời ghi nhật kí, và cũng chính vì vậy, nhật kí bắt buộc phải bắt đầu, bằng những con số hiện hữu, là ngày, là giờ, là thứ tự của tuần, của tháng, của năm, của mùa.
Dường như làm như vậy, hiện tại sẽ được khẳng định rõ ràng, vào một chỗ í nghĩa, trên đường tuyến tính, của thời gian, từ trái sang phải, theo chiều mũi tên bay.
Đông 1954
I như trong thánh kinh: tôi bắt đầu viết nhật kí bằng mực tím. I như trong thánh kinh: tôi chạy trốn. Và cũng i như trong thánh kinh: 24 giờ trước khi bắt đầu nhật kí, tôi tháo hết đạn, vứt xuống cống. Tôi mang súng sang nhà chị Hòa, vào một lúc do dự, giữa chiều và tối. Chị lên nhà trên tiếp tôi. Chưa bao giờ tôi đứng gần chị, cho nên nhân dịp này, tôi ngắm chị lâu hơn. Má chị vừa hơ lửa bếp đỏ ửng, vì vậy vẫn còn mồ hôi, mấy hạt trên trán, vì vậy mặt chị đẹp rạng rỡ. Và vì vậy người chị thon, chắc nịch có mùi gái quê. Tôi nộp khẩu súng côn cho chị. Tay tôi chạm phải tay chị, được một lúc: cả hai bàn tay đều ấm nóng. 7 phút đứng gần chị Hòa, tôi hỏi được bốn câu tóm tắt, chị Hòa trả lời tôi, bốn lần ngắn gọn. Thế rồi tôi về, vào một lúc do dự giữa chiều và tối, giữa một cơn rét bất chợt mùa đông. Ngoài phố vắng bởi vì các cửa sổ, 5 giờ đã khép chặt. Gặp ngày mưa gió sậm sịt như thế này, các cửa hàng khóa cửa từ 4 giờ. Đêm chỉ còn tí đèn nhà Bur, và nhà đèn đỏ đầu phố. Từ 30 ngày tôi lên kế hoạch đi trốn, ở thành phố tôi trộm cướp cả ngày cả đêm. Từ một tháng gió lạnh thổi về, dăm thằng nhảy dù, dăm thằng tàu bò như tôi hợp nhau sẵn súng, ập nhà dân tống tiền. Thế là thành phố loạn. Thế là buổi tối bây giờ, Hà Nội đi ngủ sớm. Quan lính các đảng phái, thằng nào cũng tìm đủ cách vơ vét, lấy tí vốn rồi cút. Tôi không chú í vơ vét. I như trong thánh kinh tôi chú í đi trốn, sĩ quan cũng vô khối thằng trốn. Tối nay bộ đội đã đóng đến Mai Linh, để trong thành tối nay, quân hồi vô phèng. 23 giờ trước nhật kí, tôi cải trang làm thợ. Tôi vận mũ xanh, quần vải xanh, áo vải xanh, thêm áo len và giày batkêt xanh. Tôi đeo chiếc bị cói bên trong nhét vừa chiếc khăn mặt, và một bộ đồ để thay, cả hai đều nhuộm cùng một màu xanh.
23 giờ trước nhật kí, Cốm nói: “Anh đi cẩn thận nhé” và rơm rớm nước mắt. Tôi trả lời: “Cốm ở nhà cẩn thận” rồi hôn một chiếc, chả ra đâu vào đâu. Tôi vỗ vào hông Cốm: tôi lo cô vợ, ở lại một mình, trong cái tình hình hủi này. Tôi dặn: “Đêm, Cốm sang ngủ nhà chị Hòa nhé”. Cốm nói: “Em lên mẹ”. Tôi nói: “Lên đấy, mỡ để miệng mèo. Nhà mẹ ba phía, ba cái liếp tre, một bên thằng commăngđô, một bên thằng nhảy dù. Cốm cứ sang nhà chị Hòa”. Tôi hôn chiếc nữa, vì dạy mãi, Cốm vẫn chưa biết hôn. Sau đó tôi xách bị, một mình ra cổng. Tôi sợ hàng xóm phát hiện. Tôi cũng lo, trên đường chạy trốn, bất ngờ tôi chạm trán tụi biệt kích đi tuần đêm. Tụi chúng có lẽ đang đứng đợi, trong bóng tối. Và im lặng, sau một gốc cây, một cột đèn mù. Tôi vội vã đi. Mưa một tí do dự. Đêm không màu. Đường không người. Tôi bước, đã nhiều bước chân. Đã qua nhiều con đường không cây, con đường
có cây, cột điện không đèn, cột đèn không điện. Tôi để lại sau lưng, nhiều ánh điện thành phố. Và vô khối giọt mưa đêm, không đếm được. Hà Nội lùi xa rồi, chỉ còn li ti những chấm sáng, như một bãi cát nhỏ, phủ đầy sao rụng. Không nhìn được rõ ràng, nhưng tôi biết: lúc nào trên đường nhựa, lúc nào đường đất. Mọi con đường đều dẫn tôi đi mãi, vào sâu trong đêm. Bởi vì càng đi, càng thêm đêm, mưa càng thêm mưa. Từ cơn mưa, tụi biệt kích bắt người đi đêm, sẽ bất chợt bước ra. Phía xa kia, là đồng không mông quạnh. Đi hết đồng không, tôi gặp hàng cây, con đường, những cột điện không đèn. Đi hết hàng cây, lại đến đồng không. Đi nữa, lại gặp, cột đèn không điện. Do vậy lúc nào cũng không, không cả những vì sao lạ. Có bao nhiêu vì sao đêm nay, trên cao, cả quen cả không quen, đều rơi hết vào nội thành Hà Nội. Để mặc đêm ngoại thành, tối như mực. Những cánh đồng, vừa đi qua, và sắp sửa đi qua, tôi biết 2/3 là những ụ mả, cái tròn cái dẹt, còn 1/3 là cỏ dại. Đêm và mưa, xóa nhòa hết cả: đồng mả trở thành đồng không. Đêm và mưa, cũng che đi nhưng không hết, mọi kỉ niệm của chiến tranh. Không nhìn thấy, nhưng tôi ngửi được, chỗ nào súng đạn đã đi qua, chỗ nào phong cảnh ban ngày, sẽ rất buồn. I như trong thánh kinh: đêm nay tôi bỏ rơi một chiến tuyến. I như trong thánh kinh: thằng đào ngũ chạy trốn vào mưa. Và cũng i như trong thánh kinh: kẻ hạnh phúc không nhìn thấy đường, mà vẫn bước đi, cho nên tôi mò đường về Lai Thụ. Có một lúc, đồng hồ đeo tay nhấp nháy, để nhắc nó dạ quang. Tôi phải kéo áo, trùm kín lại. Đến một khúc ngoặt, có bên đường thình lình một bóng đen, làm trống ngực tôi hoảng loạn. Cái bóng đen, hóa ra là cái gì đấy, cái gì đấy cuối cùng, không là cái gì cả. Nhiều lúc sau, lại có thình lình một tiếng động trước mặt. Tôi phải đứng im, rồi từ từ, ngồi xuống. Có lẽ đêm nay không chỉ một lần, không biết còn bao nhiêu lần, để tìm một hòn đá. Tôi ném hòn đá, trong một thao tác quân sự, rồi ép ngực xuống đất, nằm chờ im lặng. Chờ mãi, cho đến lúc tôi ù té chạy, trống ngực đập rộn ràng. Tôi chạy, về được một cánh đồng, không mùi súng đạn, nhưng dưới chân, toàn cây gai và cỏ dại mùa đông sũng nước. Gai nhọn đâm qua lớp vải quần: thế là tôi lại chạy nhanh, cho hết cánh đồng không chủ, không cả côn trùng sinh sống. Nhiều lúc sau nữa, tôi đứng im, không đợi trống ngực trở về êm đềm, mà để nhớ lại, một dự định bị bỏ rơi, từ mấy ngày trước. Tôi đứng im mà nghĩ: cũng có thể đi trốn, tại sao không, ngay trong thành phố. Tôi moi sọ tôi, một lần cuối nữa, những địa chỉ quen thân, mà cái nào cũng hủi. Không có chỗ nào trong Hà Nội để đi trốn. Chỉ có Lai Thụ. Lai Thụ trước kia là quê mẹ, sau đó là bà dì tôi tốt bụng, sau đó nữa là hậu phương. Bộ đội đã đóng quá cả Lai Thụ, đến tận Mai Lĩnh. Để tôi có thể an toàn ẩn náu ở quê mẹ, đến ngày Tây xéo khỏi Hà Nội, tôi lại quay về.
24 giờ trước nhật kí, tôi nói với chị Hòa: “Tôi nghe chị trốn ở lại, nhưng tôi
lo”. Chị Hòa hỏi: “Anh lo thế nào?” Tôi nói: “Tôi đào ngũ, bây giờ tôi chạy trốn, bây giờ tôi lo, ở nhà Tây sục đến bắt vợ tôi”. Chị Hòa nói: “Sáng mai đúng 8 giờ 15, chúng tôi sẽ bày cách cho vợ anh, làm lá đơn lên trại đòi chồng, vì bị quân ngũ giữ lại, 8 ngày rồi không về. Tình hình lúc này chúng nhốn nháo, sẽ khất lần cho qua chuyện. Anh đừng lo. Chúng sẽ không làm gì cô ấy đâu”. Tôi gật đầu. Chị Hòa hỏi, còn lo gì nữa không. Tôi nói: “Tôi nghe đài lời kêu gọi tề ngụy, tôi đã hiểu. Chính phủ chọn kẻ lầm đường, kẻ lạc lối, kẻ bị ép buộc, để khoan hồng. Tôi tự nguyên đi lính, cho nên tôi lo”. Chị Hòa nói: “14 tháng trước anh không chống động viên, cho nên tối nay anh sợ. Nhưng trong bốn hình thức của tự-nguyện-đi-lính, sẽ được chọn để khoan hồng, anh thuộc hình thức thứ tư, cho nên anh đừng lo”. Tôi thở phào. Chị Hòa vừa thẳng vừa ngọt, vừa khéo léo vừa thật thà, vừa nghiêm khắc vừa thân tình, vừa chính xác vừa nữ tính, tôi nghe lọt tai. Tôi nói: “Thôi chào chị tôi đi”. Chị Hòa nói: “Anh đi nhé”. Mặt chị vẫn đỏ ửng, môi cũng đỏ. Thế là tôi về.
22 giờ trước nhật kí: tôi dừng chân ở một điểm do dự trên đường chạy trốn. Tôi chưa bao giờ, rời xa thành phố tôi sống, bởi vì những địa điểm khác, tất cả mọi quê hương, đều xa lạ như chiếc áo tôi mặc không vừa. 21 giờ trước nhật kí, một đêm đầu đông rét sớm, tôi vẫn đứng băn khoăn, giữa hai dự định khó khăn, giữa Lai Thụ và Hà Nội, trong bóng tối tràn ngập mọi hàng cây, con đường. Thế rồi dưới cơn mưa lất phất, tôi quay lại Hà Nội. Tôi không đi Lai Thụ nữa. 21 giờ trước nhật kí, ánh điện thành phố vàng hoe, trước mặt tôi, nhòe lẫn vào mưa.
19 giờ trước nhật kí: tôi vào nhà, bằng lối vườn. Rồi gọi khẽ ở cửa sổ. Tôi gọi: “Cốm, Cốm”, cửa vẫn đóng kín. Có một tiếng động nhẹ nhàng, trong nhà. Cốm có lẽ đã dậy. Tôi gọi khẽ: “Anh đây mở cửa”. Cốm trong nhà nói: “Anh đấy à? Cửa sổ em buộc kĩ. Anh ra cửa trước”. Tôi vòng ra trước nhà, qua cái sân gạch, ở đó có cái bể nước. Tôi lên bốn bậc thềm gạch. Có tiếng bàn ghế xê dịch: là những bàn ghế Cốm dùng, để chặn cửa. Cốm không bật điện. Cửa mở, tôi ôm chầm Cốm, bằng một chiếc hôn, rất ra thế nào. Cốm cuống lên, mừng, rồi lại lo. Cốm nói: “Không trôi chảy à anh?” Tôi thì thầm mấy câu giải thích, tiện thể cắn nhẹ vào tai Cốm, một cái. Rồi lại hôn nữa, một chiếc hôn xinê. Người Cốm nóng hổi. Thế là tôi và Cốm bắt tay ngay vào việc. Hai đứa xuống kho, ớ dưới nhà ngang. Kho lúc nào cũng đủ thứ đồng nát: rế rách đè chổi cùn, đống sắt gỉ đè cánh cửa hỏng. Nhiều thứ đã nằm đây từ thời bố tôi, phải dỡ ra khá nhiều, để lấy lối đi. Chuột thấy người thì bỏ chạy, lúc rúc. Mùi gián mọt xông lên, hôi rình. Vào sát bức tường cuối
kho. Tôi lật tấm ván. Và rọi đèn pin. Cốm hỏi: “Thế nào anh?” Tôi nói: “Suỵttt” rồi chui xuống hầm. Theo ánh đèn pin, đường ngầm lộ dần: hầm ăn thông ra tận vườn, ngay chỗ búi tre đổ rác. Nắp hầm bằng ván lim, nằm im lìm, vì đất nén và rác đổ nhiều quá phía trên, và vì bao nhiêu năm rồi hầm bỏ không. Tôi đã đào, để trốn động viên, 15 tháng trước. 1 tháng sau, đường hầm đóng lại, vì mẹ tôi chạy tiền thằng Macxen, đưa tôi vào ngụy. Nhưng được làm lính ôtô cho an toàn, và gần phố, gần nhà. Đêm nay trở lại khúc đường ngầm của nhiều năm trước, để tôi và Cốm, suốt đêm, cùng sửa chữa hầm.
24 giờ sau: thế là tôi đã bắt đầu nhật kí, từ 5 giờ, bằng mực tím. Tôi đi trốn, ở chính nhà tôi. Phố xóm và bạn bè không biết. Tôi ăn ngủ trong kho. Trên một ổ rơm khô. Cửa kho bị khóa lại. Sáng nay, Cốm đến gặp chị Hòa đúng 8 giờ 15, để cùng chị làm lá đơn lên trại đòi chồng. Cốm ngày ngày kín đáo đem vào cơm nóng, cà phê và rượu ngon. Tôi đái vào bô. Trong kho tôi có thể nhìn, qua sân qua cổng, kiểm soát một khúc ngõ, một mảnh phố bên ngoài. Vợ chồng ban đêm vẫn… vợ chồng. Em Cốm cũng ngủ luôn, trên ổ rơm khô. Những trò hủi trong thành phố lúc này, tôi không nghĩ tới nữa. Tôi mang truyện trinh thám vào kho đọc suốt ngày.
Em Cốm không biết lấy tin ở đâu, mà ngày nào về cũng kể cho tôi. I như trong thánh kinh: mấy thằng bạn thân của tôi đều chạy trốn. Thằng Chắt đào ngũ, trốn ra hậu phương. Thằng Đoành và Tình Bốp là hai thằng tôi thân nhất, thì trốn quanh, trong thành phố. Thằng Đoành là ca sĩ nam trầm ở đội Gamô, có thể hát bật tung cửa sổ nhà thờ. Còn Tình Bốp là bạn đồng ấu với tôi, hồi trèo me trèo sấu, hồi đi ném đá các cửa sổ. Nó bỏ học lớp 5. Tôi học tiếp đến lớp 7. Nhiều năm trước nó đưa tôi đi, năm lần xem thoát i vũ, sáu lần bắn súng đạn thật, bảy lần đánh nhau với bọn nhảy dù, trong tiệm rượu. Ở trường nó thắt lưng bằng da thật. Chị nó là Lily. Chị nó rất hay cười, và cười rất kĩ thuật, để mỗi lần chị nó cười, là phô ra hai hàng răng trắng, làm cả hai dãy phố đều nghe tiếng. Hai dãy phố, là năm mươi số nhà quét vôi vàng. Chị nó làm đĩ theo kiểu Mĩ. Chị nó nói: “Đĩ theo kiểu Pháp bây giờ không ăn tiền”. Lily chị nó có khuôn mặt hình trái tim, môi đỏ như máu, eo bụng rất nhỏ. I như trong thánh kinh: mùa hè Lily ở truồng, không quên mở tung tất cả các cửa sổ trông ra phố, không quên chiếc thập ác đung đưa mạnh dạn trước ngực. Nhưng Lily không đi đạo. Thuần những sĩ quan bảo hoàng cao cấp đến thăm Lily. Hôm nào, trước nhà Lily có chiếc xe cao kều đậu, là cả phố xanh mắt: xe của thằng Macxen Phòng Nhì. Macxen tây lai, cao nhớn, đẹp trai. Nhà nó phố Hàng Vôi, xuống đây cốt để bắt người. Cả phố
đồn, nó chuyên đào tạo gián điệp nữ, cho nên phố nào nó cũng có ít nhất một cô nhân tình. Nó mua nhà cho Lily. Nhà bên dãy số lẻ, có chiếc cổng sắt sơn xanh. Tình Bốp cũng được nó dạy cách nuôi chó Bẹcgiê. Có lúc Tình Bốp nuôi đến chục con trong nhà, nhâu nhâu như một đàn hổ. Tình Bốp nuôi chó để bán lấy lãi. Có lúc phởn chí nó khoe cả cái chuyện khó tin. Nó nói: “Tao táplô con chị tao luôn”. Không tin được, nhưng rồi cũng do nó bố trí, một đêm xuân 18 tuổi, tôi được biết như thế nào cơn sung sướng không ngờ, mà cô chị Lily đã đưa tôi vào. Khi vượt qua chiếc cổng sắt sơn xanh, tôi còn là trai tân. Sáng hôm sau, khi bước ra phố, tôi đã từ chức ngây thơ. Từ đó thi thoảng Lily cũng cho gọi tôi đến. Lần nào về rồi, cũng còn thấm thía, đến mấy tháng. Thứ bảy tuần trước, tôi với Tình Bốp đi tửu, đến say mèm, để bàn nhau trốn ở lại. Tôi nói: “Tao về Lai Thụ quê mẹ”. Tình Bốp nói: “Tao có chỗ này rất xuya. Mày đi với tao thì đi. Ngay trong thành phố thôi. Đầm, ta, lai, loai choai, đủ cả. Mày biết rồi chứ gì?” Tôi nói: “Nhà Macxen hả?” Nó nói: “Mày khắc hiểu lấy. Chỗ ấy, thần tiên không chịu được. Mày còn chưa bao giờ biết mùi. Con chị tao, chưa đi đến đâu. Có em chỉ mới nhìn mày, mắt đưa vài cái, mày đã phải chảy… ra bằng hết”. Nghe vậy tôi muốn quá, nhưng lại không muốn dính vào thằng Macxen, hủi mấy đời. Tôi kinh thằng trùm Phòng Nhì này. Nghe cả phố kể chuyện nó huấn luyện nữ gián điệp mà khiếp. Nữ gián điệp qua tay nó, phải có đủ 136 phép rùng rợn. Cô nào ngúng nguẩy, Macxen bắt chổng mông, lấy chổi sơn quét, hoặc rỏ têrêbăngtin vào bụng, hoặc xát lá han vào chỗ cần xát, rồi ném ra phố giữa ban ngày, cho đứng đấy mà gãi. Tình Bốp được làm lính bàn giấy ở Bạch Mai, chắc là do Macxen xin cho. Theo Tình Bốp kể, Macxen ngủ với Lily, có lần bắt Tình Bốp đứng nhìn.
9 giờ tối. Tôi lột áo em Cốm. Hai đứa nằm trong kho. Dưới là ổ rơm. Trên là chiếu hoa. Trên nữa là chăn cưới. Ngoài trời là mùa đông. Ngoài trời là cả không gian heo may, và một đêm hiếm có không mưa. Thế là, tôi ở lại Hà Nội thật, trong một nơi không địa chí bưu điện, không cả mây bay ngàn dặm. I như trong thánh kinh: mai là ngày tiếp quản. Thành phố thế nào cũng xúc động, mùi giao thừa. Tôi vuốt ve Cốm. Đêm nay mặc áo hở nách, nhưng Cốm không có ngay cả một kĩ thuật hở nách. Cho nên bây giờ tôi lột áo Cốm. Bây giờ Cốm nằm trên chiếu hoa, đúng vào chỗ một bông hoa rất lớn và rất đỏ. Tôi không nghĩ đến tương lai sẽ ra sao. Tương lai có hủi không. Dĩ vãng thì hủi quá rồi. Học lớp tàu bò ra, đi càn về mạn Tứ Hiệp một lần, cả thảy ở ngụy 14 tháng. Nhưng trước hồi tàu bò, phố xóm đã gọi tôi thằng cao bồi dở. Dĩ vãng của tôi tóm lại là dở-cao-bồi-kiêm-tàu-bò. Nhưng chính phủ sẽ khoan hồng dĩ vãng của tôi, chính phủ đã nói vậy. Ngày mai chính phủ vào. Tôi ôm em Cốm. Tôi hồi hộp. Đêm nay một kiếp, sáng mai một kiếp
khác. Hai kiếp người, chỉ cách nhau một cơn buồn ngủ, ngắn gọn không cả một chớp mắt. Tôi cảm thấy, tự dưng tất cả những mùi vị say say của giao thừa, quá thiêng liêng, trong một kiếp người.
Tháng sáu 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ ba hay chủ nhật. Bên ngoài cửa sổ tôi xanh lúc này, có sáu cây bàng lá xanh, và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng lặng, và phố thời chiến vắng lặng. Phố tháng sáu thịnh hành màu phòng không, tự vệ, nam nữ, cán bộ, bộ đội sẵn sàng phòng không. Sáng nay không ra phố, tôi làm việc, trên những cuốn nhật kí, bìa dằn di. Tôi dừng lại, để đặt ở đây, một loạt câu hỏi. Nhật kí của Dưỡng, dường như, không đi theo mọi quyển lịch thân quen, bởi vì tôi luôn vấp phải những nhầm lẫn ghê gớm, của thời tiết, của thời gian, và mọi cái gì, của thời sự. Đường tuyến tính của thời gian, mà tôi đã nhìn thấy, ở đâu đó, bắt đầu từ một nơi vô định, kết thúc cũng ở một nơi vô định, chạy từ trái sang phải, theo chiều mũi tên. Thời điểm ghi nhật kí sẽ nằm vào một dấu chấm, nhỏ xíu trên đường tuyến tính, giữa hai vô cực, của dĩ vãng và dự cảm. Điểm nhỏ xíu này nhỏ lắm, nên chẳng là cái gì cả, trong thời gian. Có thể vì vậy, động tác bắt đầu mỗi trang nhật kí, vào một thời điểm hiện hữu, không phải là mối quan tâm lớn nhất của Dưỡng. Hiện tại, nếu nhắc lại theo nguyên lí này, vừa hiện hữu vừa không, vừa nhầm lẫn cố tình, vừa nhầm lẫn vô tình. Nhật kí do vậy cũng xô lệch theo. Động tác ghi nhật kí, do vậy có vẻ mang tính chất tự nghiệm, hơn là mục đích can thiệp vào thời gian (nhưng có thể không phải như thế). Bên cạnh đây, ngôn ngữ của nhật kí cũng còn là một bí ẩn. Thánh kinh trong nhật kí, được điệp lại nhiều lần, vào nhiều chỗ. Nhưng Dưỡng không đi đạo. Cô chị Lily, thường xuyên trần truồng với cây thập ác lủng liểng ngực mùa nực, cũng không đi đạo. Có thể Dưỡng không có í báng bổ Chúa, bài xích, hoặc sùng đạo. Có thể những Tân ước, Cựu ước, nhà thờ, đều xa lạ với Dưỡng. Có thể lối gọi thánh kinh này, chỉ như một thán từ kép ghép bừa vào mọi hợp, hỉ, nộ, ố, dục, cho mùi mẫn. Có thể nào đây chỉ là một, trong nhiều, cách làm duyên của cái mồm?
Buổi đêm. Nhật kí tiếp tục: tôi có năm thằng bạn, mỗi thằng một tuổi. Tôi 22. Ngỡi 34. Tình Bốp 24. Chắt 25. Đoành 21. Ngỡi đi lính, từ 3 năm để canh gác những xác chết đang đợi được đi chôn, ở nhà đám ma Sinh Từ. Nó là lính nghèo, chức vụ lèm nhèm, hình dạng lèm nhèm, đáng kể nhất một cái mặt choắt, và hai mắt hai cái mụn loét bờ. Lính đám ma mà hách dịch: nó xưng ông với cả phố. Lính đám ma mà nó tự hào, và lúc nào cũng tận dụng triệt để chức vụ lính ngụy. Để đến nhà này, nó vào ngay nhà bếp, xem có cái
gì, đến nhà nọ trèo luôn lên phản, ngồi chờ ăn cỗ, dù không được mời. Ăn xong bao giờ cũng mang phần về, để đến tối chờ cô vợ và sáu đứa con đi ngủ, mới lẻn ngồi ăn một mình. Bọn tôi lúc nào làm tiệc là gọi nó đến, vì nó nấu cơm, và nói dối, đều giỏi. Mỗi khi say, nó lại khóc thương vợ và sáu đứa con ở nhà, không biết miếng thịt là gì. Vậy mà bây giờ, nó lập công to với chính phủ. Nó ăn cắp, để nộp cho chị Hòa cả thay hai cái máy chữ, một súng trường đầy ắp đạn, và một cái đài. Trước khi đi trốn, nó xưng em với chị Hòa. Nó nói: “Những thứ em lấy được để nộp chị, em không mong chính phủ khen. Chị liệu nhời nói với chính phủ hộ em: em một vợ sáu con, em lầm đường lạc lối cũng vì cái miếng ăn. Xin chính phủ tha cho em”. Cốm kể với tôi: cả xóm biết Ngỡi trốn về Hà Đông. Cả phố còn biết từ ngày đi trốn, nó bắt đầu xưng em, với tất cả mọi người.
Buổi đêm. Lúc này tôi ôm Cốm trên ổ rơm, trên chiếc chiếu hoa. Ngay bên dưới Cốm, vẫn là bông hoa khổng lồ rất đỏ. Nhưng Cốm không có, ngay cả một kĩ thuật nằm trên hoa, cho nên tôi để mặc Cốm mượn tay tôi mà che đi khuôn mặt tối. Bên cạnh ổ rơm khô, về mọi phía, vẫn đủ thứ đồng nát, là rế rách đè chổi cùn, là cái cánh cửa hỏng, nằm dưới một đống sắt gỉ. Đêm nay Cốm vào, mang theo chiếc chăn cưới lúc nào cũng mới, lúc nào cũng có một trăm bông hoa nhiều cánh, ba màu, trắng, đỏ, hồng. Chiếc chăn cưới lồng bồng trên ổ rơm, như một hòn đảo hoa vô lí. Tôi nằm ôm Cốm, mà nhắm mắt thao thức. Thành phố ngoài xa đang giao thừa. Tôi đoán là đồn bốt, và các trại lính, bây giờ vắng teo. Nhiều thằng bỏ trốn. Những thằng nhận lệnh đi lùng bắt những thằng bỏ trốn, cũng trốn. Những bộ phận, và đơn vị chủ chốt của ngụy đã chuyển cả vào Nam. Đêm trong nhà kho, vẫn còn nghe được, thỉnh thoảng một phát đòm, một phát hủi. Một phát là biệt kích. Còn một phát là đập-phá-giao-thừa. Biệt kích đi tuần đông. Cán bộ bí mật vào thành cũng nhiều. Tôi tự hỏi, cô chị Lily đi hay ở. Tình Bốp đang làm gì. Và Đoành, và Chắt, và Ngỡi đang làm gì. Sáng mai, bộ đội vào tiếp quản. Không làm sao nghĩ được, tới chương trình ngày mai. Lúc này là giao thừa. Lúc này Cốm nằm cạnh tôi. Cốm còn bé loai choai: Cốm mới 17 tuổi rưỡi. Tôi với Cốm lúc này, có cái gì giống như động phòng, cái gì còn hơn là động phòng. Đồng hồ dạ quang trên tay chỉ 1 giờ khuya. Tôi hồi hộp. Tim đập êm đềm. Tôi cảm nhận tất cả, những cái gì của giao thừa, bao la, bí mật, trong một đời người.
II
Mồng một Tết. Không khí ngày tiếp quản đầy mùi Tết. Tôi mở tung cửa kho. Em Cốm vẫn ngủ, trên ổ rơm mê mệt. Lúc ấy 6 giờ sáng. Tôi trương cờ đỏ ngoài cổng. Cờ đỏ Cốm đã may sẵn, từ mấy hôm trước. Tôi lấy quần áo mới, đem vào kho. Cốm mở mắt, chơm chớp. Tôi vận quần áo cho Cốm. Cốm e thẹn, không nghe. Tôi cứ vận quần áo cho Cốm: đầu tiên là quần trắng, rồi áo len trắng, rồi giày muyn trắng. Tháng trước tôi đưa Cốm đi cắt tóc. Và chọn kiểu phidê ngắn nhất, mà Cốm không biết. Sáng mồng một Tết, tóc Cốm vẫn ngắn để lộ gáy, gáy Cốm rất trắng. Tôi nói: “Sáng nay vợ chồng mình ra phố, đón bộ đội. Và đi chơi. Và ăn hiệu”. Cốm nói: “Tóc tai em thế này, nom càn càn như con cao bồi. Đi đón bộ đội, em ngượng lắm”. Tôi nói: “Đông người, biết ai vào ai mà ngượng. Tóc Cốm đẹp lắm”. Sau đó, Cốm ra sân rửa mặt. Tôi lên nhà pha hai cốc càphê: một càphê đen, một càphê sữa. Từ trong nhà tôi nhìn Cốm ngoài sân, đang í tứ và rón rén, trong bộ áo mới. Khi lấy chồng, Cốm là gái làng Mọc. Còn chưa biết gì. 17 tuổi còn chưa bao giờ đi giày, huống hồ những cái hôn đầu lưỡi. Tôi dạy vỡ lòng cho Cốm từ chuyện ăn diện hời hợt, đến những trò sâu sắc khác. Nhiều ngày Cốm đóng cửa, tập đi giày cao gót trong buồng. Nhiều tối tôi giữ cho Cốm tập xe đạp, ngoài phố vắng. Tôi còn mua cả quần lót trong, cho Cốm. Lần nào cũng xilip ba màu, là màu xanh giống như màu của đêm, màu trắng của ngày, và một màu tím khó gọi của chiều muộn. 6 tháng cứ như thế. Có nhiều lúc tôi ép Cốm, chụp ảnh con lợn, bằng máy ảnh tự động, mượn của Tình Bốp. Thế là được cả một tập anbom con lợn. Sáng mồng một Tết hôm nay, hai đứa điểm tâm. Đến lượt tôi chọn quần áo. Tôi chọn, một cái sơmi không chim không cò, một cái áo len cụt tay, mũi to lờm xờm, màu bẹcgiê. Rồi cái quần gabaxđin, lớt phớt hạt dẻ, đôi tất nilông màu nâu nhạt, và sau cùng, đôi giày lấm chấm lỗ màu vàng. Tôi muốn Cốm vận quần áo cho tôi, nhưng Cốm thẹn, nhất định không chịu. Lát sau ra phố, thấy Hà Nội đỏ màu cờ. Đi bộ với Cốm. Được một lúc, tôi lại quay sang nhìn Cốm.
Trên cờ dưới cờ. Cũng là trời Tết. Nhân dân đứng đầy vườn hoa Canh Nông, đầy các vỉa hè, và ngã tư Cột Cờ. Người trèo giậu các biệt thự, người leo sân thượng, người trèo cành cây vườn hoa. Bộ đội vào phố. Bộ đội tiến đến đâu, Tây rút đến đấy. Hai bên cách nhau hai cột đèn. Nhân dân được một bữa khoái mắt, vài người rú lên vì thích thú. Em Cốm cũng vỗ tay, như trẻ con.
Lúc cười má Cốm có hai núm đồng tiền. Tôi thì khác. Không iên ổn trong người. Dù sao, tôi cũng có 14 tháng thuộc về một chiến tuyến khác. Đứng trước bộ đội, cả người tôi là một hỗn hợp, những thẹn, tủi, cả những ghen linh tinh nữa. Cho nên, khi có một bàn tay mất dạy với em Cốm giữa đám đông, cúa một thằng mất dạy không quen, tôi nổi cáu. Tôi có tí diuđô. Thế mà tôi văng vào thằng mất dạy, một nắm đấm, không chút diuđô nào hết. Nó ngã khuỵu. Mọi người ồn ào. Tôi kéo Cốm đi. Tôi trách Cốm: “Cô không để í gì cả. Con gái con lứa”. Cốm nói: “Đông quá. Đàn ông các anh xấu”. Tôi nói: “Sao không tát cho nó một cái. Hay là cô thích?” Cốm nguýt tôi. Cốm nói: “Anh đểu vừa vừa chứ”, làm tôi khó chịu mất một lúc. Mặt trời hôm nay, một ngày tháng mười súng nhóe. Phố hôm nay rợp cờ đỏ. Cốm hôm nay vui. Mắt Cốm long lanh, miệng cười xinh. Mỗi lần cười lại làm đồng tiền lũm má. Cốm cười, làm tôi nguôi cơn giận. Tôi muốn quàng lưng Cốm. Cốm nói: “Đừng”. Cốm không quen lối Tây đầm, trong phố đông. Hôm nay đúng là ngày Tết: nam nữ đi lại đầy đường. Ở những phố Tây đã rút, các cửa hiệu lục tục mở. Ở một ngã tư có một bàn đổi tiền, ngay trên vỉa hè. Cốm chạy vào xếp hàng. Tôi không muốn Cốm đứng lẫn chỗ đông, tôi vào xếp hàng thay Cốm. Bàn đổi tiền này có hai cán bộ, một nam, một nữ. Người cán bộ nữ mặc áo pôpơlin ngắn, mà lằn vai coócxê. Quần cô không có tà áo dài che, nên hở cả hông: một đoạn trắng hồng mềm mại. Tôi nom phụ nữ ăn mặc thế này là lần đầu: sơ sài nhưng thơ mộng. Sau đó, có một cô gái khác vào xếp hàng, ngay sau tôi, rồi dòng người lộn xộn cứ thêm dài ra. Cô gái này nom được nhất ở chỗ ngực, chỗ mà tôi vừa vô í chạm vào. Thánh kinh nói, phàm làm việc gì phải khéo chân khéo tay, tôi liền khéo tay khéo chân được vài lần vô í. Đến lần thứ tư thì được một cái lườm của cô. May mà Cốm mải nhìn đám đông không để í. Cũng không ai đến, cho tôi một quả đấm mất dạy nào, nên tôi iên trí. Nhưng lúc đổi tiền ra, Cốm cốc tôi một cái đau đớn. Cốm nói: “Đàn ông các anh xấu”. Tôi nói lại: “Là tự đàn bà cả”.
Buổi chiều. Tôi không nhớ đã nhìn thấy ở đâu, một bức họa đường tuyến tính của thời gian, như thế này: hai đầu của đường tuyến tính, chạy cả về hai phía vô định, và biến mất. Hóa ra quá khứ và tương lai chiếm hết cả chiều dài thời gian, hiện tại chẳng là cái gì, chỉ là một cái chớp mắt, chỉ là một phần rất nhỏ, của cái chớp mắt. Tôi đã làm một thử nghiệm, tôi chớp mắt, thế là tôi đang ở thời hiện tại, chớp mắt cái nữa, hiện tại đã thành quá khứ. Tôi làm thêm một thử nghiệm nữa, tôi vẽ hiện tại, bằng một dấu chấm bé nhỏ, nhưng bên ngoài đường tuyến tính thời gian. Hiện tại của tôi thế là tồn tại vĩnh viễn, chẳng thuộc về đâu cả, chẳng phụ thuộc quá khứ lẫn tương lai. Chiều nay, một buổi chiều tháng mười nắng nhóe, tôi cùng Cốm đến thăm mẹ. Tôi nói: “Vợ chồng con đến chúc Tết mẹ”. Mẹ tôi cười, rồi nói: “À thế
là mày trốn ngay ở nhà. Tao ngỡ mày ra Lai Thụ”. Mẹ tôi đem cam xã Đoài ra. Cốm bổ cam. Mẹ tôi nói: “Bây giờ con ở lại, phải làm ăn tu tỉnh”. Tôi vâng. Tôi ăn cam. Mẹ tôi bảo ở lại ăn cơm. Tôi rủ mẹ đi ăn tiệm. Mẹ tôi nói: “Phải hà tiện con ạ. Tiêu thế, tiền núi cũng hết”. Mẹ tôi cũng mắng Cốm: “Chồng là cái giỏ, vợ là cái hom. Kiếm được mười, hãy tiêu một, còn chín thì để dành. Hạng đàn bà, cứ nghễu nghện nay cao lâu, mai cao lầu, tôi không ưa”. Cốm nói: “Tại nhà con bảo, hôm nay là ngày Tết, nên mời mẹ đi ăn tiệm. Con bảo mua gà làm cơm mời mẹ, nhà con không nghe”. Mẹ tôi nói: “Thôi vợ chồng cô đừng thơ mộng. Còn 4 tháng nữa mới Tết. Vui là vui trong bụng, việc gì phải ra tiệm. Hóa ra tự đánh lừa, hóa ra đánh lừa Tết, để mà ăn à?” Tôi nói: “Sao mẹ hà tiện thế?” Mẹ tôi nói: “Khốn, nhưng tôi quen lam lũ tần tiện từ bé rồi”.
Tôi và Cốm ra phố. Thử nghiệm của tôi về thời gian, là xáo trộn lại các tờ lịch, để lúc nào tôi muốn mùa đông, là có mùa đông, để lúc nào cũng hiện tại. Lúc nào cũng không quá khứ, không cả ngày mai. Tôi và Cốm đi bộ, cho đến lúc thằng Đoành gọi to, giữa phố. Đoành gọi: “Dưỡng! Dưỡng!” và chạy đến nói: “Ông anh bà chị diện thế. Nom rùng rợn lắm. Mãi mới nhận ra”. Tôi nói: “Có đi chén với vợ chồng này thì đi”. Đoành nói: “Mời à?” Tôi nói: “Mời”. Đoành nói: “Ông anh cao thượng”. Thế là chúng tôi kéo nhau vào Mĩ Kinh. Tôi gọi các món biển. Đoành nói: “Thật rùng rợn”. Hai thằng uống. Tôi giao hẹn, hôm nay uống tử tế nhé. Vì sợ thằng Đoành say, say thì thế nào nó cũng trộn lẫn rượu với mắm tôm, với ớt cay, với nước mắt, với đủ mọi thứ trong đời, để làm món côctay. Bên cạnh, Cốm ăn rụt rè. Tôi hỏi Đoành: “Mày trốn ở đâu?” Đoành nói: “Ở nhà Lí Hà”. Tôi hỏi: “Lí Hà là nhân tình Bảo Đại à?” Đoành nói: “Chứ còn Lí Hà nào. Rùng rợn không ngờ nhé. Em ấy thắp nến, bốn đầu giường, ngay giữa ban ngày, rồi ngựa chạy ra chạy. Nhoong ếp là một thằng Hồng Kông, là một thằng Xicagô, là một oẳn thoằn loằn. Em ấy kể Bảo Đại trông thế mà thộn, chỉ được mỗi trò, là trò liếm”. Cốm không hiểu gì, nên cau mày. Tôi rót thêm rượu. Tôi hỏi: “Mày biết Tình Bốp rúc đâu không?” Đoành nói: “Nó rúc với tao”. Tôi hỏi: “Ở nhà Lí Hà à?” Nó đáp: “Không, nhà Macxen”. Tôi hỏi: “Thế là thế nào?” Nó nói: “Còn thế nào nữa. Lúc ấy tao đang bí chỗ rúc. Tao ra phố 8 giờ tối, đi cầu may, không ngờ gặp Tình Bốp. Nó kéo luôn tao vào nhà Macxen. Tao mới vừa ở đấy ra xong”. Tôi hỏi: “Thế Tình Bốp đâu?” Đoành nói: “Không biết. Khi tỉnh dậy, đã không thấy nó. Nhà cửa tanh bành. Tất cả cuốn gói từ lúc nào. Tao say quá. Tao đi khắp buồng này qua buồng khác. Cả nhà lạnh tanh. Tao sợ tao cũng chuồn luôn”. Tôi lại hỏi: “Thế sao mày bảo, mày rúc ở nhà Lí Hà?” Nó nói: “Tại tao cứ ao ước thế nên mới phát ra đằng mồm”. Tôi cười và uống thêm nữa. Cốm không hiểu gì, nên cau mày. I như trong thánh
kinh: xung quanh bàn, là những cái mồm, cử động bóng mỡ. I như trong thánh kinh: kẻ hạnh phúc vốn thích ăn uống, cho nên tôi ngắm các cô gái, đang hạnh phúc bên bàn. Và cũng i như trong thánh kinh: các cô có những cái mồm, của loài mèo, của hoa nhài, của huê nhài. Cốm bên cạnh, có hai cái môi chậm chạp, nên mồm cứ như một nụ hoa. Đoành nói: “Suốt tuần qua tao rợn quá. Chỗ tao rúc quả thần tiên, không tổ quỉ nào bằng. Tranh cổ điển vẽ sai cả. Đáng lí quỉ phải vẽ là tiên, tiên ngược lại là quỉ. Thế mới phải cái lí ở đời”. Tôi nói: “Nhà Macxen mà”. Đoành tròn mắt hỏi: “Nhà Macxen nào? Mày tưởng tao ở nhà thằng Macxen thật à? Mày ngây thơ thật. Sống trên thế giới dối trá, toàn dối trá, mà mày vẫn ngây thơ. Tao không rúc nhà Lí Hà. Cũng không ở nhà Tình Bốp. Không ở nhà Macxen. Mày biết ở đâu không nhỉ?” Rồi nó nói dối: “Rúc ở một hầm rượu to, quanh co lắm. Không cần mặc quần áo, 3 ngày, liền 3 đêm. Tỉnh thì uống, cho say. Say thì uống, cho tỉnh”. Tôi nhìn mồm nó, chỉ mình tôi nhìn thôi, vì Cốm hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện. Cốm không hiểu gì, nên cau mày, và đôi má ửng hồng vì thẹn. Tôi nhìn Cốm. Thấy Cốm đẹp. Vì tóc ngắn cỡn, để lộ toàn bộ cổ và gáy, toàn bộ đôi tai không đeo khuyên tai, để lộ luôn toàn bộ khuôn mặt tòn tõn, kiểu gái quê ra phố. Cốm kín đáo nháy mắt, tỏ í muốn về. Tôi cũng muốn về, vì có một dự định, cho tối nay. Thế là, tôi và Cốm đi xe đôi về. Trên xiclô tôi rất nghiêm túc. Khi nào tôi nghiêm túc, là trong sọ có một dự định không nghiêm túc. Mặt mũi nghiêm túc, để không bị người đi phố bắt quả tang, giữa một í nghĩ hủi. Trên xiclô tôi tự nhủ lát nữa, khi về đến nhà, sẽ chụp ảnh miêu tả chân thực Cốm, mấy pô.
Tháng bảy 1965. Chị Trinh kể: tên em là Trinh. Em là vợ anh Dưỡng, nhưng nhà em cứ gọi em là Cốm. Dạo lấy chồng, em mới 17, mọi người gọi đùa, là cô dâu Cốm chanh, nhân đó có cái tên Cốm. Nhà em tính tếu nhưng cũng đứng đắn, không phải là người không biết nghĩ. Nhà em bị ảnh hưởng truyện trinh thám, ảnh hưởng quân đội đế quốc, và lối sống cao bồi Mĩ, nhất là trong 14 tháng đi lính tàu bò. Trước ngày tiếp quản, nhà em lo không đi Nam mà ở lại, thì chính phủ bắt tội. Chị Hòa bày cách cho em, để thuyết phục nhà em, ra nộp súng đầu thú. Ở xóm em thân nhất với chị Hòa, có điều gì trong gia đình, không than thở được với ai, em đều kể hết với chị.
Tháng bảy 1965. Chị Hòa kể: tôi là nhân viên, ban bảo vệ khu phố. Hôm ấy chính xác một ngày tháng mười, năm 1954. Tôi đang nấu cám lợn, 5 phút trước khi nồi cám sôi, cô Trinh chạy sang, hai mắt đỏ hoe. Cô xuống bếp
ngồi, với tôi. Tôi hỏi: “Vợ chồng cãi nhau à?” Cô Trinh nói: “Không”. Biểu hiện này không bình thường, tôi mới gặng thêm: “Thế thì tại sao? Mắt đỏ hoe chứng tỏ vừa mới khóc, đấy thôi?” Cô Trinh nói: “Nhà em chụp ảnh em”. Tôi hỏi thật thà: “Cô này trẻ con. Chụp ảnh thì việc gì phải khóc”. Cô Trinh nói: “Chụp ấy cơ… nhà em chụp ảnh… quân đế quốc”. Tôi nghĩ, Dưỡng chụp ảnh Tây rút chạy nên bị rầy rà, nhưng không phải. Tôi gặng mãi cô Trinh mới kể, chính xác hơn: “Nhà em say rượu, đè em ra, lột hết quần áo… bắt chụp ảnh. Em không chịu, nhà em trói em lại, và nhét mùi soa vào mồm”. Cô làm tôi xấu hổ đỏ cả mặt. Tôi được khu phố phân, làm công tác tề ngụy, cho nên dù câu chuyện của họ phức tạp, dù nhiều chi tiết làm tôi xấu hổ, tôi vẫn phải đi sâu. Sau đó, nhận xét của tôi là: cô Trinh xinh xắn ngoan nết, dớ phải thằng chồng tàu bò quá tệ. Sau đó, cô Trinh kể lại hết mọi chuyện ngày hôm ấy: buổi sáng Dưỡng đánh người ngoài phố, buổi chiều hai vợ chồng lên thăm mẹ, buổi tối hai vợ chồng gặp thằng Đoành, rồi cả ba kéo nhau vào Mĩ Kinh, buổi đêm hai vợ chồng đi xe đôi về. Lắm lúc, cô Trinh ngập ngừng kể, để tôi phải khuyên khích, nhẹ nhàng: “Trinh cứ kể đi, kể cho đúng. Ở đây chỉ có hai chị em mình, thân tình với nhau thôi mà”. Thế là cô Trinh thuật lại tí mỉ chuyện bữa ăn: Đoành nói dối 5 lần, Đoành nói thật 2 lần. Dưỡng uống 5 cốc rượu, cô Trinh cau mày 3 lần, cô Trinh nháy mắt kín đáo 1 lần. Tôi chú í một điểm: là thằng Tình Bốp kéo Đoành đi trốn. Thằng Macxen là trùm Phòng Nhì Pháp, tại sao lại đến trốn lính Pháp ở nhà nó? Tôi nói, chính xác thế này: “Thấy chưa, cô phải chú í hơn. 35 ngày trước Tình Bốp đã rủ chồng cô đến trốn tại nhà thằng Macxen, chồng cô không nghe. Sau đó nó rủ cậu Đoành. Tôi thấy lởn vởn bóng thằng Macxen, trong câu chuyện của mấy cậu này, như thế không phải là điềm lành đâu cô ạ. Cô phải chú í. Bọn địch tìm tay chân trong đám bất hảo, và ngụy quân ngụy quyền. Cô cảnh giác, là để giữ chồng cô khỏi sa vào bẫy của chúng”. Cô Trinh nói: “Hễ có gì khác í, em sẽ tìm chị ngay”. Tôi bèn bày cách cho cô, bí mật như thế nào: dù có tình nghi, vẫn phải cười nói vui vẻ, bề ngoài làm vẻ ngờ nghệch, nhưng không để bất cứ việc gì lọt qua mắt được. Phải để í cả những chi tiết nhỏ nhất. Có khi chỉ từ một câu nói, một thái độ khác thường, hoặc một cái gì rất tầm thường, mà có thể tìm ra manh mối thằng địch. Như vậy là, hành động vừa bảo vệ miền Bắc, vừa bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Buổi tối. Nhật kí tiếp tục: tôi tỉnh rượu, người rã rời và miệng đắng. Tôi tự pha cho mình một cốc nước chanh vại. Em Cốm đang làm cơm dưới bếp. Tôi nhớ tới những pô ảnh chụp Cốm, khỏa thân lúc nãy, liền quây một góc buồng ngủ, làm buồng tôi. Tôi bắt buộc phải chơi ảnh tại gia, vì nếu không rửa lấy, chụp lấy, không thể có được những pô ảnh thật sự hủi, như tôi thích.
Tôi làm ảnh trong buồng tối một lúc, thì Cốm gọi tôi ra ăn cơm. Ngó ra thấy mặt Cốm sưng sỉa, tôi nói: “Để cơm đấy đã. Người văn minh gọi ảnh này là ảnh nghệ thuật đấy”. Cốm nói: “Này, tôi đã mách chị Hòa rồi. Bận sau mà còn giở trò, anh đừng có trách”. Tôi cười: chị Hòa thế nào cũng xấu hổ đỏ mặt. Tôi nói: “Thế chị Hòa có muốn xem ảnh nghệ thuật không?” Cốm xông đến đấm vào ngực tôi. Cốm nói: “Đểu. Đểu vừa chứ”. Tôi nắm lấy tay Cốm. Tay nhỏ, như nõn hoa huệ. Tôi tự nhủ, làm thế nào để lúc nào cũng hiện tại, như thế này, ngày nào cũng mồng một Tết, như thế này. Hiện tại, như cái kim đồng hồ, muốn vặn đâu, kim theo đấy. Gỡ ruột đồng hồ ra, kim dừng lại, như thế này. Dấu chấm, nằm ngoài đường tuyến tính của thời gian, làm thế nào để cứ một mình mãi.
Buổi sáng. 10 giờ đêm qua, ngõ trên có đám cháy. Bà con túa cả ra ngoài. Em Cốm cũng chạy đi chữa cháy. Tôi không đi. Lởn vởn những nơi hữu sự, bà con lại nghi cho, thì bỏ mẹ. Giá chị Hòa qua đây gọi, tôi sẽ đi ngay. Đám cháy được dập tắt, nhanh chóng, nhưng Cốm lâu lắm mới về. Cốm nói: “Bà con nghi có địch”. Tôi không nói gì. Có lẽ tôi bắt đầu có vấn đề với chữ địch. Đêm ấy thật lạ. Đất đá ném lộp bộp, suốt đêm, trong ngõ, và ngoài phố. Tôi đoán là tụi biệt kích cài lại phá rối. Buổi sáng gạch đá còn lại hàng rổ, trong xóm. Lúc 8 giờ Cốm đi chợ về, mặt như bông hoa héo. Tôi cũng đoán được là chuyện gì. Nhưng không hỏi. Tôi ra ngã tư tìm mua một bao Côtab, thấy phô vẫn đỏ màu cờ, vẫn thơm mùi vị Tết. Cứ như thể hôm qua mồng một. Hôm nay là mồng hai. Tôi vừa mua thuốc lá xong, bị một bãi nước bọt tòe toẹt rơi ngay sát mũi giày. Một ông thợ đồng hồ, đứng trong hiệu nhổ nước bọt ra. Ông này tôi biết, tên là Trung trố. Ông này hỏi xỏ: “Anh mà cũng ở lại à?” Tôi định độp lại, cũng bằng câu hỏi ấy. Nhưng tôi không nói gì, chỉ nhún vai, quay đi. Ông này còn tiếp tục làu bàu những cái gì, sau lưng tôi một lúc lâu. Chắc chắn không hề ngọt ngào. Mấy bà đầu ngõ cũng chửi đổng. Mấy bà nói rất to: “Quân hại nước hại nòi. Cứ đem tất ra mà đấu”. Không biết mấy bà chửi ai. Tôi đi qua mấy bà, không nhìn bà nào. Nhưng tôi biết, mấy bà đang nhìn tôi. Về đến nhà, tôi ngồi, tôi đốt thuốc liên tục. Thuốc làm ngột ngạt, có lẽ vậy. Rồi tôi lại thấy, hết ngột ngạt, có lẽ tại thuốc. Tôi đến cạnh Cốm. Cốm nói: “Em mua con cá, định về đánh giấm. Bà ta mua, em cũng mua. Em đợi bà ta mua xong, mới chọn. Em mua xong xuôi, bỏ vào rổ, bà ta lại đòi mua con cá của em, lại còn chửi đồ mua tranh bán cướp, bỏ cái thói vợ ngụy ỉ thế chồng. May mà có người can, không thì bà ấy đánh xé em giữa chợ. Em nhục quá”. Tôi nói: “Thế mới gọi là khoan hồng. Chính Cốm khuyên anh ở lại. Còn muốn gì hơn? Anh đã biết trước”. Cốm nói: “Rồi về sau khác đi chứ. Mình làm ăn tử tế, đối xử nhũn nhặn. Chẳng nhẽ bà con xử tệ với mình mãi à? Biết thế này, chẳng kể với anh nữa”. Tôi gắt: “Thôi cô
đi làm cơm. Còn 300 ngày tênh tênh. Tôi mà ức lên, tôi tếch thẳng. Cô không đi theo, tôi tếch một mình”. Nói rồi, tôi chớp mắt, rồi lại chớp mắt, rồi lại chớp mắt nữa, để mỗi lần, cái hiện tại hủi này lùi ra xa. Tôi chớp mắt mãi, mà không xong.
Buổi chiều. Lúc Cốm làm cơm dưới bếp, thì thằng Ngỡi vào, mũi nghếch như mõm chuột. Chỉ có mình tôi mà Ngỡi vẫn thì thầm, sợ ai nghe thấy. Nó nói: “Lợn sữa quay, đàn anh ạ. Tình Bốp sai em mời anh đến ngay”. Tôi ngạc nhiên thấy tháng trước, nó xưng ông với tôi, bây giờ lại xưng em, dù nó già hơn 12 tuổi. Cả khu phố đã bảo nhau: từ ngày đi trốn nó xưng em với tất cả mọi người, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên. Tôi nhìn đồng hồ dạ quang, là 5 giờ chiều. Tôi hỏi: “Tình Bốp mới về à?” Ngỡi nói: “Về từ 2 giờ chiều. Tình Bốp đến em, để hỏi tin tức mọi người”. Tôi hỏi: “Sao có lợn sữa?” Ngỡi nói: “Thế mấy tài. Em trốn vào Hà Đông. Em bảo Tình Bốp, ở đấy có lợn sữa Hoa Bắc. Trước khi đi Tình Bốp đưa tiền, và dọa nếu không tìm được hai đôi lợn sữa, thì đừng có về”. Tôi hỏi: “Tiệc có những ai?” Ngỡi nói: “Đủ cả bốn đàn anh, với em, là năm. Hai đôi lợn sữa quay, nóng sốt, là bảy. Tươm lắm anh ạ”.
Dĩ nhiên ăn thì bao giờ cũng tươm. Thế là năm thằng chạm chén, loanh quanh một chiếc chiếu trải, trên sàn gác. Khắp nơi có chai, và vỏ chai la liệt. Đèn bật sớm làm trắng bệch, cả buổi chiều. Giữa chiếu là hai con lợn quay, rất kĩ thuật, bởi vì da cháy vàng, nhưng trong suốt. Được thằng Ngỡi thái, thành từng miếng vuông vức trên đĩa, bên cạnh là một bát hành xanh, một bát ớt tươi, một bát tương Tầu, và một cốc đường trắng. Thằng Ngỡi nói: “Em tìm mãi, mới được hai con lợn sữa Hoa Bắc, chúng được nuôi bằng gạo nếp, chứ không bằng gạo tẻ, và gạo tấm, cũng không bằng bột cám, cho nên thịt chắc và mềm như thế này, bì giòn và thơm như thế kia, nhai được cả xương”. Tuyệt vời thế mà cả năm thằng đều ngơ ngác buồn, nhất là thằng Chắt. Nó buồn nhất cũng phải. Nó hôm nọ lái chiếc xe Jeep, cùng với đài, và dây moóc, ra hậu phương lập công. Nó nộp, cho một anh cán bộ mặc quân phục xanh, rồi anh này đi đâu mất. Không hiểu anh cán bộ tên gì, ở đơn vị gì. Anh này cũng chẳng đưa cho cái biên nhận nào. Thế là thằng Chắt lại lóc cóc đi về, tự nhủ bao nhiêu công lao bị ăn hớt cả. Tự mắng là thằng ngu, có tí công lại để buột mất. Nhưng cũng tức giận, nói bộ đội làm ăn thế này, không phục. Nó lại còn nghi là, anh cán bộ áo xanh ăn chặn công lao người khác, để được lên chức. Sau cùng, nó kết luận và chửi thề tiên sư thằng Chắt, sẽ không bao giờ lập công nữa. Chiều nay nó vừa ăn, vừa ngơ ngác buồn.
Đoành nói: “Tại mày không may thôi”. Tình Bốp nói: “Tại mày tốt nhịn. Hận to thế, mà mày không làm vung lên. Phải thằng khác, nó kiện, nó tóm cổ làm lôi thôi thằng thủ phạm”. Chắt nói: “Tao về đây, mới thấy chán. Nhà cháy lại thấy gạch đá ném, suốt đêm. Người ta nghi ngờ, nhưng tao làm gì, mà nghi. Thôôôi, tao sửa soạn cần vợt tao đi câu con nhái, cho nhẹ nhàng cái ngày mai”. Tình Bốp nói: “Mở đầu là chiếc xe Jeep, to như con voi, để kết luận, thành con nhái be bé”. Tôi nói: “Mai tao cũng đi câu”. Có vẻ không thằng nào nghe thấy. Tình Bốp lại nói: “Tình hình lúc này, lưu manh, trộm cắp và ngụy quân, như tụi mình, đứa nào cũng bị nghi tất”. Ngỡi gật đầu và lại xưng em, với tất cả mọi người. Ngỡi nói: “Đàn anh nói phải. Người ta đòi đem lính ngụy ra đấu ráo một lượt. Em cũng lo lắm. Em đàn đúm thế này với các anh, nhưng thú thực, em một vợ sáu con, bụng dạ em như có lửa đốt”.
Có vẻ Ngỡi lo sợ thật. Những ngày sột soạt giữa hai chế độ, đã đưa nó xuống tầng dưới, của quan hệ xã hội. Có ba giả thiết cho sự thay đổi này. Thứ nhất, lối xưng hô mới của nó, dù vô tình hay cố tình, cũng là động tác rút lui khỏi tình bạn, mà không cần tuyên bố, và không làm ai mếch lòng. Thứ hai, nó đã đánh hơi thấy những gì sẽ phải xảy đến (cho tình bạn, tình hàng xóm, cho tình người nói chung) và lối xưng hô mới này, sẽ là vỏ bọc bào vệ an toàn cho nó. Thứ ba, những thay đổi bên ngoài, đã xáo động ghê gớm tâm hồn iếu ớt của nó, và sau đó tâm hồn tác động lên ngôn ngữ. Giả thiết thứ ba có vẻ kém xác thực hơn.
Lối xưng em của Ngỡi hình như lây lan sang cả đám bạn tôi. Tình Bốp rót thêm rượu, cho cả năm đứa. Tình Bốp nói: “Khoan. Bàn đi rồi, phải bàn lại. Đàn anh Dưỡng đọc vài ngàn cuốn sách (trinh thám), có học thức như vậy, mà có kêu khổ đâu. Chúng mày chưa gì đã nháo nhác. Thế là hỗn, với anh Dưỡng”. Tôi chưa hiểu vì sao, tôi được lên chức đàn anh, cho cả nhóm, Tình Bốp đã tiếp tục. Nó nói: “Tất nhiên tình hình tối đen, như mực. Nhưng đàn anh Dưỡng thử chỉ ra những điểm sáng sủa, để bọn em này có chỗ mà trông vào”. Quay sang thằng Đoành. Nó nói: “Cả thằng ca sĩ rởm này nữa. Cũng tổ sư sách (trinh thám) đấy. Xem có mẹo gì không?” Tôi đang còn bàng hoàng, chưa lấy được gì, từ đống kinh nghiệm trinh thám, thì thằng Đoành đã nhanh nhẹn trả lời. Nó nói: “Mẹo à. Thiếu gì mẹo hủi. Chỉ có đớp và hít là không ai cấm. Việc quái gì mà sợ”. Tôi cũng nói theo: “Minh nhìn lặt vặt, đâm ra sợ hãi lặt vặt. Đúng đấy. Nhin chung, tao rất iên tâm”. Tôi thế là trở thành anh cả của mâm rượu, để tuyên bố những điểm sáng sủa, cho bọn em tôi, đang im lặng ngồi chờ. Tôi nói, vòng vo: “Đây nhé. Miền Bắc là cộng sản. Miền Nam là ngụy. Hai miền húc nhau. Năm thằng mình, là năm con ruồi ở
giữa… Nhưng mà năm thằng không được chết. 300 ngày này, và điều khoản 14C này, cả hai miền đều dành cho năm thằng một khoản. Dù sao cũng bị nhọ rồi, năm thằng càng phải giữ: tránh giao du những địa chỉ nhọ, cứ tìm những nơi minh bạch sạch sẽ, mà đớp hít. Cứ thế phải sống lâu trăm tuổi”. Đoành nói: “Tao tán thưởng”. Tình Bốp nói: “Tao chẳng thấy rõ ràng tí nào. Mù tịt bỏ mẹ. Ngay bài diễn văn của mày, đến tai cán bộ, nó sẽ bảo ngay là mày gieo rắc hoang mang, nghi hoặc trong lòng người”. Đoành nói: “Dưỡng nó nói chí lí”. Tình Bốp lườm cho nó một cái. Chắt cũng nói: “Thằng Dưỡng nói được. Tao thấy rõ. Phải tránh chỗ rậm chỗ tối. Bây giờ 9 giờ hãy còn sớm, nhưng về là vừa cho minh bạch, đúng như thằng Dưỡng nói. Thôi tao về”. Nói xong nó đứng dậy, phủi đũng quần, rồi cút thẳng. Theo sau là Đoành. Thằng Ngỡi nấn ná, thu dọn chỗ thịt còn lại, im lặng gói một gói đem về. Còn lại mỗi tôi, với Tình Bốp. Đến 9 giờ 30 Tình Bốp đứng dậy, pha càphê. Nó lấy trong tủ bicphê ra bánh ngọt, kẹo nuga và súccùlà. Tôi hỏi: “Lily đâu?” Nó nói: “Xuống Hải Phòng”. Tôi nói: “Xéo à?” Nó nói: “Không. Lily tiễn Macxen đi. Lily ở lại”.
Tôi hỏi: “Lily ở lại thế nào được?” Tình Bốp nói: “Chỉ có đớp hít không thôi, như mày nói lúc nãy, thì có gì mà sợ”. Tôi im. Lát sau, Tình Bốp giải thích: “Lúc nãy đông người, tao pha trò cho vui. Trong bụng tao thấy mày có lí. Là cái kế của mày, kế đứng giữa. Học thức đọc sách của mày, quả là thâm. Cái kế đứng giữa bất-hợp-tác-cộng-sản của mày tài thật”. Nó rộng lòng khen tôi, và cũng rộng lòng lấy rất nhiều bánh ngọt, cho vào đĩa tôi. Tôi ăn bánh. Tôi ngắm hai phin càphê, đang nhỏ những giọt rất đen. Tình Bốp không nhìn tôi. Tôi cũng không nhìn nó. Nó nói: “Họ ghét nhất những thằng đứng giữa. Họ còn thù thằng-đứng-giữa hơn cả đế quốc. Mày cẩn thận đừng để lộ. Tao hiểu mày. Không có khoan hồng nào cả. Mày biết. Tao có nói gì với mày, cũng thừa”. Nó nói lúc to lúc nhỏ, tôi nghe lúc được lúc không. Có thẻ vì tôi đã uống quá sức. Nó nói, vẫn không nhìn tôi: “Hãy sử dụng chân lí đớp hít, vì thiên hạ đánh lẫn nhau, cũng chỉ vì đớp với hít. Hai miền húc nhau như mày nói, là húc ngầm cả. Mày bất hợp tác, tức là mày… phá ngầm. Tao chịu mày rồi”. Tôi nói: “Cái gì?” vì thấy khác í của tôi quá. Tình Bốp bây giờ mới nhìn vào mặt tôi, không rõ say hay tỉnh. Nó nói: “Khà. Hôm nay ăn mừng cộng sản. Lí thú ra trò. Anh em mình từ mai sẽ làm ăn tử tế. Tao sẽ mở quán càphê. Ngay trong ngõ nhà tao. Tao sẽ bán nốt bọn bẹcgiê, để giải nghệ đi theo kế của mày. Đớp hít. Đứng giữa. Bất hợp tác. Lánh ra xa tất cả. Mày kém tao hai tuổi, nhưng mày có học thức đọc sách. Tao với mày là anh em”.
Buổi đêm. Trên đường về tôi nhớ lại trò mách lẻo của thằng Ngỡi. Nó kể chuyện thằng Hoóng quan hai biệt kích, không di tản mà ở lại Hà Nội. Dân phố nghi thằng này đã cho đồng bọn đốt nhà, và ném gạch vào các buổi đêm. Nó cặp kè với một phụ nữ, rồi cặp luôn với cô con gái. Nó cưới cô con, nhưng vẫn tiếp tục đi lại với cô mẹ. Thế là hai mẹ con đánh ghen nhau, để chia nhau cái tuổi 26 của nó. Cô con đi xiclô rình cô mẹ. Cô con thuê du côn, toàn bộ giới tính nữ, để đánh xé cô mẹ, cho tan tành luôn góc phố Hàng Đào. Nhưng cô mẹ cũng cao tay: mỗi lần thằng Hoóng được thả về cho cô con, thì nó đã bị cô mẹ rút hết tủy rồi. Phải hàng tuần sau, cô con mới vỗ cho thằng Hoóng ngóc ngách được một tị. Cô mẹ lại tìm cách bắt cóc thằng Hoóng đi. Cô con trẻ hơn xinh hơn, nhưng lại kém nghề hơn cô mẹ. Hai mẹ con cô mà đi với nhau, thì cứ hồn nhiên như hai chị em.
Buổi đêm. Chưa biết, tôi có bất hợp tác với cộng sản không, vừa về đến nhà 11 giờ, đã bị luôn em Cốm bất hợp tác. Cốm nằm im lặng, mặt quay vào tường. Tôi lật người Cốm lại. Cốm hất tay ra, rồi lại quay vào tường. Đít chổng vào mặt tôi, căng tròn như cái bệ nảy. Tôi vỗ một cái mạnh, thấy bệ nảy ra bệ nảy. Cốm quay phắt ra, nói: “Anh đàn đúm rượu chè, đang lúc thế này, anh không giữ gìn gì cả. Anh đi từ 5 giờ chiều, bây giờ 11 giờ mới về”. Không nói gì, tôi ngồi xuống giường. Cốm tiếp tục rầy la. Tôi phớt lờ. Tôi vuốt ve Cốm, theo kiểu làm lành. Thoạt đầu là vuốt tóc, sau đó là vuốt vai, sau đó là tay, và những bộ phận lịch sự của Cốm. Rồi cứ như bị nhỡ tay, tôi sang những bộ phận khác, lịch-sự-vừa-vừa và sau đó, ở những chỗ không lịch-sự-chút-nào. Cốm gạt tay tôi. Cốm nói: “Tôi lấy làm lạ cho anh. Mẹ dặn thế nào. Tôi lên mách mẹ, cho xem. Anh có định làm ăn tu tỉnh không? Từ tối đến giờ, gạch đá lại ném lộp bộp, trong xóm. Người ta nghi ngờ, mà các anh tụ tập nhau đánh chén”. Tôi nói: “Iên trí. Mình không làm gì ám muội. Ai nghi mặc họ. Vả lại anh đã kiếm được việc làm rồi”. Cốm vội hỏi: “Anh tìm được việc gì, mà nhanh thế?” Tôi nói: “Chơi mấy hôm cho chán. Rồi anh đi câu nhái”. Cốm tức thì tru tréo: “Ôi dào. Tưởng gì. Hóa ra đi câu ếch câu nhái. Trai trẻ như anh, biết lái tàu bò, thì phải biết lái ôtô, sao anh không xin đi lái ôtô? Có phải có cái nghề tử tế, vợ con mát mặt, mà anh cũng được tiếng tốt. Anh lên khu phố xin việc, làm gì chẳng được. Đi câu nhái, phố xóm còn coi anh ra gì?” Tôi cáu. Tôi gắt: “Ngủ mơ đây à? Hủi như tôi, ai cho việc mà xin. Đừng làm tôi cáu. Khu phố của cô to nhỉ. Cô có ngủ mơ, thì cứ mơ, đừng bắt tôi mơ ngủ theo”. Cốm nói: “Tối nay anh trốn đi họp. Anh chưa biết, nên tôi thông báo lại”. Tôi nói: “Không cần”. Nói rồi, tôi chớp mắt mấy chục cái liền, để bao nhiêu hiện tại, theo nhau rơi hết vào quá khứ. Tôi chóp mắt mãi, mà chưa xong. Thế là lại một thử nghiệm dang dở về thời gian.
Buổi sáng. Hôm nay là mồng ba tiếp quản. Chắt đến rủ đi câu nhái. Nhìn sân và ngõ còn ngậm sương, tôi khất nó vài ngày nữa. Vả lại tôi chưa kịp sắm đồ câu. Chắt tự đi một mình. Tôi hút thuốc và pha càphê, như thường lệ. Sau khi ăn sáng, tôi đọc sách trinh thám. Đọc chán tôi ra phố, cũng như thường lệ. Rồi đi sắm đồ câu nhái. Tôi mua cần dài, để câu ếch, cần ngắn, để câu nhái. Tôi mua giỏ, vợt, chì, và dây. Về nhà, xếp tất cả vào một chỗ, rồi huýt sáo một bài nhạc vui. Huýt sáo xong, tôi xem anbom con lợn. Rồi dán thêm vào anbom, mấy pô tả chân em Cốm, tôi chụp hôm qua. Ảnh hơi nhòe vì động, nhưng càng lung linh. Xem xong ảnh tôi ngồi, nhìn ra ngoài vườn. Sau đó, cất anbom vào tủ. Tôi nằm khườn đọc sách trinh thám.
Cuốn truyện rùng rợn tôi đọc, cả buổi chiều. Cả buổi chiều ít nắng, và rét, tôi đắp chăn, nằm cạnh cửa sổ. Thỉnh thoảng tôi ngừng đọc, để nhòm ra ngoài. Vườn trút lá từng chặp. Qua vườn là xóm trong. Có nhiều bóng người, đi lại thấp thoáng. Thỉnh thoảng tôi để sách một bên, nhưng không nhòm ra ngoài, mà chỉ muốn nghe tiếng chân, tiếng ngưòi léo xéo, của phố xóm, xa xa vọng đến. Cuốn sách trinh thám, chương nào cũng có người chết. Có gián điệp cài bẫy gián điệp. Có cái cửa sổ, trông ra phong cảnh, hệt như cửa sổ buồng tôi. Có Phòng Nhì Pháp, có Giettapô Đức, có Anhtenlidang xecvit Anh, có Guypêu Nga, FBI của Mĩ, trộn vào nhau, thành một thế giới đẫm máu, dối trá và mưu mẹo suốt ngày đêm. Thế giới này di chuyển, từ hòa bình sang chiến tranh, rồi lại quay về hòa bình. Nhưng không bao giờ iên ổn. Con người trên mặt trận bí mật này, không ngưng chuẩn bị rút súng.
Tôi không rõ cuộc chiến trong sách, và cuộc chiến tôi vừa trải qua, có gì khác nhau. Và hòa bình nữa, hòa bình trên thế giới, và hòa bình ở nước tôi, có gì giống nhau. Tôi nghĩ, tới Macxen, và nhất là tới cô chị Lily đi tiễn nhân tình xuống Hải Phòng. Tôi nghĩ, ngày hôm qua và ngày hôm nay, là chiến tranh chuyển sang hòa bình. Chỉ vài tiếng đồng hồ, mà số phận và nhiệm vụ của hàng triệu con người thay đổi hẳn. Tôi nghĩ tới một cuộc chiến, có lẽ đang bắt đầu, bên trong hòa bình tuổi mới 3 ngày, bên trong những tiếng động, của một buổi chiều bình thường, như thế này. Chiến tranh và hòa bình, nằm kề nhau như đêm nằm sát ngày. Ban ngày khu phố vẫn yên bình. Nhưng buổi đêm, nhà cháy, đá ném vung vãi, khắp nơi, và khẩu hiệu viết tràn ngập các hố xí công cộng. Hòa bình và chiến tranh là như thế, nhưng cả hai đều mới chỉ bắt đầu. Tôi đợi, một cơn bão chưa lên.
Buổi tối. Tôi lại rúc mắt vào cuốn truyện. Khí lạnh mùa đông lọt vào buồng. Ngọn đèn đầu giường chụp nilông đen, thả vừa đủ cho trang sách, còn tường và trần nhà tất cả đều lờ mờ. Không nhìn thấy gì, ngoài cửa sổ nữa. Phố, xóm, ngõ, toàn bộ tối đen. Cái gì cũng như cố tình, cho câu chuyện thêm thú vị. Tôi đọc đến đoạn một nữ Giettapô trẻ xinh, đang quyến rũ lên giường một anh lính thủy Mĩ, được miêu tả 100% chân thực. Phải nói là rất xúc động. Vậy mà cuối chương, hóa ra là không phải như thế: chỉ là một buổi diễn tập của trường đào tạo gián điệp. Vậy mà cô nữ Giettapô đã phải làm đầy đủ mọi động tác, xâm chiếm thân thể anh lính thủy. Từ bộ phận này, đến bộ phận khác. Từ màn dạo đầu. Đến khúc cuối cùng. Từ buồng máy. Đến buồng ngủ. Từ lúc cả hai còn nguyên vẹn quần áo. Đến khi chẳng còn tí vải nào trên người. Hoàn toàn lõa lồ, và cuồng nhiệt. Hoàn toàn công khai. Kể cả những rên rỉ, nằm sâu trong cổ họng, vì khoái lạc. Trước các nữ sinh, và bà giám đốc đào tạo. Đồng hồ dạ quang của tôi chỉ 7 giờ kém 5, là lúc tôi rạo rực đậy tìm Cốm. Cốm đã rửa bát xong, đang tắm. Tôi xuống buồng tắm. Ánh điện bên trong lọt ra, lẫn khói nước nóng. Tôi ẩy cửa. Em Cốm giãy nảy. Tôi thò tay qua kẽ hở, đẩy cái then cài. I như trong thánh kinh: tôi đột nhập buồng tắm.
Tháng bảy 1965. Chị Hòa kể: tôi là nhân viên, ban bảo vệ khu phố, từ 11 năm nay, cho nên chuyện gì tôi cũng phải nhớ. Một tối chính xác, cuối mùa thu năm 1954, tôi đang băm bèo lợn, còn 5 phút nữa xong, thì nghe đoàng một cái. Mẹ chồng tôi trong bếp, chạy ra hỏi: “Con có nghe thấy gì không? Mẹ nghe như tiếng súng”. Tôi nói: “Pháo nổ đấy mẹ ạ”. Mẹ tôi nói: “Súng nổ, ở phía vườn nhà thằng Dưỡng tàu bò. Con chạy ra xem sao”. Tôi nghe nhời mẹ chồng, vội rửa tay, không kịp sửa tóc, cứ thế chạy ra ngõ. Tôi chạy về tiếng nổ bất thường. Ngõ tối, không một bóng người. Được 300 bước, chính xác chỗ vườn nhà cậu Dưỡng, tôi vấp phải chiếc xe đạp, nằm coòng queo giữa ngõ. Trong nhà cậu Dưỡng có tiếng đàn ông lao xao. Tôi liền đi tắt qua vườn vào sân, ngắn hơn được 30 bước, nếu vòng qua cổng. Bác Mẫn và ông Trung trố đang đứng cạnh bể nước. Ông Trung trố quát to: “Trong nhà có ai không? Đi đâu cả rồi? Vợ chồng Dưỡng đâu rồi?” Không có tiếng trả lời, nhà trên điện sáng, cửa mở tanh bành, nhưng không một bóng người. Dưới nhà
tắm có ánh đèn, và hơi khói bốc ra, trong có tiếng lục sục một chút. Bác Mẫn tức thì xông đến, ẩy cửa nhà tắm thình lình. Có tiếng rú trong nhà tắm, tôi nhận ra tiếng cô Trinh. Cửa nhà tắm mở ra, để lộ hai thân thể lõa lồ, là hai vợ chồng cậu Dưỡng, tắm chung trong ấy. “Nỡm!” Bác Mẫn thốt ra một tiếng,
đóng ập cửa nhà tắm lại, và đứng ngoài quát: “Mau, ra ngay! Ra ngay! Có tiếng súng nổ từ nhà này. Ra ngay! Mau!” Chỉ trong 5 giây ngắn gọn, tôi vô tình nhìn thấy toàn bộ hai thân thể hồng hào của hai vợ chồng, họ có vẻ cao lớn hơn lúc mặc quần áo, nên tôi xấu hổ quá, đỏ hết cả mặt, may mà tối trời chẳng ai để í. Vừa lúc ấy có tiếng chân chạy xộc từ vườn sau ra sân trước. Ba chúng tôi cùng quay lại, thấy một anh bộ đội bốn túi. Ông Trung trố hỏi: “Anh là ai?” Anh bộ đội hỏi lại: “Ông là ai?” và quay sang tôi anh hỏi: “Chị là ai?” Tôi nói: “Chúng tôi là bảo vệ khu phố. Đây là bác Mẫn trưởng ban. Đây là ông Trung tr… (suýt nữa thì tôi nói thành ông Trung trố) là phó ban. Thế anh là ai?” Anh bộ đội nói: “Tôi cần gặp chính quyền khu phố. Tôi bị kẻ gian ám sát trượt. Tôi đang tìm đến nhà chị Hòa. Tôi vào nhầm ba bốn ngõ. Vừa đến chỗ kia tôi bị một phát súng, từ vườn này bắn ra. Nhưng bắn trượt. Tôi liền vứt xe lại, xông ngay vào vườn. Tôi còn thấy một bóng đen lao qua các gốc cây. Nó có vẻ thông thuộc đường lối: nó chạy mà không hề bị vấp. Tôi lúng túng mãi mới ra khỏi vườn, vì bị vướng cây. Ra đến ngoài, nó đã biến mất. Tôi tìm loanh quanh một lúc, tức quá. Tiếc là không mang súng theo, để nó chạy thoát.” Vừa lúc ấy, vợ chồng cậu Dưỡng lóp ngóp ở nhà tắm ra. Anh chồng đi trước mặt phớt lạnh. Cô vợ theo sau bẽn lẽn. Tôi không dám nhìn mặt họ, vì xấu hổ quá. Nhưng tôi vẫn nhớ, chính xác thế này: ông Trung trố đi theo hai vợ chồng cậu Dưỡng, bác Mẫn làm việc với anh bộ đội ngay tại góc sân. Đúng 10 phút sau, anh bộ đội bước đến gần tôi và nói: “Vậy chị là chị Hòa nhỉ. Tôi với chồng chị cùng nằm bệnh viện nên quen nhau. Ngày tôi ra viện, anh nhờ tôi chuyển thư cho chị. Hôm nay tôi vào tìm chị, nhưng bây giờ muộn quá rồi. Đáng lí tôi phải giải thích… để chị rõ. Bây giờ tôi xin phép, phải đi ngay. Chủ nhật, sáng chủ nhật chị có nhà không? Tôi sẽ đến nói chuyện với chị”. Tôi cầm bức thư trong tay, bàng hoàng biết có chuyện gì không hay, quên cả chào anh bộ đội lúc đó đã đi xa. Ngoài cổng, người lớn và trẻ con bắt đầu kéo đến, họ đứng ngập cổng nhà Dưỡng. Cất vội lá thư vào túi áo, và ra cổng giữ trật tự. Tôi nói bà con nên giải tán về nhà, nhưng vô ích. Mấy lần tôi phải kể lại đầu đuôi sự việc, và trả lời những câu hỏi khó trả lời. Ngõ tối và rét. Lúc nào chợt nhớ, đến hai thân thể lõa lồ trong buồng tắm, tôi lại xấu hổ. Lúc nào chợt nhớ, đến lá thư chồng chưa kịp đọc, còn trong túi áo, tôi lại thấy có cái gì, nhoi nhói trong lòng.
III
Buổi tối. Nhật kí tiếp tục: hủi to, tôi đứng cạnh bàn, không dám cử động. Bác Mẫn bảo tôi ngồi, một đầu bàn, em Cốm một đầu bàn. Bác Mẫn ngồi giữa. Ông Trung trố đòi tôi chìa khóa, mở tung các tủ, lục mọi thứ lộn bậy. Bác Mẫn hỏi: “Lúc súng nổ, anh ở đâu?” Tôi đáp: “Trong buồng tắm”. Bác Mẫn hỏi: “Trước đó, anh ở đâu? Làm gì?” Tôi đáp: “Tôi nằm kia đọc trinh thám”. Bác Mẫn hỏi: “Mấy giờ anh xuống buồng tắm?” Tôi đáp: “7 giờ kém 5”. Bác Mẫn hỏi: “Cả hai vợ chồng anh cùng đi tắm, lúc 7 giờ kém 5?” Tôi đáp: “Không. Nhà tôi rửa bát xong đi tắm. Không rõ mấy giờ. Tôi nằm xem truyện. Lúc 7 giờ kém 5 tôi xuống buồng tắm”. Bác Mẫn hỏi: “Sao anh biết lúc đó 7 giờ kém 5?” Tôi đáp: “Tôi nhìn đồng hồ”. Bác Mẫn nói: “Tất nhiên anh nhìn đồng hồ. Nhưng chợt nhìn vô tình, hay anh chủ í từ trước sẽ đi tắm vào giờ ấy?” Tôi định trả lời, nhưng bác Mẫn giơ tay bảo: “Khoan” và quay sang nói với Cốm: “Thế này hơn. Chị ra buồng ngoài, nhưng đừng đi đâu. Ngồi đợi tôi hỏi xong anh, sẽ hỏi đến chị. Chị có đồng í không?” Cốm nói: “Vâng”. Trước khi đi ra, Cốm nhìn tôi. Bác Mẫn nói: “Anh trả lời đi!” Tôi đành nói thật: “Thật ra, không phải tôi đi tắm. Đầu đuôi thế này. Truyện tôi đọc là truyện gián điệp, kia, cuốn truyện đọc giở vẫn còn để đầu giường. Tôi… tôi… bỗng bị rạo rực, vì truyện đến đoạn ấy, nó làm tôi… rạo rực. Tôi bỏ sách, nằm nghĩ vơ vẩn, vô tình nhìn đồng hồ thấy 7 giờ kém 5. Tôi bị kích thích nên chạy xuống buồng tắm. Tôi ép… nhà tôi ngay trong buồng tắm”. Bác Mẫn đến đầu giường, cằm lấy cuốn truyện. Bác không đọc được tiếng Pháp, nên hỏi tôi đi tắm ở trang nào, rồi đánh dấu lại. Bác Mẫn hỏi: “Vậy anh có nghe tiếng súng nổ không?” Tôi đáp: “Có”. Bác Mẫn hỏi: “Tại sao anh biểt là tiếng súng?” Tôi đáp: “Tôi nghe tiếng súng đã quen. Nhưng lúc ấy tôi đánh lừa nhà tôi. Tôi bảo là tiếng xe đạp nổ lốp. Không muốn phát súng phá đám vợ chồng tôi”. Bác Mẫn hỏi: “Mọi việc xảy ra bên ngoài, như tiếng người đuổi nhau ngoài vườn, anh có nghe thấy không?” Tôi đáp: “Tôi có nghe tiếng chân chạy ngoài vuờn. Và cũng đoán có chuyện gì. Nhưng lúc ấy bom có nổ đầu giường, tôi cũng mặc”. Bác Mẫn hỏi: “Hai vợ chồng son, nhà vắng, thiếu gì chỗ mà phải xuống buồng tắm?” Tôi đáp: “Vì nhà vắng, nên chỗ nào cũng như chỗ nào. Nhà bếp, nhà tắm, trong vườn, thì khác gì nhau”. Bác Mẫn có vẻ kinh ngạc. Bác Mẫn quay ra xem ông Trung trố, đang biến giường của vợ chồng tôi thành nơi chứa tang vật, mà ông nhặt nhạnh được, trong nhà. Trên giường bây giờ là máy ảnh, tập anbom ảnh con lợn, chiếc bật lửa đế quốc, tạp chí khỏa thân, và dĩ nhiên cuốn truyện trinh thám, được đánh dấu cẩn thận, ở đoạn gay cấn. Tôi cũng quay ra, nhìn chiếc
giường, nhưng chỉ thấy nó giống như một chiếc gương khổng lồ, đê tôi soi mặt vào. Bác Mẫn lại hỏi: “Anh có chắc chắn là anh không dính dáng gì, vào chuyện súng nổ không? Nói dối tội anh sẽ nặng thêm. Bọn xấu chúng nó mượn mảnh vườn sau nhà anh, làm chỗ thi hành thủ đoạn, ấy là tôi giả dụ thế. Là chúng nó chẳng tử tế gì với anh, là chúng nó giết anh. Anh phải nhìn rõ điều đó. Chắc chúng nó xui anh, lánh mặt xuống nhà tắm, chứ gì? Là tôi giả dụ thế. Anh biết thì khai ra, lúc này chưa muộn. Đứa nào chủ mưu? Đứa nào hành sự? Đứa nào xui anh? Phát súng nổ lúc mấy giờ, anh có biết không? Không biết à? 7 giờ 3 phút. Anh nên nói thật!” Tôi đáp: “Không. Tôi hoàn toàn không biết gì. Tôi không dính dáng gì vào chuyện này. Tôi xuống buồng tắm, nguyên do chỉ tại cuốn truyện”. Tôi làm bộ mặt vô tội, mà đúng là tôi vô tội thật. Bác Mẫn quay ra dỗ tôi, bằng cách khác. Bác Mẫn nói: “Được rồi. Tôi cứ tạm cho những lời khai từ nãy đều đúng. Anh nghĩ thử xem. Thằng nào bắn thế này, ắt phải thuộc đường đi lối lại, quanh nhà anh. Anh tự đặt vào địa vị nó xem. Dù liều mấy, nó vẫn phải tính kế thoát thân cho nó. Giả thử lúc súng nổ, anh ở trên nhà, ắt phải chạy ra. Không thì cũng phải nhòm qua cửa sổ, ắt anh phải trông thấy nó chạy qua vườn. Tối thì tối ắt phải nhận ra được nó, béo gầy thế nào, cao thấp thế nào, giống ai hoặc là ai. Anh có đồng í như tôi phân tích không nào? Anh không đồng í, tôi sẽ chạy thử ngoài vườn, để anh và mọi người thử nhìn, từ cửa sổ xem sao… Anh thấy không cần hả? Được rồi. Vậy thì nếu hung thủ bắn từ vườn nhà anh, thế nào cũng bị anh phát giác. Biết thế, tại sao nó vẫn mượn vườn này, để bắn? Đứng ngoài vườn thấp, tôi đã thử rồi, nó không thể nhìn vào nhà anh được, không thể biết trong nhà có ai. Nhà bật đèn, ắt có người. Có người mà nó vẫn bắn. Anh thấy chưa? Hung thủ nó không lo gì về phía anh cả. Có thể anh có mắc míu gì với nó, không dám phát giác nó. Như thế nghĩa là, bao che cho nó. Ấy là giả dụ nhẹ nhất. Chưa kể anh và nó có bàn với nhau từ trước, từ lúc nó thấy anh bộ đội đi lạc trong ngõ… Nó đã chạy vội đến, bảo anh lánh mặt, và kiếm cớ giữ vợ anh trong buồng tắm, đúng lúc 7 giờ kém 5. Tất cả chỉ có 8 phút, thế là anh không kịp chạy đi đâu, phải lánh mặt xuống buồng tắm chứ gì. Ông Trung, chị Hòa, chạy về nhà tôi, lấy hộ chiếc đồng hồ, để tôi đọ với đồng hồ nhà này, xem sao… Thế nào, anh nên khai thật đi. Đừng quanh co nữa”. Tôi toát mồ hôi, mà không nói gì được. Cũng không nghĩ ra được cái gì. Bác Mẫn giục: “Thế nào?” Tôi đáp như cái máy: “Không. Không phải thế. Bác không nên nghi tôi”. Bác Mẫn nhìn thẳng vào mắt tôi rất lâu, làm tôi phải nhìn xuống mặt bàn: nhìn mãi chỗ có ngấn chén nước ướt. Bác Mẫn im lặng một lúc nữa. Tôi cũng im lặng. Rồi tự dưng, bác Mẫn đổi giọng. Bác hỏi: “Vậy anh… nghi ai?” Tôi đáp: “Tôi không nghi ai cả”. Bác Mẫn hỏi: “Máy ảnh là của anh?” Tôi đáp: “Không. Tôi mượn của Tình Bốp”. Bác Mẫn hỏi: “Anh chơi máy ảnh từ bao giờ? Có cả thuốc in tráng ở nhà?” Tôi đáp: “Từ hồi đi học đệ thất. Tôi chơi ảnh truồng, nên phải
học in và tráng lấy ở nhà”. Bác Mẫn ra buồng ngoài, hỏi cung em Cốm.
Đ-ờ-i, thế là đ-i t-o-o-ng. Đi toong luôn một đêm trắng phơ, trắng phếch, rỏi năm mà thao láo, măt nhìn trần nhà. Em Cốm bên cạnh, khóc một hồi, bây giờ cũng đã ngủ. Cốm trách tôi là xấu hổ, là bêu xấu vợ. Cốm uất ức vì chuyện trong nhà tắm, nhiều hơn là phát súng trong vườn. Cốm nghĩ giản dị, là không phải tôi bắn, đời nào có chuyện cam làm quít chịu. Nhưng chuyện cái nhà tắm, phố xóm tha hồ kể cho nhau. Phố xóm ngày mai sẽ cho Cốm đeo vài cái mặt mo. Tôi an ủi Cốm đời thiếu gì những cái mặt mo, là ông nọ, bà kia. Vợ chồng với nhau chứ với ai. Đâu có quan phu dâm phụ gì, mà xấu hổ. Cốm không nghe, Cốm xỉa vào mặt tôi. Cốm nói: “Bận sau muốn hốc, thì hốc cho tử tế. Những lúc đêm khuya thanh vắng như bây giờ, sao không… hốc. Lại cứ nhè những lúc như thế…” Cốm nói vậy, bằng xui tôi làm lại cái chuyện nhà tắm. Thế là tôi kiên quyết làm lại lần nữa, mặc Cốm không đồng í. Một lúc sau Cốm mệt, nằm khóc rồi ngủ mất. Tôi cũng mệt, nhưng không tài nào ngủ được.
1 giờ 30. Tôi không muốn nghĩ gì cả. Nhưng rồi lại nghĩ vơ vẩn. Rồi lại muốn nghĩ, một cái gì đó nghiêm túc hơn. Ai đó đã mượn vườn nhà tôi, để nổ súng. Cỏ thể vô tình, có thể cố tình, để trả thù tôi, nhưng tôi làm gì, mà có kẻ trả thù. Tôi không đủ kinh nghiệm và trí nhớ, để nghi ngờ một người nào đó tôi quen. Chỉ biết thế là hủi to rồi, cho cuộc đời bú dù của tôi, từ dêm nay. Tôi kẻ bị tình nghi số 1, tôi kẻ bị tình nghi số 2. Tôi thuộc lòng hàng trăm cuốn trinh thám, có thể nối cuốn nọ vào cuốn kia, thành một bộ phim khổng lồ. Đêm nay một cuốn truyện mới bắt đầu, ngay từ chiếc giường của tôi, từ ngôi nhà này (có từ hồi bố tôi), từ cái buồng tắm đầy hơi nước (lúc ấy), và nhất là, từ khu vườn nhiều cây (mà không có đèn). Rủi ro nhất là đến cuổn truyện này, tôi chơi vai chính, nhưng không có kịch bản. Tôi biết rồi nó cũng sẽ là một cuốn trinh thám, có cảnh sát đi tìm thủ phạm, để coòng tay đem đi, vào một ngày sáng trời. Từ đêm nay cho đến cái ngày sáng trời, biết đâu chỉ là một, hay vài tuần lẻ mùa đông, nhưng cũng biết đâu sẽ là vài trăm kilômét những tictăc, những ngày, những tháng, những năm, những đời người. Thế là đầu bạc, răng long. Thế là đời tàn, đi toong. Tôi nhắm mắt lại và đếm những tictăc nho nhỏ, từ chiếc đồng hồ. Cứ đếm như thể này, cho đển hết truyện, chắc tôi phải đạt tới một con số ghê rợn lắm, còn nhiều hơn cả khổng lồ, còn khổng lồ hơn mọi con số mà tôi biết. Lúc này đêm lắm rồi, vì khí lạnh lùa vào đầy buồng, qua cửa sổ. Em Cốm bị rét, nên ôm chặt lấy tôi, trong giấc ngủ. Tôi lại nhớ, bao giờ cũng vậy, khi ngủ tôi đòi Cốm phải ăn mặc như
đầm. Tức là không mặc gì cả. Cái nhớ này, kéo đi nhiều cái quên khác. Ví dụ gần nhất, là con số của những tictăc đều đặn và khiêm tốn, chỉ dám khe khẽ trong đêm. Nhưng mà khiêm tốn, thì dễ bị quên đi, cho nên tôi mãi vẫn nhớ lởn vởn, trên đỉnh màn cái mặt cau có của bác Mẫn, và đôi mắt trố, của ông Trung trố. Cả hai, dĩ nhiên đều không một chút khiêm tốn.
3 giờ 40. Làm thế nào để tìm ra thủ phạm? Theo qui luật trinh thám, thủ phạm đơn thuần là biệt kích, cũng có thể kẻ thù muốn nặc danh hại tôi, cũng có thể kẻ thù muốn hại anh bộ đội. Cũng theo luật trinh thám, thủ phạm phải là một thằng bằng xương, bằng thịt, mà đã bằng xương bằng thịt, thế nào cũng bị phát lộ, bởi một trong những người liên quan. Rất có thể chính tôi sẽ tìm ra nó, là thú vị nhất. Nhưng làm thế nào để tìm ra thủ phạm. Tôi sẽ tìm anh bộ đội, để hỏi. Tôi sẽ lân la các quán tiệm gần xa, các sòng bạc, hút xách và gái làng chơi, để nghe ngóng từng dấu vết nhỏ. Toàn những chỗ nhọ kinh bỏ mẹ, có khi oan gia, thì đời đi đứt. Mọi tính toán đều không được. Vậy tôi sẽ nhờ, mấy thằng bạn tôi. Nhưng chẹẹc, hi vọng vào chúng nó, nếu có hi vọng, chắc không lớn bằng con vi trùng. Rốt cuộc, kết luận của tôi, lúc 4 giờ 30, là để mặc khu phố với công an làm việc của họ. Tôi mệt nhưng không nhắm được mắt. Em Cốm vẫn ngủ say. Tôi nhìn Cốm, chắng lẽ tôi không làm gì, ngoài một cách thúc thủ ngồi chờ. Khu phố nếu lắm việc, công an nếu lắm việc không làm gì thì việc của tôi, ai sẽ làm. Mới chưa đầy một ngày, trong bữa tiệc con lợn sữa, tôi nói về những con ruồi khiêm tốn là năm thằng tôi, phải tìm chỗ iên ổn, để đớp hit iên ổn, hóa ra sai bét cả. Bác Mẫn và ông Trung trố tóm lại là khu phố, đã đem đi của tôi máy ảnh, cuốn truyện trinh thám đọc dở, và tập anbom con lợn. Để cả phố, ngày mai tha hồ xì xầm, với xì xầm. Chị Hòa đem đồng hồ của bác Mẫn đến, nhưng chị không vào, mà đưa cửa, hoá ra đồng hồ tôi chạy nhanh hơn 8 phút may mắn. Nếu chậm hơn 8 phút chắc chắn sẽ rầy rà lắm: bác Mẫn nghe thấy tiếng nổ lúc 7 giờ 3 phút, ở đồng hồ nhà bác sẽ đúng vào lúc tôi chạy xuống nhà tắm 7 giờ kém 5, ở đồng hồ tôi. Hai sự việc, sẽ xảy đến cùng một thời điểm, chắc chắn là tôi khai báo láo. Cũng may chẳng rõ vì saolúc 7 giờ kém 5, tôi lại nhìn đồng hồ, và cũng may là sau cái biến cố không may, tôi lại vẫn nhớ đúng, là 7 giờ kém 5. Nhưng phải công nhận bác Mẫn là tay đáng gờm nhiều lí luận. Ông Trung trố thì chỉ được mỗi trò khạc đờm, mất lịch sự. Còn chị Hòa sau vụ này không biết còn tình thân với Cốm nữa không. Nếu càng thân thiết tôi càng phải chú i, vì tôi là thằng-bị-ngờ, chị Hòa bảo-vệ mà thân với vợ-thằng bị-ngờ, thì thằng-bị-ngờ phải cẩn thận, cẩn thận cả với vợ, vì biết đâu em Cốm của tôi lại tông tốc, đi báo cáo lại hết mọi việc to nhỏ, dớ dẩn, cho chị Hòa.
5 giờ 00. Gà gáy te te trong xóm. Ngoài phố gà cũng gáy. Tôi mệt. Sọ tôi làm việc, suốt một đêm trắng đến chán phèèè, mà không ra cái gì, chỉ thấy một mớ lộn xộn, những toan tính u ám. Tôi nằm nghe tiếng động buổi sớm, ngoài phố. Phát súng mới 7 giờ 3 phút tối qua, mà sao tự dưng câu chuyện xa lắc. Xa lắc nhưng không theo kiểu xong-rồi của hôm qua, mà ngược lại, đây là câu chuyện của hôm nay, của ngày mai, ngày kia, ngày kìa, của ngày kìa nữa, của một ngày xa lắc, xa hơn cả tương lai. Trời rạng sáng rồi, chỉ còn một cách, là tự nói với mình như thế này. Tôi nói: “Iên trí. Rồi đâu có đó. Tốt nhất là dậy, mà rửa mặt. Tốt nhất là dậy, mà uống càphê. Như thể để bắt đầu một ngày bình thường”.
Buổi sáng. Tôi rửa mặt xong, định ra vườn. Tôi định ra vườn, biết đâu nhặt được cái gì, còn vương lại, của tối qua. Nhưng trên ngưỡng cửa đã thấy bác Mẫn lúi húi trong vườn nhà tôi, từ lúc nào rồi. Tôi lại quay vào buồng ngồi. Em Cốm vẫn ngủ. Tôi lấy thuốc ra hút. Và đun nước bằng bếp điện, Cốm mở mắt, chớp chớp. Tôi nói: “Ngủ nữa đi. Mới 5 giờ 10”. Nhưng Cốm không ngủ nữa. Cốm, như tôi nhớ, lúc này ăn mặc như đầm. Cốm bắt tôi quay mặt đi để vận quần áo, cho giống gái ta. Cốm thẹn, và cứ mỗi lúc thẹn Cốm lại có đôi đồng tiền lũm má. Cốm mặc quần áo xong, vừa thấy bác Mẫn ngoài vườn, đã te te chạy ra luôn với bác. Tôi cản không kịp. Nom qua cửa sổ, Cốm với bác Mẫn cứ như hai bố con, đang làm vườn sớm. Tôi định can họ, nhưng ngài ngại lại thôi. Công an và những tay chuyên môn, lát nữa đến, sẽ chỉ còn lại một hiện trường bị hỏng. Dù sao, ông Trung trố và chị Hòa cũng đã soi đèn, khám khu vườn từ đêm qua, cuối cùng nhặt được một cái cúc ao véttông đàn ông, và một cái bút chì bi. Tôi pha càphê. Bác Mẫn và em Cốm không nhặt được gì thêm. Bác vào nhà báo tôi: “Đúng 8 giờ sáng hôm nay, anh lên đồn công an, để trên ấy hỏi”. Tôi vâng. Bác Mẫn nói: “Anh nghĩ xem trong đám bạn bè, thân sơ và người quen, có ai thù hiềm gì anh không?” Tôi nói: “Không”. Trong bụng mừng thầm, bác đã không đóng đinh vào mỗi một mình tôi. Bác Mẫn nói: “Nếu anh nhặt được vật gì ngoài vườn, dù rất nhỏ, anh phải nộp chúng tôi ngay. Như vậy có lợi cho anh. Ngược lại anh mà ỉm đi không nộp, hoặc nộp chậm, sẽ coi như anh phạm tội bao che, cho thủ phạm. Anh hiểu chưa?” Bác nhìn tôi lạnh lùng. Tôi vừa mới mừng thầm, đã bị làm khó chịu. Nói xong, bác Mẫn quay ra.
Anh công an hỏi cung tôi chỉ trạc 26 tuổi. Anh này người gầy, vẻ sắc sảo. Bên cạnh có một anh công an nữa, nhỏ bé hơn, vẻ mặt quan trọng, sẵn sàng bút giấy để ghi. Phòng hỏi cung trần trụi, có độc một cái bàn, và ba cái ghế,
hai cao, một thấp, tất cả đều bằng gỗ. Hai anh công an ngồi một đầu bàn, trên hai chiếc ghế cao. Tôi ngồi xa ra, trên chiếc ghế đẩu thấp bé, đặt trơ trọi giữa phòng. Tôi ngồi, hai tay trên hai đầu gối, lưng thẳng đuỗn. Không nhìn thấy mặt bàn, vì ghế của tôi thấp quá. Chỉ thấy mỗi đầu và ngực hai anh công an nhô lên trên bàn. Tôi phải nhìn lên, còn hai anh thì luôn phải nhìn xuống tôi, trong suốt buổi lấy cung. Lúc đầu, tôi không dám nhìn lên, tôi nhìn sàn ximăng lạnh. Anh 26 nhìn tôi một lúc lâu, rồi lạnh lùng hỏi, tôi tên gì. Bao nhiêu tuổi. Bố làm gì. Mẹ làm gì. Tôi đáp rành rọt. Bạn bè thân nhất là ai. Tôi khai tên Tình Bốp và Đoành. Ai nữa. Tôi khai thêm Chắt và Ngỡi. Học trường nào. Lớp mấy. Tôi khai trường đệ thất. Đi ngụy trong trường hợp nào. Tôi khai lúc ấy, địch động viên dữ, mẹ tôi chạy lễ thằng Macxen, cho tôi được đi lính gần nhà, nó cho tôi vào ôtô ba tháng, rồi vào tàu bò. Anh công an hỏi, tổng cộng mấy tháng. Tôi nói 11 tháng, tôi học ôtô, rồi tàu bò, ra đơn vị 4 tháng nữa, thì tiếp quản. Nhưng ở đơn vị nào. Tôi khai số đơn vị. Tôi khai tên thằng chỉ huy. Anh này hỏi đi trận mấy lần. Tôi khai một lần, về mạn Tứ Hiệp. Anh hỏi có giết chóc hãm hiếp không. Tôi khai ở trong cái tàu bò, tôi bắn lung tung, vào bờ, vào bụi, không biết có vào ai không. Hãm hiếp không, nhưng quan hệ đơn thuần nam nữ, và dục vọng, thì có vài lần. Sợ họ chê ít, tôi khai thêm tôi thường xuyên đi nhà đèn đỏ, và đi xem thoát i vũ. Tôi cũng khai, tôi có rất nhiều tên gọi, tôi là thằng-dằn-di, thằng nhọọ, thằng-bị-ngờ, thằng tàu bò, thằng cao bồi dở với một tiểu sử dằn di. Nhiều thằng ở trong tôi, nên không biết lúc nào, tôi là thằng nào. Anh công an hỏi có quan hệ gì với đế quốc. Tôi khai không. Quan hệ với miền Nam. Không. Sau đó còn thêm rất nhiều câu trả lời, không, không. Sau đó là im lặng. Phòng hỏi cung lạnh tanh. Anh 26 nhìn tôi rất lâu. Tôi nhìn sân ximăng lạnh. Sau đó, anh 26 nói: “ Giờ vào mục chính. Anh hãy kể lại, đầu đuôi câu chuyện phát súng tối qua. Chúng tôi chỉ iêu cầu anh kể, đúng sự thật. Anh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, về lời khai của anh”. Tôi gật đầu.
Tôi kể: buổi sáng, buổi chiều, buổi tối, là 14 sự kiện cách nhau một giờ, liên tục. Tôi kể từ 5 đến 6 giờ: tôi, càphê và thuốc lá. Từ 6 đến 7 giờ: chuẩn bị cho chương trình câu nhái. Từ 7 đến 8 giờ: tôi ra phố. Từ 8 đến 9 giờ: chuẩn bị cần câu, cần dài để câu ếch, cần ngắn để câu nhái. Từ 9 đến 10 giờ: tôi thêm ảnh cho cuốn albom. Từ 10 đến 11 giờ: ngắm albom và cửa sổ. Từ 11 đến 12 giờ: tôi ăn cơm. Từ 12 đến 1 giờ, rồi đến 2 giờ, rồi đến 3 giờ: rúc mắt vào truyện trinh thám. Từ 3 đến 4 giờ: tôi suy nghĩ về chiến tranh và hòa bình. Từ 4 đến 5 giờ: đọc và ngắm cửa sổ. Từ 5 đến 6 giờ: tôi và truyện trinh thám. Từ 6 đến 7 giờ kém 5: cô nữ Giettapô xâm chiếm anh lính thủy người Mĩ. 7 giờ kém 5: tôi xuống buồng tắm. 7 giờ 3 phút: súng nổ, tôi vẫn trong buồng tắm. Như vậy tôi không bắn phát súng. Kể xong, tôi hồi hộp chờ. Tôi
làm mặt vô tội. Anh 26 hỏi tiếp: “Nếu anh không bắn, thì ai bắn?” Tôi nói: “Tôi đoán là biệt kích, gặp dịp thì bắn, để gây rối loạn”. Anh 26 hỏi tiếp: “Anh có thù riêng với ai không?” Tôi đáp: “Không”. Anh 26 lại hỏi: “Anh có nghi ai không?” Tôi đáp: “Không”. Anh 26 nói: “Chúng tôi sẽ kiểm tra lời khai của anh. Anh có thể về. Sau này chúng tôi sẽ gặp lại anh. Về phần anh, nếu thấy hiện tưọng gì, dính dáng đến phát súng này, anh nên đến gặp, và cho chúng tôi biết kịp thời. Đề nghị anh kí vào đây”. Tôi nói: “Vâng”.
Tôi ra khỏi đồn công an lúc 10 giờ. Trời rét nhưng tôi không rét. Tôi bước, những bước dài và huýt sáo tuýt tuýt. Không có gì ghê gớm xảy ra, như tôi chờ đợi. Tôi vừa làm rơi đi một trái núi lo lắng, vốn đè nặng lên tôi từ đêm qua. Tôi nhìn phố xá đang bày ra, theo bước chân, nhiều nhà cửa ren rét, nhiều cây to một nửa trụi lá, những đám mây thấp, rất nhiều xe cộ bình thường và nhiều vỉa hè vắng. Thinh thoảng có một nữ mùa rét rất diện, đi ngược lại tôi. Thế nào nhỉ. Tôi tự nhủ. Công an cộng sản hóa ra cũng kín đáo: họ bên ngoài đứng đắn, không để lộ bên trong nghĩ gì. Vậy là họ cao thủ. Nhưng dù sao, buổi sáng này đã để lại trong tôi một kết luận lạc quan, lạc quan đến mức tự dưng, tôi muốn đến gặp Tình Bốp ngay lập tức. Tôi tạt qua đường, qua dòng xe cộ láo nháo và còn kịp ngắm, đó đây, xanh, đỏ, những nữ mùa rét. Nhà Tình Bốp ngỏ cổng. Tôi lên thẳng gác. Tôi gọi: “Bốp! Bốp!”, để xem nó ở đâu. Cửa mở hé, tôi ẩy cửa rồi thò đầu vào. Tôi lại gọi: “Bốp! Bốp!” Tôi nhìn thấp thoáng, trong buồng tắm bên phải có một bóng nữ, i như trong thánh kinh, đang pênhoa phong phanh. Tôi nhận ngay ra Lily, không thể nào lầm. Tôi bước hẳn vào trong buồng tắm và đóng cửa lại. Buồng tắm rất rộng, hôm nay ấm áp đẹp lộng lẫy. Lily bước ra từ làn hơi nước, tươi tắn vừa tắm xong. Mỗi bước chân Lily lại làm vạt áo pênhoa dập dềnh như biển.
Tháng bảy 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ tư hay chủ nhật. Bên này cửa sổ tôi tím, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem tím, có nhật kí, và bản sao nhật kí. Mặt trời tháng bảy rất nóng, để tôi đuổi theo những nguyên lí thời gian, để mùa hè đừng dừng lại. Hóa ra tôi và Dưỡng cùng bị ám ảnh, bởi cùng một đường tuyến tính cổ điển, của thời gian. Hiện tại, là một cái chớp mắt ngắn ngủi, nhưng nhiều í nghĩa, và nặng nề làm sao. Hiện tại, là một dấu chấm lẻ loi, vứt đi không được. Có một lần Dưỡng nói với tôi: rằng nếu không đập phá thời gian trong nhật kí, anh sẽ đập phá những bức tường gạch ngoài phố, những bông hoa ngoài vườn hoa, và những chai rượu trong quán rượu. Một ngày mùa xuân 1955, anh gặp liền nhau ba vụ khó chịu: lúc đầu là
cãi nhau với vợ, sau đó bị Lily bỏ rơi, và sau đó nữa, bị khu phố gọi đi họp tối. Ba sự kiện nối nhau, không để thừa một khoảng cách. Tối hôm ấy, ông Trung trố trên diễn đàn khu phố có làm một bài ám chỉ một anh lái tàu bò, không chịu cải tạo và tu tỉnh, một anh tàu bò đầu óc dâm ô và đồi trụy, và một anh nữa cũng lái tàu bò, nhưng đạo đức kém, cho nên cứ vài ngày lại đè vợ ra, mà chụp ảnh cởi truồng. Cả ba anh này, ông Trung trố kết luận trước đám đông, đều có những hành động bất chính và khả nghi. Ông Trung kêu gọi khu phố cảnh giác với họ. Đêm ấy, Dưỡng về nhà, để làm lại một đêm không ngủ, một đêm thách thức văn học cùng văn phạm và một đêm, đánh đập nhật kí.
Xuân 1955
Buổi chiều. Nhật kí tiếp tục: tôi chờ tin công an coòng tay thủ phạm của phát súng, mà không có. Mọi thăm dò rụt rè khác của tôi cũng vô hiệu quả. Buổi sáng. Kết luận tạm thời: thằng biệt kích này có lẽ đã giải nghệ, cùng nhiều thằng ném gạch vào nhà dân, lúc nửa trăng, nửa đèn khác. Phố xóm dần dần êm ả lại.
Buổi chiều. Theo thông tin của Tình Bốp, anh công an 26 đã hỏi cung tôi, buổi sáng 8 giờ hôm ấy, vốn là một tình báo viên nội thành rất uy tín. Anh 26 phụ trách khu vực lúc nhúc ngụy quân, gái điếm và lưu manh này. Anh 26 tên là Thái.
Buổi sáng. Theo thông tin của Ngỡi, anh Thái chưa làm gì, mà nhiều thằng đã xanh mắt, nhiều thằng còn tự dưng ra đầu thú. Tuy vậy, không thấy anh Thái quay lại hồ sơ của tôi. Vụ phát súng vậy là bị treo, lơ lửng không thời hạn. Nhưng thành kiến của khu phố với tôi ngày càng nặng nề. Tôi gọi thời gian này là những ngày chua loét và những chủ nhật mắm thối, những tuần lễ khắm và những buổi sáng đi-cũng-dở-ở-cũng-không-xong.
Buổi đêm. Adiđàbụt… ừ thì Thằng, ừ thì Tôi, ừ thì Mày, phải đâu vì mê mải thú vui quả đất mà thằng nào cũng là Mày, thằng nhọ tàu bò, thằng dằn di, dâm ô đồi trụy lạc, chỉ đớp rồi hít, giở trò cao bồi ngụy quân mất dạy gì gì nữa cũng là Mày, Mày còn là thằng-vài-nghìn-thằng chứ gì, Tôi biết cả rồi, ừ thì cứ cho là thằng-vài-nghìn-thằng, bây giờ còn thiếu một thằng-phát-súng nữa, nhưng đừng tàn đời, vì Mày còn phải nếm thêm nhiều ngày nhiều tuần nhiều năm, Mày 23 năm đời dài, đời dài không phải để cho Mày thỏa mãn nhật kí, vả lại Mày còn giá trị hơn chẳng hạn con sâu đo chẳng hạn con dòi, vả lại Mày còn thông minh hơn chẳng hạn một hạt bụi lạc đường, Mày là thằng người dẫu có là thằng-vài-nghìn-thằng thì Mày vẫn là thằng người sao lại gọi Mày là thằng địch thằng tay sai cho địch, rồi thằng gián hôi thằng sát nhân, tên Mày vẫn còn trên bản đồ dân sự nội thành không ai xóa, không ai nỡ xóa Mày trong tấp nập và làm lụng và nhậu nhẹt hằng ngày. Mày, Mày vẫn ở lại phố ấy ngõ ấy, nhà ấy ngôi nhà bé nhỏ ấy với một vườn cây ấy với một kí ức ngày sinh, ngày đái dầm vào quần dài ngày đeo bùa đức thánh thần trước ngực, Mày một hôm be bé đưa ma con kiến ngã vào chậu nước thì bởi vì từ đâu, bởi vì ai xui, thì thầy giáo, thi bạn bè, thì trinh thám, thì tiệm rượu
nào nhỉ ai xui, mà hôm nay Mày nhọọ nhem phức tạp thôi đừng trách ai, đừng thù oán con sâu đo, và con dòi, và hạt bụi, thôi đừng tị nạnh so bì với con sâu đo, con dòi, hạt bụi, vì con sâu đo chỉ làm một con sâu đo, con dòi và hạt bụi cũng chỉ làm một con dòi và một hạt bụi, không giống như Mày một mình mà làm vài nghìn thằng mà lại đời dài, cho nên 23 tuổi thì ngày khai, thì tuần phùn, thì chủ nhật bú dù, thì ngày ghẻ ruồi buổi chiều quai bị, thì thứ ba thiu thứ bảy khú, thì đèn năm canh mà canh nọ bá ngọ canh kia là phải rồi, Mày soi gương xem, không sao trông được cái mặt Mày tủi, ừ thì đồng í, Tôi ạ, Tôi còn nhớ quãng thời gian be bé một đêm mà Mày ngỡ mười năm chỉ vì Mày chưa nhìn thấy quyển lịch, ừ thì đồng í, lí lịch Tôi nhọọ Mày không rủa toẹt là xong cái mặt, nhưng thôi Tôi ạ, ai gọi Mày là ông và ai gọi Mày là thằng, Tôi sẽ nói adiđàbụt, ai gây sự và ai vô tình và ai xỏ xiên và ai chửi mắng Mày, Tôi sẽ nói adiđàbụt, Tôi sẽ không nói xấu và nghĩ xấu và cứ mong an lành cho họ, ai đánh Mày, Mày sẽ tránh, Tôi sẽ nói adiđàbụt, Tôi sẽ cứ là người đứng cuối cùng hạng ngôi thứ xã hội không vì con gà hơn nhau tiếng gáy, không vì hơn nhau một chút đau thương, Tôi biết Mày rất muốn vẫn còn trong đời, tất nhiên Tôi cũng muốn còn lại trên đời, không dưng Tôi lại tự xóa Tôi làm gì, vì đời dù sao vẫn đẹp và vì đời là quê của Tôi là nội ngoại thành là tấp nập làm lụng và nhậu nhẹt và hằng ngày, Tôi có mặt giữa các ông, để khuyên bảo phụ nữ nên nuôi trên mặt đất tia khói nọ mong manh, Tôi xem rồi vĩnh cửu ngáp dài trên cát khát, đừng chỉ sẩy chân một tẹo nữa thôi là sẽ không còn gì, sẽ không có tên Mày và Tôi trên bản đồ đi lại và ăn uống và làm lụng nội thành, cố lên vậy adiđàbụt, cố lên.
Tháng tám 1965. Chị Trinh kể: nhà em dạo ấy chợt vui, chợt buồn. Em được chị Hòa xin việc cho, làm phu hồ gánh cát, ngoài bờ sông. Sáng em đi làm, thì nhà em xách cần giỏ, đi câu nhái. Chiều nhà em thường về sớm hơn em, nhưng nồi cơm cũng để đấy, chờ em về làm tất. Có lần 8, 9 giờ vợ chồng mới ăn cơm tối. Có lần nhà em vứt cả mâm cơm ra ngoài sân, vì em về muộn tan chợ, không mua được thức ăn. Em cho là, nhà em sẵn có vết ngụy quân, lại bị nghi về chuyện phát súng, đâm bẳn tính hay cáu gắt. Có dạo nhà em đi lại trong buồng, và lẩm bẩm một mình, i như người gở chết. Có dạo đang vui, huýt sáo ầm nhà rồi tự dưng ngồi, thẫn thờ. Có lúc đang ngồi một mình, em vào, cũng giật thót người. Khổ nhất là cái tính cáu vặt, hơi tí là gắt. Nhà em còn nghi chị Hòa xui em, đi báo cáo chính quyền, chuyện trong nhà. Em mà cãi lại thì ầm cửa ầm nhà, nên em nhịn. Trong xóm, chỉ còn chị Hòa là tốt với em, chị vẫn hỏi han chuyện trò. Còn tất cả đều xa lánh tụi em. Nhất là lúc này, có chuyện đồng bào đi Nam, chị Hòa hằng ngày nuôi lợn, trồng rau, đi chợ, và tất tả ngõ trên, ngõ duới, vận động đồng bào ở lại. Chị Hòa đang
khổ lắm, vì chuyện của chồng chị: chồng chị tên là Thập, anh Thập gửi thư về, kể không may bị đạn, vào chỗ hiểm, sau này không thể có con được. Anh Thập muốn chị Hòa lấy chồng khác. Chị Hòa giấu thư, không cho mẹ chồng biết. Anh bộ đội bị ám sát hụt tối hôm nọ kể lại, bà mới biết. Bà cùng chị Hòa lên tận bệnh viện, tìm anh Thập, nhưng anh đã bỏ đi đâu rồi. Sau này anh Thập còn biên thư về lần nữa, giục mẹ gả chồng cho con dâu, chỉ khi nào chị Hòa đi lấy chồng, anh Thập mới về. Chị thường xuyên khuyên em đi họp khu phố, để quên đi chuyện buồn. Chị Hòa nói: “Trông cô thiểu não lắm. Gặp cô lần nào, cũng thấy cô hai mắt đỏ hoe”. Thế là em nghe chị Hòa, xin vào công tác, các buổi tối và chủ nhật, ở đội chữa cháy khu phố. Em công tác tích cực, nên dần dần bà con cũng bớt xa lánh em. Nhưng khổ nhất, vẫn là chuyện trong nhà. Nhà em đi câu được bao nhiêu, uống rượu hết nhẵn. 2 tháng liền không đưa một đồng nào. Vốn liếng riêng của em, phải bỏ ra chi tiêu. Đến hè, nhà em lại bập vào con Lily, và ghi sổ nợ, ở hàng càphê của Tình Bốp. Mỗi lần trả hàng dăm bảy vạn, nợ cũ trả chưa xong, lại chồng thêm nợ mới. Con Lily thì lẳng lơ, mùa hè cũng như mùa đông, chẳng ăn mặc gì, lại không đóng cửa sổ, làm mồi câu khách, cho quán càphê của thằng em nó. Ông Trung trố cứ họp khu phố lại nói là đấy, những cái đầu tàu bò lại ngóc dậy, những con bướm lại dập dìu quanh nhà đĩ, nhưng nhà đĩ chỉ là hình thức, Phòng Nhì mới là nội dung. Ông bảo đây là chính trị, đội lốt sinh hoạt dâm ô. Ông nói ám chỉ nhiều lắm, bà con hiểu ngay chỗ nào là nhà em, chỗ nào là bọn thằng Hoóng, thằng Ngọc lính bảo hoàng, chỗ nào là chị em con Lily. Tối hôm ấy nhà em cũng đi họp. Bà con nghe ông Trung trố nói, đều đồng loạt quay lại nhìn: thấy nhà em cười nhạt. Về nhà mới ngồi hút thuốc, liên tục không biết bao nhiêu điếu nữa; mặt thì trắng nhợt, như cái xác chết. Rồi lại lẩm bẩm adiđàbụt, chẳng ra làm sao cả. Nhưng em thấy, ông Trung trố nói đúng lắm. Đúng là phải ngăn chặn những hành động phá phách và đồi bại của đám ngụy quân, ngụy quyền cũ. Không thì loạn phố với nạn lưu manh, trộm cắp, với gái điếm và sòng bạc, và tan nát gia đình.
Lúc đi nằm, em mới nói với nhà em, như vậy. Em cũng nói, là ông Trung trố lần nào cũng sa sả nhắc, mà anh còn tệ thế. Không có ông ấy nhắc, thì bọn các anh còn làm loạn đến đâu. Tức thì nhà em đạp luôn em một cái. Em lăn từ trên giường xuống đất. nhà em quát: “Đồ ngu đồ ngu! Bọn các anh nào?” Em ra buồng ngoài, nằm khóc một mình. Em có mang từ mùa xuân. Nghĩ đến cái thai, em lại càng khóc. 12 giờ đêm nhà em đùng đùng dậy vận quần áo, xách xe đạp đi đâu không biết. Sáng hôm sau mới về. Nhà em đối xử vũ phu lắm. Tính khí nóng nảy hung hãn. Nhưng nhiều lúc lại thẫn thờ, nhiều lúc lại cười khành khách, một mình. Chúng em hai vợ chồng son, mà nhà buồn như có đám. Đến lúc 300 ngày sắp khép cảng Hải Phòng, biết con Lily sắp đi Năm, nhà em bỏ biệt nhà, 3 ngày 3 đêm liền, sang ở với nó.
Tháng tám 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ năm hay chủ nhật. Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím. Một ngày tháng tám nào đó, tôi tìm được trong thư viện, một câu định nghĩa bất hủ: “Hôm qua đã là ngày đến trước, ngày mai sẽ là ngày đến sau, bởi vì tôi đang ngồi ở hôm nay”. Định nghĩa này cho tôi 3 ngày bình đẳng, và ngày hôm nay không còn là một dấu chấm lẻ loi, trên đường tuyến tính, của thời gian. Một ngày tháng tám, tôi đến nhà Dưỡng, để nghe chị Trinh kể chuyện. Chị Trinh bây giờ bán hàng giải khát, ở mậu dịch phố Huế. Tóc chị bây giờ uốn cong quả dưa. Không cười, mà hai má vẫn lũm đồng tiền. Anh Dưỡng chiều hôm ấy, vận toàn màu xanh phòng không, đội mũ tài xế xanh. Theo môd quần dũng cao, trên phồng, dưới bó lại, cứ như anh đang ở một nước Cuba xa xôi. Anh Dưỡng vần gọi chị Trinh là Cốm, như 11 năm trước. Tôi xuống sân xem vườn. Tôi nhận ra tất cả, trong nhật kí: ngôi nhà nhỏ, kho chứa đồ, cái sân gạch, nhà bếp và cái buồng tắm danh tiếng. Vật mà đã bao nhiều thời gian trôi. Từ 10 năm nay Dưỡng được cử đi biệt phái dài hạn, ở một nơi nguy hiểm của chiến tranh, trên đường khu Tư. Anh thuộc biên chế của xưởng ôtô Hòa Bình, xưởng nằm tại nội thành Hà Nội. Cứ 3 tháng, anh về Hà Nội một lần, để thăm vợ, thăm thành phố, trong kì hạn 7 ngày dài. Mỗi lần ra đi, mỗi lần li biệt. Một năm, anh có mặt ở Hà Nội 28 ngày. Anh đã năm lần được giấy khen, được toàn bộ hội trường vỗ tay, hoan hô như một biểu tượng không đơn lẻ, trong một rừng biểu tượng. Anh vừa trở về, từ một chuyến nguy hiểm, qua 49 lần đò phà, 49 cửa tử, qua cầu Bùng, và cầu Ngoạt. Khắp nơi mênh mông nước, giấu đi hàng trăm hố bom tấn. Phản lực Mĩ lúc nào cũng lờn vờn, trên trời. Lúc nào, cũng hàng trăm quả pháo sáng đuổi theo. Rồi một đêm mưa to, đường trơn nhầy nhụa, xe của anh rơi vào một hố bom. Bánh xe quay tít. Xe trên kéo, cũng không lên. Dòng xe cứ ùn ùn kéo tới, làm tắc đường. Dưỡng lo lắm. Dưỡng lo cả đoàn xe bị máy bay Mĩ phát hiện: anh đã mang quá khứ ngụy quân, thế nào cũng bị nghi thêm tội phá hoại, tội dối trá, tội gián điệp, và nhiều thứ tội khác. Dưỡng cùng một lái xe nữa, cả hai lội loanh quanh, trong bùn nước, tìm cách đưa xe ra. Thế rồi anh bạn xe của Dưỡng nói: “Tháo mẹ máy ra, cho nhẹ xe”. Dưỡng ngừng kể, để giục tôi uống nước, nhưng không biểu lộ tình cảm gì. So với lần gặp trước, anh gầy đi nhiều, da vàng hơn, ít cười hơn. Tôi định nhân dịp này, kể với anh câu định nghĩa bất hủ về thời gian, của người Hi Lạp, nhưng lại thôi. Bởi vì trước mặt tôi lúc ấy, là một anh Dưỡng đã từ giã thú vui uống cà phê buổi sáng, và xa lạ với những day dứt của nhật kí. Tôi nghĩ có lẽ, anh đã quên bản vẽ đường tuyến tính của thời gian, mà cả
tôi và anh đều đã nhìn thấy, ở đâu đó. Dưỡng nói: “Hai thằng tháo máy, mà mưa thì vuốt mặt không kịp, nước mưa làm mù cả mắt, chằng còn nhìn được gì. Tôi vơ lá, củi, cành, đủ thứ trên đời, lót vào bánh xe. Chiếc xe tháo máy xong, nhẹ hẳn. Xe trên kéo rơmoóc, được ngay. Đường thông, đoàn xe tiếp tục đi”. Kể xong, Dưỡng im lặng. Tôi cũng im lặng. Chị Trinh bỏ xuống bếp, ngồi một mình. 5 ngày nữa Dưỡng sẽ quay lại con đường mòn danh tiếng. Hôm qua, hôm nay và ngày mai, đều là những ngày giao mùa Ất Tị. Ngoài phố thế nào cũng lúa túa xe cộ và bộ hành, và mặt trời. Hôm qua, tôi đã ghi thêm như thể cho riêng tôi, vào cuốn sách một câu ngắn: một buổi sáng Dưỡng trở lại Hà Nội, như trở lại thiên đường.
Hè 1955
Buổi sáng. Nhật kí tiếp tục: tôi dậy sớm 4 giờ. Mặt trời còn chưa mọc. Em Cốm lịch kịch dưới bếp, theo lệ thường. Cốm thổi cơm, rồi nắm cơm, đem đi làm. Tôi bóc tờ lịch sớm. Tờ lịch ghi tháng năm, ngày 17. Hôm nay là ngày khó quên. Ngày kia là 19. Ngày kia Lily đi. Lily sẽ xuống Hải Phòng, rồi đi Nam. Hôm nay là 17, ngày tôi đến với Lily, để ở lại 3 ngày giã biệt. Tôi vẫn iêu em Cốm, có lẽ iêu nhất. Mà đã có nhất, thì phải có nhì. Do vậy, mà có Lily, để được tôi iêu thứ nhì. Lily căng thẳng. Em Cốm êm đềm. Cho nên, thánh kinh nói: chua, ngọt, đắng, đều cần như nhau. Thánh kinh còn nói: kẻ biết trước giờ làm láo, làm ra vẻ không làm láo. Tôi xuống bếp, thấy lửa lô nhô trong bếp, như đám mitinh. Tôi nói: “Thôi, để anh trông cơm cho, Cốm sửa soạn đi làm”. Cốm nói: “Thôi để em. Hôm nay anh có đi cầu không?” Tôi nói: “Không. Anh quên, chưa nói với Cốm. Hôm nay anh về quê, một thằng bạn ở Hà Đông. Nó hôm nay hỏi vợ. Anh đi phò cho nó”. Cốm nói: “Chiều anh về à?” Tôi nói: “Mai… Hoặc kia… Về quê thì ra ngay thế nào được. Quê có vườn mít, ao cá. Anh đang thèm bữa gỏi cá”. Cốm nói: “Anh đèo về cho em quả mít”. Tôi nói: “Dễ ợt. Anh sẽ đèo về cho Cốm, một quả mít to”.
IV
Tôi sang nhà Lily 7 giờ. Cô ả ngủ muộn. Tình Bốp đang bán hàng. Hai thằng nháy nhau, là kiểu chào ngắn gọn. Tôi cất cái Stecling vào gara. Túi quần áo cũng vứt đấy. Tôi lên gác. Cửa buồng Lily đóng. Tôi cứ thế ẩy cửa vào, không cần gõ cửa. Lily rú khẽ. Lily còn nằm soài trên giường, tận hưởng buổi sáng. Tôi thấy Lily ăn mặc đẹp quá. Nghĩa là Lily không mặc gì cả. Chỉ mỗi cây thập ác phập phồng trên ngực. Tôi đứng nhìn như thằng thộn. Rồi tôi nói: “Thi vị”. Lily nói: “Bở”, và quay người nằm sấp. Tôi lại gần. Lily nói: “Gì kìa”. Tôi không quay lại nhìn, tôi không bị lừa. Lily ù té chạy. Cây thập ác được dịp đung đưa mạnh mẽ. Tôi đuổi theo Lily vào buồng tắm bên cạnh.
Vài giờ sau, trên chiếc thuyền gỗ Hồ Tây ban ngày, Lily ngồi cạnh tôi. Lily vận chiếc quần Quan Âm, cài cúc bấm. Tôi chèo thuyền ra chỗ vắng. Hai đứa mênh mông. Trời ơi, i như trong thánh kinh, tôi nói tôi sẽ chết. Vì còn 2 ngày nữa, Lily đi. Lily nói: “Không chết đâu”. Tôi chèo thuyền ra chỗ vắng hơn. Chỗ vắng nữa. Chỗ vắng hơn nữa. Rồi một chỗ rất vắng. Giá tôi cứ chèo thuyền mãi như thế này. Chèo mãi, tôi nói vậy, chèo đến một chỗ trên trời. Lily nói: “Trên trời thế nào?” Tôi nói: “Mênh mông”. Trong lúc nói tay tôi cũng muốn làm cái gì dễ chịu. Tôi hỏi trên trời: “Vì cớ gì mà sinh ra con người?” Vừa hỏi xong thì Lily hất tay tôi ra. Lily nói: “Bở”. Tôi nói: “Lily làm bầu trời, nhé. Tôi làm thằng dằn di. Tôi hỏi. Lily trả lời, nhé”. Lily hỏi: “Kịch à?” Tôi nói: “Kịch”. Thế là hai đứa bắt đầu, như thế này. Tôi hỏi: “Trời cao ơi, vì sao sinh con người?” Lily đáp: “Biết đâu đấy”. Tôi hỏi: “Không biết sao còn đẻ nó ra làm gì?” Lily đáp: “Ái, nhẹ tay chứ. Thích đẻ thì đẻ”. Tôi hỏi: “Sao trời dại dột thế. Chỉ đẻ người tử tế, hiền lành, có hơn không? Sao lại đẻ ra cả một thế giới Tây, Tầu, linh tinh lình tình thế này?” Lily đáp: “Phải mỗi thứ một tí, mới làm nên món Nộm đời”. Tôi lại hỏi: “Thế thằng Dưỡng là cái gì trong món Nộm đời?” Lily đáp: “Là miếng thịt gấu”. Tôi lại hỏi: “Thế cô Lily là cái gì trong món Nộm đời?” Lily đáp: “Là cô Quan Âm mặc xilip”. Nghĩ thế nào Lily nói thêm: “Ái, kìa. CÁ!” Rồi im bặt. Hóa ra vở kịch đã kết thúc. Tôi nhìn ra xa, thấy xa xa, một chiếc pêritxoa. Chiếc pêritxoa đi về phía chúng tôi. Tôi nhìn rõ một anh công an, vận đồng phục màu cá vàng rất đẹp, có cả phù hiệu đỏ gắn vai. Nhưng khi chiếc pêritxoa lại gần, không hiểu sao không thấy phù hiệu đỏ của anh công an đâu nữa, bộ quân phục kaki màu cá vàng thì vẫn còn nguyên. Lily bấm tay tôi đau nhói. Lily vẫn ngồi trên lòng tôi, im lặng. Tôi cùng không nói
nữa. Anh này có cái gì rất đập vào mắt, mà 3 ngày sau, khi Lily đi rồi, tôi mới nhớ ra. Không phải là cái cằm, dài và nhọn, dài và nhọn như một cái đinh. Mà là cái nhìn vô cảm, không thể diễn đạt nổi. Còn bây giờ, tôi chỉ thấy, khuôn mặt anh này hiểm ác. Anh nhìn tôi, tợ hồ chụp ảnh. Lily rên khẽ. Lily bảo tôi chèo thuyền ra chỗ khác. Lily vẫn ngồi trên đùi tôi, vạt áo che chiếc quần Quan Âm, i như trong thánh kinh. Thuyền tôi đi đâu, chiếc pêritxoa theo đó. Theo mãi.
Vài giờ sau nữa. Trong rạp xinê vắng, Lily sang ngồi với tôi, trong cùng một ghế. Tôi chẳng hiểu phim gì, chỉ thấy rất căng thẳng. Tan buổi chiếu, tôi thấy anh công an có cái cằm dài nhọn, đứng vơ vẩn trước rạp. Lily kéo tôi đi. Hai đứa vào tiệm ăn. Lại có một chương trình dưới gầm bàn. Mắt Lily có tí rượu, lóe sáng mỗi khi đánh rơi đũa xuống đất, để tôi lại chui gầm bàn nhặt. Mà Lily cứ đánh rơi đũa luôn luôn. Tôi mải nhặt đũa, nên chẳng ăn được gì nhiều. Cũng may là không thấy đói. Đến khi ra ngồi Bờ Hồ, nhớ lại vở kịch còn dở. Tôi mới hỏi Lily: “Thằng nhọn cằm là cái gì trong món Nộm đời?” Lily trả lời: “Biết đâu đấy”. Tôi hỏi: “Sau này thằng dằn di với cô Lily, trong món Nộm đời liệu có còn gặp lại?” Lily đáp: “Đừng nói sau này. Chỉ biết lúc này. Lúc này được miếng nào trong đĩa Nộm đời, là hay miếng ấy”. Bờ hồ đêm đã 12 giờ 30. Tôi nói: “Cô Lily đi, thằng dằn di ở lại, nhớ lắm”. Lily nói: “Tình cảm thế”. Tôi nói: “Tình cảm là gì? Trời cao ơi”. Lily nói: “Là cái vô tích sự nhất, trong món Nộm đời”. Tôi nói: “Iêu thì sao? Không phải tình cảm à?” Lily nói: “Không. Iêu là xác thịt”. Tôi nói: “Cô Lily đi trong món Nộm đời, sẽ không nhớ thằng dằn di”. Lily nói: “Có. Thế mới khỉ. Cái vô tích sự trong món Nộm đời, có lúc lại cần hơn cái tích sự. Cho nên cô Lily cũng biết nhớ”. Tôi và Lily cứ ôm ghì nhau, suốt buổi tối Bờ Hồ, về cuối rất có trình độ, khiến Lily cứ xuýt xoa, luôn miệng. Bỗng dưng, Lily thốt lén khe khẽ. Anh công an cằm nhọn, mặc thường phục, đứng ngay sau ghế đá. Lily đứng dậy, sửa quần áo, kéo tôi về.
5 giờ sáng. Tôi đứng cửa sổ buồng Lily, nhìn xuống phố sớm tinh mơ. Ngày mai Lily đi. Tôi nhìn mãi xe cộ và bộ hành, long tong, trong sương sớm. Tôi bỗng giật thót mình. Anh chàng cằm nhọn đang đứng, ngay dưới phố, cạnh cột đèn. Tôi thụt vào. Lily chớp mắt hỏi: “Gì thế?” Tôi nói: “Không”. Rồi hỏi: “Mai đi thật à?” Lily nói: “Thật”. Tôi nói: “Ngậm ngùi”. Lily nói: “Kịch”. Tôi không nói gì. Tôi vuốt ve Lily, được vài cái thì Lily gạt tay tôi ra, hỏi: “Xúvơnia đâu rồi?” Tôi vận quần áo. Tôi xuống nhà tìm mua xúvơnia cho Lily.
Tôi nháy Tình Bốp, dưới cửa hàng. Sáng sớm nên khách điểm tâm đông. Khách uống càphê, hút ba con 5, ăn bánh mì, jămbông, thịt gà. Tôi rỉ tai Tình Bốp: “Xùy tao vay 10 vạn”. Tình Bốp nói: “Dữ thế”. Tôi nói: “Vì cái việc nó dữ”. Tình Bốp nháy mắt, cái nháy mắt có nghĩa là chờ tí, rồi tiếp khách. Tôi ghi sổ nợ thêm một bao diêm, một điếu Côtab. Tôi hút điếu thuốc buổi sáng, là điếu thuốc ngon nhất trong ngày. Hết điếu thuốc, Tình Bốp đưa tôi số tiền, gói trong giấy nhật trình. Tôi đi ngay. Tôi tạt qua nhà tôi. Em Cốm đã đi làm. Tôi mở cửa. Chợt thoáng thấy, anh chàng nhọn cằm đã đứng trong ngõ. Tôi đoán anh này vào để gặp chị Hòa, hoặc bác Mẫn. Tôi vào nhà. Nhà lạnh. Cửa sổ đóng. Bóng tối lờ nhờ khắp nhà. Tôi khóa trái cửa, hai vòng. Biết nhà vắng, tôi vẫn nhìn quanh, trong mọi góc khuất. Rồi mở tủ, khe khẽ. Có tiếng chân ngoài ngõ, tôi dừng lại nghe ngóng. Rồi lục tủ. Tôi thấy dây chuyền, nhẫn vàng quà cưới của Cốm, tôi cuỗm hết. Tôi khóa tủ lại, và nhìn xung quanh, như thể có ai núp đâu đấy. 7 giờ 30 sáng, tôi phóng Stecling lên phố Hàng Bạc. Vào một tiệm bạc, định đánh một quả tim vàng, nhưng rồi tôi lại chỉ thuê đánh một cái lúc lắc. Tôi bảo bà chủ hiệu sáng mai nếu không xong, tôi sẽ đốt cửa hiệu. Bà này cười: bà này béo và xấu, nhưng cũng thích nói đùa. Tôi trả một nửa tiền, rồi lên xe phóng về nhà. Thoáng thấy có ai đi theo, tôi nghĩ chắc là thằng nhọn cằm. Vê đến nhà 9 giờ sáng, tôi lại đặt gói nữ trang của Cốm vào chỗ cũ, tự nhủ may mà tôi đổi í không làm quả tim vàng, cho Lily. Tôi quay ra và phóng xe lên chợ Đồng Xuân. Tôi vào chợ, chỗ mẹ tôi đang bán hoa quả. Có xoài, măng cụt và dứa đầu mùa. Tôi lấy mỗi thứ một ít, rồi nhăn nhó: “Mẹ cho con năm vạn”. Mẹ tôi nói: “Tao làm gì có”. Tôi càng nhăn nhó: “Thôi được, lát nữa tôi đi Hải Phòng”. Mẹ tôi hết vía. Mẹ tôi hỏi: “Mày đi Hải Phòng làm gì?” Tôi nói: “Đi vay tiền. Có khi vui chân, tôi tếch”. Thế là mẹ tôi mở giầu tượng: chiếc giầu tượng bằng lụa, cũ kĩ, vàng khè. Bà xùy cho tôi năm vạn. Tôi về, với cái kết luận: “Có tí mẹ, tiện thật”. Tôi lại nhìn thấy thằng nhọn cằm, cũng từ trong chợ đi ra.
Về đến nhà Lily, thấy buồng Lily đóng, tôi đoán là để cho những vĩnh biệt ban ngày. Tôi đập cửa. Cửa khóa trái. Tôi biết Lily không phải là loại đàn bà dành cho một người. I như trong thánh kinh: quan niệm của Lily là rộng lượng với đàn ông. Tôi huýt sáo, trước cánh cửa đóng kín. Tôi nghe thấy Lily cười ngất bên trong. Tôi muốn lấy dao rựa bổ vỡ cửa. Nhưng tôi lại tự đấm vào hàm. Tôi xuống gác. Tôi phóng Stecling đi lung tung các phố. Tôi muốn đâm vào ôtô. Nhưng tôi đã không làm như thế.
Tôi không giận được Lily lâu. Bởi vì ngày mai Lily đi. Bởi vì thánh kinh xui
tôi quay về với Lily. Tôi phóng xe về, đến nơi là 6 giờ tối. Cửa mở. Lily vừa tắm xong. Tôi vào buồng tắm để xem Lily, có lẽ là lần cuối, bước ra từ phía sau làn hơi nước. Lily bước ra thật, đẹp như mùa hè. Vạt áo pênhoa dập dềnh theo từng bước chân, giống hệt như biển. Lily hỏi tôi: “Làm gì bây giờ?” Tôi nói: “Tùy”. Lily nói: “Đi đớp cái đã, rồi tính sau”. Nói rồi Lily vận quần áo, để tôi đứng xem. Lily vận áo dài, bên dưới là quần Quan Âm. Tôi đèo Lily, đi trong nhiều phố, rồi lên Hàng Buồm. Lily gọi một tí cá hấp nhẹ nhàng. Sau đó, Lily lại rủ tôi đi chèo thuyền đêm. Tôi lại nghĩ, là lần cuối. Mặt trăng đêm ấy bằng cái móng tay, tôi và Lily vừa mơ mộng, vừa suồng sã. Tôi nói: “Chán quá cứ nghĩ đến ngày mai”. Lily nói: “Đàn ông thì dễ lắm. Vườn hoa thiếu gì. Lại còn em Cốm ở nhà nữa, xinh đấy”. Tôi nói: “Hay anh tếch với Lily?” Lily nói: “Tôi vào Nam vơ vét, chứ anh vào làm gì?” Tôi nói: “Anh cũng vơ vét. Dạo trước anh ngù ngờ, bây giờ khác rồi”. Lily nói: “Anh vơ vét thế nào? Đi lính chỉ đủ ăn là giỏi”. Tôi nói: “Anh sẽ đi ăn cướp”. Lily bĩu môi. Tôi nói: “Liều là được. Rồi anh sẽ thành triệu phú. Rồi anh với Lily hai đứa đi một chỗ thật xa. Mua một cái vila iên tĩnh”. Lily bĩu môi: “Đẻ mấy đứa?” Tôi nói: “Hai. Một trai một gái”. Lily lại bĩu môi: “Rồi sao?” Tôi nói: “Rồi cứ thế. Mặt trời mọc, rồi lặn. Mùa xuân năm trước, rồi mùa hè năm sau. Iên tĩnh, như thế này, đến lúc hết”. Lily nói: “Kiếp sau vậy nhé”. Tôi chỉ biết nói hừm. Vả lại, hừm cũng là nói, và trên kia, và dưới này, và mọi chỗ, tôi đều nói chân thành với Lily. Lời nói lúc này còn nghĩa lí quái gì. Tôi nghĩ lai láng, giá như Lily không đi, giá như Lily ở lại bán càphê, giá như Lily lấy chồng một anh Hà Nội bốn túi, để còn thỉnh thoảng trông thấy mặt. Như thế, có lẽ sẽ không buồn lắm. Nghĩ xong, tôi nói lại với Lily như vậy. Lily lấy tay quệt vào mắt tôi và hỏi: “Dằn di, khóc đấy à?” Tôi chơm chớp mắt, tôi nói: “Không”. Nhưng cảm động, từ lâu lắm rồi tôi không cảm động. Lily ngồi vào lòng tôi, và bắt tôi đưa thuyền ra chỗ đông người. Để có người nhìn, Lily mới thích. Trên đầu, có tí trăng bé như cái móng tay. Xung quanh, nước lấp lánh và thuyền gỗ nhiều tua tủa. Tôi bảo Lily, với tôi, gái là nhất. Lily cũng nói, rất chân thành, Lily đã là gái rồi cho nên với Lily, tiền là nhất. Tôi bèn triết lí về sự đời. Nhưng sự đời, tôi học trong ca dao, chỉ bé như cái lá đa. Cho nên triết lí vừa mới được một lúc, đã hết cái lá. Cũng là lúc tôi đèo Lily về. Dọc đường hai đứa đớp phở tái. Đường đêm vắng lặng. Sao trên trời bé li ti, trắng như gạo tám. Có người đi theo, nhưng không phải thằng nhọn cằm, tôi cũng không để í nữa. Về đến nhà, Lily đòi tôi bế lên gác. Tôi biết Lily không bao giờ cởi giày. Lily hất chân, giày văng vào đâu, vào lọ hoa hay cánh tủ, cũng được. Lần này, giày văng lên tận trần nhà. Lúc rơi, vào ngay giữa bàn, vỡ mất hai cái cốc.
Sáng hôm sau. Tôi và Lily từ hiệu vàng ra. Lily không bằng lòng. Lily chê ít. Mười lăm vạn còn chê ít. Tôi thở dài. Vả lại là cái xúvơnia, tôi nói vậy của ít lòng nhiều. Nhưng Lily bĩu môi, vì Lily không cần lòng nhiều. Lòng ít của nhiều Lily thích hơn. Tôi nói: “Chê thì đưa đây”. Lily không đưa mà bỏ xúvơnia vào túi, rồi cười: “Ít còn hơn không”. Tôi thở dài. Ở hiệu vàng ra tôi thở dài. Không để í gì nữa. Lúc Lily bấm tay, tôi mới nhìn thấy thằng nhọn cằm, lưởng vưởng vỉa hè bên kia. Tự nhiên không đầu không cuối, Lily nói: “Dằn di. Sang đường cho thằng nhọn cằm một quả. Để Lily xem!” Tôi nói: “Ngại lắm. Vì nó là CÁ. Đánh nó khéo đi tù”. Lily nói: “Có nghe không? Không Lily ngất cho mà xem”. Tôi nói: “Ngại lắm”. Lily đếm 1, 2, đến số 3 thì Lily ngất thật, nằm sõng soài ngay lòng phố Hàng Đào. Giao thông vì thế mà ùn tắc. Người qua phố xúm lại xem Lily quần áo mỏng tang mùa nực, đang nằm ngủ. Tôi gọi xíclô. Tôi bế Lily nóng hổi lên xe. Tôi biết, ngất cũng là một trò iêu thích của Lily, trong nhiều trò iêu thích khác. Tôi còn kịp nhìn, thoáng một cái, thấy anh chàng nhọn cằm nhếch mép cười, khó tả.
Ở nhà Lily lúc này tôi giặt. Từ 3 hôm nay, tôi toàn giặt quần áo cho Lily. Là vì Lily muốn vậy. Cũng từ 3 hôm nay, tôi nhặt nhạnh những đồ nho nhỏ của Lily, làm lưu niệm. Ví dụ tí lọ nước hoa, tí coócsê viền trắng. Đêm nay Lily đi. Nhưng lúc này Lily ngủ. Lúc này tôi giặt. Lúc này là thế nào? Lúc này, có một trăm cái lúc này. Em Cốm lúc này gánh cát ngoài bờ sông. Mẹ tôi lúc này trên chợ Đồng Xuân, với chiếc giầu tượng vàng khè, và đống hoa quả. Những thằng xiclô lúc này đạp xiclô. Những thằng ba gác đang kéo ba gác. Những thằng khuân vác thì đang khuân vác. Những thằng tề ngụy cũng đa số đi làm. Những thằng chứa gái đang chứa gái. Những thằng ăn cắp vẫn đang ăn cắp. Và nhất là thằng nhọn cằm, chắc chắc lúc này đang ở đâu đó bên ngoài cổng, rất gần thôi. Tôi cao 1 mét 7, nặng 60 kí, đời tôi 23 năm treo đầu sợi tóc, tôi ngồi giặt ở một chỗ vắng, trong nhà Lily. Chốc chốc, lại ngừng giặt, vì tôi nghĩ biết đâu tên tôi đang bị thằng nhọn cằm xóa đi trên bản đồ đi lại, và làm lụng, và đớp hít của nội thành. Cũng bắt đầu từ lúc này.
Đêm nay với Lily trên sân ga. Còi tàu giục. Tôi ôm Lily mà không kịp nghĩ đây là lần thứ mấy, có phải lần cuối cùng. Lily tiện thể cho tay vào túi quần tôi. Còi tàu lại giục. Lily leo lên tàu. Tôi thấy thằng nhọn cằm cũng lên tàu, cùng một toa với Lily. Vậy là anh này theo dõi Lily, chứ không phải tôi. Nhưng tôi không lí luận nữa. Bởi vì còi rít, không biết là còi tàu, hay còi nhà ga. Cũng bởi vì tàu chuyển bánh. Tôi bước những bước dài theo tàu. Lily thò tay qua cửa toa, vẫy vẫy. Tôi chạy vài bước, rồi đứng sững sờ. Tàu bỏ tôi vài chục mét. Tôi lại nhìn, thấy cánh tay Lily vẫy, lần này thêm chiếc mùi soa
trắng. Tôi chạy theo. Tôi gào: “Lily! Lily!” Cánh tay Lily vẫy mạnh. Tàu đã xa, để lại chiếc mùi soa, như cánh bướm trong đêm. Màu trăng trắng, nhạt nhòa. Tôi chạy, đuổi theo chiếc mùi soa, trong bóng tối. Chạy mãi. Thế là hết. Không bao giờ còn gặp Lily nữa. Không bao giờ. Còi tàu rít, nghe xa lắm rồi. Tôi quay lại sân ga. Sân ga vắng. Tôi định bụng sẽ giữ chiếc mùi soa rơi, giữ mãi, i như nó thế này, suốt đời. Tôi không biết đi đâu. Rồi tôi cũng ra phố. Phố Hà Nội đêm trống rỗng. Một vài ánh đèn ngả trên đường nhựa. Đêm không đủ lạnh không đủ nóng. Trong tôi cũng không thấy đâu ngay cả một cơn gió ảo não. Để mặc đôi chân, đưa đi đâu, thì tôi theo đấy. Tôi không nghĩ gì, chẳng còn gì quan trọng nữa. Sao mà vô nghĩa thế. Tôi nhìn sao trời trắng lôm lốp, là sao tháng năm. Một lúc không rõ mấy giờ, tôi về đến cửa nhà Tình Bốp, nhưng tôi không vào. Cũng không í định về nhà tôi. Nhưng rồi không hiểu sao tôi lại về nhà. Tôi mở cửa. Tôi bật đèn. Nhà lạnh tanh. Em Cốm đang nằm khóc rưng rức, ở xó giường. Tôi ngồi xuống bên Cốm, lòng ngổn ngang. Nào tôi có muốn thế này. Cốm quay ra, mắt sưng húp. Mặt cũng sưng húp. Cốm nói: “Sao không hái mít nhà con đĩ Phòng Nhì đem về cho tôi?” Nói xong lại nấc lên, lại quay phắt vào tường. Cốm có mang 3 tháng, người Cốm cứ he hé như nhánh lúa con gái. Tôi nhìn ra cửa sổ, thấy mảnh vườn tháng năm, vừa quen, vừa lạ. Lá ổi chen lẫn lá nhãn, đen sì, he hé đó đây, mấy ngôi sao tháng năm. Bất chợt tôi giật thót tim. Nhô lên qua cửa sổ, là nó, thằng nhọn cằm. Rõ ràng là cái mặt nó, không thể nào lầm được. Nó cười. Nhưng không được nổi một tictăc, cái mặt đã biến mất vào đêm tôi. Tôi chạy ra cửa sổ. Không có ai cả. Mảnh vườn vẫn êm ả. Vẫn mấy ngôi sao tháng năm, lẫn trong lá ổi, lá nhãn. Cốm nói: “Thôi đừng đóng kịch. Đừng này nọ đánh lừa gái này”. Tôi không nói gì. Còn biết nói gì. Trống ngực đập một mình, tôi khép cửa sổ lại. Tôi tắt điện. Nhà mùa hè mà lạnh ngắt: tôi đã mất mùa hè. Tôi đã mất Lily.
V
Năm nay tôi 23 tuổi, đủ thời gian để tôi đã kịp iêu mấy vụ mà thất bại, đã kịp hối hận mấy lần, nhưng tôi rất chóng quên. Những lần đi nhà thổ và vườn hoa về, tôi lại thấy khó quên hơn. Có lẽ bởi vì, bao giờ cũng vậy, bao giờ tôi cũng chỉ về nhà, sau 3 giờ sáng, và bao giờ người cũng rã rời, sau những xúc động quá mức. Nhưng chính xác hơn, cái khó quên hơn, có lẽ là quãng chuyển giao, giữa đêm và ngày, là quãng đường từ chiếc giường không quen, về cổng nhà tôi. Khoảnh khắc ấy, đoạn đường ấy, là Hà Nội đêm. Một mình, trong đầu rỗng tuếch mà đi bộ ngoài phố đêm, thế nào cũng khó quên. Giỗng hệt như một đêm 6 năm trước, tôi đi đi ngoài phố đến 5 giờ sáng, mồm đắng, toàn thân rã rời hình như sau một vụ tỏ tình thất vọng. Phố lúc ấy tinh mơ. Mặt trời đang mọc trên vườn hoa. Tự dưng thấy tuổi 17 của tôi sao mà hư vinh, thấy cả 36 vẻ phù hoa, của kiếp sống. Tôi vào hiệu cạo trọc sọ. Trong túi vẫn còn bức thư tình bị trả lại, sau khi bị chữa be bét bằng mực đỏ. 3 ngày trước tôi đã gửi nó, cho một con bé 17 tuổi, để con bé chẳng khó khăn gì mà tìm được vô số lỗi chính tả, lỗi hành văn. Con bé bĩu môi, lấy bút đỏ gạch xóa, và đi bộ ra tận bưu điện, để gửi trả tôi bức thư, và chấm hết cuốn tiểu thuyết ba xu. Tất nhiên tôi đã quên mất, cả giọng nói lẫn chiều cao của nó. Nhưng tôi còn nhớ đã đi xe đạp trên đường vắng, để đón đầu con bé, cũng vào đúng một buổi chiều. Tôi ghếch xe đạp lên vỉa hè, tôi nói cho xin tí hôn. Nói sao tôi làm vậy, để được nghe con bé chửi thằng cao bồi, đồ mất dạy, và để chấm dứt luôn cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. 6 năm sau, tất nhiên, tôi đã quên đi toàn bộ câu chuyện dấm dớ. Nhưng anh chàng thất tình đi bộ, đêm ấy trên phố, thì tôi vẫn nhớ. Suốt 6 năm, tôi không gửi thư, kể cả thư tình đi bất cứ đâu. Dạo ấy tôi chưa viết nhật kí, nếu có nhật kí, biết đâu hôm nay lấy ra, xem lại tên con bé dớ dẩn ấy, biết đâu được một ngày bú dù. Sáng hôm nay, sau một đêm khó khăn ngoài sân ga, và một đêm khó quên trên phố, tôi dậy muộn. Em Cốm đã đi làm. Tôi lại nhớ đến Lily. Tôi nằm nghe, tiếng tàu điện lanh canh, ngoài phố xa. Phố đang tấp nập. Tôi biết lúc này, mặt trời đã sáng nhóe. Tôi nghĩ đến bản đồ đi lại, ăn uống và làm lụng nội thành, có lẽ không còn mang tên tôi. Từ 3 hôm nay, tôi như thằng mất sọ. Từ 3 hôm nay, tôi chỉ là cái xác dằn di, đi lại như con rối bị rút ruột. Biết vậy nhưng tôi có thể làm gì hơn. 3 ngày dù sao cũng còn lại chiếc mùi soa trắng í nghĩa hơn cả, tôi vẫn giữ trong túi quần. Nằm mãi, tôi dậy, đun nước bếp điện. Tôi lèn phin càphê thật chặt. Rồi, ngồi đợi caphê tôi hút điếu Côtab nóng. Ngần ấy động tác, lặp lại ngần ấy buổi sáng, nhưng không chán, cho nên sáng nay tôi hút thuốc hai điếu liền, pha càphê hai lần. Nhưng rồi buổi sáng vẫn còn dài,
tôi bèn pha thêm tách càphê thứ ba, còn thuốc Côtab thì không đếm nữa. Tôi lấy nhật kí ra, định ghi lại 3 ngày với Lily, mà chả biết bắt đầu thế nào. Tôi lại trả nhật kí vào chỗ cũ, tự nhủ Lily đi có lẽ lại tốt cho tôi. Không có Lily, ngày của tôi sẽ dài hơn, êm đềm hơn. Uống xong tách càphê thứ ba, tôi đi bộ ra phố.
Buổi sáng. Phố không đông, cũng không vắng người. Tôi đi bước một. Không phải bước một theo kiểu thi sĩ, triết gia. Mà là kiểu chữ bát. Tôi tạt qua nhà Tình Bốp, để lấy cái Stecling. Tình Bốp hẹn tôi, 2 giờ nữa quay lại ăn nem Phùng. Nhìn phố sáng nhóa mặt trời, tôi đến nhà thằng Đoành, định rủ nó lượn quanh vài vòng. Nhà thằng Đoành chỉ cách có vài bánh xe. Trước cửa nhà Đoành, là cửa hàng bán lặt vặt, tí hàng xén, tí mỡ lợn, tí dầu hỏa, cho người cơ nhỡ. Ngoài cửa hàng sáng, bên trong tối om, nhìn mãi mới thấy song thân phụ mẫu của nó, lúc nào cũng ngồi đối diện nhau, theo kiểu tướng ông tướng bà trong bộ tam cúc. Hai cụ ngồi trông cửa hàng cho cô chị thằng Đoành. Cô này chỉ lo những chuyện phía sau bức mành: cô đi lấy hàng, cô nấu cơm, cô giặt quần áo. Cô năm nay 30 tuổi, không chồng, rất điệu, lưng thẳng như khúc gồ. Cô mà đi phố thì rất mất thời gian, vì hễ thấy đàn ông, cô lại dừng chân từ xa và cúi mặt nhìn xuống đất. Cũng may là thằng Đoành ở một phòng riêng biệt trên gác, qua một cái sân trong. Muốn vào thì đi vòng, qua cái ngõ nhỏ bên cạnh, đỡ phải chào hỏi hai cụ thân mẫu ít nói, và cô chị ế chồng của nó. Tôi dắt xe qua ngõ, vào đến sân trong, nhìn lên phòng thằng Đoành, thấy rất lạ. Tôi thấy cô chị nó, đang dòm qua lỗ khóa. Cô mải dòm quá, cho nên tôi leo cầu thang đến ngay bên cạnh, mà cô không hề biết. Tôi nói: “Xinê à?” Cô giật nảy người, đứng thẳng lên, mặt đỏ dừ. Chắc lần đầu đứng gần đàn ông như thế này. Cô chửi để chữa thẹn: “Khốn kiếp”. Tôi nói: “Phim ban ngày à?” Cô càng đỏ mặt. Nhìn vào mặt tôi, chắc cũng là lần đầu cô nhìn mặt đàn ông gần như thế này, bởi vì cô nói: “Khốn nạn”. Phê bình tôi xong, cô ù té chạy xuống cầu thang. Nom cô đằng sau, với bím tóc gọn ghẽ trên gáy, tôi nghĩ đến khúc củi khô. Tôi đâm thương hại cho cô. Đạo đức của cô phiền toái quá. Tôi đấm cửa, ba hồi ba tiếng một, là mật hiệu tôi đến. Thằng Đoành nói từ bên trong: “Đợi tí”. Một tí của nó là 13 phút của tôi, cho nên đến phút thứ 13 nó mới ra mở cửa. Sau lưng nó, một người, chắc là nữ giới, tôi đoán thế, vì người này trùm chăn ô vuông đen trắng, kín mít, cho đến tận chân. Đoành kéo tôi vào, và đứng chắn ở giữa, để cô nữ trùm chăn vòng phía sau, mà đi ra ngoài. Đoành đóng cửa, rồi chỉ để hé, đúng một đoạn nhỏ, để cô nữ tuồn cái chăn vào trả lại. Sau đó thằng Đoành vẫn đứng chặn cửa, để cô nữ đi xa hẳn, không cho tôi ngó ra xem mặt. Sau đó, nó giải thích: “Nữ văn công tổng cục chính trị”. Tôi nói: “Có chồng chưa?” Đoành nói:
“Còn giãy đành đạch. Tôm tươi, hoàn toàn chưa bóc tem”. Đoành nói thêm: “Không được nói với ai, ngay cả với Tình Bốp. Em này phải có danh dự tốt, mới công tác được. Em này ngây thơ lần đầu tiên. Cho nên lúc mày đấm cửa, em khóc lo lắng lắm”. Tôi nói: “Mày hỏng. Cái gì trong trắng không nên vọc. Thiếu gì chỗ để vọc. Mày làm nhọ đời người ta. Dầu tao không nói, người khác cũng sẽ biết. Tao lạ gì mày. Mồm mày không có nắp. Chính mày sẽ đi khoe, lung tung”. Đoành nói: “Tao thề không khoe ai cả. Thôi đừng mắng tao. Kẻo cơn hối hận nổi lên bây giờ”. Nói rồi nó đem ra một chai cônhăc, để uống mừng nó, và mối tình cô văn công dại trai. Vừa mới nhắp được một ngụm, đã thấy một bà đứng tuổi, mở cửa hết sức thô bạo, xồng xộc bước vào. Bà này áo trắng quần đen, đi chân đất, tóc vấn trần có tí đuôi gà, cài thêm cái lược nhựa. Nhìn biết ngay loại đàn bà vườn hoa. Bà này ném vào mặt Đoành một cái phong bì hồng, rồi đứng chống nạnh. Từ phong bì rơi ra vài cái ảnh cởi truồng. Tôi chẳng hiểu sao cả. Bà này không đợi tôi hỏi, thản nhiên tru tréo. Bà nói: “Hốc quịt à? Trông thế kia mà hốc quịt. Đây làm ầm lên bây giờ. Đây chẳng sợ xấu. Bán trôn nuôi miệng, còn gì mà xấu. Xấu là những đứa hốc đầy mồm, hốc no nê, bây giờ quịt. Thanh niên chế độ này thế à? Đi. Lên đồn công an”. Thằng Đoành cuống cuồng bảo im. Hóa ra bà đứng tuổi chính là cô văn công tổng cục chính trị, trùm chăn hay khóc. Thằng Đoành rối rít nói: “Tôi lầm. Im nào. Tôi lầm thôi làm gì phải mồm to”. Nó lấy ngăn kéo bàn ra một cái phong bì khác, cũng màu hồng. Bà này xé ngay phong bì, để kiểm soát bên trong có gì. Hóa ra là một tập toàn giấy 20 đồng (ăn hai hào bây giờ). Đếm xong, bà này nói: “Thiếu đây này. Đừng hòng ăn bớt. Đã mặc cả tử tế rồi. Lúc nãy hốc thì có bớt chút nào không?” Tôi móc túi, còn mấy hào lẻ, tôi dúi cho bà rồi tống ra cửa. Thằng Đoành cười sằng sặc, lại còn mắng tôi sa sả. Nó nói: “Mày ngu thế. Văn công tổng cục chính trị lấy đâu ra. Tao nói láo mà mày cũng tin. Quả là ngu như lợn”. Tôi đúng là ngu, thật như lợn. Tôi nói: “Đã thế ông uống hết rượu của mày”. Đoành nói: “Cứ việc uống. Vì tao phải đi đây, có tí việc mừng. Tao đi có hẹn 9 giờ”. Tôi nói: “Lại cô văn công nữa?” Nó tròn con mắt: “Sao mày biết?” Tôi nói: “Văn công chèo, tuồng, hay múa rối?” Nó bảo: “Mày cứ tưởng cái gì cũng biết. Tao đi gặp bà Hòa”. Tôi giật mình: “Hòa nào?” Nó nói: “Hòa bảo vệ khu phố. Chuyện đứng đắn đấy. Bà Hòa xin việc cho tao, hình như được rồi thì phải. Mày uống nốt đi. Đừng há hốc mồm nữa. Tao mặc quần áo, đi là vừa”.
Buổi chiều. Tôi nói với Tình Bốp: “Nguy to”, khi hai thằng ngồi đối diện nhau, để bắt đầu 3 giờ chuyên đề nem Phùng. Nhưng cũng có một chút không chuyên đề ghé thêm vào, là tí ngỗng Hàng Buồm, nửa con và hai chai
rượu quê, Tình Bốp đặt mua tận Đồ Xá. Hôm nay tôi được mời toàn bộ, không phải trả một nửa tiền, cũng không phải ghi sổ nợ. Hai thằng đóng cửa, tạc thù trên gác. Tình Bốp liên tục rót rượu vào chén tôi, nó có vẻ đang nhu cầu nói chuyện. Một mình nó một ngôi nhà mênh mông, một cửa hàng càphê, một cái cổng sắt sơn xanh đẹp đẽ. Nhưng cửa sổ không mở nữa, ngay giữa mùa hè. Không cả tiếng cười phụ nữ rất kĩ thuật, cho năm mươi số nhà quét vôi vàng cùng nghe thấy. Mới có một ngày, mà phố đã thay đổi. Phố im ắng, đám đàn ông mượn cớ mỏi chân, đứng lởn vởn dưới những cửa sổ, cũng biến mất. Lúc nãy, tôi đã vào xem buồng tắm, cứ ngỡ thế nào Lily cũng bước ra, từ sau làn hơi nước, như thường lệ. Nhưng buồng tắm vắng người và khô ráo.
Tôi uống chén thứ nhất. Tôi nói với Tình Bốp: “Nguy to. Còn trơ lại tao và mày. Năm thằng, còn hai”. Tình Bốp trả lời: “Tao biết trước cả”. Tôi nói: “CÁ theo tao ráo riết, từ 3 hôm nay. Lúc ở nhà thằng Đoành ra, tao đạp xe loanh quanh, lại thấy thằng nhọn cằm”. Tình Bốp nói: “Uống đi. Mọi sự do thằng Thái cả. Nó làm kiểu bẻ đũa, bẻ từng cái một”. Tôi trả lời: “Ừ, thằng Thái có tướng lắm”. Tình Bốp uống chén thứ 2. Tình Bốp nói: “Trong năm thằng, có mày đối địch, có tao du côn, thì họ mới phải tranh thủ ba thằng khác, còn lại tao và mày cô lập. Ba thằng kia ăn lộc của họ, phải cảm ơn mày mới phải. Con người đúng là con đểu, bản tính trời sinh, là con vô ơn bạc nghĩa”. Tôi uống chén thứ 3. Tình Bốp phàn nàn: “Bây giờ bác sĩ, chữa xe đạp, kĩ sư, ăn vận như nhau cả. Công dân mới mà, san đều nhau tất, ông cũng như thằng. Phố xóm có gọi mày là thằng, cũng không sao, thằng cũng như ông”. Tình Bốp uống chén thứ 4. Tình Bốp nói: “Uống đi. Tao vẫn nói với năm thằng, không có thằng Dưỡng thì hỏng to. Vì mày nhìn đại cục, chứ không đại khái. Tao chỉ nhìn lặt vặt, nên tao từ hồi đồng ấu, toàn phải dựa vào mày. Tao bảo ngay từ đầu, là kế bất hợp tác của mày hay. Mày còn nhớ không?” Tôi gật đầu: “Có”. Tôi uống chén thứ 5. Tình Bốp nói: “Thằng này nhớ dai. Nhiều người bảo, phát súng là do mày bắn. Chính tao cũng lắm lúc phảng phất… Phục mày cứ trơn tru như không”. Tôi trả lời: “Không phải tao bắn”. Tình Bốp uống chén thứ 6. Tình Bốp nói: “Ừ, thì không phải. Nhưng ai cũng gọi mày, là thằng Dưỡng-phát-súng. Mày bắn hay không, vẫn là mày, chẳng thay đổi gì. Mày ghê thật, cứ hư hư thực thực. Mày vừa nói cái gì nhỉ?” Tôi nói: “Tao nói người ở với người, là khỉ vặt lông khỉ”. Tôi uống chén thứ 7. Tình Bốp nói: “Hay quá. Họ dùng phép, lấy khỉ vặt lông khỉ. Bây giờ mày nói tao nghe, họ dùng phép gì, để thịt tao với mày, và mày đối lại bằng phép gì?” Tình Bốp uống chén thứ 8. Tôi trả lời: “Trong năm thằng, mỗi mình tao bị lôi thôi. Dễ hiểu là vì tao bị ngờ. Tóm lại đây là phép ngờ. Đối lại thế nào? Rất dễ. Lấy ngờ chống ngờ, có vậy thôi”. Tình Bốp nói:
“Hay. Sâu sắc lắm. Họ vờ vịt nói khoan hồng. Họ nói một đàng, làm một đàng, là họ chơi trò gì?” Tôi trả lời: “Trò đúp”. Tôi uống chén thứ 9. Tình Bốp nói: “Ừ, đúp. Họ chơi trò đúp, với mày. Mày trả lời, bằng trò đúp. Nhưng tao đề nghị, dùng danh từ trò-kép. Vẫn đúng í mày chứ? Hay là sai?” Tôi nói hay hay hay, ba lần liền: “Hay. Hay. Hay. Mày nghĩ ra những mẹo, những chữ hiểm lắm. Tao vẫn nghĩ mày là thằng ghê. Mày mặt tái nhợt, mà vẫn cười nhạt”. Tình Bốp uống chén thứ 10. Tình Bốp nói: “Đừng lạc đề. Cụ thể trò-kép cùa mày, là thế nào? Mày định chơi trò-kép, thế nào?” Tôi trả lời: “Đối phương, chứ không phải họ”. Tình Bốp đồng í: “Ừ, đối phương. Cũng thế cả. Mày nói tao nghe trò-kép của mày, xem thế nào”. Tôi nói: “Hừm”. Tôi lại nói: “Hừm”. Tôi uống chén thứ 11. Rồi tôi nói: “Giản dị thôi. Đối phương bảo đi họp, tao trả lời vâng. Đi lao động, vâng. Vâng là vâng vậy thôi. Đối phương tử tế nhân đức, vâng. Tao sẽ chỉ nói vâng. Nhưng tao nghi ngờ. Họ nói gì tao cũng ngờ. Họ tin tao thêm, thì tao tin thêm. Họ ngờ tao thêm, thì tao cũng ngờ thêm. Họ thật hẳn, thì tao cũng thật hẳn”. Tình Bốp uống chén thứ 12. Tình Bốp hỏi: “Họ đấu tố mày thì sao?” Tôi trả lời: “Hừm… Nhưng tao làm đếch gì, mà đấu tố tao? Tao lúc nào cũng chỉ nói vâng”. Tôi uống chén thứ 13. Tình Bốp nói: “Thì mày vẫn nói vâng đấy thôi. Sao họ vẫn cô lập mày, vẫn theo dõi mày, vẫn nghi ngờ mày?” Tôi nói hừm hừm, hai lần liền: “Hừm. Hừm”. Tình Bốp nói: “Mày không làm gì, mà đối phưong vẫn ngầm thịt mày. Đến lúc đối phương thịt hẳn mày, thì sao? Đời đếch nào chẳng có thằng oan?” Tôi nói: “Tao không làm gì, mà coòng tay tao, tao sẽ đánh trả”. Tôi uống chén thứ 14. Tôi uống chén thứ 15. Tình Bốp lại hỏi: “Đánh trả? Lấy gì đánh trả?” Tôi mắng Tình Bốp: “Có quả đấm. Không thịt nổi một thằng trước khi chết à? Có chân đấy, chạy ra giữa phố, phanh ngực, mà thét to: khoan hồng như thế này à?” Tôi uống cạn chén thứ 16.
Buổi tối. Tôi uất quá. Tình Bốp can tôi, nhưng tôi càng uất. Nhiều buổi chiều sau, đến trước cuốn nhật kí bìa dằn di, tôi nhớ lại cuộc nói chuyện ấy. Mỗi buổi chiều, tôi nhớ thêm, được một đoạn. Sau nhiều buổi chiều, tôi chép được toàn bộ. Kết quả là, nhiều cảm giác bồng bềnh, có lẽ do tôi uống đã tương đối, nhưng mà Tình Bốp cứ rót đầy chén tôi, mỗi khi chén vơi. Buổi chiều ấy tôi thấy, oan ức quá. Trong tôi có một thằng-oan-trái, không biết kêu oan ở đâu. Thằng-oan-trái kêu oan, với Tình Bốp vậy. Thằng-oan-trái nói: “Bảo khoan hồng, để dụ tao ở lại, rồi nay ngờ mai ngờ, rồi theo dõi tao, rồi chia rẽ bạn bè tao, hàng xóm rình mò tao, còn chưa đủ, còn xui vợ rình chồng, khoan hồng thế đấy!”. Tôi ăn thêm miếng thịt ngỗng, mà trong lòng trắng nhợt. Tôi biết, tôi trắng nhợt bên trong, chứ bên ngoài tôi vẫn hồng hào, Tình Bốp đâu có nhìn thấy gì. Tôi bỏ miếng thịt cắn dở, để uống cạn
chén thứ 17. Tình Bốp rót đầy chén thứ 18. Tôi ngồi tư lự, rồi lắc đâu tê tái, rồi lại trắng nhợt, vẫn ở thăm thẳm bên trong, rồi ngơ ngác một mình, rồi lẩm bẩm một mình, rồi tôi nói: hết, một chữ ngắn gọn, chẳng nhẽ tôi đã đạt tới, chỗ cùng, của đường cùng, ừ thì đường cùng. Rồi tôi chợt nhớ tới Lily. Lily đi hôm qua rồi. Lúc nãy tôi đã đứng, dưới những cửa sổ, mà tất cả đều đóng kín, mà không nghe thấy, dù chỉ một tiếng cười. Lúc nãy, tôi đã kiểm tra buồng tắm, một lúc lâu, đúng là chẳng còn ai. Buồng tắm vắng người, không một giọt nước, trên tường. Bây giờ, tôi không để í tới Tình Bốp nữa, không để í, mặt nó trắng hay mặt tôi trắng. Hôm nay tôi uống có lẽ quá sức, nhưng nếu không uống, tôi sẽ buồn chán ghê gớm, sẽ chửi bậy, bằng những danh từ xấu xa nhất nhân loại, và sẽ xé nát, cả một buổi chiều. Mâm rượu tàn như mửa. Chén rượu thứ 19 còn nguyên. Tôi ra đivăng, nằm vật xuống.
Từ hôm ấy, tôi bắt đầu, giống thằng ăn cắp. Thành thói quen mất rồi, đi đâu ở đâu, cũng nhìn ngược xuôi. Sáng nay, sau khi ngủ dậy, tôi ngó nhìn các góc tôi trong nhà, mà không chủ định tìm cái gì cả. Tôi ra khỏi nhà, với một buổi sáng không càphê, tôi xách cần xách giò, lên Canh Diễn. Vừa đến cổng làng ngoảnh lại, đã thấy NÓ, thằng nhọn cằm ở phía xa. Nó đang nói gì với lão đánh dậm. Tôi giở đồ ra câu. Chưa được con nhái nào, đã thấy lão đánh dậm sau lưng. Tôi sang ao khác, lại thấy lão đi sau. Tôi sang ruộng khác, vẫn thấy lão, cách chỉ vài bước chân. Tôi lại chuyển chỗ, lão cụp vó lại, đi theo, suốt buổi sáng. Lúc tôi cuốn đồ câu về, đi trên đường đất, tôi còn nhìn thấy lão, lấp ló trong vườn chuối, cùng với thằng nhọn cằm. Tôi về. Qua các phố, tôi ngó ngược, ngó xuôi. Tôi đổi chương trình đi lại. Ngày nào cũng đổi chương trình. Tôi xuống Vĩnh Hồ. Một thằng bé chăn trâu, tuổi choai choai, mà chẳng đi học, bỏ trâu lại để đi theo tôi. Thằng này theo rất dính. Tôi lủi qua ruộng mía, rồi vòng lại. Nhưng chỉ được một lúc, nó lại tìm được tôi. Tôi đứng, chân ngập trong nước, mà vẫn thấy oi ả. Trên bờ, là thằng bé chăn trâu, và xa nữa, là bãi tha ma. Chẳng lẽ (nhật kí bỏ dở).
Buổi sáng. Một người vận áo xanh, đeo kính đen, lởn vởn dưới cột đèn, đầu ngõ. Người này chờ tôi, để sau đó đi theo, đến Ngã Tư Sở. Ngày nào cũng có một người ra đứng buổi sáng, dưới một cột đèn. Ngày nào cũng có một người vận áo xanh, và đeo kính đen. Rồi, ngày nào những người áo xanh cũng biến mất, mỗi khi tôi bắt đầu một ngã tư. Có một lúc, gặp thằng Ngỡi, bạn tôi. Ngỡi nói nhỏ: “Anh cẩn thận. Lọt vào mắt xanh rồi đấy”. Tôi hiểu, mắt xanh không phải vì áo xanh. Mắt xanh là mắt của công an. Vấn đề đặt ra là (bỏ dở).
Buổi chiều. Cái lưới của thằng nhọn cằm căng rộng quanh tôi, không chỉ bốn phía. Mắt lưới rất nhỏ, nên người đứng ngoài lưới nhìn vào, sẽ chẳng thấy gì hết, ngay cả một cái vẫy tay mơ hồ của tôi, ngay cả một nụ cười chào buổi sáng. Nhưng từ bên trong nhìn qua mắt lưới, tôi thấy nhiều thứ lắm: tôi thấy ông lão đánh dậm, tôi thấy các chị cắt cỏ, có ối chị đẹp. Tôi thấy chiếc áo xanh, dưới ngọn đèn đường, đôi lúc cũng thấy cả thằng nhọn cằm nữa. Đôi lúc thằng nhọn cằm tiến gần lại tôi, để tôi xem cặp mắt của nó, mênh mông, vô cảm. Cặp mắt làm tôi sợ hãi, ngay từ lần gặp đầu tiên, trên sóng nước Hồ Tây, khi tôi cùng với Lily, mà không biết tại sao. Mấy hôm nay, Cốm nghĩ tôi bị điên. Cốm thấy tôi đang đi ngoài phố, bỗng giật mình. Nhưng Cốm vẫn hỏi, như thế này. Cốm hỏi: “Hay là anh vẫn còn tương tư con đĩ Phòng Nhì?” Tôi gắt: “Đĩ Phòng Nhì là ai?” Cốm không nói. Cốm nghĩ gì không biết. Còn tôi bỗng dưng nghĩ, tới một trò chơi người lớn. Tỏi thích xem người lớn hun chuột: khói vàng cả ngõ, chuột chạy ra, cả đống. Thế mà có những con dũng cảm, nhất định chết cháy trong hang, không chịu bò ra. Dạo này, những mưu mẹo của tôi cũng nằm lì, trong sọ. Ngày ngày tôi hun sọ tôi, bằng vị đắng càphê và khói thuốc Côtab, vậy mà nó vẫn dũng cảm, không chịu làm việc. Con toán của tôi thảm sầu, nhiều ẩn số, thiếu dữ kiện, lại không đáp án. Cho nên tôi cứ bâng khuâng, trước hai đáp số: một là tiếp tục nghi ngờ, một nữa là tiếp tục chờ. Mà chờ, theo thánh kinh, cũng là nghi ngờ. Tôi nghi ngờ, ngày mai, ngày kia và ngày kìa. Sọ tôi khốn đốn, như chưa bao giờ trống rỗng đến thế. Trống đến cả một câu hỏi. Buổi chiều, có một chị nông dân gánh phân, mùi hôi nồng nặc, đi sau tôi, cả một phố dài, tới tận Thái Hà. Đến đầu ngã tư, có một anh bán kính đứng nhìn tôi, rồi lại một anh xiclô chầm chậm đạp xe phía sau, cho đến một ngã tư mới. Cá buổi chiều do đó bị chia nhỏ, làm nhiều đoạn. Mỗi đoạn mở đầu và kết thúc, đều ở một ngã tư. Kèm theo vô số những gương mặt vô phúc, đi cùng đường với tôi, đều bị tôi xếp vào hạng mật thám. Sẩm tối, nhìn vào gương, chỉ thấy một cái bóng người, lờ mờ. Tôi nói: “Đéo mẹ, trông anh khả nghi lắm”. Nhà vắng, điện chưa bật, tôi nói chuyện, với cái bóng trong gương. Tôi nói: “Có khi, chính anh cộng tác cho CÁ, anh đi theo tôi, không biết chừng”. Bóng cười nhẹ, trong gương. Tôi nói: “Đéo mẹ, nói thì không nói, chỉ cười”. Rồi tôi cũng cười, nhẹ nhàng, đúng lúc Cốm đi làm về. Cốm thấy lạ. Tôi xấu hổ. Nếu biết xấu hổ, tôi tự nhủ, tức là tôi chưa mất trí. Buổi tối, trong bữa cơm Cốm kể: công an, và ban bảo vệ khu phố, trưa nay đã coòng tay thằng Hoóng, quan hai biệt kích, không di tản mà ở lại Hà Nội, cùng đồng bọn.
Buổi chiều. Lại một chiều bùi bụi. Tôi gặp thằng Chắt trên phố. Tôi xách một xâu nhái. Thằng Chắt gọi tôi. Cu cậu trông rất oách, đội mũ thợ, quần áo
xanh. Xanh từ đầu chí chân. Tôi nói: “Ra vẻ công nhân chưa! Đi làm dễ chịu hả?” Chắt nói: “Đang chết cháy đây. Bác tao bắt sang Gia Lâm làm, chẳng nhẽ giờ tao bỏ. Ông ấy cày cục, xin mãi mới được. Làm vài tháng, đã bỏ, ông ấy mặt mo”. Tôi nói: “Việc gì phải bỏ?” Chắt tròn mắt với tôi. Nó nói: “Mày không biết à? Vô khối thằng nhào ra, vì ra ngoài, kiếm nhiều hơn. Ở trong nhà máy lưong ít, lại thêm họp hành, thi đua, vất bỏ mẹ. Nhà tao xa, đến phát ngấy. Sáng đi từ tơ mơ, tối nào mà họp, thì 11, 12 giờ, mới bò về tới nhà”. Tôi nói: “Sao nom mày hớn hở vậy?” Nó nói: “Thì cũng có cái để hớn hở. Cũng đếch biết là cái gì. Tao đi về đã. Chủ nhật sang tao, làm tí tiết canh vịt, nhé!” Tôi ừ. Đến ngã tư tôi rẽ vào chợ. Thằng Chắt đi thẳng. Đấy là một chiều muộn bùi bụi. Tôi cảm thấy, tự dưng, tất cả những chỗ rẽ khác nhau, trong một kiếp người.
Buổi sáng. Tôi câu dọc đường Tầu Bay. Mưa to. Càng mưa câu càng ăn. Khiến tôi mải miết câu, mãi mới sực nhớ, có người bên cạnh. Tôi đi đến đâu, người này theo đấy. Hắn buộc mùi soa kín mặt, chỉ hở mắt, đầu đội thêm cái nón. Mưa vuốt mặt không kịp. Tôi quay lên, hắn cũng quay lên. Tôi quay lại, hắn cũng quay lại. Hắn luôn giữ khoảng cách với tôi, là một cột đèn. Tôi tiến nhanh đến chỗ hắn, hắn lủi. Tôi gọi: “Này. Nààày”. Hắn không trả lời. Mưa vẫn lút thút. Tôi tiếp tục câu. Lát sau, lại thấy hắn cũng đứng câu, cách một cột đèn. Cả tôi cả hắn đều ướt như chuột. Tôi tự hỏi tại sao hắn che mặt. Có lẽ hắn chính là thằng nhọn cằm cải trang. Tại sao hắn lại phải cải trang. Mưa lút thút, đếm được ba chục nhái, tôi về. Hắn theo sau.
Thế là con toán hóc, nhiều chấm hỏi. Suốt tuần lễ tôi loay hoay, với con toán lủng củng này: công an tại sao theo tôi dữ dội như vậy, tại sao lại lộ liễu như vậy, họ theo tôi nhằm mục đích gì, tôi phải đối phó thế nào, màn hạ sẽ ra sao, liệu có việc gì không, có bị oan không, mặc dù thời nào chẳng có cái oan của nó, nhưng nếu oan thì sao, nếu tôi bị coòng tay, đem đi thì sao, đem đi trại cải tạo, hay đi đâu, đi mãi đâu, tận đâu, đến bao giờ, và Cốm sẽ ra sao, Cốm có được đến nhà tù, đến trại cải tạo thăm tôi không? Thế rồi mấy buổi chiều liền, ngồi giải toán, và mấy buổi chiều, tôi vùi đầu trong một cuốn sách cũ, có lẽ là trinh thám Nga, đã đọc mấy năm trước. Tôi bắt đầu lại, từ một chỗ tình cờ, là đoạn cuối, đúng vào lúc anh sinh viên Nga bị đày đi Xibêri. Cô người iêu đi theo. Bà mẹ già cũng đi theo. Đi đày như vậy, có lẽ sướng hơn đi tù một mình. Kết thúc của cuốn sách, không hiểu tại sao làm tôi thoát khỏi mọi lo sợ, mọi nghi hoặc, hờn giận, cùng mọi bàng hoàng, của nhiều tháng nay. Tợ hồ được an ủi đến sạch sẽ. Thế là tôi đọc lại cuốn sách từ trang một, 3 buổi chiều thì tới phần kết. Tôi đọc xong phần kết, như vậy là
lần thứ ba, vào lúc 3 giờ chiều. Cuốn trinh thám Nga là một thương xót kì quặc, một từ bi trần tục, hết sức trần tục mà khắp gầm cầu, không đâu có. Một cứu vớt sâu thẳm, mà đến mảy bụi, con dòi và con sâu đo, mà đến tất cả chúng sinh dằn di - gồm vài nghìn vạn thằng dằn di, đều được cứu vớt. Tôi không hiểu tại sao. Chỉ thấy là lạ. 3 giờ chiều, nhà vắng. Vườn nhà tôi, qua cửa sổ nhòa nắng. Chiều nay là một buổi chiều cuối hạ, vậy mà tôi cảm giác lúc này, ngày này, là ngày không mùa, là lúc không giờ, là giờ ngoài đồng hồ, là ngày ngoài quyển lịch. Tôi cố nhớ lại, cảm giác khi đọc cuốn sách mấy năm trước, hình như cảm giác của lúc ấy không đáng để í. Vậy mà chiều nay, cuốn sách cho tôi những xúc động kì lạ. Chắc hiện tượng này, cũng bình thường thôi. Những chuyện cổ tích tôi nghe từ bé, những chuyện đời những cuốn sách, mà người ta sống mãi và đọc mãi, là cái bình thường, rất bình thường. Có khi người ta còn xem thường chúng, có khi còn chê bĩu môi. Để rồi bất chợt, đúng một lúc của nó, người ta mới à à, mới hiểu giá trị của chúng. Có khi đã quá muộn. Chiều nay tôi ngồi, nhìn ra vườn nắng, mà thấy anh sinh viên Nga đói rách, ôm o trong phố lạnh. Anh đến một phố nhỏ, vào một ngôi nhà nhỏ và giết một mụ cầm đồ. Anh sinh viên giết người. Anh xóa kĩ mọi dấu vết. Không còn một tang chứng. Cả buổi chiều muộn, tôi cứ ngồi suy nghĩ, như thế, và khoái chí nhớ lại cuộc đấu trí ngột thở, dài một nghìn trang, của anh sinh viên và một tay thám tử rất cừ. Không có bắt bớ truy lùng. Thuần đòn tâm lí, trong đủ các trò vờn và dử, bóng gió và thắng thừng, bắt nọn và thả lửng. Các trò tâm lí này cứ dập dờn, trong tôi sau đó suốt cả tuần lễ, làm tôi quên cả cuộc chạy trốn thằng nhọn cằm, cùng chiếc mùi soa của Lily. Có lúc, tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt lại, để hình dung rõ hơn những cuộc gặp gỡ, của tay thám tử và anh sinh viên, khi ở căn gác ọp ẹp của anh, lúc ngoài quán rượu. Câu chuyện của họ diễn biến rất lịch sự. Không người nào phải to tiếng, sừng sộ. Tôi nghĩ anh sinh viên này giỏi, như một Nã Phá Luân xuất phàm, có tài cứu nhân độ thế. Anh có thể thay đổi được bản đồ khổ ải nước Nga, và châu Âu (ấy là tôi ví dụ thế). Anh là sinh viên thời Sa Hoàng, học thức rộng. Tôi học thức dở dang, chỉ được mỗi cái tiếng Pháp là ra gì, đủ để giúp tôi đọc trinh thám. Anh sinh viên có thể nói chuyện vài ngày dài, với cả thế giới các ông học giả, ông triết học, ông kinh tế học, ông vân vân. Còn tôi chữ nghĩa hạn hẹp, chỉ thoải mái nhất khi ngồi với Lily, vì nói gì Lily cũng hiểu ngay, và Lily nói gì tôi cũng hiểu ngay. Nói chuyện với Cốm, cũng không cần phải huy động kinh nghiệm, hay học vấn thời tiểu học. Tiếng Pháp lại càng không cần. Tôi mở lại cuốn truyện, vì muốn biết anh sinh viên mà nói tiếng Việt, thì sẽ hay thế nào. Tôi tìm được một đoạn lí sự, trước khi anh đến nhà mụ cầm đồ, mà anh gọi là con rệp già. Thú thật tôi thấy ghê ghê, nên đóng sách lại, cố không nghĩ tới cái chết của mụ. Anh sinh viên dù sao cũng đã hành sự xong, anh bước ra từ tội ác, máu còn chưa ráo trên tay. Tôi biết trong anh, đã bắt đầu nổi lên những hoảng
loạn và hãi hùng. Đấy chính là sự trừng phạt. Sự trừng phạt của chính anh, làm anh ốm vàng, bệnh tật. Sau một nghìn trang giấy, anh lảo đảo ra đồn cảnh sát, tự thú. Sau một nghìn trang giấy, dĩ nhiên chỉ còn nhớ cái cốt truyện, nhưng cũng đủ làm tôi lai láng thương xót. Tuy nhiên tôi vẫn không đổi í kiến, tôi vẫn thích nhất cái đoạn kết, từ bi và cứu rỗi, khi anh sinh viên chuẩn bị đi Xibêri, cho 10 năm lưu đày.
10 năm có lẽ dài lắm, tôi chưa bao giờ phải chờ cái gì, đến tận 10 năm. Cho nên chạnh lòng, thấy tôi nhỏ bé như hạt bụi, nằm chờ sự nhân đạo của xã hội, thảm hại như con sâu đo. Giống như chuyện của anh sinh viên và tay thám tử nọ, công an theo tôi lồ lộ, bởi vì nghi ngờ tôi, nhưng vô tang chứng. Công an phải đánh cái đòn tâm lí, để tôi nếu có tội thật, thì phải hoảng sợ, hoảng sợ thì thế nào cũng hớ hênh, hớ hênh thì thế nào cũng bại lộ. Đây cũng là cái đòn nhân đạo, để tôi tự trừng phạt.
Nhưng chuyện tôi lại không giống chuyện anh sinh viên, vì tôi không phạm tội. Vẫn biết thời nào cũng có người oan. Như mẻ gạo đổ vào nồi, đổ khéo vẫn sót lại, trong rá, vài hạt. Thường là hạt vỡ bị kẹt lại. Liệu tôi có bị tai nạn éo le, như hạt gạo vỡ, tôi chờ kết luận.
Nhưng nếu không có tôi, đời vẫn không sao, các nồi cơm vẫn chín và thơm phức, nội ngoại thành vẫn làm lụng, đi lại và ăn uống vui vẻ. Nếu không có tôi, thì buồn lắm, tôi sẽ kẹt lại trong một trại giam nào, buồn như hạt gạo vỡ. Cốm sẽ thỉnh thoảng đến thăm, thế nào cũng khóc, thế nào cũng bị tôi mắng, thế nào Cốm cũng tủi thân ra về. Cuộc đời bên ngoài và miền Bắc thế nào cũng bỏ sót tôi. Mặt trời vẫn sáng. Cộng sản nhân đạo với nhân dân. Chỉ mỗi mình tôi, nhỏ như hạt bụi, xấu như con dòi, ngu như con sâu đo, lúc nào cũng chẳng là cái gì, lúc nào cũng chậm chân, cho nên bao nhiêu may mắn bị người đời lấy trước cả. Cho nên không có tôi, bản đồ nội ngoại thành cũng không bị tổn thất gì. Cả một tháng nay, tôi không say rượu, vì không gặp Tình Bốp, cũng vì chán không thiết gặp ai. Cả một tháng quên rượu, dù sao cũng giúp tôi thêm tỉnh táo, và thông minh. Những buổi chiều mà còn thông minh như thế này, bao giờ cũng hiếm. Cho nên tôi tận dụng sự thông minh, để bỗng dưng tự hỏi, biết đâu tôi đã không bị oan, như vẫn luôn mồm kêu oan. Thế là tôi nhớ lại, được nhiều chi tiết quan trọng. Ông Trung trố trong các cuộc họp, có nói thế này. Ông nói, đã là ngụy, dù vì động cơ gì, dù thời gian dài ngắn, dù vì sinh! kế, hoặc vì lầm đường, đều là có tội. Tôi đi ngụy 14 tháng, vậy là có tội. Tôi biết, thằng nhảy dù có tội nhảy dù, thằng bàn giấy có tội bàn giấy, tội to nhỏ cũng là tội. Nếu không, tại sao tôi lại lo lắng,
đến hoảng loạn, ngay từ những ngày trước tiếp quản. Nếu không có tội, tôi đã chẳng phải đắn đo đi hay ở, trốn hay không trốn. Vậy là, chuyện của tôi cũng giống hệt như chuyện anh sinh viên người Nga: cả hai cùng có tội. Tôi biết bài học của anh. TỘI và PHẠT phải đi kèm, như bóng với hình, bao giờ cũng phải đi kèm. Cho nên, khi máu của tội lỗi còn chưa ráo tay, khi tay thám tử còn chưa xuất hiện, trong anh sinh viên PHẠT đã bắt đầu rồi. Trong bụng anh, TỘI cũng ngọ ngoạy, cựa đạp, như thể đòi phải được trừng phạt. Bởi vì chỉ có một cách ấy thôi, TỘI mới có thể iên thân, thằng phạm tội mới có thể vui vẻ, trên bản đồ cuộc đời vui vẻ. Nhưng cũng có một cách bắt thằng phạm tội đền tội, i như trong thánh kinh, là an ủi nó, là những phút sung sướng. Đúng như trường hợp của tôi vậy. Khi ông Trung trố nện tội, bằng nhiều cú ngầm, ngay giữa cuộc họp khu phố, mọi người đều tưởng tôi uất lắm. Đúng là tôi có uất, có đau thật, nhưng không chỉ có thế. Tôi lại thấy mình oai oai, cũng có khi thấy khoái. Cho nên tôi làm như không nghe thấy. Cho nên tôi cười toe toét, trong cuộc họp. I như đứa trẻ bị bố đánh đòn: nó cười toe toét, vì nó coi như xong, và cùng vì bố nó đánh rồi, nó có thể iên trí đùa nghịch này nọ, đến trận đòn khác hẵng hay. Đứa trẻ này, chỉ lo lắng khi phạm tội, là chưa bị ăn đòn. Tôi cũng vậy: tôi là thằng tàu bò, có tội là thằng tàu bò, có tội với họ, tôi lo lắng vì mới bị họ dọa, chứ chưa bị xử phạt. Thôi cứ để tôi tự trừng phạt mình, hệt như anh sinh viên nọ. Nhưng tôi không cố í hoảng hốt. Tự nhiên nó thế, cố í cũng không được. Phải có TỘI, mới có PHẠT. Cái khó nhất, là những người ẩy tôi vào trừng phạt, lại có vẻ tốt bụng thật, chính nghĩa thật. Vẫn biết, trên bản đồ tôi sống, chỉ có hai loại người, chính diện và phản diện. Vô tình lọt vào loại thứ hai. Nhưng tôi vẫn biết, bản đồ miền Bắc đẹp. Tôi biết không có tôi, mặt trời vẫn sáng, nhân dân vẫn tiếp tục làm lụng, ăn uống, đi lại trên bàn đồ nội, ngoại thành. Không có tôi, người chính nghĩa vẫn nhân đạo, chỉ mỗi tôi có thiệt thòi riêng. Trừng phạt rồi, mà vẫn phải nằm chờ nhân đạo.
Bây giờ là 7 giờ tối. Vậy là tôi ngồi không cũng đã được 4 tiếng. Cốm đi làm về, đang đi trong ngõ. Em Cốm, cái thai đã to, nom như một cây lúa ngậm đòng. Tôi bật điện. Thì ra từ nãy, tôi đã ngồi bó gối, trắng nhợt, trong buổi chiều nhọ. Suốt buổi chiều, tôi đã kịp thuộc lòng, một nửa trang sách ám ảnh.
Buổi chiều. Anh sinh viên người Nga, trước khi phạm tội, đã đến, nói như thế này: “Tôi là một Nã Phá Luân tân thời. Tôi nghèo, tiền trọ nợ đìa, bàn ăn quanh năm không có gì, căn gác mùa rét không lò sưởi. Tôi không có điều kiện, để ăn học nốt. May thay ở phố ấy, có mụ cầm đồ giàu có, không con
cái, tuổi mấp mé miệng lỗ, chuyên nghề hút máu những người cơ nhỡ, mụ đáng tội chết. Tôi phải giết mụ, đoạt tiền của mụ. Như vậy nhất cử nhị tiện. Nhất tiện, tôi trừ cho xã hội một con rệp già. Nhị tiện, tôi đoạt số tiền của mụ, tiếp tục ăn học thành tài và trở thành Nã Phá Luân tân thời, cứu nhân độ thế”. Tôi không tranh luận. Bởi vì tôi không biết, biện hộ cho tội ác đi ngụy của tôi, như thế nào, bằng những lí do quan trọng, và vinh quang nào. Nhưng một Nã Phá Luân tân thời đi ngụy, hòng cứu nhân độ thế, chắc chắn chưa bao giờ được tôi đưa vào chương trình, dù chỉ trong một í nghĩ tia chớp. Hồi ấy, tôi chưa viết nhật kí.
Tháng mười một 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ sáu hay chủ nhật. Bên kia cửa sổ tôi xanh, có sáu cây bàng rụng lá, và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng mười một vắng lặng, và phố thời chiến vắng lặng. Để chờ những cơn bão chưa tới. Tôi cũng chờ 7 ngày về thăm Hà Nội của Dưỡng, bởi vì cuốn nhật kí của anh bị mất ít nhất hai mươi trang. Tôi vẫn cho rằng, động tác ghi nhật kí thể hiện cách ứng xử của cá nhân, với thời gian. Người ghi nhật kí bộc lộ khá nhiều phản ứng, hoặc tích cực, hoặc tiêu cực, với hiện tại, và dường như hiện tại là đối tượng duy nhất, của nhật kí. Ở một góc độ nào đó, động tác ghi nhật kí cố gắng vĩnh cửu hóa hiện tại, và chấp nhận toàn bộ mâu thuẫn với qui luật thời gian. Đúng là hồi đi ngụy, Dưỡng chưa viết nhật kí thật. Còn những ghi chép của 2 tuần lễ, tiếp theo buổi chiều nhọ kể trên, bị mất cả. Nhiều trang bị Dưỡng dập xóa, nhiều trang bị xé nát, nhiều trang mất cả cuống, nhiều trang còn để cuống lại. Một ngày tháng mười một, Dưỡng nghỉ phép về Hà Nội, tôi mang tập bản thảo bị thương đến. Tôi đề nghị Dưỡng giải thích động tác xé nhật kí của anh. Dưỡng nói: “Đúng là tôi viết nhật kí, để đưa hiện tại của tôi ra khỏi thời gian, để ngày hôm nay được tồn tại, vĩnh viễn. Nhưng tôi bắt đầu nhận thấy sự nguy hiểm của vĩnh cửu. Đã 3 mùa trôi qua, mà hiện tại của tôi ngày một tệ hại. Sự vĩnh cửu, giống như vũng nước tù, càng vĩnh cửu càng hôi thối, càng lắm kí sinh trùng. Chính vì vậy, tôi đã xé nhật kí. Hai tuần liền, tôi nghĩ lung mung lắm. Người tôi rã rời. Thỉnh thoảng có vài tia chớp, lóe trong sọ, sáng trưng. Rồi lại tối om. Tôi lo nhất là bị coòng tay đem đi: vợ tôi đang có mang, việc làm tìm chưa ra. Nhìn đâu cũng thấy công an. Đêm ngủ đầy ác mộng. Tôi xé nhật kí, viết rồi xé, chưa viết xong, cũng xé, mà hiện tại vẫn hủi. Tôi lại tiếp tục nhật kí, nhưng muốn hiện tại đi nhanh hơn, tôi còn một cách, là đánh số, vào những nhật kí. Như vậy, ngày đến sau sẽ đẩy lùi, ra xa những ngày đến trước. Tôi chờ. Còn nghĩ nhiều, đến cuốn trinh thám Nga.
Rồi không nghĩ đến nữa. Cách đây không lâu, tôi muốn đọc lại, mà tìm không thấy”.
Tháng mười một 1965. Cuốn sách đã làm Dưỡng ngơ ngẩn không ít ấy, mang nhan đề TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT, là một tiểu thuyết, của đại văn hào Đôxtôiepxki. Dưỡng đã gọi nhầm, là sách trinh thám. Tôi không biết cuốn của Dưỡng là của nhà xuất bản nào, trong bộ sưu tập trinh thám nào. Tôi biết, nhiều nhà văn chuyên viết trinh thám châu Âu, nhận Đốt như một trong những ông tổ của họ. Cái đó không hề làm hại vị trí văn hào của Đốt, mà ngược lại. Tôi cho là Dưỡng đã tìm được cuốn sách, trong một bộ sưu tập trinh thám lèm nhèm. Nhưng qua những ám ảnh, của Dưỡng, tôi có thể tưởng tượng được, rất rõ ràng, tầm cỡ đại văn hào của Đốt. Thế rồi, 2 tuần của nhật kí trôi qua, với nhiều tictăc phức tạp, và nhiều ngã tư ngày, toang hoác vết bội thương.
Ngày số 1. Nhật kí tiếp tục: i như trong thánh kinh, tôi lại tu tại gia. Mẹ tôi hình như bàn với Cốm, tìm việc cho tôi. Trong khi chờ đợi, lại ngày ngày câu nhái. Lại họp khu phố, không thiếu buổi nào. Tôi tham gia lao động chủ nhật, tham gia lấp đầm lầy, đắp đường đi mới trong ngõ. Không thấy tay nhọn cằm đâu. Cũng không thấy nữa mấy người áo xanh, đứng chờ đầu ngõ, dưới cột đèn buổi sáng. Có lẽ bây giờ, công an chuyển sang giai đoạn theo dõi ngầm. Dù sao, adiđàbụt, tôi vẫn trợn. Nhất là khi cả xóm kể cho nhau, chuyện bọn thằng Hoóng bị tóm như thế nào. Những thằng tay chân, kiêm bạn thân của thằng Hoóng, được nhân dân đặt tên, là bốn thằng Lừa, Ngựa, Bú dù, Bò. Cả bốn thằng đều bị theo dõi, hệt như tôi vậy, nhưng bị thêm nhiều cuộc gặp gỡ đả thông với công an, có khi kéo dài suốt đêm. Lại những trò tâm lí, chép từ truyện trinh thám. Có khi còn ghê hơn, vì bốn thằng phải đối diện, với những đại diện của chính nghĩa, và của chính sách. Bốn thằng bắt đầu trả lời, bằng những câu hớ hênh, rồi bắt đầu thú nhận, bằng những câu rụt rè. Khi anh Thái và bác Mẫn tuyên bố: nếu khai cáng sớm, càng chân thành, tội càng giảm, giảm mãi thành vô tội, bốn thằng tranh nhau khai tội và tố cáo lẫn nhau. Công an chỉ việc đến, bắt thằng cầm đầu, là thằng Hoóng, quan hai biệt kích không đi di tản, mà ở lại Hà Nội. Hôm ra tòa, đúng là mọi tội lỗi bây giờ thằng Hoóng phải chịu hết. Bốn thằng Lừa, Ngựa, Bú dù và Bò đều nhẹ tội thật, có thằng mặt mũi còn rất tươi tỉnh, đúng như cái tên của nó. Hôm ra tòa, hai mẹ con, hai người tình của thằng Hoóng, cũng dắt tay nhau, đứng chờ dưới phố. Cô con gái mắt đỏ hoe. Còn cô mẹ mặc áo cánh đen, mắt cũng bôi phẩm đen. Trông cứ như hai chị em. Tôi, từ vụ án này
hiểu thêm nhiều thứ, về tình bạn và quyền lợi, về cả tình iêu nữa. Cũng từ sau vụ án, tôi không đến nhà Tình Bốp. Tôi tránh đi qua chiếc cổng sắt sơn xanh, bên dãy số lẻ. Tôi sợ tình bạn. Vả lại, adiđàbụt, đã quyết định tu tại gia, chỗ nào con mắt khu phố đổ vào, kẻ tu hành không nên lai vãng. Tuy vậy, tôi cảm thấy thế này: từ chối một tình bạn, là tôi đểu.
VI
Thu 1955
Ngày số 2. Chớp mắt đã sang thu. Tình Bốp dẫn tôi đi bác sĩ, vào một ngày thu, khi tôi chưa ghi nhật kí. Đến nơi, hóa ra là một nữ bác sĩ, mới học ở Pháp về. Nữ bác sĩ rất thích xoa mà chược. Có lần xoa mà chược về khuya, bị cảnh sát bắn thủng xe. Hôm nào thua bạc, bệnh nhân kêu cha kêu mẹ, vì vừa bị làm đau, vừa phải trả tiền đắt như ở bên Pháp. Nữ bác sĩ hôm ấy trao tôi cho một nữ i tá. Cô i tá trẻ và xinh, cứ lóng ngóng và thẹn đỏ mặt, khi tôi cởi quần áo. Cả tôi, cả cô đều thẹn, cho nên mãi mà cô vẫn chưa hiểu, tôi đau ở đâu. Tôi xấu hổ, cứ che che, đậy đậy, bộ phận kín. Hồi lâu, nữ bác sĩ mới vào, thấy vậy thì mắng: “Vẽ”. Và nói thêm: “Tôi chưa chồng, nhưng không lạ gì những thứ dụng cụ này”. Dụng cụ, là để chỉ bộ phận giới tính của tôi, bị mắc bệnh, sau một lần đi vườn hoa. Là từ vựng, dịch từ tiếng Pháp sang. Là quan niệm triết học, mà nữ bác sĩ đem từ Pháp về. Nữ bác sĩ không đẹp, nhưng giọng tròn như đầm, cả người chỉ được cái giọng. Khi nói, đôi môi cũng uốn tròn. Tôi trả nhiều tiền, vài buổi thì khỏi bệnh. Tôi đem tí quà, đến cám ơn nữ bác sĩ, vào 9 giờ tối một mùa thu. Nữ bác sĩ bảo: “Để tôi xem lại cho”, rồi đưa tôi vào buồng ngủ, xem rất kĩ. Đêm thu ấy, tôi ngủ luôn tại đó. Sáng dậy, nữ bác sĩ bảo: “Thế là khỏi hoàn toàn rồi. Anh có thể về, không phải quay lại nữa”. Tôi về, nghĩ bụng Tình Bốp đúng là tay sành điệu, Hà Nội có cái gì hay nó biết cả.
Ngày số 3. Chớp mắt đã mấy mùa thu nữa. Mỗi mùa thu đều bắt đầu từ một sự cố. Mẹ tôi nói: “Thế mày nghĩ thế nào? Ông Phúc quen bố mày từ xưa. Con nghe mẹ: thời buổi khó khăn, tìm đâu được việc gì bằng. Người ta hẹn tối thứ bảy này phải trả lời”. Tôi nói: “Để con nghĩ đã”. Cốm đứng bên cạnh nói: “Anh bằng lòng đi. Lương anh tám vạn (80 đồng, tôi chú thích), với lương em năm vạn, nhà mình sống tươi”. Tôi nói: “Tươi. Rồi cô đẻ, phải nghỉ việc. Chỉ còn tám vạn lương tôi, để nuôi ba mống. Tươi nhỉ. Đi câu nhái còn kiếm nhiều hơn”. Mẹ tôi nói: “Chứ mày muốn bao nhiêu? Ông Phúc có hứa để mày vào làm, vài tháng xem sao. Nếu mày nhanh í, từ chân lái phụ, mà lên được chân lái chính, rồi cố thi lấy cái bằng lái, ông Phúc hứa sẽ trả ít nhất mười lăm vạn”. Tôi nói: “Pựt. Nghe lời hứa của họ!” Mẹ tôi nói: “Ông bà Phúc đứng đắn. Có phải mày đi làm công cho người ta đâu. Đấy là ông ấy giúp nhà mình”. Tôi nói: “Pựt. Thôi mẹ đừng nói. Mẹ hai thứ tóc trên đầu, vẫn không hiểu gì. Thiên hạ tính điều lợi, nếu không có lợi, người ta đừng hòng”. Mẹ tôi im. Cốm mặt đượm vẻ lo. Tôi đi đi lại lại, trong buồng. Tôi nghĩ, tám vạn hơi ít. Mười vạn cho cái chân phụ xe, thì nghe
được. Ông Phúc là chủ hãng xe Phi Mã, mẹ tôi nói. Nhưng tôi biết mấy chiếc xe quèn chạy Hà Nội–Nam Định của ông, thế mà cũng gọi là hãng. Bịp cả. Mẹ tôi và Cốm thì thụp với nhau, từ cả tháng nay, về việc này. Tôi chỉ mang máng vậy, nhưng không hỏi. Thực tình, có lúc cũng muốn việc làm, nhưng lúc này bụng tôi ngập ngừng, vì ngại đi làm bó buộc. Cho nên tôi nói: “Thôi, lương lậu thế, con đi câu thôi. Đi câu cũng là nghề”. Mẹ tôi nói: “Con lái được tàu bò, lái ôtô còn dễ hơn. Con chịu khó, thế nào cũng lên được chân lái chính, rồi thi thêm cái bằng lái, thế nào cũng chuyển được thành phần”. Tôi cáu. Tôi nói: “Mẹ nói gì? Chuyển thành phần gì?” Mẹ tôi nói: “Mẹ nói thế, thì làm sao, mà cáu?” Tôi nói: “Thành phần xấu. Là do mẹ. Tôi đâu có chạy lễ thằng Macxen, để được vào ngụy. Hồi ấy, tôi đào hầm trốn động viên, còn lâu nó mới bắt được tôi”. Mẹ tôi nói: “Ừ, thì tự mẹ. Nhưng bây giờ, sự thể đã rồi. Đừng gắt mẹ. Nếu con chê lương ít, thì mẹ bù vào chỗ thiếu cho con. Nay mai vợ con sinh nở, mẹ đã lo liệu xong cả rồi, có phải mình con lo đâu mà sợ”. Cốm nói: “Nhà mình hai vợ chồng khỏe mạnh, sinh một đứa con, đã đến nỗi gì, mà anh phải lo nhiều”. Nhưng còn ức câu chuyện thành phần. Tôi nói: “Thôi đi. Cái luận điệu chuyển thành phần, chính cô nhồi sọ cho bà cụ. Tôi còn lạ gì”. Cốm nói: “Mẹ nói thế, không đúng à, thì đã sao?” Tôi quát: “Sao cái gì?” Mẹ tôi cuống quít: “Ơ thằng này. Nó nói thế, mà mày sừng sộ”. Tôi quát to: “Phải. Tôi xấu. Thành phần ngụy binh hại nước. Mặc xác tôi”. Tôi nói với Cốm: “Cô tìm được chỗ nào thành phần tốt, cứ việc. Tôi kí giấy li dị ngay. Con sau này đẻ ra, tôi nuôi”. Nói rồi, đi ra cửa. Không thấy ai phản ứng, tôi càng cáu. Tôi nói: “Này, thằng Thái thành phần tốt đấy. Chưa vợ con gì cả. Người ta đồn ầm lên rồi đấy”. Cốm quắc mắt. Cốm nói: “Lại luận điệu thằng Tình Bốp!” Tôi nói: “Tình Bốp cái gì!”, và vung tay, tát trái Cốm, nghe đánh đốp một cái. Mẹ tôi tức thì tru tréo: “Ơ. Thằng vũ phu! Thằng đế quốc! Mày đánh ngay mẹ mày, có phải hơn không!” Tôi nói: “Cả mẹ nữa. Mẹ từ tôi đi. Thành phần đế quốc đây. Từ tôi đi”. Rồi đi thẳng. Tôi nhìn lướt qua, rất nhanh, thấy Cốm mím môi. Núm đồng tiền nổi, ở má bên phải, đo đỏ. Chỗ ấy lằn vết tát trái.
Ra ngoài, mới biết trời mưa. Qua cửa nhà Tình Bốp, tôi không vào. Tôi sợ tình bạn, vả lại, mọi cửa sổ nhà nó vẫn đóng kín, khách đàn ông qua phố, đã mất hẳn thói quen dừng lại trên vỉa hè, để chờ tiếng phụ nữ cười. Ra ngoài, mới biết phố sũng nước, vỉa hè cũng ướt sũng, mà trời vẫn nóng. Mưa rơi trên sọ để trần của tôi, mà vẫn thấy nóng. Đúng là chuyện bỗng dưng. Sọ mắng tôi. Tôi mắng lại sọ. Tôi mắng: “Câm!” Tôi chán ngấy cảnh sống này. Phố bày trước mắt tôi phong cảnh đầu thu, với xe cộ và bộ hành mưa bụi. Đèn điện loang loáng, trong mưa. Thế mà không biết đi đâu. Buổi tối mới chỉ bắt đầu. Tôi đến trước nhà thằng Đoành. Nghe tiếng nó hát rất to, nhưng
chả thấy ai dừng lại để nghe cả. Chỉ mỗi một tôi lưỡng lự, không biết đi đâu, làm gì. Tôi đứng trước nhà nó một lúc, nhận được bài nó đang hát, là một bài quan họ nổi tiếng. Nghe cũng hay, thế là tôi vào ngõ nhỏ. Đến sân trong, thấy cửa sổ buồng nó mở toang, thấy mưa bụi đầy ô cửa sổ, do sáng đèn. Nó hát: trèo lên quán dốc. Trong lúc tôi trèo, lên bậc cầu thang bằng gạch, may mà không gặp cô chị gái nó e lệ. Tôi cứ thế ẩy cửa vào. Thằng Đoành đang ôm ngực, đúng chỗ quả tim đập, để tập hát trước gương. Mồm ngoạch như mồm giải. Thấy tôi vào, nó vẫn hát. Ngồi xuống ghế. Tôi nói: “Sầu”. Thằng Đoành hát, vẫn theo điệu quan họ: “Thì rượu kia”. Tôi nói: “Thôôôi”. Thế là nó thôi hát, lấy ghế ngồi nhìn tôi. Nó hỏi: “Mày sao thế?” Tôi nói: “Sầu”. Nó nói: “Tưởng gì. Sầu là thường. Vui mới lạ” và ra tủ lấy chai rượu Rom. Thằng này xoay đâu ra, mà lắm rượu tây. Nó mời tôi tạc thù với tôm khô. Tôi nói: “Làm ăn thế nào?” Đoành nói: “Khu phố cho tao hát, ở rạp xinê. Cũng trung bình thôi. Mê nhất là con bán vé, mới toanh”. Tôi nói: “Còn tươi, giãy đành đạch”. Nó nói: “Sao biết?” Tôi nói: “Tao hoang tưởng hộ mày”. Nó nói: “Hé hé” và móc túi khoe tôi tấm ảnh một cô bé đờmico, tức là chụp đến rốn. Ảnh cỡ sáu chín, trông cũng khá. Cô bé này vẽ mắt đậm, tóc thì uốn cong, còn hai vú thì bicphê sừng bò. Lật mặt sau, thấy ghi mấy chữ: kỉ niệm anh Đoành iêu, kèm cái chữ kí như búi chỉ rối. Tôi trả nó cái ảnh. Tôi nói: “Tình nghi cái bicphê sừng bò. Không khéo bằng cao su”. Nó nói: “Tao xác minh rồi”. Tôi cạn cốc. Nó rót cho cốc nữa. Tôi nói: “Cuội. Ảnh này mày mua ngoài phố”. Nó nói: “Sao mày biết?” Tôi nói: “Tao thấy ảnh này bày bán mãi, ở cửa hàng phôtô”. Nó cười sằng sặc: “Hé hé. Thế là mày vui được một tẹo, rồi nhé”. Nó rót cốc thứ ba: “Đời. Đời phải giải sầu. Mọi người cứ nói tao cuội. Kì thực là tao giải sầu. Vì đời sầu lắm. Nếu không cuội, lấy gì để ngày giờ trôi đi. Thằng Cuội là thằng sướng nhất. Tao thi với thằng Cuội. Tao còn thắng nó một điểm. Nó chỉ cuội với mọi người, là cuội đối ngoại, thế là kém. Đối nội mới khó, đối nội là đánh lừa cái nội tâm sầu. Tao là thằng Cuội thời hiện đại. Lúc nào tao là thằng Cuội, lúc nào tao là tao, cũng chẳng biết. Như sáng hôm qua, lúc thức dậy muộn, mới nhớ là hôm nay em đến. Tao vội vàng dọn phòng, và treo mấy cái ảnh truồng thật ác, để em vào là biết liền, tao thích cái gì. Tao mặc quần lụa rất diện. Thế mà 8 giờ rồi, mà em không đến. Nhìn vào lịch, tao mới ngã ngửa, năm nay đã là năm 1955. Tao với em hẹn nhau 30 tháng 8 năm 1952 cơ. Thế mà quên mất, em này chắc phải khóc hết nước mắt”. Tôi nói: “Có xừn xựt không?” Nó nói: “Có chứ, thường xuyên”. Tôi nói: “Lí Hà à?” Nó nói: “Không, tên là Pat. Lần nào em Pat đến, đều có tiệc chay hoặc mặn. Thế rồi tối Nôen ấy, tao lại sửa soạn nào xăngwiss, nào gatô, nào súccùlà, nào gin, nào vang, và cônhăc, mà em không đến. Đêm Nôen ấy, tao phải đi tìm thằng Tình Bốp, để uống giải sầu, có cả mày thì phải”. Tôi nói: “Ừ, tao nhớ cái mặt mày thồn thộn, tưởng mày ngưỡng Chúa. Té ra là em Pat. Thằng này thế mà kín đáo”. Nó nói: “Em Pat
về sau chết. Trên bàn đẻ. Tao lại về khách sạn”. Tôi hỏi: “Khách sạn nào?” Nó không trả lời ngay, lát sau mới nói, giọng buồn lắm. Nó nói: “Dạo ấy không có tiền. Pat bị thổ huyết. Dạo ấy mày và Tình Bốp phải bán xe ôtô, được ba nghìn mác. Mày đưa tao cả ba nghìn. Dạo ấy tao đưa Pat lên núi Xanatôriom. Pat chết ở trên ấy. Tao lại quay về khách sạn”. Tôi nghe thấy là lạ, không hiểu khách sạn nào, và tại sao, lại tiêu tiền mác, là tiền Đức. Mãi sau tôi mới hiểu. Tôi mắng: “Bố mày! Em Pat của NHỮNG NGƯỜI BẠN, của Romac, có phải không?” Nó nói: “Ừ. Dạo ấy, đang đêm, em Pat từ tiểu thuyết bước ra, trần truồng. Em đứng mãi, trong buồng tao, trần truồng, đúng chỗ này”. Đột nhiên, nó đứng phắt dậy, chạy ra góc buồng. Tôi chưa hiểu ra sao, nó đã bưng về một cái bô, đặt giữa bàn. Nó mở nắp bô. Mùi khai sặc. Khắm quá. Nó nói: “Em Pat chết, tao khóc mãi. Đêm nào cũng khóc. Đầy một bô nước mắt”. Và ngay tức thì, nó khóc thật. Nó khóc tu tu, mặt ghé sát miệng bô. Nom nó đau thương tột cùng, nước mắt chảy ra, lã chã. Nó còn dùng tay gạt nước mắt vào bô. Tôi phải lôi nó ra, tranh lấy cái bô, đậy nắp lại, rồi mang vào chỗ cũ. Tôi nói: “Tối nay, tao ngủ ở đây”, rồi ra giường nằm.
Qua chiếc cửa sổ mở, tôi nghe thấy gió và lá, xào xạc, xào xạc. Là cái tiếng thu. Tôi muốn nằm, mà nghe mãi, nhưng thằng Đoành dựng tôi dậy. Nó kéo tôi ra bàn. Nó nói: “Khoan hãy ngủ. Bây giờ đứng đắn nhé. Đứng đắn cũng giải được sầu. Tao muốn biết, tối nay, tại sao mày sầu?” Tôi nói: “Mẹ tao xin cho tao, làm phụ lái ôtô, ở hãng Phi Mã. Nhưng mẹ tao lại nói, đi làm để chuyển thành phần. Thê là tao cáu”. Nó nói: “Có mỗi vậy thôi à?” Tôi nói: “Rồi cãi nhau với vợ. Tao tát vợ tao một cái. Mày mà làm tao cáu thêm, tao cũng sẽ tát mày, nhưng không chỉ một cái”. Nó nói: “Vậy, mày, như người ta nói, là thằng vũ phu. Nhưng vũ phu cũng là một cách giải sầu. Giải sầu có 36 cách. Mày phải chọn cách nào vô hại, không làm phiền mày”. Tôi nói: “Xin đủ”. Nó đứng dậy, đi lại trong buồng, vừa nói, vừa làm điệu bộ, i hệt một diễn viên hạng bét. Nó nói: “Đờời. Đời là gì, để người ta cứ phải giải sầu, cho đời. Nam nữ đi phố, chẳng hạn. Comlê, nịt vú, nước hoa, độn vú, để làm gì, nếu không phải để giải sầu, lẫn cho nhau. Lại thêm cái xinê, tranh ảnh, trinh thám, nhạc xình, cũng để giải sầu. Tao hát ở rạp xinê, là giải sầu hộ mấy cái lỗ tai của khách, trong lúc họ chờ màn ảnh, để giải sầu con mắt. Mày có thấy đời hiện đại, người ta chú í giải sầu cho nhau, có ghê không. Khách xinê, khoái mắt rồi, lại cần tao hát để khoái cái lỗ tai, và cắn hạt dưa để khoái cái lỗ mồm. Đời hiện đại là một khoa học giải sầu, tinh vi nhất. Tao làm nghề giải sầu thiên hạ, được tẹo tiền tao lại đi giải sầu cho tao, ngoài vườn hoa. Mày thấy có li kì không. Đa vấn đề lắm. Kết luận của tao, đời hiện đại là một sự thuê tiền lẫn nhau, người nọ phải giải sầu cho người kia.
Đời thế mà vui, chứ không phải sầu đâu. Người thì có kẻ sầu, vô số thằng sầu, con sầu. Nhưng đời khác. Đời là mọi người hợp nhau lại, để giải sầu và chống sầu”. Tôi nói: “Ừ, hồi trước tiếp quân, tao đã nghe mày triết lí giải sầu. Bây giờ, mày cũng vẫn nói thế. Lời có khác, nhưng í thì vẫn thế”. Nó nói: “Lời mà khác, thì í không thể vẫn thế. Í cũng phải khác”. Tôi nói: “Khác quái gì. Trước kia mày nói, cả thành phố đểu cáng dâm loạn, thuê mày hát để giải sầu, cho thành phố. Mày được tiền, lại dùng tiền, để bắt cả thành phố giải sầu lại cho mày”. Nó nói: “Đấy. Có khác đấy. Cái thần nó khác. Trước kia lời tao dùng nghe ác độc, là vì đời ác. Cũng cái luật ấy thôi, nhưng đời ác, làm cho luật đời ác theo. Chứ đời bao giờ chẳng là đời”. Tôi nói: “Mỗi đời mỗi khác. Mày đi họp khu phố luôn, nghe cán bộ nói, mà không thông à? Đời không phải để giải sầu. Đời ngày trước là ăn thịt nhau, cắn xé nhau, để tranh nhau miếng sống. Bây giờ, đời là sống, để lao động, và phục vụ”. Nó nói: “Và để giải sầu. Nhất định phải có mục ấy nữa. Trong cuộc sống, có sầu. Trong lao động, cũng có sầu của nó”. Tôi nói: “Có cả cứt nữa, chứ riêng gì sầu. Có ỉa, đái, đau ốm, đểu giả, đủ thứ. Không nêu hết được. Đã triết lí, là phải triết bỏ đi, tất cả bọn lặt vặt, râu ria vô ích. Phải chắt lấy cái í chính”. Tôi cãi hăng, tôi nhớ từ hồi đi học, tôi với nó cũng đã cãi hăng, nhiều vụ. Nhưng cãi nhau với nó, thú hơn ngồi với Tình Bốp. Vì thằng Đoành coi mọi chuyện đều tầm phào, còn với thằng Tình Bốp, chuyện gì cũng quan trọng. Tối nay cũng vậy, thằng Đoành nói: “Tao không triết lí. Triết lí làm quái gì. Đời chỉ có một mẩu, dù trăm niên vẫn ngắn. Tao đến với đời, không phải để bóp sọ, mà triết lí. Chẳng cần phải triết bỏ cái gì cả. Giản dị thấy sao tao nói vậy. Tao cù nhầy. Tao nói dối. Tao giải sầu. Tao sống. Cứ cho là tao triết lí râu ria, cũng được. Còn mày, mày lấy cái lí chính ở đời ra, cho tao xem nào. Để xem nó tròn méo thế nào”. Tôi nói: “Mày cơm no bò cỡi, hát xướng phởn phơ. Mày được công an, khu phố giúp đỡ tìm việc cho. Thì mày nghĩ là sầu. Còn tao trăm thứ lo, tao không có sầu, chỉ có lo không”. Nó nói: “Lâu lắm, ta không gặp nhau, nên không rõ bản đồ trong bụng mày”. Tôi nói: “Tao, việc làm không có, là một. Khu phố và công an nghi, là hai. Tao tự trừng phạt tao, là ba”. Nó nói: “Tự trừng phạt, là làm sao?” Tôi kể lại, cho nó nghe cuốn trinh thám Nga. Nó nói: “Thế là tự kỉ ám thị, là bệnh cuồng bách hại, bệnh nhìn đâu cũng thấy ma”. Rồi hỏi thêm: “Thế mày đã tìm ra kế gì chưa?” Tôi nói: “Tao đi tu. Tu tại gia, là thượng sách”. Tôi giải thích thêm cho nó, là tôi sẽ đi họp và tích cực tham gia lao động khu phố. Thằng Đoành không phản đối. Nó nói: “Ừ, phải tỏ vẻ tử tế, từ đầu đến chân. Tay chân mày khi đi lại, đừng có khuỳnh khuỳnh. Mắt mày nhìn, cái kiểu văng vào mặt người ta, là ngổ ngáo. Vai cứ nhún nhún, ông Trung trố ghét lắm. Ông ấy thành kiến với cái mặt mày. Đấy là tao góp í, về cái bản đồ bên ngoài của mày. Còn cái bản đồ bên trong, đừng có chơi ảnh nghệ thuật nữa. Ai lại cứ đè em Cốm ra, mà chụp nghệ thuật. Ở đây chả ai cần nghệ thuật của mày. À,
mày thôi rồi hả? Còn cái mục uống rượu, nói láo với Tình Bốp, mày nên tạnh ngay. Đi họp, phải ngồi chỗ sáng đèn, phải phát biểu một tị. Còn cái lối ngậm thuốc lá của mày, trông thì ngổ và đẹp, nhưng khu phố không ưa”. Tôi nói: “Tiên sư mày. Góp í thế, bố tao cũng xin vái. Còn sống thế nào được nữa”. Nó nói: “Ừ, cũng hơi nhiều thật. Nhưng người nói vô tội, người nghe lấy đó làm răn”. Tôi nói: “Vậy thì người nói, tha hồ ỉa bậy à?” Nó nói: “Mày lại phản ứng mạnh rồi. Mày cứ nghe cho hết. Mày có tài triết bỏ, thì mày lược bớt cái râu ria đi, chỉ lấy cái lí chính thôi. Có vậy mới chóng lên sư cụ”. Tôi nói: “Mày tự triết lọc lấy, vì mày là người nói. Nếu không, tao đấm cho một đấm”. Nó nói: “Sợợ chóa. Sợợ chóóa. Thôi bây giờ thế này. Bản đồ bên ngoài kệ mày. Còn bản đồ bên trong, tao góp í thế này. Một, nên chú í, trong sự be bét rượu chè với Tình Bốp. Vì Tình Bốp nó hay làm căng thẳng, mà tính mày lại dễ căng thẳng. Hai, nên tăng tin bớt ngờ. Mày có bảo, tao bị công an mua chuộc, cũng được. Mua chuộc tao, để làm gì. Hơn trăm thằng ngụy ở mạn này, bây giờ thằng xiclô, thằng thợ hàn thợ gò, thằng thợ giặt, thằng thợ hát như tao, thằng nấu phở như thằng Ngỡi, thằng công nhân nhà nước như thằng Chắt, thằng đánh máy, thằng cơ quan. Thằng nào muốn làm ăn tử tế, đều được cộng sản giúp đỡ. Vì cộng sản quí nhất lao động. Thằng nào phản động, như thằng Hoóng, mới bị trừng trị. Mày nên nghĩ giản dị như thế”.
Ngày số 4. Tôi dậy lúc 4 giờ sáng. Cửa sổ vẫn đầy mưa bụi. Đèn vẫn để suốt đêm. Cốc tách bừa bộn. Thằng Đoành ngủ lăn trên sàn, ngáy ầm ầm. Tôi dọn lại bàn ghế, chai cốc, rồi khênh thằng Đoành lên giường. Tôi rũ chăn, đắp cho nó. Nó mở mắt, trắng dã nhìn tôi, rồi lại nhắm mắt. Rớt dãi chảy quanh mép. Tôi tắt đèn, rồi lẳng lặng đi ra.
Ngoài phố mưa bụi. Tàu điện lanh canh, chuyến sớm nhất. Mặt trời còn chưa mọc. Phố còn tôi. Lác đác vài người, đi làm sớm. Trời se lạnh. Cuộc nói chuyện đêm qua làm tôi thấy khoan khoái. Thằng Đoành đúng là thằng vui nhộn. Tôi phục nhất, là nó đóng kịch, và nói dối giỏi. Nó dối trá, nhưng vô hại. Có nó, bản đồ đời cũng vui hơn. Tuy vậy, tôi hơi lạ, tại sao công an cho nó hát, ở rạp xinê. Ắt nó phải có công gì với công an chứ. Tôi nghĩ không ra, nên chẹẹc lưỡi kệ nó. Tôi nghĩ, nó không phải loại người hại bạn. Nó không ưa Tình Bốp. Nó biết cái gì đó, nhưng không nói ra. Tôi nghĩ vơ vẩn như thế, được một lúc, thì đến ngã tư mưa bụi. Tôi rẽ vào ngõ. Người đi làm, mỗi lúc một đông thêm. Họ đi, ngược về phía tôi. Phố xóm vẫn còn tối.
Tôi về nhà, thấy Cốm đi rồi. Nhưng không phải đi làm. Quần áo, Cốm mang đi. Gói tư trang, Cốm mang đi. Nhà lạnh, như nhà mồ. Lạnh tự dưng. Có lẽ, Cốm về Mọc, quê mẹ. Có lẽ, Cốm lên chỗ mẹ tôi. Sọ tôi cũng lạnh. Đồng hồ dạ quang trên tay, chỉ 4 giờ 30. Điện buồng tôi đèn bật, trắng nhợt. Còn chưa biết làm gì, thì có tiếng chân người, ngoài sân. Tôi chạy ra, gặp thằng Chắt. Nó dắt chiếc xe đạp, lọc cọc. Nó nói: “Tao phải đi làm ngay. Tao có việc, phải hỏi mày. Tao đi qua, thấy đèn sáng, nên tao vào. Tao sốt ruột lắm. Có phải mày nói, mày chơi trò kép, trò đúp không?” Tôi nói: “Có… Nhưng không hẳn thế. Tao nói lúc uống say với Tình Bốp… Cũng lâu rồi”. Chắt nói: “Mày bị vạ mồm. Không hiểu sao, chuyện đến tai ông Trung trố. 10 giờ đêm qua, tao biết tin này. Tao chạy sang mày ngay, mà cửa đóng, đèn tắt”. Tôi nói: “Ông Trung trố bảo thế nào?” Chắt nói: “Ông ấy nói, giữa cuộc họp khu phố, là lại có những hiện tượng và luận điệu phản động. Là bọn có tội, theo đế quốc rành rành, đã được chính phủ khoan hồng, lại còn phản tuyên truyền, rằng chính phủ chỉ khoan hồng cái lỗ miệng. Ông ấy nói, bọn này đang giở trò kép, trò đúp, với cộng sản. Bề ngoài chúng sẽ giả vờ, vâng vâng, sẽ giả vờ đi họp khu phố, đi lao động chủ nhật, nhưng bên trong chúng rình cơ hội, phá hoại. Tao lo cho mày lắm. Sao mày vạ mồm thế. Thôi tao đi ngay. Tối tao sang mày. Nhé”. Tôi nói: “Nhưng sao mày biết, là tao nói? Ông Trung trố có gọi đích danh tao không?” Nó nói: “Tao không đi họp. Vợ tao đi họp. Lúc tan, ông Trung trố gọi vợ tao ra bảo, về nhớ mà khuyên chồng, đừng có theo cái trò kép, của thằng Dưỡng tàu bò, mà đi tù sớm. Vợ tao về run rẩy, mặt tái mét. Thôi, tao đi ngay đây”. Nó đi, còn tôi một mình. Tôi ngồi trắng nhợt, tôi nhìn, xa xa cái bóng tôi trong gương, cũng trắng nhợt.
Tôi nằm, toàn thân trắng nhợt, trên chiếc chăn trắng. Những lỗ thủng bầu trời ngoài cửa sổ trắng, thêm cơn mưa trắng, không dứt từ chiều qua, bên trong tôi cũng trắng, vì tôi chẳng nghĩ được cái gì, chẳng muốn làm gì. 7 giờ sáng, thằng Ngỡi thò mũi vào nhà, hít hít. Sọ tôi gọi tôi: “Này”. Tôi liền ngồi dậy: thằng Ngỡi bỏ mặc nồi phở đang đông khách, để đến tìm tôi vào giờ này, là không bình thường. Tôi gọi: “Ngỡi. Vào đây”. Ngỡi nói: “Đàn anh định sai phái gì đàn em?” Tôi rút ra năm vạn. Tôi nói: “Đi mua tí gì về. Hai thằng cùng đớp”. Ngỡi nói: “Có ai nữa không? Đàn em mua vịt nhé”. Tôi nói: “Không. Vịt làm lâu bỏ mẹ. Mua tí cẩu. Mua cái gì về ăn ngay được. Rượu có sẵn rồi. Có tao với mày, hai thằng đớp-kép, với nhau thôi”. Tôi cố tình dùng chữ đớp-kép. Ngỡi chớp chớp mắt. Hai mắt, như hai cái mụn. Chắc là nó chột dạ, tôi đoán vậy. Nó cầm tiền, rồi ba chân bốn cẳng, đi luôn. Trông nó lèm nhèm, như con chuột già. Cả ba thằng Đoành, Chắt và Tình Bốp, đều đồng í gọi nó, là thằng-lèo-liếm. Nó vừa lèo nhèo, lèo lá, vừa lộn
lèo, vừa la liếm. Danh từ đầu tiên, là do Tình Bốp đặt. Thằng Đoành nói lái lại, thành thằng-liềm-léo. Về sau, cả phố gọi nó hoặc thằng-liềm, hoặc thằng lèo, cho lịch sự. Trong nhóm năm người, nó nhiều tuổi nhất, cho nên toàn xưng ông, với bốn chúng tôi. Nhưng từ một tháng trước tiếp quản, nó bắt đầu xưng em, với toàn bộ thành phố, trừ với vợ và con. Làm anh một thằng già hơn 12 tuổi, tôi cũng thích như vậy.
Thế là, hai thằng một mâm, thuần chó. Theo lệ thường, tôi gói riêng, cho nó môt gói, để nó lát nữa đem về. Tôi còn sẻ một cút rượu quê, cũng để nó đem về. Tôi còn cho thêm, một ống bơ lạc sống, để nó rang cho lũ con ở nhà. Thằng Ngỡi sung sướng, luôn mồm xuýt xoa, khen tôi phúc đức. Tôi rót rượu và gắp cho nó, những miếng béo nhất. Nó nói: “Đàn anh muốn hỏi đàn em, chuyện gì vậy?” Tôi nói: “Chẳng muốn gì cả. Có gì hay hay, thì kể nhau nghe thôi”. Nó cười hé hé. Tôi rót chầu rượu thứ hai. Trước khi nó đi chợ về, tôi đã đóng cửa sổ lại, bật điện giữa ban ngày, để tăng phần ấm cúng. Nhất là vào buổi sáng mưa thu, se lạnh như thế này. Không gian kín, nhuộm vàng trong ánh đèn, quả có làm cho rượu ngon hơn thật. Thằng Ngỡi nói: “Rắc rối lắm đàn anh ạ. Em vốn tính nhút nhát, sợ hãi. Là vì cái phận em hèn. Là vì em là thằng lính đám ma. Không sắm đâu được cái tính ngang tàng, như đàn anh. Các anh khinh em là thằng-liềm-léo, em cũng nhận, là em kém tư cách thật. Nhưng tư cách là cái gì. Em năm nay 35 tuổi, ăn cơm nhà thiên hạ, đã thanh sạn trong bụng, sống đã lâu, mà chưa cần dùng đến món tư cách bao giờ. Ví dụ: anh cho em chén, thì em chén. Chứ tư cách gì, ở cái chỗ này. Anh cho em gói mang về, thì em mang về. Em cứ hồn nhiên thế thôi. Hồn nhiên lợi nhuận hơn tư cách, thì tư cách để làm gì. Phải không anh?” Nó lại cười hé hé. Tôi nói: “Chẳng qua, tại các bà mụ, khi nặn ra cậu, quên nặn cái tư cách”. Nó mủm mỉm cười, làm hai con mắt nhỏ lại, như hai cái mụn chảy mủ. Nó nói: “Hoan nghênh các bà mụ. Giá các bà có nặn, em cũng bán quách đi từ lâu rồi. Thôi để em kể, đầu đuôi thế này. Thoạt đầu, bác Mẫn giúp em ra phở gánh, để em nuôi các cháu. Bác Mẫn khuyên em làm ăn tử tế, và, thực thà hối cải. Em mới hỏi, thế nào là thực thà hối cải. Bác Mẫn nói, là làm ăn tử tế. Em lại hỏi, thế nào là làm ăn tử tế. Bác Mẫn nói, là chấp hành chính sách, của chính phủ. Bác Mẫn cũng nói, là còn có thể làm được nhiều việc, tích cực hơn nữa. Em cứ suy nghĩ mãi, không hiểu việc tích cực, là việc gì. Hàng phở của em tương đối đắt khách. Em cũng chăm đi họp khu phố, và dịu dàng, khiêm tốn, với cả xóm. Riêng với con vợ em, khi nào cần đánh nó, em đóng chặt cửa, nhét giẻ vào mồm. Cho nên cả xóm, chả ai biết”. Tôi nói: “Có gì mà không hiểu, việc tích cực. Là đi dò la, nghe chuyện, rồi về báo cáo công an, chứ gì”. Nó nói: “Anh đoán đúng đấy. Em sau đó cũng hiểu ra. Ấy
là khu phố tin cậy em, nhưng không nói thẳng, chỉ gợi í để em tự hiểu. Từ đấy, em để í mọi chuyện xung quanh. Khách vào ăn phở, em mà để con dao ngang thớt, là vợ em biết í, đi báo ngay bảo vệ. Em mà liếc lưỡi dao trôn bát, vợ con em phải đi theo kẻ tình nghi. Vì có khi bảo vệ chưa đến, kẻ tình nghi đã bỏ đi. Em đã phát hiện được vài đám. Bác Mẫn khen ngầm em vài lần rồi. Khi nào nhà bác có giỗ tết, đều gọi em, đến làm giúp. Tha hồ ăn uống no say, lại được gói đem về. Thích lắm. Cho đến một hôm, đàn em báo cáo với bác Mẫn, về tất cả các đàn anh, không trừ một ai”. Tôi nói: “Tự cậu, hay bác Mẫn gợi í?” Nó nói: Tự nguyện, mới hay chứ. Tự nguyện nói ra, mới có giá trị. Là em muốn lập công thôi, chứ không muốn hại gì các anh cả. Anh cũng bảo, tại các bà mụ quên nặn cho em cái liêm sỉ. Cho nên em vô liêm sỉ”. Nó cười hé hé. Tôi cũng cười khè, vì tôi biết có mắng nó, cũng bằng không. Có chửi nó, nó vẫn ăn uống, hồn nhiên. Tôi đợi nó nói tiếp. Nó nói: “Khu phố không cho em đánh chén, như bọn đàn anh, nhưng không cho, mà lại là cho. Hàng phở của em, dọn ở chỗ ấy đắc địa, nhiều người muốn lắm. Khu phố không cho, thì cả nhà em tám nhân khẩu, đi ăn mày cả lũ. Em nhớ cái ơn ấy. Em cũng nhớ, cái ơn đàn anh cho em đánh chén. Nhưng mà em vẫn hãi khu phố nhất. Hãi anh Tình Bốp là thứ hai, đàn anh là thứ ba. Hai anh Chắt và Đoành là thứ bét”. Tôi nói: “Cứ i như trong thánh kinh vậy”. Nó nói: “Vâng. Cho nên khi báo cáo, em đảo ngược lung tung cả. Em không ác í gì đâu, chỉ là cái tính em, nó hồn nhiên như thế. Cho nên em đổi trắng thay đen. Đàn anh Chắt, em không hãi nó, em báo cáo về nó xấu nhất. Em báo cáo, là anh Chắt dao động tư tưởng, muốn bỏ việc ra ngoài làm. Vả lại anh Chắt em biết, nhiều lần mua vịt về, đánh chén một mình, không mời ai cả. Anh Tình Bốp thì được em báo cáo tốt nhất. Anh Bốp tính tình lịch sự, lại thông minh, tuy có liên quan đến Macxen và Lily, nhưng vẫn thành thật quay về với tổ quốc”. Không thấy nó nói về tôi. Tôi phải mở tủ, lấy gói trà Đồng Hương. Nó nhìn theo tôi, không bỏ sót một động tác nào. Tôi nói: “Chắc cậu không có trà ngon. Đem về mà dùng”. Nó nói: “Phúc đức quá”. Rồi nó kể, một mạch. Nó kể: “Em báo cáo về đàn anh hôm ấy, không được hay lắm. Thực tình, em rất quí đàn anh. Nhưng tại cái mồm em nó thế, em muốn một đằng, nó lại nói một nẻo. Em báo cáo, là đàn anh ngổ ngáo, bên ngoài tỉnh khô nhưng bên trong dâm ô, không ai bì kịp. Đàn anh mê gái, hơn mê tổ quốc. Em cũng báo cáo, là con Lily gài anh ở lại, để làm cho nó”. Tôi cáu quá. Tôi gắt: “Sao cậu khốn nạn thế?” Nó nói: “Khoan. Đàn anh phải bình tĩnh, tin tưởng, tin tưởng là chính phủ sáng suốt. Chính phủ nhất cử, nhất động, đều phải cân nhắc, kĩ càng. Em có báo cáo láo, chính phủ cũng sửa lại, cho đúng. Bác Mẫn cũng bảo, là có nhiều chỗ em nói, bị ngược nhau, nên bác phải kiểm tra lại. Bác Mẫn bảo, có lời nói nên ân nên phúc, có lời nói tan cửa nát nhà, có lời nói cứu người, có lời nói lại hại người. Lúc nghe bác nói, quả là em cũng xấu hổ, một chút”. Tôi nói: “Cậu mà còn biết xấu hổ, hay nhỉ”. Nó
nói: “Lần đầu đấy. Em bị kém ăn, kém ngủ, mất mấy hôm. Em sau đó tự nhủ, từ nay chỉ nói sự thật. Các anh mà biết, em báo cáo láo, em mất hết tình bạn, mất cả chỗ đi lại, đánh chén. Nói vậy thôi, em cũng biết là có lúc, các đàn anh lại cần đến em đấy, vì việc này việc nọ, ai mà lường trước được. Em là con chuột nhắt, xoàng xĩnh vậy thôi, nhưng con chuột nhắt, cứ nhí nha nhí nhách, có ngày lại cắn đứt lưới, cứu con hùm thoát lưới. Đời người, ai nắm tay đến sáng, mà nói trước được. Thời thế cả thôi. Kiếm ăn khổ lắm. Có lần cuối tỉnh gọi em, đến làm cơm. Trời mưa ngập khắp nơi, em không có áo mưa, nên chỉ mặc độc chiếc quần đùi, mà lội trong nước, từ đầu tỉnh, đến cuối tỉnh. Đến nơi, mặt mày trắng nhợt, như người chết trôi. Nhà chủ khen em, biết giữ chữ tín. Nhưng đâu phải vì chữ tín, vì miếng ăn cả thôi. Sáu đứa con, vợ iếu là bảy, em nữa là tám cái mồm, mà chỉ có em là trụ cột. Cho nên em phải bồi dưỡng sức khỏe, không ăn được vẫn phải nhắm mắt, mà nuốt. Nghĩ đến con trẻ, mà em rớt nước mắt: cá chuối đắm đuối vì con”. Nói xong, nó sụt sịt khóc. Không hiểu khóc, cho sự hi sinh to lớn của nó, hay vì uống nhiều, mà say. I như trong thánh kinh: căn buồng trở nên trắng nhợt. Tôi để mặc thằng Ngỡi ngồi khóc, tôi ra mở cửa sổ. Bụi mưa rắc vào trong buồng, cùng khí lạnh, của sáng mùa thu. Tôi tắt đèn, cho khỏi phí điện. Tôi nghĩ một lúc, xem có còn gì cho thằng Ngỡi không. Tôi tìm được trong tủ một gói đường, còn kha khá, tôi đưa cả cho nó. Tôi nói: “Đem về cho bọn trẻ”. Nó nói: “Hôm nay, anh phúc đức quá”.
Tôi hỏi: “Gặp Tình Bốp lần cuối, là bao giờ?” Nó nói: “Gặp thường xuyên. Chiều qua anh Bốp cho em một bữa cháo ám, giữa nồi cháo, là con cá quả hai cân, ngon không tả được. Em, để chiều lòng anh Bốp, bèn nghĩ ra trò nói xấu các anh, chứ em chẳng ác í gì”.
Tôi hỏi: “Tình Bốp nói gì?” Nó nói: “Anh Bốp kêu buồn, vì không thấy anh đến uống rượu. Em bảo dạo nay, đàn anh có vẻ sợ, nên nằm nhà với vợ, ít giao du. Anh Bốp cười khẩy. Anh Bốp nói, đàn anh nóng tính lắm, muốn góp í cũng khó”.
Tôi hỏi: “Tình Bốp kể gì nữa?” Nó không trả lời. Tôi hỏi: “Tình Bốp có nói gì, về trò kép, trò đúp không?” Nó trả lời: “Không”. Tôi hỏi: “Vậy thì ai nói, mà cậu biết?” Nó trả lời: “Biết gì?” Rồi nói thêm: “Vậy là đàn anh đã nói thế, thật à? Cái trò kép, trò đúp ấy? Em có nghe ông Trung trố, trong cuộc họp. Thế thôi. Em không biết gì cả”. Rồi nó hỏi, thêm lần nữa: “Vậy đúng là đàn anh đã nói thế, thật à? Đàn anh nói đi”. Tôi hỏi: “Nói gì?” Nó trả lời: “Đàn anh nói, là đàn anh sẽ chơi, trò kép, trò đúp, với công an. Đàn anh sẽ
chăm chỉ, đi họp khu phố, sẽ tích cực, tham gia lao động chủ nhật. Nhưng bên trong, đàn anh sẽ chờ thời cơ, đánh lại. Có đúng là kế, của đàn anh không?”
Tôi im. Lúc ấy, chắc tôi nhìn trắng nhợt. Mãi sau, tôi mới nói, được vài câu. Tôi nói: “Đớp nốt đi. Không thì gói đem về. Đêm qua, tranh luận với thằng Đoành, giờ nghe chuyện mày, càng mệt. Tao đi ngủ đây”. Nó nói: “Đàn anh cứ việc đi ngủ. Mâm bát để em dọn dẹp, chu tất. Nhưng mà em còn bán tín, bán nghi. Bởi vì, lời ông Trung trố, cứ làm sao ấy. Em có nhận xét, với ông Trung trố như vậy, sau cuộc họp. Ông ấy phê luôn em ngây thơ về chính trị. Sao đàn anh không nói gì? Nói đi, để em gặp bác Mẫn, em thanh minh cho”. Tôi nói: “Lâu rồi. Tao có nói, lâu rồi. Sau hôm Lily đi, tao có uống say, với Tình Bốp. Tao say lắm, tao có nói thế thật. Nhưng tinh thần thì khác. Có vậy thôi”. Tôi không biết kể, thế nào hơn, vì rất khó. Nó nói: “Thôi, đàn anh đi ngủ. Để em nói nốt cái này. Đàn anh cứ iên trí. Em có suy xét của em. Bây giờ em đớp nốt, rồi rửa bát đĩa, dọn dẹp, chu tất nhà cửa. Rồi em về. Em sẽ khép cửa ngõ cẩn thận. Nội nhật hôm nay, em sẽ đi gặp bác Mẫn, để báo cáo tỉ mỉ. Rồi em sẽ sang anh Tình Bốp, làm bữa chén nữa, cho xong một ngày. Có gì, anh em mình lại gặp nhau… như sáng nay, đàn anh nhé”. Tôi nói: “Không thành vấn đề”, tôi rũ chiếc chăn đơn, trùm kín đầu. Tôi chưa tìm được sự thật.
Loáng thoáng có tiếng gọi, ngoài cổng. Tôi choàng dậy. Còn váng vất mùi tửu hậu, mùi nhà vắng, mùi mưa bụi, mùi câu chuyện khó chịu, mùi em Cốm bỏ nhà. Là năm mùi, làm thum thủm, cả buổi sáng. Tôi còn đang bàng hoàng, thì con bé nhà ông Trung trố, tên là Cậy, thò đầu qua cửa sổ, phía sân gạch. Tôi nói: “Vào đây. Có việc gì vậy?” Con Cậy không vào, mà đưa qua cửa sổ, một mẩu giấy. Nó nói: “Thầy em bảo anh, lên ngay trụ sở, có việc”. Tôi chưa kịp đọc mẩu giấy, con bé đã ù té chạy mất. Chắc bố nó đã tuyên truyền xấu về tôi, cho nên nó sợ, nó chạy. Mẩu giấy bằng bàn tay, một nửa chữ in to, một nửa là chữ kí, của ông Trung trố. Mẩu giấy nói: NHẬN ĐƯỢC GIẤY NÀY, NGUYỄN DƯỠNG TỨC DƯỠNG TÀU BÒ KHÔNG TRÙNG TRÌNH KHÔNG LÍ DO GÌ CÓ GIÁ TRỊ, CẤP TỐC LÊN NGAY TRỤ SỞ CHẬM NHẤT 15 PHÚT SAU KHI NHẬN ĐƯỢC GIẤY, NẾU KHÔNG MỌI HẬU QUẢ KHÔNG LƯỜNG TRƯỚC ĐƯỢC, SẼ PHẢI CHỊU, TRỊNH QUỐC TRUNG. Tôi vội mặc quần áo. Tôi chọn chiếc sơmi, không chim cò. Tôi đi giày da mùa đông. Xong, tôi khóa cửa, vào lúc 10 giờ 5 phút. Ra ngoài sân, tôi thấy mưa bụi. Ra cổng, tôi thấy mưa bụi. Ra đến ngõ, tôi thấy mưa bụi. Mưa bụi cũng đủ, làm ướt tóc và làm nước chảy nhiều
dòng trên mặt. Tôi đi qua bến xe điện, thấy mưa bụi. Tôi nghĩ mà không biết cái gì đang chờ tôi, trên trụ sở. Tôi đi trong phố, thấy mưa bụi. Tôi nghĩ, mà không nghĩ cái gì. Tôi ngang qua phố, thấy mưa bụi. Tôi nhìn hai dãy phố, thấy hai dãy phố mưa bụi và cột đèn tiếp nối cột đèn. Tôi đi trong lòng phố. Trong lòng phố có mưa bụi. Trụ sở đã lù lù trước mặt.
Phố không có trụ sở. Chỉ là ngôi chùa cũ, trở thành nơi họp khu phố. Từ hồi tiếp quản, chùa mang tên mới, là trụ sở. Tôi đến trụ sở, lúc 10 giờ 17 phút. Mặt trước trụ sở cửa đóng, có hai ông hộ pháp đứng, trợn mắt nhìn tôi, lưng dính vào tường. Tôi đi vòng ra sau trụ sở, gặp một bác, đang quét thềm. Bác thấy tôi, thì nháy mắt, tỏ vẻ rất thông cảm. Hóa ra tôi có quen bác, từ lâu rồi. Thực ra, cả khu phố, ai cũng biết bác, cũng từ lâu rồi. Tôi nhớ tên bác, là Khấu đen, năm nay 60 tuổi, nhưng có lẽ hơn, có lẽ kém. Bác có tài dắt trâu, mà không gây một tiếng động nhỏ, ngay cả trong buổi đêm im lặng. Tôi nhớ dạo ấy, nhiều nhà buổi sáng dậy, thấy trâu đi mất, chỉ còn lại một con đường êm ái, được trải đầy rơm, từ chuồng trâu ra tận cổng. Thảo nào trâu bỏ nhà đi, mà không một tiếng động. Sau đó, trâu đi vào lò mổ Batoa, biến thành đủ các món thịt lậu. Có trời mà tìm được thủ phạm. Nhưng những người khôn ngoan, cứ tìm bác Khấu đen, nói khéo với bác, biếu bác tiền, để nhờ bác đi chuộc hộ, thế nào trâu cũng sẽ quay về, nguyên vẹn. Bác tìm trâu rất giỏi, bao giờ cũng tìm được, và các cuộc chuộc tiền bao giờ cũng sòng phẳng và kín đáo. Bác được uy tín lắm, cho nên chẳng ai đi báo công an, vì biết rằng nếu đi báo, trâu sẽ vĩnh viễn không về nhà nữa. Mỗi ngày lò Batoa thịt vài trăm con, một vài con trâu lậu có lẫn vào, cũng chẳng ai phân biệt được. Sau đó, nhà ai bị mất trộm gì, mâm thau, nồi đồng, tư trang, đều đến nhờ bác đi chuộc hộ. Bác khét tiếng nhân đức, i như trong thánh kinh. Từ ngày tiếp quản, chùa bị bỏ không, bác xin khu phố, cho làm chân quét chùa, sau này đổi thành chân quét trụ sở. Bác nói: “Chế độ trước bảo, có tay ăn, tay chơi. Chế độ này bảo, tay lam, tay làm. Nghĩa là, cả hai tay đều làm. Hai tay không làm, thì hàm không nhai. Thế thôi, chứ không phải vì tôi già. Tôi chuyển mình, cho hợp thời”. Buổi sáng nay, lúc tôi vào trụ sở, từ cổng sau, bác đang quét thềm. Bác nháy mắt với tôi. Tôi nháy mắt lại với bác, để nói: tôi với bác cùng cánh nhau, tôi đang bị đây, còn bác vẫn an toàn, nguyên vẹn. Tuy nhiên, tôi chưa ăn cắp bao giờ. Ăn cướp thì có, vì tôi là lính tàu bò. Cả tôi cả bác, đều có quá khứ, bất hảo. Từ trong trụ sở, ông Trung trố nhìn tôi. Cặp mắt ốc nhồi tóe lửa. Tôi vào.