🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Lối Đi Dưới Hàng Cây Tăm Tối
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách: Những lối đi dưới hàng cây tăm tối
Tác giả: Ivan Bunin
Người Dịch: Hà Ngọc
Thể loại: Văn học nước ngoài
Nhà xuất bản Văn học - Nhã Nam © 2005
The Happiness Project #12-F
TVE-4U Read Freely - Think Freedom
Thực hiện: Rafa, thichankem, Mystery2110, Deathshine, Lichan, Ban Tàng Du Tử, langtu, Cải, 4DHN, Teacher.anh, Hanhdb
Hoàn thành: 10/2015
https://thuviensach.vn
DỰ ÁN HẠNH PHÚC
The Happiness Project #12-F
Ai đó từng nói rằng hạnh phúc luôn ở phía trước và thật khó nắm trong tay, ta chỉ có thể hướng tới mà thôi? Phải chăng nó ở ngay trong tâm nếu ta biết nhận ra? Có phải chỉ những ai đã từng trải qua thất bại, khổ đau mới thấu hiểu trân giá trị của hai tiếng mong manh này? Hạnh phúc đôi khi không chỉ là nụ cười mà còn là giọt nước mắt chia sẻ trên vai ai đó - đôi khi không nằm ở đích đến mà ngay chính trên từng bước chân. Hay hớp pi vì nụ hôn phớt nhẹ qua má?
Hạnh Nghĩa
https://thuviensach.vn
Nỗi buồn mang tên nước Nga
Lần đầu đọc tập truyện này là cách đây vài ba năm, ấn tượng còn sót lại hình như mình đã để lỡ nó. Cảm giác buồn bã, cô đơn trống trải và hơi có phần u ám của một số truyện ngắn khiến tôi phải bỏ cuộc, dở dang những trang sách không bao giờ đọc hết. Tôi đã chẳng dám ngó ngàng gì đến, nỗi ám ảnh - những u buồn như ập tới ngay trước mắt.
Vào lúc tưởng chừng đã hoàn toàn lãng quên, để tập truyện phải phủ bụi thời gian ở góc sâu khuất trong tủ sách thì rồi một cơ duyên, lại vô tình gặp lại thế giới của Ivan Bunin. Lần này, bị chính cái bìa cuốn sách ảm đạm thu hút, một chiếc khung ảnh theo kiểu cổ, ẩn hiện vài bóng người, ánh đèn leo lét thấp thoáng khuất sau những hàng dương khô gầy, hối thúc tôi lật mở, đọc lại tập truyện theo cách chậm rãi, lần dò từng chữ, gặm nhấm từng chút… từng chút một.
Lần này kỳ lạ thay, những câu truyện lại mang tới cho tôi một cảm giác khác hẳn, vẫn những hàng cây ẩn hiện đâu đó trong mỗi câu truyện song chúng không còn hoàn toàn tăm tối mù mịt nữa. Từng câu chữ dài cuốn tôi đi, vẽ lên trước mắt khung cảnh những làng quê nước Nga tuyệt đẹp, những bức tranh phong cảnh nên thơ, những con người Nga dân dã như đang đi đứng, nói cười rổn rang.
Tôi ngơ ngẩn, ngây ngất giữa một khu vườn đầy những cây táo trĩu quả, được mùa, vây quanh là âm vang tiếng của những chiếc xe ngựa, tiếng người nói, tiếng táo đổ rào rào vào các thùng gỗ. Tất cả những huyên náo ấy lại không hề gây ồn ã mà như những thanh âm vọng lại từ nơi nào xa xa, được ngăn cách bởi lớp không khí trong trẻo của tiết trời mùa thu tươi mát. Tôi thấy mình đang nghểnh cổ giữa hai hàng cây phong, ngắm nhìn cả một khu vườn lớn được phủ một màu vàng óng, vài chiếc lá phong vàng như luyến tiếc bám chặt không nỡ lìa cành, và hít lấy hít để mùi hương nhẹ nhàng của lá rụng hòa quyện với mùi thơm lừng của táo Antonov chín cây
https://thuviensach.vn
và mùi ngọt ngào của mật ong phảng phất... “Táo Antonov mẩy, cả năm thảy đều vui”.
Từ khu vườn táo, lạc bước sang một điền trang vào những ngày cuối tháng chín, lại thấy mình đứng trong căn phòng lớn đầy nắng, ngập tràn khói thuốc phả ra từ những chiếc tẩu của những người đàn ông đang hưng phấn bàn tán trước chuyến đi săn. Ngoài sân là những tiếng rú - rít của đàn chó săn háo hức. Rồi tiếng súng nổ vang giòn của vị chủ nhà, khiến tôi giật mình, tiếng súng báo hiệu:
“Đã tới lúc thắng yên cương con tuấn mã,
Và chiếc tù và tốt giọng, ta hãy khoác lên vai!”
Ngỡ như đang tham gia vào cuộc đi săn, trên lưng ngựa phóng như bay đuổi theo đoàn người ngựa và chó săn ấy. Những âm thanh huyên náo, tiếng chó sủa, tiếng ngựa hí, những tiếng gào vang vọng khắp khu rừng: “Vây lâ – â - ấy nó!”…
Những thanh âm vang lên khuấy động núi rừng ấy như văng vẳng vang vọng quanh ta cảm giác xao xuyến luyến lưu.
Nhưng nước Nga đâu chỉ có những mùa táo bội thu, những chuyến đi săn đầy sôi động náo nức. Nước Nga còn có nỗi khắc khoải đợi chờ của ông lão Averki - đợi chờ ngóng trông cái chết tới trong truyện Cỏ gày với vẻ bình thản, chấp nhận nó như đó là chuyện hiển nhiên: “Cỏ gày thì bay khỏi bãi” - chiếc lá rồi cũng đến lúc phải lìa cành, điều khiến tôi nhớ nhất trong truyện này là ký ức đẹp đẽ đọng lại trong tâm trí ông cụ trước lúc lìa đời: cô con gái và bà lão - người vợ già nua với làn da nhăn nheo song vẫn luôn xinh đẹp trong mắt ông, hình ảnh này phải chăng chính là thông điệp: dù bạn có đi đâu và đi bao xa, thì gia đình vẫn mãi luôn là mái hiên chở che, nơi hàn gắn những đau thương vất vả, chốn bình yên cho bạn quay về.
Đọc Canh khuya tâm trí tôi như trôi dạt về những ngày cũ, với nỗi nhớ, niềm đau về một người từng là tất cả những niềm vui, hạnh phúc một thời trẻ dại - giờ đã đi xa. Tôi cảm nhận được nỗi lòng ông lão vô danh lần dò từng bước trên con phố nhỏ, tìm về khu vườn xưa, khu chợ trong đêm khuya thanh vắng chỉ bởi một lẽ: sợ - ông sợ mình không còn kịp để nói lời chia tay với người con gái hằng yêu dấu giờ đã nằm sâu dưới lòng đất lạnh.
https://thuviensach.vn
Qua ngòi bút của Ivan Bunin, những lời yêu lửng lơ nhẹ bẫng, những gặp gỡ hẹn hò đắm say, con người Nga từ địa chủ quý tộc cho tới tầng lớp bần cố nông đều được khắc họa rõ nét. Mỗi truyện trong Những lối đi dưới hàng cây tăm tối đều mang lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc, dòng xúc cảm liên tục biến đổi từ hào hứng, vui vẻ tới đau nhói buốt tim. Từ chơi vơi ám ảnh tới bay bổng nhẹ nhàng, để rồi khi trang sách cuối cùng khép lại, hình như vẫn còn thoáng nhẹ tiếc nuối ngẩn ngơ! Sau tận cùng nỗi buồn rốt cuộc chúng ta vẫn sẽ…bước đi.
Teacher.anh (Rùa) - Happiness Project
https://thuviensach.vn
Lời nói đầu
Tên tuổi của Ivan Bunin - nhà văn Nga đầu tiên được trao giải Nobel Văn học - từ lâu đã trở nên rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông khá độc đáo, nếu không nói là kỳ dị. Ivan Alecxeevits Bunin sinh ngày 10 tháng 10 năm 1870 tại Voronezh, trong một gia đình thuộc số những dòng quý tộc lâu đời nhất ở nước Nga, nhưng đã suy tàn. Ông chỉ học xong có bốn lớp trường trung học huyện Elex tỉnh Orlov, rồi ở sâu nơi làng quê, "trong bầu tĩnh mịch cực kỳ sâu lắng ruộng đồng" của huyện Elex cho tới năm mười chín tuổi. Chính thời gian này đã tạo nền móng cho sự nghiệp văn chương của ông, mà theo một nhà bình luận văn học Nga, "trên những vùng bán thảo nguyên bao la, giữa vùng đất đen cực kỳ màu mỡ và giữa những căn nhà gỗ nghèo nàn của nông dân, tâm hồn chàng thiếu niên đã cảm thụ vẻ đẹp và nỗi buồn của nước Nga, cảm thụ những bí ẩn bi thảm của lịch sử Nga và tính cách dân tộc Nga" (1). Ông đã bắt đầu viết văn, làm thơ trên cơ sở những cảm thụ ấy. Năm 1900, truyện ngắn Những quả táo Antonov cùng với một số truyện ngắn và các bài thơ khác đã khiến ông nổi tiếng. Đọc văn ông, trước khi qua đời ít lâu A. Tsekhov đã qua một người bạn nhắn với Bunin rằng ông "sẽ trở thành một nhà văn lớn". Sang những năm đầu thế kỷ XX, hai truyện vừa Nông thôn (1909-1910) và Xukhodol (1911) đã đưa Bunin lên bậc những nhà văn hàng đầu lúc bấy giờ. Thế rồi hàng loạt truyện ngắn, truyện vừa và thơ của ông nối đuôi ra đời, trong đó nổi bật là Cuộc đời tươi đẹp (1911), Một gia đình nông dân tươi vui (1911), Zakhar Vorobiov (1912), Cỏ gày (1913), Anh em (1914), Quý ông từ San Francisco đến (1914), Những giấc mơ của Tsang (1916)... Nhưng, sau năm 1917, cũng giống như một số nhà văn và nghệ sĩ lớn khác A.N. Tolstoy, A.I. Kuprin, l.X. Smelev, X.V. Rachmaninoff..., ông đã lưu vong ra nước ngoài, chủ yếu sống ở vùng Provence phía nam nước Pháp. Mặc dù vậy, bằng vốn sống được tích lũy một cách kỳ diệu, bằng những kỷ niệm cực kỳ sâu sắc và trí nhớ tuyệt vời, với lòng yêu nước nồng
https://thuviensach.vn
nàn và tâm tình cố quốc tha hương da diết, trong suốt ba mươi ba năm ở nước ngoài, ông vẫn tiếp tục viết nên những tuyệt tác, trong đó có cuốn tiểu thuyết duy nhất Cuộc đời Akxeniev (1927 -1929 -1933) - được coi như phản ánh thời niên thiếu của ông tại khu điền trang đổ nát Kamenka ở làng Oderki huyện Elex, và được ví như Bản giao hưởng số 3 thiên tài của Rachmaninoff trong văn học - và chủ yếu là các truyện ngắn và truyện vừa đặc sắc như: Mối tình của Mitin (1924), Say nắng (1925)... cùng một chuỗi truyện ngắn trong tập Những lối đi dưới hàng cây tăm tối (1938 - 1945) v.v.. Năm 1933 ông được tặng giải thường Nobel Văn học "vì nghệ thuật nghiêm ngặt mà với nó nhà văn đã phát triển nền văn xuôi cổ điển Nga". Trong suốt thời gian Thế chiến II sống tại Provence, ông đã đứng vững trước mọi thủ đoạn hăm dọa, mua chuộc của bè lũ phát xít, cực lực lên án những tội ác của bọn chúng, hàng ngày theo dõi tình hình chiến sự ở tổ quốc mình, tin tưởng ở sức mạnh vô biên của nhân dân Nga... Sau chiến tranh, nhiều lần ông đã có ý định về thăm quê hương, đất nước, nhưng tuổi quá già đã không cho phép ông thực hiện nguyện vọng đó, và năm 1953 ông qua đời ở Paris, được an táng tại nghĩa trang Nga ở Sainte-Genevieve des-Bois gần đó. Người ta luôn nhớ tới lời ông nói trước khi chết: "Làm sao chúng ta có thể quên tổ quốc? Con người có thể quên tổ quốc được không? Tổ quốc ở trong tâm hồn mình. Tôi là một con người rất Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi được...".
Di sản văn học do I.A. Bunin để lại không phải đồ sộ cho lắm, Nhà xuất bản Văn học nghệ thuật Maxcơva xuất bản toàn tập tác phẩm gồm 9 tập của ông vào các năm 1965, 1966, 1967, trong đó chỉ có một tiểu thuyết, còn chủ yếu là truyện ngắn, truyện vừa và thơ. Nhưng rõ ràng "Văn hay chẳng lọ là dài", di sản văn học này là "cả một chương của sự phát triển văn học Nga trong thế kỷ chúng ta" (2), các tác phẩm của nghệ sĩ Bunin thường ngắn và tuyệt vời, độc đáo cả về nội dung và hình thức thể hiện.
Những truyện ngắn và truyện vừa, - bộ phận cốt lõi trong di sản văn học của ông, - mới đọc tưởng chừng như đơn giản về cốt truyện, nhưng thực ra lại cực kỳ sâu sắc, chúng bao la cả về thời gian lẫn không gian, bao gồm cả
https://thuviensach.vn
một thế giới đủ loại nhân vật, có khi chỉ trong một truyện vừa mà có tới hơn một trăm nhân vật (Nông thôn), động chạm tới hàng loạt lĩnh vực trong đời sống con người (sinh hoạt và lịch sử, triết học và chính trị, kinh tế và đạo đức, tôn giáo và văn hóa, cuộc sống và tâm lý, gia đình và cách làm ăn, giáo dục và pháp luật), lại được thể hiện một cách rất hấp dẫn với đủ loại màu sắc, âm thanh, hương vị, vừa chân thực cao độ, vừa thơ mộng, cảm động, lại vừa sâu lắng với tinh thần phân tích, suy tư, vừa bi thảm, quyết liệt, lại vừa đầy lạc quan yêu đời. Người ta cho rằng sau Tsekhov, Bunin đã đem lại sự đổi mới cho thể loại truyện ngắn Nga, mỗi truyện ngắn của ông vừa là một áng văn xuôi lại vừa là một bài thơ, ông đã viết chúng với trí tuệ và trái tim của một nhà tư tưởng, một nhà triết học và một nhà thơ, và do đó, "đọc tác phẩm của Bunin không những phải đọc chăm chú, mà còn phải có văn hóa rộng, phải tập trung cả trí tuệ và tâm hồn, phải có khả năng suy nghĩ về nước Nga, về quá khứ, hiện tại và tương lai của nó, về mối liên quan của cuộc sống hàng ngày, của cuộc sống "riêng" với những sự kiện xã hội - lịch sử có quy mô" (3).
Bunin nói: "Đất nước và con người bao giờ cũng khiến tôi rung động". Ngay từ khi bắt đầu cầm bút, ông đã luôn day dứt về ý nghĩa của sinh tồn, của cuộc sống khổ sở, rối rắm và thường là vô ích của con người Nga, trước hết là những người nông dân, những nhà qúy tộc nông thôn nghèo và giới tri thức tự do. Ông cho rằng qua người nông dân, ông đã phát hiện được tâm hồn Nga. Trong các nhà qúy tộc, đặc biệt là đông đảo các qúy tộc nghèo, ít ruộng đất, ông cũng tìm ra tính cách Nga, và ông cho rằng Turgheniev, L. Tolstoy mới chỉ miêu tả tầng lớp trên của giới quý tộc Nga mà thôi. Nhưng bất kỳ loại nhân vật nào cũng được Bunin đặt trong những khung cảnh thiên nhiên, đời sống xã hội, lịch sử cụ thể, sinh động, sâu xa và đa dạng của họ, và thật ra qua họ, ông đã đi sâu nghiên cứu cuộc sống hàng ngày, nếp sống Nga và những "nền tảng của tâm hồn", nghiên cứu tâm lý, tâm tình và những động cơ kín đáo trong xử sự của con người, thái độ của họ đối với thế giới bên ngoài và đối với bản thân... Chính vì vậy, cũng hệt như những thiên tài văn học khác, tuy không trực tiếp thể hiện chính trị - xã
https://thuviensach.vn
hội, nhưng bằng sức cảm thụ và phản ánh thực tại siêu việt của mình, Bunin vô hình chung đã phản ánh chân thực xu thế khách quan của xã hội và lịch sử, phơi bày những mối mâu thuẫn và sự bế tắc của xã hội đương thời, thấy trước được cái tai họa và sự sụp đổ của nó, và dẫn tới những kết luận mà chính ông cũng không ngờ tới. Đấy chính là ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn của các tác phẩm Bunin. Chính vì vậy mà L. Tolstoy cũng đã phải thốt lên: "(Bunin) viết hay đến nỗi cả Turgheniev cũng không viết được như thế chứ đừng nói gì tôi". Còn M. Gorki luôn có quan hệ khăng khít qua thư từ với Bunin, thì nhận xét rằng: "Về nông thôn (Nga), chưa có ai viết sâu sắc được đến thế, có tính chất lịch sử đến thế", và cho rằng Bunin là "bậc thầy hàng đầu trong văn học Nga hiện đại".
HÀ NGỌC
"Tập truyện có được chiều sâu xúc cảm của Tsekhov, sự sắc sảo đầy sáng tạo của Raymond Carver hay John Cheever - điều khiến chúng trở thành những truyện tiên phong của thời đại mình: Bunin luôn luôn xứng đáng được khám phá lại... Như Say nắng chẳng hạn, truyện đã giũ bỏ sự phòng vệ của các nhân vật một cách vừa tao nhã, vừa chính xác: chàng trung úy trải qua một cuộc tình ngắn ngủi với người thiếu phụ mà chàng gặp trên tàu. Đoạn cuối cuộc hẹn hò, nàng gọi tên si mê của họ là cơn say nắng, rồi ra đi... bỏ lại chàng với trái tim tan nát và tâm hồn trống rỗng... Cốt truyện của Bunin nhiều khi không đặc sắc lắm, nhưng sức mạnh và sinh khí của chúng không bao giờ không làm ta ngạc nhiên..." Publisher Weekly
https://thuviensach.vn
Những quả táo Antonov(4)
I
...Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố tình rơi xuống cho dân cày cấy, rơi xuống đúng lúc, vào giữa tháng, khi sắp sửa có ngày lễ thánh Lavrenti (5). Mà “vào dịp lễ thánh Lavrenti nếu con nước êm và mưa nhỏ, thì mùa thu và mùa đông sẽ tốt trời”. Thế rồi dạo đầu thu lại có những ngày sáng sủa và ấm áp, có nhiều mạng nhện chăng trên cánh đồng. Đó cũng là điều lành: “Những ngày sáng sủa ấm áp đầu thu nếu nhiều nhện chăng tơ, thì mùa thu sẽ đẹp”... Tôi nhớ lại một buổi sớm sủa, tươi mát, yên tĩnh... Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi hệt như hoàn toàn không có nó nữa, khắp khu vườn âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt. Ấy là những nhà tiểu thương, những thị dân trồng vườn đã thuê được những người nông dân trẩy táo xuống để đến đêm đưa về tỉnh, - và nhất định là phải đi vào ban đêm kia, bởi vì lúc bấy giờ, nằm trên xe, nhìn lên bầu trời đầy sao, nghe phảng phất mùi nhựa chưng trong không khí tươi mát và nghe cả một đoàn xe dài thận trọng kẽo kẹt trên con đường lớn trập trùng, thì thật tuyệt vời. Bác nông dân được giao việc đổ táo, cứ cắn rau ráu hết quả này đến quả khác, nhưng tục lệ xưa nay vẫn vậy, nên người thị dân chẳng hề ngăn lại, mà còn bảo:
- Đổ xuống, ăn cho no đi, không có việc gì làm nữa đâu! Đổ xong, mọi người sẽ uống mật ong.
Và bầu tĩnh mịch mát mẻ của ban mai chỉ bị náo động bởi tiếng hót no mồi của đàn sáo đậu trên cây thanh lương trà màu san hô trong khoảng rậm của khu vườn, bởi tiếng người nói và tiếng táo đổ rào rào vào những thưng,
https://thuviensach.vn
những thùng gỗ. Trong khu vườn thưa lá, có thể nhìn thấy con đường trải ra xa dẫn tới một mái nhà tranh rộng rãi, và nhìn thấy được cả ngôi nhà ấy, mà quanh đó trong vụ hè qua các thị dân đã gây nên cả một cơ ngơi. Đâu đâu cũng thơm phức mùi táo, ở đây lại càng như vậy. Trong căn nhà tranh có bố trí nhiều chỗ nằm, có một khẩu súng một nòng, một chiếc xamovar đã mốc xanh, còn bát đĩa đặt ở góc nhà. Bên cạnh nhà lăn lóc những chiếc chiếu gai, những hòm gỗ, những đồ đạc linh tinh đã cũ nát, và có một chỗ để đun bếp. Ở đây buổi trưa người ta nấu món cháo mỡ cực ngon, buổi chiều thì đun xamovar và một làn khói xanh lơ thường trải thành một vệt dài giữa những hàng cây trong toàn bộ khu vườn. Còn vào những ngày lễ tết thì bên cạnh mái nhà tranh này là cả một phiên hội chợ, và đằng sau những đám cây cối chốc chốc lại thấy thấp thoáng cả những trang phục màu đỏ. Những cô gái thuộc các hộ tiểu nông vẻ hoạt bát, mặc những tấm xiêm cụt tay nức mùi thuốc nhuộm đã tụ tập lại. Đã có mặt cả những người “quý tộc” trong các bộ quần áo tuy đẹp mà thô lậu và mông muội của họ, có mặt cả một bà lý trưởng trẻ măng, đang có chửa, mặt phèn phẹt, bơ phờ và bộ điệu quan trọng như một con bò cái vùng đồi núi. Đầu bà ta cũng có “sừng” - những búi tóc kết ở hai bên đỉnh đầu, bên trên lại trùm thêm mấy lớp khăn, thành thử đầu bà ta trông to tướng; đôi chân đi ủng ngắn có đóng cá sắt, đứng trên mặt đất có vẻ thộn nhưng vững chãi; chiếc áo gilê của bà ta bằng vải mịn, có vạt che dài, còn chiếc váy bằng len tự dệt thì màu hoa cà sẫm có sọc màu gạch, gấu váy đính một “vành đăng ten” rộng thêu kim tuyến...
- Một con bươm bướm (6) đảm đang! - người thị dân lắc đầu, bình phẩm về bà ta. - Bây giờ lại sinh ra những hạng người như thế đấy... Trong khi đó những thằng bé con mặc những chiếc áo sơ mi kiểu cách và những chiếc quần ngắn cũn cỡn, đầu để trần, trắng hếu, xuất hiện mỗi lúc một nhiều. Chúng đi từng nhóm hai, ba đứa một, những bàn chân không giày dép bước lon xon, và đứa nào cũng đến sờ vào con chó becgiê lông xù buộc vào một cây táo. Dĩ nhiên là chỉ có một đứa mua hàng thôi, bởi việc mua bán của chúng chỉ vẻn vẹn là một kôpêch hoặc là một quả trứng, nhưng những người mua bán khác thì lại nhiều, việc buôn bán diễn ra nhộn
https://thuviensach.vn
nhịp, khiến cho một thị dân dáng như mắc bệnh ho lao, mặc chiếc áo kín cổ dài lụng thụng, đi đôi ủng hung hung đỏ, đã lộ vẻ vui mừng. Cùng thằng em trai, - một đứa dở ngu dở đần, nói ngọng nhưng lanh lẹn, mà ông ta nuôi “vì
lòng nhân từ", - ông ta buôn bán với những lời đùa cợt, bông lơn, thậm chí đôi lúc còn “rờ tới” cả chiếc đàn gió sản xuất ở Tula (7). Và người ta họp chợ trong khu vườn ấy cho tới tận chiều tối, bên ngôi nhà tranh vang lên tiếng cười, nói, thỉnh thoảng lại có cả tiếng nhảy múa rậm rịch...
Về đêm tiết trời rất lạnh và sương xuống nhiều. Sau khi đã tha hồ hít thở mùi lúa thơm ngát toả ra từ những đống rơm mới và những đống thóc lép trên sân phơi, ta sẽ sảng khoái đi bên cạnh bờ đất chung quanh vườn để về nhà ăn bữa tối. Vào lúc hoàng hôn giá buốt, tiếng người nói trong thôn xóm hay tiếng cửa cọt kẹt nghe sao rõ lạ thường. Trời tối dần. Và lại có hương vị mới xuất hiện: trong vườn có đống lửa nhen lên, thế là mùi khói thơm nức của những cành anh đào toả ra nồng nặc. Trong bóng tối ở cuối khu vườn là một cảnh huyền diệu: giống như dưới âm ti địa ngục, bên cạnh ngôi nhà tranh bừng bừng một ngọn lửa đỏ ối giữa tăm tối trập trùng, và có những hình dạng đen thui của ai đó, hệt như được tạc ra từ một loại gỗ đen kịt, đang xoay vòng quanh đống lửa, còn những bóng khổng lồ của họ thì lại lấp loáng trên những cây táo. Trên toàn bộ một cây táo, lúc thì hiện ra một cánh tay đen to tới vài arsin (8), lúc thì lại nổi rõ lên đôi chân như hai chiếc cột nhà đen ngòm...
Rồi bỗng nhiên tất cả biến mất khỏi cây táo và một bóng đen trải dài trên suốt lối đi, từ ngôi nhà tranh ra mãi đến tận cổng...
Đêm khuya, khi thôn xóm đã tắt hết đèn lửa, khi trên trời cao đã long lanh bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng Tinh sáng như những viên kim cương, ta lại chạy ra vườn chơi. Giẫm trên lớp lá khô sột soạt, ta lần mò tới tận túp nhà tranh như một anh mù. Ở đó là khoảng rừng thưa nên trời có sáng lên đôi chút và trên đầu ta trắng xoá dải Ngân Hà.
- Cậu đấy ư, cậu? - có ai đó từ trong bóng tối khẽ gọi ra.
- Tôi đây. Thế bác vẫn chưa ngủ à, bác Nikolai?
https://thuviensach.vn
- Lão không sao ngủ được. Chắc là khuya lắm rồi đấy nhỉ? Kìa, hình như chuyến tàu khách đã đến...
Chúng tôi lắng nghe hồi lâu và đã nhận ra mặt đất đang rung chuyển lên nhè nhẹ. Sự rung chuyển dần thành tiếng động, lớn dần lên và rồi nhịp bánh xe quay ầm ầm đổ đến mỗi lúc một nhanh, nghe như ngay sau vườn, đoàn tàu phóng đến rầm rầm, xình xịch... mỗi lúc một gần, gần hơn và mỗi lúc một ồn ã, giận dữ hơn... Rồi tất cả bỗng lắng dần, im bặt đi, hệt như chui tọt cả xuống đất..
- Thế khẩu súng của bác đâu rồi, bác Nikolai?
- Ở ngay cạnh hòm gỗ kia ạ.
Tôi bèn giương khẩu súng một nòng nặng như chiếc xà beng, chĩa lên trời, bắn ngay một phát. Cùng với tiếng nổ đinh tai, một ngọn lửa đỏ ối phụt lên trời, làm lóa mắt ta trong giây lát và xóa nhoà những ngôi sao, còn dư âm hùng dũng của nó thì vang rền vòng quanh ta, lan theo đường chân trời, rồi lắng dần ở xa xa trong bầu không khí trong sạch và thính nhạy.
- Ái chà, cừ đấy! - người thị dân sẽ nói. - Cứ bắn đi: cứ bắn đi, cậu ạ, kẻo không thì tai họa đấy chứ chả chơi đâu! Toàn bộ cây lê trên bờ đất đã lại bị chúng nó rung lấy hết quả rồi...
Trong khi đó, những vì sao đổi ngôi rạch bầu trời đen bằng những vệt lửa. Và ta nhìn mãi vào cái khoảng sâu xanh thẳm của bầu trời đầy những chòm sao, kỳ cho tới khi chóng mặt mới thôi. Lúc bấy giờ ta mới thấy rùng mình, đút vội tay vào những ống tay áo, chạy nhanh theo con đường giữa những hàng cây mà trở về nhà... Sao lạnh và nhiều sương đêm đến thế, và sống ở trên đời sung sướng biết bao!...
II
“Táo Antonov mẩy, cả năm thảy đều vui”. Nếu táo Antonov sai quả thì công việc nông thôn sẽ tốt vì có nghĩa là lúa cũng sẽ được mùa... Tôi hồi tưởng lại một năm được mùa ấy.
Vào lúc mới tinh mơ, khi gà còn đang gáy và những ngôi nhà gỗ còn đang toả khói mờ đen, ta sẽ mở toang cửa sẽ trông ra một khu vườn mát mẻ
https://thuviensach.vn
đầy sương mù tím nhạt mà đây đó ánh nắng ban mai rọi qua màn sương đã ánh lên rạng rỡ, - và không cầm được lòng nữa, ta sẽ ra lệnh mau chóng thắng yên cương cho ngựa, còn bản thân thì chạy ra ao để rửa ráy. Đám lá nhỏ lăn tăn trên những cây liễu bên bờ ao đã hầu hết bay đi, chỉ còn lại những cành trơ trụi trên bầu trời xanh ngắt. Làn nước dưới rặng liễu trở nên trong vắt, lạnh như băng và dường như nằng nặng. Vẻ lười nhác của ban đêm đã bị làn nước ấy xua tan trong nháy mắt, và sau khi rửa ráy xong lại đã hòa mình với những người làm trong căn nhà dành riêng cho họ, cùng họ ăn sáng với những củ khoai tây nóng bỏng, với bánh mỳ đen rắc những hạt muối to mà ướt, ta sẽ cưỡi ngựa đến vùng Vưxenki (9) để săn bắn, khoái trá cảm thấy da yên ngựa trơn tru dưới chỗ mình ngồi. Mùa thu là mùa của những ngày hội lớn của các thánh, nên lúc bấy giờ nhân dân thường ăn mặc tề chỉnh và hài lòng, quang cảnh làng quê hoàn toàn không giống như những thời buổi khác. Nếu như năm ấy mà lại được mùa và trong các sân kho đều ngồn ngộn những đống ươm vàng, còn ở ngoài sông sáng sáng lại có tiếng ngỗng quang quác kêu vang, thì tình hình nông thôn lúc ấy lại là rất khả quan. Hơn thế nữa, vùng quê Vưxenki nơi chúng tôi từ xửa từ xưa, từ thời ông bà ông vải đã từng nổi tiếng là vùng “trù phú”. Các cụ ông cụ bà ở Vưxenki đều rất cao tuổi thọ, - đây là dấu hiệu trước hết của một vùng quê giàu có, - ai nấy đều cao, to và đầu bạc trắng như tuyết. Đến đây ta sẽ thường chỉ nghe thấy: “Phải, - bà Agaphia kia kìa, bà ấy đã ngoại tám mươi ba rồi đấy!”, - hoặc là những câu chuyện đại loại như sau:
- Thế bao giờ thì lão mới chết cho đây, lão Pankrat? Có dễ lão đến trăm tuổi rồi chắc?
- Dạ thưa ngài dạy gì ạ, thưa ngài?
- Ta hỏi lão bao nhiêu tuổi rồi?
- Bẩm ngài, con cũng chẳng biết đâu ạ.
- Thế lão có nhớ Platon Apollonưts không?
- Có chứ ạ, thưa ngài, con nhớ rõ chứ ạ.
- Ờ, có thế chứ. Nghĩa là lão không dưới trăm tuổi đâu.
https://thuviensach.vn
Ông già đang đứng dướn thẳng người trước mặt nhà quý tộc, mỉm cười hiền lành và ra vẻ có lỗi. Làm thế nào được nhỉ, hoá ra ông già có lỗi vì là đã sống quá lâu. Và chắc chắn cụ sẽ còn sống lâu hơn nữa nếu không ních đầy hành tây vào bụng trong tuần chay trước ngày lễ thánh Piotr (10).
Tôi còn nhớ được cả bà lão của ông già ấy nữa. Thường là bà lão vẫn ngồi trên một chiếc ghế dài nhỏ ngoài bậc thềm, lưng cúi gập, đầu lắc lư, thở chẳng ra hơi, hai tay bíu chặt lấy ghế, - và bà lão luôn nghĩ ngợi một điều gì đó. “Chắc lại nghĩ đến của nả của mình đấy thôi”, - các bà các cô bảo vậy bởi vì trong các hòm rương, “của nả” của bà lão quả là có nhiều thật. Thế nhưng bà lão tưởng như chẳng nghe thấy gì, vẫn hơi nhướng đôi
mày lên một cách buồn bã mà nhìn vào đâu xa xa như kiểu người thong manh, lắc lư mái đầu và hệt như đang cố nhớ lại một điều gì. Đó là một bà lão to lớn, toàn thân tăm tối thế nào ấy. Chiếc váy len tự dệt của bà lão hầu như là từ thế kỷ trước, đôi giày bện bằng dây thì như đôi giày của người chết, cổ bà lão vàng khè và khô khẳng, chiếc áo sơ mi có băng chéo bằng vải kẻ sọc lúc nào cũng trắng tỉnh trắng tinh, - “hệt như để bỏ vào săng vậy”. Thế còn ở bên cạnh bậc thềm thì có một phiến đá to tướng, phiến đá mà bà lão đã tự mua để xây mồ cho mình, cũng như là đã mua cả khăn liệm nữa, một chiếc khăn liệm tuyệt đẹp có các vị thiên thần, có các thánh giá và cả một bài kinh cầu nguyện in ở các mép khăn.
Nhà cửa của các hộ gia đình ở Vưxenki cũng hệt như các cụ già ấy vậy, tất cả đều bằng gạch, và đều được xây từ đời ông bà ông vải. Còn nhà gỗ của các nông dân giàu có, như của bác Xaveli, bác Ignat, bác Dron, thì đều là hai, ba gian, bởi lẽ ở Vưxenki lúc bấy giờ còn chưa có luật lệ chia nhà chia cửa. Ở những gia đình như vậy người ta nuôi ong, người ta tự hào về con ngựa đực kéo khỏe, màu sắt xám, và người ta cai quản khu đất vườn có nền nếp. Trong các sân phơi đều đen ngòm những đống gai dầu rậm rạp và mập mạp, có cả nhà hong lúa và lán chứa lúa lợp hai mái; trong các kho chứa cỏ và kho thóc nhỏ đều có cửa sắt để chứa giữ vải gai, xa quay sợi, những chiếc áo lông cộc mới, các yên cương còn đủ bộ, các loại thưng đấu đóng đai đồng. Trên các cánh cổng và trên các xe trượt tuyết đều đóng dấu
https://thuviensach.vn
thánh giá bằng sắt nung. Và tôi còn nhớ rằng hồi ấy đôi khi mình tưởng chừng làm người nông dân là một điều hấp dẫn hiếm có. Mỗi khi cưỡi ngựa đi trong vùng nông thôn vào buổi sáng chói chang ánh nắng, ta luôn nghĩ rằng nếu được gặt lúa, đập lúa, nếu được ngủ trên những đống rơm ngoài sân phơi, còn như vào ngày lễ nếu được dậy sớm cùng với mặt trời trong hồi chuông khai lễ rộn rã và du dương từ trong làng vọng đến, nếu được rửa mặt ngay bên cạnh thùng nước, mặc chiếc áo sơ mi kiểu cách và sạch sẽ, bận bộ quần áo hệt như người nông dân và cũng được đi đôi ủng đóng cá sắt kiên cố như vậy, thì sẽ thú vị biết bao. Tôi còn nghĩ, nếu thêm vào đó, còn có một cô vợ khỏe mạnh và đẹp đẽ, ăn vận xiêm áo ngày hội, và lại có một chuyến đi dự ngày lễ trọng đại, sau đó đến ăn trưa ở nhà ông bố vợ có râu dài, một bữa ăn có thịt cừu nóng sốt để trong cái đĩa gỗ, có cả bánh mì bằng tinh bột, có cả mật ong tầng và bia nhà làm, - như thế thì không thể còn mong muốn gì hơn được nữa! Ví dụ như: đó là trường hợp khu điền trang của dì Anna Gheraximovna ở cách Vưxenki khoảng mười hai verxta (11) chẳng hạn. Có lần khi ta tới được điền trang đó thì trời đã sáng bạch. Tuy đi ngựa, nhưng phải dùng dây để giong đàn chó săn thì cũng chỉ đi thủng thẳng được thôi, vả chăng ta cũng chẳng muốn vội vã làm gì, - đi giữa cánh đồng trong một ngày nắng và mát mẻ thì vui vẻ biết bao! Vùng đất bằng phẳng, có thể nhìn thấy rất xa. Bầu trời nhẹ nhõm, và sao nó bao la, sâu thẳm đến thế. Mặt trời long lanh chiếu xiên khoai, và, sau những trận mưa, con đường rị xuống do có nhiều xe đi lại, trơn như đổ mỡ và láng bóng lên như những đường ray. Tứ phía trải ra rộng rãi những vạt lúa thu non xanh thắm, tươi mát. Một chú diều hâu từ đâu đó vút lên bầu không trong vắt rồi lặng đi, cứ đứng yên một chỗ mà vỗ đôi cánh nhỏ nhọn hoắt. Còn những cột dây thép (12) mà ta trông rõ nét thì chạy tít về một phương xa quang đãng, với những đường dây giống như những sợi dây đàn bằng bạc lơ lửng treo ngang lưng chừng trời quang đãng. Những con chim cắt nâu đậu trên những đường dây đôi y hệt như những nốt nhạc đen trên một trang chép nhạc.
https://thuviensach.vn
Tôi không biết và chưa được thấy chế độ nông nô, nhưng tôi nhớ được rằng tôi đã cảm biết được chế độ đó khi tôi đến chỗ dì Anna Gheraximovna. Cứ bước chân vào trang trại này là ta lập tức cảm thấy ngay rằng chế độ đó còn đang sống nguyên vẹn. Khu điền trang không lớn, nhưng thảy đều cũ kỹ, vững vàng, chung quanh bao bọc bởi những cây bạch dương và miên liễu cổ thụ. Những công trình xây dựng trong trang trại rất nhiều, không đồ sộ, nhưng rất tiện lợi cho việc nhà, và hệt như tất cả đều được gắn bó với nhau bằng những thân gỗ sồi sẫm màu dưới những mái rơm. Nổi bật lên do to tát, hay nói đúng hơn do chiều dài của nó, chỉ là căn nhà đen nhẻm của những người đầy tớ, mà từ trong đó người ta thấy ngó ra những đại diện cuối cùng của đẳng cấp tôi đòi, - những ông bà già lụ khụ nào đó, một cụ đầu bếp đã về hưu già lọm khọm, trông giống như Don Kihote. Khi ta cưỡi ngựa vào đến nơi thì tất cả các cụ ấy đều kéo nhau ra, cúi rạp cả người xuống mà chào. Một cụ xà ích đầu bạc từ trong lán xe ngựa chạy ra để giữ ngựa cho ta, ngay từ lúc bước ra khỏi lán cụ đã ngả mũ và cứ để đầu trần như thế mà đi ngang qua toàn bộ khu sân nhà. Trước đây cụ làm xà ích cưỡi ngựa để giong xe (13) cho bà dì tôi, còn bây giờ thì cụ chở xe cho bà đi dự các buổi lễ trọng, -mùa đông bằng xe thổ mộ, mùa hè thì bằng một chiếc xe ngựa không mui vững chãi, bịt sắt, đại để giống như những chiếc xe mà các cha cố thường đi. Khu vườn của dì tôi nổi tiếng là rậm rạp, có nhiều chim hoạ mi, chim gáy và nhiều táo, còn ngôi nhà của dì thì nổi tiếng vì cái mái nhà. Ngôi nhà ấy ở ngay đầu sân, sát cạnh vườn, được ôm ấp bởi những cành gia. Nhà không đồ sộ mà lại thấp lè tè, nhưng ta có cảm tưởng là nó không thể dưới trăm tuổi được, bởi lẽ ta thấy nó đàng hoàng ngó ra từ phía dưới một mái rơm cao và dày dặn khác thường, một mái rơm đã đen nhẻm và cứng chắc lại với thời gian. Tôi có cảm giác là mặt trước của ngôi nhà này bao giờ cũng rất sống động, hệt như một bộ mặt già nua dưới một chiếc mũ kếch xù đang nhìn ra bằng những con mắt hõm sâu, - những khung cửa sổ với những ô kính đã ánh lên màu xà cừ do dầm mưa dãi nắng. Còn ở hai bên những con mắt đó là những bậc thềm, - hai bậc thềm cũ kỹ, rất to, có nhiều cột. Trên mi cao của những mái thềm này bao giờ cũng đậu đầy
https://thuviensach.vn
những con bồ câu được ăn no, trong khi đó hàng ngàn con chim sẻ bay rào rào như mưa từ mái nhà này sang mái nhà khác... Và khách sẽ cảm thấy ấm cúng xiết bao trong cái tổ ấm dưới bầu trời thu xanh ngắt ấy!
Bước chân vào nhà, trước hết là nghe có mùi táo, rồi sau đó mới đến các mùi vị khác: mùi đồ đạc cũ bằng gỗ đỏ, mùi hoa gia khô mà người ta thường phơi ở cửa sổ từ tháng sáu trở đi... Tất cả các buồng phòng - buồng người hầu, phòng lớn, phòng khách, - thảy đều lạnh lẽo và tối tăm; đó là do nhà có vườn bao bọc chung quanh, mà các ô kính phía trên của các cửa sổ lại đều là kính màu, màu xanh sẫm và màu hoa cà. Trong nhà đâu đấy đều yên tĩnh và sạch sẽ, mặc dù những chiếc ghế bành, những chiếc bàn khảm và những tấm gương viền những khung bằng vàng chật hẹp và xoắn tròn kia hình như chưa bao giờ xê dịch đi đâu cả. Và kìa, đã nghe có tiếng ho thúng thắng: bà dì tôi bước ra. Vóc bà không cao lớn, nhưng bà cũng chắc nịch như mọi người chung quanh vậy. Bà choàng trên vai một chiếc khăn san lớn kiểu Ba Tư (14). Bà bước ra một cách trang trọng nhưng niềm nở, và trong khi diễn ra những câu chuyện liên miên bất tuyệt về thời xưa, về gia tài và các của thừa tự, đã lập tức thấy bắt đầu xuất hiện các đồ ăn thức uống để đãi khách: đầu tiên là lê “đulia”, các loại táo, - táo Antonov, táo “bel barưnia” (15), táo “borovinka" (16) , táo “plodovitka” (17) - rồi sau đó là một bữa trưa kỳ thú: giăm bông màu hồng tuyền ăn với đậu côve, gà nhồi thịt, gà tây, các món ngâm dấm và nước kvax đỏ - đậm men và ngọt ơi là ngọt... Các tấm cửa sổ nhìn ra vườn được nâng lên, và từ đó ta thấy phả vào khí mát mẻ sảng khoái của mùa thu...
III
Những năm gần đây có một thú vui nâng đỡ tinh thần đang kiệt quệ cho các nhà địa chủ, - đó là thú đi săn.
Trước đây, những điền trang giống như điền trang của dì Anna Gheraximovna chẳng phải là hiếm. Cũng có cả những điền trang bao gồm một lãnh địa bát ngát, với một khu vườn rộng tới hai chục dexiatina (18), tuy
https://thuviensach.vn
đang suy tàn nhưng vẫn còn rất phong lưu. Thật vậy, một vài điền trang loại đó vẫn còn sót lại cho tới nay, nhưng ở đó đã không còn có sự sống nữa rồi... Không còn có xe ba ngựa, không còn có những con ngựa Kirghizia chuyên để cưỡi (19), không còn những con chó bécgiê và chó borzoi (20), không còn có nô bộc và không còn có cả chính cái người chiếm hữu tất cả những cái đó nữa, nghĩa là người địa chủ thích đi săn, đại loại như mồ ma ông anh vợ tôi là Akxeni Xemenưts chẳng hạn.
Từ cuối tháng chín, vườn tược và sân phơi ở vùng chúng tôi đều trống trải cả, thời tiết luôn biến đổi đột ngột theo thường lệ. Gió thường lay giật cây cối suốt cả ngày, còn mưa thì dội xối xả từ sáng cho đến tận đêm. Đôi khi tới xế chiều mới thấy có ánh vàng lung linh của một mặt trời thấp len lỏi qua những đám mây thấp u ám ở đằng tây, bầu không khí trở nên tinh
khiết và quang đãng, ánh nắng chói loà giữa những chòm lá và những cành cây đang rung rinh, rập rờn theo chiều gió như một tấm lưới sống động. Còn ở phía Bắc, một bầu trời xanh loang loãng toả sáng lạnh lẽo và rạng rỡ trên những áng mây màu chì nặng nề, và từ phía sau những đám mây ấy ta thấy từ từ ló ra những đám mây trắng giống như những đỉnh núi phủ tuyết Ta đứng bên cửa sổ và nghĩ bụng: “Biết đâu nhờ ơn Chúa trời sẽ lại chẳng nắng ráo lên”. Nhưng gió vẫn thổi mãi không thôi. Nó khiến khu vườn dợn sóng, thổi bạt làn khói liên tục tuôn ra từ ống khói trên căn nhà của những người đầy tớ và lại còn dồn đen những đám mây bù xù màu tro chẳng tốt lành gì. Những đám mây này bay thấp và nhanh, và chẳng mấy chốc làm cho mặt trời mờ mịt đi như bị một làn khói che phủ. Ánh sáng mặt trời phụt tắt, ô cửa sổ nhỏ nhìn lên bầu trời xanh đã đóng lại, cảnh trong vườn trở nên hoang vắng và đìu hiu, rồi mưa lại bắt đầu rơi... mới đầu còn nhẹ nhàng, thận trọng, về sau mỗi lúc một dày, và cuối cùng, biến thành một trận mưa to kèm theo gió táp và bóng tối mù mịt. Một đêm dài và xao động đã bắt đầu...
Sau một cơn vùi dập như thế, khu vườn hầu như lõa lồ, phủ đầy lá ướt và có một vẻ gì như lắng dịu và nín chịu. Thế nhưng nó lại đẹp đẽ biết bao khi trời đã quang, mây đã tạnh, khi đã bước vào những ngày trong trẻo và lạnh
https://thuviensach.vn
lẽo đầu tháng mười, vào dịp lễ từ biệt của mùa thu! Những chiếc lá còn sót lại giờ đây vẫn sẽ đeo đẳng trên cây cho tới những trận rét đầu mùa. Khu vườn sẽ hiện ra đen đủi trên nền trời xanh lạnh lẽo và sẽ tạm sưởi mình trong ánh nắng mà ngoan ngoãn chờ đợi mùa đông. Còn những cánh đồng thì đã đen nhẻm đi vì những luống cày và xanh mướt lên với những vạt lúa thu non đang trổ lá dày dặn... Đây chính là lúc để đi săn.
Và đây, tôi đã thấy mình trong khu điền trang của Akxeni Xemenưts, trong một ngôi nhà lớn, trong một căn phòng lớn đầy ánh nắng và đầy khói toả ra từ những chiếc tẩu và những điếu thuốc lá. Trong phòng đông người,
toàn là những người da rám nắng, mặt dầu dãi gió mưa, mặc áo bành tô chẽn thân và đi ủng dài. Họ vừa ăn rất no xong, mặt đỏ bừng và ai nấy đều hưng phấn bàn tán ầm ĩ về cuộc đi săn sắp tới, mặc dầu vẫn không quên uống nốt chỗ vodka còn lại, dù là đã sau bữa ăn. Còn ở ngoài sân đã có tiếng tù và rúc lên và cả tiếng chó rú rít đủ giọng khác nhau. Một con chó borzoi đen được Akxeni Xemenưts cưng chiều đang leo lên bàn và bắt đầu ngốn nốt món thỏ nấu giấm còn lại trong đĩa. Nhưng nó bỗng rú lên một tiếng kinh hoàng và bứt ra khỏi bàn, đánh đổ cả đĩa lẫn ly rượu. Thì ra Akxeni Xemenưts vừa cầm roi và súng ngắn bước ra khỏi phòng, đã thình lình nổ một phát làm tất cả mọi người trong căn phòng lớn đều phải đinh tai nhức óc. Khói trong căn phòng lại càng thêm mù mịt, còn Akxeni Xemenưts thì cứ đứng mà cười:
- Tiếc quá, ta bắn trượt mất rồi! - ông nói, cặp mắt đung đưa. Người ông cao, xương xương, nhưng vai rộng và cân đối, còn khuôn mặt là khuôn mặt tuấn tú của người Zigan. Đôi mắt ông ánh lên vẻ hoang dã, ông rất lanh lẹn, mặc một chiếc áo sơmi lụa màu huyết dụ, một chiếc quần rộng ống bằng nhung và đi một đôi ủng dài. Sau khi đã khiến cho con chó và các khách khứa phát hoảng lên vì phát súng ngắn, ông cất giọng nam trung, nửa đùa nửa thật ngâm lên:
Đã đến lúc thắng yên cương con tuấn mã,
Và chiếc tù và tốt giọng, ta hãy khoác lên vai!
https://thuviensach.vn
đoạn nói to:
- Nhưng thôi, chẳng tội gì bỏ phí thời giờ vàng ngọc!
Cho tới bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy được rằng lúc ấy lồng ngực trẻ đã hít thở háo hức và nhiều nhặn biết bao nhiêu khí lạnh của một ngày quang tạnh và ẩm ướt về chiều, khi ta đi cùng với đoàn người huyên náo của Akxeni Xemenưts, khi lòng ta hưng phấn bởi cái cảnh om sòm đầy chất nhạc của đàn chó được xua vào trong rừng cây lá bản, vào những nơi gọi là Gò Đỏ hay Chòm Vang gì đó mà chỉ nghe tên gọi là người đi săn cũng đã xốn xang trong lòng. Ta cưỡi một con ngựa Kirghizia hung dữ, mạnh mẽ và lùn tè, và khi phải siết chặt dây cương để ghìm bớt nó lại, ta cảm thấy hầu như ta đã cùng nó hoà vào làm một. Con ngựa khịt phì, đòi chạy nước kiệu, vó giẫm soàn soạt lên những bức thảm sâu mà nhẹ của đám lá rụng đen ngòm, và mỗi tiếng động đều truyền lan vang dội cả khoảng rừng vắng vẻ, ẩm ướt và tươi mát. Một con chó sủa ăng ẳng ở đâu xa xa, có tiếng con chó thứ hai, rồi thứ ba đáp lại một cách tha thiết và ai oán, - sau đó toàn bộ khu rừng bỗng vang rền hệt như thảy đều bằng thuỷ tinh, do tiếng chó sủa, tiếng người hò hét sôi động. Có một tiếng súng nổ đanh giữa cảnh huyên náo ấy, thế là mọi chuyện đã được “nhen lên” rồi lan đi mãi tận đâu ở xa xa.
- Vây lâ - â - ấy nó! - có ai đó gào lên một giọng tuyệt vọng vang khắp khu rừng.
“À, vây lấy nó!”, - một ý nghĩ say sưa thoáng hiện trong đầu. Ta bèn quát con ngựa, và như tháo cũi sổ lồng, ta sẽ phóng như bay trong rừng, không còn phân biệt đường lối gì nữa cả. Chỉ còn thấy cây cối loang loáng trước mắt và thấy vó ngựa tung bùn tới tấp vào mặt. Khi vọt ra khỏi rừng, ta thấy đàn chó kéo thành một vệt dài sặc sỡ trên cánh đồng lúa non và ta lại càng hối thúc con ngựa Kirghizia xông vào chặn ngang đường con thú, - băng qua những cánh đồng lúa non, những luống cày vỡ và những ruộng rạ, kỳ cho tới khi đàn chó cùng với những tiếng sủa, những tiếng rên rỉ điên cuồng của chúng đã chuyển sang một chòm rừng khác và mất hút mới thôi. Lúc bấy giờ toàn thân ta đã ướt đẫm và run lên vì căng thẳng, ta bèn ghìm con ngựa sùi bọt mép và thở phì phò lại mà háo hức hớp lấy làn khí ẩm lạnh giá của khu thung lũng giữa rừng. Tiếng la hét của những người đi săn và
https://thuviensach.vn
tiếng sủa của đàn chó đã im bặt ở đằng xa, chung quanh ta đã lặng như tờ. Khu rừng gỗ đang được khai phá dở chừng này đứng im phăng phắc, và ta tưởng chừng như mình lọt vào một nơi cung cấm thâm nghiêm nào đó. Từ
các khe vực xông lên mùi ẩm ướt của nấm, mùi lá rữa và mùi vỏ cây khi củi còn tươi. Và khí ẩm ướt từ các khe vực toả ra càng đậm, thì rừng càng lạnh hơn, tối tăm hơn... Đã đến lúc phải nghỉ qua đêm. Nhưng sau một buổi săn,
tập hợp lại được đàn chó là một việc vất vả. Tiếng tù và rúc buồn bã và tuyệt vọng hồi lâu trong rừng, tiếng la hét, chửi rủa và tiếng chó ăng ẳng kêu cũng vang lên hồi lâu... Cuối cùng, khi trời đã tối mịt, đoàn săn mới vớ được khu điền trang của một điền chủ độc thân nào đó mà họ hầu như không quen biết, làm om sòm cả sân của khu điền trang này lên, và trong sân lúc này sáng lòa ánh đèn ló, ánh nến và ánh đèn cầy được đưa từ trong nhà ra để đón họ...
Có nhiều khi đoàn đi săn ở nhờ nhà ông láng giềng hiếu khách ấy đến vài ngày. Cứ sáng tinh mơ, mặc cho gió lạnh giá và tuyết đầu mùa ẩm ướt, họ đi vào rừng và ra cánh đồng để đến sẩm tối mới về, ai nấy đều lấm bùn bê bết, mặt mũi đỏ gay, hôi hám mùi mồ hôi ngựa và mùi lông con thú mà họ săn được, - và thế là bắt đầu một cuộc đánh chén lu bù. Trong căn nhà sáng sủa và đông người ấy, thật là ấm áp sau cả một ngày rong ruổi ngoài trời. Mọi người ai nấy đều cởi phanh áo bành tô, đi từ phòng nọ sang phòng kia mà uống, mà ăn một cách hỗn độn, trao đổi om sòm với nhau cảm tưởng về con chó sói già kếch xù bị bắn chết đang nằm ềnh giữa phòng lớn, nhe răng ra, mắt trợn ngược, cái đuôi đầy lông tơ vật sang một bên, vấy ra sàn những dòng máu đã lạnh và nhợt nhạt. Sau khi đã uống rượu vodka và ăn xong bữa, ta sẽ cảm nhận được một nỗi mệt mỏi ngọt ngào, một tình trạng mơ màng êm ái đến nỗi lời nói chung quanh chỉ như xuyên qua một làn nước mới đến tai ta. Bộ mặt dày sương dạn gió của ta nóng bừng lên, và khi ta nhắm mắt lại thì toàn bộ mặt đất như bồng bềnh trôi dưới chân ta. Còn khi ta nằm vào giường, nằm lên chiếc nệm lông chim ở đâu đó trong một căn buồng cổ kính với một dãy tượng thánh và một dãy đèn thờ ở phía góc nhà, trước mắt ta sẽ thấp thoáng hiện ra những bóng ma chó lông sặc sỡ và đỏ như lửa, trong toàn thân ta sẽ nhức nhối trở lại cái cảm giác ngồi trên
https://thuviensach.vn
ngựa, và ta sẽ không nhận biết được rằng ta đang cùng với những hình tượng và cảm giác đó chìm đắm vào một giấc ngủ ngọt ngào và khỏe khoắn, thậm chí quên bẵng rằng căn buồng này hồi nào đấy đã từng là buồng nguyện của một ông già nổi tiếng với những huyền thoại nông nô bi thảm, và rằng chính cụ ấy đã chết trong căn buồng nguyện này, rất có thể là chết trên chính chiếc giường này cũng nên.
Thảng có hôm ta ngủ quên không kịp đi săn thì việc nghỉ ngơi ấy mới càng đặc biệt dễ chịu. Ta sẽ tỉnh giấc và cứ nằm ườn mãi trong giường. Toàn bộ căn nhà đều tĩnh mịch. Ta nghe thấy tiếng chân bác làm vườn rón rén trong từng buồng để nhóm các lò sưởi lên, và cả tiếng củi nổ lép bép, bập bùng. Trước mắt ta là cả một ngày yên tĩnh trong khu điền trang đã im lìm trong những ngày đông. Ta sẽ thong thả mặc quần áo, đi dạo trong vườn, vớ được trong đám lá ẩm một quả táo, ngẫu nhiên bị bỏ quên, đã ướt lạnh và không hiểu tại sao ta lại thấy quả táo này ngon khác thường, hoàn toàn không giống như những quả táo khác. Rồi sau ta xoay ra đọc sách, - những quyển sách do cha ông để lại, đóng bìa da dày cộp, có hình những ngôi sao nhỏ mạ vàng đóng ở gáy sách bằng da dê. Những quyển sách giống như những quyển kinh dâng lễ trong nhà thờ ấy với những trang giấy dày, ram ráp và đã ố vàng của chúng sao thơm một cách kỳ lạ! Đó là một mùi mốc meo chua chua dễ chịu nào đó, mùi nước hoa thời xưa... Có những dòng nhận xét viết bằng lông ngỗng chữ viết to, nét tròn, mềm mại, ghi ở bên lề các trang sách, và cả những nhận xét này cũng là rất hay. Giở một quyển sách ra, ta đọc thấy: “Một ý xứng đáng với các triết gia cổ kim, tinh hoa của lý trí và của tình cảm chân thành”... Và thế là ta bất giác say mê với ngay chính quyển sách ấy. Đó là cuốn Triết gia quý tộc, một cuốn sách viết theo lối phúng dụ, được xuất bản từ cách đây khoảng một trăm năm với sự bảo trợ của “một vị đã được ân tứ nhiều huy chương” và được in trong một nhà in của một hội từ thiện. Cuốn sách kể chuyện “một triết gia quý tộc, khi có thời giờ và có khả năng suy luận tới mức mà trí tuệ của con người có thể vươn tới, có lúc đã mong muốn xây dựng một kế hoạch xã hội trên khoảng đất rộng rãi của làng mình”... Sau đó ta lại đụng phải “những trước tác trào
https://thuviensach.vn
phúng và triết lý của ông Vontaire (21)” và ta đã thưởng thức hồi lâu một cách khoái trá cái kiểu cách cầu kỳ đáng yêu của bản dịch viết rằng: “Thưa các quý vị! Vào đệ thập lục thế kỷ, Erasmus (22) đã làm văn để ngợi khen sự ngu xuẩn (đến đây có ngắt giọng một cách cầu kỳ bằng chấm phẩy); còn các quý vị lại lệnh cho tôi tán dương trí tuệ hầu các quý vị...”. Sau đó, từ đời nữ hoàng Ekaterina (23) ta chuyển sang thời kỳ lãng mạn, sang các tập hợp tuyển thơ văn, sang những cuốn tiểu thuyết tình cảm bay bướm trường thiên... Con chim cu từ trong đồng hồ nhảy ra và cúc cu trên đầu ta với giọng vừa buồn vừa giễu cợt trong căn nhà vắng vẻ. Và rồi một nỗi sầu muộn ngọt ngào và kỳ dị bắt đầu thoáng hiện trong lòng ta...
Đây là cuốn Những điều bí ẩn của Alekxis, còn đây là cuốn Victor, hay đứa con ở trong rừng: "Chuông nửa đêm đã điểm! Bầu tĩnh mịch thiêng liêng đã thay thế cho cảnh náo nhiệt ban ngày và cho những bài ca vui vẻ của dân làng. Thần Mộng đã giương đôi cánh tăm tối ra để bao phủ bán cầu của chúng ta, và từ đôi cánh ấy Thần gieo rắc cảnh tối tăm và gieo rắc mơ tưởng... Mơ tưởng... Chúng thường chỉ tiếp tục đem lại biết bao điều đau khổ bất hạnh mà thôi!...”. Và rồi trước mắt ta thấp thoáng ẩn hiện những từ cổ xưa yêu quý: những vách đá và những rừng sồi, mặt trăng tê tái và nỗi cô đơn, những bóng ma và những con ma, những đóa “erota”, những bông hồng và bông bách hợp, “những trò tinh quái và hiếu động của bọn nhóc nghịch ngợm”, bàn tay trắng muốt như hoa huệ, những Liudmila và Alina... Còn đây là những tạp chí mang tên Giukovski (24), Batiuskov (25), tên của chàng sinh viên Puskin (26). Và ta buồn rầu nhớ tới bà nội ta, nhớ tới những điệu polonaise mà người dạo trên chiếc đàn dương cầm cổ kính, nhớ tới lúc người ngồi thẫn thờ đọc những câu thơ trong Evgheni Oneghin (27). Và cuộc sống mơ màng xa xưa lại hiển hiện trước mắt ta... Hồi nào đó đã từng có những cô gái và những người đàn bà xinh đẹp sống trong những điền trang quý tộc này! Những bức chân dung của họ đang nhìn vào tôi từ trên tường, những mái đầu nhỏ nhắn, đẹp một cách quý phái, được chải búi theo kiểu cổ xưa, đang cụp những làn mi dài một cách thùy mị và yểu điệu xuống những cặp mắt buồn và dịu dàng...
https://thuviensach.vn
IV
Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi. Những ngày ấy mới chỉ cách đây không lâu, mà sao tôi tưởng chừng như từ bấy đến nay hầu như đã qua cả một thế kỷ. Các cụ già ở Vưxenki đã chết cả rồi, dì Anna Gheraximovna đã qua đời, Akxeni Xemenưts đã tự sát bằng súng ngắn... Giờ đây là vương quốc của những người có ít đất đai, nghèo đi đến cùng cực!... Nhưng ngay cả cái cuộc sống ít đất đai, nghèo khó ấy cũng vẫn đẹp!
Này đây, tôi lại thấy mình trở lại thôn quê vào độ cuối thu. Đó là những ngày xanh xao, u ám. Sáng ra tôi ngồi lên yên rồi đi ra cánh đồng với một con chó với khẩu súng và chiếc tù và. Gió reo vang và vi vút nơi miệng súng, gió phần phật thổi ngược chiều, đôi khi cuốn theo cả tuyết khô. Tôi lang thang trên những đồng bằng vắng vẻ cả một ngày trời... Bụng đói cật rét, sẩm chiều tôi trở lại điền trang, và trong lòng sao bỗng ấm áp và hân hoan khi thấy Vưxenki đã thấp thoáng ánh lửa và từ điền trang đã thấy toả ra mùi khói, mùi gia cư. Tôi còn nhớ trong nhà tôi vào lúc đó mọi người thường thích “nói mò”, không thắp đèn lên mà cứ nói chuyện với nhau trong cảnh chạng vạng. Vào nhà, tôi thấy cửa rả đã được đóng thêm khung nẹp mùa đông cả rồi, và điều đó lại càng khiến cho tôi thêm yên trí với cảnh mùa đông. Trong buồng của những người hầu hạ, một bác người làm đang ngồi đốt lò, và, như thời thơ ấu, tôi ngồi xổm xuống cạnh đống rơm giờ đây đã ngát toả mùi tươi mát của ngày đông, lúc thì nhìn vào bếp lò rực cháy, lúc thì nhìn ra những khung cửa sổ mà ngoài trời đã xanh lên với cảnh hoàng hôn buồn đang lịm tắt. Rồi tôi sang buồng của những kẻ ăn người làm. Ở đó sáng đèn và đông người: các cô gái đang băm bắp cải, những lưỡi dao phay loang loáng, tôi nghe tiếng dao lách cách đều đều, nhịp nhàng, cùng với những bài hát nông thôn trầm bổng, vừa vui lại vừa buồn... Đôi khi cũng có ông điền chủ nhỏ láng giềng nào đó ghé thăm và chở tôi về nhà ông ta ở chơi lâu lâu... Cuộc sống ít đất cũng vẫn cứ đẹp!
https://thuviensach.vn
Vị điền chủ nhỏ ấy dậy sớm. Vươn mạnh người, ông ta cất mình khỏi giường rồi cuốn một điếu thuốc to bằng thứ thuốc lá đen rẻ tiền hoặc có khi chỉ bằng thuốc lá vườn nhà. Ánh sáng nhợt nhạt của một buổi sáng tháng mười một sớm sủa rọi vào một thư phòng đơn sơ với những bức tường trần trụi, rọi vào những tấm da cáo thô kệch, vàng vọt treo bên trên giường và rọi vào một thân hình vạm vỡ với chiếc quần rộng ống và chiếc áo cổ chéo buông lơi, trong khi đó tấm gương phản ánh một gương mặt ngái ngủ có dáng dấp người Tatar (28). Căn nhà ấm áp, tranh tối tranh sáng, im lặng như tờ. Ngoài cửa, ở hành lang đang khò khè ngáy một bà già nấu bếp đã từng sống trong căn nhà của những kẻ ăn người làm từ hồi còn là một cô bé con. Thế nhưng điều đó vẫn không ngăn cản ông chủ quý tộc hét váng nhà bằng một giọng khàn:
- Bà Lukeria! Cho ta xamovar!
Đoạn ông ta đi ủng, khoác lên vai chiếc áo bành tô chẽn thân và chẳng buồn cài cúc áo sơ mi, bước ra bậc thềm cửa. Nơi buồng ngoài, cửa còn đóng và có mùi của bầy chó săn: chúng uể oải vươn mình, rít lên mà ngáp, đoạn niềm nở ra quây lấy ông chủ.
- Xê ra! - ông chậm rãi nói bằng một giọng trầm khoan dung, đoạn qua vườn mà đi ra sân phơi lúa. Ngực ông nở ra để hít thở làn không khí gay gắt của bình minh và mùi vị của khu vườn trần trụi, rét mướt trong đêm. Những
chiếc lá quăn lại và thâm sì vì giá rét đang sột soạt dưới những gót ủng nện trên lối đi giữa hai hàng bạch dương đã bị phạt ngang một nửa. Trên nóc lán chứa lúa, những con quạ xù lông ngủ đang hiện rõ nét trên nền trời thấp và mờ tối... Ngày hôm nay đi săn thì thật tuyệt vời! Rồi, dừng bước giữa lối đi ông chủ quý tộc đưa mắt nhìn hồi lâu ra cánh đồng mùa thu, ra những vạt lúa thu non mướt xanh và hiu quạnh, chỉ còn có những con bê đang thả bước nhởn nhơ. Hai con chó cái đang rít lên dưới chân ông, còn con Dalivai thì đã ra khỏi vườn: nó nhảy qua chồm lại trên những gốc rạ lởm chởm, như mời chào, như đòi được băng ra cánh đồng. Nhưng làm gì được với loại chó săn này bây giờ? Con thú giờ đây đang ở ngoài đồng, ở những luống cây vỡ, ở lối đi giữa hai bờ tuyết phủ, chứ còn ở trong rừng thì nó sợ, bởi vì
https://thuviensach.vn
trong rừng gió thổi lá cây kêu xào xạc... Ôi, giá như có được loại chó borzoi!
Trong lán chứa lúa người ta bắt đầu đập lúa. Cái thùng của máy tuốt lúa từ từ quay, kêu lên kèn kẹt. Những con ngựa kéo máy loạng choạng bước đi, dấn vó trên đường vòng đầy phân, uể oải kéo căng những chiếc dây truyền. Ngồi chính giữa, xoay tròn trên chiếc ghế băng nhỏ, người ruổi ngựa đều giọng thét lác lũ ngựa và lúc nào cũng chỉ chăm chăm lấy roi quất vào một con ngựa đực màu nâu lười lĩnh hơn cả và đúng là vừa đi vừa ngủ, bởi lẽ mắt nó đã bị bịt kín mất rồi.
- Nào, nào, các cô gái, các cô gái! - một bác chuyên trách việc đưa lúa vào máy, đã đứng tuổi, mặc chiếc áo sơ mi bằng vải gai rộng thùng thình, thét lên nghiêm khắc.
Các cô gái vội vàng đi quét sân đập lúa, mang cáng, cầm chổi chạy đi. - Lạy Chúa! - bác chuyên trách tuốt lúa nói, đoạn người ta thấy bó rơm đầu tiên được đưa vào máy để thử đã rít lên, rào rào bay vào thùng máy rồi từ trong thùng máy nhô lên, xòe ra như một cái quạt. Còn thùng máy cứ rú lên mỗi lúc một da diết hơn, công việc sôi nổi dần lên, và chẳng mấy chốc các thứ âm thanh hoà thành một tiếng ầm ầm chung của việc đập lúa nghe rất dễ chịu. Ông chủ đứng ở cổng lán nhìn vào thấy trong bóng tối thấp thoáng những chiếc khăn trùm màu đỏ và vàng, thấp thoáng những bàn tay, những chiếc bừa cào, những rơm rạ, và tất cả những cái đó chuyển động đều đặn, tíu tít lên trong tiếng quay ầm ầm của thùng máy, trong tiếng thét độc điệu và tiếng huýt gió của bác chuyên trách tuốt lúa. Bổi lúa bay từng đám từng đám ra cổng. Ông chủ đứng đó, toàn thân sạm đi vì bổi lúa. Ông luôn đưa mắt nhìn ra cánh đồng... Các cánh đồng sắp trắng xoá đến nơi rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chìm ngập trong trận tuyết đầu mùa... Cơn rét đầu mùa, trận tuyết đầu mùa! Chó borzoi không có, chẳng đi săn bằng cái gì được trong cái tháng mười một này. Nhưng mùa đông đã đến, đành bắt đầu “công việc” với những con chó săn thường vậy. Thế là, lại như những thời buổi trước đây, các vị điền chủ nhỏ lại cưỡi ngựa đến thăm nhau, tiền còn bao nhiêu đem ra uống hết, hôm nào cũng biệt tăm biệt tích suốt ngày trong những cánh đồng tuyết phủ. Còn chiều đến, ở một thôn
https://thuviensach.vn
xóm hẻo lánh nào đó, từ xa người ta đã thấy những ô cửa sổ chái bên của ngôi nhà đã loé sáng lên trong đêm đông tăm tối. Ở đó, trong cái chái của ngôi nhà nhỏ bé ấy, người ta thấy những làn khói tròn bay chơi vơi, những cây nến mỡ lợn cháy lờ mờ, một cây đàn ghita đang được lên dây...
Hoàng hôn xuống, gió chiều lộng thổi
Cánh cổng kia ta mở toang hoang, -
Một giọng nam cao cất lên từ lồng ngực của ai đó. Và những người khác rời rạc, làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng ủ dột và tuyệt vọng:
Cánh cổng ta mở toang hoang
Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...
https://thuviensach.vn
Meliton
Vào những buổi hoàng hôn sáng sủa trong tháng năm, tôi thường cưỡi ngựa dạo chơi trong vùng Zakaz quê nhà. Con ngựa men theo con đường hẹp giữa những rặng liễu và phỉ tử tươi mát. Bốn chung quanh đâu đấy đều tươi non, xanh rờn, tiếng họa mi thánh thót đáp lời nhau hót dịu dàng và rành rọt ở hai bên đường. Mặt trời đã lặn từ lâu, nhưng khu rừng còn chưa im ắng: tiếng chim ngói còn rầm rì ở gần đâu đây, những con chim gáy vẫn gáy xa xa... Trong những đêm tháng năm, giấc ngủ thường không sâu và ngắn ngủi, cứ lơ mơ cho tới tận rạng đông, rồi bình minh lại nơi tiếp hoàng hôn.
Tôi phóng ngựa đến khoảng rừng thưa, nơi có chòi canh. Ở khu đất trũng phía bên kia khoảng rừng thưa có một cái ao to, đầy nước. Bên trên ao, bên trên những cây bạch dương và những cây sồi cổ thụ mọc chung quanh ao hiện ra một vành trăng nhợt nhạt, trong suốt. Còn bên bờ ao là bác Meliton đang ngồi trên một gốc cây đã đốn. Bác ném những cành khô vào một đống lửa nhỏ nóng ran đang bập bùng cháy trong hố bếp, bên trên treo lủng lẳng chiếc nồi. Như mọi khi, chiếc quần và tấm áo sơ mi vá của bác đều rất tinh tươm, chân bác bó xà cạp rất gọn. Bác ngồi, chống khuỷu tay lên đầu gối, tì má lên hai lòng bàn tay nhìn vào ngọn lửa và bác í éo khẽ hát một bài gì đó bằng một giọng thanh mảnh, y hệt giọng đàn bà.
- Bác bắt được nhiều cá giếc rồi đấy hả, bác Meliton? - tôi vừa tụt xuống khỏi lưng ngựa, vừa hỏi.
Bác đứng dậy, dướn thẳng người theo một tư thế đứng nghiêm đặc biệt mà hồi nào đây chỉ những lính hầu của vua Nikolai mới đứng như thế, và bác làm ngay ra vẻ bình thản, dường như để cố giấu nỗi buồn thường có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt của mình. Vóc người bác to cao, thân hình bác gày gò, xương xẩu. Cặp lông mày rậm, xám và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má giống như người để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt, thế nhưng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thường xuyên cho thấy bất kỳ lúc
https://thuviensach.vn
nào bác cũng sẵn sàng lăn mình “dưới các tượng thánh” thì lại chứng tỏ rằng cuộc sống của bác là một cuộc sống hiền lành, ẩn dật. Khi khoai trong chiếc nồi gang nhỏ đã bắt đầu reo và sôi lên sùng sục thì bác lấy một chiếc dăm củi chọc vào xem, rồi bắc nồi ra. Lửa tàn dần, chỉ còn lại một đống than nóng đỏ ánh lên trong hố đất. Cạnh bếp bốc lên mùi lá cây sồi cháy khét, nhưng khi ông già bắt đầu bóc vỏ khoai thì mùi khoai thơm phức đến nỗi tôi cũng phải xin bác vài củ mà ăn. Và rồi chúng tôi lặng lẽ ăn bữa chiều bên bờ ao tăm tối và im lìm, trong bầu tĩnh mịch và trong cảnh chạng vạng khi buổi hoàng hôn còn chưa tắt hẳn một chiều xuân. Sau đám cây cối phía bên phải, ánh chiều vẫn còn ửng lên phơn phớt, dịu dàng, khiến ta tưởng chừng như ở nơi đó trời đã bình minh.
- Bác Meliton ơi, - tôi hỏi với vẻ hồn nhiên của tuổi niên thiếu, - có phải bác từng bị đánh “hội đồng” (29) trong quân đội không?
- Phải đấy ạ, - bác đáp giản dị và ngắn gọn.
- Tại sao vậy?
- Tất nhiên là do dại dột, do lỗi lầm ...
Bác bỏ vào nhà, còn tôi cứ ngồi một mình hồi lâu, nhìn vào đống than leo lét. Rồi bác lại lặng lẽ xuất hiện từ trong bóng tối, mang theo một miếng bánh mỳ đen, một con dao nhỏ làm bằng lưỡi hái cũ và một nắm muối khô. Chạy theo sau bác và vẫy đuôi một cách trìu mến là con Krutik (30), một con
chó nhỏ, vui nhộn, nhưng rất hung dữ, mặc dù vui tính. Nó cũng ra ngồi cạnh bếp, thoải mái ngáp, liếm láp rồi đưa mắt dõi nhìn từng cử động của bác Meliton, trong khi bác đang tra đậm muối vào miếng bánh mì. Lũ họa mi vẫn tiếp tục hót say sưa và lảnh lót, dịu dàng và liều lĩnh. - Bác chỉ một thân một mình vậy ư? - tôi hỏi.
- Chỉ một mình thôi. Trước cũng có vợ, nhưng lâu rồi, chả nhớ được nữa. - Thế còn con cái?
- Cũng có cả con cái nữa đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi...
Và rồi bác lại nín lặng, nhai bánh mì tóp tép với vẻ từ tốn của người già. Tôi chăm chú theo dõi những cử động của đôi má nhăn nheo, đôi mí mắt
https://thuviensach.vn
sụp xuống của bác, cố đi sâu tìm hiếu cái bí ẩn trong thái độ lầm lì buồn bã của bác, khi bác nhu mì và yếu ớt đưa mắt nhìn tôi thì tôi lại quay mặt đi. Lúc bấy giờ tôi ở tuổi đôi mươi, cái gì cũng đều khiến tôi cảm động: rừng rú, bầu trời, chiếc chòi canh, những bó cỏ và những vành hoa gì đó treo dưới mái nhà, trong lớp lá khô trên rui mè ở buồng ngoài của chòi canh... Tôi ngẫm nghĩ: chân bác Meliton đi giày bện bằng sợi vỏ cây, mình bác ấy mặc chiếc áo sơ mi kiểu cổ... Sống một cuộc đời thanh bạch, giản dị, nghèo nàn như thế thì thật tuyệt vời! Và những vành hoa kia, bác ấy hái về và kết lại cho ai nhỉ? Những vành hoa ấy càng khiến tôi thêm cảm động, tôi vừa đứng dậy, vừa bảo:
- Bác Meliton ạ, nhà ở của bác đúng là một nơi biệt cư để đan tu (31). Bác dịu dàng và buồn rầu nhếch mép.
- Nơi biệt cư để đan tu thì phải có nhà nguyện cơ, cậu ạ, - bác vừa nói, vừa ném miếng vỏ bánh mì cho con Krutik, đoạn đổ nước trong nồi gang vào đống than.
Than kêu xèo xèo rồi tắt ngấm. Và ngay tức thời, tôi thấy rằng trong rừng đã hiện ra một đêm trăng sáng sủa, khoảng rừng thưa đã được một vầng trăng óng ả chiếu sáng, còn những khoảng rừng rậm thì đã đen nhẻm đi và tách biệt hẳn ra. Vừa ăn bữa chiều bằng vỏ bánh mì xong là con Krutik lập tức bắt đầu ngay công việc ban đêm của nó. Cất tiếng sủa lanh lảnh, nó chăm lo hết chỗ nọ đến chỗ kia đằng sau chòi canh, và do đó tất cả khu rừng hệt như đều đầy những con chó con vừa dữ lại vừa hiếu động. Bác Meliton thắp đèn trong căn nhà gỗ để trải cỏ khô lên một chiếc trường kỷ cho tôi nằm, - và lúc bấy giờ, dưới mái nhà cũ kỹ rệ xuống, hai ô cửa sổ nhỏ đã ánh lên như hai con mắt bằng vàng. Rồi bác mang đèn ra buồng ngoài. Khi tôi bước vào, bác lại mỉm cười với tôi.
- Nếu không thì cậu lại phải nằm vào cái giường treo kia kìa, - bác nói, hất đầu chỉ vào giường mình nằm.
Ở một góc nhà, cạnh lối ra vào, có bố trí một cái gì đó giống như một chiếc giường treo đặt trên những chân giường cao lêu đêu bằng củi bạch
https://thuviensach.vn
dương. Trên giường cũng trải cỏ khô cao tới ngang thành đầu giường và có phủ một mảnh chăn đắp ngựa.
- Bây giờ còn ngủ nghê gì nữa, - tôi nói, - sắp sáng đến nơi rồi. - Sắp sáng rồi, - bác Meliton tỏ vẻ đồng ý một cách thản nhiên. Và quả vậy, chúng tôi chỉ ngủ lơ mơ. Trong căn nhà gỗ tối tăm này thật
yên ắng, dễ chịu. Trên những ô cửa sổ ta có thể thấy được những mảnh xanh xanh của đêm trăng. Nhưng có cái gì đó khiến tôi không sao ngủ được: chỉ nghe tiếng muỗi hơi vo ve là tôi tỉnh giấc rồi. Tôi nghe tiếng con Krutik sủa, tiếng họa mi hót, tôi tơ tưởng đến một cái gì đó mà thường người ta chẳng sao nhớ được trong những đêm mất ngủ... Cả bác Meliton cũng không ngủ được nốt. Bác bị lũ rận quấy rầy.
- Nào, cứ liệu hồn, liệu hồn, tao sẽ bắt mày phải vào ngủ dưới gậm giường này cho coi! - thỉnh thoảng bác lại lẩm bẩm như vậy để dọa con Krutik.
Rồi sau thấy bác ho, bác thở dài, bác thì thầm cái gì đó... Cuối cùng, tôi nghe tiếng chân bác đi dưới cửa sổ. Tôi bèn thò đầu ra không khí ban đêm mát mẻ ngoài cửa sổ. Bác Meliton không nhìn thấy tôi. Bác ngồi ở bậc ngưỡng cửa, đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá trong lòng bàn tay và lại í éo hát với giọng đàn bà nghe buồn rượi:
- Ôi cha, trời ơi! - bác thì thào trong một tiếng thở dài, lắc lư mái đầu, và đánh lửa hút thuốc. Rít một hơi trong tẩu xong, bác chống tay lên cằm và lại càng ngân nga rõ lời hơn, thiết tha hơn.
Qua bài hát, nghe được rõ ràng, bác đang kể lể về những khu vườn xanh tươi nào đó, vừa trách móc một cách có thiện ý lại vừa nhắc nhở ai đó nhớ tới những nơi mà “nàng đã chết, đã vĩnh biệt, ôi, cùng với mối tình xưa”... Đêm sáng lung linh, vầng trăng treo lên đến chính giữa bầu trời, dừng lại ngay bên trên ao. Thỉnh thoảng trên mặt nước lại có cái gì lóng lánh thành một tia sáng dài, hệt như ở đó một con rắn bạc đang uốn khúc. Ở bờ bên kia dường như không có nước nữa. Đó là một cõi vô biên sáng loáng trong một bầu trời khác, một bầu trời dưới mặt đất. Những cây sồi, cây bạch dương cổ thụ ở bờ bên ấy giờ đây chừng như cao hơn, cân đối hơn so với ban ngày. Song đẹp hơn cả là một cảnh rừng đang sẫm tối ở dưới bờ ao mà các gốc
https://thuviensach.vn
cây lại lộn lên trên, còn ngọn cây thì đâm vút vào cõi vô biên ấy. Còn ở xa xa, phía sau rừng, bầu trời đã xanh trong, và ở đó, trong đồng ruộng, những con cun cút đã bắt đầu gáy một cách tươi tỉnh và rành rọt... Tôi nhắm mắt lại. Đến khi tôi tỉnh giấc thì trời đã sáng bạch. Toàn bộ mặt ao đều toả khói, khoảng rừng thưa bạc đầu vì sương giá đậm đà, tất cả khu rừng đều lạnh đi, tươi tắn lên và dường như càng đứng sững lại chung quanh ao. Và rồi sau thấy có gió ẩm hút vào cửa sổ, tiếng ếch nhái bắt đầu kêu ran trong ao, con gà trống ở buồng ngoài vỗ cánh phành phạch với vẻ hào hùng rồi gào lên một giọng khàn. Bác Meliton gò lưng xách từ ao về nhà một xô nặng đầy nước sóng sánh, và để lại một vệt xanh óng kéo dài trên dặm cỏ bạc đầu...
Lần cuối cùng tôi đến thăm bác Meliton là vào một ngày nào đó trong vụ đông vừa qua. Tôi nhớ đó là một ngày u ám, đầy sương mù, hơi nước đóng thành một lớp sương giá dày dặn trên cây cối. Tôi đi xe trượt tuyết ra ga để lấy bưu kiện, rồi khi từ ga trở về thì trời đã nhá nhem, và sau khi đã vượt qua những đống tuyết trong sân ga để ra được cánh đồng, tôi bèn quyết định rẽ vào Zakaz. Trời tối rất mau. Do sương giá, con ngựa của tôi sạm cả đi, lông xoắn tít lại, còn lông mi và ria của tôi chẳng mấy chốc cũng như thế nốt. Mới đầu trên cánh đồng thậm chí cách hai bước cũng chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ rặt một màn sương xám xịt, hoang sơ. Nhưng rồi trong màn sương ấy ta thấy cứ sáng dần, sáng dần ra. Một vầng trăng lớn, như một quả bóng thẫm đỏ, vẫn xuyên qua được màn sương, lên cao dần ở đằng xa và bị xẻ ra làm đôi bởi một vệt mây dài phơn phớt màu hoa cà. Càng lên cao vầng trăng càng bỏ lại vệt mây đó ở phía dưới, và càng lóng lánh toả ánh vàng. Tiến gần đến Zakaz, tôi đi vào một bóng tối trải trên cánh đồng cách đó khá xa mà loang lổ đầy những hoa văn của ánh sáng, và cả ở Zakaz toàn bộ cảnh vật trên cánh đồng cũng đã đều loé sáng lên như trong một xứ sở thần tiên nào vậy. Rồi sau đó thấy một đốm lửa nhỏ ở chòi canh lấp lánh lên như một ngôi sao đỏ kỳ dị và thấy tiếng con Krutik sủa lanh lảnh, chạy hết bụi rậm này sang bụi rậm khác, làm vang động khắp cả một khu rừng nhạy cảm và giá lạnh.
Tôi buộc ngựa vào một cây sồi nhỏ, trước chòi canh. Sương giá từ cây sồi lả tả rơi xuống như pháo bông. Tôi đứng một lát và lắng nghe bầu tĩnh
https://thuviensach.vn
mịch sâu lắng của khu rừng, rồi thận trọng tiến lại gần bờ đất ở chân tường chòi canh mà nhòm vào ô cửa sổ đã bị băng phủ tới một nửa. Và một lần nữa tôi lại sửng sốt trước cảnh khắc khổ thiêng liêng trong cuộc sống ẩn dật xa lánh người đời của ông già. Ở tận phía sau trong căn nhà gỗ mờ sáng lờ mờ và ám khói đen sì này, bác Meliton đang đứng trước một tấm ván mỏng treo tượng thánh đặt ở góc nhà mà nhắm mắt lại cúi lạy tượng thánh, lúc cúi xuống sát đất, lúc thì cúi đến ngang lưng. Trông qua cũng đủ biết rằng bác vừa tắm gội xong, - mái tóc thưa thớt của bác còn ướt và được chải chuốt chỉnh tề, cằm bác cạo nhẵn, chiếc áo sơ mi trắng dài của bác buông chùng. Đôi lúc bác lại còn ngả đầu ra đằng sau và cứ đứng như thế mãi với đôi mắt trợn ngược...
Tối hôm đó bác cũng lại vẫn ít nói, nhưng đặc biệt tỏ ra hiền hòa và trìu mến. Căn nhà gỗ ấm và ẩm, khác nào một buồng tắm. Tôi trút bỏ áo choàng lông mà ngồi xuống ghế dài. Còn bác thì cứ dướn thẳng người đứng trước mặt tôi, từ tốn trả lời và lúc nào cũng hạ mí mắt xuống. Cuối cùng, lúc sắp sửa ra về, tôi như tuồng tiện thể hỏi qua:
- Bác Meliton, sao lúc nào cũng thấy bác có vẻ buồn rầu thế? Bác ngạc nhiên:
- Tôi ấy ạ? - bác cuống quít hỏi lại. - Tôi có sao đâu ạ... Hẳn là tôi già nua...
- Hay bác đang đau lòng chuyện gì? - tôi nhìn thẳng vào mắt bác và nói. - Lạy Chúa tha tội! - bác vội vã nói. - Tôi vẫn canh phòng đấy ạ... - Ồ không, tôi có nói chuyện ấy đâu, - tôi ngượng ngùng bảo. - Tôi hỏi là...
Bác hiểu ra, bình tâm lại, rồi bác dịu dàng mỉm cười, lim dim đôi mắt. - Thế mà tôi cứ tưởng là cậu có điều gì phật ý, - bác nói. - Còn chuyện vì sao tôi không vui, thì giờ đây tôi còn vui vẻ nỗi gì cơ chứ? Mới lại tôi tội lỗi đã nhiều.
- Bác tội lỗi cái gì, bác Meliton!
- Tội lỗi thì ai mà chẳng có ạ, - bác nghiêm trang nói.
- Con người ta sống chính là để ăn năn tội lỗi.
https://thuviensach.vn
- Vậy mà bác vẫn sống như một vị thánh nhân ấy. Cả đời bác cứ ăn chay hoài.
Bác lại ngạc nhiên và thậm chí hơi có vẻ nhăn nhó.
- Tôi cũng ăn uống như mọi người thôi ạ, - bác líu tíu nói. - Người ta ăn không được như tôi mà cũng chẳng phàn nàn gì khiến Chúa phải nổi giận nữa là.
- Ồ, nếu vậy thì chúc bác mạnh khỏe nhé, chào bác, - tôi nói, đoạn mặc áo choàng lông, cất mình đứng dậy, mở cửa bước ra ngoài trời giá lạnh của đêm trăng.
Trời rét căm căm, bên trên khoảng rừng thưa tuyết phủ, chòm Đại Hùng Tinh treo trên bầu trời như những hạt kim cương. Đầu không mũ, mình mặc độc một chiếc sơ mi, bác Meliton ra đứng ở ngưỡng cửa.
- Chào bác Meliton nhé, - tôi nói và ngồi lên xe trượt tuyết. - Bác vào nhà đi, kẻo cảm lạnh đấy!
- Không đâu ạ. - bác đáp. - Chúc cậu lên đường bình yên ạ... Trên cánh đồng sáng sủa, con ngựa chạy mau và hăng hái, đôi càng trượt tuyết hát lên và rít lên, gió làm bỏng cả mặt và khiến cho cả ria và lông mi đều đông cứng lại. Tôi phải luôn ngoảnh đi để tránh gió, giấu mặt vào chiếc cổ áo bằng lông gấu mèo thơm ngát trong giá lạnh.
1900 -1930
https://thuviensach.vn
Cuộc Đời Tươi Đẹp
Đời tôi vốn dĩ tươi đẹp, cái gì mong ước tôi cũng đều đạt như sở nguyện. Này nhé, cả bất động sản tôi cũng có, - ngôi nhà thì ông già nhà tôi đã sang tên cho tôi ngay sau ngày cưới rồi, - tôi lại có cả mấy con ngựa, một đôi bò cái, và chúng tôi lại còn có cả cơ ngơi buôn bán nữa kia. Dĩ nhiên, chẳng phải là cửa hiệu to tát gì, mà chỉ là một cái quán bán hàng nhỏ bé nhưng cũng đủ cho cả cái xóm ngoại ô này đến mua. Trong đời tôi luôn gặp may, có điều là về tính nết tôi cũng là con người tần tảo.
Về mọi cung cách làm ăn thì bố tôi đã bảo ban tôi từ thời mồ ma của cụ. Tuy đã goá vợ và nát rượu nhưng cụ cũng là người khôn ngoan, tháo vát và nhẫn tâm chẳng kém gì tôi. Khi đã rắp chí rồi thì cụ mới bảo tôi rằng:
- Này, con gái của bố ơi, bây giờ bố đã làm chủ được mình, ta hãy kiếm tiền đi thôi. Ta sẽ kiếm tiền, ta ra tỉnh ở, ta tậu nhà tậu cửa, bố sẽ gả con gái bố cho một ông khá giả, bố sẽ đàng hoàng. Còn với các ông bà chủ ở đây thì chẳng tội gì ta ngồi lỳ mãi với họ, họ chẳng đáng cho ta đối xử với họ như vậy.
Các ông bà chủ của chúng tôi tuy có tốt bụng thật đấy, nhưng nghèo xác nghèo xơ, quả đúng là những người ăn mày ăn xin. Thế là chúng tôi bỏ họ mà dọn nhà sang làng khác, còn nhà cửa, gia súc với lại hàng quán có gì đem bán tất. Chúng tôi dọn đến ở ngay sát thành phố, trồng bắp cải rẻ cho bà công nương Meserina. Bà ta vốn là thị nữ trong cung vua, người chẳng đẹp đẽ gì, mặt rỗ, ở vậy làm bà cô đầu bạc trắng, chẳng ai lấy, thế cho nên đành sống thầm lặng một mình. Nghĩa là chúng tôi thuê mấy bãi cỏ của bà ta và thật tình là chúng tôi chỉ ở trong một túp lều tranh. Trời lạnh, đã sang thu mà chúng tôi chẳng sá gì. Chúng tôi ngồi chờ đến ngày có những lời lãi lớn, do đó không cảm thấy có gì là tai hại cả. Mà tai hoạ thì nó đã đến nơi rồi kia, lại là tai hoạ đến đâu nữa ấy chứ? Công việc của chúng tôi đã gần đến lúc ăn nên làm ra, thì đột nhiên xảy ra một chuyện lôi thôi kinh khủng. Buổi sáng chúng tôi vừa uống no trà xong, - hôm ấy chả là ngày lễ mà lại, -
https://thuviensach.vn
tôi còn đang đứng vẩn vơ cạnh túp lều thì bỗng thấy có người của nhà thờ tiến vào nội cỏ. Bố tôi lại đi chặt bắp cải mất rồi. Hôm ấy tuy gió to, nhưng trời đến là sáng sủa, tôi cứ mải nhìn, nên không thấy có hai người đàn ông thình lình đến ngay cạnh mình lúc nào không hay. Một người là ông linh mục cao ơi là cao, mặc áo thụng xám, tay cầm gậy, mặt mày sây sẩm, xám ngắt, mái tóc hệt như bờm một con ngựa đẹp đang dựng lên tua tủa trong gió, - còn người kia là một nông dân bình thường, người làm của ông ta. Họ tiến đến sát tận lều. Tôi khép nép, cúi đầu chào mà rằng:
- Kính lạy cha. Đội ơn cha có lòng hạ cố.
Nhưng tôi thấy ông ta vẻ mặt dữ dằn, buồn bực, cũng chẳng hề đưa mắt nhìn tôi mà chỉ lấy gậy đập nát những cây cối.
- Thế bố mày đâu? - ông ta hỏi.
- Bố con đi chặt bắp cải rồi ạ. Nếu cần thì con có thể đi gọi về. Mà chính bố con đang về rồi kìa.
- Ờ, vậy thì bảo bố mày nhặt nhạnh hết đồ đạc cùng với cái thứ xamovar ghẻ lở này rồi cuốn xéo khỏi nơi này. Từ nay trở đi tuần phiên của tao sẽ đến đây canh gác.
- Sao lại canh gác ạ? - tôi nói. - Chúng con đã nộp cả tiền chín chục rúp cho công nương rồi mà. Sao cha làm vậy, thưa cha? (Tôi tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã khá láu lỉnh). Ôi chao, - tôi nói, - cha lại còn cười nữa ư? Cha phải cho chúng con xem giấy chứ ạ. - tôi nói tiếp.
- Đừng có già mồm, - ông ta thét - Công nương dọn ra tỉnh rồi, tao đã mua những bãi cỏ này của bà ấy, và bây giờ đất này là của riêng của tao. Bản thân ông ta thì vung gậy quật xuống đất, - liệu hồn kẻo gậy này lại quất vỡ mồm bây giờ.
Thấy sự thế như vậy, bố tôi bèn chạy lại, - bố tôi vốn là người nóng tính ghê gớm, - chạy đến nơi cụ hỏi:
- Làm gì mà ầm ĩ lên thế? Cha ơi, tại sao cha lại thét mắng con gái tôi, cha không biết đạo lý gì sao? Cha không thể vung gậy, mà phải thẳng thắn giảng giải cho chúng tôi rõ cha có quyền hành gì mà bao chiếm bắp cải của chúng tôi? Tuy chúng tôi nghèo thật, nhưng chúng tôi cũng sẽ hầu kiện ra
https://thuviensach.vn
toà. Cha là bậc tu hành, - cụ nói, - cha không thể có lòng oán hờn được, kẻo mà người em trai của cha sẽ không sao tròn được quả phúc. Té ra bố tôi cũng chẳng nói điều gì sỗ sàng với ông ta cả, còn ông ta tuy là linh mục nhưng dữ dằn chẳng kém gì một gã nông dân quèn bình thường nhất, cho nên, nghĩa là khi nghe bố tôi nói vậy thì mặt ông ta trắng bệch cả ra, không nói được một lời nào, hoạ chăng chỉ có đôi chân ông ta run lên bần bật trong tà áo thụng. Thế rồi nào ông ta lại rít lên, nào ông ta xông lại chỗ bố tôi, nghĩa là để mà lấy gậy choảng vào đầu bố tôi! Bố tôi bèn né mình tránh được, nắm lấy gậy, giật ra khỏi tay ông ta, đoạn kề xuống đùi bẻ đánh rắc một cái! Ông ta định chồm vào ngực bố tôi, nhưng bố tôi đã bẻ gãy chiếc gậy ra làm đôi, quẳng tít ra xa mà hét:
- Trình cha, cha hãy vì Chúa, chớ lại gần! - cụ thét. - Cha hắc ám, gian xảo nhưng tôi còn gian xảo hơn kia đấy.
Thế là người ta nắm lấy tay cụ lôi đi!
Hết kiện lại tụng, người ta bắt bố tôi đi đày vì chính cái chuyện đó, vì đã xúc phạm đến bậc tu hành, vì ngụ cư trái phép. Mình tôi còn lại trên cõi đời này và tôi nghĩ bụng: mình làm thế nào bây giờ? Rõ ràng là sống với lẽ phải là không được rồi, và rõ ràng là phải tính toán thận trọng mới được. Tôi suy nghĩ có tới đến một năm rồi đến ở với bà cô, và tôi thấy: mình chẳng chạy
đâu cho thoát, phải mau mau chóng chóng lấy chồng đi thôi. Bố tôi có một người bạn tốt trong thành phố, làm nghề sửa chữa yên cương, - chính ông ấy đã dạm hỏi tôi. Không thể nói ông ấy là một chàng rể xuất sắc được, nhưng dù sao lấy ông ta cũng có lợi. Quả thật là tôi cũng có thích một người, tôi rất thích đấy, nhưng anh ta cũng lại nghèo chẳng kém gì tôi, chính anh ta cũng đi ở cho người khác, còn dù sao cái ông này cũng vẫn chẳng lệ thuộc vào ai cả. Tôi chẳng có một xu của hồi môn nào, mà đám này tôi thấy rõ họ chỉ lấy không thôi, sao lại bỏ mất một cơ hội như vậy được? Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi bằng lòng, mặc dù dĩ nhiên tôi biết là ông ta đã luống tuổi, rượu chè, tính hay nóng nảy, nói quá đáng là một quân ăn cướp... Tôi lấy chồng và như vậy không còn là một cô gái bình thường nữa, mà đã là Naxtaxia Xemionovna Giokhova, một thị dân trong thành phố... Kể ra cũng hởi lòng hởi dạ, điều đó dễ hiểu thôi.
https://thuviensach.vn
Với ông chồng ấy tôi khổ sở chín năm trời. Được tiếng là thị dân mà nghèo rớt, chẳng hơn gì nông dân. Lại chửi bới, cãi lộn nhau hàng ngày. Ờ, may mà trời cũng còn thương tôi, đem ông ấy đi. Con riêng của ông ấy chết
ráo, chỉ còn lại hai thằng bé, một thằng Vania lên chín, một thằng nữa còn đang phải bế ẵm. Cái thằng bé này mạnh khỏe mà vui nhộn ghê, lúc mười tháng đã biết đi, biết nói, mà con của tôi ấy à, đứa nào cũng cứ được mười một tháng là đều bắt đầu biết đi, biết nói tuốt, - và nó tự mình uống trà
được, đôi khi dùng cả hai tay khư khư lấy cái đĩa, chẳng sao giằng lấy nổi của nó... Duy chỉ có điều là cái thằng bé ấy cũng chết nốt, lúc còn chưa đầy năm. Một hôm tôi vừa ngoài sông về, thì cô em chồng (chả là cô ấy cùng với tôi thuê chung một căn hộ) bảo:
- Hôm nay thằng Koxtia nhà chị nó khóc lăn khóc lộn suốt ngày. Em đã dỗ nó đủ trò, hết múa lại búng ngón tay, rồi lại cho uống cả nước đường, thế mà nó chỉ nghẹn, rồi lại sặc nữa. Hoặc là nó bị cảm lạnh, hoặc là nó ăn phải cái gì đó, bởi vì trẻ con cái gì nó cũng nhét vào miệng cả ấy mà, làm sao mình để mắt hết được?
Thế là tôi bủn rủn cả người. Tôi bèn chạy xổ đến bên nôi, gạt chiếc rèm che ra xem thì thấy nó đã bắt đầu lả ra rồi, thậm chí không kêu khóc gì được nữa cả. Cô em chồng liền chạy đi mời ông y sĩ quen, ông ấy đến, - hỏi: Các chị cho cháu nó ăn cái gì?
- Chỉ cho ăn cháo bột thôi ạ.
- Thế nó không chơi nghịch cái gì chứ?
- Đúng thế ạ, nó có chơi nghịch đấy ạ, - cô em chồng nói. - Ở đây có những vòng đồng ở đai cổ ngựa rơi ra lăn lóc, nó có chơi nghịch những cái vòng ấy.
- Thôi, - ông y sĩ bảo, - nhất định là nuốt cái vòng ấy vào bụng rồi. Chặt tay các chị đi cho xong! - ông ấy nói. - Các chị gây ra chuyện rồi đấy, thằng bé của các chị chẳng sống được nữa đâu!
Quả nhiên, sự việc ấy xảy ra đúng như lời ông ấy nói. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ thì thằng bé chết mất. Chúng tôi xoay đi xoay lại như chong chóng, mà chẳng làm nên trò trống gì, - rõ rành là chẳng sao chống nổi mệnh trời. Thế là tôi đành đem chôn nốt thằng bé đó, chỉ còn lại mỗi mình thằng
https://thuviensach.vn
Vania. Tuy còn lại một mình nó đấy, nhưng như người ta thường nói: một mình vẫn đủ tình đủ tội. Người thì bé, nhưng ngày càng ăn nhiều, uống khỏe chẳng kém người lớn. Tôi định đi làm người ở rửa sàn nhà cho ông quan năm nhà binh Nikulin. Nhà ông này có của nả vốn liếng, thuê cả một căn hộ, mỗi tháng trả tới ba chục rúp tiền nhà. Bản thân họ ở tầng trên, còn tầng dưới là bếp. Người làm bếp cho họ là một cô thật chịu thương chịu khó, nhưng tính nết rất phóng đãng. Thế là cô ta chửa ễnh ra, điều đó cũng dễ hiểu thôi. Cô ta không cúi người xuống để lau sàn được nữa, không kéo nỗi tấm cửa lò bằng gang ra... Cô ấy phải bỏ việc đi đẻ, thế là tôi bèn vội đến chiếm chỗ của cô ấy, khéo léo chạy cho mau lại làm với ông bà chủ. Quả vậy, từ hồi còn nhỏ tôi vốn đã khôn ngoan, khéo léo, thường đã làm việc gì là đều làm thật sạch sẽ, tươm tất, ăn đứt bất kỳ một người hầu bàn chuyên môn nào, mà lại cũng biết cả cách chiều lòng người nữa: kệ cho nhà chủ muốn nói gì thì nói, tôi chỉ rặt “dạ - dạ”, với lại “đúng thế”, với lại “quả là không sai tẹo nào... ”. Thường là tôi dậy từ lúc tờ mờ ánh trăng, lau chùi thật sạch các sàn nhà, đốt lò, cọ rửa xamovar - nhà chủ tỉnh giấc là tôi đã làm xong xuôi đâu đấy cả rồi. Mà cả bản thân tôi nữa, điều dễ hiểu là tôi cũng vốn ưa sạch sẽ, khéo chân khéo tay, tuy bản tính có khô khan, nhưng xinh đẹp. Cũng có lúc tôi thấy tiếc cho mình: tại sao có sắc đẹp nhường ấy mà lại rơi vào số phận làm công việc đầu tắt mặt tối như thế?
Tôi bụng bảo dạ rằng: phải biết nắm lấy thời cơ. Mà thời cơ ở đây chính là ở cái ông đại tá này, ông ấy khỏe mạnh kinh khủng, ông ấy không sao có thể dằn lòng khi trông thấy tôi, còn bà đại tá của ông ta lại là người Đức, to béo, ốm o, hơn ông ta có đến mười tuổi. Ông ta là người xấu xí, phục phịch,
chân ngắn, trông giống như con lợn lòi, mà bà ta lại còn tệ hơn thế nữa kia. Tôi thấy rõ là ông ta đã bắt đầu ve vãn tôi, cứ xuống bếp tôi mà ngồi, lại bày cho tôi cách hút thuốc lá nữa. Vợ vừa ra khỏi cổng là y như rằng đã thấy mặt ông ấy rồi. Ông ấy đuổi người lính hầu ra tỉnh, giả bộ là có công việc, rồi đến ngồi đó. Tôi ngán ông ấy muốn chết, thế nhưng, dĩ nhiên là tôi cứ giả vờ nào là cười cợt, nào là ngồi rung đùi, - nghĩa là dùng đủ mọi cách để khêu gợi ông ta... Bởi vì, làm thế nào được, tôi thì nghèo, mà đằng kia thì như người ta thường nói, có mất chút gì cũng chỉ là voi rụng lông đuôi.
https://thuviensach.vn
Một lần, hình như vào ngày sinh nhật của vua, ông ta xuất hiện trong bếp với toàn bộ sắc phục của mình, đeo cả ngù vai, lưng thắt một cái dây lưng trắng hệt như một cái đai ấy, tay đi găng da loại cực mềm, cổ bạnh ra, cúc
cổ cài chặt đến nỗi mặt tím cả lại, toàn thân sực nức mùi nước hoa, cặp mắt ánh lên, bộ ria đen dày cộp... Ông ấy bước vào rồi bảo:
- Tao với bà lớn đi nhà thờ bây giờ đây. Mày lau cho tao đôi ủng, kẻo bụi bẩn quá. Chưa đi qua sân mà bụi đã bám đầy.
Ông ta đặt một chân dận trong một chiếc ủng véc ni lên một chiếc ghế dài, thật ra chỉ là một cái giá gỗ nào đó. Tôi cúi xuống, toan lau thì ông ta bíu ngay lấy cổ tôi, thậm chí kéo trật cả khăn vuông ra, rồi ghì chặt tôi vào ngực ông ấy, và đã định lôi tôi vào sau lò. Tôi giằng ra, kéo lại mà không sao vùng ra được khỏi tay ông ta, còn ông ta thì người nóng như lửa, mặt đỏ bừng bừng, nghĩa là ông ta cố đè tôi xuống, tìm mặt tôi để hôn.
- Ông làm gì thế này! - tôi nói. - Bà lớn đến kia, ông hãy vì đức Kirixitô (32) mà đi đi!
- Nếu mày yêu tao, - ông ta nói, - thì tao không tiếc mày cái gì hết.. - Chúng tôi hiểu những lời hứa ấy như thế nào bây giờ!
- Đừng đi đâu sất cả, tao dù chết cũng không hối hận gì.
Ờ, sau đó là vân vân những lời đại loại như vậy, điều đó cũng dễ hiểu thôi. Còn tôi, thật tình ra thì lúc bấy giờ tôi suy nghĩ thế nào? Kể ra tôi rất có thể xiêu lòng về những lời của ông ta đấy, nhưng may sao sự việc của ông ta không thành. Một lần khác ông ta lại ôm chặt lấy tôi không phải lúc, tôi vùng ra được, đầu tóc rũ rượi, điên cả tiết lên, còn bà ta, bà lớn chủ nhà ấy mà, thì bà ấy đã ở ngay trước mắt: bà ấy từ trên nhà xuống, diện bảnh, người to béo, vàng ệch cả ra như kẻ đã chết rồi. Bà ấy rên rỉ, loạt xoạt chiếc xiêm trên cầu thang gác. Tôi đã vùng ra được mà đứng đó, đầu không còn khăn, còn bà ấy thì đã đến ngay kia, đi thẳng đến chỗ chúng tôi. Ông ta luồn qua bà ta mà lủi mất, còn tôi thì cứ đứng trơ thổ địa, chẳng biết làm thế nào. Bà ta đứng đó một lát, đứng đối diện với tôi, tay nâng tà áo lụa, - như hiện thời tôi nhớ được, thì bà ta diện bảnh để đi thăm người ta, bà mặc một tấm xiêm lụa nâu, đeo đôi bao tay trắng, mang dù nhỏ, đội một chiếc mũ nhỏ
https://thuviensach.vn
như kiểu một chiếc lẵng con, - bà ta đứng, rên rỉ lên rồi đi ra. Quả vậy, với ông ta và cả với tôi, bà chẳng hé miệng nói nửa lời. Rồi khi ông đại tá vừa đi Kiev thì bà ta mới lập tức đuổi tôi ra.
Tôi bèn thu nhặt đồ đoàn của mình trở về với cô em chồng (chả là thẳng Vania vẫn ở với cô nó). Ra khỏi nơi đó rồi, tôi lại nghĩ: tôi bỏ hoài mất trí khôn của mình, chẳng kiếm chác được gì, tấm chồng cho đáng tấm chồng cũng không, mà của riêng cũng chẳng có, thế là trời phụ tôi mất rồi! Mình sẽ lại phải ra tay một lần nữa, - tôi nghĩ vậy, - dù có chết chăng nữa thì cũng sẽ cố đạt được chí nguyện của mình, sẽ có vốn liếng riêng của mình! Tôi nghĩ hoài, nghĩ mãi như thế, rồi cho thằng Vania đi học việc ở bác thợ may, còn mình thì đi làm hầu buồng, cuối cùng vào ở hẳn cho ông nhà buôn Xamokhvalov, và ở đấy tất cả tới bảy năm tròn... Chính từ đấy mà tôi mới nổi được cơ đồ.
Người ta trả tiền công cho tôi được hai rúp hai mươi nhăm kôpêch. Có hai người hầu là tôi với lại cô gái Vera. Cứ một ngày thì tôi hầu bàn cô ta rửa bát đĩa, ngày hôm sau thì tôi rửa bát đĩa, cô ta phục vụ bàn ăn. Gia đình này cũng không nói là to lớn gì được: ông chủ Matvei Ivanovits, bà chủ Liubov Ivanna, hai cô con gái lớn, hai cậu con trai. Bản thân ông chủ là con người nghiêm nghị, ít nói, ngày thường chẳng bao giờ ở nhà, nhưng ngày lễ ngày tết thì cứ ngồi tịt ở buồng mình nên gác, đọc đủ thứ báo chí và hút xì gà. Còn bà chủ thì mộc mạc, tốt bụng, và cũng chỉ là thị dân như tôi mà thôi. Hai cô con gái là Ania và Klasa thì chẳng bao lâu ông bà chủ cũng đã gả chồng và cho cưới trong cùng một năm, - cả hai cô đều lấy quân nhân. Quả tình là chính trong lúc này tôi mới dành dụm được ít nhiều: các quân nhân đã thưởng cho chúng tôi vô khối tiền trà nước. Chỉ cần làm những việc thậm chí là chẳng đâu vào đâu, như lúc thì đưa bao diêm đến, lúc thì mang áo capốt và giày cao su lại, - thế là được ngay hai mươi, ba mươi xu... Mà chúng tôi lại làm ăn sạch sẽ nên quân nhân họ thích lắm. Cái con Vera ấy à, quả tình là nó hay làm ra cái bộ tịch gì ấy, như tuồng một tiểu thư nào đó, - bước đi lon xon, vẻ dịu dàng và tính hay hờn giận đáo để, chỉ hơi một tí là lập tức nhíu ngay đôi mày đầy lông tơ của mình lại, đôi môi mọng như quả anh đào bắt đầu run lên và nước mắt đã trào trên mi, - thật thế, những
https://thuviensach.vn
hàng lông mi quả là đẹp, dài, tôi chưa từng thấy ai có những hàng mi như thế bao giờ! - Ờ, thế nhưng tôi, tôi lại khôn ngoan hơn. Tôi thường hay mặc một chiếc áo chẽn thân vải trơn, có viền thêm đăng ten, cộc tay, đầu vấn đuôi sam với một dải nhung đen, đeo tạp dề trắng hồ bột, - như vậy thậm chí trông tôi lại rất dễ coi nữa kia. Còn cái con Vera ấy mà, nó lúc nào cũng bó mình vào chiếc coócxê, - bó chặt cứng đến không sức nào chịu nổi nữa, đến nỗi nó nhức đầu phải buồn nôn lên ngay bây giờ đấy! Thế còn tôi thì cả đời tôi chẳng biết cái coócxê là gì, vậy mà tôi vẫn gọn gàng như thường... Và khi các quân nhân họ về rồi, thì lại đến lượt các cậu con chủ nhà thưởng tiền cho chúng tôi.
Cậu con trai lớn, khi tôi mới bước chân đến, cậu ta khoảng hai mươi, còn cậu em thì đã qua tuổi mười bốn. Cái thằng bé này nó què quặt, chỉ rặt ngồi nhà chẳng đi đâu được sất. Có bao nhiêu chân tay nó đều làm gãy ráo và bấy nhiêu lần tôi đều được thấy rõ cả. Mỗi lần bị gãy thì lập tức có đốc tờ đến ngay, băng bó cho nó bằng đủ mọi thứ bông, gạc, đoạn rót vào đó một thứ gì đó như là thứ nước vôi ấy, rồi thứ nước vôi này khô đi cùng với băng gạc, biến thành một thứ như cái nẹp ấy, thế rồi khi sắp khỏi thì ông đốc tờ đến rạch hết ra, tháo gỡ tuốt, - thế là, trông kìa, cánh tay đã lành lặn rồi. Thằng bé ấy nó không tự đi được, mà chỉ lết. Nhiều khi phải đi qua cả bậc ngưỡng cửa, cả cầu thang gác nó cũng đều cứ lết như thế. Thậm chí nó phải bò qua cả một cái sân để vào trong vườn. Đầu nó to tướng, hệt như đầu ông bố, hai bên tóc mai của nó xù xì, hung hung như lông chó, mặt nó phèn phẹt, già cấc. Là bởi vì nó ăn ghê gớm và ăn đủ thứ: cả xúc xích, cả những nắm sôcôla, cả bánh mì quấn thừng, cả bánh min-phơi (33), - ăn kỳ thích khẩu thì thôi. Còn chân, tay nó thì mảnh khảnh như chân cẳng con cừu vậy, chân tay nào cũng gãy ráo, đầy sẹo. Nhưng nó vẫn được nuôi nấng đàng hoàng mãi như vậy, người ta vẫn may cho nó những chiếc sơ mi dài. Học hành thì đã có bà giáo ở trường dòng đến dạy, bà ta đến tận nhà. Thằng bé học rất cừ, nó thông minh đáo để! Nó lại còn chơi được cả đàn gió nữa kia đấy, và khó có thể có người chơi hay được như thế! Vừa kéo đàn lại vừa hát theo. Giọng nó khỏe, vang lanh lảnh. Nhiều lúc nó cất cao giọng, cao giọng
https://thuviensach.vn
lên mãi: “Tôi là anh thầy tu, tôi vốn người khôi ngô!..”. Nó thường hay hát cái bài ấy.
Cậu lớn thì khỏe mạnh, thế nhưng cũng ngốc nghếch thế nào ấy, chẳng làm được tích sự gì. Ông bà chủ đưa cậu ấy vào học đủ các thứ trường lớp, mà nơi nào người ta cũng đuổi ra, chẳng học hành được gì. Cứ tối đến là cậu ta chuồn đi đâu mất cho tới tận tảng sáng. Nhưng cậu ta vẫn sợ mẹ, thường là không dám đi lối cửa trước. Thế là chiều đến tôi lỉnh ra, chờ cho ông bà chủ ngủ một cái là lẻn vào buồng trên, mở sẵn cửa sổ trong chiếc thư phòng nhỏ của cậu ta, rồi lại trả về ngay buồng mình. Cậu ta tháo ủng ở bên ngoài, chỉ đi độc có bít tất trèo qua cửa sổ mà vào và mọi việc êm ru. Ngày hôm sau cậu ta dậy, giả tảng như đêm qua chẳng hề đi đâu cả, thế nhưng ở nơi kín đáo thì cậu ta lại dúi cho tôi những gì cần thiết. Còn tôi thì có gì mà lo ngại đâu, tôi hết sức vui sướng mà nhận lấy thôi! Cậu ta có chết ngoẻo thì cũng kệ thây cậu ấy chứ... Thế rồi tôi lại còn có khoản thu nhập từ phía cậu nhỏ Nikanor Matveits nữa kia.
Lúc bấy giờ có thể nói là ngày đêm tôi kiên trì đạt đến mục đích của mình. Cứ mỗi lần nắm chắc được tình hình dứt khoát có thể đảm bảo cho mình, thì vị trí của tôi lại càng được vững vàng trong cuộc sống ở đấy. Thường là tôi chắt chiu từng đồng xu, chả là vì đồng tiền có cánh mà lại, động hé tay ra là bay mất ngay! Tôi bèn làm cho chính cái con bé Vera ấy nó không sao ở nổi nữa, - mà nói quá đáng, nó ở đây cũng chẳng cần thiết gì, tôi đã nói với nhà chủ rằng: chỉ mình tôi làm cũng xong, thà ông bà giao cho tôi làm thêm công việc vớ vẩn gì đó nữa còn hơn, - và thế là tôi ở lại một mình và điều khiển ráo. Tiền lương mới chưa kịp lĩnh nóng tay, số tiền của tôi đã tăng lên đến hai chục, hăm nhăm rúp, tôi bèn xin phép bà chủ đi xe ngựa đến nhà băng để gửi tiền ghi tên mình. Quần áo, giày dép nhà chủ đã cho cả rồi, tiền tôi còn tiêu vào đâu được nữa? Vậy mà, xin Chúa tha tội, cái thằng què quặt ấy nó lại mê tôi chứ, sung sướng thay cho tôi, mà khổ thay cho nó...
Giờ đây, cũng dễ hiểu thôi, tôi thường bụng bảo dạ rằng: có lẽ vì nó mà Chúa trừng phạt tôi bằng thằng con trai của tôi cũng nên! Sau đây rồi tôi sẽ kể hành tung của nó ra sao, nhưng quả là đôi lúc tôi nghĩ không ra, bởi lẽ
https://thuviensach.vn
cần hiểu rằng tinh hình thật hết sức đáng giận, nhiều khi tôi nhìn vào cái thằng què quặt, thấy cái đầu to kếch xù của nó mà phát chán! “Làm sao mà cái số của mày được sung sướng như vậy! Què quặt đến như thế mà lại được sống trong cảnh giàu có nhường ấy. Còn thằng con tao khôi ngô như thế, ngày lễ ngày hội cũng chẳng được ăn, được uống bằng nửa cái ngày thường, cái ăn chơi ăn bời của mày!”. Tôi bắt đầu để ý thấy tuồng như là nó đã mê tôi, ờ nhé, quả là con mắt nó chẳng rời khuôn mặt tôi lúc nào cả. Lúc bấy giờ nó đã mười sáu tuổi đầu và đã bắt đầu mặc quần ống rộng, bắt đầu thắt đai sơ mi, và bắt đầu có ria đỏ lún phún. Nhưng, xin Chúa tha tội, sao mà nó xấu xí thế, mặt nó đầy tàn hương, mắt nó xanh lè. Khuôn mặt thì to mà trơ ra những xương cùng xẩu. Mới đầu hẳn nó tưởng tượng rằng người ta có thể thích nó, nó bèn ăn mặc diện vào, mua hạt quỳ về cắn, rồi thường hay kéo vang chiếc đàn gió để cho mình phải say tiếng đàn của nó. Quả là nó chơi hay thật. Nhưng sau đó chẳng thấy ăn thua gì, thì nó thôi kéo đàn và thừ người ra đăm chiêu. Có một lần tôi đang đứng ở gác thượng, nhìn xuống thì thấy nó đang bò ở giữa sân với một chiếc đàn gió mới của Đức, và lần này nó cũng lại mày râu nhẵn nhụi, đầu tóc chải mượt, mặc chiếc áo sơ mi xanh lơ cổ tay chéo mà cao, cài ba cúc. Nó nghển cổ nhìn, nghĩa là nó đang tìm tôi. Nó nhìn, nhìn mãi, cặp mắt thờ thẫn và mờ mịt đi, rồi... rồi nó ca vang lên theo một điệu polka:
Nhanh lên em hỡi nhanh chân lên,
Điệu polka anh sẽ nhảy cùng em,
Dễ dàng, khi bước theo nhịp vũ,
Thổ lộ mối tình chứa trong tim.
Còn tôi, tôi làm ra vẻ không nhìn thấy, lấy cái âu rửa ấm chén hắt nước xuống! Hắt xuống rồi mà bản thân thấy không vui, lại rất sợ hãi nữa: mình sẽ bị mắng mỏ bây giờ đây chứ chả chơi! Thế nhưng lại thấy cậu nhỏ bò đi, rồi cậu ta ra sức leo lên cầu thang, một tay phủi quần áo, tay kia lôi xềnh xệch cái đàn gió, cụp mắt xuống, mặt trắng bệch cả ra. Cậu ta lại nói một cách khiêm nhường nữa chứ, giọng run run:
https://thuviensach.vn
- Phỉ thui cái tay cô nhé. Cô làm thế là có tội đấy, Naxtia ạ. Và chỉ thế thôi... quả là cậu ta hiền thật.
Lúc bấy giờ ấy à, cậu ta gầy rạc đi từng giờ chứ đừng nói là từng ngày, và ông đốc tờ ông ấy bảo là cậu ta chẳng sống được bao lâu nữa, nhất định sẽ chết vì ho lao thôi. Thường là tôi cũng ngại tiếp xúc với cậu ta. Thế nhưng rõ ràng người nghèo đâu có ngần ngại được, có tiền làm cái gì mà chẳng xong, chính vì thế nên cậu ta bắt đầu mua chuộc tôi. Thường là khi mọi người đã đi ngủ trưa cả rồi thì cậu ta lập tức gọi tôi lại, lúc thì ở ngoài vườn, lúc thì ở trong buồng mình. (Cậu ta ở tách biệt với tất cả mọi người, ở dưới nhà, trong một căn buồng lớn, ấm áp nhưng buồn tẻ, các cửa sổ đều trông ra sân, trần thấp, các bức thảm treo tường đều cũ kỹ, màu nâu).
- Cô ngồi đây với tôi một lát, - cậu ta nói, - rồi tôi sẽ cho cô tiền. Tôi chẳng đòi hỏi gì ở cô cả đâu, chỉ là vì tôi yêu cô nên muốn ngồi với cô một lát mà thôi. Một mình giữa bốn bức tường, buồn chết mất.
Ờ, thế là tôi cầm lấy tiền và tôi ngồi. Và chỉ bằng cách đó tôi đã kiếm được gần năm chục rúp. Cộng thêm với số tiền lương của tôi khoảng bốn trăm rúp gửi nhà băng để lấy lãi nữa. Tôi nghĩ bụng, thế nghĩa là bây giờ đã đến lúc mình phải bò dần ra khỏi cái gông đeo cổ. Nhưng tôi lại tiếc rẻ, muốn nán lại thêm một hai năm, tích luỹ thêm ít nữa, mà điều chủ yếu là có lần cậu ta có buột miệng cho tôi biết rằng cậu ta có một ống tiền riêng, đựng khoảng hai trăm rúp tiền lẻ của mẹ cậu cho (điều này dễ hiểu thôi, cậu ta ốm đau luôn nằm một mình trong giường, thế là bà mẹ thường giúi tiền cho cậu ta chơi). Còn tôi, thỉnh thoảng tôi nghĩ bụng lạy Chúa tha tội cho chứ, giá cậu ấy đưa cho mình số tiền đó thì hay biết bao! Dù sao chăng nữa thì cậu ấy cần gì đến số tiền ấy, cậu ấy chết đến nơi rồi, còn tôi thì có thể ăn được cả đời. Tôi chỉ chờ có dịp là sẽ thực hiện được việc đó cho khôn ngoan hơn. Điều dễ hiểu là tôi bắt đầu dịu dàng với cậu ta hơn, năng đến ngồi với cậu ta hơn. Thường là tôi vào buồng cậu ta, lại còn cố ý ngoái lại nhìn, ra vẻ vụng trộm, rồi khép cửa lại mà thì thào:
- Đấy nhé, thế là em đã tách ra một mình được rồi, ta ngồi với nhau đi. Nghĩa là tôi làm như tuồng hai bên đã hẹn hò với nhau hệt như vừa bẽn lẽn, lại vừa mừng là mình đã tách ra được để bây giờ có thể ngồi chơi với
https://thuviensach.vn
cậu ta. Rồi sau tôi lại giả tảng buồn chán, đăm chiêu. Thế là cậu ta săn đón: - Naxti (34), sao em lại ỉu xìu đi như vậy?
- Thế đấy, em đâu thiếu nỗi đau khổ!
Tôi lại còn thở dài, nín lặng và đưa tay lên chống lấy má.
- Nhưng có chuyện gì cơ chứ? - cậu ta nói.
- Người nghèo thì thiếu gì chuyện nghĩ ngợi mà nào có ai lo hộ cho họ? Em cũng chẳng muốn nói ra những câu chuyện ấy kẻo làm cậu lại chán chường.
Ờ, thế mà cậu ta cũng mau chóng đoán biết được đấy. Tôi đã bảo cậu ta thông minh mà lị, chẳng kém gì những người mạnh khỏe đâu. Có một lần tôi đến chỗ cậu ấy, - câu chuyện xảy ra như hiện nay tôi nhớ được, là vào ngày lễ Thánh giá, trời hôm ấy sao mà âm u, ẩm ướt, có sương mù, trong nhà mọi người đều đi ngủ trưa cả, - tôi bước vào buồng cậu ta với đồ khâu trên tay (hôm ấy tôi đang khâu vá gì đó), ngồi vào bên giường, và chỉ đến lúc bấy giờ tôi mới tính chuyện thở dài, mới tính chuyện lại giả vờ buồn rầu để dần dần gợi cho cậu ta suy nghĩ và tự mình nói ra. Như hiện thời tôi nhớ được thì cậu ta nằm, mình bận một chiếc sơ mi màu hồng, mới nguyên chưa giặt, mặc quần rộng ống màu xanh lơ, đi đôi ủng ngắn mới, ống ủng đánh vécni, vắt chân chữ ngũ, đưa mắt liếc nhìn. Tay áo thì rộng thùng thình, quần lại càng rộng hơn, mà chân tay lại như que tăm: đầu thì nặng, to, mà mình thì bé tí tẹo, - thậm chí chỉ nhìn cũng đã thấy ngán rồi. Thoạt trông thì tưởng là một thằng bé con, thế nhưng mặt thì lại già cấc, mà ria lại rậm (mặc dù có vẻ hơi tre trẻ một chút, do cạo râu đấy thôi). Cậu ta hầu như ngày nào cũng cạo râu vì râu đã bắt đầu lún phún, hai tay đã đầy tàn nhang thì chớ, lại còn mọc đầy lông màu hung hung. Tôi đang kể là cậu ta nằm, tóc chải lệch, rồi cậu ta quay mặt vào tường, lấy tay cạo cạo vào tấm thảm treo tường và bỗng gọi:
- Naxti!
Tôi thậm chí giật bắn cả người.
- Gì vậy, cậu Nikanor Matveits?
Mồm nói vậy mà bản thân tôi tim rụng rời.
https://thuviensach.vn
- Cô có biết ống tiền tôi để đâu không?
- Không ạ, - tôi nói, - cái đó làm sao em biết được, cậu Nikanor Matveits. Em chả đời nào có bụng dạ xấu đối với cậu.
- Cô đứng dậy, kéo ngăn dưới ở tủ đựng quần áo, lôi cái đàn gió cũ ra, ống tiền để trong ấy. Cô đưa lại đây cho tôi.
- Mà cậu lấy ra làm gì?
- Cứ đưa cho tôi. Tôi muốn đếm tiền.
Tôi liền thò tay vào ngăn kéo tủ, mở nắp chiếc đàn gió ra, thấy trong hộp hơi của đàn có một con voi bằng sắt tây và cảm thấy nó khá là nặng. Tôi lấy ra, đưa cho cậu ta. Cậu ta cầm lấy, xóc nó kêu lạch cạch rồi đặt xuống bên mình, - hệt như một đứa trẻ con, trời ạ! - đoạn ngẫm nghĩ điều gì đó. Cậu ta cứ nín lặng, nín lặng hoài, rồi cười nhạt mà bảo:
- Naxti ạ, hôm nay tôi mơ thấy một giấc mơ sung sướng, thậm chí tới sáng bảnh mới tỉnh giấc, và cả sáng nay cho tới bữa ăn trưa tôi đều cảm thấy rất dễ chịu. Cô nhìn đây, thậm chí tôi đã thắng bộ vào chỉ vì cô.
- Nikanor Matveits ạ, cậu bao giờ mà chẳng ăn mặc sạch sẽ. Nhưng thật ra thì chính tôi cũng chẳng hiểu điều mình đang nói nữa, tôi đã hết sức hồi hộp rồi...
- Ôi chà, - cậu ta nói, - tôi thì chỉ có ăn mặc ở thế giới bên kia thì có. Sang thế giới bên kia tôi có đẹp trai đến đâu nữa thì cô cũng chẳng biết đằng nào mà tưởng tượng cho nổi!
Tôi thậm chí đâm ra thương hại cậu ta.
- Đùa bỡn về chuyện ấy là có tội đấy, cậu Nikanor Matveits ạ, với lại cậu nói thế để làm gì, em thậm chí cũng chẳng hiểu nổi nữa. Biết đâu, - tôi nói, - trời lại chẳng để cho cậu lành mạnh trở lại. Thà cậu kể cho em nghe giấc mơ của cậu thế nào thì còn hơn.
Cậu ta lại bắt đầu nói gần nói xa, cười nhạo (như: tôi còn sống nỗi gì!), rồi quay ra nói vẩn nói vơ về con bò cái của nhà, - cậu ta bảo: lạy Chúa, cô hãy nói với mẹ tôi bán quách nó đi, tôi không sao chịu nổi nữa, tôi chán nó quá rồi, tôi nằm trong giường luôn nhìn qua sân vào cái vựa nhỏ nhốt nó, thế mà nó cứ nhìn lại tôi hoài qua chấn song sắt, -còn bản thân cậu ta thì cứ xóc cái ống tiền kêu lách cách và không nhìn thẳng vào tôi. Thế còn tôi thì
https://thuviensach.vn
cứ nghe mà chẳng hiểu được mấy nỗi, - cứ hệt như những người điên ấy thôi, toàn nói những chuyện tào lao - cuối cùng, không chịu nổi nữa (bởi lẽ tôi nghĩ bụng: sắp sửa mọi người tỉnh dậy bây giờ, rồi lại đòi mang xamovar lên thì câu chuyện của mình vứt xuống sông xuống biển ráo!), tôi vội vã ngắt lời cậu ta, giở lối láu cá:
- Mà thôi, - tôi nói, - cậu hãy kể chuyện cậu nằm mơ thế nào đi chứ? Có cái gì về cậu không?
Điều dễ hiểu là tôi chỉ định nói điều gì cho cậu ấy vừa lòng thôi, chẳng ngờ lại tìm được câu nói khéo như thế. Bỗng cậu ta cầm ống tiền lên, rút trong túi quần ra một chiếc chìa khóa bé tí xíu, định mở, nhưng mở mãi không được, tay cậu ta run bắn lên đến nỗi không sao cắm được chìa vào lỗ khoá. Cuối cùng rồi cậu ta cũng mở được, dốc ống tiền xuống bụng mình, - như hiện nay tôi nhớ được thì có hai tờ bạc giấy và tám đồng vàng, - vơ nó vào tay rồi bỗng thì thầm bảo tôi:
- Cô hôn tôi một cái được không?
Tôi khiếp đảm, chân tay rụng rời cả ra, nhưng cậu ta thì cứ như điên như dại, thì thào, sán lại gần:
- Naxtetska (35), chỉ một cái thôi! Có Chúa chứng giám tôi sẽ không bao giờ đòi thêm đâu!
Tôi ngoái lại xem có ai không, - nghĩ bụng, thôi thì muốn ra sao thì ra! - đoạn hôn cậu ta. Thế là cậu ta thậm chí nén cả thở lại, bá lấy cổ tôi, bắt lấy môi của tôi, rồi chừng có tới một phút vẫn không chịu thả ra. Sau đó dúi tất cả tiền vào tay tôi, rồi quay mặt vào tường.
- Cô đi đi, - cậu ta bảo.
Tôi chạy vọt ra ngoài, về thẳng buồng mình. Bỏ tiền vào hòm khoá chặt lại xong, tôi vớ lấy miếng chanh, và cứ môi mà chùi. Chùi kỹ đến nỗi môi trắng bợt cả ra. Quả tình là tôi sợ cậu ta đổ bệnh ho lao sang cho tôi...
Thôi, thế là được, - nhờ trời, chuyện ấy coi như thành công, tôi lại bắt đầu thu va thu vén việc khác, một việc chính yếu hơn mà tôi ra công cố sức hơn cả nhằm đạt tới. Tôi lo chuyện vỡ lở ra và sợ là rồi người ta sẽ không cho mình đi, rồi tôi lại trù tính rằng bây giờ cậu ta sẽ bám níu lấy tôi để đòi
https://thuviensach.vn
tình yêu, sẽ tranh cãi với tôi về số tiền đó... Nhưng không, tôi để ý xem thì thấy chẳng sao cả. Cậu ta cũng chẳng hề lần mò, mà thái độ đối xử vẫn như cũ, vẫn chỉnh chện, tuồng như giữa hai người vẫn không có chuyện gì sất, thậm chí tôi nghĩ là cậu ta lại còn khiêm nhường hơn nữa kia, cũng chẳng hề gọi tôi vào buồng: nghĩa là cậu ta giữ lời hứa. Lúc bấy giờ tôi mới dần dà nói chuyện với nhà chủ, bảo rằng đã đến lúc tôi phải chăm sóc thằng con trai tôi đôi chút và xin nghỉ một thời gian. Nhà chủ nào có chịu nghe tôi nói. Còn về cậu ta thì khỏi phải bàn nữa rồi. Có lần tôi nói bóng gió với cậu ta, thế mà cậu ta đã tái hẳn người đi. Cậu ta quay phắt mặt vào tường mà nói với chút cười khẩy:
- Cô không có quyền làm như thế, - cậu ta bảo. - Cô đã quyến rũ tôi, làm cho tôi quen hơi bén tiếng rồi. Cô phải chờ đấy đã, tôi chẳng sống được bao nhiêu nữa đâu. Còn nếu cô đi thì tôi sẽ treo cổ tự tử ngay đấy.
Đâu lại có con người nhún nhường gớm vậy nhỉ? Ôi chao, tôi nghĩ bụng, cậu trơ tráo quá rồi đấy! Tôi đã vì cậu mà phải chịu ép một bề, vậy mà lại còn đi dọa dẫm tôi nữa! Ồ, không đâu, tôi chả dại gì! Thế là tôi lại càng tìm cách kiếm cớ. Vừa may lúc bấy giờ bà chủ đẻ thêm đứa con gái, có thuê một vú già, - tôi bèn sinh sự ngay, bảo là tôi không thể sống nổi với bà ta. Mà quả thật bà già này cũng là con người nanh ác, buông tuồng đến nỗi chính bà chủ cũng phải sợ, lại còn nát rượu nữa chứ, - thường xuyên lúc nào cũng có chai rượu dưới gầm giường, - và không chịu để cho bất kỳ ai ở gần mình bao giờ. Bà ta bắt đầu nói đủ điều về tôi, gây sự bằng đủ mọi cách. Nào là bảo tôi không biết là quần áo, nào là bảo tôi không biết đường phục vụ bàn ăn... Vậy mà cứ động nói bà ta một câu là bà ta bắt đầu run rẩy cả người, chạy đi mách chủ. Bà ta khóc bù lu bù loa lên, mà điều dễ hiểu là không phải vì phật lòng, mà chủ yếu là do bà ta giả vờ. Tôi bèn tiếp tục hỏi nữa, nói nhiều hơn với nhà chủ rằng:
- Dù sao mặc lòng, ông bà chủ hãy cho tôi thôi việc, tôi không thể đội trời chung với mụ già ấy được, tôi tự tử mất.
Còn chính tôi thì đã đi nhắm sẵn một căn nhà ở phố Cụt rồi. Ờ, thế là bà chủ không sao bắt buộc được tôi nữa. Quả vậy, khi tôi đến chào từ biệt thì
https://thuviensach.vn
bà ấy vẫn tỏ lòng mong muốn tôi quay trở lại ở cho bà ta, hoặc chí ít cũng là đến chơi khi lễ tết, giỗ chạp:
- Thế nào cô cũng phải luôn luôn đến, - bà ta bảo, - để dọn dẹp, nấu nướng mọi thứ cho tôi. Chỉ khi nào có mặt cô, - bà ta bảo, - thì tôi mới yên tâm được. Tôi đã quen thuộc cô như người ruột thịt rồi.
Tất nhiên là tôi sẽ hết lòng cảm ơn. Tôi hứa hão đủ thứ, cúi gập lưng xuống mà chào rồi ra đi. Và giờ đây, ơn Chúa phù hộ, tôi bắt tay ngay vào việc. Tôi mua ngay ngôi nhà đó, mở một quán rượu. Buôn bán phát tài kinh khủng, - cứ chiều đến tôi lại tính lời lãi: thường là ba chục với lại bốn chục, có khi tất cả tới bốn mươi nhăm rúp trong két - thế là tôi tính mở thêm một cửa hàng tạp hoá nữa, nghĩa là để mà tiền lên từng bước một. Cô em chồng
thì từ lâu đã lấy một người làm việc canh gác cho cơ quan Hội Hồng Thập Tự, anh ta rặt gọi tôi là mẹ đỡ đầu, đối với tôi rất thân tình, còn tôi đối với anh ta thì những việc vẩn vơ tôi cũng tính thành công thành nợ để mua sắm, để có quyền lợi, và mua đi bán lại. Nhưng đúng lúc đó thì thằng Vania nó học xong. Tôi bèn đến bàn với những con người khôn ngoan để hỏi ý kiến họ xem nên thu xếp cho nó làm công việc gì.
- Còn phải thu xếp gì cho nó nữa, - họ bảo, - ngay ở nhà chị cũng thiếu gì việc làm.
Điều đó cũng đúng. Tôi bèn cho nó đứng cửa hàng, còn tôi thì coi quán rượu. Thế là guồng máy bắt đầu chạy! Và điều dễ hiểu là tôi quên bẵng không còn nghĩ ngợi gì đến tất cả những câu chuyện dớ dẩn ấy nữa, mặc dù rằng sau khi tôi ra đi thì cậu ta, cái cậu què quặt ấy mà, nói thật tình thì cậu ta chỉ chui vào giường nằm. Cậu ta chẳng nói với ai nửa lời, mà cứ nằm đừ như kẻ đã chết rồi, thậm chí quên bẵng cả chiếc đàn gió. Bỗng nhiên, chẳng duyên cớ gì tự nhiên thấy “bà tướng” nghĩa là cái bà vú già ấy mà, bà ấy đến nhà. (Mấy thằng nhỏ gọi bà ấy là “bà tướng”). Bà ấy ra mắt và nói:
- Có người lệnh cho tôi đến cúi chào cô, - bà ta nói, - và bảo cô thế nào cũng đến thăm người đó.
Thế là tôi lập tức nóng bừng người lên vì tức giận với lại xấu hổ nữa! Tôi nghĩ bụng, cái thằng quý hóa gớm chửa! Nó suy nghĩ gì kỳ lạ vậy! Lại tìm được bầu bạn thế ấy đấy! Không chịu nổi nữa, tôi bảo:
https://thuviensach.vn
- Tôi chẳng cần gì đến cái cúi chào của cậu ấy, cậu ấy phải nhớ đến cái thân hình què quặt của mình chứ, còn bà, mụ yêu tinh, mụ khọm đi làm cái việc dắt gái ấy mà không biết ngượng hay sao. Mụ có nghe rõ không đấy?
Thế là bà ta ứ họng. Bà ta đứng, lưng cúi xuống, gườm gườm nhìn tôi bằng cặp mắt sưng mọng chỉ còn lắc lư cái sỏ lợn. Bà ta u mê đi, do nóng nực hoặc do đã nốc rượu vào.
- Ôi chao, - bà ta nói - sao mà cô vô tâm đến thế! Cậu ta thậm chí đã phát khóc lên vì cô. Suốt buổi chiều qua cậu ta chỉ nằm quay mặt vào tường, khóc lên rưng rức. - bà nói.
- Thế mụ bảo tôi cũng phải tuôn nước mắt ra như suối hay sao? - tôi nói. - Mà cái anh chàng lông đỏ như bú dù ấy khóc lu loa lên như thế mà không biết xấu hổ sao? Đồ nhãi ranh ở đâu ấy! Hay là đã bị dứt khỏi vú mẹ?
Thế là tôi đã tống khứ cái mụ già ấy ra và cứ mặc kệ, chẳng đi đâu hết. Còn cậu ta thì quả nhiên chẳng bao lâu đã treo cổ tự tử thật. Đến lúc ấy tôi mới hối hận là mình đã không đi thăm cậu ta, nhưng lúc này thì tôi có còn bụng dạ nào nghĩ đến cậu ta đâu. Ngay trong nhà tôi cũng đã xảy ra hết
chuyện lôi thôi này đến chuyện lôi thôi khác.
Tôi đã cho thuê hai buồng trong nhà, một buồng người thuê là một người cảnh sát canh gác trong thành phố, một con người thật là tốt, nghiêm chỉnh, đứng đắn. Họ của anh ta là Tsaikin, còn buồng kia là do một cô gái giang hồ đến ở. Cô ta tóc vàng, trẻ măng, mặt mũi coi cũng được, người đẹp, tên là Phenia. Thường đến với cô ta là một người thầu khoán tên gọi là Kholin, ông này bao cho cô ta, ờ, chính vì thế nên tôi mới nuôi chút hy vọng và cho cô ta đến ở. Thế mà kìa, họ lại lủng củng với nhau thế nào ấy, rồi ông ta bỏ cô ta. Làm thế nào bây giờ? Cô ta không có gì để trả, mà đuổi cô ta đi cũng không xong, bởi lẽ cô ta còn nợ tôi tám rúp.
- Cô ạ, - tôi bảo, - cô phải đi kiếm tiền của những khách làng chơi đi thôi, nhà tôi có phải là nhà tế bần đâu.
- Em sẽ cố gắng, - cô ta nói.
- Thế nhưng tôi chưa thấy cái cố gắng của cô ở đâu cả. Lẽ ra phải cố gắng thì tối nào tôi cũng rặt thấy cô ở nhà. - tôi bảo. - Với ông Tsaikin thì đừng có hòng trông mong gì.
https://thuviensach.vn
- Em sẽ cố gắng, nghe bà nói thế em cũng xấu hổ lắm rồi đấy ạ. - Ô - ô - í dào, - tôi bảo, - cô thử nói xem cô xấu hổ nỗi gì nữa nào! Cứ “em cố, em cố” mãi, mà quả thế, chẳng cố cái gì hết. Cô ta lại càng
cứ đi xoắn lấy ông Tsaikin, mà ông này thì ngay đến nhìn mặt cô ta cũng chẳng thèm. Sau rồi tôi lại thấy cô ta ve vãn thằng con trai tôi. Chốc chốc tôi để ý nhìn, cứ thấy nó kè kè bên cạnh cô ta suốt. Bỗng dưng nó lại còn bày ra cái trò may áo véttông mới nữa.
- Ô, không đâu, - tôi bảo, - hãy khoan! Mẹ vẫn đã may mặc cho con như một vị công tử công tôn rồi, nào là ủng, nào là mũ lưỡi trai này. Bản thân mẹ thì chắt bóp mọi đường, chắt chiu từng đồng xu một, thế nhưng mẹ vẫn cung phụng cho con đầy đủ rồi đấy.
- Con cũng đẹp trai đấy chứ, - nó nói.
- Thế thì mẹ phải bán cả nhà đi cho cái đẹp mã của con hay sao? Tôi nhận thấy cửa hàng cửa họ buôn bán kém trước. Những là thiếu hụt với lại thua thiệt. Đến nỗi ngồi uống trà mà cũng chẳng thấy ngon. Tôi bèn theo dõi. Tuy ngồi trông quán rượu nhưng tôi nghe ngóng hết, - ghé sát tai vào tường, náu mình mà nghe ngóng. Hôm nay nghe thấy họ thầm thì, mai lại thấy họ thầm thì... Tôi bèn quở mắng.
- Nào có việc gì đến mẹ kia chứ? - nó nói. -Có thể là con muốn lấy cô ấy làm vợ cũng nên.
- Thế đấy nhé, mẹ đẻ mà mày lại bảo không việc gì! - tôi bảo. - Từ lâu tao đã thấy ý đồ của mày rồi, nhưng mạt kiếp cũng không có thế được đâu. - Cô ta yêu con say đắm, mẹ chả hiểu được cô ấy đâu, cô ấy là người dịu dàng, e lệ.
- Quý hoá gì cái tình yêu ả con đĩ trăm thằng ấy! - tôi bảo. - Nó sẽ chỉ đem mày làm trò cười cho thiên hạ thôi, đồ ngu ạ. - Tôi nói. - Nó tim la sáng téng, hạ bộ lở loét hết cả rồi.
Nhưng thằng con tôi vẫn trơ trơ ra: nó dồn cả hai con mắt vào sống mũi mà nín lặng. Tôi nghĩ bụng: thôi, thế là nhờ ơn Chúa, tôi đã vớ đúng nơi đúng chỗ rồi đấy. Nhưng tuy vậy trong bụng tôi sợ bằng chết, thế nghĩa là rõ ràng thằng bé đã phải lòng mất rồi. Tôi nghĩ, thế nghĩa là mình phải liệu mà mau mau chóng chóng xé tan xác cái con bé ấy mới được. Tôi liền bàn
https://thuviensach.vn
với người cha đỡ đầu là bác Tsaikin. Tôi nói: bác chỉ bảo giùm, tôi nên làm gì với chúng nó đây? Bác ấy bảo: còn làm gì nữa, cứ tóm lấy cổ con bé ấy mà quăng nó ra đường là hết chuyện chứ gì. Thế là chúng tôi nghĩ ra một kế như sau: Tôi giả tảng đi thăm người quen. Tôi rời khỏi nhà, đi loanh quanh ngoài phố một lúc, rồi tới sáu giờ, nghĩa là giờ bác Tsaikin tan tầm thì tôi nhẹ nhàng quay về. Tôi chạy lại đẩy cửa, thì đúng như vậy: cửa cài bên trong. Tôi gõ cửa, không có ai thưa. Gõ lần thứ hai, thứ ba vẫn không có ai. Bác Tsaikin đã đứng núp sau một góc buồng. Tôi bắt đầu đập vào cửa sổ, đến nỗi các khung kính cũng rung cả lên. Bỗng có tiếng then cửa kêu đánh cạch: té ra là thằng Vanka (36). Mặt nó trắng bệch như tờ giấy. Tôi dùng toàn lực huých mạnh vào vai nó rồi xông thẳng vào buồng. Hoá ra ở đây đúng là một cảnh ăn uống linh đình nào đó: những vỏ chai bia, rượu vang dùng trong khi ăn, cá trích, cá mòi to đã lóc sẵn màu hồng như hổ phách, - tất cả đều lấy từ cửa hàng. Con Phenka (37) đang ngồi ở ghế, bím tóc đeo nơ màu xanh lơ. Thấy tôi, nó bật dậy, mắt nhớn nhác nhìn, nhưng môi nó tím lại vì sợ. (Nó tưởng là tôi sẽ xông lại đánh nó). Mặc dù là quả tình tôi thở không ra hơi nữa, nhưng tôi vẫn nói như không:
- Anh chị làm gì đây, - tôi nói, - bí mật kết hôn chăng? Vậy ai là chú rể? Sao lại không mời chào gì?
Họ im lặng.
- Sao lại im lặng? - tôi nói. - Sao lại im lặng, cậu con trai của tôi? Cậu làm chủ cửa hàng như thế đấy hả, cậu quý tử? Té ra bây giờ mới biết tiền nong mồ hôi nước mắt của tôi bay đi đâu mất!
Nó lại còn phồng mang trợn mắt:
- Con cũng đã lớn tuổi rồi!
- Vâ - â - ậy đấy, - tôi nói, - thế thì tôi phải làm gì? Có nghĩa là do lòng hảo tâm của cậu và con chó cái này, tôi phải rời bỏ cửa nhà của tôi chăng? Có phải thế không đấy? Nghĩa là tôi đã nuôi ong tay áo chứ gì? Nó quát tháo với tôi mới dữ chứ!
- Mẹ không được xúc phạm đến cô ta! Chính mẹ cũng đã có lúc còn trẻ, mẹ phải hiểu thế nào là tình yêu chứ!
https://thuviensach.vn
Thế còn bác Tsaikin thì bác ấy đã ở ngay kia. Nghe tiếng la hét như vậy, bác ấy nhảy vọt ra, chẳng nói chẳng rằng, tóm lấy hai vai thằng Vania, đẩy nó vào một phòng xép, khoá béng lại. (Một người khỏe ghê gớm, không kém gì lực điền!). Khoá xong, bác ấy nói với con Phenka.
- Cô tự coi mình là tiểu thư, nhưng tôi có thể liệt cô vào hạng thành tích bất hảo được đấy!
(Nghĩa là cấp giấy chứng minh ghi rõ “thành tích bất hảo”) (38) - Vậy cô có muốn thế hay không? - bác ấy nói. - Còn ngay hôm nay cô phải trả buồng lại cho chúng tôi và đừng có bén mảng đến đây nữa! Cô ta ứa nước mắt khóc. Nhưng tôi lại còn khơi thêm:
- Trước hết cô ấy còn phải chuẩn bị tiền trả tôi đã! Nếu không thì dù một cái hòm xiểng nhỏ nào tôi cũng không cho mang đi đâu. Chuẩn bị tiền nong đi, nếu không thì tôi sẽ bêu diếu khắp cái thành phố này!
Thế là tôi tống khứ khéo cô ta đi ngay tối hôm đó. Khi tôi đuổi cô ta ra, cô ta tỏ vẻ hết sức đau thương. Cô ta khóc, nghẹn ngào, thậm chí dứt tóc trên đầu. Cảnh ngộ của cô ấy cũng chẳng sung sướng gì, điều ấy dễ hiểu thôi. Chui rúc vào đâu bây giờ? Tất cả gia tài, tất cả của nả thu lượm được đều đem theo bên mình. Ờ, thế nhưng cô ta cũng phải đi. Thằng Vania cũng yên được một thời gian. Sáng sớm hôm sau ra khỏi buồng giam, nó im thin thít, tỏ vẻ rất sợ sệt và xấu hổ. Và cũng bắt tay vào công việc. Tôi mừng lòng, yên tâm, - thế nhưng cũng chẳng được bao lâu. Tiền trong két lại đi đâu mất, cái con đĩ ấy đã lén lút phái một thằng bé con đến cửa hàng, còn thằng Vania thì cung phụng cho con bé ấy cả thức nướng lẫn thức luộc! Lúc thì cho khuân đường, lúc thì cho khuân trà, thuốc lá rời... Có khăn cho khăn, có xà phòng cho xà phòng, vớ được cái gì cúng cái nấy... Làm sao mà coi sóc xuể được nó? Rồi nó cuỗm đến cả rượu vang, mà ngày lại càng thêm tệ hại. Sau hết là nó hoàn toàn bỏ mặc cửa hàng: hầu như là không ở nhà nữa, chỉ về để ăn, sau đó lại đi mất hút. Chiều nào nó cũng đến chỗ con bé kia, cứ thủ một chai vào trong áo choàng, thế là bước xéo. Tôi cứ chạy đi chạy lại như đèn cù, hết từ quán rượu sang cửa hàng, lại từ cửa hàng sang quán rượu, - mà bây giờ cũng không dám mở miệng với nó nữa: nó trở
https://thuviensach.vn
thành một kẻ khố rách áo ôm mất rồi! Mọi khi nó vốn vẫn đẹp trai, - nó giống tôi như đúc, mặt trắng trẻo, hiền hoà, hệt như một đứa con gái, mắt trong trẻo thông minh, thân hình gọn gàng cân đối, vai rộng, tóc màu hạt dẻ, quăn quăn... Thế mà bây giờ mõm dô ra, tóc cợp lên, xoã cả xuống cổ áo, mắt mờ đục toàn thân xơ xác, lưng bắt đầu khọm xuống, - và lúc nào cũng lầm lầm lì lì, hai con mắt dồn cả vào sống mũi.
- Bây giờ mẹ chớ có quấy rầy con, - nó bảo, - con có thể gây ra những chuyện tày trời đấy.
Mà nó lại say rượu, nhổ bậy, cười bâng quơ, đăm chiêu, chơi đàn gió cái bài Thời gian một đi là không trở lại, rồi đôi mắt nó đẫm lệ. Tôi thấy rõ là tình cảnh mình hỏng mất rồi, phải lấy chồng cho mau thôi. Đúng lúc đó người ta làm mối cho tôi một ông goá vợ, cũng làm cửa hàng, ở vùng ngoại ô. Đó là một người đã có tuổi, nhưng có tiền cho vay, có của nả. Nghĩa là cũng chính là điều mà tôi vẫn hằng theo đuổi bấy lâu nay. Tôi bèn vội vã qua những người đáng tin cậy để tìm hiểu thân thế của ông ta, và thấy là không có gì mắc mớ cả. Phải quyết định, phải mau chóng làm quen, - bà mối chỉ giới thiệu chúng tôi qua loa trong nhà thờ, - nghĩa là phải kiếm cớ đi lại thăm nhau, như cái kiểu chạm mặt ấy mà. Ông ta đã đến tôi trước, tự giới thiệu: “Tôi là Lagutin, Nikolai Ivanưts, chủ cửa hàng”. - “Xin rất hân hạnh”. Nhìn ra thì thấy ông ta khá đáo để, - vóc người quả tình là không cao lớn gì, tóc bạc hết, nhưng tính khí rất dễ chịu, điềm đạm, chỉnh tề, khôn khéo; và rõ ra là con người căn cơ, nghe nói là cả đời chẳng nợ ai đồng xu nào... Rồi sau chính tôi cũng bày chuyện ra để đến nhà ông ta như tuồng có công việc, thì tôi thấy ông ta có hầm rượu vang và có cửa hàng với đủ mọi đồ nhắm với rượu vang, như: mỡ lá, giăm bông, cá trích, cá mòi. Nhà không to, nhưng đèn sạch bong. Các cửa sổ đều có rèm che, có hoa, sàn nhà quét tước sạch sẽ, tiếc một nỗi là sống một mình một bóng. Ngoài sân thấy cũng ngăn nắp. Có ba bò cái, ngựa hai con. Một con là ngựa cái, ba tuổi, ông ta bảo là người ta đã trả năm trăm nhưng ông chửa bán. Ồ, cái con ngựa đẹp vậy, tôi cứ đứng ngắm nó hoài! Thế còn ông ta thì chỉ khe khẽ cười, vừa đi vừa chạy lon ton lại vừa luôn mồm kể chuyện, hệt như đọc vanh vách lên một bảng giá nào đó: nào là cái này đáng từng này, cái kia đáng
https://thuviensach.vn
từng kia... Nghĩa là, - tôi nghĩ vậy, - chẳng có gì phải lôi thôi nữa cả, phải cưa đứt đục suốt đi thôi.
Điều dễ hiểu là đến bây giờ tôi kể vắn tắt vậy thôi chứ lúc bấy giờ tôi cảm nghĩ ra sao thì chỉ có lòng tôi biết được. Tôi mừng rỡ đến nỗi đôi chân bủn rủn cả ra, - bởi lẽ dù sao tôi cũng đạt được ý nguyện của mình, tìm được nơi được chốn của mình! - Thế nhưng tôi vẫn trầm ngâm, sợ hãi, rùng cả mình: ngộ nhỡ tất cả niềm hy vọng của mình bị sụp đổ thì sao? Mà suýt nữa thì điều đó đã xảy ra rồi đấy, chỉ một ly nữa là mọi mối lo toan của tôi đã đổ cả xuống sông xuống biển rồi đấy, và nguyên do vì đâu thì thậm chí hiện thời tôi cũng vẫn chưa sao có thể yên tâm bảo rằng: do chính cái thằng què quặt ấy với lại do cái thằng con quý hoá của tôi! Chúng tôi đã tiến hành công việc một cách kín đáo và cao thượng đến nỗi tưởng như con sâu con kiến cũng không sao biết được. Thế nhưng tôi nghe nói là toàn bộ khu ngoại ô đã biết được ý đồ của tôi với ông Nikolai Ivanưts rồi, và điều dễ hiểu là tin đồn cũng đến tai cả nhà Xamokhvalov, - hẳn là chính cái mụ “bà tướng” ấy lại thóc mách rồi. Tôi bèn bảo: thì cái thằng què quặt ấy cứ việc treo cổ tự tử đi xem nào! Tôi thách cậu đấy, - cậu dọa, tôi không tin, thế thì bây giờ tôi trêu ngươi cậu đấy! Cậu ta liền đóng một chiếc đinh nhỏ lên tường ở ngay phía trên giường, ngoắc vào đấy một sợi dây bé bằng đầu con ruồi, tròng vào cổ rồi bò ra khỏi giường! Một cung cách thô sơ thôi, chẳng cần phải thông minh gì cho lắm cả! Hôm ấy, lúc trời chạng vạng tối, tôi còn đang đứng trong cửa hàng thu dọn cái gì đó, thì thình lình có ai xô đánh rầm một cái vào cánh cửa trong nhà. Tim tôi như rụng rời cả ra. Tôi chạy vọt ra ngưỡng cửa thì té ra mụ “bà tướng”.
- Mụ hỏi gì?
- Cậu Nikanor Matveits chết rồi!
Mụ ta lốp bốp nói vậy rồi quay ngoắt, ra về. Còn tôi thì trong lúc nóng vội, chẳng kịp suy tính gì, - lúc bấy giờ quả thật là người tôi nóng ran lên vì sợ, - quàng vội chiếc khăn san lên đầu mà đuổi theo bà ta. Bà ta chạy, chân vấp lập cập - và cả tôi cũng chạy... Đúng là một trò cười cho khắp thành phố! Tôi cứ chạy mà chẳng hiểu gì sất. Tôi chỉ nghĩ đinh ninh một điều là: chết mình rồi! Hay là tôi đùa bỡn trong khi làm như vậy, điều đó có trời mà
https://thuviensach.vn
nhớ được! Tôi nghĩ, trước mặt mọi người trơ tráo đến thế là cùng! Chạy gần tới nơi thì thấy đã có đông người tụ tập ở đó, hệt như có đám cháy nhà vậy. Cửa trước mở toang, ai muốn vào thì chen vào, - mọi người đều hiếu kỳ, điều đó dễ hiểu thôi. Do bộp chộp, tôi cũng chen mà vào. Nhưng may thay, hệt như có ai đập vào đầu tôi vậy, tôi sực nhớ ra, quay ngay lại và tháo lui. Có lẽ chính điều đó đã cứu vớt tôi, nếu không thì tôi đã bị hố to mất rồi. Giả thử có một người nào nhớ ra tôi, - chí ít là cái mụ “bà tướng” có ác ý ấy chẳng hạn, - thì họ sẽ bảo rằng đây, thưa quý ngài, nếu ta muốn biết kẻ đó là ai, kẻ nào là nguyên nhân của mọi sự, thì xin cứ việc hỏi cái cô này, - thế là tôi đi đời nhà ma rồi. Cô đến rồi cô lại đánh bài chuồn. Người ta thường mất ăn mất ngủ vì cô, mà cô lại túm đuôi bỏ rọ... Và cũng chẳng phải là lần đầu.
Rồi thì người ta chôn cất cậu ta, và tôi mới nhẹ mình đi được. Tôi chuẩn bị cưới, mau mau chóng chóng thu dọn hàng họ, bán chác và cũng cố cho khỏi bị thiệt thòi, vì biết đâu bỗng dưng lại có tai hoạ mới. Thế là cứ lo toan chạy vạy đến long tóc gáy, đến bở hơi tai, - mà sao cái năm đó trời làm nóng nực không sao chịu nổi, rồi lại bụi, lại có gió nóng nữa, nhất là ở chỗ chúng tôi, ở phố Cụt, trên rẻo sườn đồi ấy, - nhưng bỗng dưng lại có tin rằng ông Nikolai Ivanưts ông ấy phật lòng. Ông ấy lại phái chính cái bà mối nọ đến, - cái bà mối đã dắt díu chúng tôi ấy mà, một con chó cái hung dữ đấy, có khi chính cái mụ có đôi mắt cú vọ này lại mớm nhời cho ông Nikolai Ivanưts cũng nên, - và qua bà ta ông ấy nhắn rằng ông ấy hoãn ngày cưới lại đến mồng một tháng chín (như tuồng là bận công chuyện gì đấy), còn về thằng con trai tôi, thằng Vania, thì ông ấy giao hẹn, nghĩa rằng là tôi phải suy nghĩ kỹ hơn, phải ổn định cho nó vào chỗ nào đó, bởi vì ông ấy bảo rằng ông ấy không sao có thể thu nhận cho nó về nhà mình được. Ông ấy bảo: tuy nó là con đẻ của cô thật, nhưng nó sẽ phá hại chúng ta sạch trơn và sẽ gây phiền cho tôi nữa. (Đối với ông ấy, quả là có vấn đề thật. Bởi lẽ, cả đời ông ấy chẳng biết cãi cọ là gì, chẳng gây sự lôi thôi với ai, nên điều dễ hiểu là ông ấy rất sợ xúc động, mỗi khi xúc động mạnh là đầu óc ông ấy rối mù lên hết, nói không ra lời nữa). Ông ấy bảo: cô ấy hãy từ nó đi. Thế nhưng tôi biết ổn định cho nó vào đâu, từ nó đi đâu? Cái thằng bé ấy nó đã
https://thuviensach.vn
hoàn toàn cứng đầu cứng cổ rồi, nếu là người ngoài, - tôi nghĩ bụng, - thì người ta sẽ vặn cổ nó ngay, còn như lảng tránh nó thì chẳng sao lảng tránh được. Đối với nó, chính bản thân tôi cũng đã chẳng còn nghĩa lý gì kể ngay từ ngày nó quen biết con Phenka, con chó cái này đã hút mất hồn của nó rồi! Ngày nó ngủ li bì, đêm thì say khướt, - thế là ngày cũng như đêm... làm sao tôi có thể chịu đựng nổi được nỗi đau khổ ấy, - điều đó không tài nào nói ra được! Nó tàn hại đến nỗi tôi mòn mỏi đi như một cây nến, tay run lên cầm thìa cũng chẳng nổi. Mỗi khi trời tối, tôi lại ngồi lên chiếc ghế dài phía trước nhà để đợi nó từ ngoài phố về, chỉ sợ nó bị lũ trai làng giã cho một mẻ. Có lần phiền muộn quá đỗi, tôi phải chạy ra nhòm vào thôn xóm xem sao, khi nghe có tiếng ầm ĩ, kêu la, ngỡ là nó bị người ta đánh, tôi đâm cả xuống mương nước kêu loạt soạt...
Ờ, sau khi biết quyết định của ông Nikolai Ivanưts như vậy, tôi bèn gọi nó lại mà bảo rằng: con ạ, dù sao đi chăng nữa thì mẹ cũng đã chịu khổ vì mày lâu lắm rồi, ờ, cơ mà mày đã hoàn toàn yếu nhược và lầm lạc, bêu riếu tao trong khắp hàng tỉnh. Mày đã quen thói nhàn hạ, quen thói ăn sẵn mất rồi, rút cục hoàn toàn biến thành một đứa khố rách áo ôm, rượu chè be bét trời không phú cho mày được cái nết như tao, bao nhiêu lần ngã tao đều đứng dậy được, còn mày thì chẳng kiếm chác được tí gì gọi là có. Đấy mày xem tao cũng đã đạt được danh giá, bất động sản tao cũng có, đồ ăn thức uống cũng chẳng kém ai, không huỷ hoại tâm hồn mình, mà tất cả là do chỗ xưa nay tao biết chưởng quản mọi việc. Ờ, thế còn mày, trước kia mày hoang phí thế nào thì nay xem ra mày vẫn muốn chứng nào tật ấy. Đã đến lúc mày không thể ăn báo cô tao được nữa đâu...
Nó ngồi ỳ, nín lặng, lấy tay cọ cọ vào tấm vải son trên bàn. - Tại sao mày lại nín lặng? - tôi hỏi. - Đừng có moi rách vải son của tao ra, đi mà kiếm lấy vải son của mày, mày trả lời tao nghe thử? Nó vẫn im lìm, đầu cúi xuống, môi run run.
- Mẹ, - nó nói, - mẹ đi lấy chồng đấy ạ?
- Lấy hay không lấy chưa biết được, mà nếu có lấy thì cũng là người tốt, người ta chẳng cho mày bước chân vào nhà đâu. Cậu ạ, tôi chẳng phải đồ lăng nhăng đĩ thõa như cô Phenka nhà cậu đâu.
https://thuviensach.vn
Nó bỗng chồm lên, toàn thân run lên bần bật mới ghê gớm làm sao: - Bà chẳng đáng bằng cái móng tay của cô ấy!
Hay hớm chưa? Chồm lên, gào lên lạc hẳn giọng, sập cửa đánh rầm một cái, - nó thế đấy. Còn tôi, tuy vốn không phải là người mau nước mắt mà đã phải tuôn trào nước mắt. Ngày hôm trước khóc, ngày hôm sau khóc, - cứ nghĩ là làm sao nó có thể nói với mình những lời lẽ như vậy, thế là lại không cầm được nước mắt. Tôi khóc và cầm chắc một điều: truyền đời tôi sẽ không tha thứ cho nó về mối giận này, tôi sẽ tống cổ nó ra khỏi nhà... Nhưng nào có thấy mặt nó đâu. Nghe nói là nó ở chỗ con ấy chè chén linh đình, nhảy, múa, nốc hết những số tiền ăn cướp được, rồi lại dọa dẫm tôi nữa, bảo rằng: dù sao tao cũng sẽ làm cho mụ ấy được yên lòng, tao rình xem buổi tối mụ ấy đi đâu tao sẽ lấy đá đập cho chết. Nó phái người đến cửa hàng (để chọc tức tôi, dễ hiểu quá), giả bộ mua bán, lúc thì mua bánh bàng, lúc thì cá trích. Tôi giận đến run cả người lên, nhưng vẫn cầm lòng bán cho họ. Một hôm tôi đang ngồi hàng thì sực thấy chính nó bước vào. Nó say rượu, mặt không ra hồn người nữa. Nó đem theo cá trích vào, - sáng nay một con bé con có đến mua bốn con, bằng tiền của nó, dĩ nhiên rồi, - và quăng ngay cá lên mặt quầy!
- Sao bà lại có thế bán cái của tồi tệ như thế này cho khách hàng? - nó quát. - Cá thối hoăng, có chó nó ăn được!
Nó la hét, lỗ mũi phồng cả lên, - kiếm cớ.
- Mày đừng có làm ồn và đừng quát tháo, cá trích tao có làm ra đâu, mà mua hàng thùng. Không thích thì đừng nhá, còn tiền của mày đây trả lại mày.
- Thế nếu tôi đã ăn phải mà chết lăn đùng rồi thì sao?
- Mày lại thế đấy, đồ lợn, - tôi nói, - mày không thể phét lác thế, mày chỉ huy tao thế nào được? Nhất là danh vị của mày nào có ra gì. Mày phải ăn nói đàng hoàng, đừng có trâng tráo xông vào nhà người khác.
Vậy mà nó bỗng vớ luôn lấy cái cân trên mặt hòm, giơ móc sắt lên: - Tôi mà phang một nhát vào đầu bây giờ, - nó bảo, - thì mụ thẳng cẳng! Đoạn nó ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi cửa hàng. Còn tôi thì ngồi thụp xuống sàn nhà, không sao cất mình đứng dậy được...
https://thuviensach.vn
Rồi sau nghe nói là nó đã bị lũ trai làng dần cho tơi bời. Người ta chở nó về bằng xe ngựa, sống ngắc ngoải, say bí tỉ, đầu lắc lư, tóc bết máu, cát bụi bám đầy, ủng và đồng hồ đã bị lấy mất, chiếc áo vét tông mới nguyên rách bươm, - họa hoằn mới có chỗ còn nguyên mẩu da bé bằng hạt lạc... Tôi nghĩ mãi, nghĩ mãi, nhưng cũng đành nhận nó, thậm chí trả cả tiền xe ngựa, song ngay ngày hôm ấy cho người đến chào ông Nikolai Ivanưts và dặn chắc chắn người đó nhắn cho ông ấy biết rằng ông ấy không có gì lo ngại nữa, tôi đã quyết ý từ bỏ thằng con rồi, khi nào nó tỉnh giấc thì tôi sẽ đuổi nó đi ngay không chút thương tiếc. Đáp lại, ông ấy cũng gửi lời chào và ra lệnh nhắn với tôi rằng: làm như thế là rất thông minh và đúng đắn, ông ấy cảm ơn và thông cảm... Rồi hai tuần sau, ông ấy ước định cả ngày cưới nữa. Phải rồi...
Phải rồi, tạm thời là như vậy và câu chuyện của tôi cũng đến đây là hết. Quả tình không có gì để mà kể thêm nữa cả. Tôi đã cùng người chồng đó chung sống hòa hợp với nhau nhường ấy cho tới khi đầu bạc răng long, - điều đó cũng thật là hiếm có trong thời buổi này. Tôi đã cảm nghĩ gì khi đạt được cái bồng lai tiên cảnh ấy, - điều đó tôi không sao nói được. Ờ, mà quả thật là cả Chúa cũng đã thưởng công cho tôi nữa đấy, - thấm thoắt đã hai mươi mốt năm trời tôi sống với ông lão nhà tôi hệt như được sống trong tường đồng vách sắt, cho nên tôi rất biết: ông ấy chẳng bao giờ để tôi bị xúc phạm, bởi lẽ cứ trông bề ngoài cũng đủ thấy ông ấy là con người điềm đạm rồi! Thế nhưng đôi lúc tôi cũng thấy nhức nhối trong tim, điều đó cũng là dễ hiểu. Nhất là trong thời gian tuần chay lớn. Tôi bụng bảo dạ rằng, cho dù bây giờ tôi có chết chăng nữa thì cũng là tốt, cũng cam lòng, cũng được người ta đọc những bài thánh ca trong khắp các nhà thờ... Cũng lại có lúc tôi buồn nhớ đến cả thằng Vania. Đã hai mươi năm nay chẳng thấy tăm hơi nó đâu. Cũng có thể là nó đã chết từ lâu mà tôi chẳng biết. Cái hồi mà họ chở nó về, tôi thậm chí cũng đã thương hại thay cho nó. Chúng tôi đã lôi nó vào nhà, quẳng nó lên giường, và nó ngủ như chết suốt một ngày trời. Tôi bèn vào để nghe hơi thở xem nó có còn sống hay không... Trong buồng thấy hôi thối, có một mùi chua chua nào đó, nó nằm đó, rách rưới, sây sát hết, nó ngáy và nghẹt thở... Trông nó mà xấu hổ và xót thương, bởi vì đó chính là
https://thuviensach.vn
máu mủ của tôi! Tôi nhìn, nhìn mãi, nghe ngóng rồi đi ra. Và một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lòng tôi! Tôi cố ăn cho xong bữa chiều, dọn dẹp bàn ăn, tắt đèn... Tôi không sao ngủ được, và cứ mãi như thế, - nằm mà toàn thân rung lên... Đêm hôm ấy sáng trời, còn trông thấy được. Tôi nghe thấy nó thức dậy. Nó ho luôn mồm, chốc chốc lại đi ra sân, đóng cửa sầm sập. - Làm gì mày cứ đi đi lại lại mãi thế? - tôi hỏi.
- Đau bụng, - nó nói.
Qua giọng nói, nghe chừng nó lo âu, buồn phiền.
- Mày lấy ngải cứu mà uống đi, - tôi bảo.
Tôi lại nằm, thậm chí thiếp đi được một lát, rồi mơ mơ màng màng tôi cảm thấy như có ai đang lén đi trên tấm thảm trải sàn. Tôi chồm dậy, thì ra nó.
- Mẹ ơi, - nó nói, - mẹ hãy vì Chúa, chớ sợ con...
Rồi nó khóc như mưa như gió! Nó ngồi lên giường, nắm lấy tay tôi mà hôn, nước mắt chan hoà, còn chính nó thì thậm chí nghẹn ngào, - và cứ thế nó khóc nức khóc nở. Tôi không sao chịu nổi - lại còn thế nữa kia! Dĩ nhiên là đáng tiếc rồi, nhưng chẳng còn cách gì, - số phận của tôi ra sao là do nó. Mà tôi thấy là ngay chính bản thân nó, nó cũng biết thế lắm.
- Mẹ có thể tha thứ cho con được, - tôi nói, - nhưng làm sao đây, thì như chính con cũng thấy, bây giờ không làm sao được nữa rồi. Vậy thì con hãy đi đâu đó cho thật xa, để mẹ không còn nghe nói đến con nữa.
- Mẹ ơi, - nó nói, - vì đâu mẹ tàn hại con chẳng kém gì mẹ tàn hại cái cậu tàn phế Nikanor Matveits như thế?
Ờ, tôi thấy nó còn chưa bình thường, tôi cũng chẳng cãi nó làm gì. Nó khóc, khóc mãi, rồi cất mình đứng dậy mà đi. Sáng ra tôi ghé nhìn vào buồng nó nằm, thì thấy nó đã đi tự bao giờ. Nghĩa là nó đi sớm để khỏi tủi hổ, và nó đi biệt tăm biệt tích. Có tin đồn đâu như nó ở một tu viện nào đó tại Zadonxk, rồi sau xin tòng quân đi Txaritxưn (39), và có lẽ đã chết ngoẻo ở đó... Mà thôi, còn bàn luận chuyện đó làm chi, bàn luận chỉ tổ phiền lòng! Nấu đi nấu lại, nước vẫn hoàn nước...
https://thuviensach.vn
Còn việc nó nhắc đến cậu Nikanor Matveits thì thậm chí tôi cho đó là ngu dại. Họa chăng là tôi có vụ lợi đôi chút về mặt tiền tài, chứ có móc tiền trong túi người ta đâu. Chính cậu ta cũng hiểu tình trạng què quặt của mình,
chính cậu ta cũng thường hay tỏ vẻ buồn chán. Có lần cậu ấy bảo tôi: - Naxtia ơi, số phận đã khiến tôi què quặt, mà bản tính tôi thì cũng dở điên dở dại: lúc tôi vui vẻ một tai nạn nào đó, lúc thì lại buồn rượi, nhất là mùa hè, những khi nóng nực, bụi bặm như thế này, - thà là tôi tự tử đi cho rồi! Nếu tôi chết, người ta sẽ chôn tôi ở nghĩa trang Tsernoxlobotxkoie (40), đời đời kiếp kiếp bụi sẽ bay qua bờ rào mà phủ lên mộ tôi! - Sao cậu cứ quá đỗi buồn phiền về chuyện đó làm gì, cậu Nikanor Matveits? Mình có cảm biết được cái đó nữa đâu.
- Đúng là mình sẽ không cảm biết được nữa, - cậu ta nói, - và tai họa ở chỗ là mình nghĩ đến cái đó từ lúc mình hãy còn sống...
Mà quả vậy, ở chỗ chúng tôi, ở nhà của gia đình Xamokhvalov ấy mà, thường là rất buồn khi mọi người đều đi ngủ trưa cả rồi và khi gió cuốn cái thứ bụi ấy đến! Và cậu ta cũng đã tự tử vào cái lúc nóng nực ghê người, vào cái lúc tăm tối nhất. Thành phố của chúng tôi quả là buồn khủng khiếp. Mới đây tôi có đến Tula và thấy không sao so sánh được!
Capri, tháng 11 năm 1911
https://thuviensach.vn
Lần gặp gỡ cuối cùng
I
Vào một buổi tối mùa thu, tuy sáng trăng nhưng ẩm ướt và lạnh lẽo, Xtơresnhev ra lệnh thắng yên cương cho ngựa.
Ánh trăng chiếu thành một dải khói xanh lơ trên khung cửa sổ thon dài ở nơi tàu ngựa tăm tối, khiến một mắt của con ngựa thiến loé sáng như một viên đá quý. Bác người làm đặt bộ dây cương và một bộ yên kiểu kadác vừa cao lại vừa nặng lên mình ngựa, nắm dây cương kéo nó ra khỏi chuồng, thắt đuôi nó lại một vòng. Con ngựa thiến chuyên dùng để cưỡi này ngoan ngoãn nghe theo. Khi thắng đai bụng, nó cũng chỉ hít vào một hơi dài, phình hai bên sườn ra. Một dây đai bụng bị đứt. Bác người làm nhét tạm nó vào một vòng khóa, đoạn dùng răng kéo chặt lại.
Đuôi thắt ngắn, mang yên cương, con ngựa thiến trông đã có vẻ đỏm dáng hơn. Bác người làm dắt nó đến cạnh nhà ở, đến bên thềm cửa, quấn dây cương quanh một cột gỗ đã mục nát, đoạn bỏ đi. Con ngựa thiến đứng giậm chân hồi lâu, nhe bộ răng vàng khè mà gặm chiếc cột gỗ. Đôi lúc nó giận dỗi, rên rỉ và thót bụng hí vang. Vũng nước cạnh đấy xanh xanh phản chiếu lên một vành trăng khuyết. Trong khu vườn thưa thớt buông xuống một làn sương trong vắt.
Xtơresnhev tay cầm roi, bước ra bậc thềm. Mũi gồ, đầu nhỏ và hơi ngả ra đằng sau, người xương xương, vai rộng, chàng trông cao lớn và nhanh nhẹn với chiếc áo choàng nâu được thít chặt nơi eo lưng thanh tú bằng một chiếc thắt lưng da có khoá bằng bạc, và với chiếc mũ kadác có chỏm đỏ đội trên đầu. Nhưng, tuy chỉ dưới ánh trăng, ta vẫn có thể thấy được rằng chàng có bộ mặt tàn tạ, dạn dày sương gió, chòm râu nhỏ cứng mà xoăn đã điểm bạc, chiếc cổ khẳng khiu, và thấy được rằng đôi ủng cao của chàng đã cũ kỹ, vạt áo choàng của chàng thâm sì những vết máu thỏ rừng đã khô đi từ lâu.
https://thuviensach.vn
Ở khung cửa tăm tối cạnh thềm mở ra một ô kính nhỏ. Một giọng rụt rè nói:
- Andriusa (41), con đi đâu vậy?
- Con không còn bé nữa đâu, mẹ ạ, -Xtơresnhev cau mặt đáp và lần lấy dây cương.
Ô kính nhỏ đóng lại. Nhưng ở buồng ngoài, có tiếng cửa xịch mở. Lệt xệt kéo lê đôi giày, Pavel Xtơresnhev bước ra ngưỡng cửa, người trông húp híp, đôi mắt sưng mọng, mớ tóc bạc chải lật ra sau, vận bộ quần áo mặc trong nhà dưới chiếc áo choàng mùa hạ cũ kỹ. Ông vẫn dở tỉnh dở say và bẻm mép như thường lệ.
- Đi đâu đấy, Andrei? - ông ta khàn khàn hỏi. - Nhờ con chuyển lời chào chân thành đến cô Vera Alekxeevna nhé. Bố bao giờ cũng vẫn rất quý trọng cô ấy.
- Bố còn có tôn trọng ai nữa? - Xtơresnhev đáp. - Mà sao bố cứ thò mũi hoài vào công việc của người khác vậy nhỉ?
- Bố có lỗi, bố có lỗi! - Pavel nói. - Một chàng trai tươi trẻ phóng mình đến nơi hẹn ước!
Xtơresnhev nghiến chặt hai hàm răng, lên ngựa. Chân chàng vừa đụng vào bàn đạp thì con ngựa thiến lập tức tươi tỉnh lên, nặng nề xoay vòng. Thừa lúc đó Xtơresnhev nhẹ nhàng cất mình lên rồi hạ mình xuống chiếc yên kêu cót két. Con ngựa thiến ngóng cổ, rồi giẫm nát mặt trăng trong vũng nước, lên đường theo một nước kiệu sảng khoái.
II
Trong đồng nội ẩm thấp và đầy ánh trăng, những cây ngải cứu mờ trắng trên những bờ ruộng. Những con cú cánh rộng thình lình từ những bờ ruộng lặng lẽ bay vụt lên, khiến con ngựa khịt phì, rạt sang bên. Con đường đi vào một khoảng rừng nhỏ chết lặng, lạnh ngắt vì ánh trăng và sương đêm. Mặt trăng chói lói, hệt như đẫm nước thấp thoáng trong những ngọn cây trơ trụi, và những cành cây trơ trụi hoà lẫn vào ánh trăng, ướt át, để rồi nhòe đi
https://thuviensach.vn
trong đó. Mùi vỏ cây dương, mùi lá hoai mục trong các khe vực bốc lên đăng đắng... Còn đây đã là đường đi xuống những vùng trũng tưởng chừng như sâu vô tận và bao phủ bởi một làn hơi nước trắng mong manh. Cả con ngựa thiến cũng thở ra một làn hơi nước trắng, len lỏi giữa các bụi cây bằng thủy tinh do có sương đêm bao bọc. Tiếng cành cây nhỏ gẫy răng rắc dưới vó ngựa đã vang lên ở mạn bên kia, nơi khu rừng cao ráo đang sẫm dần theo triền dốc núi. Bỗng con ngựa thiến dỏng hai tai lên. Hai con chó sói vai rộng, cổ bạnh, chân nhỏ đang đứng trong màn khói sáng sủa trên vùng trũng. Đợi cho Xtơresnhev đến gần chúng mới nhảy vọt lên, bằng một kiểu chạy vụng về, phi lên núi, qua những bãi cỏ trắng sương muối và ánh lên tia ngũ sắc.
- Biết đâu cô ấy lại chả ở lại thêm một ngày nữa? - Xtơresnhev nói, ngẩng đầu nhìn mặt trăng.
Mặt trăng đang treo trên những nội cỏ hoang vắng bàng bạc sương đêm phía bên phải... Cảnh thu buồn mà đẹp biết bao!
Con ngựa thiến cót két yên, đang ráng hết sức bình sinh đến đau ê ẩm cả cái thân mình mạnh mẽ của nó để tiến vào khoảng rừng cao dày đặc, men theo triền sâu của một con đường đã bị các dòng suối làm xói lở, thì bỗng nhiên nó hụt chân, suýt ngã huỵch xuống mặt đất. Xtơresnhev tức điên lên, mặt méo xệch, dùng roi quất thật lực vào đầu nó.
- Úi chà, đồ chó già! - với giọng giận dữ pha lẫn u sầu, chàng thét ầm cả khoảng rừng âm vang.
Sau khu rừng, mở ra một khoảng đồng không mông quạnh. Trên một triền dốc, giữa những ruộng rạ kiều mạch, có một khu vườn tược tồi tàn với dăm ba công trình phụ, một mái nhà tranh. Dưới ánh trăng, tất cả cái cảnh đó sao mà buồn vậy! Xtơresnhev dừng lại. Có lẽ muộn rồi, muộn mất rồi, chung quanh đâu đâu cũng lặng như tờ. Chàng thúc ngựa tiến vào sân. Căn nhà tối om om. Quăng cương, Xtơresnhev nhảy khỏi yên. Con ngựa thiến vẫn đứng yên, đầu cúi xuống với vẻ phục tùng. Trên bậc thềm, một con chó săn đã già nằm khoanh tròn, ghếch mõm lên chân. Nó không động đậy, chỉ nhướng mày nhìn rồi lộc cộc vẫy đuôi mừng. Xtơresnhev bước vào phòng ngoài cùng, ở đây từ buồng xép xông ra mùi một hố xí đã cũ. Trong tiền
https://thuviensach.vn
sảnh tối mù mịt. Các khung kính toát mồ hôi lạnh, nhuốm một ánh vàng. Từ trong hành lang tăm tối lạ lùng chạy ra một người đàn bà nhỏ bé, mặc một chiếc áo rộng và mỏng, màu sáng. Xtơresnhev cúi xuống. Nàng mau lẹ vít chặt lấy chiếc cổ gày gò của chàng bằng đôi tay để trần, rồi nàng vui mừng lặng lẽ khóc, áp mái đầu vào nền dạ cứng của chiếc áo choàng. Nghe được cả tiếng tim nàng đập rộn rã như tim trẻ con, cảm biết được cả chiếc thánh giá bé nhỏ trên ngực nàng, - một chiếc thánh giá bằng vàng do bà nàng để lại, tài sản cuối cùng của nàng.
- Anh ở lại đến mai chứ? - nàng thì thào hỏi nhanh. - Nhé? Em không tin vào hạnh phúc của chính mình nữa!
- Vera, anh đi tháo yên cương đã, - Xtơresnhev gỡ tay nàng ra, nói. - Ở lại đến mai, đến mai đấy, -chàng nói và nghĩ thầm: “Trời đất ạ, cô ấy mỗi ngày lại một thêm hớn hở! Mà sao hút thuốc lá nhiều thế, và lại âu yếm quá mức nữa!”
Khuôn mặt Vera dịu dàng, thoa một làn phấn mịn như nhung. Nàng từ từ đưa má lướt qua môi chàng, đoạn hôn chặt lấy môi chàng bằng đôi môi mềm mại của mình. Cây thánh giá lóng lánh trên bộ ngực hở hang của nàng. Nàng mặc một chiếc áo lót hết sức mỏng, một chiếc áo thề, chỉ dành riêng cho những giây phút quan trọng nhất, một chiếc áo lót vô song.
“Như ta đã biết chắc, - Xtơresnhev cố nhớ lại hồi nàng còn là một cô gái trẻ măng và ngẫm nghĩ, - như ta đã biết chắc từ cách đây mười lăm năm, rằng ta sẽ không do dự chút nào để đổi mười lăm năm của cuộc đời ta lấy một lần gặp gỡ với nàng!”.
III
Một ngọn nến vẫn cháy trên sàn nhà bên cạnh giường, trước lúc bình minh, Xtơresnhev người dài ngoẵng, mặc quần rộng ống, áo sơ mi cổ chéo để hở cúc, nằm ngửa, thận trọng nghiêng bộ mặt có chiếc mũi gồ của mình
về phía bóng tối, hai tay vắt lên đầu. Vera ngồi cạnh chàng, chống khuỷu tay lên đùi. Cặp mắt lóng lánh của nàng mọng đỏ lên vì nước mắt. Nàng hút thuốc và đờ đẫn nhìn xuống sàn. Nàng vắt chéo chân. Bàn chân nhỏ nhắn
https://thuviensach.vn
của nàng đặt trong chiếc giày nhẹ nhõm, quý giá, khiến chính nàng cũng phải thích thú. Nhưng nàng đã quá đau đớn trong lòng.
- Em đã hy sinh hết thảy vì anh, - nàng khẽ nói và đôi môi nàng lại run lên.
Trong giọng nàng chứa chất biết bao âu yếm, biết bao niềm đau khổ thơ ngây! Nhưng Xtơresnhev mở bừng mắt, lạnh lùng hỏi:
- Em hy sinh những gì?
- Hết thảy, hết thảy. Và trước hết là danh dự, tuổi thanh xuân... - Chúng ta còn trẻ trung gì cho cam.
- Sao anh cục cằn, thiếu nhạy cảm thế! - nàng trìu mến nói. - Phụ nữ khắp nơi trên thế giới đều nói hệt như nhau. Đó là một câu họ ưa thích, có điều là phát âm khác nhau. Mới đầu họ hân hoan, thán phục: “Sao anh thông minh, nhạy cảm thế!”.
Vừa khóc thút thít nàng vừa tiếp tục nói, như chẳng buồn nghe ai: - Dù cho em chẳng làm nên trò trống gì đi nữa... Song, trước kia cũng như hiện nay em vẫn rất say mê âm nhạc, và tuy chưa được bao nhiêu, nhưng lẽ ra em cũng đã đạt được...
- Ôi chà, chẳng phải là say mê âm nhạc đâu. Và một khi có Padarxki là... - Thô bạo đấy, - Adriusa ạ... Vậy mà giờ đây em chỉ là một người chơi nhạc đệm thảm hại của học viện, và lại ở đâu nữa cơ chứ! Ở ngay chính cái thành phố thổ tả mà bao giờ em cũng ghét cay ghét đắng này! Phải chăng ngay cả bây giờ em cũng không sao tìm được một người đem lại cho mình sự yên vui và hạnh phúc gia đình, vừa yêu mến lại vừa quý trọng mình? Thế nhưng kỷ niệm về mối tình của đôi ta...
Xtơresnhev châm thuốc hút, đoạn bắt đầu trả lời chậm rãi, rành rẽ: - Vera ạ, chúng ta giòng dõi quý tộc, chúng ta không biết cách yêu nhau một cách giản dị. Đó là một thứ thuốc độc đối với chúng ta. Và không phải em, mà chính anh đã tự tàn hại mình. Mười lăm, mười sáu năm trước ngày nào anh cũng đi ngựa đến đây và sẵn sàng qua đêm bên ngưỡng cửa của em. Lúc bấy giờ anh còn là một thằng bé con, một thằng ngốc phởn phơ và hiền lành...
https://thuviensach.vn
Điếu thuốc lá bị tắt. Chàng quăng nó ra xa, đoạn buông tay xuôi theo thân mình, mắt nhìn lên trần.
- Tình yêu của các cụ kỵ chúng ta, những bức chân dung của các cụ trong các khung hình bầu dục có giấy xanh viền trong, giấy thếp vàng bọc ngoài... Tượng thánh Guri, Ximon và Aviv, những đấng phù hộ độ trì cho
các gia tộc lâu đời của chúng ta... Tất cả những cái đó là dành để cho ai, nếu không phải cho anh và cho em? Lúc bấy giờ anh đã làm mấy câu thơ:
Yêu em, anh mơ tưởng tới những người trăm năm trước,
Đã từng mơ tưởng và yêu nhau ngay tại chốn này.
Và đêm đêm trong khu vườn vẳng lặng anh dạo bước.
Dưới ánh những ngôi sao trăm năm trước vẫn còn đây.
Chàng đưa mắt nhìn Vera rồi lại nói xẵng giọng hơn trước: - Em ra đi để làm gì, và để theo ai? Người đó có thuộc dòng giống, thuộc bộ tộc của mình chăng?
Chàng hơi nhỏm mình dậy mà nhìn chằm chặp vào mái tóc đen khô khốc của nàng bằng cặp mắt dữ dội:
- Bao giờ anh cũng chỉ suy nghĩ về em như một người vợ, suy nghĩ với một lòng hân hoan, tôn thờ. Thế nhưng lúc nào số phận đã gắn bó đôi ta? Và em đã là gì đối với anh? Phải chăng đã là vợ ? Mà lúc ấy là thanh xuân, là niềm vui, là sự trong trắng, là đôi má đào sâm sẫm, là chiếc sơ mi cổ chéo bằng vải mỏng... Ngày nào anh cũng đã đến nơi em, để được thấy tấm xiêm áo của em, cũng bằng vải mỏng, nhẹ nhõm, thanh tân, để được thấy đôi cánh tay trần của em, đôi cánh tay hầu như đã đen đủi vì nắng và vì dòng máu của tổ tiên chúng ta, để được thấy cặp mắt Tatar long lanh (anh đâu có lọt được vào cặp mắt ấy!), để được thấy một đoá hồng vàng trên mái tóc huyền, để được thấy nụ cười của em, một nụ cười lúc bấy giờ sao ngốc nghếch, kỳ khôi thế nào ấy, nhưng rất duyên dáng, - thậm chí để được thấy em đi men theo con đường nhỏ trong vườn để tránh xa anh, tuy bụng nghĩ đến chuyện khác nhưng em giả vờ chơi đùa, giả vờ dẫn quả bóng
https://thuviensach.vn
croquet (42), và để nghe những lời thóa mạ của mẹ em từ trên bao lơn vọng xuống, - chuyện đó đối với anh đã là...
- Không phải em, mà là mẹ em đã có lỗi trong mọi chuyện ấy, - Vera nói với vẻ nhọc nhằn.
- Không đâu! Em có nhớ cái lần đầu tiên rời đây đi Maxcơva, em đã chuẩn bị đồ lề, em đã lơ đãng hát một bài gì đó, em chẳng buồn nhìn anh mà chỉ chìm đắm trong những ước mơ của mình, trong niềm tin vào hạnh phúc của mình như thế nào không? Anh đã đi ngựa đến để tiễn em vào một buổi chiều lạnh lẽo và sáng sủa. Những mầm lúa mì óng ánh đã ngời sáng lên, những ruộng rạ và bức rèm khung cửa sổ bỏ ngỏ trên toa tàu đã ửng hồng lên... Ôi chao! - Xtơresnhev giận dữ nói trong nước mắt nghẹn ngào rồi lại nằm xuống gối. - Từ bàn tay thơm nức mùi dầu sả của em, hương sả còn vương lại cả trong tay anh. Nó lẫn với mùi dây cương, mùi yên ngựa, mùi mồ hôi ngựa, nhưng anh vẫn cứ cảm biết được nó, anh cưỡi ngựa đi trên con đường lớn lúc hoàng hôn - và anh đã khóc... Nếu như có ai đã từng hy sinh hết thảy, hy sinh tất cả cuộc đời mình, thì kẻ đó chính là anh, một kẻ say sưa đã già đời!
Và rồi, khi những giòng lệ trào tuôn qua má, qua ria xuống môi thấy nong nóng, mặn mặn, Xtơresnhev vung chân ra khỏi giường mà bước ra ngoài buồng.
Trăng đã lặn. Một màn sương mù trắng xốp đã giăng ra trên những cánh đồng dưới chân dốc và đang chuyển sang một màu xanh chết chóc. Xa xa đằng sau màn sương ấy, bình minh đang ửng đỏ. Xa xa, trong khu rừng sẫm tối và lạnh lẽo, một con gà trống đã gáy te te nơi buồng ngoài của người tuần canh.
Xtơresnhev chỉ đi độc một đôi bít tất ngắn, ngồi xuống bậc thềm và cảm thấy làn không khí ẩm lạnh đã lan khắp người mình dưới tấm áo sơ mi mỏng.
- Rồi về sau, dĩ nhiên là vai trò của từng người đã thay đổi, - chàng khẽ nói với vẻ ghê tởm. - Còn hiện nay thì chỉ có thế thôi. Hết rồi...
https://thuviensach.vn
IV
Sáng ra họ uống trà ngoài hành lang lạnh lẽo, ngồi trên một chiếc rương đồ sộ. Trên rương là một chiếc xamovar chẳng được lau chùi gì, mốc xanh lên và đã xỉn đi từ lâu. Mồ hôi lạnh ở cửa sổ đã biến mất trên những ô kính phía trên. Qua đó đã thấy được ánh nắng của ban mai buốt lạnh, thấy được một thân cây sần sùi giữa đám cây cối không màu sắc còn sót lại ở đôi nơi. Một cô gái tóc hung, đi chân đất, mắt sưng húp do ngủ nhiều, bước vào,
nói:
- Mitơri đã đến.
- Cứ để nó đợi đấy, - Xtơresnhev đáp, không đưa mắt nhìn lên. Cả Vera cũng không đưa mắt nhìn lên. Mặt nàng đã võ vàng đi sau đêm qua, dưới con mắt và quanh mi mắt đã có vệt nâu nâu. Tấm xiêm đen đã khiến cho nàng trẻ hơn và đẹp hơn lên, mái tóc đen cũng khiến cho lớp phấn trên mặt nàng càng thêm hồng. Khuôn mặt gày guộc, khắc khổ của Xtơresnhev như thiếu sinh khí, hơi ngửa ra sau. Qua chòm râu nhỏ màu xám loăn xoăn mà cứng, lộ ra một cục hầu lớn.
Ngoài sân chói chang một mặt trời đã xuống thấp. Toàn bộ bậc thềm đã bạc trắng vì sương giá. Sương giá đọng thành muối trên những ngọn cỏ, trên những lá bắp cải giống như những vỏ sò màu xám xanh rải rác trong sân. Một bác nông dân có cặp mắt màu thiếc đã giong đến cạnh thềm một chiếc xe ngựa tải chất đầy rơm và cả rơm cũng đọng đầy sương muối. Bác đi vòng quanh chiếc xe để rém lại rơm trên xe, mồm bác ngậm tẩu và một vệt khói màu hoa cà kéo dài qua vai bác. Vera bước ra bậc thềm, mình bận một chiếc áo lông ngắn nhẹ và đắt tiền nhưng đã sờn cũ và không hợp thời trang, đầu đội một cái mũ mùa hè bằng rơm đen, có gắn những bông hoa cứng queo, láng bóng màu gỉ sắt.
Xtơresnhev tiễn đưa nàng qua những con đường làng ra tới đường cái. Chàng cưỡi ngựa đi sau chiếc xe tải ngựa. Con ngựa thiến vươn dài cổ để đớp những cọng rơm. Chàng lấy roi quất vào mõm nó, nó ngỏng cổ, thót bụng hí lên một tiếng nhọc nhằn. Đoàn người ngựa bước thủng thẳng và im lặng. Bám sát Xtơresnhev, chạy sau cùng là con chó săn già nua của khu
https://thuviensach.vn
vườn tược ấy. Mặt trời thấp đã sưởi ấm vạn vật, bầu trời dịu dàng, trong sáng.
Gần đến đường cái, bác nông dân đột nhiên nói:
- Thưa cô, vụ hè này tôi lại sẽ đưa thằng cháu đến làm cho cô. Tôi đã dặn sẵn để cháu lại đến chăn bò cho cô rồi đấy.
Vera ngoảnh mặt lại với một nụ cười e thẹn. Xtơresnhev cất mũ ra, từ trên yên ngựa cúi xuống nắm lấy tay nàng mà hôn thật lâu. Nàng áp môi vào thái dương đang ngả bạc của chàng, khẽ nói:
- Mạnh khỏe nhé, anh thân yêu. Hãy bỏ qua cho em nhé.
Trên đường cái, bác nông dân giong xe chạy ầm ầm cho ngựa phi nước kiệu. Xtơresnhev quay lại, cưỡi ngựa trở về qua những ruộng rạ, không theo đường xá gì. Lẽo đẽo theo chàng ở phía xa xa là con chó săn già, hình bóng nó nổi lên rõ nét giữa những cánh đồng vàng óng. Chàng dừng lại, giơ tay dọa nó. Nó cũng dừng bước, ngồi xuống. “Tôi đi đâu được cơ chứ?” - dường như nó hỏi vậy. Và cứ hễ chàng cất bước thì nó lại nhũng nhẵng theo sau. Chàng nghĩ đến cái nhà ga xa xăm ấy, đến những đường ray bóng loáng, đến làn khói của đoàn tàu xuôi xuống phía Nam...
Khi chàng đi xuống những nội cỏ trơ trụi đó đây có đá lởm chởm, thì trời đã hầu như nóng nực.
Ngày thu lặng lẽ toả sáng qua một bầu trời trong xanh. Một bầu tĩnh mịch vĩ đại bao trùm trên đồng không mông quạnh, trên những khe vực, trên toàn bộ thảo nguyên Nga vĩ đại. Những sợi bông của những cây hành già, của những quả ngưu bàng khô, từ từ trôi trong không khí. Những con kim oanh đậu trên những cây ngưu bàng. Chúng cứ sẽ đậu như thế suốt cả ngày, chỉ họa hoằn lắm mới bay đi bay lại, mang theo cuộc sống yên tĩnh, đáng yêu và hạnh phúc của chúng.
Capri, ngày 31 tháng 12 năm 1912
https://thuviensach.vn
Ngày cuối cùng
Thôi thế là xong: gia súc bán cho người ta, chủ mới đã giong đi, những cỗ xe ngựa, yên cương, đồ đạc bán cho người ta, chủ mới cũng đã chở đi, cổng lò rèn và kho chứa củi, cửa vựa thóc và chuồng ngựa đều đã mở toang hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân cũng thảy đều hết sạch cả rồi.
Người chủ mới là bác thị dân Roxtovxev cho biết rằng bác ta sẽ đến vào chiều ngày hai mươi tháng tư. Bác Voeikov cũng quyết định ra đi vào ba giờ chiều đúng ngày hôm ấy; còn gia đình thì bác đã cho lên đường từ hôm mười hai.
Kẻ ăn người làm chỉ còn lại có hai mống là chú lính Piotr với thằng Xaska. Họ ngả ngớn trên những chiếc ghế dài trong căn bếp trống không, hút thuốc, rồi lúc thì với giọng bông lơn, lúc với vẻ nuối tiếc, họ nói chuyện với nhau về ông chủ đã khánh kiệt của mình. Còn chính bản thân ông ta thì ăn mặc theo kiểu thị thành, bận một bộ đồ vét tông nâu, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai, theo kiểu lính kinh kỵ có vành màu vàng, một tay cầm can, một tay xách ghế đẩu, ông ta đang đi quanh khắp trong nhà. Với những bức tường trần trụi, sao trong nhà sáng sủa thế! Mở bung hết cửa buồng nọ thông sang buồng kia, cứ vào mỗi buồng ông lại đứng lên ghế đẩu mà lột tung từ trên xuống dưới những tờ giấy dán tường đầy cứt ruồi đã bong ra khỏi mặt tường, và thế là từng mảnh giấy lớn, bên trong phủ dày vôi và hồ đã khô, rơi rào rào xuống sàn nhà. Trong một căn buồng lớn ở góc nhà, giấy dán tường lại là màu xanh sẫm pha kim nhũ. Giấy đã phai, đã bạc màu, nhưng còn mang nhiều hình bầu dục, hình vuông sẫm: căn buồng này trước đây bao giờ cũng treo các ảnh in trên kim loại và các bức tranh khắc cổ kính nho nhỏ, và ở một góc buồng là những tượng thánh. Giấy trong buồng này thì không thể bóc kịp nữa rồi. Ánh nắng đã dịu dàng xuyên qua những ô kính mỏng, xỉn đục, trên bốn khung cửa sổ lớn. Nhớ tới lúc thiếu thời mình đã trải qua ở đây, bác Voeikov lấy gậy phang vào một khung cửa sổ, rồi
https://thuviensach.vn
phang sang chiếc khác... Kính vỡ rơi loảng xoảng xuống những bậu cửa gỗ đã mọt ruỗng, xuống những miếng gỗ hình bát giác màu vàng của sàn nhà gỗ đã nứt nẻ. Làn gió xuân dịu dàng hút qua những lỗ thủng và đã trông thấy được những bụi đinh hương xám ở bên ngoài.
Ngồi lên ghế đẩu,bác Voeikov còn định suy nghĩ nốt những ý tưởng cuối cùng.
Bác ngồi hồi lâu, cất chiếc mũ lưỡi trai ra khỏi mái đầu rộng, rẽ ngôi lệch theo kiểu cổ, - nghĩa là từ phải sang trái với hai bên tóc mai để dài - và cúi đầu xuống. Lần hồi bác nhớ lại các ông bà, cụ kỵ đã từng sống và qua đời trong ngôi nhà này, trong khu đất vườn này; bác nhớ lại được hầu hết tên của các con chó borzoi đã từng khiến cho các chuyến đi săn của họ hàng nhà Voeikov trở nên lừng lẫy... Giờ đây các con cháu của lũ borzoi chỉ còn lại vẻn vẹn có sáu mống, còm nhom, dơ dáng dại hình vì đói ăn và vì già nua... chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chết ngoẻo thôi, điều đó là dĩ nhiên rồi... Đúng thế, nhưng không phải là Griska bỏ chúng lại cho Roxtovxev đâu! Bác Voeikov ngẩng bộ mặt ngăm đen nặng trịch của mình lên, một bộ mặt đầy những đường hằn và những vết nhăn hằn học, với bộ ria nhuộm màu xanh đen. Giờ đây đôi mắt bác long lanh một cách khắc nghiệt.
Đội mũ lên đầu, lộc cộc chống can, bác bước ra bậc thềm mà gọi vọng qua sân xuống bếp. Chú Piotr người dài ngoẵng chạy vọt tới ngưỡng cửa. - Lũ chó đâu rồi? - bác Voeikov hỏi.
Piotr ngó ra buồng ngoài và qua sân ngó ra vườn...
- Hình như vẫn còn ở nhà cả đấy ạ.
- Ờ, thế thì hay, - bác Voeikov hét to, giọng chắc nịch, - đập chết hết đi. Cứ mỗi con, cho hai hào rưỡi.
Rồi cắm một điếu thuốc ngắn ngủn nhưng to xù vào cái bót thuốc lá loại đắt tiền đã ám khói, bác châm thuốc hút, đoạn ngồi xuống bậc ở ngoài thềm. Piotr bèn lủi vào bếp, nhanh nhẩu báo cho Xaska biết quyết định của ông chủ khiến cậu này cũng ngạc nhiên và mừng rỡ, rồi vớ lấy đoạn dây thừng dưới chiếc ghế dài, Piotr lại bước ra ngưỡng cửa, suy nghĩ: không biết bắt đầu từ con chó nào trước nhỉ.
https://thuviensach.vn
Ba con khoang nằm ngoài nắng, ngay giữa sân. Hai con trắng nằm trong râm, cạnh kho chứa củi. Còn một con thì đang chạy ra khỏi khoảng vườn nhỏ trồng thông, men theo con đường sáng sủa giữa hai hàng cây dẫn qua một khu vườn còn thưa thớt với mấy cây táo tuy trụi lá nhưng đang trổ hoa trên mặt đất hồng hồng lúc sang xuân. Lũ chó đều đã già hết cả, kể cả con chó này, - một con chó cái màu vàng nhạt, hai tai đen, có mớ lông dài mà khô khốc ở những cẳng chân khẳng khiu, gày guộc. Piotr huýt sáo rồi vỗ vỗ đùi. Con chó qua sân tiến thẳng lại, ngoe nguẩy cái đuôi rậm cong tớn và liếm tay Piotr. Piotr quàng dây thừng vào cổ nó, rồi giậm đôi ủng lạo xạo chạy qua sân vào trong vườn. Thằng Xaska chân ngắn, tính thích cười đùa, cũng vớ lấy chiếc xẻng bằng sắt bị bỏ quên trong góc nhà ngoài, chạy theo.
Mới đầu con chó còn chịu đi. Nhưng đến cổng vườn thì nó bỗng chùn lại, chồm lên, rồi kêu lên ăng ẳng và bắt đầu quẫy lộn. Thẳng Xaska vừa chạy vừa giơ lên một cành táo có chạc dở xanh dở vàng, quật mấy nhát vào cái lưng khô khẳng của con chó, khiến chạc táo đều dính bết những chòm lông chó già nua. Piotr vừa chạy vừa ghé vai kéo dây, hệt như muốn ngã; còn con chó thì nhảy cẫng lên, vùng vằng, giật trở lại, lết người xuống đất, đầu lúc lắc. Những con borzoi đang ngủ liền bừng tỉnh, ùa đến cả đàn để thúc con chó cái.
- Đuổi chúng nó đi! - bác Voeikov chồm lên trên bậc thềm, rầy la dữ dội. Xaska bèn dùng xẻng xua tan lũ chó. Còn con chó cái điên cuồng gặm vào dây thừng, bị chảy máu ở lợi: trong khi nghẹn thở nó đã cắn phải lưỡi. Ra đến lối đi giữa hai rặng xiêm gai ở cạnh vườn, Piotr đã đi được êm thấm hơn vì con chó đột nhiên kiệt sức, thôi không chống cự lại nữa, trông càng gày tọp đi và đã loạng choạng, chân sau bước rối loạn, đuôi cụp xuống. Ở một ngã tư đường, có một cây phong cằn cỗi, toả rộng cành. Khi Piotr quăng dây qua một cành phong to rồi mau lẹ ghé vai bên phải về phía cây phong mà kéo mạnh dây xuống thì con chó bị lôi hẫng chân sau lên, co giật và quằn quại hai chân trước, cố níu lấy đám đất lổn nhổn dưới gốc phong, nhưng nó đã bị treo lủng lẳng là là mặt đất. Cái lưỡi tím đen của nó thè ra, mặt nó nhăn nhó để lộ ra hai hàng lợi màu san hô, ánh nắng ban ngày phản chiếu trong cặp mắt màu nho lờ đờ của nó đã bắt đầu mờ mịt đi.
https://thuviensach.vn
- Bây giờ thì im nhé, hết bắng nhắng rồi nhé, - quen thói bông đùa cả trong những cảnh thê lương, Piotr nói.
Xaska bắt chước giọng đàn bà hát í ẻo, đào một cái hố ở giữa hai bụi cây tuy trơ trụi nhưng cành đã nhú đầy những chồi xanh non tơ. Xa xa, trên những cây cổ thụ phía vườn dưới, đàn quạ kêu táo tác. Bốn phía chung quanh lũ sáo đá hót vang, một con ác là kêu ra rả, mặt trời đã làm héo khô đám lá nhàu nát dưới gốc các bụi cây, nhưng Xaska vẫn vững vàng và thoải mái dận chân lên lưỡi xẻng bóng loáng thun thút phập xuống đám đất tơi xốp màu xanh sẫm, xắt làm đôi những con giun béo, đỏ thẫm. Andrei, một cậu nông dân trong làng, ăn mặc tề chỉnh, đang trông cho con ngựa cái của mình ăn cỏ trong mảnh vườn vô chủ, thấy vậy bèn tiến lại gần. - Sao lại xử tử nó thế? - cậu tủm tỉm cười, hỏi.
- Theo lệnh mà lại, - Piott vẫn ghé vai giữ dây đáp. - Để từ biệt mà lại. Ông ấy ra lệnh xử tử tuốt. Cốt sao không để chúng lại cho ai sất cả. - Ông ấy xót lắm hả?
- Ai chả xót cơ chứ. Còn cậu thì đã đưa ngựa vào ăn trong vườn rồi đấy hả? Coi chừng, chiều nay chủ mới sẽ đến. Với ông ấy thì đừng có hòng mà chăn ngựa.
- Đến chiều mình lại ruổi ngựa về đấy mà, -Andrei nói.
Cậu ta lấy gậy thúc vào đít con chó, con chó bừng tỉnh, thót bụng lại gầm gừ. Rồi cậu ta lơ đãng nói tiếp.
- Mới đây mình cũng đập chết một con chó. Nó bị chó nhà ai cắn chả biết, chỉ sống được đâu một, hai tuần, rồi sủa cũng chẳng sủa được... Mình nghĩ mãi, nghĩ mãi đành mang ra đập chết đi vậy.
- Chó thì cũng như người, người hơn chó nhiều mà còn bị xử tử nữa là, - Piotr nói.
- Vậy cậu được thấy rồi sao?
- Mình làm sao thấy được. Họ có cho ai vào xem đâu, đến cả người nhà cũng chẳng được vào nữa là. Lính tráng họ kể cho mình nghe rằng ban đêm người ta dựng giá treo cổ, rồi sáng tinh mơ thì dẫn cái tên hung đồ ấy ra, người đao phủ trùm cho hắn một cái túi vào đầu rồi treo hắn lên một đoạn
https://thuviensach.vn
dây chão bện bằng cao su. Bác sĩ đến xem rồi cho biết ngay tức thì là hắn đã tắt thở hay chưa... Còn lỗ huyệt thì ở ngay dưới giá treo cổ. - Vậy là họ cứ quăng xuống không có áo quan gì sất?
- Thế cậu nghĩ là phải cho vào hòm kính sao?
- Với lại như thế thì chẳng có anh đi tìm vàng nào mò ra được, - Xaska vừa cười vừa nói vọng ra từ trong bụi rậm.
Piotr quăng chiếc thừng, - con chó đã rơi xuống và vẫn ở tư thế ngồi, - rồi châm thuốc hút
- Thế rồi sau họ lại đem cái cỗ máy ấy đi nơi khác ư? - Andrei hỏi. - Nơi nào cần thì họ lại mang đến.
- Thế tại sao lại xử tử người ta vậy nhỉ?
- Dễ hiểu thôi, nếu tốt thì đã chả phải xử tử. Bị xử tử là vì khác lòng tin, đi cầm đầu, đi ăn cướp. Đừng gây rối, đừng trộm cắp thì... - Thế còn cái lão đao phủ ấy, lão ta thế nào, có được lương bổng đấy chứ?
- Chứ sao. Cả cơm ăn áo mặc đàng hoàng nữa kia.
- Coi chừng, kẻo có lúc hết hơi đấy, - Andrei nói đùa, rồi đi lại phía con ngựa đang loạt soạt đống lá khô trong khu rừng trồng anh đào lưu niên. - Cũng có lẽ, - Piotr nói, đoạn hét với thằng Xaska: - Sẵn sàng rồi chứ? Cậu ta lôi xềnh xệch con chó lại miệng hố cùng với cả đám lá rụng đủ loại màu đá hoa có, màu vàng có, khô có, ướt có. Lấp đất xuống hố xong, Xaska lấy chân giậm giậm, và đống đất ẩm phập phồng hít thở dưới đôi ủng của nó.
- Thôi, yên giấc ngàn thu nhé, - nó nói. - Chúng tao sống vất va vất vưởng, còn mày thì thịt nát xương tan.
Đoạn vác xẻng lên vai, nó theo chân Piotr đi về nhà. Đến giữa sân thì Piotr dừng bước, giấu đoạn dây thừng ra sau lưng mà dụ dỗ gọi con chó đực to đã bạc cả lông, tên gọi Tserkex.
- Thưa ông Boris Borixưts, đã khử được một con và đã chôn rồi đấy ạ, - Xaska vui vẻ hét to với bác Voeikov nãy giờ vẫn ngồi trên bậc thềm. - Mày hét cái gì thế hở, thằng ngu? - bác Voeikov nghiêm nghị dồn hỏi nó. - Tại sao lại chôn? Ai bảo chúng mày chôn? Đem vào rừng thông, treo
https://thuviensach.vn
tuốt lên những cây thông và cứ để thế. Nghe chưa?
- Xin tuân lệnh ạ, - Xaska đáp, đoạn xông tới tiếp tay cho Piotr. - Nào, nhanh tay lên thôi! - nó khẽ quát.
Tới khoảng ba giờ thì họ giải quyết xong cả lũ chó. Giờ đây, cái cơ ngơi xưa cũ, tĩnh mịch, vắng vẻ, mơ màng dưới ánh nắng tháng tư mơn man ấm áp, đã trở nên hoàn toàn trống trải. Hai cậu người làm hứng chí nhưng mệt nhoài, bước theo lối đi giữa hai hàng cây và cùng nhau tính toán xem mình sẽ được trả công bao nhiêu.
- Không sao, khớ đấy, - Piotr nói với một giọng hoan hỉ ảm đạm. - Được một rúp rưỡi bạc đấy. Ta sẽ được một bữa cỗ đàng hoàng có cả thức nhắm. Bác Voeikov, đầu để trần đứng cạnh bậc thềm, làm dấu thánh giá rồi nghiêng mình trước ngôi nhà.
- Xin chào, - bác vừa nói với vẻ nghiêm nghị, vừa quay bộ mặt tối tăm, cương quyết của mình về phía những người vừa bước tới. - Xong rồi chứ? - Xong rồi ạ, - hai người làm đồng thanh trả lời và cất mũ lưỡi trai khỏi đầu.
- Cầm lấy.
Xaska nhận tiền và hôn vào bàn tay ngăm đen, có đeo một chiếc nhẫn cưới đã mỏng dính của bác. Không thay đổi sắc mặt, bác Voeikov ôm lấy cậu ta mà hôn vào môi. Rồi bác gật đầu với Piotr. Trong giây lát đôi mắt bác lác xệch và mờ mịt hẳn đi. Nhưng rồi bác đội chiếc mũ lưỡi trai lên đầu, trông lại càng nghiêm nghị hơn, và bác nói với giọng càng cứng rắn hơn:
- Bây giờ chúng bay đi được rồi đấy. Ta không bảo Miron cho xe ghé lại đón ta. Ta sẽ tự đi đến chỗ nó, rồi từ đó đi xe ra ga. Không phải ta ngượng vì phải đi xe ngựa tải, mà chỉ là vì... ta không thích...
Thế rồi bác đi ra cổng, không ngoái đầu lại.
Xaska chạy ù ra quán bán hàng và ông chủ quán dùng chiếc rìu gỉ chặt ở ngay ngưỡng cửa cho cậu một tảng thịt lợn muối ướt nhèm. Piotr đã đợi cậu ta ở bên quán rượu, ngoài bãi chăn, cạnh trang trại. Thế là hai người ngồi nhậu với nhau rất lâu trên vạt cỏ mùa xuân le te ngời sáng. Chiều đã đến trong một sắc hồng. Không khí mát lạnh đi, và càng nghe rõ hơn tiếng đàn
https://thuviensach.vn
quạ náo động, kêu quang quác trên những rặng cây già cỗi phía vườn dưới ẩm thấp. Đằng sau những chỏm lá liền tù tì của rặng cây ấy đã ngời sáng một mảnh trăng trong nhỏ bé. Còn bên kia sông, mặt trời đang lặn trong một ánh vàng tinh khiết, và trong khu trang trại lặng lẽ một cách kỳ dị, người ta thấy bùng cháy thành màu da cam những ô cửa kính của ngôi nhà chết lặng cửa mở toang hoang.
Khi bác Roxtovxev cùng với người quản lý đi một chiếc xe ngựa đến trang trại thì trời đã khuya, thôn xóm đều đã ngủ cả. Trong bầu tĩnh mịch chỉ nghe có tiếng một chiếc đinh ốc dưới bánh xe khẽ kêu lạch xạch khi xe ngựa từ từ tiến vào khu sân cũ của bác Voeikov. Bác Roxtovxev dừng xe cạnh bậc thềm, xuống xe một cách khó nhọc, quẳng dây cương lại cho người quản lý. Người quản lý cho xe vào kho chứa để tháo ngựa ra, còn bác Roxtovxev mình bận áo dạ chùng, đầu đội mũ lưỡi trai sâu và ấm, thử duỗi đôi chân đã tê cứng do ngồi lâu trên xe mà bước vào nhà. Cả ông cũng cúi chào ngôi nhà, cất chiếc mũ lưỡi trai ra khỏi đầu và tỏ vẻ sùng kính, rắc một ít tóc của mình nơi ngưỡng cửa, trước khi bước vào những căn buồng đầy ánh trăng mờ đục. Trong các căn buồng, trên sàn đâu đâu cũng ngổn ngang những giấy dán tường bị lột xuống. Đi hết buồng nọ sang buồng kia, bác chăm chú và đã ra vẻ chủ nhà soi mói ngó vào mọi ngóc ngách, lấy ủng hất những mảnh giấy loạt xoạt, rồi lắc đầu với vẻ thực tâm chua chát, bác lẩm bẩm:
- Ôi chao, quân lừa đảo! Ôi chao, đồ mất dạy!
Trong bóng tối chập choạng, những căn buồng tưởng chừng như vô tận. Người ta thấy ghê rợn trong cái cảnh trống rỗng dơ dáng dại hình của chúng, trong cái khung trơ trụi của một tố ấm tan hoang của người khác, - một tổ ấm đã bao năm sống với con người riêng của mình, với một cuộc sống bí hiểm không sao hiểu nổi đối với tất cả mọi người thuộc dòng họ Roxtovxev. Bác Roxtovxev quay gót, lưng gù xuống, mặt nhăn nhó, bước ra bậc thềm, và nóng lòng xem mau cho hết mọi cái giờ đây đã là của riêng mình, bác đi ra vườn để xem sắc thái của những cây táo, bởi lẽ năm nay bác đặt rất nhiều hy vọng vào khu vườn. Nhưng dưới ánh trăng dịu hồng, thậm chí cả cặp mắt tinh tường của bác Roxtovxev cũng không sao phân biệt nổi
https://thuviensach.vn