🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những kẻ xuất chúng
Ebooks
Nhóm Zalo
MALCOLM GLADWELL
Những kẻ xuất chúng
Cách nhìn mới về nguồn gốc thành công
OUTLIERS | THE STORY OF SUCCESS
Bản quyền tiếng Việt © 2009 Công ty Sách Alpha
Diệu Ngọc dịch
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách.
Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản
Con đường dẫn đến thành công?
TRƯƠNG GIA BÌNH
Chủ tịch Tập đoàn FPT
Bạn luôn mong muốn thành công? Bạn mơ ước trở thành một nhân vật xuất chúng? Nếu bạn làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, những yếu tố nào giúp bạn có thể trở thành một người như Bill Gates? Nếu hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, bạn từng bao giờ so sánh mình với ban nhạc The Beatles hay thiên tài Mozart chưa? Trong cuốn sách giản dị này có những chỉ dẫn, gợi mở con đường hướng mỗi người tới thành công như mong ước.
Malcolm Gladwell, tác giả cuốn sách Những kẻ xuất chúng và hai tác phẩm nổi tiếng khác là Trong chớp mắt và Điểm bùng phát, năm 2005 từng được Tạp chí Times bầu chọn là một trong 100 người ảnh hưởng nhất thế giới.
Vì sao ông có tầm ảnh hưởng lớn như vậy, thật đơn giản, vì ông có khả năng xuất sắc đưa ra những nhận định về quy luật xã hội tưởng chừng như rất bình dị mà lại rất sâu sắc. Những nhận định của ông trong cuốn Những kẻ xuất chúng giúp các bậc làm cha mẹ tiên đoán khả năng: Con cái họ có thể trở thành vận động viên thể thao nổi tiếng? Có thể thành công rực rỡ trong ngành công nghệ thông tin? Hoặc có thể trở thành luật sư danh tiếng?
Từ những lý giải về thành công của ban nhạc lừng danh The Beatles, tỉ phú phần mềm Bill Gates, các luật sư nổi tiếng phố Wall, cùng rất nhiều thiên tài khác… tác giả chỉ ra rằng cuộc đời của những người thành công tuân thủ những điểm chung thú vị. Đồng thời ông cũng đưa ra cách lý giải đầy thuyết phục cho thất bại đáng buồn của những thần đồng có chỉ số IQ rất cao. Phát hiện này làm cuốn sách đặc sắc và khác biệt về quan điểm phát huy tiềm năng con người.
Tác giả quả quyết rằng các vĩ nhân không tự dưng mà có, cũng không được thúc đẩy bởi chỉ có thiên tài hay tài năng. Quả đúng như cha ông ta nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim”, vĩ nhân là người biết nắm bắt cơ hội từ môi trường và hoàn cảnh, và cùng với miệt mài khổ luyện mà họ vươn lên những đỉnh cao người khác không thể đạt tới. Mỗi chúng ta, nếu có khát vọng làm được những điều lớn lao, trở thành người xuất chúng, thì hãy chăm chỉ rèn luyện kỹ năng và nắm bắt cơ hội để vươn tới đỉnh cao. Chúng ta cũng có thể hướng dẫn con cái mình ngay từ bây giờ giúp chúng có được những lợi thế đặc biệt để một ngày nào đó chúng ta có thể tự hào. Biết đâu bạn sẽ trở thành bố mẹ của những Bill Gates, hay của nhóm Beatles tương lai…
Với cuốn sách nhỏ này, bạn có thể tìm được những gợi ý đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu cho con cái hoặc chính bản thân bạn.
Từ cách nhìn và những lập luận trong cuốn sách, suy nghĩ về Việt Nam, chúng ta có thể thấy vì sao có những thế hệ vàng trong tất cả các lĩnh vực từ thể thao đến khoa học hay trong xã hội, tại sao thành công của thế hệ này rất khác biệt với thành công của thế hệ khác cũng như có thể dự đoán về thành công của chính thế hệ mình…
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Hy vọng cuốn sách nhỏ này gợi mở cho mỗi gia đình, mỗi cá nhân cách thức hun đúc nguyên khí Việt Nam!
Tháng 7 – 2009
Lời giới thiệu
Bí ẩn Roseto
“NHỮNG NGƯỜI NÀY QUA ĐỜI VÌ TUỔI CAO. CÓ VẬY THÔI.” 1.
Roseto Valfortore nằm cách thành Rome khoảng một trăm dặm về phía đông nam dưới chân đồi Apennine, thuộc tỉnh Foggia của Italia. Cũng giống như những ngôi làng mang phong cách trung cổ, thị trấn này quây quần xung quanh một quảng trường trung tâm rộng lớn. Đối diện với quảng trường là Palazzo Marchesale − lâu đài của dòng họ Saggese, từng có thời là lãnh chúa giàu có ở vùng này. Một lối đi có mái vòm bắt đầu từ một mé hướng thẳng ra nhà thờ Madonna del Carmine. Những bậc thang đá hẹp chạy dọc lên sườn đồi, áp liền hai bên là những căn nhà xây bằng đá lợp ngói đỏ san sát thành cụm với nhau.
Trong suốt nhiều thế kỷ, những nông dân của Roseto làm việc ở các mỏ đá hoa cương trong những quả đồi xung quanh, hay cấy cày trồng trọt trên các thửa ruộng ở thung lũng phía dưới, cuốc bộ bốn hay năm dặm đường xuống núi mỗi sớm mai và rồi lại cần mẫn đi hết quãng đường dài trở về khu đồi khi chiều muộn. Cuộc sống thật gieo neo. Cư dân thị trấn không hề biết chữ, nghèo tả tơi và chẳng có mấy hy vọng được cải thiện về mặt kinh tế cho đến khi tin tức về mảnh đất của vận hội bên kia bờ đại dương chợt đến với Roseto hồi cuối thế kỷ XIX.
Tháng Giêng năm 1882, một nhóm 11 người Roseto − mười người đàn ông và một cậu trai − dong buồm đến New York. Đêm đầu tiên họ ngủ ngay trên sàn quán Little Italia ở đường Mulberry, khu Manhattan. Sau đó họ liều thử vận may đi về phía tây, cuối cùng đã tìm được việc làm trong một mỏ đá ác-
đoa cách mười chín dặm về phía tây thành phố New York, gần thị trấn Bangor, bang Pennsylvania. Trong năm tiếp sau, mười lăm người Roseto rời Italia để đến với nước Mỹ, vài người trong đó cũng dừng chân ở Bangor, sát cánh với những người đồng hương trong mỏ đá ác-đoa. Những người nhập cư ấy báo tin cho quê hương Roseto về miền đất hứa ở vùng Tân Thế Giới và rất nhanh chóng hết nhóm người Roseto này theo chân nhóm người khác gói ghém đồ đạc túi dết thẳng tiến tới Pennsylvania, cho tới khi lạch nguồn nhập cư ban đầu trở thành một cơn lũ cuốn. Chỉ tính riêng năm 1894, khoảng một nghìn hai trăm người gốc Roseto đã xin hộ chiếu nhập cảnh Hoa Kỳ, để lại tất cả lối phố nơi làng quê cũ của mình hoang liêu.
Người Roseto bắt đầu mua lại đất đai trên sườn đồi lổn nhổn đá nối với Bangor bằng một con đường xe súc vật kéo mòn vẹt và dốc thoai thoải. Họ xây dựng những căn nhà bằng đá hai tầng san sát thành cụm với mái lợp đá ác đoa trên những con đường hẹp chạy ngoằn ngoèo lên xuống sườn đồi. Họ dựng lên một nhà thờ, gọi nó là Madonna del Carmine và đặt tên con phố chính nơi nhà thờ tọa lạc là Đại lộ Garibaldi − tên một vị đại anh hùng thống nhất nước Italia. Thuở ban đầu, họ gọi thị trấn của mình là Tân Italia. Nhưng rất nhanh sau đó họ đổi lại thành Roseto − cái tên dường như thích hợp nhất để biểu thị rằng hầu hết họ đều đến từ cùng một ngôi làng ở Italia.
Vào năm 1896, Cha Pasquale de Nisco một mục sư trẻ tuổi năng động tiếp quản công việc tại nhà thờ Madonna del Carmine. Cha De Nisco tạo dựng những cộng đồng tôn giáo và tổ chức các dịp lễ lạt. Ông khuyến khích cư dân thị trấn làm sạch đất đai, trồng hành tây, đậu đũa, khoai tây, dưa chuột và các cây hoa quả trong những mảnh vườn phía sau nhà họ. Ông phân phát hạt giống và hành củ. Cả thị trấn bừng bừng sinh khí. Người dân Roseto bắt đầu nuôi lợn ở sau vườn và trồng nho để ủ rượu tại gia. Vài trường học, một công viên, một tu viện và một nghĩa trang được xây dựng. Các cửa tiệm và hàng bánh ngọt, nhà hàng và quán bar mở cửa dọc theo Đại lộ Garibaldi. Hơn một tá nhà xưởng bung ra sản xuất áo choàng cho ngành may mặc. Thị
trấn Bangor láng giềng đa phần là người xứ Wales và Anh quốc, thị trấn kế bên chủ yếu là người gốc Đức − dựa vào mối quan hệ căng thẳng giữa người Anh với người Đức cũng như người Italia trong những năm tháng ấy − rõ ràng thị trấn Roseto chỉ gồm toàn cư dân Roseto sinh sống mà thôi. Nếu bạn dạo bước ngược xuôi những con phố Roseto − bang Pennsylvania trong một vài thập niên sau năm 1900, bạn sẽ chỉ nghe thấy tiếng Italia, mà không phải là thứ tiếng Italia nào khác ngoài loại phương ngữ miền Nam Foggia chuẩn xác vốn được sử dụng ở Roseto. Roseto nằm trong lòng bang Pennsylvania là một thế giới nhỏ bé riêng biệt tự cấp tự túc − tất cả, nhưng lại không hề được những cộng đồng xung quanh biết tới − và có lẽ mọi việc sẽ vẫn duy trì như thế nếu không xuất hiện một người đàn ông có tên Stewart Wolf.
Wolf vốn là một bác sĩ. Ông nghiên cứu về hệ tiêu hóa và dạ dày, dạy học tại trường Y thuộc Đại học Oklahoma. Ông trải qua mùa hè tại một nông trại ở Pennsylvania, không xa Roseto là mấy – dù có thế đương nhiên điều đó chẳng ghê gớm gì, bởi Roseto quá đắm đuối trong thế giới biệt lập của riêng mình đến mức dù ai đó sống ở ngay thị trấn kế bên cũng chẳng hay biết gì nhiều về nó. “Một lần tôi về đó nghỉ hè − có lẽ là hồi cuối những năm 1950 − Tôi được mời đến nói chuyện tại một hội Y tế địa phương,” nhiều năm sau đó Wolf kể lại trong một cuộc phỏng vấn. “Sau khi cuộc nói chuyện kết thúc, một vị bác sĩ địa phương mời tôi đi làm một chầu bia. Trong khi chúng tôi uống, anh ta nói, “Anh biết đấy, tôi đã hành nghề được mười bảy năm. Bệnh nhân của tôi đến từ khắp mọi nơi, thế mà hầu như tôi chưa gặp một trường hợp người Roseto nào dưới sáu lăm tuổi mắc bệnh tim.”
Wolf sửng sốt thực sự. Đó là vào hồi những năm 1950, nhiều năm trước khi xuất hiện các loại biệt dược làm giảm cholesterol cũng như những biện pháp tích cực hòng ngăn ngừa bệnh tim mạch. Những cơn đau tim là một thứ bệnh dịch ở nước Mỹ. Chúng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong đối với người ở độ tuổi dưới 65. Nói theo cách thông thường là, không thể có chuyện anh làm bác sĩ mà lại chưa gặp ca bệnh tim nào hết.
Wolf quyết định điều tra. Ông tranh thủ sự trợ giúp từ một số sinh viên và đồng nghiệp ở Oklahoma. Họ tập hợp các giấy chứng tử của cư dân trong thị trấn, lần ngược trở lại tối đa số năm mà họ có thể. Họ phân tích các ghi chép y khoa. Họ xem xét lịch sử bệnh lý và xây dựng các phả hệ gia đình. “Chúng tôi bận túi bụi,” Wolf nói. “Chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu sơ bộ. Chúng tôi bắt đầu vào năm 1961. Vị thị trưởng đã nói, 'Tất cả các chị em gái của tôi sẽ giúp đỡ các anh.' Ông ta có bốn chị em gái. Ông tiếp, 'Các anh có thể sử dụng phòng họp của Hội đồng thị trấn.' Tôi hỏi lại, 'Thế các ông sẽ họp hội đồng ở đâu?' Ông đáp lời, 'À vâng, chúng tôi sẽ hoãn lại một chút.' Các bà các cô mang bữa trưa tới cho chúng tôi. Chúng tôi có những căn lều nhỏ để lấy máu và làm điện tâm đồ (EKGs). Sau đó tôi trò chuyện với nhà chức trách. Họ cho chúng tôi sử dụng trường học trong mùa hè. Chúng tôi mời toàn bộ dân Roseto tới kiểm tra.
Kết quả thật đáng choáng váng. Ở Roseto, rõ ràng không có ai dưới độ tuổi 55 bị chết do đau tim hay có bất cứ dấu hiệu nào của bệnh tim. Với những người trên 65 tuổi, tỉ lệ tử vong do bệnh tim ở Roseto chỉ khoảng bằng một nửa so với tỷ lệ chung của nước Mỹ. Tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở Roseto, trên thực tế còn thấp hơn 30 đến 35% so với dự tính.
Wolf lại mời tới một người bạn tên là John Bruhn − một nhà xã hội học ở Oklahoma, để giúp đỡ ông. “Tôi thuê các sinh viên chuyên ngành y khoa và các sinh viên xã hội học đã tốt nghiệp đến đây tiến hành phỏng vấn. Chúng tôi đến từng nhà, trò chuyện với tất cả cư dân từ 21 tuổi trở lên,” Bruhn nhớ lại. Việc ấy đã xảy ra hơn năm mươi năm về trước, thế mà trong giọng nói của Bruhn vẫn đượm vẻ kinh ngạc khi ông miêu tả những gì họ phát hiện được. “Không hề có tự tử, không nghiện rượu, không nghiện ma túy và rất ít tội phạm. Không có ai phải sống dựa vào phúc lợi. Sau đó chúng tôi xem xét đến các vết loét trong hệ tiêu hóa. Họ cũng chẳng hề mắc phải chút nào. Những người này nếu chết đều do tuổi cao. Có vậy thôi.”
Những người trong giới y khoa của Wolf có một cái tên để gọi những nơi như Roseto − một nơi nằm ngoài những trải nghiệm hàng ngày, nằm ngoài những quy luật thông thường. Roseto là một Kẻ xuất chúng.
2.
Suy nghĩ đầu tiên của Wolf là người Roseto hẳn phải tuân thủ nghiêm ngặt những thói quen ăn kiêng theo lối Cựu Thế Giới khiến họ khỏe khoắn hơn hẳn những người Mỹ khác. Nhưng ông thấy ngay rằng điều đó không có căn cứ. Người Roseto sử dụng mỡ lợn để nấu nướng thay vì dùng loại dầu ô-liu lành mạnh hơn nhiều mà họ vốn vẫn sử dụng ở Italia. Pizza ở Italia là cùi bánh mỏng với muối, dầu và có thể thêm chút cà chua, cá trống hay hành tây. Pizza ở Pennsylvania là bánh bột mỳ nhào cộng thêm xúc xích, hạt tiêu, xúc xích Italia, thịt xông khói và đôi khi cả trứng nữa. Những loại đồ ngọt như bánh biscotti và tarralli thường được dành cho dịp Giáng sinh và Lễ Tạ ơn; nhưng ở Roseto họ dùng chúng quanh năm suốt tháng. Khi Wolf nhờ các chuyên gia về dinh dưỡng phân tích thói quen ăn uống điển hình của người Roseto, họ phát hiện ra con số ghê gớm là 41% lượng calori trong khẩu phần ăn của người Roseto có nguồn gốc từ chất béo. Đây cũng không phải là một thị trấn mà người dân thức dậy từ tinh mơ để tập yoga hay chạy bộ quãng đường sáu dặm liền. Người Roseto ở Pennsylvania nghiện thuốc rất nặng và nhiều người phải vật lộn với bệnh béo phì.
Nếu chế độ ăn kiêng và tập luyện không giải thích được cho những phát hiện về sức khỏe, vậy nguồn gốc di truyền thì sao? Người Roseto là một nhóm gắn bó khăng khít đến từ cùng một vùng đất của nước Italia, và suy nghĩ tiếp theo của Wolf là tự hỏi xem liệu những người này có phải thành viên trong cả một dòng tộc khỏe mạnh dạn dày khác thường bảo vệ họ khỏi tật bệnh hay không. Nghĩ vậy nên ông đã truy dấu họ hàng thân thích của người Roseto sống rải rác ở những vùng khác của nước Mỹ để xem liệu họ có cùng chung hưởng thứ sức khỏe tráng kiện đáng nể như những người anh em ở
Pennsylvania hay không. Họ không hề.
Tiếp theo ông xem xét đến khu vực địa lý mà người Roseto sinh sống. Liệu có khả năng nào việc sinh sống ở vùng chân đồi phía đông Pennsylvania lại có thứ gì đó tốt cho sức khỏe của họ không? Hai thị trấn gần kề Roseto nhất là Bangor, chỉ xuôi phía dưới khu đồi và Nazareth, cách đó vài dặm. Cả hai thị trấn đều có quy mô cỡ như Roseto và dân chúng đều là người châu Âu nhập cư làm lụng chăm chỉ tương tự nhau. Wolf sục sạo tất cả ghi chép y khoa của cả hai thị trấn. Ở lứa tuổi trên 65, tỉ lệ tử vong do bệnh tim ở cả Nazareth và Bangor đều cao gấp ba lần so với Roseto. Lại sa vào ngõ cụt.
Điều Wolf bắt đầu ngộ ra là bí mật của Roseto không nằm ở chế độ ăn kiêng hay tập luyện hay di truyền hay địa thế. Đó phải là chính bản thân Roseto. Khi Bruhn và Wolf dạo bộ quanh thị trấn, họ đã phát hiện ra nguyên cớ tại sao. Họ chính mắt trông thấy cách người Roseto thăm hỏi nhau, dừng lại trò chuyện bằng tiếng Italia trên đường phố, hay nấu nướng giúp nhau ngay trong vườn sau nhà. Họ đã hiểu về hệ thống đại gia đình nâng đỡ cả cấu trúc xã hội của thị trấn. Họ chứng kiến các gia đình với ba thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà cũng như các bậc ông bà được tôn kính đến thế nào. Họ đến chỗ đám đông tụ tập ở nhà thờ Madonna del Carmine và cảm nhận được hiệu ứng của sự thống nhất và bình an của nhà thờ. Họ đếm được hai mươi hai tổ chức dân sự khác nhau tồn tại trong một thị trấn chỉ vỏn vẹn hai nghìn dân. Họ để mắt tới đặc tính bình quân chủ nghĩa nổi bật của cộng đồng, ngăn cản những kẻ giàu có phô trương và giúp cho những người kém thành công che giấu bớt thất bại.
Trong quá trình di thực văn hóa dân cư vùng nam Italia đến khu đồi miền đông Pennsylvania, người Roseto đã sáng tạo nên cả một cấu trúc xã hội vững chãi và kiên cố đủ khả năng cô lập họ khỏi những áp lực đến từ thế giới hiện đại. Người Roseto khỏe khoắn bởi chính nơi họ xuất thân, bởi chính thế giới mà họ đã sáng tạo nên cho mình ngay trong khu thị tứ nhỏ bé
giữa vùng đồi núi.
“Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên đặt chân tới Roseto, bạn sẽ trông thấy ngay những bữa ăn của các gia đình ba thế hệ chung sống, những tiệm bánh mỳ, người dân dạo bước qua lại trên đường phố, ngồi ở hàng hiên trò chuyện với nhau, những phân xưởng may mặc nơi phụ nữ miệt mài làm việc cả ngày dài, trong khi đàn ông làm việc trong những mỏ đá ác-đoa,” Bruhn nói. “Thật kỳ diệu!”
Khi Bruhn và Wolf lần đầu tiên công bố những phát hiện của mình trước giới y học, bạn có thể tưởng tượng ra ngay thái độ hoài nghi mà hai người bọn họ phải đối mặt. Họ bước vào những phòng hội thảo nơi các đồng sự đã bày sẵn hàng dãy dằng dặc số liệu sắp vào những bảng biểu phức tạp liên quan đến loại gene này hay quy trình sinh lý học khác, và chính bản thân những người đó lại phát ngôn thay vì được nghe nói về những tác dụng kỳ lạ và thần diệu của việc người ta dừng bước để trò chuyện với nhau trên đường phố hay ba thế hệ gia đình cùng chung sống dưới một mái nhà. Để có một cuộc sống trường thọ, trí tuệ tập thể khi đó khẳng định rằng, việc đó xét trên phạm vi rộng phụ thuộc vào cái chúng ta là ai − đúng thế, chính là mã di truyền (gene). Nó tùy thuộc vào những quyết định chúng ta đưa ra − về việc chúng ta lựa chọn ăn thức gì, chúng ta lựa chọn tập tành bao nhiêu, và cả việc hệ thống y tế điều trị hiệu quả tới mức nào. Không một ai quen với việc suy nghĩ về sức khỏe trên khía cạnh cộng đồng.
Wolf và Bruhn phải thuyết phục giới y khoa suy nghĩ về sức khỏe và các bệnh tim mạch theo một phương cách hoàn toàn mới mẻ: hai người buộc phải chỉ cho bọn họ thấy rằng sẽ không thể hiểu được tại sao một người nào đó lại khỏe mạnh nếu tất cả những gì người đó làm chỉ là nghĩ về những lựa chọn hay hành động của một cá nhân riêng rẽ biệt lập. Họ buộc phải nhìn rộng hơn, ra ngoài cá thể đó. Họ buộc phải hiểu về nền văn hóa mà anh ta/cô ta là một phần cấu thành trong đó, hiểu xem bè bạn và gia đình của người đó ra sao, xem nơi chốn mà họ xuất thân thế nào. Người trong giới y học sẽ phải
coi trọng ý tưởng rằng những giá trị của thế giới mà chúng ta đang sinh sống cũng như những người vây bọc quanh ta có tác động sâu sắc đến việc định hình nên mỗi chúng ta.
Trong cuốn sách Những kẻ xuất chúng này, tôi muốn lý giải về thành công giống như cách Stewart Wolf đã lý giải cho chúng ta về sức khỏe.
Phần Một CƠ HỘI
Chương I. Hiệu ứng Matthew
VÌ PHÀM AI ĐÃ CÓ, THÌ ĐƯỢC CHO THÊM VÀ SẼ CÓ DƯ THỪA; CÒN AI KHÔNG CÓ, THÌ NGAY CÁI ĐANG CÓ, CŨNG SẼ BỊ LẤY ĐI.
Matthew 25:29
1.
Vào một ngày mùa xuân ấm áp tháng Năm năm 2007, hai đội Medicine Hat Tigers và Vancouver Giants chạm trán nhau trong giải vô địch khúc côn cầu Memorial Cup ở Vancouver, bang British Columbia, Canada. Tigers và Giants là hai đội xuất sắc nhất Giải ngoại hạng khúc côn cầu Canada, cũng chính là giải vô địch khúc côn cầu trẻ chất lượng nhất thế giới. Đây đều là những ngôi sao tương lai của môn thể thao − những tuyển thủ mười bảy, mười tám và mười chín tuổi, những người đã trượt băng và đánh bóng từ hồi họ mới chỉ là các cậu bé vừa chập chững biết đi.
Trận đấu được phát sóng trên kênh truyền hình quốc gia Canada. Ngược xuôi trên những con đường khu trung tâm buôn bán của Vancouver, các băng rôn về Memorial Cup treo phấp phới ở các trụ đèn. Sân vận động chật cứng người. Một dải thảm đỏ trải dài trên mặt băng và xướng ngôn viên giới thiệu những vị tai to mặt lớn dự khán trận đấu. Đầu tiên là Thủ hiến bang British Columbia − ngài Gordon Campbell. Tiếp đó, giữa những tràng pháo tay náo động, Gordie Howe − một trong những huyền thoại của môn thể thao này bước ra. “Thưa các quý bà và quý ông,” xướng ngôn viên hô lớn. “Đây là Ngài Hookey!”
Trong sáu mươi phút tiếp sau, cả hai đội đã cống hiến một trận khúc côn cầu hừng hực khí thế và giằng co quyết liệt. Vancouver ăn bàn trước, ngay đầu hiệp hai, trong một cú bật bóng của Mario Bliznak. Đến cuối hiệp hai, tới
lượt Medicine Hat ghi điểm, khi tay săn bàn hàng đầu Darren Helm châm ngòi một cú đánh nhanh vượt qua thủ thành Vancouver − Tyson Sexsmith. Vancouver đáp trả vào hiệp ba, ghi được bàn thắng quyết định của trận đấu và rồi, khi Medicine Hat để mặc thủ thành của mình chống đỡ tuyệt vọng, Vancouver đã ghi bàn lần thứ ba.
Sau trận đấu, các tuyển thủ và gia đình của họ cũng như phóng viên thể thao trên khắp Canada len lỏi chen chúc vào phòng thay đồ của đội thắng trận. Bầu không khí nồng nặc khói thuốc lá, hơi sâm-panh và trang phục đấu khúc côn cầu ướt đẫm mồ hôi. Trên tường treo một dải băng rôn vẽ tay: “Nắm chắc cuộc chơi.” Ở chính giữa căn phòng, huấn luyện viên đội Giants, ông Don Hay tỏ ra đầy xúc động. “Tôi quá tự hào về những chàng trai này,” ông nói. “Cứ nhìn quanh phòng thay đồ mà xem. Tất cả bọn họ đều dốc toàn tâm toàn ý vào trận đấu.”
Môn khúc côn cầu ở Canada đúng là một hệ thống tuyển lựa nhân tài. Hàng nghìn cậu bé Canada bắt đầu chơi môn thể thao này ở cấp độ “học nghề” thậm chí còn trước khi chúng đi nhà trẻ. Từ thời điểm đó trở đi, đã có đủ các giải vô địch cho mọi lứa tuổi, và ở mỗi cấp độ như thế, các tuyển thủ lại được sàng lọc, phân loại, đánh giá và kết quả là những tay chơi tài năng nhất sẽ được tách riêng và chuẩn bị cho cấp độ tiếp theo. Khi các tuyển thủ này bước vào độ tuổi từ 13 đến 19, những người xuất sắc nhất trong số này lại được thi thố trong một giải đấu danh giá có tên là Major Junior A, chính là đỉnh của kim tự tháp. Và nếu đội bóng Major Junior A của bạn được chơi ở Memorial Cup, điều đó đồng nghĩa với việc bạn đang ở đỉnh chóp của kim tự tháp.
Đây chính là con đường chọn lựa những ngôi sao tương lai ở hầu hết các môn thể thao. Đây là cách thức chọn lựa của môn bóng đá ở châu Âu và Nam Mỹ, cũng là cách các vận động viên Olympic được tuyển lựa. Cách thức này, cũng không nhiều khác biệt lắm so với cách mà nghệ thuật âm
nhạc cổ điển lựa chọn những nghệ sĩ bậc thầy trong tương lai, nghệ thuật vũ ba lê tuyển chọn những nghệ sĩ múa tương lai, hay các hệ thống giáo dục tinh hoa lựa chọn ra các nhà khoa học và trí thức kế tiếp của mình.
Bạn không thể nào mua tấm vé tham dự giải khúc côn cầu Major Junior A. Bất kể cha mẹ bạn là ai, ông bạn ghê gớm ra sao, hay gia đình bạn làm ngành nghề gì. Cũng chẳng hề hấn gì nếu như bạn sống ở tận ngõ ngách hẻo lánh nào đó của một tỉnh cực nam Canada. Nếu bạn có tài năng, mạng lưới rộng lớn những người chiêu mộ và phát hiện tài năng khúc côn cầu cũng sẽ tìm đến bạn, và nếu bạn tự nguyện chấp nhận phát triển năng lực ấy, hệ thống sẽ tưởng thưởng cho bạn. Thành công trong môn khúc côn cầu được dựa trên công trạng cá nhân − và cả hai từ đó đều quan trọng như nhau. Các tuyển thủ được đánh giá thông qua những màn trình diễn của riêng họ, không phải của ai khác, và dựa vào nền tảng tài năng của họ, chứ không phải căn cứ vào những lập luận cứng nhắc nào đó.
Liệu có phải như vậy?
2.
Đây là một cuốn sách nói về những kẻ xuất chúng, về những con người làm được những việc vượt ra khỏi chuẩn mực thông thường. Theo diễn tiến của những chương tiếp sau, tôi sẽ lần lượt giới thiệu đến các bạn các dạng “ngoại hạng”: thiên tài khoa học, tài phiệt kinh doanh, ngôi sao ca nhạc, các lập trình viên phần mềm. Chúng ta sẽ hé lộ bí mật của những luật sư danh tiếng, tìm hiểu xem điều gì khác biệt giữa những phi công cừ nhất với những người làm nổ máy bay, và thử phát hiện xem tại sao người châu Á lại giỏi Toán đến vậy. Trong khi khảo sát cuộc sống của những người nổi bật ngay giữa chúng ta − những người tài khéo, giỏi giang, tiên phong − tôi sẽ khẳng định rằng có những sai lầm sâu sắc trong cách chúng ta nhìn nhận về thành công.
Câu hỏi chúng ta vẫn thường đặt ra khi nói về những người thành công là gì?
Chúng ta muốn xem họ ra sao − họ sở hữu tính cách như thế nào, họ thông minh đến cỡ nào, phong cách của họ có gì đặc biệt, hay họ vốn sinh ra với thứ tài năng thiên bẩm nào. Và chúng ta một mực cho rằng chính những phẩm chất cá nhân đó đủ để giải thích cách một người đạt tới đỉnh cao.
Trong những cuốn tự truyện được các tỉ phú, doanh nhân, ngôi sao ca nhạc hay những người nổi tiếng xuất bản nhan nhản hàng năm, câu chuyện lúc nào cũng y nguyên một kiểu: người hùng của chúng ta được sinh ra trong những hoàn cảnh gieo neo, nhờ những nỗ lực bền bỉ và tài năng mà đã tìm được con đường đi đến sự vĩ đại. Trong Kinh thánh, Joseph vốn bị những người anh em đuổi đi và bán làm nô lệ, sau đó vươn lên để trở thành cánh tay phải của pharaoh là nhờ vào trí thông minh và tư duy xuất sắc của mình. Trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng hồi thế kỉ XIX của Horatio Alger , những chàng trai trẻ sinh ra trong cảnh bần hàn vươn lên trở thành giàu có nhờ vào sự kết hợp giữa lòng gan dạ quả cảm cộng với óc sáng tạo. “Tôi nghĩ xét cho cùng đó là điều bất lợi,” Jeb Bush có lần đã bày tỏ về việc là con trai của một Tổng thống Mỹ, em trai của một đời Tổng thống Mỹ khác đồng thời là cháu của một thương gia ngân hàng Phố Wall kiêm nghị sĩ Hoa Kỳ có ảnh hưởng ra sao tới sự nghiệp của riêng ông. Khi ông tranh cử chức thống đốc bang Florida, ông nhấn đi nhấn lại về bản thân mình như một “người tự lập,” và đó cũng là một thước đo thể hiện rằng chúng ta gắn chặt thành công với những nỗ lực của cá nhân sâu sắc tới mức chẳng mấy người còn để mắt tới lối diễn đạt đó nữa.
Nhiều năm về trước, trong buổi ra mắt tượng đài người anh hùng vĩ đại của nền độc lập Hoa Kỳ − Benjamin Franklin , Robert Winthrop nói với đám đông công chúng: “Hãy ngẩng đầu, hướng mắt vào hình ảnh của một người vươn lên từ tay trắng, không được thừa hưởng chút nào từ dòng dõi gia đình hay các mối bảo trợ, người không được hưởng thụ những lợi ích từ giáo dục ban đầu vốn chẳng rộng mở − lại hàng trăm lần rộng mở − với tất cả các bạn, người đã đảm nhận những công việc con đòi người ở bậc nhất tại những nơi
ông làm, nhưng đã sống một cuộc đời vinh quang và chết đi nhưng danh tiếng của ông cả thế giới sẽ chẳng bao giờ quên lãng.”
Trong cuốn Những kẻ xuất chúng, tôi muốn thuyết phục các bạn rằng những kiểu giải thích mang tính cá nhân về thành công như thế không có tác dụng gì. Con người ta không vươn lên từ chỗ hoàn toàn trắng trơn. Chúng ta vẫn thừa hưởng ít nhiều gì đó từ dòng dõi gia đình hoặc sự bảo trợ. Những người thành công trông có vẻ tự thân làm lụng mọi điều. Nhưng trên thực tế, họ vẫn luôn là kẻ thụ hưởng những lợi thế ẩn giấu và những cơ may phi thường cũng như những di sản văn hóa cho phép họ học hành, làm việc chăm chỉ và nhìn nhận về thế giới bằng những cách thức mà kẻ khác không thể. Việc chúng ta sinh trưởng ở đâu và vào thời gian nào rõ ràng làm nên những điều khác biệt. Nền văn hóa mà chúng ta thuộc về và những di sản do ông bà tổ tiên để lại đã định hình những khuôn mẫu thành công bằng những cách thức mà chúng ta không tài nào tưởng tượng nổi. Nói cách khác, sẽ không đầy đủ nếu chúng ta chỉ biết hỏi xem những người thành công có đặc điểm như thế nào. Chỉ thông qua việc hỏi xem họ xuất thân từ đâu chúng ta mới có thể làm sáng tỏ những lôgic đằng sau việc một số người thành công còn người khác thì không.
Các nhà sinh vật học thường vẫn nói về “sinh thái học” của một sinh thể: cây sồi cao lớn nhất trong rừng sở dĩ cao lớn nhất không phải chỉ bởi nó nảy ra từ quả sồi cứng cáp nhất; nó là cây cao lớn nhất bởi không có cây cối nào chặn mất ánh sáng mặt trời của nó, đất đai xung quanh nó vừa sâu vừa màu mỡ, không có con thỏ nào gặm mất vỏ cây khi nó còn non tơ, và cũng không có tay thợ rừng nào đốn hạ khi nó chưa đủ cứng cáp. Chúng ta đều biết những cây sồi cao lớn vươn lên từ những hạt mầm cứng cỏi. Nhưng liệu chúng ta có hiểu biết đủ nhiều về thứ ánh sáng mặt trời đã sưởi ấm cho những hạt mầm đó, về thứ thổ nhưỡng mà trong đó chúng cắm sâu bộ rễ, và cả những con thỏ hay tay thợ rừng mà chúng đủ may mắn tránh thoát không? Nhưng đây không phải cuốn sách nói về những cây đại thụ. Đây là cuốn sách
nói về những khu rừng − và môn khúc côn cầu đúng là một xuất phát điểm hợp lý bởi cách giải thích xem ai chiếm lĩnh đỉnh cao trong môn khúc côn cầu thực sự thú vị và phức tạp hơn rất nhiều so với vẻ bên ngoài. Trên thực tế, đúng là khác biệt rõ ràng.
3.
Dưới đây là danh sách tuyển thủ của đội Medicine Hat Tigers năm 2007. Hãy đọc thật kỹ và thử xem liệu bạn có phát hiện ra điều gì lạ lùng trong đó hay không.
Bạn có nhìn ra không? Đừng vội chán nản nếu bạn không thấy gì, bởi biết bao nhiêu năm trong giới khúc côn cầu chẳng ai phát hiện ra được điều gì đặc biệt cả. Tình trạng đó cứ duy trì cho tới tận giữa thập niên 1980, khi một nhà tâm lý học người Canada tên là Roger Barnsley lần đầu tiên khiến người
ta chú ý đến những hiện tượng tương ứng với lứa tuổi.
Barnsley đến xem một trận đấu khúc côn cầu của đội Lethbridge Broncos ở nam Alberta − một đội bóng cũng chơi ở giải Major Junior A, hệt như Vancouver Giants hay Medicine Hats Tigers. Ông đến đó cùng vợ là Paula và hai cậu con trai. Người vợ đọc kỹ danh sách khi đi ngang qua bảng niêm yết tuyển thủ hệt như bảng tên bạn nhìn thấy ở trên.
“Roger,” cô gọi, “anh có biết những cậu trai này sinh vào khi nào không?”
Barnsley nói có. “Chúng đều trong lứa từ mười sáu đến hai mươi, thế nên phải sinh vào khoảng cuối những năm 1960.”
“Không, không phải thế,” Paula tiếp tục. “Tháng nào cơ?”
“Tôi nghĩ là cô ấy rỗi việc quá,” Barnsley nhớ lại. “Nhưng tôi ngó qua đó, và tôi chợt hiểu điều mà cô ấy thắc mắc. Bởi một nguyên cớ nào đó, xuất hiện một số lượng đáng kinh ngạc ngày sinh ở tháng Một, Hai và Ba.”
Barnsley trở về nhà đêm ấy và kiểm tra ngày sinh tháng đẻ của tất cả những vận động viên khúc côn cầu chuyên nghiệp mà ông có thể tìm ra. Ông nhận ra mẫu hình tương tự. Sau đó Barnsley, vợ ông và một đồng sự − A. H. Thompson đã cùng nhau thu thập số liệu của mọi tuyển thủ trong giải vô địch khúc côn cầu Ontario Junior. Câu chuyện vẫn như vậy. Có nhiều cầu thủ sinh vào tháng Giêng hơn bất cứ tháng nào khác, và với mức chênh lệch áp đảo. Thế còn tháng sinh phổ biến thứ hai thì sao? Chính là tháng Hai. Đứng thứ ba? Là tháng Ba. Barnsley phát hiện ra rằng số tuyển thủ chơi ở giải vô địch Ontario Junior sinh vào tháng Giêng gấp gần năm lần rưỡi so với số người sinh vào tháng Mười Một. Ông xem xét các đội hình ngôi sao ở lứa tuổi mười một và mười ba − gồm các tuyển thủ trẻ được lựa chọn vào những đội du đấu ưu tú. Câu chuyện tương tự. Ông lại xem tiếp đến thành phần cấu thành của Giải vô địch khúc côn cầu quốc gia. Vẫn là như vậy.
Càng xem xét, Barnsley càng tin chắc rằng những gì ông thấy không phải là thứ trùng hợp ngẫu nhiên, mà là một quy luật bất biến của môn khúc côn cầu Canada: trong bất cứ nhóm cầu thủ khúc côn cầu ưu tú nào − xuất sắc nhất trong những người xuất sắc − có đến 40% tuyển thủ ra đời trong khoảng từ tháng Giêng đến tháng Ba, 30% trong khoảng tháng Tư đến tháng Sáu, và 10% trong khoảng tháng Mười đến tháng Mười Hai.
“Biết bao năm tháng trong nghề tâm lý học, tôi chưa bao giờ gặp phải một hiệu ứng rộng lớn đến thế này,” Barnsley nói. “Bạn thậm chí không cần phải thực hiện bất cứ phân tích số liệu nào. Chỉ cần nhìn vào nó.”
Hãy quay trở lại danh sách của đội Medicine Hat. Giờ bạn đã thấy chưa? Mười bảy trong tổng số hai mươi lăm cầu thủ của đội sinh vào tháng Một, Hai, Ba hoặc Bốn.
Còn đây là đoạn tường thuật tại chỗ hai bàn thắng trong trận chung kết Memorial Cup, bây giờ tôi thử thay thế ngày sinh tháng đẻ vào tên của họ. Nó không còn vẻ gì giống với giải vô địch khúc côn cầu trẻ Canada nữa. Giờ đây nó mang hơi hướng một thứ lễ nghi thể thao lạ đời dành cho những cậu bé tuổi teen sinh dưới các cung hoàng đạo Ma Kết, Bảo Bình và Song Ngư.
11 tháng 11 bắt đầu quanh quẩn một bên lưới của Tiger, chuyền bóng cho đồng đội là mùng 4 tháng 1, cậu này đẩy sang cho 22 tháng 1, anh chàng vụt lại cho 12 tháng 3, cầu thủ này vụt thẳng vào khung thành của Tiger, 27 tháng 4. 27 tháng 4 chặn được cú đánh, nhưng quả bóng bị bật lại bởi mùng 6 tháng 3 của Vancouver. Cậu ta vụt bóng! Các hậu vệ mùng 9 tháng 2 và 14 tháng 2 của Medicine Hat nhoài người chặn bóng trong khi mùng 10 tháng Giêng đứng nhìn bất lực. Mùng 6 tháng 3 ghi bàn!
Giờ hãy chuyển sang hiệp hai.
Đến lượt Medicine Hat. Tay ghi bàn hàng đầu của Tigers − 21 tháng Giêng
quán xuyến phía cánh phải sân đấu. Cậu ta dừng lại và xoay người, lách qua hậu vệ 15 tháng 2 của Vancouver. 21 tháng Giêng sau đó khéo léo chuyền bóng cho đồng đội 20 tháng 12 − Ô! cậu ta làm gì vậy?! Anh chàng đó thoát được sự truy cản của hậu vệ 17 tháng 5 đang lao tới và chuyền một cú tạt ngang cấm địa trở lại cho 21 tháng Giêng. Cậu ta vụt bóng! Hậu vệ 12 tháng 3 của Vancouver nhoài ra, cố gắng chặn cú đánh. Thủ thành Vancouver, 19 tháng 3 lao lên vô vọng. 21 tháng Giêng đã ghi bàn! Cậu giơ cao tay mừng chiến thắng. Đồng đội mùng 2 tháng 5 nhảy lên lưng cậu vui sướng.
4.
Cắt nghĩa cho việc này cực đơn giản. Chẳng có gì phải bàn đến chiêm tinh học, và ba tháng đầu năm cũng không có gì đáng gọi là thần diệu cả. Chỉ đơn giản là ở Canada, việc ngắt đoạn tuyển lựa cho khúc côn cầu theo lứa tuổi là ngày mùng 1 tháng Giêng. Một cậu bé lên 10 vào ngày 2 tháng Giêng, theo đó, sẽ chơi cùng chiếu với những bạn kịp bước vào tuổi lên 10 cho đến tận cuối năm − và vào lứa tuổi ấy, giai đoạn vị thành niên, khoảng cách mười hai tháng tuổi biểu hiện sự khác biệt to lớn về mức độ trưởng thành thể chất.
Ở Canada, đất nước cuồng mộ môn khúc côn cầu bậc nhất hành tinh, các huấn luyện viên bắt đầu lựa chọn tuyển thủ cho các đội hình “tiêu biểu” du đấu − những đội toàn ngôi sao − vào lứa tuổi chín hoặc mười, và có nhiều khả năng họ sẽ coi những cầu thủ lớn hơn, biết cách phối hợp hơn, vốn được thừa hưởng những ích lợi từ vài tháng dôi dư then chốt già dặn về thể chất − là những tay chơi tài năng.
Và điều gì xảy ra khi một tuyển thủ được lựa chọn vào đội hình tiêu biểu? Cậu ta sẽ được huấn luyện tốt hơn, có những đồng đội tốt hơn, và cậu chơi năm mươi đến bảy mươi lăm trận đấu trong một mùa bóng thay vì hai mươi trận một mùa như những bạn đồng lứa bị rớt lại trong những giải đấu “cây nhà lá vườn”, và cậu được luyện tập gấp hai lần, thậm chí là ba lần so với việc nếu không bước chân được vào đây. Lúc khởi đầu, ưu thế của cậu
không phải ở chỗ cậu vốn đã giỏi giang hơn mà chỉ là ở chỗ cậu lớn hơn chút đỉnh. Nhưng bước vào tuổi mười ba hay mười bốn, với lợi ích có được từ quá trình huấn luyện tốt hơn và tất cả những tập luyện phụ trợ không mấy chính đáng khác, cậu thực sự đã xuất sắc hơn, vậy nên cậu chính là người có nhiều khả năng sẽ thẳng tiến tới giải vô địch Major Junior A, và từ đó tìm đường đến những giải đấu lớn.
Barnsley lập luận rằng những kiểu phân bố lứa tuổi lệch lạc như thế này sẽ tồn tại khi có ba điều xảy ra: lựa chọn, xếp đặt các nhóm theo năng lực và kinh nghiệm khác biệt. Nếu bạn phải đưa ra một quyết định xem ai giỏi và ai không mấy giỏi ở lứa tuổi nhỏ; bạn tách riêng “kẻ tài năng” ra khỏi những kẻ “kém tài”; nếu bạn mang tới cho những kẻ “tài năng” những trải nghiệm tốt, kết quả là bạn sẽ đem lại lợi thế to lớn đến cho một nhóm nhỏ những người có ngày sinh sát nhất với ngày “ngắt ngọn”.
Ở Mỹ, cách lựa chọn, phân nhóm bóng đá và bóng rổ không theo năng lực và khu biệt hóa khắc nghiệt quá mức như ở Canada. Kết quả là, một đứa trẻ có thể đuối hơn một chút về mặt thể chất trong những môn thể thao ấy vẫn được tham gia chơi nhiều tương đương với những bạn đồng trang lứa già dặn hơn. Nhưng trong môn bóng chày thì người ta lại làm như thế. Ngày ngắt ngọn đối với hầu hết các giải vô địch bóng chày phi học đường ở Hoa Kỳ là ngày 31 tháng Bảy, kết quả là số lượng tuyển thủ chơi trong những giải chủ chốt sinh vào tháng 8 nhiều hơn hẳn các tháng khác. (Những con số này rõ như ban ngày: năm 2005, trong số các tuyển thủ Mỹ chơi ở giải vô địch bóng chày thì có tới 505 người sinh vào tháng 8 so với 313 người sinh vào tháng 7).
Môn bóng đá ở châu Âu, tương tự như thế, lại được tổ chức giống như môn khúc côn cầu và bóng chày − và phân bố ngày sinh trong môn thể thao đó cũng lệch nghiêm trọng. Ở Anh, mốc ngày lựa chọn là mùng 1 tháng Chín, và ở giải ngoại hạng của Liên đoàn bóng đá Anh tính trong thời điểm những
năm 1990, có tới 288 cầu thủ sinh trong khoảng giữa tháng Chín và tháng Mười Một và chỉ có 136 cầu thủ sinh giữa tháng Sáu và Tám. Tìm hiểu trong môn bóng đá quốc tế, ngày “ngắt ngọn” thường rơi vào mùng 1 tháng Tám, và trong một giải vô địch trẻ toàn thế giới diễn ra gần đây, tới 135 cầu thủ có ngày sinh rơi vào ba tháng ngay sau ngày 1 tháng Tám, chỉ có 22 người sinh ra vào tháng Năm, Sáu và Bảy. Đến nay, ngày “ngắt ngọn” của bóng đá trẻ quốc tế là ngày mùng 1 tháng Giêng. Hãy thử nhìn vào danh sách của Đội trẻ quốc gia Czech tham dự vòng chung kết Cúp bóng đá trẻ thế giới.
Chúng ta lại tiếp tục:
Trong những đợt kiểm tra thành tích trong đội tuyển quốc gia, các huấn luyện viên bóng đá của Czech rất có thể sẽ bảo tất cả những ai sinh sau thời điểm giữa hè rằng họ nên gói ghém đồ đạc rồi về nhà.
Khúc côn cầu và bóng đá chỉ là những trò chơi, nên tất nhiên, chỉ liên quan đến một số ít người được lựa chọn. Nhưng những thiên lệch hoàn toàn tương
tự cũng thể hiện trong các lĩnh vực dẫn đến nhiều hệ quả hơn thế, như giáo dục chẳng hạn. Các bậc phụ huynh có con cái sinh vào cuối năm dương lịch thường tìm cách cho con mình đi học sớm ở nhà trẻ: và sẽ thật khó khăn cho một đứa trẻ năm tuổi phải bắt kịp với một đứa trẻ sinh trước nó nhiều tháng. Hầu hết các bậc cha mẹ, dĩ nhiên cũng có những người nghi ngại, lại nghĩ rằng bất lợi mà một đứa trẻ non tuổi hơn phải đối mặt ở nhà trẻ rồi cũng sẽ qua. Tuy nhiên, hoàn toàn không phải vậy. Cũng giống như môn khúc côn cầu, lợi thế ban đầu nhỏ bé của một đứa trẻ sinh ra trong khoảng thời gian đầu năm vượt trội so với đứa trẻ sinh vào cuối năm cứ thế tiếp diễn. Nó khóa chặt trẻ em vào những khuôn mẫu thành công và không thành công, khuyến khích và ngăn trở cứ kéo triền miên từ năm này sang năm khác.
Gần đây, hai nhà kinh tế học − Kelly Bedard và Elizabeth Dhuey − đã xem xét mối quan hệ giữa tháng sinh và điểm số trong chương trình Nghiên cứu xu hướng trong môn Toán và Khoa học Quốc tế − viết tắt là TIMSS (các bài kiểm tra toán và khoa học được tổ chức bốn năm một lần đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới). Họ phát hiện ra rằng giữa các học sinh lớp Bốn, những em tháng tuổi lớn hơn có điểm số cao hơn khoảng 4-12% so với những em nhỏ hơn. Điều này, như lời Dhuey giải thích, là một ”tác động to lớn”. Nó có nghĩa là nếu bạn nhặt ra hai em học sinh lớp bốn tương đương nhau về trí tuệ với ngày sinh ở hai đầu ngược nhau của ngày “ngắt ngọn”, em lớn hơn có thể đạt được thành tích 8/10, trong khi em nhỏ hơn có thể chỉ đạt được 6,8/10. Đó chính là sự khác biệt giữa đáp ứng tiêu chuẩn của một chương trình tài năng và không.
“Giống hệt trong các môn thể thao,” Dhuey nói. “Chúng ta thực hiện việc phân nhóm tài năng ngay trong thời thơ ấu. Chúng ta có những nhóm đọc nâng cao và các nhóm toán nâng cao. Vậy nên, ngay từ đầu, nếu chúng ta nhìn vào các em nhỏ, ở nhà trẻ và lớp một, các giáo viên thường lẫn lộn giữa sự trưởng thành với năng lực. Và họ đưa những đứa trẻ lớn hơn vào các nhóm năng lực nâng cao, nơi chúng được học những kỹ năng tốt hơn; và đến
năm tiếp theo, bởi chúng ở trong những nhóm cao hơn, chúng còn làm mọi thứ tốt hơn; và năm tiếp nữa, những điều tương tự tiếp tục xảy ra, và chúng thậm chí còn làm tốt hơn nữa. Quốc gia duy nhất không thấy tình trạng này diễn ra là Đan Mạch. Họ xây dựng một chính sách quốc gia mà ở đó không hề có việc phân nhóm tài năng cho đến tuổi lên mười.” Đan Mạch chờ đợi thời điểm đưa ra quyết định tuyển lựa cho đến khi những khác biệt về trưởng thành căn cứ theo lứa tuổi hầu như bị san phẳng.
Dhuey và Bedard sau đó tiến hành những phân tích tương tự, có điều lần này xem xét ở trường đại học. Họ tìm thấy được gì? Tại các trường đại học hệ bốn năm ở Mỹ − hệ cao nhất của giáo dục cao đẳng và đại học − các sinh viên thuộc nhóm có vẻ trẻ nhất trong lớp chiếm khoảng 11,6%. Khác biệt về lợi thế trưởng thành ban đầu không mất đi theo thời gian. Nó tiếp tục tồn tại. Và đối với hàng nghìn sinh viên, bất lợi ban đầu đó chính là sự khác biệt giữa việc vào đại học, − có học qua bậc trung cấp − và không .
“Ý tôi là, thật nực cười,” Dhuey nói. “Thật kì quặc rằng lựa chọn tùy tiện các ngày “ngắt ngọn” của chúng ta lại gây ra những tác động lâu dài như thế này, mà dường như chẳng có ai để tâm về điều đó.”
5.
Hãy thử nghĩ một chút xem câu chuyện về khúc côn cầu và ngày sinh sớm hơn nói gì về thành công.
Nó cho thấy cách chúng ta thường nghĩ rằng những người giỏi giang và nổi bật nhất đã vươn lên không ngừng nghỉ để đạt tới đỉnh cao thật quá ấu trĩ. Đúng, những cầu thủ khúc côn cầu chuyên nghiệp chắc chắn phải tài năng hơn bạn hay tôi. Nhưng bọn họ cũng có được sự khởi đầu thuận lợi to lớn mà họ không xứng và cũng không phải giành lấy. Và chính cơ hội ấy lại đóng vai trò then chốt trong thành công của họ.
Nhà xã hội học Robert Merton đã từng gọi rất hay hiện tượng này là “Hiệu ứng Matthew” dựa theo bài Tân ước trong Lời dạy của Matthew: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Chính những người vốn đã thành công, nói cách khác, những người có nhiều khả năng nhất sẽ nhận được những loại cơ may đặc biệt nhất để dẫn tới thành công hơn nữa. Chính những người giàu sẽ nhận được những khoản cắt giảm thuế kếch xù nhất. Chính những sinh viên giỏi giang nhất sẽ có được sự dạy dỗ tốt nhất và được chú ý nhiều nhất. Và chính những em nhỏ ở lứa tuổi chín hay mười cừ nhất sẽ có được sự huấn luyện, điều kiện luyện tập tốt nhất. Thành công chính là kết quả của cái mà các nhà xã hội học gọi tên là “ưu thế tích tụ”. Một tuyển thủ khúc côn cầu chuyên nghiệp khởi đầu tốt hơn chút xíu so với những bạn bè đồng lứa. Và khác biệt nhỏ nhoi ấy dẫn tới một cơ hội làm cho khác biệt đó lớn hơn một chút, và mũi nhọn ấy quay trở lại dẫn tới cơ hội khác, thứ khiến cho khác biệt nhỏ bé ban đầu tiếp tục lớn hơn − và cứ thế cứ thế cho tới khi cầu thủ khúc côn cầu ấy trở thành một kẻ xuất chúng thực thụ. Nhưng anh ta không hề khởi đầu như một kẻ xuất chúng. Anh ta khởi đầu chỉ khá hơn một chút.
Ẩn dụ thứ hai của thí dụ về khúc côn cầu là các hệ thống mà chúng ta xác lập nên để xác định xem ai sẽ tiến tới đặc biệt không có hiệu quả. Chúng ta nghĩ rằng bắt đầu những giải đấu toàn sao và các chương trình tài năng càng sớm càng tốt là cách hay nhất để đảm bảo rằng không có một tài năng nào bị lọt lưới. Nhưng thử nhìn lại đội hình đội tuyển bóng đá Cộng hòa Czech. Không hề có cầu thủ nào sinh vào tháng Bảy, Mười, Mười Một hay Mười Hai, và chỉ có một sinh vào tháng Tám và một vào tháng Chín. Những người sinh vào nửa sau của năm đã bị tước mất cơ hội, bị bỏ qua hay bị đẩy ra khỏi môn thể thao. Tài năng của khoảng một nửa số lượng vận động viên Czech đã bị lãng phí.
Vậy thì bạn sẽ làm gì nếu bạn là vận động viên trẻ người Czech mà lại xui xẻo sinh vào nửa cuối của năm? Bạn khó lòng chơi bóng. Những dàn xếp
định mệnh từ trước đã được sắp đặt chống lại bạn. Thế nên có lẽ bạn có thể chơi ở một môn thể thao khác mà người Czech cũng bị ám ảnh không kém − môn khúc côn cầu. Nhưng gượm hẵng. (Tôi nghĩ là bạn biết điều gì đang tới). Đây là đội hình của đội tuyển khúc côn cầu trẻ Czech đã giành được vị trí thứ năm ở giải vô địch thế giới.
Những người sinh vào quý cuối cùng của năm có lẽ cũng nên từ bỏ môn khúc côn cầu đi thôi.
Bạn đã thấy những hậu quả của cách thức chúng ta lựa chọn để nghĩ về thành
công chưa? Bởi chúng ta thường cá nhân hóa thành công, chúng ta đã bỏ lỡ các cơ hội để nâng đỡ những người khác lên đỉnh cao. Chúng ta định ra những luật lệ chống lại chính thành tựu. Chúng ta vội vã xóa sổ người ta như những thất bại. Chúng ta quá kính sợ người thành công và lại quá thô bạo với những ai sẩy bước. Và, trên hết, chúng ta trở nên quá thờ ơ. Chúng ta coi thường việc chính mình đóng vai trò lớn đến mức nào − qua từ “chúng ta” tôi có ý chỉ cả xã hội − trong việc xác định ai sẽ làm nên chuyện và ai không.
Nếu chúng ta chọn làm việc đó, chúng ta có thể nhận thức rằng những ngày “ngắt ngọn” có vai trò quan trọng. Chúng ta có thể xây dựng hai hay thậm chí là ba giải đấu khúc côn cầu, chia ra căn cứ vào tháng sinh. Để cho các tuyển thủ được phát triển trên những đường đua tách riêng nhau và rồi mới lựa ra các đội tuyển toàn-sao. Nếu tất cả các vận động viên người Czech và Canada sinh vào cuối năm có cơ hội công bằng, thì các đội tuyển quốc gia của Czech và Canada hẳn nhiên sẽ được tuyển lựa từ một số lượng đông đảo gấp đôi.
Các trường học cũng có thể làm việc tương tự. Trường tiểu học và trung học có thể xếp các học sinh sinh từ tháng Một đến tháng Tư vào một lớp, từ tháng Năm đến tháng Tám vào một lớp, và những em sinh vào tháng Chín cho đến tháng Mười Hai sẽ xếp vào lớp thứ ba. Cách làm đó sẽ cho phép các học sinh được học cùng và cạnh tranh với những em khác cùng mức độ trưởng thành. Nó sẽ có thêm đôi chút phức tạp về mặt quản lý. Nhưng không nhất thiết tiêu tốn thêm nhiều tiền bạc đến thế, và nó sẽ san phẳng sân chơi cho những người − vốn không phải do lỗi lầm của chính mình − phải đối phó với mối bất lợi to đùng đến từ phía hệ thống giáo dục. Chúng ta có thể dễ dàng điều khiển công cụ để đạt được thành tựu − không chỉ trong các môn thể thao, mà như chúng ta sẽ thấy, trong cả những lĩnh vực sản sinh nhiều hệ quả nữa. Nhưng chúng ta không làm vậy. Tại sao? Bởi chúng ta cứ bám chặt lấy ý tưởng rằng thành công chỉ đơn thuần là công trạng cá nhân, rằng thế giới trong đó tất thảy chúng ta lớn lên và những luật lệ chúng ta chọn viết ra
với tư cách một xã hội đều chẳng có gì quan trọng.
6.
Trước trận chung kết Memorial Cup, Gord Wasden − cha của một cầu thủ đội Medicine Hat Tigers − đứng ở bên lề sân băng, nói về cậu con trai Scott của ông. Ông đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày và mặc chiếc áo T-shirt màu đen đồng phục của đội Medicine Hat. “Khi Scott mới bốn hay năm tuổi,” Wasden nhớ lại, “còn cậu em mới tập đi, nó luôn giúi vào tay cậu em chiếc gậy khúc côn cầu và chúng chơi khúc côn cầu trên sàn bếp, từ sáng bảnh tới tối khuya. Scott luôn luôn có sẵn đam mê dành cho khúc côn cầu. Nó đã chơi khúc côn cầu du đấu ở các giải trẻ. Nó luôn luôn được tham gia các đội bóng Triple A. Khi còn là một chú nhóc bé hạt tiêu năm thứ nhất, nó đã luôn luôn chơi trong đội hàng đầu”. Nhìn Wasden bồn chồn thấy rõ: con trai ông sắp chơi trận bóng quan trọng nhất cuộc đời. “Nó đã luôn làm việc rất chăm chỉ vì bất cứ thứ gì nó đạt được. Tôi rất tự hào về nó.”
Đó là những nguyên liệu của thành công ở cấp độ cao nhất: đam mê, tài năng và làm việc cần cù. Nhưng còn có cả yếu tố khác nữa. Wasden lần đầu tiên có được cảm giác rằng con trai ông rất đặc biệt là vào khi nào? “Bạn biết đấy, nó đã luôn là một đứa trẻ lớn hơn so với lứa tuổi của mình. Nó khỏe mạnh và có sở trường ghi bàn ngay từ khi còn rất bé. Ở Scott luôn có một cái gì đó xuất sắc hơn so với lứa tuổi, một đội trưởng thiên bẩm trong đội bóng của nó...”
Đứa trẻ lớn hơn so với lứa tuổi? Tất nhiên là thế. Scott Wasden sinh ra vào ngày 4 tháng Giêng, một trong ba ngày thuộc nhóm ngày sinh tuyệt đối hoàn hảo để tạo nên một cầu thủ khúc côn cầu ưu tú. Cậu là một trong những người may mắn. Nếu như ngày tuyển chọn môn khúc côn cầu Canada vào thời điểm nào đó muộn hơn trong năm, cậu có lẽ đã theo dõi vòng chung kết Memorial Cup từ ngoài đường biên thay vì chơi trên mặt băng.
Chương II. Quy tắc 10.000 giờ
“Ở HAMBURG, CHÚNG TÔI PHẢI CHƠI TÁM TIẾNG ĐỒNG HỒ.” 1.
Năm 1971, trường Đại học Michigan khai trương Trung tâm Máy tính mới trong một tòa nhà mới xây dựng tại Beal Avenue ở Ann Arbor, với các bức tường gạch bên ngoài màu be và mặt tiền ốp kính tối màu. Hệ thống máy chủ to lớn của trường tọa lạc giữa căn phòng màu trắng rộng rãi. Một thành viên trong khoa nhớ lại, “Nhìn vào đó hệt như một trong những cảnh cuối cùng của bộ phim 2001: A Space Odyssey (Tạm dịch: 2001: Cuộc du hành vũ trụ).” Ngay mé bên là hàng tá các cỗ máy đọc phiếu đục lỗ − thứ trong những tháng ngày ấy làm nhiệm vụ nhập dữ liệu cho những thiết bị đầu cuối máy tính. Vào năm 1971, đó là thành tựu tiên tiến hạng nhất của thời đại. Đại học Michigan nắm trong tay một trong những chương trình khoa học máy tính tiên tiến nhất trên thế giới và trong suốt thời gian tồn tại của Trung tâm Máy tính, hàng ngàn sinh viên đã bước qua căn phòng trắng ấy, và người nổi tiếng nhất trong số đó là một chàng trai trẻ nhút nhát mang tên Bill Joy.
Joy nhập học trường Michigan đúng vào năm Trung tâm Máy tính khai trương. Cậu mười sáu tuổi, cao và rất gầy, với kiểu đầu ngỗ ngược. Trường cấp trung học North Farmington, ngoại ô Detroit, nơi cậu học, đã bầu chọn cậu là “Học sinh siêng năng nhất”. Mà theo như cậu giải thích, có nghĩa cậu chính là một “kẻ nghiện máy tính vô thời hạn.” Cậu đã từng nghĩ mình sẽ trở thành một nhà sinh vật học hoặc nhà toán học. Nhưng cuối năm thứ nhất, tình cờ sa chân vào Trung tâm Máy tính − và cậu bị vướng ngay vào.
Kể từ thời điểm đó trở đi, Trung tâm Máy tính chính là cuộc sống của Joy. Cậu lập trình bất cứ khi nào có thể. Kiếm được việc làm với một giáo sư
khoa học máy tính nên cậu có thể lập trình suốt mùa hè. Vào năm 1975, Joy theo học khoa sau đại học tại trường Đại học California ở Berkeley. Tại đó, cậu thậm chí còn dấn sâu hơn vào thế giới phần mềm máy tính. Trong bài kiểm tra vấn đáp cho kỳ thi Tiến sĩ của mình, cậu đã xây dựng một thuật toán đặc biệt phức tạp về chặng bay đến nỗi, như một trong những người ái mộ cậu đã từng viết, “làm kinh sợ các vị giám khảo đến mức một vị sau đó đã ví trải nghiệm đó như là 'Jesus làm bẽ mặt các bậc tiền bối.'”
Cộng tác với một nhóm nhỏ các lập trình viên, Joy đảm trách nhiệm vụ viết lại UNIX, một hệ thống phần mềm được phát triển bởi AT&T cho các máy trung tâm. Phiên bản của Joy rất tốt. Nó tốt đến mức, trên thực tế, nó đã trở thành − và hiện vẫn duy trì − vai trò hệ điều hành mà đúng theo nghĩa đen hàng triệu máy tính khắp thế giới vận hành nhờ vào đó. “Nếu mở chiếc máy Mac của bạn ở chế độ có thể nhìn thấy phần mã nguồn,” Joy nói, “Tôi sẽ nhìn thấy những thứ mà tôi nhớ mình đã viết ra hai mươi lăm năm về trước.” Và, bạn có biết ai đã viết ra hầu hết phần mềm cho phép bạn truy cập vào Internet không? Bill Joy.
Sau khi tốt nghiệp Berkeley, Joy là đồng sáng lập hãng Sun Microsystems ở Thung lũng Silicon, một trong những công ty dự phần then chốt nhất trong cuộc cách mạng máy tính. Tại đó anh đã viết lại một ngôn ngữ máy tính khác − Java − và huyền thoại về anh càng trở nên ghê gớm hơn. Giữa những người trong nghề ở Thung lũng Silicon, Joy được nhắc tới với nhiều nể trọng kiểu như Bill Gates của Microsoft vậy. Anh đôi khi còn được gọi là Edison của Internet. Như David Gelernter, nhà khoa học máy tính trường Yale, nói: “Bill Joy là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử hiện đại ngành máy tính.”
Câu chuyện về tài năng thiên bẩm của Bill Joy đã được kể biết bao nhiêu lần, và bài học luôn là như thế. Lĩnh vực này là một thế giới thuần khiết nhất trong số các chế độ hiền tài. Lập trình máy tính không vận hành như một thứ
hội vui tuổi già, nơi bạn thăng tiến nhờ vào tiền bạc hay các mối quan hệ. Nó là một sân chơi rộng mở trong đó tất cả những người tham dự được đánh giá chỉ dựa trên tài năng và thành tích của họ. Đó là một thế giới nơi những người xuất sắc nhất giành thắng lợi, và Joy rõ ràng là một trong những người như thế.
Mặc dù vậy, sẽ dễ dàng hơn nhiều để tiếp nhận phiên bản ấy của các sự kiện, nếu chúng ta không nhìn vào các cầu thủ khúc côn cầu và bóng đá. Lĩnh vực của họ cũng từng có nhiệm vụ phải là một chế độ nơi tài năng là điều tiên quyết. Có điều nó đã không phải hoàn toàn như vậy. Đó là câu chuyện về Những kẻ xuất chúng trong một lĩnh vực riêng biệt nào đó vươn tới vị thế cao ngất của họ thông qua sự kết hợp giữa năng lực, cơ hội và ưu thế không bị ràng buộc tối đa.
Liệu có khả năng mẫu hình tương tự của những cơ hội đặc biệt cũng khai triển trong một thế giới thực hay không? Hãy cùng quay trở lại với câu chuyện của Bill Joy và thử khám phá.
2.
Trong suốt gần một thế hệ, các nhà tâm lý học trên khắp thế giới đã tham gia vào cuộc tranh luận hăng say xung quanh câu hỏi: phải chăng hầu hết chúng ta có thể coi là đã được định hình từ xa xưa. Câu hỏi là thế này: có tồn tại thứ gì đó kiểu như là tài năng bẩm sinh không? Lời đáp hiển nhiên là có. Không phải tất cả mọi cầu thủ khúc côn cầu sinh vào tháng Giêng rút cục đều có thể chơi ở cấp độ chuyên nghiệp. Chỉ một vài người có tài năng thiên bẩm, làm được. Thành công chính là tài năng cộng với sự chuẩn bị. và các nhà tâm lý học càng xem xét kĩ lưỡng hơn sự nghiệp của các nhân tài thiên bẩm bao nhiêu, thì vai trò của tài năng bẩm sinh dường như càng nhỏ bé hơn và vai trò của sự chuẩn bị dường như to lớn hơn bấy nhiêu.
Đầu những năm 1990, trong cuộc tranh luận về tài năng, nhà tâm lý học K.
Anders Ericsson và hai đồng sự tại Học viện Âm nhạc danh giá của Berlin, đã tiến hành một nghiên cứu mang tên Exhibit A. Với sự trợ giúp của hai giáo sư Học viện, họ phân những người chơi violin trong trường ra thành ba nhóm. Nhóm đầu tiên bao gồm các ngôi sao, những sinh viên có tiềm năng trở thành những nghệ sĩ solo đẳng cấp thế giới. Nhóm thứ hai là các sinh viên được đánh giá thuần túy là “tốt.” Nhóm thứ ba là các sinh viên có vẻ sẽ không bao giờ chơi nhạc chuyên nghiệp và những người có ý định trở thành giáo viên âm nhạc trong hệ thống trường công. Tất cả những người chơi violin sau đó đều được hỏi một câu hệt nhau: xuyên suốt quá trình rèn luyện trong toàn bộ sự nghiệp của mình, kể từ lần đầu tiên cầm cây vĩ cầm, bạn đã luyện tập bao nhiêu giờ đồng hồ?
Tất cả mọi người thuộc cả ba nhóm đó đều bắt đầu chơi vào độ tuổi như nhau, khoảng năm tuổi. Trong vài năm đầu tiên, mọi người luyện tập với khối lượng tương đương nhau, khoảng hai hoặc ba giờ một tuần. Nhưng khi các học sinh lên tám tuổi, những khác biệt thực sự bắt đầu xuất hiện. Những học sinh cuối cùng trở thành xuất sắc nhất trong lớp bắt đầu luyện tập nhiều hơn các bạn khác: sáu giờ một tuần vào chín tuổi, tám giờ một tuần lúc mười hai tuổi, mười sáu giờ một tuần lúc mười bốn tuổi, và cứ nâng cao nâng cao thêm. Đến khi bước vào tuổi hai mươi thì họ đã luyện tập − chơi thứ nhạc cụ họ yêu thích theo cách có chủ định và đầy chuyên tâm với mục đích trau dồi cho mình xuất sắc hơn − miệt mài hơn ba mươi giờ một tuần. Trên thực tế, bước vào lứa tuổi hai mươi, mỗi tài năng ưu tú đã có tổng cộng mười ngàn giờ luyện tập. Ngược lại, những học sinh chơi tốt thuần túy chỉ có tổng cộng tám ngàn giờ, còn các giáo viên âm nhạc tương lai thì chỉ có hơn bốn nghìn giờ.
Ericsson và các đồng sự của ông sau đó đã so sánh các tay chơi dương cầm nghiệp dư với các nghệ sĩ dương cầm chuyên nghiệp. Hình mẫu tương tự lại nổi lên. Những người chơi nghiệp dư không bao giờ luyện tập nhiều hơn ba giờ một tuần trong suốt thời thơ ấu, và cho đến khi hai mươi tuổi, họ đã có
tổng cộng hai nghìn giờ luyện tập. Ở phía còn lại, thời gian luyện tập của những nghệ sĩ chuyên nghiệp đã tăng rất nhiều, cho đến tuổi hai mươi, họ, giống như các nghệ sĩ vĩ cầm, đã đạt tới mười nghìn giờ.
Điều nổi bật trong nghiên cứu của Ericsson là ông và các đồng sự không thể tìm ra bất cứ “người có khiếu tự nhiên” nào, tức không có nghệ sĩ nào dễ dàng vươn tới đỉnh cao mà lại luyện tập chỉ bằng một phần nhỏ so với thời gian các bạn đồng trang lứa bỏ ra. Hay họ cũng không thể tìm ra bất cứ “kẻ cần cù” nào − những người làm việc chăm chỉ hơn tất cả kẻ khác, mà lại không hội tụ đủ những gì cần thiết để lọt vào tốp xuất sắc nhất. Nghiên cứu đã kết luận rằng một nghệ sĩ âm nhạc nào đó có đủ năng lực để bước vào một trường âm nhạc đỉnh cao, thì thứ để phân biệt một nghệ sĩ trình diễn với những người khác chính là anh ta/cô ta làm việc chăm chỉ đến đâu. Là vậy đấy. Hơn thế, những người ngự trên đỉnh cao không chỉ làm việc chăm chỉ hơn hay chăm chỉ hơn nhiều so với những người khác − Họ làm việc chăm chỉ hơn rất, rất nhiều, rất nhiều.
Ý tưởng rằng: để thực hiện hoàn hảo một nhiệm vụ phức hợp đòi hỏi một mức độ luyện tập tối thiểu mang tính then chốt đã xuất hiện trở đi trở lại trong các nghiên cứu về những tài năng chuyên môn. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu có một niềm tin tuyệt đối về mức thời gian cần thiết để đạt đến sự tinh thông thực sự, đó là con số kỳ diệu: mười nghìn giờ đồng hồ.
“Kết quả của những nghiên cứu đã chứng minh: mười nghìn giờ đồng hồ luyện tập là đòi hỏi bắt buộc để đạt được cấp độ tinh thông và khả năng trở thành một chuyên gia đẳng cấp thế giới − trong bất cứ lĩnh vực nào,” bác sĩ chuyên khoa thần kinh học Daniel Levitin viết. “Trong những nghiên cứu khác nhau về các nhà soạn nhạc, cầu thủ bóng rổ, các cây bút sáng tác tiểu thuyết, vận động viên trượt băng, nghệ sĩ dương cầm, tuyển thủ cờ vua, những tên tội phạm lão luyện… hằng số này luôn trở đi trở lại. Tất nhiên, điều này không lý giải tại sao một số người lại thu hoạch được nhiều từ
những buổi luyện tập hơn người khác. Nhưng cho tới nay chưa ai tìm thấy một trường hợp nào trong đó một tay lão luyện tầm cỡ thế giới lại đạt được mức hoàn thiện trong khoảng thời gian ngắn hơn. Có vẻ như não bộ phải mất từng ấy thời gian hấp thu tất cả những gì nó cần để đạt tới sự tinh thông thực thụ.”
Điều này là thật sự ngay cả với những người chúng ta thường nghĩ đến như những nhân vật phi thường. Thí dụ như Mozart, đã bắt đầu viết nhạc rất cừ từ hồi lên sáu. Nhưng, nhà tâm lý học Michael Howe viết trong cuốn sách Genius Explained, (Tạm dịch: Lý giải thiên tài) :
… So với các tiêu chuẩn dành cho những nhà soạn nhạc thuần thục, những tác phẩm ban đầu của Mozart không hề xuất sắc. Những tác phẩm sơ khởi nhất gần như chắc chắn đều do cha ông viết, và có lẽ được sửa đổi, nâng cấp... Rất nhiều trong số các tác phẩm thời thơ ấu của Wolfgang, như bảy bản đầu tiên trong số các concerto dành cho piano và dàn nhạc, phần lớn đều là soạn lại từ tác phẩm của những nhà soạn nhạc khác. Còn trong số những bản concerto chỉ bao gồm âm nhạc nguyên bản của Mozart, tác phẩm sớm nhất giờ đây được coi là một kiệt tác (No.9, K.271) được sáng tạo nên khi ông hai mốt tuổi: vào thời điểm đó Mozart đã sáng tác concerto được mười năm rồi.
Nhà phê bình âm nhạc Harold Schonberg còn đi xa hơn khi cho rằng: Mozart, thực ra là “phát triển muộn,” vì phải sau hơn hai mươi năm sáng tác ông mới có được tác phẩm vĩ đại nhất của mình .
Để trở thành một kiện tướng cờ vua có vẻ cũng phải mất khoảng mười năm. (Chỉ có huyền thoại Bobby Fischer đạt tới đẳng cấp tinh hoa đó trong khoảng thời gian ngắn hơn một chút: ông mất chín năm). Còn mười năm là thứ gì vậy? À vâng, đó đại khái là chuyện mất bao nhiêu lâu để thực hiện được mười ngàn giờ luyện tập nghiêm chỉnh. Mười nghìn giờ là con số thần kỳ của sự vĩ đại.
Đây chính là lời giải thích cho tâm lý hoang mang mà danh sách đội hình của các đội tuyển thể dục thể thao quốc gia Czech hay Canada gây ra. Thực tế là không có ai trong những đội tuyển ấy sinh sau ngày 1 tháng Chín, thứ dường như chẳng có ý nghĩa gì. Bạn sẽ nghĩ rằng có lẽ tồn tại một con số đáng kể những tuyển thủ cừ khôi môn khúc côn cầu hay túc cầu ở Czech sinh vào khoảng cuối năm, những người quá tài năng đến nỗi họ cuối cùng cũng đến được đỉnh cao như những người trưởng thành trẻ tuổi, bất kể ngày sinh của họ.
Nhưng đối với Ericsson và những ai lập luận phản lại vai trò ưu việt của tài năng, điều đó chẳng đáng ngạc nhiên chút nào. Rằng tay cừ khôi sinh sau đẻ muộn không được lựa chọn vào đội toàn-sao như một đứa trẻ tám tuổi là bởi vì cậu ta còn quá bé. Vậy nên cậu không có được phần luyện tập phụ trội. Và thiếu mất phần luyện tập phụ trội ấy, cậu không có cơ hội nào đạt tới mức mười nghìn giờ vào thời điểm các đội khúc côn cầu chuyên nghiệp bắt đầu tìm kiếm tuyển thủ. Và thiếu mất mười nghìn giờ kinh nghiệm, chẳng có cách nào để cậu ta có thể vận dụng thành thục những kỹ năng cần thiết chơi ở trình độ đỉnh cao. Thậm chí cả Mozart − thiên tài âm nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại − cũng không thể nào đạt tới sự tiến bộ của mình cho tới khi ông nắm trong tay mười nghìn giờ đồng hồ rèn giũa. Luyện tập không phải thứ bạn làm khi bạn đã giỏi giang. Nó là thứ bạn làm để khiến mình giỏi giang.
Một điều thú vị khác về mười ngàn giờ đó. Đương nhiên mười nghìn giờ là một khối lượng thời gian to lớn. Nhưng lại bất khả thi để đạt tới con số đó một thân một mình cho tới tận khi bạn là một người trưởng thành trẻ tuổi. Bạn buộc phải được bố mẹ khuyến khích và hỗ trợ bạn. Bạn không thể nghèo túng, bởi nếu bạn phải giữ rịt lấy một công việc làm thêm để kiếm kế sinh nhai, sẽ không còn đủ thời gian trong ngày để luyện tập cho đầy đủ. Trên thực tế, hầu hết mọi người có thể đạt tới con số đó chỉ khi họ tham gia vào loại chương trình đặc biệt nào đó − như là một đội tuyển toàn-sao môn khúc côn cầu − hoặc giả nếu họ có được một vận may phi thường nào đó
mang lại cho họ cơ hội đạt được từng nấy tiếng đồng hồ.
3.
Quay trở lại với Bill Joy. Đó là vào năm 1971. Anh cao nghều và ngượng nghịu và mười sáu tuổi. Anh là thần đồng toán học, nhưng loại sinh viên đó thì các trường kiểu như MIT, Caltech hay Đại học Waterloo tuyển vào mỗi năm có lẽ cả trăm. “Khi Bill còn là một đứa trẻ, nó đã muốn biết mọi điều về mọi thứ trước cả khi nó biết là nó muốn biết,” cha của anh, William nói. “Chúng tôi trả lời cho nó bất cứ khi nào có thể. Và khi không thể, chúng tôi sẽ đưa cho nó một cuốn sách.” Đến lúc tham dự tuyển sinh vào đại học, Joy đã đạt được điểm tối đa trong phần toán của bài Kiểm tra Năng khiếu của trường Trung học. “Cũng chẳng khó khăn ghê gớm gì lắm,” anh nói thành thực. “Còn cả đống thời gian để kiểm tra lại lần nữa.”
Anh có tài năng lớn. Nhưng đó không phải nguyên cớ duy nhất. Không bao giờ. Chìa khóa cho sự phát triển của anh chính là anh đã sa bước vào tòa nhà khó tả tọa lạc trên Đại lộ Beal đó.
Hồi đầu những năm 1970, khi Joy đang học về lập trình, kích cỡ các cỗ máy tính chiếm trọn những căn phòng. Một máy riêng lẻ (có lẽ công suất và bộ nhớ nhỏ hơn cả lò viba của bạn ngày nay) có thể trị giá trên một triệu đô-la − tính theo thời giá 1970. Máy tính rất hiếm hoi. Nếu bạn tìm ra một cái, rất khó để có thể tiếp cận được nó; nếu bạn cứ cố tiếp cận, thời gian và chi phí thuê mướn nó cũng tiêu tốn cả gia tài.
Hơn nữa, bản thân môn lập trình cũng tẻ nhạt vô cùng. Đây là thời đại khi các chương trình máy tính được sáng tạo sử dụng các thẻ dập lỗ bằng bìa cứng. Mỗi hàng code (mã) lại được đóng dấu lên chiếc thẻ bằng một máy đột lỗ. Một chương trình phức hợp có thể bao gồm hàng trăm, nếu không phải là hàng nghìn những chiếc thẻ xếp thành chồng cao. Khi một chương trình đã sẵn sàng, bạn bước tới bất cứ máy chủ nào bạn được tiếp cận và đưa cả
chồng thẻ cho một người điều khiển máy. Bởi vì các máy tính chỉ có thể xử lý một nhiệm vụ trong một thời điểm, người điều khiển máy phải có cuộc hẹn cho chương trình của bạn, và tùy thuộc vào việc có bao nhiêu người đang xếp hàng trước bạn, bạn có lẽ chưa thể lấy lại những chiếc thẻ của mình trong vòng vài giờ hoặc thậm chí là cả ngày. Và nếu bạn nhỡ mắc một lỗi nhỏ − thậm chí là lỗi in ấn − trong chương trình của mình, bạn sẽ phải lấy lại các tấm thẻ, truy dấu sai sót, và làm lại cả quy trình từ đầu.
Dưới những điều kiện như vậy, sẽ là cực kỳ khó khăn cho bất kỳ ai muốn trở thành một chuyên gia lập trình. Đương nhiên trở thành một chuyên gia vào lứa tuổi đôi mươi măng tơ càng bất khả thi. Khi bạn chỉ có thể “lập trình” vài phút ngắn ngủi trong mỗi giờ bạn bỏ ra ở phòng máy tính, làm cách nào bạn gom cho đủ mười nghìn giờ luyện tập? “Lập trình với các tấm thẻ dập lỗ,” một nhà khoa học máy tính thời đó nhớ lại, “không dạy cho bạn cách lập trình. Nó dạy bạn sự kiên nhẫn cùng cách đọc và sửa bản in thử.”
Tình hình kéo dài như thế tận đến giữa thập niên 1960, khi một giải pháp dành cho vấn đề lập trình mới nổi lên. Các máy tính cuối cùng đã đủ mạnh tới mức chúng có thể xử lý hơn một “cuộc hẹn” cùng lúc. Nếu hệ điều hành của máy tính được viết lại, các nhà khoa học máy tính nhận ra, thời gian của cỗ máy có thể được chia sẻ; máy tính có thể được huấn luyện để xử lý hàng trăm nhiệm vụ trong cùng một khoảng thời gian. Điều đó, ngược trở lại, nghĩa là các lập trình viên không cần phải thao tác tay chân để đưa hàng chồng thẻ máy tính dập lỗ của họ cho người điều khiển nữa. Hàng tá thiết bị đầu cuối có thể được xây dựng, tất cả kết nối với một máy chủ thông qua đường dây điện thoại, và mọi người có thể làm việc − trực tuyến − cùng một lúc.
Đây là một đoạn sử liệu đương thời miêu tả về sự xuất hiện của việc làm việc − trực tuyến − cùng một lúc:
Đây không chỉ là một cuộc cách mạng. Nó là một cuộc khai sáng. Hãy quên
đi người điều khiển máy, những giá chứa thẻ, sự chờ đợi. Với việc sử dụng đồng thời, bạn có thể ngồi ngay ở máy điện báo đánh chữ của mình, nhập vào một vài lệnh, và nhận câu trả lời ngay sau đó và tại đó. Sử dụng đồng thời chính là tương tác: Một chương trình có thể đòi hỏi lời hồi đáp, chờ đợi bạn đánh câu đó vào, xử lý nó trong khi bạn chờ đợi, và rồi hiển thị cho bạn thấy kết quả, tất cả trong “thời gian thực.”
Đây chính là nơi mà Michigan góp mặt, bởi Michigan chính là một trong những trường đại học đầu tiên trên thế giới chuyển sang hình thức sử dụng đồng thời. Vào năm 1967, nguyên mẫu đầu tiên của hệ thống đã được lắp đặt và vận hành. Đến khoảng đầu thập niên 1970, Michigan đã có trong tay máy tính công suất đủ cho một trăm người có thể lập trình đồng thời tại Trung tâm Máy tính. “Vào cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, tôi không nghĩ rằng có nơi nào khác giống được như Michigan”, Mike Alexander, một trong những nhân vật tiên phong của hệ thống máy tính trường Michigan đã nói. “Có thể là MIT. Có thể là Carnegie Mellon. Có thể là Darthmouth. Tôi không nghĩ có nhiều nơi như vậy”.
Đây chính là cơ hội chào đón Bill Joy khi anh bước chân vào khuôn viên Ann Arbor vào mùa thu năm 1971. Anh không hề lựa chọn Michigan vì các cỗ máy tính ở đây. Anh chưa từng làm việc gì với máy tính ở trường cấp ba. Anh vốn chỉ hứng thú với toán học và cơ khí. Nhưng con sâu lập trình va trúng anh vào năm đầu tiên, anh nhận thấy mình − bởi một tai nạn tốt lành nhất − đã ở ngay tại một chốn hiếm hoi trên thế giới, nơi một kẻ mới mười bảy tuổi có thể lập trình tất cả những gì anh ta muốn.
“Bạn có biết sự khác biệt giữa những chiếc thẻ máy tính và sử dụng đồng thời là gì không?” Joy nói. “Nó là sự khác biệt giữa chơi cờ qua mail và cờ siêu tốc.” Lập trình không còn là một bài tập về thất vọng vỡ mộng nữa. Nó là trò vui.
“Tôi sống ở khu khuôn viên phía bắc, và Trung tâm Máy tính cũng tọa lạc
chính tại khuôn viên phía bắc,” Joy tiếp tục. “Tôi đã dành bao nhiêu thời gian ở đó? Ồ, nhiều lắm đấy. Nơi đó mở cửa 24/24. Tôi ở lì đó cả đêm và chỉ trở về nhà vào sáng sớm. Tính trung bình một tuần trong những năm tháng ấy, tôi dành nhiều thời giờ ở Trung tâm Máy tính hơn cả cho các buổi học. Tất cả chúng tôi ở đó đều thường xuyên gặp ác mộng về việc quên mất phải có mặt ở lớp học, thậm chí là không nhận ra rằng chúng tôi đã được tuyển vào trường.”
“Thách thức chính là ở chỗ họ cung cấp cho tất cả sinh viên một tài khoản với số tiền cố định, vậy nên thời gian của bạn sẽ cạn sạch. Khi bạn đăng nhập, bạn sẽ dồn hết bao nhiêu thời gian bạn muốn vào chiếc máy tính. Họ dành cho bạn, tỉ dụ như, một giờ đồng hồ. Đó là tất cả những gì bạn có. Nhưng có ai đó đã phát hiện ra rằng nếu bạn nhập vào 'time=' và rồi đến một kí tự, ví như t=k, họ sẽ không tính tiền bạn,” anh nói, bật cười vì kỉ niệm đó. “Có một lỗi kĩ thuật trong phần mềm. Bạn có thể nhập vào t=k và ngồi lì ở đó mãi luôn.”
Hãy nhìn vào cả dòng chảy cơ hội cuốn đến với Bill Joy. Nhờ việc đến học ở một trường xa xôi hẻo lánh như Đại học Michigan, anh có thể luyện tập trên một hệ thống sử dụng đồng thời thay vì với những thẻ đột lỗ; lại nữa, hệ thống của Michigan bỗng nhiên tồn tại một lỗi kĩ thuật để anh có thể lập trình bất kỳ thứ gì anh muốn; vì trường này tự nguyện chi trả tiền bạc để Trung tâm Máy tính mở cửa 24/24, nên anh có thể thức trắng đêm ở đó; và vì anh có thể dốc vào đó rất nhiều thời giờ, nên đến thời điểm anh đột nhiên được mời viết lại UNIX, anh chắc chắn đã sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ. Bill Joy thật thông minh. Anh muốn học. Nguyên cớ này đóng vai trò quan trọng. Nhưng trước khi Joy có thể trở thành một chuyên gia thực thụ, ai đó phải đem đến cho anh một cơ hội để học cách trở thành một chuyên gia.
“Tại Michigan, tôi lập trình tám hoặc mười giờ một ngày,” anh nói tiếp. “Đến lúc ở Berkeley tôi làm việc đó cả ngày lẫn đêm. Tôi có một bộ thiết bị
đầu cuối ở nhà. Tôi thức đến tận hai hay ba giờ sáng, xem những bộ phim cũ kỹ và lập trình. Đôi khi tôi ngủ gục ngay trên bàn phím” − anh diễn tả bằng điệu bộ đầu mình gục trên bàn phím − “và bạn có biết là một phím sẽ nhấn đi nhấn lại ra sao cho đến cuối cùng, rồi nó bắt đầu kêu beep, beep, beep? Sau khi chuyện đó xảy ra ba lần, đã đến lúc bạn phải đi ngủ rồi. Tôi vẫn tương đối kém ngay cả khi tôi đã đến Berkeley nhưng tôi bắt đầu thành thạo vào năm thứ hai. Đây chính là thời điểm tôi viết ra những chương trình vẫn được sử dụng đến tận ngày nay, ba mươi năm kể từ khi đó.” Anh tạm dừng đôi chút để làm một phép tính trong đầu − thứ đối với một người như Bill Joy không mất mấy thì giờ. Michigan năm 1971. Lập trình hẳn hoi nghiêm chỉnh vào năm thứ hai. Thêm cả những dịp hè, và rồi những buổi ban ngày và ban đêm trong năm thứ nhất ở Berkeley. “Thế thì, thế thì có lẽ là... mười nghìn giờ?” anh nói, cuối cùng. “Khoảng chừng như vậy đấy.”
4.
Quy tắc mười-nghìn-giờ chính là quy luật chung của thành công? Nếu chúng ta bới sâu xuống phía dưới bề ngoài của tất cả những người thành công vĩ đại, liệu chúng ta có luôn tìm thấy những thứ tương tự như Trung tâm Máy tính Michigan hay đội tuyển toàn-sao môn khúc côn cầu – tức một kiểu cơ hội luyện tập đặc biệt nào đó không?
Hãy kiểm nghiệm ý tưởng này với hai ví dụ, và để đơn giản dễ hiểu, ta sẽ lựa chọn ví dụ càng quen thuộc càng tốt: Beatles, một trong những ban nhạc rock nổi danh nhất từ trước tới nay; và Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới.
Beatles − với bốn thành viên John Lennon, Paul McCartney, George Harrison, và Ringo Starr − đặt chân tới nước Mỹ vào tháng Hai năm 1964, bắt đầu cái gọi là Cuộc xâm lăng Anh quốc vào sân khấu âm nhạc Hoa Kỳ và cho ra đời một loạt những bản thu âm đỉnh cao đã biến đổi cả diện mạo của nền âm nhạc đại chúng.
Điều quan sát thú vị đầu tiên về Beatles để phục vụ cho những mục đích của chúng ta là họ đã sát cánh bên nhau được bao lâu tính đến thời điểm họ đặt chân đến Mỹ. Lennon và McCartney trước hết bắt đầu chơi nhạc với nhau vào năm 1957, bảy năm trước khi đổ bộ vào Mỹ. (Thật trùng hợp, khoảng thời gian giữa thời điểm thành lập ban nhạc của họ cho tới những thành tựu nghệ thuật có thể cho là vĩ đại nhất của họ − album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band và The Beatles (White Album) − là mười năm). Và nếu bạn quan sát kỹ hơn những năm tháng chuẩn bị dằng dặc ấy, bạn sẽ nhìn thấy một thứ kinh nghiệm là, so sánh trong bối cảnh những tuyển thủ khúc côn cầu và Bill Joy hay cả những nghệ sĩ vĩ cầm đẳng cấp thế giới, nó có vẻ gần gũi khủng khiếp. Vào năm 1960, trong khi họ mới là một ban nhạc rock của trường trung học dò dẫm tìm đường, họ đã được mời đến chơi nhạc ở Hamburg, Đức.
“Hamburg vào những tháng ngày ấy không hề có các câu lạc bộ rock-and roll. Nó chỉ có các câu lạc bộ thoát y”, Phillip Norman, người chấp bút cuốn tiểu sử về Beatles có tên Shout! cho biết. “Có một ông chủ câu lạc bộ khác người tên là Bruno, vốn xuất thân là ông bầu chợ phiên. Ông này có sáng kiến đưa các nhóm nhạc rock vào chơi ở các câu lạc bộ khác nhau. Các câu lạc bộ đồng ý làm theo cách này. Hãy thử hình dung, đó là một buổi biểu diễn liên miên không ngừng nghỉ, với rất nhiều người loạng choạng đi vào và những kẻ khác loạng choạng đi ra. Các ban nhạc sẽ chơi liên tục để lôi kéo sự chú ý của xe cộ ngang qua. Tại một quận đèn đỏ của nước Mỹ, họ gọi nó là thoát y vũ liên tục (nonstop teaser).”
“Rất nhiều ban nhạc chơi ở Hamburg đều đến từ Liverpool,” Norman nói tiếp. “Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Bruno tới London để tìm kiếm các ban nhạc. Ông ta tình cờ gặp ở Soho một thương gia từ Liverpool đang xuôi xuống London tìm kiếm cơ hội. Và ông đã dàn xếp để chọn đưa vài ban nhạc tới Hamburg. Đó là cách những mối liên kết được xác lập. Và cuối cùng, The Beatles đã tạo nên mối liên hệ không chỉ với riêng Bruno mà với cả
những ông chủ câu lạc bộ khác nữa. Họ tiếp tục quay trở lại vì ở đó đầy rẫy đồ uống có cồn và sex”.
Có điều gì đặc biệt ở Hamburg chứ? Đó có phải là nơi trả công hậu hĩ? Không hề. Hay âm thanh ở đó thật tuyệt? Cũng không. Hay là khán thính giả rất am hiểu và nể trọng ban nhạc? Chẳng một nguyên nhân nào trong số đó đúng cả. Chỉ là khối lượng thời gian tuyệt đối mà ban nhạc bị buộc phải chơi.
Trong một buổi phỏng vấn sau khi Beatles tan rã, kể về những buổi biểu diễn của ban nhạc tại một câu lạc bộ thoát y ở Hamburg mang tên Indra, John Lennon nói:
Chúng tôi chơi khá hơn và thêm tự tin. Điều đó là tất yếu sau những trải nghiệm do việc chơi nhạc suốt đêm dài mang lại. Thêm cái lợi nữa họ là người nước ngoài. Chúng tôi phải cố gắng thậm chí nhiều hơn nữa, trút tất cả trái tim và tâm hồn vào đó, để vượt qua chính mình.
Ở Liverpool, chúng tôi mới chỉ chơi trong những suất diễn dài một tiếng đồng hồ, và chúng tôi thường chơi đi chơi lại một số ca khúc tủ của mình trong mọi buổi biểu diễn. Ở Hamburg, chúng tôi phải chơi suốt tám tiếng đồng hồ, nên chúng tôi thực sự phải tìm kiếm một cách chơi mới.
Tám tiếng đồng hồ?
Còn đây là Pete Best, tay trống của Beatles lúc bấy giờ: “Mỗi khi có tin tức lan ra về việc chúng tôi đang thực hiện một sô diễn, câu lạc bộ bắt tay vào dập tắt nó ngay. Chúng tôi chơi suốt bảy tối một tuần. Mới đầu chúng tôi chơi gần như một mạch không nghỉ tới khi câu lạc bộ đóng cửa lúc hai mươi ba giờ. Nhưng khi chúng tôi đã chơi khá hơn, đám đông khán giả thường ở lại tới tận hai giờ sáng.”
Bảy ngày một tuần?
Beatles rút cục đã tới Hamburg năm lần trong khoảng giữa năm 1960 tới cuối năm 1962. Trong chuyến đi đầu tiên, họ chơi 106 tối, năm hay sáu tiếng một tối. Trong chuyến thứ hai, họ chơi 92 suất. Tới chuyến đi thứ ba, họ chơi 48 lần, tổng cộng là 172 giờ trên sân khấu. Trong hai hợp đồng biểu diễn cuối cùng ở Hamburg, vào tháng 11 và 12 năm 1962, có thêm 90 giờ đồng hồ biểu diễn nữa. Tổng cộng, họ đã biểu diễn tận 270 đêm chỉ trong vỏn vẹn một năm rưỡi. Tính đến thời điểm họ có được đợt bùng nổ thành công đầu tiên vào năm 1964, thì trên thực tế, họ đã biểu diễn live ước chừng hàng trăm lượt. Bạn có biết điều đó phi thường tới cỡ nào không? Hầu hết các ban nhạc ngày nay không biểu diễn nhiều đến mức hàng trăm suất tính trong toàn bộ sự nghiệp. Thử thách gắt gao ở Hamburg là một trong những điều khiến Beatles khác biệt hoàn toàn.
“Họ chẳng có gì xuất sắc trên sân khấu vào thời điểm họ tới đó nhưng lúc quay trở về họ đã rất cừ”, Norman tiếp tục. “Họ không chỉ học được khả năng chịu đựng. Họ còn phải học một khối lượng lớn các ca khúc − phiên bản bằng âm nhạc của tất cả những gì bạn có thể nghĩ tới, không chỉ rock & roll, thêm một chút jazz nữa. Trước đó họ không hề có kỷ luật trên sân khấu. Nhưng khi quay trở lại, họ mang phong thái không giống với bất cứ ai. Đó là điều làm nên chính họ”.
5.
Giờ hãy cùng quay trở lại với lịch sử của Bill Gates. Câu chuyện của ông cũng nổi tiếng tương tự như của Beatles. Một thần đồng toán học thông minh, trẻ trung khám phá việc lập trình máy tính. Bỏ học dở chừng trường Harvard. Khởi sự một công ty máy tính có tên Microsoft với bạn bè. Bằng trí thông minh và tham vọng cũng như lòng quả cảm tuyệt đối, ông đã xây dựng nó trở thành người khổng lồ của thế giới phần mềm. Đó chỉ là đường viền ngoài rộng lớn thôi. Hãy đào vào sâu thêm một chút.
Cha của Gates là một luật sư giàu có ở Seattle, và mẹ ông là con gái một chủ
nhà băng phát đạt. Từ khi còn là một đứa trẻ, Bill đã sớm tinh khôn và nhanh chóng thấy chán ngán việc học hành. Vậy nên cha mẹ đã chuyển ông ra khỏi trường công và, vào đầu năm lớp bảy, gửi ông đến Lakeside, một trường tư dành riêng cho các gia đình danh giá ở Seattle. Vào khoảng năm học thứ hai của Gates tại Lakeside, nhà trường bắt đầu mở một câu lạc bộ máy tính.
“Câu lạc bộ Các bà mẹ của trường tổ chức dịp bán đồ lạc xoong hàng năm, và luôn lơ lửng một câu hỏi rằng khoản tiền ấy sẽ đi về đâu,” Gates nhớ lại. “Một ít đổ vào chương trình mùa hè, nơi những đứa trẻ nội thành sẽ tề tựu tham gia trong khuôn viên trường học. Một ít sẽ rơi vào túi các giáo viên. Năm ấy, họ chi ba nghìn đô-la cho một bộ thiết bị đầu cuối máy tính ở căn phòng nho nhỏ vui vẻ này mà sau đó chúng tôi được kiểm soát. Đó thật là một thứ hay ho.”
Đó là một “thứ hay ho,” tất nhiên rồi, bởi vì hồi ấy là năm 1968. Vào những năm 1960, hầu hết các trường đại học còn chưa có được những câu lạc bộ máy tính. Điều đáng chú ý hơn nữa chính là loại máy tính mà Lakeside mua về. Trường này không để học sinh học lập trình bằng hệ thống thẻ máy tính nặng nề, như hầu hết mọi người đều làm hồi những năm 1960. Thay vào đó, Lakeside cài đặt cái được gọi là ASR-33 Teletype, một bộ thiết bị đầu cuối sử dụng đồng thời, kết nối trực tiếp đến một máy tính trung tâm ở khu trung tâm mua sắm Seattle. “Toàn bộ ý tưởng về sử dụng đồng thời chỉ được phát kiến hồi năm 1965,” Gates tiếp tục. “Ai đó đã thực sự biết nhìn về tương lai.” Bill Joy có được một cơ hội phi thường, sớm sủa để học lập trình trên hệ thống sử dụng đồng thời khi còn là sinh viên năm nhất trường đại học, năm 1971. Bill Gates lại được lập trình thời-gian-thực hồi là một cậu học sinh lớp tám vào năm 1968.
Từ giây phút ấy trở đi, Gates đã sống trong phòng máy tính. Ông và những người khác bắt đầu tự học cách sử dụng thiết bị mới mẻ lạ lùng này. Đương nhiên, việc mua thời gian của máy tính trung tâm mà ASR đang kết nối vào
rất là đắt đỏ − kể cả đối với một cơ sở giáo dục giàu có như Lakeside − và chẳng bao lâu thì số tiền 3.000 đô-la được Câu lạc bộ Các bà mẹ tài trợ đã sạch nhẵn. Các bậc phụ huynh lại gây thêm quỹ. Học sinh lại tiêu đi. Và rồi một nhóm lập trình viên tại Đại học Washington đã lập nên một hãng có tên gọi Computer Center Corporation (C-Cubed) cho các doanh nghiệp địa phương thuê thời gian sử dụng máy tính. Tình cờ làm sao, một trong những sáng lập viên của hãng − Monique Rona − lại có một cậu con trai học ở Lakeside, trước Gates một năm. Liệu câu lạc bộ máy tính của Lakeside, Rona tự hỏi, có muốn chạy kiểm tra các chương trình phần mềm của công ty vào dịp cuối tuần đổi lại bằng thời gian lập trình miễn phí không? Chắc chắn rồi! Sau giờ học, Gates nhảy xe bus đến văn phòng của C-Cubed và lập trình đến tận tối mịt.
C-Cubed cuối cùng bị phá sản, nên Gates và các bạn bắt đầu quanh quẩn ở trung tâm máy tính tại trường Đại học Washington. Trước đó, họ theo đuổi một hãng có tên gọi là ISI (Information Sciences Inc.), nơi đồng ý dành cho họ thời gian sử dụng máy tính miễn phí đổi lại bằng việc chạy một phần mềm để tự động hóa hệ thống trả lương trong công ty. Trong khoảng thời gian bảy tháng hồi năm 1971, Gates và nhóm bạn của ông đã sử dụng máy tính suốt 1.575 giờ đồng hồ trên máy chủ của ISI, tính trung bình là tám tiếng một ngày, bảy ngày một tuần.
“Đó là nỗi ám ảnh với tôi,” Gates nói về những năm đầu tiên ở trung học của ông. “Tôi bỏ tiết thể dục. Tôi đến đó vào ban đêm. Chúng tôi lập trình vào cuối tuần. Hiếm hoi lắm mới có một tuần mà chúng tôi không tiêu tốn vào đó hai mươi hay ba mươi tiếng đồng hồ. Có một khoảng thời gian Paul Allen với tôi vướng vào chuyện rắc rối vì ăn cắp một loạt password và làm sập hệ thống. Chúng tôi bị tống cổ. Tôi không được sử dụng máy tính trong suốt mùa hè. Khi ấy tôi mới mười lăm, mười sáu tuổi. Sau đó, tôi phát hiện ra là Paul tìm được một máy tính để trống ở Đại học Washington. Họ đặt những chiếc máy này ở trung tâm y tế và khu điều trị. Những chiếc máy này được
đặt kế hoạch làm việc 24/24, nhưng có một khoảng thời gian nhàn rỗi, vậy nên trong khoảng từ ba giờ đến sáu giờ sáng họ không lên kế hoạch gì cả.” Gates cười. “Tôi rời khỏi nhà vào buổi đêm, sau giờ đi ngủ. Tôi có thể cuốc bộ đến Đại học Washington từ nhà. Hoặc tôi sẽ bắt xe buýt. Đó là lý do tại sao giờ đây tôi luôn hào phóng với Đại học Washington, bởi họ đã từng để tôi ăn cắp quá nhiều thời gian sử dụng máy tính.” (Nhiều năm sau đó, mẹ Gates nói, “Chúng tôi cứ thắc mắc tại sao lại thằng bé lại khổ sở đến thế khi phải thức dậy vào buổi sáng”).
Một trong những sáng lập viên của ISI, Bud Pembroke, sau đó nhận được một cú điện thoại từ công ty công nghệ TRW, nơi vừa ký kết hợp đồng lắp đặt hệ thống máy tính tại nhà máy điện Bonneville rộng lớn ở phía nam bang Washington. TRW khẩn thiết cần đến những lập trình viên quen thuộc với loại phần mềm đặc biệt mà nhà máy điện sử dụng. Trong những ngày tháng sơ khởi của cuộc cách mạng máy tính, những lập trình viên với kinh nghiệm chuyên môn kiểu ấy rất khó tìm. Nhưng Pembroke biết chính xác người ông phải gọi: những cậu chàng trung học đến từ Lakeside đã vận hành máy tính hàng ngàn giờ đồng hồ trên máy chủ ISI. Gates lúc ấy đang học năm cuối, và bằng cách nào đó cậu đã gắng thuyết phục các giáo viên cho phép cậu bùng học để tới Bonneville dưới chiêu bài một dự án nghiên cứu độc lập. Ở đó cậu đã trải qua cả mùa xuân viết code dưới sự hướng dẫn của một người đàn ông có tên là John Norton, người sau này Gates nói rằng đã dạy mình về lập trình nhiều hơn bất cứ ai.
Năm năm đó − từ lớp Tám tới cuối trung học, chính là khoảng thời gian Hamburg của Bill Gates, và xét theo khía cạnh nào đó, ông cũng đã được ban tặng một loạt cơ hội thậm chí còn phi thường hơn cả Bill Joy.
Cơ hội thứ nhất là việc Gates được chuyển đến Lakeside. Liệu có bao nhiêu trường trung học trên khắp thế giới được tiếp cận với một bộ thiết bị đầu cuối hồi năm 1968? Cơ hội thứ hai là việc các bà mẹ ở trường Lakeside có
đủ tiền bạc để trả các khoản phí máy tính của trường. Thứ ba là, khi số tiền đó cạn sạch, một trong số các vị phụ huynh bỗng nhiên lại làm việc ở C Cubed, nơi bỗng nhiên cần ai đó kiểm tra code vào dịp cuối tuần, và điều cũng ngẫu nhiên xảy ra là họ chẳng thèm bận tâm việc những ngày cuối tuần lại trở thành những đêm cuối tuần. Thứ tư là chuyện Gates bỗng nhiên lại phát hiện ra ISI, và ISI lại bỗng nhiên cần đến ai đó làm việc với phần mềm chấm công trả lương của họ. Thứ năm là Gates bất ngờ thay lại sống ở một khoảng cách đủ gần để có thể đi bộ tới Đại học Washington. Thứ sáu là trường đại học này bỗng nhiên lại có khoảng thời gian máy tính rỗi rãi từ ba đến sáu giờ sáng. Thứ bảy là TRW bỗng nhiên lại gọi Bud Pembroke. Thứ tám là những lập trình viên mà Pembroke biết là phù hợp nhất với vấn đề cần xử lý bỗng nhiên lại là hai cậu choai trung học. Và thứ chín là việc trường Lakeside đồng ý để cho hai cậu bé viết code trong cả mùa xuân ở một nơi cách đó nhiều dặm.
Vậy hầu hết tất cả những cơ may đó có điểm gì chung? Chúng mang lại cho Bill Gates khoảng thời gian phụ trội để luyện tập. Đến thời điểm Gates ra khỏi trường Harvard sau năm thứ hai để thử bắt tay vào công ty phần mềm riêng của mình, trên thực tế cậu đã lập trình không ngừng nghỉ trong suốt bảy năm liên tiếp. Cậu Gates trẻ tuổi khi ấy đã có được con số lớn hơn mười nghìn tiếng đồng hồ rất nhiều. Liệu có bao nhiêu thanh thiếu niên trên khắp thế giới có được thứ trải nghiệm giống như Bill Gates? “Tôi không tin là có quá năm mươi người trên toàn thế giới có thể được như vậy”, ông nói. “Những việc chúng tôi làm ở C-Cubed và hệ thống tính lương, rồi đến TRW − tất cả những việc đó gộp lại. Tôi được đặt vào bối cảnh của ngành phát triển phần mềm ở lứa tuổi trẻ hơn bất cứ ai thời bấy giờ, và tất cả là do cả loạt cơ hội may mắn phi thường như thế.”
6.
Nếu chúng ta tập hợp những câu chuyện của các tuyển thủ khúc côn cầu, ban
nhạc Beatles cùng Bill Joy cũng như Bill Gates lại với nhau, tôi nghĩ chúng ta sẽ có được bức tranh hoàn thiện hơn về con đường dẫn tới thành công. Joy và Gates và ban nhạc Beatles đều tài giỏi không cãi vào đâu được. Lennon và McCartney sở hữu tài năng âm nhạc có lẽ chỉ xuất hiện độc nhất trong cả một thế hệ, còn Bill Joy, chúng ta đừng quên, là người có trí não nhanh nhạy đến mức có thể dựng được một thuật toán phức tạp về lịch trình bay khiến các vị giáo sư phải kinh ngạc. Nhiều như thế là đã đủ rõ ràng.
Nhưng điều thực sự làm nên lịch sử khác biệt của họ không phải tài năng phi phàm mà là những cơ may phi thường của họ. Ban nhạc Beatles, vì những nguyên cớ ngẫu nhiên nhất, đã được mời tới Hamburg. Nếu không có khoảng thời gian ở Hamburg, Beatles rất có thể đã đi theo một con đường khác hẳn. “Tôi đã rất may mắn.” Bill Gates nói như vậy ngay từ lúc bắt đầu cuộc phỏng vấn. Điều đó không có nghĩa là ông kém xuất sắc hay không phải là một thương gia phi thường. Nó chỉ nói lên rằng ông hiểu việc chuyển đến Lakeside hồi năm 1968 là một cơ may tốt đẹp tới chừng nào.
Tất cả những nhân vật xuất chúng mà chúng ta quan sát cho đến bây giờ đều là những người hưởng lợi từ một vài cơ hội bất thường nào đó. Những cơ duyên may mắn dường như không phải là thứ gì ngoại lệ đối với các tỷ phú phần mềm và các ban nhạc rock hay các vận động viên ngôi sao. Chúng dường như giống một kiểu quy luật.
Hãy để tôi mang tới cho bạn thêm một ví dụ cuối cùng nữa chứng minh cho những cơ may ngầm ẩn mà những Những kẻ xuất chúng của chúng ta được hưởng lợi. Thử thực hiện một phiên bản khác của việc phân tích niên lịch mà chúng ta đã làm trong chương trước với các tuyển thủ khúc côn cầu, có điều lần này là nhìn vào năm sinh, chứ không phải tháng sinh. Để bắt đầu, hãy quan sát kỹ bảng danh sách bảy mươi lăm nhân vật giàu có nhất trong lịch sử nhân loại dưới đây. Tài sản của mỗi người trong số đó được tính theo giá trị đô-la ngày nay. Như bạn có thể thấy, nó bao gồm các vị nữ hoàng, nhà vua,
pharaoh từ nhiều thế kỷ trước và cả những tỷ phú đương thời như là Warren Buffett và Carlos Slim.
Bạn biết điều gì thú vị ở bảng trên không? Trong số bảy mươi lăm cái tên, có tới mười bốn là người Mỹ sinh vào chín năm khoảng giữa thế kỷ XIX. Thử suy nghĩ về điều đó một chút. Các nhà sử học đã bắt đầu từ Cleopatra và những vị pharaoh rồi lùng sục vào mọi ngóc ngách của thế giới để tìm kiếm dấu tích những khối của cải phi thường, và chiếm gần 20% tổng số những cái tên họ lọc ra đều xuất phát từ một thế hệ duy nhất ở một quốc gia duy nhất.
Danh sách những người Mỹ đó và năm sinh của họ:
1. John D. Rockefeller, 1839
2. Andrew Carnegie, 1835
28. Frederick Weyerhaeuser, 1834
33. Jay Gould, 1836
34. Marshall Field, 1834
35. George F. Baker, 1840
36. Hetty Green, 1834
44. James G. Fair, 1831
54. Henry H. Rogers, 1840
57. J. P. Morgan, 1837
58. Oliver H. Payne, 1839
62. George Pullman, 1831
64. Peter Arrell Brown Widener, 1834
65. Philip Danforth Armour, 1832
Điều gì đang xảy ra ở đây? Câu trả lời trở nên hiển nhiên nếu bạn chịu suy nghĩ về nó. Vào những năm 1860 và 1870, nền kinh tế Mỹ trải qua một cuộc chuyển đổi có lẽ là vĩ đại nhất trong lịch sử. Đây chính là thời điểm các tuyến đường sắt được xây dựng và thị trường Phố Wall nổi lên. Đó là thời điểm ngành sản xuất công nghiệp khởi đầu. Đó là thời điểm tất cả những quy luật chi phối nền kinh tế truyền thống bị phá vỡ và được sáng tạo lại. Điều mà bản danh sách này nói lên chính là việc bạn bao nhiêu tuổi vào thời điểm cuộc chuyển đổi này xảy ra có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nếu bạn sinh ra vào cuối thập niên 1840, bạn đã để lỡ cơ may. Bạn còn quá trẻ để tận dụng được khoảnh khắc ấy. Nếu bạn sinh ra vào những năm 1820,
bạn lại quá già: đầu óc của bạn đã bị định hình bởi mô thức tiền−Nội-chiến Mỹ. Nhưng lại có một khung cửa chín-năm đặc biệt, nhỏ hẹp vừa vặn hoàn hảo để quan sát thấy những tiềm năng mà tương lai mang tới. Tất cả mười bốn người đàn ông và đàn bà trong danh sách kể trên đều có tầm nhìn và tài năng. Nhưng họ cũng được trao tặng một cơ hội phi thường, với cách thức giống hệt như chuyện các tuyển thủ khúc côn cầu và túc cầu sinh ra vào tháng Giêng, Hai, Ba được trao tặng một cơ hội phi thường vậy.
Giờ hãy thử làm một phân tích tương tự với những người như Bill Joy và Bill Gates.
Nếu bạn trò chuyện với các cựu binh ở Thung lũng Silicon, họ sẽ kể bạn nghe rằng giai đoạn quan trọng nhất trong lịch sử cuộc cách mạng máy tính cá nhân là vào tháng Giêng năm 1975. Đó là thời điểm tạp chí Popular Electronics đăng tải trên trang bìa câu chuyện về một loại máy móc phi thường có tên là Altair 8800. Máy Altair 8800 có giá 397 đô-la. Đó là một cỗ máy tự-thao-tác kỳ cục mà bạn có thể lắp ráp tại nhà. Bài báo được giật tít rất hấp dẫn: “ĐỘT PHÁ SÁNG TẠO! Bộ đồ nghề máy tính mini đầu tiên trên thế giới cạnh tranh với các kiểu mẫu trên thị trường.”
Đối với những độc giả của tờ Popular Electronics − Thánh kinh của thế giới phần mềm và máy tính non nớt thời bấy giờ, dòng tiêu đề ấy chính là một sự ngộ tỉnh. Tính đến thời điểm đó máy tính vẫn chỉ là những cụm máy trung tâm cồng kềnh, đắt đỏ giống như thứ máy chễm chệ giữa cơ ngơi trắng toát của Trung tâm Máy tính Michigan. Suốt bao nhiêu năm ròng, tất cả mọi tin tặc cũng như những tài năng trẻ của lĩnh vực điện tử đều ước ao đến ngày nào đó sẽ xuất hiện một chiếc máy tính đủ nhỏ gọn và ít đắt đỏ hơn để một người bình thường có thể sở hữu và sử dụng. Ngày ấy cuối cùng đã đến.
Nếu tháng Giêng năm 1975 chính là buổi bình minh của kỉ nguyên máy tính cá nhân, vậy thì ai ở vào tình thế tốt nhất để có thể tận dụng cơ hội này? Những quy luật tương tự áp dụng ở đây cũng được viện tới trong kỉ nguyên
của những John Rockefeller và Andrew Carnegie.
“Năm 1975, bạn là một người đứng tuổi, vậy thì chắc chắn bạn đã có sẵn công việc ở hãng IBM sau khi rời trường đại học, và một khi người ta khởi sự ở IBM, thì thực sự sẽ phải trải qua một khoảng thời gian cam go để thực hiện cuộc quá độ sang một thế giới mới,” Nathan Myhrvold – nhiều năm đảm nhiệm vị trí điều hành tại Microsoft nói như vậy. “Tập đoàn nhiều-tỷ đô-la này vốn chế tạo ra các máy trung tâm, và nếu anh đã là một phần trong đó, anh sẽ nghĩ tại sao phải phí phạm thì giờ với những cái máy tính bé tí thảm hại này chứ? Đối với họ đó mới là ngành công nghiệp máy tính, và họ chẳng bận tâm gì đến cuộc cách mạng mới mẻ này cả. Họ bị che mắt bởi cách nhìn nhận một chiều về ngành máy tính. Họ kiếm sống tốt. Và chẳng có cơ hội nào mở ra khiến họ có thể trở thành một kẻ giàu kếch sù và có ảnh hưởng toàn thế giới.”
Nếu tính đến năm 1975 bạn đã ra trường được vài năm, vậy thì bạn đã thuộc về thứ mô thức cũ kỹ. Bạn đã mua được một căn nhà. Bạn đã kết hôn. Một đứa con sắp ra đời. Bạn không có vẻ gì sẽ từ bỏ công việc và khoản phụ cấp ngon lành chỉ để theo đuổi một bộ lắp ráp máy tính trị giá 397 đô-la viển vông huyễn tưởng. Vậy hãy loại trừ tất cả những người sinh trước năm 1952, ví dụ thế.
Cùng thời điểm đó, dầu sao, bạn cũng không được trẻ quá. Bạn muốn tham gia vào vạch xuất phát của cuộc thử vận may rủi, đúng vào năm 1975, bạn sẽ không thể làm vậy nếu vẫn còn đang học cấp III. Vậy thì loại trừ tiếp bất cứ ai sinh khoảng sau năm 1958. Nói cách khác, lứa tuổi lý tưởng để có cơ hội được thử thời vận năm 1975 là phải đủ già dặn để trở thành một phần của cuộc cách mạng sắp tới nhưng lại không được cứng tuổi tới mức bỏ lỡ cuộc chơi. Lý tưởng là, bạn phải hai mươi hoặc hai mốt tuổi, tức là sinh năm 1954 hoặc 1955.
Có một cách đơn giản để kiểm nghiệm lý thuyết này. Bill Gates sinh năm
nào?
Bill Gates: 28 tháng Mười năm 1955.
Đó là một ngày sinh hoàn hảo! Gates chính là kiểu vận động viên khúc côn cầu sinh đúng vào mùng 1 tháng Giêng. Bạn thân nhất của Gates ở trường Lakeside là Paul Allen. Paul cũng thường xuyên lui tới phòng máy tính với Gates và trải qua những buổi tối đằng đẵng cùng Gates tại ISI và C-Cubed. Allen sau đó tiếp tục cùng Bill Gates sáng lập nên Microsoft. Vậy Paul Allen sinh năm nào?
Paul Allen: 21 tháng Giêng năm 1953
Nhân vật giàu có thứ ba ở Microsoft là người điều hành mọi hoạt động của công ty kể từ năm 2000, một trong những nhà lãnh đạo được kính nể nhất trong thế giới phần mềm − Steve Ballmer. Ngày sinh của Ballmer thì sao?
Steve Ballmer: 24 tháng Ba năm 1956
Và cũng đừng quên một người nổi tiếng không thua kém chút nào so với Gates: Steve Jobs, đồng sáng lập hãng Máy tính Apple. Không giống như Gates, Jobs không xuất thân từ một gia đình giàu có và ông cũng không đặt chân tới trường Michigan như Joy. Nhưng cũng chẳng cần phải điều tra nhiều về quá trình sinh trưởng của Jobs để nhận ra rằng ông cũng đã có một quá trình Hamburg của riêng mình. Jobs lớn lên ở vùng Mountain View − vị trí tuyệt đối trung tâm của Thung lũng Silicon. Láng giềng quanh ông toàn là các kỹ sư của hãng Hewlett-Packard, cho đến ngày nay vẫn là một trong những hãng điện tử quan trọng bậc nhất trên thế giới. Khi còn là một cậu thiếu niên, Jobs đã lượn vòng vòng quanh các khu chợ trời ở Mountain View, nơi những kẻ yêu thích và thành thạo thiết bị điện tử mua đi bán lại các linh kiện rời. Jobs khi ấy đã đủ lớn để hít thở bầu không khí của chính lĩnh vực làm ăn mà sau này ông sẽ thống trị.
Đoạn văn dưới đây được trích từ cuốn Accidental Millionaire (Tạm dịch: Nhà triệu phú tình cờ), một cuốn tiểu sử về Jobs, sẽ khiến độc giả cảm nhận được những trải nghiệm thời thơ ấu của Jobs phi thường đến cỡ nào.
Tham dự các cuộc nói chuyện buổi tối của những nhà khoa học hãng Hewlett-Packard. Các buổi chuyện trò ấy nói về những thành tựu tiên tiến nhất trong lĩnh vực điện tử còn Jobs thì thể hiện một kiểu vốn là đặc điểm khác biệt trong tính cách của mình, bám riết lấy các kỹ sư Hewlett-Packard và moi móc thông tin từ họ. Có lần cậu thậm chí còn gọi cả Bill Hewlett − một trong những nhà sáng lập của hãng để vòi vĩnh linh kiện. Jobs không chỉ nhận được những linh kiện cậu cần mà còn thành công trong việc xin được một việc làm thêm mùa hè. Jobs làm việc trên một dây chuyền lắp ráp để dựng các máy tính, cậu hào hứng tới mức còn cố gắng thiết kế kiểu máy tính của riêng mình...
Gượm hẵng. Bill Hewlett đưa cho Jobs các linh kiện rời? Điều đó có tầm vóc tương đương với việc Bill Gates được tiếp cận vô thời hạn vào hệ thống đầu cuối thao tác đồng thời hồi mười ba tuổi. Nó cũng giống như việc giả sử bạn yêu thích thời trang mà người láng giềng trong những năm tháng bạn trưởng thành tình cờ làm sao lại chính là ông hoàng thời trang Giorgio Armani. Mà Jobs sinh vào thời gian nào nhỉ?
Steve Jobs: 24 tháng Hai năm 1955
Một nhân vật tiên phong khác trong cuộc cách mạng phần mềm là Eric Schmidt. Ông điều hành Novell − một trong những hãng phần mềm quan trọng nhất ở Thung lũng Silicon, và vào năm 2001, ông đã trở thành giám đốc điều hành của Google. Ngày sinh của Eric?
Eric Schmidt: 27 tháng Tư năm 1955
Dĩ nhiên, tôi không có ý gợi ra rằng mọi ông trùm phần mềm ở Thung lũng
Silicon đều sinh năm 1955. Vài người không như thế, cũng giống như không phải tất cả những doanh nhân vĩ đại ở nước Mỹ đều sinh ra vào giữa thập niên 1830. Nhưng có những hình mẫu rất rõ ràng ở đây, và điều đáng chú ý là việc dường như chúng ta ít muốn thừa nhận chúng. Chúng ta vờ rằng thành công chỉ riêng rẽ là chuyện của công trạng cá nhân. Nhưng chẳng có gì trong số những đoạn tiểu sử chúng ta theo dõi từ đầu tới giờ lại nói lên rằng mọi thứ chỉ đơn giản có vậy. Thay vào đó, đều là câu chuyện về những con người được trao tặng một cơ hội vàng để làm việc chăm chỉ thực sự và nắm chặt lấy nó, và đó cũng là những người tình cờ đủ trưởng thành vào thời điểm mà nỗ lực phi thường ấy được toàn bộ xã hội tưởng thưởng. Thành công của họ không chỉ là kết quả từ việc tự mình gây dựng. Nó là sản phẩm của cả thế giới trong đó họ sinh ra và lớn lên.
Tiện đây, cũng đừng quên mất Bill Joy. Nếu như ông cứng tuổi hơn một chút và nếu như ông phải đối mặt với sự vất vả cực nhọc của việc lập trình với những thẻ máy tính, như lời ông nói, thì ông đã chuyển sang nghiên cứu khoa học. Bill Joy − huyền thoại máy tính có thể đã trở thành Bill Joy − nhà sinh học. Và nếu Bill Joy trưởng thành muộn mất vài năm, cánh cửa nhỏ hẹp vốn mang lại cho ông cơ hội viết mã hỗ trợ cho Internet đã đóng sập mất rồi. Xin nhắc lại, huyền thoại máy tính Bill Joy có thể đã phải là nhà sinh học Bill Joy. Vậy Bill Joy ra đời khi nào?
Bill Joy: 8 tháng Mười Một năm 1954
Sau công việc ở Berkeley, Joy sẽ tiếp tục trở thành một trong bốn người sáng lập hãng Sun Microsystems, một trong những tập đoàn phần mềm kỳ cựu và quan trọng bậc nhất Thung lũng Silicon. Và nếu bạn vẫn khăng khăng nghĩ rằng sự tình cờ về thời điểm, nơi chốn và năm sinh không quan trọng đến thế, thì đây là ngày sinh của ba sáng lập viên còn lại hãng Sun Microsystems:
Scott McNealy: 13 tháng Mười Một năm 1954
Vinod Khosla: 28 tháng Giêng năm 1955 Andy Bechtolsheim: 30 tháng Chín năm 1955
Chương III. Mối phiền phức với các thiên tài, Phần I
BIẾT VỀ CHỈ SỐ IQ CỦA MỘT CẬU BÉ CŨNG CHẲNG GIÚP ÍCH GÌ MẤY NẾU BẠN PHẢI ĐỐI MẶT VỚI CẢ MỘT NHÓM NHỮNG CẬU BÉ THÔNG MINH.
1.
Số thứ Năm của loạt chương trình trò chơi truyền hình Mỹ mang tên Đấu trường 100 (1 vs. 100) năm 2008 đã đón chào vị khách đặc biệt của mình − một người đàn ông có tên Christopher Langan.
Đấu trường 100 là một trong rất nhiều chương trình truyền hình bung nở theo gót thành công mang tính hiện tượng của game show Ai là triệu phú? (Who Wants to Be a Millionaire?). Trong chương trình có một lô cố định gồm một trăm khán giả bình thường đóng vai “đám đông” (mob). Mỗi tuần, họ đọ trí thông minh với một khách mời đặc biệt. Tiền thưởng lên tới một triệu đô-la. Khách mời cần phải đủ thông thái để trả lời chính xác nhiều câu hỏi hơn một trăm đối thủ của anh ta/cô ta − và với tiêu chuẩn ấy, có vẻ chẳng mấy người có điều kiện xuất sắc như Christopher Langan.
“Đêm nay đám đông khán giả sẽ phải đối mặt với cuộc đấu cam go nhất từ trước tới nay,” lời người dẫn chương trình bắt đầu vang lên. “Đụng độ Chris Langan − được nhiều người mệnh danh là nhân vật thông minh nhất nước Mỹ.” Máy quay quét chậm qua một người đàn ông bè bè, vạm vỡ ở lứa tuổi ngũ tuần. “Một người bình thường có chỉ số IQ khoảng 100,” giọng thuyết minh tiếp tục. “Einstein là một trăm năm mươi. Chris có chỉ số IQ ở mức một trăm chín mươi lăm. Hiện giờ anh đang tập trung bộ não cỡ bự của mình vào một lý thuyết về vũ trụ. Nhưng liệu hộp sọ ngoại cỡ của anh có đủ hạ
gục đám đông khán giả để giành được một triệu đô-la hay không? Hãy tìm câu trả lời ngay bây giờ trong chương trình Đấu trường 100”.
Langan bước lên khán đài trong tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt.
“Anh không nghĩ là anh cần phải có trình độ học vấn cao để chơi tốt trong chương trình Đấu trường 100 sao?” người dẫn chương trình Bob Saget hỏi Chris. Saget nhìn vào Chris đầy tò mò, như thể anh giống một kiểu vật mẫu trong phòng thí nghiệm vậy.
“Thực lòng mà nói, tôi nghĩ đó có thể là một trở ngại,” Langan đáp lời. Anh có một giọng nói thâm trầm, thản nhiên. “Sở hữu chỉ số IQ cao, bạn có xu hướng chuyên biệt hóa, tư duy sâu. Bạn bỏ qua những chi tiết lặt vặt. Nhưng giờ đây tôi phải đối mặt với những khán giả này” − anh liếc nhìn đám đông, vẻ hài hước lóe lên trong mắt hé lộ rằng anh cảm thấy tất cả những gì đang diễn ra nực cười tới mức nào − “Tôi nghĩ là tôi sẽ chơi tốt.”
Suốt trong thập kỉ trước đó, Chris Langan đã gặt hái được thứ danh tiếng kỳ lạ. Anh trở thành gương mặt thiên tài của công chúng trong đời sống Mỹ, một trong những kẻ xuất chúng. Anh nhận được lời mời từ các chương trình tin tức và được đưa tiểu sử trên các tờ tạp chí, anh trở thành chủ đề trong một phim tài liệu thực hiện bởi nhà làm phim Errol Morris, tất cả chỉ bởi một não bộ bất ngờ thách thức mọi mô tả thông thường.
Chương trình tin tức truyền hình 20/20 có lần đã mời một chuyên gia tâm lý học thần kinh đưa ra cho Langan một bài trắc nhiệm IQ riêng biệt bởi điểm số của Langan thực sự vượt khỏi mọi bảng biểu đánh giá − quá cao để có thể đo đạc chính xác. Một lần khác, Langan thực hiện một bài kiểm tra IQ được thiết kế riêng cho những người quá thông minh trong những bài kiểm tra IQ thông thường. Anh trả lời đúng tất cả chỉ trừ một câu hỏi. Biết nói hồi mới sáu tháng tuổi. Khi lên ba, Langan nghe radio vào các ngày Chủ nhật khi phát thanh viên đọc to những câu chuyện rẻ tiền, thì cậu cứ thế đọc theo một
mình cho đến lúc tự dạy mình biết đọc. Lúc năm tuổi, Langan bắt đầu hỏi ông mình về sự tồn tại của Chúa trời − và đã rất thất vọng với những câu trả lời nhận được.
Ở trường, Langan có thể bước vào một giờ kiểm tra của lớp ngoại ngữ mà không cần phải học hành gì trước đó, và nếu có được hai hay ba phút trước khi giáo viên vào lớp, anh có thể lướt qua sách giáo khoa và hoàn thành xuất sắc bài kiểm tra. Vào tuổi thiếu niên, trong khi làm việc như một công nhân nông trường, anh bắt đầu mở rộng việc tìm hiểu các khái niệm của lĩnh vực vật lý lý thuyết. Đến tuổi mười sáu, anh tự mình nghiền ngẫm một kiệt
tác uyên thâm nổi tiếng của Bertrand Russell và Alfred North Whitehead − Nguyên lý Toán học (Principia Mathematica). Anh đạt được kết quả hoàn hảo trong kỳ thi SAT dù anh ngủ quên một lúc trong giờ thi.
“Chris làm toán suốt một tiếng đồng hồ,” cậu em trai tên Mark nói về thói quen mùa hè của Langan hồi trung học. “Rồi anh ấy học tiếng Pháp một tiếng. Rồi học tiếng Nga một tiếng. Rồi anh ấy đọc triết học. Chris cứ làm thế đều đặn, hàng ngày.”
Một người anh em khác của Langan, Jeff thì kể “Bạn biết không, khi Christopher mười bốn, mười lăm tuổi, anh ấy vẽ vời mọi thứ cho vui, và tác phẩm thì trông cứ như một bức ảnh vậy. Mười lăm tuổi, anh ấy có thể khớp với ngôi sao nhạc Rock Jimi Hendrix từng nhịp một trên cây guitar. Boom. Boom. Boom. Một nửa thời gian Christopher không hề đến trường. Anh chỉ có mặt vào các giờ kiểm tra và họ chẳng thể bắt bẻ gì về việc đó được. Đối với chúng tôi, điều đó thật vui nhộn. Chris có thể tóm lược đống giáo trình ngang với cả một học kỳ chỉ trong hai ngày, tập trung vào bất cứ thứ gì anh ấy phải để ý đến, rồi sau đó quay trở lại với những công việc anh ấy đang làm dở trước đó.”
Trong cuộc chơi Đấu trường 100, Langan thật đĩnh đạc và tự tin. Giọng anh
trầm sâu. Đôi mắt nhỏ và sáng. Anh không lòng vòng về các chủ đề, tìm ra ngay cụm từ đúng. Tương tự như thế, Langan không nói ừm hay à hay sử dụng bất cứ lối xoa dịu đối thoại nào hết: các câu nói của anh cứ thế thốt ra, câu sau tiếp câu trước, lịch sự và quả quyết, hệt như các anh lính ở vị trí duyệt binh. Mọi câu hỏi Saget đặt ra với anh, Langan đều dẹp sang một bên, như thể nó chỉ là thứ gì vặt vãnh tầm phào. Khi số tiền thắng cuộc lên tới 250.000 đô-la, Langan đột nhiên thực hiện một tính toán trong đầu rằng mối nguy cơ thua trắng ở thời điểm đó to lớn hơn những lợi ích tiềm năng của việc ở lại. Bất ngờ, Langan dừng cuộc chơi. “Tôi sẽ lấy tiền,” anh nói. Anh bắt tay Saget thật chặt và kết thúc − ra khỏi sân khấu khi ở đỉnh cao hệt như cách các thiên tài vẫn làm − chúng ta thường nghĩ vậy.
2.
Sau Thế Chiến, Lewis Terman − một giảng viên tâm lý học tại Đại học Stanford gặp được một cậu bé rất đáng chú ý có tên Henry Cowell. Cowell vốn được nuôi dạy trong cảnh nghèo khó và hỗn loạn. Cậu bé không theo kịp những đứa trẻ khác, và năm lên bảy tuổi cậu không được đến trường nữa. Cậu nhận việc trông nhà cho một lớp học riêng lẻ không xa khuôn viên trường Stanford, và suốt cả ngày, Cowell luôn tìm cách lẻn vào chơi cây đàn dương cầm của trường. Những giai điệu mà cậu chơi tuyệt đẹp.
Chuyên môn của Terman vốn là trắc nghiệm trí thông minh. Bản kiểm tra IQ tiêu chuẩn mà hàng triệu người trên khắp thế giới thực hiện trong năm mươi năm tiếp sau đó − có tên Stanford Binet − chính là sáng tạo của Terman. Vậy nên ông quyết định trắc nghiệm IQ của Cowell. Ông suy luận: thằng bé ắt phải thông minh lắm, và ông tin chắc về điều đó. Cowell có chỉ số IQ trên 140. Terman bị mê hoặc. Ông tự hỏi: Còn bao nhiêu viên kim cương thô chưa được khám phá như thế nữa?
Ông bắt đầu kiếm tìm những người khác. Ông tìm thấy một cô bé thuộc chữ cái từ hồi chín tháng tuổi, một bé khác đọc Dickens và Shakespeare lúc mới
lên bốn. Ông còn gặp được một chàng trai bị đuổi khỏi trường luật bởi giáo viên của cậu không tin trên đời có chuyện một con người bằng xương bằng thịt lại có thể sao chép chính xác các đoạn dài dằng dặc những phán quyết của tòa án chỉ dựa vào trí nhớ.
Đến năm 1921, Terman quyết định biến nghiên cứu về thiên tài trở thành sự nghiệp cả cuộc đời ông. Được nhận một khoản trợ cấp lớn từ Quỹ Thịnh vượng chung (Commonwealth Foundation), ông tập hợp một đội chuyên viên nghiên cứu điền dã và cử họ về các trường tiểu học tại California. Giáo viên tại các trường đó được yêu cầu tiến cử những em học sinh xuất sắc nhất trong lớp. Những học sinh ấy nhận được một bài kiểm tra trí tuệ. Các em nằm trong nhóm 10% đạt điểm số cao nhất sẽ nhận được một bài trắc nghiệm IQ, rồi những em đạt điểm số trên 130 trong bài kiểm tra ấy sẽ lại có một bài trắc nghiệm IQ thứ ba, từ một bộ kết quả ấy Terman chọn ra những em xuất sắc và thông minh nhất. Đến thời điểm Terman kết thúc điều tra, ông đã xếp loại khoảng 250.000 học sinh tiểu học và trung học, từ đó nhận diện được 1.470 trẻ em có IQ trung bình hơn 140 và cao dần tới mức 200. Nhóm thần đồng ấy dần được biết tới với tên gọi “Nhóm Mối” (Termites) và các em chính là đối tượng của một công trình về sau đã trở thành nghiên cứu tâm lý học quan trọng bậc nhất trong lịch sử.
Trong suốt phần đời còn lại, Terman trông coi những tài năng của mình hệt như gà mẹ vậy. Các em được theo dõi và kiểm tra, đo lường và phân tích. Các thành tích giáo dục được ghi lại, tình hình hôn nhân được theo sát, ốm bệnh được lập bảng kê, sức khỏe tâm lý học được dựng biểu đồ và mỗi động thái thăng tiến hay thay đổi công ăn việc làm đều được ghi chép lại đầy cẩn trọng. Terman viết cho họ các thư tiến cử công việc và đơn đăng ký chương trình sau đại học. Ông hào phóng ban phát không ngừng nghỉ những khuyên răn, dạy bảo, liên tục ghi chép phát hiện của mình vào những tập hồ sơ dày màu đỏ có tựa đề Genetic Studies of Genius (Tạm dịch: Nghiên cứu di truyền về thiên tài).
“Không có điều gì thuộc về một cá nhân quan trọng bằng IQ của anh ta, có lẽ chỉ ngoại trừ nhân cách của anh ta mà thôi,” Terman có lần đã nói vậy. Và đối với những người sở hữu mức IQ rất cao, Terman tin rằng “Chúng ta buộc phải kiếm tìm phương cách sản xuất ra các nhân vật lãnh đạo thúc đẩy tiến bộ khoa học, nghệ thuật, nhà nước, giáo dục và phúc lợi xã hội nói chung.” Khi những đối tượng nghiên cứu đã cứng tuổi hơn, Terman công bố những thông tin cập nhật về quá trình của họ, ghi chép những thành công phi thường. Terman đã viết đầy bàng hoàng: “Gần như tất cả các bài báo tường thuật bất kỳ sự kiện thi đấu hoặc hoạt động nào ở California có trẻ em tham gia đều xuất hiện các thành viên trong nhóm tài năng của chúng tôi trong danh sách các quán quân....” Ông lấy các mẫu bài viết của một vài đối tượng có đầu óc nghệ sĩ nhất và đưa cho các nhà phê bình văn chương đem ra so sánh với những chấp bút đầu tiên của các tác gia nổi tiếng. Họ không thể tìm ra điều gì khác biệt. Ông nói: Tất cả các dấu hiệu đều chỉ ra một nhóm người với tiềm năng trở thành “tượng đài anh hùng.” Terman tin tưởng rằng Nhóm Mối của ông đã được định đoạt trở thành tầng lớp tinh hoa tương lai của nước Mỹ.
Ngày nay, rất nhiều ý tưởng của Terman vẫn duy trì vai trò trọng tâm trong cách chúng ta suy nghĩ về thành công. Các trường học có riêng chương trình dành cho “thần đồng.” Những trường đại học danh giá thường đòi hỏi sinh viên phải trải qua bài kiểm tra trí tuệ (ví như bài thi SAT) trong kỳ tuyển sinh. Những tập đoàn công nghệ cao như Google hay Microsoft còn cẩn thận đo lường các năng lực có liên quan đến nhận thức của nhân viên tương lai xuất phát từ niềm tin tương tự: họ bị thuyết phục rằng những người ở đỉnh cao nhất của thang IQ sẽ có tiềm năng lớn nhất. (Hãng Microsoft vốn nức tiếng với truyền thống các ứng viên bị hỏi một lô lốc câu hỏi vốn thiết kế riêng nhằm kiểm tra trí thông minh của họ, bao gồm cả những câu kinh điển kiểu như: “Tại sao nắp cống lại tròn?” Nếu bạn không biết câu trả lời là gì, bạn không đủ thông minh để làm việc ở Microsoft đâu ).
Nếu tôi có trong tay quyền năng thần diệu và gợi ý sẽ tăng IQ của bạn lên 30 điểm, bạn sẽ nói Đồng ý − phải không nào? Bạn cho là điều đó sẽ giúp bạn tiến xa hơn trong thế giới này. Và khi chúng ta nghe về ai đó như Chris Langan, phản ứng trong tiềm thức của chúng ta cũng giống phản ứng trong tiềm thức của Terman khi ông gặp Henry Cowell gần một thế kỉ trước đây. Chúng ta thấy kính sợ. Các thiên tài chính là những kẻ xuất chúng tột cùng. Ắt hẳn chẳng có thứ gì có thể kìm chân những người như vậy.
Nhưng có thật thế không?
Tính đến lúc này trong cuốn Những kẻ xuất chúng, chúng ta đã thấy rằng thành công phi thường dính dáng đến tài năng ít hơn là cơ hội. Trong chương này, tôi muốn thử đào sâu hơn vào giải thích tại sao lại như vậy thông qua việc quan sát một mẫu hình kẻ xuất chúng trong dạng hình thuần khiết và tinh túy nhất của nó − thiên tài. Biết bao lâu nay, chúng ta vẫn hành xử theo lối những người như Terman gợi ý khi đụng tới vấn đề thấu hiểu về tầm quan trọng của mức trí tuệ siêu việt. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, Terman đã mắc sai lầm. Ông đã sai lầm về Nhóm Mối của mình, và nếu như ông gặp phải trường hợp chàng trai trẻ Chris Langan tự tìm hiểu về Nguyên lý Toán học hồi mới mười sáu tuổi, ông cũng sẽ sai lầm về Langan với nguyên do tương tự. Terman không hiểu một kẻ xuất chúng thực sự là như thế nào, và đó cũng là sai lầm mà chúng ta vẫn tiếp tục mắc phải tới tận ngày nay.
3.
Một trong những bài trắc nghiệm trí tuệ được sử dụng rộng rãi nhất có tên là Raven's Progressive Matrices (Tạm dịch: Ma trận tăng tiến Raven). Nó không đòi hỏi kỹ năng ngôn ngữ hoặc dạng đặc thù nào của những kiến thức đã tích lũy được. Nó là một thứ thước đo các kỹ năng suy luận trừu tượng. Một bài trắc nghiệm Raven điển hình bao gồm bốn mươi tám câu, mỗi câu lại khó hơn câu trước đó, và IQ được tính toán dựa trên số câu trả lời chính xác.
Dưới đây là một câu hỏi, điển hình cho loại được sử dụng trong bài trắc nghiệm Raven.
Bạn nhận ra không? Tôi đoán là hầu hết các bạn đều làm được. Câu trả lời đúng là C. Nhưng giờ thì hãy thử câu này. Nó là một dạng câu hỏi thực sự khó nhằn xuất hiện ở phần cuối bài trắc nghiệm Raven.
Câu trả lời đúng là A. Tôi phải thú thực là tôi cũng không tài nào phát hiện ra, và tôi đoán là hầu hết các bạn cũng không làm được. Dù sao thì, gần như chắc chắn Chris Langan làm tốt. Khi chúng ta nói những người như Langan thật là thông minh, chúng ta có ý rằng họ sở hữu thứ trí não có thể giải được những câu đố kiểu như câu hỏi cuối cùng vừa rồi.
Bao nhiêu năm qua, một khối lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện với nỗ lực xác định làm thế nào sự thể hiện của người nào đó trong một trắc nghiệm IQ kiểu như bài test Raven lại có thể chuyển thành thành công trong đời thực. Những người nằm ở mức đáy − với IQ dưới 70 − bị coi là thiểu năng trí tuệ. Mức điểm 100 là bình thường; chắc chắn bạn cần phải đạt trên
mức đó để có thể xử trí với chương trình đại học. Để lọt vào và thành công với chương trình sau đại học với mức độ cạnh tranh vừa phải đồng nghĩa với việc bạn chắc chắn cần phải đạt IQ 115 là ít nhất. Nói chung, càng đạt mức cao, bạn sẽ càng được thụ hưởng giáo dục cao hơn, bạn có khả năng kiếm được nhiều tiền hơn, và − dù tin hay không − bạn cũng sẽ trường thọ hơn.
Nhưng có một cái bẫy ở đây. Mối quan hệ giữa thành công và IQ chỉ có tác dụng đến một ngưỡng nào đó mà thôi. Khi người nào đó đã đạt mức IQ vào khoảng 120 điểm, thì có thêm vài điểm IQ phụ trội nữa dường như cũng chẳng chuyển hóa thành bất cứ ưu thế nào đo đếm được trong cuộc sống thực tế.
“Việc ai đó có chỉ số thông minh là 170 điểm có khả năng tư duy tốt hơn người chỉ có IQ 70 đã được minh chứng đầy đủ,” nhà tâm lý học người Anh Liam Hudson đã viết, “và điều này vẫn chính xác khi mức độ so sánh gần hơn − giữa hai mức IQ 100 và 130. Nhưng mối liên quan này dường như gẫy đổ khi ai đó so sánh hai người đều có mức IQ tương đối cao... Một nhà khoa học với mức IQ 130 có nhiều khả năng giành giải Nobel tương đương một người có IQ là 180.”
Điều Hudson nói chính là IQ có rất nhiều điểm giống với môn bóng rổ. Liệu một người có chiều cao khoảng một mét sáu tám có cơ hội nào thực tế để chơi bóng rổ nhà nghề không? Không chắc. Bạn cần phải cao ít nhất là mét tám hoặc mét tám ba để chơi bóng rổ ở trình độ đó, và, tất cả mọi thứ đều rất sòng phẳng, chắc chắn là một mét tám sáu hay hơn là một mét tám ba, và một mét tám chín lại tốt hơn một mét tám sáu. Nhưng vượt qua một điểm nhất định nào đó, chiều cao không còn đóng vai trò quan trọng đến thế. Một tuyển thủ với chiều cao hơn hai mét lại không chắc đã giỏi hơn ai đó thấp hơn anh ta năm phân. (Michael Jordan − tuyển thủ bóng rổ vĩ đại nhất trong lịch sử cũng chỉ cao có một mét chín tám mà thôi.) Một cầu thủ bóng rổ chỉ cần đủ cao − và điều đó cũng chính xác với trí thông minh. Trí thông minh
có một cái ngưỡng.
Phần giới thiệu của chương trình Đấu trường 100 đã chỉ ra rằng Einstein có IQ là 150 điểm còn Langan là 195. IQ của Langan cao hơn 30% so với Einstein. Nhưng điều đó không có nghĩa là Langan thông minh hơn Einstein 30%. Thật nực cười. Tất cả những gì chúng ta có thể nói là khi phải tư duy về những lĩnh vực thực sự phức tạp như môn vật lý, thì rõ ràng cả hai người đều đủ thông minh.
Tôi nhận ra là: ý tưởng cho rằng IQ có một ngưỡng nhất định đi ngược lại trực giác của chúng ta. Ví như, chúng ta vẫn nghĩ là những người giành giải Nobel trong các môn khoa học sẽ phải sở hữu mức IQ cao nhất có thể; rằng họ ắt hẳn là kiểu người đạt điểm số hoàn hảo trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học, giành được tất cả các loại học bổng sẵn có, và chắc phải có bảng thành tích siêu sao ở bậc trung học tới mức họ được các trường đại học hàng đầu trong nước bứng lên bằng được.
Nhưng hãy xem hai mươi lăm người Mỹ giành được giải Nobel Y Dược gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2007 – tốt nghiệp từ những trường đại học nào
Trường Antioch
Đại học Brown
Trường Berkeley
Đại học Washington
Đại học Columbia
Học viện Công nghệ Case
Học viện Công nghệ Massachusettes
Caltech
Đại học Harvard
Trường Hamilton
Đại học Columbia
Đại học Bắc Carolina Đại học DePauw
Đại học Pennsylvania Đại học Minnesota
Đại học Notre Dame Đại học Johns Hopkins Đại học Yale
Trường Union, Kentucky Đại học Illinois
Đại học Texas
Holy Cross
Trường Amherst
Trường Gettysburg Trường Hunter
Không ai nói rằng bản danh sách này tiêu biểu cho những lựa chọn trường đại học, cao đẳng của những học sinh trung học giỏi nhất nước Mỹ. Yale, Columbia và MIT đều có trong danh sách, nhưng DePauw, Holy Cross và trường Gettysburg cũng góp mặt. Đây chỉ là danh sách những trường tốt mà thôi.
Vẫn cùng mạch đó, dưới đây là trường đại học của hai mươi lăm người Mỹ giành giải Nobel Hóa học gần
đây nhất
Đại học New York
Đại học New York
Đại học Stanford
Đại học Dayton, Ohio
Đại học Rollins, Florida
MIT
Đại học Grinnell
MIT
Đại học McGill
Học viện công nghệ Georgia
Đại học Ohio Wesleyan
Đại học Rice
Trường Hope
Đại học Brigham Young
Đại học Toronto
Đại học Nebraska
Trường Dartmouth
Đại học Harvard
Đại học Berea
Đại học Augsburg
Đại học Masachusettes
Đại học Washington State
Đại học Florida
Đại học California, Riverside
Đại học Harvard
Để trở thành một người đoạt giải Nobel, đương nhiên, bạn buộc phải đủ thông minh để bước chân vào một trường đại học chí ít cũng phải ổn như Notre Dame hay Đại học Illinois. Vậy đấy.
Đây phải chăng là một ý kiến cực đoan? Giả sử đứa con gái bé bỏng của bạn phát hiện ra rằng cháu đã được nhận vào hai trường − Đại học Harvard và Đại học Georgetown, ở Washington DC. Bạn muốn con bé vào đâu? Tôi đoán là Harvard, bởi Harvard là trường “tốt hơn”. Học sinh của trường đạt điểm cao hơn 10-15% trong kỳ thi tuyển sinh.
Nhưng với những gì chúng ta được biết về trí thông minh, ý tưởng rằng các trường cũng có thể được phân hạng, như các tay đua trên đường chạy − chẳng có ý nghĩa gì hết. Sinh viên của trường Georgetown có thể không thông minh ở mức áp đảo như sinh viên của Harvard. Nhưng rõ ràng là tất cả các em đều đủ thông minh, và những người thắng giải Nobel tương lai đến từ những trường như Georgetown hệt như từ trường Harvard thôi.
Nhà tâm lý học Barry Schwartz gần đây đã đề xuất rằng những trường ưu tú nên từ bỏ quy trình tuyển sinh phức tạp của mình đi và chỉ đơn giản tổ chức một cuộc xổ số cho tất cả những ai đạt trên mức ngưỡng. “Sắp xếp mọi người vào hai nhóm,” Schwartz nói. “Đủ giỏi và không đủ giỏi. Những người đủ giỏi đội chung một mũ. Những ai không đủ giỏi thì bị từ chối.” Schwartz thừa nhận rằng ý tưởng của ông chắc chắn không được chấp nhận. Nhưng ông hoàn toàn đúng. Như Hudson viết (hãy nhớ rằng Hudson đã thực hiện nghiên cứu của mình ở những trường nội trú dành cho nam sinh hàng đầu của Anh quốc hồi những năm 1950 và 1960), “Biết về IQ của một cậu bé cũng chẳng giúp ích gì mấy nếu bạn phải đối mặt với cả một nhóm những cậu bé thông minh.”
Để tôi đưa cho bạn một ví dụ về hiệu ứng của ngưỡng đối với hành động. Trường luật thuộc Đại học Michigan − giống như nhiều cơ sở đào tạo danh tiếng khác của Hoa Kỳ, đã sử dụng chính sách hành động tích cực đối với những thí sinh xuất thân từ hoàn cảnh thiệt thòi. Khoảng 10% tổng số sinh viên trường Michigan tuyển vào mỗi mùa thu là thành viên của các sắc tộc thiểu số, và nếu trường luật không nới lỏng rõ rệt những yêu cầu tuyển sinh đối với các sinh viên ấy − chấp nhận họ với thành tích bậc đại học cũng như điểm số của các bài kiểm tra tiêu chuẩn thấp hơn những người khác − thì tỉ lệ ước tính chỉ đạt dưới 3% mà thôi. Hơn nữa, nếu chúng ta so sánh thành tích học tập mà các sinh viên thuộc nhóm sắc tộc thiểu số và nhóm bình thường đạt được trong trường luật, chúng ta thấy rằng các sinh viên da trắng nhỉnh hơn. Chẳng có gì ngạc nhiên: nếu một nhóm nào đó có được thành tích bậc