🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những gian thần trong triều đại Trung Hoa Ebooks Nhóm Zalo Truyện gian thần trong các triều đại Trung Hoa HOÀNG BẮC biên dịch NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN HÀ NỘI - 1999 43 Lò Đúc Hà Nội Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Created by nambun Mục lục LỜI GIỚI THIỆU. 2 LÃ BẤT VI 4 LƯU TỴ. 8 ĐIỀN PHẦN. 18 ĐẶNG THÔNG. 23 THẠCH HIỂN. 25 ĐỔNG HIỀN. 28 LƯƠNG KÝ. 33 ĐỔNG TRÁC. 39 ĐÁI PHÁP HƯNG. 45 NGUYỄN ĐIỀN PHU. 48 ĐÁI MINH BẢO. 52 TRIỆU TU. 53 NGUYÊN XOA. 55 NHỰ HẠO. 59 LÝ HỒNG CHI 61 VŨ VĂN HỘ. 64 YẾN VINH. 69 BÙI UẨN. 71 DƯƠNG HUYỀN CẢM.. 74 VƯƠNG THẾ SUNG. 77 VŨ VĂN HOÁ CẬP. 81 HỨA KÍNH TÔNG. 85 LÝ NGHĨA PHỦ. 88 VƯƠNG MAO TRỌNG. 92 LÝ LÂM PHỦ. 95 CÁT ÔN. 100 DƯƠNG THẬN QUAN. 102 VƯƠNG HỒNG. 104 DƯƠNG QUỐC TRUNG. 107 AN LỤC SƠN. 112 SÁT KINH. 117 GIA LUẬT ẤT TÂN. 122 TIÊU DỤ. 125 TẦN CỐI 129 TRƯƠNG TRỌNG KHA. 139 GIẢ TỰ ĐẠO. 142 A HƠ MA. 146 HỒ DUY DUNG. 152 MÃ SĨ ANH - NGUYỄN ĐẠI THÀNH. 155 NGAO BÁI 162 PHÚC KHANG AN. 164 MỤC CHƯƠNG A. 169 YLIPU. 171 KỲ THIỆN. 173 KỲ ANH. 177 LỜI GIỚI THIỆU “Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt, bạch thiết vô cô trù nịnh thần”. Đó là câu thơ của người xưa vịnh mộ Nhạc Phi ở Tây Hồ Hàng Châu. Anh hùng dân tộc Nhạc Phi chói lọi ngàn thu như núi Ngô xanh mãi, như bích thuỷ chảy mãi, thế mà lại dùng gang để đúc tượng vợ chồng Tần Cối để vĩnh viễn quì trước phần mộ của Nhạc Phi, đời đời kiếp kiếp bị loài người phỉ nhổ. Trong lịch sử Trung Quốc có hàng ngàn vạn trung thần, gian thần mà Tần Cối là một đại danh từ Hán gian thì rõ ràng hắn là tiêu biểu của gian thần. Hơn 800 năm nay, những bãi nước bọt của nhân dân nhổ vào hắn, đó là búa dìu nghiêm khắc. Quyển sách này giới thiệu mấy chục tên gian thần, tuy mới chỉ là “Một nhúm nhỏ “. Song chúng cũng đã từng đem lại cho nhân dân cả nước những tai hoạ trầm trọng. Mặc dù sóng nước Trường Giang không ngừng chảy xiết, sóng Hoàng Hà dữ dội đã phủ bằng những vết thương lịch sử từ lâu, song là con cháu của Viêm Hoàng, chẳng lẽ vết sẹo lành là quên đau hay sao? Từ mặt trái, gian thần cũng để lại cho thế nhân những bài học kinh nghiệm đáng được nghiêm túc tổng kết. Gian thần trên sân khấu thì chỉ bôi mặt cho trắng xoá, hễ ra sân khấu thì dù có là trẻ con cũng nhận ra ngay. Nhưng là một nhân vật lịch sử thật sự thì không một tên gian thần nào lại giản đơn đến nỗi người ta nhìn một cái là nhận ra ngay. Hoàn toàn ngược lại, đại gian đại ác thì bề ngoài lại đại trung đại hiếu. Ta thử lấy đời nhà Tống mà xem, như bọn Sát Kinh (1047 - 1126), Tần Cối (1090 - 1155) chẳng hạn, có tên nào là không luôn mồm nói cái gọi là “Thi Vân Tử viết “, “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ“. Bọn chúng rất thích được nghe những lời ca tụng, được tán dương là tấm gương Chu Lễ, là hoá thân của Trung, Hiếu. Khi Sát Kinh tổ chức sinh nhật, Chu Bang Nhan (1056 - 1121) đã tặng bài thơ, trong đó có hai câu: “Hoa hành vũ cống sơn xuyên nội, nhân tại Chu Công lễ lạc trung”. Sát Kinh liền reo lên: “Đại hỉ, tức dĩ bí thư thiếu giám Triệu, hựu phúc tiến chi thượng điện“ (Vương Minh Thanh: “Huy chủ dư thoại“ Quyển 1). Chính ra Chu Bang Nhan là người rất không hài lòng vì “Hơn 30 năm chìm nổi ở huyện châu“, từ đó bước vào mây xanh. Lại như Trương Bang Xương (? - 1127) một tên Hán gian cuối đời Bắc Tống, có một câu chuyện rất nực cười là ông ta đã từng giữ các chức Lễ bộ trì lang, Thiếu tế, Thái tế v.v.. là một con người luôn mồm nói đến chữ Lễ. Cũng chính Ông, năm 1126 quân Kim vây đánh Biện Kinh (nay là Phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam), ông ta đang giữ chức Cát địa sứ ở Hà Bắc, đã ra sức chủ động hoà giải với quân Kim. Đến năm sau quân Kim lại đánh chiếm thành Đông Kinh, ông ta vội vàng thành lập ngay chính quyền bù nhìn, xưng là “Sở Đế“. Điều đáng nực cười là bọn trộm cắp lại suy tôn, tâng bốc ông là “khi giữ chức vụ thì trung thành lương thiện, ở nhà thì hiếu thảo thuận hoà, khi thi hành công vụ thì rất qui củ “. (Vương Minh Thanh “Huy chủ hậu lục“ Quyển 4). Vậy mà Trương Bang Xương nghe xong lại thấy ngọt như mía lùi. Hay như Tần Cối đi hỏi một người: “Bản mỗ có thể so sánh với cổ nhân nào?“ Người được hỏi trả lời rằng ông ta vượt cả danh tướng Quách Tử Nghi đời nhà Đường, nhưng không bằng Trương Lương, một công thần khai quốc đời nhà Hán , bởi vì “Tử Phòng ra đi làm nên sự nghiệp, Thái sư ra đi chẳng được việc gì ”(Lục Du: “Lão học am bút ký”. Quyển 2) cũng có nghĩa là Tần Cối chỉ thua Trương Lương duy nhất có một điểm là không thể vứt bỏ công danh hiển hách để làm một hạt thông bình thường, làm một lãng tử giang hồ. Tần Cối nghe xong, điềm nhiên nói: “Được”. Con người như vậy mà “bỗng nhiên được tiến cử lên làm chấp chính”. Rõ ràng là, từ xưa bọn gian thần đã rất giỏi nguỵ trang, tất cả chỉ là “Treo đầu dê bán thịt chó”. Tin rằng bạn đọc xem xong cuốn sách này sẽ giúp ích phần nào vào việc nhận rõ bộ mặt thật của bọn gian thần, nâng cao năng lực quan sát lịch sử. Bọn gian thần, hoặc vơ vét, cướp bóc bằng sưu cao thuế nặng, hoặc giết tróc những người vô tội, hoặc bán nước cầu vinh, bản chất thật là tàn nhẫn, tâm địa thật đáng chém. Song bọn chúng không phải là người có ba đầu sáu tay, sở dĩ chúng có sức phá hoại quốc gia, xã hội cực kỳ lớn lao như vậy cũng là do điều kiện lịch sử quyết định. Điều quan trọng nhất trong đó là: Hầu như đằng sau mỗi một tên gian thần đều có một tên hôn quân hoặc bạo chúa, tối thiểu cũng là một tên hoàng đế hồ đồ, một tên hoàng đế khiếp nhược. Không có sự hồ đồ hôn mê vào cuối thời kỳ chấp chính của Đường Hoằng Tông (685 - 762), của Dương Quốc Trung (? - 756), của An Lục Sơn (? - 757) thì làm sao có những tên gian thần làm cho quốc gia suy tàn, bá tính lâm nạn? Không có sự ham muốn đến cực độ, xây dựng cung điện đồ xộ, mở mang viên lâm to lớn, vơ vét kỳ hoa quái thạch ở Giang Nam của Tống Huy Tông thì làm sao có được những tên gian thần như Sát Kinh, Đồng Quán (? - 1126), Chu Lệ (? - 1126), Cao Cỗn (? - 1126) để đi đến đâu cũng gây ra tội lỗi, lưu truyền nọc độc trong thiên hạ như vậy? Tên Chu Lệ thực ra chỉ là một tên nhà buôn bình thường ở Tô Châu, Cao Cầu chỉ là một tên sai vặt của Tô Đông Pha. Tên Chu Lệ vì thu thập được những cây San hô ở Đông Nam, tên Cao Cầu vì đá bóng giỏi nên được Huy Tông yêu thích nên mới làm cho bọn chúng nắm được chính quyền. Tại sao cuộc “Hoà đàm“ giữa Tần Cối và quân Kim lại thành công? Âm mưu hãm hại Nhạc Phi của hắn tại sao lại chót lọt? Kỳ thực, người chủ mưu thực sự, tên chủ ở hậu trường là Nam Tống Cao Tông Triệu Cấu (1107 - 1187). Trong lòng Triệu Cấu sẵn có mốt sự tính toán, nếu đánh bại được quân Kim thì hai vua Huy, Khâm sẽ trở về Nam khôi phục ngai vàng, hắn sẽ mất mất cái ghế Hoàng đế. Nhà danh hoạ lớn, thi sĩ Văn Chinh Minh (1470 - 1559) sống vào giữa đời nhà Minh có viết một bài Trường đoản cú tên là “Mãn giang hồng “bình luận về việc này, 4 câu cuối cùng như sau : “Thiên tải hưu đàm nam độ thố, Đương thời chỉ phạ trung nguyên phục, Tiếu khu khu nhất Cối xích hà năng, Phùng kỳ dục!“ Thật là một mũi kim toé máu, làm cho người ta phải tỉnh ngộ. Mặc dù như vậy, mối quan hệ gữa gian thần và một số hoàng đế quả là “Cắt không đứt, trong còn loạn“. Lỗ Tấn tiên sinh đã từng vạch ra rằng, Hoàng đế Khang Hi (1654 - 1722) vừa không thích trong triều đình có gian thần, cũng không thích trong triều đình có trung thần. Tại sao vậy? Tại vì, quả thật đã có gian thần, trung thần thì chứng tỏ Ông ta không phải là một minh quân, mà là một hôn quân hoặc là một kẻ hồ đồ. Cái mẹo của Khang Hi không thể coi là không tinh tế. Song trong lịch sử Trung Quốc, những hoàng đế kiệt xuẩt như Khang Hi, chẳng qua cũng chỉ có vài ba người mà thôi. Con trai của ông là vua Càn Long (1711 - 1799) cũng đã từng học tấm gương của ông, cho dù cuối đời có tự xưng là “Thập toàn lão nhân“, kỳ thực so với người cha thì thật kém xa. Gian thần Hoà Thân (? - 1799) chẳng phải do được sự vỗ về của ông mà vây cánh ngày càng đồ sộ, chiêu quyền nạp hối, tham ô rất nhiều đó sao? Mãi cho đến sau khi Càn Long chết thì núi băng mới sập đổ. Rơi mất ô dù, sau này Hoà Thân mới bị Hoàng đế kế vị là Gia Khánh (1760 - 1820) đánh đổ, cho được tự sát. Khi tịch thu gia sản, người ta mới có một câu bình luận là: “Hoà Thân bị đánh đổ, vua Gia Khánh được ăn no! “. Lịch sử là một tấm gương. Giá trị của cuốn sách này là ở chỗ, nó cung cấp cho chúng ta một tấm kính chiếu yêu, để cho bộ mặt giả dối, tâm địa đen tối, gian mưu quỉ kế của bọn gian thần lộ ra nguyên hình. Không còn nghi ngờ gì nữa, điều này thật có ích cho bạn đọc. Xuân Minh Ngày 23 tháng 6 năm 1992 Vương Xuân Du LÃ BẤT VI Lời mở đầu: Lã Bất Vi, người Bộc Dương, là một phần tử đầu cơ chính trị nổi tiếng cuối thời kỳ Chiến quốc của Trung Quốc. Những năm đầu, hoạt động chủ yếu của Lã Bất Vi là buôn bán, ông đi các địa phương để buôn chuyến, để mua rẻ bán đắt, để kiếm lời, trở thành một nhà buôn giàu có nhất thời đó. Mặc dù trong nhà Lã Bất Vi đã tích lũy được hàng vạn lạng vàng, nhưng ông vẫn không thoả mãn với hiện trạng, từng giờ từng phút nghĩ cách theo đuổi quyền thế cao hơn để thu được càng nhiều của cải hơn. Do đó trong thời gian buôn bán ở Hàm Đan, Lã Bất Vi đã làm thân với Tử Sở là con tin của nước Tần. Lúc đó Tử Sở làm con tin ở nước Triệu. Anh lâm vào hoàn cảnh rất ác liệt, nên rất bất bình. Lã Bất Vi đã suy nghĩ rất kỹ càng, xác định Tử Sở là một món hàng quí có thể lợi dụng được. Thế là ông không tiếc tiền của, ông đã đến gặp Hoa Dương phu nhân của nước Tần và thuyết phục bà làm cho Tử Sở được Tần An Quốc quân nhận làm con trưởng. Sau khi Tử Sở kế thừa Tần Quốc vương lên ngôi, Lã Bất Vi đã được trọng dụng. Tử Sở đã Cập cho Lã Bất Vi một trang trại 10 vạn hộ ở Lạc Dương tỉnh Hà Nam. Ngoài ra còn bổ nhiệm ông làm Thừa tướng nước Tần. Như vậy, Lã Bất Vi từ một tên lái buôn tầm thường nhảy một bước trở thành quyền thần nổi tiếng của nước Tần, thế lực cực kỳ mạnh mẽ. Trước khi Tần vương Doanh Chính tự mình chấp chính, Lã Bất Vi đã được phong làm Tướng quốc, xưng hiệu là “Trọng Phụ” tức là cha nuôi của Tần Vương. Thời kỳ này Lã Bất Vi càng củng cố ảnh hưởng quan trọng đối với nền chính trị của nước Tần. Lã Bất Vi không chỉ là một thương nhân, một nhà chính trị, mà đối với sự phát triển tư tưởng học thuật cổ đại của Trung Quốc cũng có những tác dụng nhất định. Ông bắt chước những người như Tín Lăng Quân, Bình Nguyên Quân, chiêu mộ các môn khách danh sĩ, trước thuật lập thuyết, biên soạn thành bộ sách “Lã Thị Xuân Thu” (cũng gọi là “Lã Lãm”). Việc này đối với thời kỳ đó rõ ràng là có tác dụng tiến bộ. Song bản chất tham tàn của con buôn đã quyết định, Lã Bất Vi không thể hiến thân cho hoạt động cải cách chính trị cuối thời kỳ Chiến quốc được. Ông đã cùng với Lao Ái, câu kết với Thái hậu Triệu Thị, mẹ đẻ của Tần vương Doanh Chính, là người hoang dâm vô độ, kết quả dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng. Năm 237 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng vô cùng phẫn nộ đối với Lã Bất Vi, Lã Bất Vi sợ mang tội nên đã tự tử. *** Lã Bất Vi là một nhà buôn lớn ở vùng Dương Trạc. Ông đi buôn chuyến ở rất nhiều địa phương. Ông mua rẻ bán đắt, do đó mà ông phất lên thành giàu có. Gia sản của ông có tới ngàn vạn lạng vàng. Năm Tần Chiêu Vương thứ 40 (năm 267 trước công nguyên), Thái tử qua đời. Đến năm thứ 42 (năm 265 trước công nguyên) Tần Chiêu Vương đưa người con thứ hai của An Quốc Quân là Doanh Trụ lên làm Thái tử nước Tần. An Quốc Quân có cả thảy hơn 20 người con trai. Hồi đó An Quốc Quân có một mỹ phi rất được Ngài sùng ái nên được Ngài đưa lên làm Chính phu nhân, được gọi là Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân không có con trai. An Quốc Quân có một người con trai trong hàng anh chị em tên là Tử Sở. Mẹ Tử Sở tên là Hạ Phi. Bà không được An Quốc Quân yêu mến. Là con tin của Tần quốc, Tử Sở bị đưa đến thành Hàm Đan là thủ đô của nước Triệu. Nước Tần đã nhiều lần đánh phá nước Triệu, do đó các quân thần nước Triệu đối xử với Tử Sở không lấy gì làm tử tế cho lắm. Tử Sở là một đứa con vô cùng ranh mãnh của An Quốc Quân nước Tần đi làm con tin ở nước chư hầu. Tiền nong xe ngựa không đủ dùng, cuộc sống thiếu thốn, Tử Sở rất không hài lòng. Hồi đó Lã Bất Vi đang buôn bán ở Hàm Đan, đô thành của nước Triệu, thấy cảnh Tử Sở như vậy thì rất thông cảm với cảnh ngộ của anh. Lã Bất Vi cho rằng “Đây là một món bở, có thể lợi dụng được ”. Thế là Lã Bất Vi chủ động đến thăm Tử Sở, Ông thuyết phục Tử Sở rằng: “Tôi có thể làm cho anh có nhà cao cửa rộng!” Tử Sở cười, nói: “Trước mắt hãy xây nhà cao cửa rộng cho chính bản thân Ông đi, rồi sau đó hãy xây nhà cho tôi!” Lã Bất Vi trả lời Tử Sở: “Anh không biết cái điều sâu xa kỳ diệu trong đó đấy thôi. Cửa nhà anh có mở rộng thì cửa nhà tôi mới mở rộng được”. Tử Sở hiểu rõ Lã Bất Vi muốn nói gì nên đã mời Lã Bất Vi ngồi rồi hàn huyên tâm sự với ông. Lã Bất Vi nói: “Tần Chiêu Vương tuổi đã cao rồi, An Quốc Quân nhất định được lập làm Thái tử.Tôi nghe nói An Quốc Quân rất sùng ái Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân không có con trai. Người có thể xác lập một người trong dòng họ làm con trưởng của An Quốc Quân thì chỉ có thể là Hoa Dương phu nhân. Hiện nay, anh có hơn 20 anh chị em. Anh là một trong những người đó, sao chẳng được ưu ái gì mà chỉ là một con tin sống lâu dài ở nước chư hầu. Nếu Tần Chiêu Vương qua đời thì An Quốc Quân được phong làm Tần Vương, lúc đó thì anh chẳng có hy vọng gì để cạnh tranh ngôi Thái tử với người anh của anh cũng như với các anh em mà lâu nay vẫn được gần gũi phụng thờ phụ thân của anh “. Tử Sở nói: “Rất đúng, nhưng tôi có cách gì để đối phó được với họ? “Lã Bất Vi trả lời rằng: “Anh rất nghèo, lại cư trú tại nước Triệu xa xôi, chẳng có gì để biếu xén các bậc đàn anh, để mời khách khứa bạn bè. Tôi tuy cũng nghèo, song tôi xin tự nguyện bỏ ra cho anh 1.000 lạng vàng để thay mặt anh đi về phía Tây nước Tần để thuyết phục, để phụng dưỡng An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân, làm sao để các vị đó đưa anh lên làm người thừa kế chính thức”. Tử Sở nghe nói vậy thì cúi đầu lậy tạ và nói: “Nếu thật sự thực hiện được kế sách của Ngài, thì sau khi tôi được chấp chính, tôi nhất định sẽ chia nước Tần để Ngài cùng hưởng.” Lã Bất Vi liền lấy 500 lạng vàng tặng cho Tử Sở để làm phí dụng tiếp đãi khách khứa bạn bè. Ông cũng bỏ ra 500 lạng vàng để mua những vật quí báu, hiếm có và tự mình mang số châu báu quí hiếm ấy đi về phía Tây đến nước Tần để tiến hành các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục. Trước hết Lã Bất Vi xin được gặp bà chị của Hoa Dương phu nhân, nhờ chuyển tặng Hoa Dương phu nhân toàn bộ số châu báu mà ông mang theo. Sau đó Lã Bất Vi lợi dụng thời cơ có mặt Hoa Dương phu nhân để tâng bốc Tử Sở, nào là Tử Sở là người hiền hậu, thông minh, linh lợi như thế nào, giao du với các tân khách ở nước chư hầu tế nhị ra sao, hầu như đã quen thân tất cả những người tai to mặt lớn, những người nổi tiếng toàn nước Triệu. Nào là Tử Sở nói: “Cả đời tôi sống nhờ vào phu nhân, ngày đêm rơi lệ vì nhớ đến Thái tử và Hoa Dương phu nhân”. Hoa Dương phu nhân nghe nói vậy thì rất phấn khởi. Lã Bất Vi lại xúi bẩy bà chị của Hoa Dương phu nhân, nói bà nên tìm mọi cách khuyên giải cho Hoa Dương phu nhân rằng: “Chị đã từng nghe nói, người nào chỉ dựa vào nhan sắc của mình để được sùng ái, phụng dưỡng thì khi đã già yếu, nhan sắc đã phai tàn thì sự âu yếm cũng sẽ giảm đi. Hiện nay phu nhân đang phụng dưỡng Thái tử An Quốc Quân, được Ngài yêu thương, chiều chuộng, song phu nhân lại không sinh được cho Ngài một người con trai. Nếu trong thời gian này phu nhân không sớm nhận lấy một đứa con nào đó thông minh, hiếu thuận trong số hàng chục đứa con của An Quốc Quân, nhận nó làm con đẻ thì phu nhân sẽ ở vào tình thế rất nguy hiểm. Bởi vì khi phu quân còn sống mà phu nhân có được đứa con chính thức thì phu nhân càng được tôn quí, và sau khi phu quân băng hà phu nhân sẽ lập ngay con trai mình lên kế vị ngôi Vương. Như vậy quyền thế của phu nhân trước sau không bao giờ bị suy giảm. đó chính là cái mà người ta gọi là thượng sách, chỉ dựa vào một câu nói mà có thể có được cái lợi cho vạn thế. Con người ta nếu không biết xác lập địa vị của mình trong lúc còn vinh hoa phú quí thì khi nhan sác đã phai tàn hoặc sau khi không được Quân vương quí trọng yêu chiều nữa thì dù có nói gì đi nữa cũng chẳng có ích gì. Ngày nay Tử Sở là một người thông minh, hiền lành, lịch sự. Anh ta cũng biết mình là một trong những người con của An Quốc Quân, nếu theo thứ bậc thì không thể nào phong làm con trưởng được. Hơn nữa Hạ Phi, mẹ đẻ của Tử Sở lại không được An Quốc Quân yêu mến, cho nên nó chỉ có thể nương tựa vào phu nhân mà thôi. Trong lúc này nếu phu nhân đề bạt được Tử Sở, cho anh ta trở thành con trưởng của An Quốc Quân thì suốt đời phu nhân vẫn được nước Tần trọng vọng”. Hoa Dương phu nhân thấy lời lẽ của Lã Bất Vi rất có lý, cho nên nhân lúc Thái tử nhàn rỗi, bà đã chuyện trò với An Quốc Quân một cách rất dịu dàng về cậu con trai Tử Sở đang là con tin ở nước Triệu. Bà kể rằng Tử Sở hết sức thông minh lại rất hiền thảo, rằng những người có qua lại nước Triệu đều rất ca tụng Tử Sở. Tiếp đó Hoa Dương phu nhân lại khóc thút thít mà nói rằng: “Thiếp có may mắn là được ở hậu cung, nhưng lại bất hạnh là không sinh được cho Vương một đứa con trai, mong rằng Quân vương hãy lập Tử Sở làm con trưởng. Như vậy thân phận thiếp mới có chỗ để nương nhờ”. An Quốc Quân đã chấp thuận lời yêu cầu của Hoa Dương phu nhân, rồi cùng Hoa Dương phu nhân khắc bản Ngọc Phù để làm bằng chứng, ước định phong cho Tử Sở làm con trưởng. An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân đã tặng cho Tử Sở rất nhiều tài vật quí giá và mời Lã Bất Vi làm thầy dạy cho Tử Sở. Do đó danh vọng của Tử Sở ở nước chư hầu càng thêm lớn lao. Lã Bất Vi tuyển trong đám vũ nữ ở Hàm Đan một số đồng hương rất xinh đẹp lại biết múa hát. Trong đám vũ nữ có một cô mỹ nữ đã có thai. Một lần Tử Sở ngồi uống rượu ở trong nhà Lã Bất Vi đã nhìn thấy cô mỹ nữ này, trong lòng rất ái mộ cô ta. Tử Sở đứng dạy bái thọ Lã Bất Vi, hy vọng Lã Bất Vi sẽ cho anh cho cô mỹ nữ. Thoạt đầu Lã Bất Vi rất bực mình, nhưng nghĩ lại ông đã vì Tử Sở mà bỏ ra một phần lớn gia tài, chi bằng dùng luôn thủ đoạn này để câu hàng hoá lạ. Thế là Lã Bất Vi đồng ý tặng luôn cô mỹ nữ này cho Tử Sở. Cô mỹ nữ Hàm Đan này đã giấu sự thật có chửa của mình, đến tháng thứ 12, cô ta đẻ ra Doanh Chính. Thế là Tử Sở phong cho cô ta là phu nhân. Năm Tần Chiêu Vương thứ 50 (năm 257 trước công nguyên), nước Tần phái Vương Ỷ bao vây tiến đánh Hàm Đan của nước Triệu. Tình thế rất nguy cập, nước Triệu định giết con tin của nước Tần là Tử Sở. Tử Sở thương lượng với Lã Bất Vi bàn mưu chạy trốn. Họ đã dùng 600 cân vàng để hối lộ cho bọn quan lại canh giữ cổng thành của nước Triệu, để họ chạy được ra ngoài. Tử Sở và một số người khác từ Hàm Đan chạy đến một doanh trại quân đội của nước Tần, và cuối cùng họ về được đến nước Tần. Nước Triệu định giết vợ và con trai của Tử Sở, nhưng vì vợ của Tử Sở là con gái của một gia đình giàu có của nước Triệu nên được che giấu đi. Chính vì vậy mà mẹ con còn sống sót. Năm Tần Chiêu Vương thứ 56 (năm 251 trước công nguyên), Tần Chiêu Vương ốm chết, Thái tử An Quốc Quân được kế vị làm Quốc Vương nước Tần. Đó là Tần Hiếu Văn Vương. Hoa Dương phu nhân được Tần Hiếu Văn Vương phong làm Vương Hậu, Tử Sở cũng được phong làm Thái tử. Lúc đó nước Triệu đã trả lại vợ và Doanh Chính, con trai của Tử Sở về nước Tần. Tần Vương Doanh Trụ trị vì được một năm thì qua đời. Triều thần đã truy tặng tôn hiệu là Hiếu Văn Vương. Thái tử Tử Sở thay Tần Hiếu Văn Vương lên làm Quân Vương mới. Đó là Tần Trang Tương Vương. Tử Sở phong bà mẹ nuôi Hoa Dương Vương Hậu lên làm Hoa Dương Thái hậu và cũng tôn Hạ Phi, mẹ đẻ của mình làm Hạ Thái hậu. Năm Trang Tương Vương thứ nhất (năm 249 trước công nguyên) Tần Vương bổ nhiệm Lã Bất Vi làm Thừa tướng nước Tần và phong ông làm Văn Tín hầu, cấp cho ông một trang trại 10 vạn hộ ở Lạc Dương, Hà Nam làm phong địa. Trang Tương Vương lên ngôi đến năm thứ 3 thì chết. Thái tử Doanh Chính kế vị làm Tần Vương, tôn sùng Lã Bất Vi làm Tướng quốc, xưng hiệu là “Trọng Phụ”. Tần vương Doanh Chính còn nhỏ tuổi, Thái hậu Triệu Thị thường xuyên tư thông với Lã Bất Vi. Nô bộc trong nhà Lã Bất Vi có tới cả vạn người. Hồi đó nước Ngụy có Tín Lăng Quân, nước Sở có Xuân Giáp Quân, nước Triệu có Bình Nguyên Quân, nước Tề có Mạnh Thường Quân, những người này rất thích hội hè đình đám, tiếp đãi khách khứa lu bù. Lã Bất Vi cho rằng nước Tần rất hùng mạnh. Ông ta rất buồn vì không được như người ta, cho nên cũng chiêu mộ các danh sĩ khắp bốn phương, tiếp đãi họ hết sức nồng hậu, thế là trong phủ của ông đã có tới trên 3.000 vị khách. Hồi đó trong các nước chư hầu có rất nhiều người mồm mép giỏi giang như nhóm Tuân Khanh (Tuân Huống), viết sách Tấn biến trong thiên hạ. Lã Bất Vi cũng để cho mọi người giúp việc trong phủ của mình viết ra những điều tai nghe mắt thấy, tập hợp lại thành từng bộ sách gọi là Bát Lãm, Lục Luận, Thập Nhị Kỷ, tất cả gồm hơn 20 vạn chữ. Lã Bất Vi cho rằng bộ sách này có thể thâu tóm được mọi sự việc trong vạn vật cổ kim trong thiên hạ. Thế là Lã Bất Vi đặt tên cho bộ sách này là “Lã Thị Xuân Thu”. Sau khi bộ sách “Lã thị Xuân Thu“ hoàn thành, Lã Bất Vi liền dán Bố cáo trên cổng thành Hàm Dương, treo trên cổng thành hàng ngàn lạng vàng, mời du sĩ, tân khách các nước đến và tuyên bố rằng, nếu ai thêm vào cuốn sách được một chữ thì sẽ thưởng cho người đó 1.000 lạng vàng. Tần Thủy Hoàng ngày càng khôn lớn trưởng thành, vậy mà Thái hậu Triệu Thị vẫn gian dâm vô độ với Lã Bất Vi. Lã Bất Vi sợ rằng loạn dâm như vậy sẽ nguy hại đến quyền thế của mình. Cho nên ông ta đã ngấm ngầm tìm Lao Ái, một người có bộ dương vật rất to đến làm xá nhân, dung túng cho ông ta tổ chức những buổi hội hè hát múa. Lã Bất Vi lại sai Lao Ái dùng xe đồng lăn đi lăn lại cốt để cho Triệu Thái hậu nghe thấy để rồi hiến dâng Lao Ái cho Triệu Thái hậu. Sau khi Triệu Thái hậu biết chuyện về Lao Ái thì quả nhiên bà ta rất mê Lao Ái, rất mong đoạt được Lao Ái. Lã Bất Vi bèn hiến dâng ngay Lao Ái cho Triệu Thái hậu. Lã Bất Vi vờ vĩnh xui người cáo giác Lao Ái phạm tội đáng phải xử phạt cung hình (đem thiến thành quan hoạn). Lã Bất Vi lại nói riêng với Triệu Thái hậu rằng: “Có thể giả vờ đem Lao Ái đi hoạn, như vậy Lao Ái mới có thể ở lại hầu hạ Thái hậu được”. Thế là Triệu Thái hậu bèn ngầm thưởng cho viên quan đã tiến hành “thiến” Lao Ái, giả vờ định tội cho Lao Ái, đồng thời còn vặt hết râu và lông mày trên mặt Lao Ái đi, giả vờ làm cho Lao Ái thành một tên quan hoạn như thật. Vì thế nên cuối cùng Lao Ái mới được đến phụng dưỡng Thái hậu. Sau khi Thái hậu đoạt được Lao Ái rồi thì hết sức nuông chiều ông ta, đi lại làm tình với Lao Ái đến mức mang thai. Thái hậu lo sợ người đời biết chuyện họ gian dâm nên đã giả vờ đi xem bói, cần phải thay đổi môi trường để tránh tai hoạ nên đã chuyển từ Vương cung rời sang sống ở Ung cung. Lao Ái luôn luôn đi theo Thái hậu đi chơi và được ưu ái một cách kỳ lạ. Mọi việc chính sự trong triều đình đều do Lao Ái chuyên quyền quyết đoán. Nô bộc trong nhà Lao Ái có tới mấy ngàn người. Bạn bè khách khứa dựa vào Lao Ái để mua quan bán tước xin đến làm xá nhân ở phủ của Lao Ái cũng có tới trên ngàn người. Tần Thủy Hoàng trị vì đến năm thứ 7 tức là năm 140 trước công nguyên, thì Hạ Thái hậu, mẹ đẻ của Trang Tương vương ốm chết. Hiếu Văn Vương hậu là Hoa Dương Thái hậu được chôn chung trong một lăng mộ với Tần Hiếu Văn vương. Con trai của Hạ Thái hậu là Trang Tương Vương được chôn tại Chỉ Dương, cho nên khi Hạ Thái hậu chết phải chôn riêng, đơn độc tại phía Đông của Đỗ Nguyên. Bà di chúc lại rằng: “Nhìn về phía Đông thì có con trai tôi, nhìn về phía Tây thì có chồng tôi. Sau 100 năm, bên cạnh tôi tất nhiên còn có muôn nhà trong thôn ấp nữa.” Năm Tần Thủy Hoàng thứ 9 (năm 238 trước công nguyên) có người tố giác với Doanh Chính rằng đúng là Lao Ái chưa bị hoạn thật, ông ta thường xuyên tư thông loạn dâm với Triệu Thái hậu và còn sinh được đứa con thứ hai nữa, nhưng đều bị giấu đi. Lao Ái còn âm mưu bí mật với Triệu Thái hậu rằng “Nếu Tần Vương băng hà, thì họ sẽ đưa đứa con trai này lên kế vị”. Thế là Tần Vương Doanh Chính giao cho pháp quan điều tra trừng trị. Kết quả đúng như mọi người đã phát giác và sự việc còn liên quan đến Tướng Quốc Lã Bất Vi. Tháng 9 năm ấy Tần Vương đã giết Lao Ái và chu di 3 họ nhà Lao Ái và cũng giết luôn cả đứa con thứ 2 của Thái hậu và đưa Thái hậu đến ở cung Ung. Những xá nhân của Lao Ái bị triều đình tịch thu gia sản và đày đến Thục địa (nay là Tứ Xuyên). Thật ra Tần Vương cũng muốn giết cả Tướng Quốc, song nghĩ đến việc Lã Bất Vi đã có công lao rất lớn phụng dưỡng Trang Tương Vương và lại có rất nhiều tân khách cùng biện sĩ đã xin cho Lã Bất Vi, nên Tần Vương Doanh Chính đành phải trị tội theo pháp luật. Tháng 10 năm Tần Thủy Hoàng thứ 10, Lã Bất Vi bị cách chức Tướng Quốc ở nước Tần. Cho đến khi có người ở nước Tề tên là Mao Tiêu khuyên giải Tần Vương Doanh Chính nên dàn hoà với mẫu hậu, lúc đó Tần Vương mới đến Ung địa để đón Thái hậu và cùng với bà trở về Đô thành Hàm Dương. Đồng thời cũng đuổi Văn Tín Hầu Lã Bất Vi ra khỏi thủ đô Hàm Dương của nước Tần, bắt ông phải về trang trại được phong của ông ở Hà Nam. Sau hơn một năm thì các chư hầu, tân khách và các sứ giả không ngừng đến nước Tần, người người nối đuôi nhau đến thăm hỏi Văn Tín Hầu Lã Bất Vi. Tần Vương sợ Lã Bất Vi bất mãn rồi sinh ra phản loạn, liền gửi cho Văn Tín Hầu Lã Bất Vi một chiếu thư, trong đó viết: “Khanh có công gì đối với nước Tần, mà nước Tần phải phong cho khanh tỉnh Hà Nam, cho khanh thừa hưởng vùng đất có 10 vạn hộ? Khanh có quan hệ gì thân thuộc với Tần Vương mà dám xưng là “Trọng Phụ”? Trẫm ra lệnh cho khanh và gia thuộc phải chuyển đến ở đất Thục!” Lã Bất Vi tự nghĩ là mình đắc tội với Tần Vương, sợ rằng sẽ bị giết cho nên đã uống thuốc độc tự tử. Hai con người mà Tần Vương Doanh Chính căm giận là Lã Bất Vi và Lao Ái đều đã chết. Tần Vương đã cho gọi những xá nhân của Lao Ái bị đày đến Thục địa trở về. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 19 (năm 228 trước công nguyên) Triệu Thái hậu qua đời. Tần Thủy Hoàng thượng tôn hiệu cho Triệu Thái hậu là Đế Thái hậu và chôn cất thi hài bà ở trong lăng của Tần Trang Vương ở Chỉ Dương. Tuyển tự “Sử ký“ Quyển 85 LƯU TỴ Ngô Vương Lưu Tỵ là con trai Lưu Trọng, anh trai của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Năm thứ 7 sau khi Hán Cao Tổ bình định được thiên hạ thì lập Lưu Trọng lên làm Đại vương. Nhưng khi dân Hung nô tấn công đất Đại, Lưu Trọng không thể giữ nổi nên đã bỏ phong quốc, lẻn theo con đường hẻm chạy đến Lạc Dương, tự đến đầu thú với Thiên tử Lưu Bang. Thiên tử Lưu Bang thấy Lưu Trọng cũng là đồng bào cốt nhục với mình, cho nên đã không trừng trị anh ta theo pháp luật của Nhà nước, mà chỉ giáng Lưu Trọng xuống làm Hợp Dương hầu. Mùa thu năm Hán Cao Tổ thứ 11 (năm 196 trước công nguyên) Hoài Nam Vương Anh Bố khởi binh tạo phản. Phía Đông đánh chiếm Hình địa, thôn tính quân đội của Vương quốc, phía Tây vượt sông Hoài Hà, tấn công nước Sở. Hán Cao Tổ Lưu Bang tự mình lên ngựa dẫn quân đi trấn áp Anh Bố. Con trai của Lưu Trọng là Bái hầu Lưu Tỵ hồi đó còn rất trẻ, mới có 20 tuổi, rất có chí khí. Anh cầm đầu đội quân kỵ binh tướng sĩ cùng Hán triều Hoàng đế đánh bại đội quân của Anh Bố ở Hội Thuỳ, phía Tây huyện Đan. Anh Bố phải bỏ chạy. Vương Hình Lưu Cố bị Anh Bố giết chết, không có người nối dõi. Lưu Bang rất lo cho tình hình ở hai vùng Ngô, Hội kê, không có Quốc vương nào có đủ sức đủ lực để đi trấn giữ những địa phương này. Các Hoàng tử thì còn nhỏ, cho nên người đã lập Lưu Tỵ lên làm Ngô Vương ở ngay vùng đất Bái để cai trị 3 quận gồm 53 huyện. Đã làm lễ phong Vương ấn cho Lưu Tỵ, Hán Cao Tổ lại triệu kiến Lưu Tỵ đến để xem mặt và nói với Lưu Tỵ: “Hình như khanh có phản tướng”. Trong lòng Lưu Bang rất ân hận, nhưng đã làm lễ phong tước mất rồi, chỉ còn cách xoa lưng Lưu Tỵ và cảnh cáo: “Từ nay cho đến 50 năm nữa, các miền Đông Nam của triều Hán nếu có xảy ra vụ phản loạn nào thì chỉ do khanh gây ra mà thôi. Chẳng qua dưới bầu trời này, chúng ta đều là người họ Lưu, là người trong một nhà cả, khanh tuyệt đối không được làm phản loạn!” Lưu Tỵ cúi đầu trả lời Lưu Bang: “Thần không dám tạo phản đâu ạ!” Trong thời kỳ Hán Hiếu Huệ đế và Lã Hậu thống trị, thiên hạ vừa mới được yên ổn, các quận quốc chư hầu chỉ có thể an ủi nhân dân trong quận quốc của mình mà thôi. Ở quận Tượng Chương của nước Ngô có mỏ đồng, Lưu Tỵ liền triệu tập bọn lưu manh ở mọi nơi đến để đúc tiền, nấu nước biển làm muối, cho nên không thu tiền thuế, Nhà nước trở nên giàu có. Thời kỳ Hán Văn đế trị vì, Thái tử của Ngô Vương là Lưu Hiền đi vào triều để bái kiến Thiên tử, để có cơ hội phụng dưỡng Hoàng Thái Tử ăn uống, cờ bạc. Sư truyền của Thái tử Ngô Vương đều là người Sở, là những người hung hãn, bình thường rất ngạo mạn. Khi chơi cờ bạc thường hay tranh chấp với Hoàng Thái tử chứ không cung kính Thái tử. Do đó Hoàng Thái tử đã đánh Lưu Hiền là Thái tử Ngô Vương tại một sòng bạc và giết chết anh ta. Triều đình cho người đưa linh cữu của Thái tử Ngô Vương về nước Ngô để mai táng. Khi đến nước Ngô, Ngô Vương Lưu Tỵ rất không hài lòng, oán trách: “Chúng ta đều là đồng Tông ở trong thiên hạ, người chết ở Trường An, đáng lẽ phải chôn cất ở Kinh sư, tại sao cứ nhất định phải cho người đưa về nước để an táng?” Sau đó Ngô Vương lại phái người khiêng linh cữu đưa về Trường An chôn cất. Bắt đầu từ sự kiện này, Ngô Vương Lưu Tỵ ngấm ngầm phản lại lễ tiết mà Phan Cự đã từng tôn sùng, giả vờ ốm không vào triều. Khi bên Kinh sư biết chuyện là Ngô Vương Lưu Tỵ vì chuyện con trai mà giả vờ ốm để không vào triều bái kiến Thái tử, sau khi kiểm tra, chứng thực Ngô Vương đúng là không ốm đau gì cả thì khi nước Ngô phái Sứ giả đến Trường An, các quan viên của triều đình đã bắt giữ họ để tiến hành thẩm vấn. Sau khi biết tin này Ngô Vương rất sợ nên càng tích cực chuẩn bị mưu phản mạnh hơn. Sau này Ngô Vương cử người thay ông đến gặp Hoàng đế để hành thu thỉnh lễ, một lần nữa Hoàng đế chất vấn Sứ giả của Ngô Vương. Sứ giả trả lời: “Ngô Vương Lưu Tỵ quả thực không ốm đau gì, chỉ vì Hán triều đã nhiều lần trừng trị Sứ giả của Ngô quốc, cho nên Ngô Vương mới giả vờ sinh bệnh. Vả lại trong sách cổ có viết “Xem cá ở trong đầm sâu là không có lợi ”. Như ngày nay Ngô Vương vừa mới giả vờ ốm, nếu để bị phát giác, bị Hoàng đế khiển trách thì lại càng đáng sợ, sợ rằng Hoàng đế sẽ xử tử, mọi âm mưu quỉ kế đều không giúp ích được gì. Mong rằng Hoàng thượng có thể lượng thứ, hoà hảo với Ngô Vương”. Thế là Thiên tử liền phóng thích cho các Sứ giả của Ngô Vương, cho họ trở về Ngô quốc, đồng thời còn tặng cho Ngô Vương mấy cái gậy, ân chuẩn cho Lưu Tỵ do tuổi tác đã cao, có thể không vào Kinh để triều kiến Thiên tử. Sau khi Ngô Vương được miễn tội, ý tưởng bí mật âm mưu tạo phản cũng dần dần tiêu tan. Tuy nhiên lãnh địa của Lưu Tỵ do có cái lợi của mỏ đồng có thể đúc tiền và có cá mắm, cho nên nhân dân có thể không phải nộp các loại thuế khác. Binh sĩ đi phục dịch, Ngô Vương đều phát cho tiền vàng. Cứ đến ngày lễ, ngày tết lại đi uý lạo những người có tài năng, ban thưởng cho những người bình dân. Các quan lại của các quân quốc khác đến Ngô quốc để bắt những kẻ phạm tội thì nước Ngô che chở cho họ, không cho dẫn độ đem về. Tình hình như thế này kéo dài hơn 40 năm. Chính vì nguyên nhân này mà Ngô Vương Lưu Tỵ có thể đi thăm dân chúng trong phong quốc của mình. Triều Thố đảm nhiệm gia lệnh nhà Thái tử, có thể được Hoàng Thái tử ban thưởng và yêu mến. Đã nhiều lần anh ta nói là Ngô Vương có tội, có thể cắt giảm phong địa của Ngô Vương. Triều Thố lại viết nhiều bản tấu khuyên giải Hán Văn đế là người khoan dung, không nhẫn tâm trừng phạt Lưu Tỵ. Do đó Ngô Vương Lưu Tỵ ỷ thế ngày càng kiêu căng ngạo mạn. Sau khi Hán Cảnh đế lên ngôi, Triều Thố đảm nhiệm chức Ngự sử đại phu, ông lại viết tấu “Ngày xưa, Hán Cao Tổ vừa mới bình định được thiên hạ, vì có ít anh chị em, Chư Hoàng tử còn thơ ấu, bất đắc dĩ mới đại phong người cùng họ. Cho nên Lưu Bang phong cho con thứ Điệu Huệ vương thống trị hơn 70 huyện của nước Tề, phong cho thứ đệ làm Nguyên vương, thống trị hơn 40 huyện của nước Sở, phong cho Lưu Tỵ, con trai của người anh làm Ngô Vương, cho ông ta thống trị hơn 50 huyện. Còn phong cho họ hàng thân thích 3 chi họ, chia một nửa phần đất của nhà Hán. Ngày nay, Ngô Vươmg Lưu Tỵ lấy lý do ngày xưa Thái tử bị giết vì giả vờ ốm, cự tuyệt không triều kiến Thiên tử, nếu định tội theo pháp luật cổ đại thì phải xử tử hình. Hán Văn đế không nhẫn tâm giết ông ta mà chỉ lên án và đánh cho mấy gậy. Quốc gia, triều đình đối đãi với Ngô Vương Lưu Tỵ ân đức rất sâu đậm. Theo lý thì Ngô Vương Lưu Tỵ phải cải tà qui chính. Nhưng trái lại ông ta càng trở nên kiêu căng, dâm loạn, dựa vào mỏ để đúc tiền đồng, ra biển lấy nước làm muối, lôi kéo bọn lưu manh côn đồ trong thiên hạ để âm mưu làm loạn. Hiện nay triều đình đã làm cho Ngô Vương Lưu Tỵ suy yếu thì ông ta muốn tạo phản, không làm cho ông ta suy yếu, ông ta cũng vẫn muốn tạo phản. Nếu tước phiên, ông ta tức khắc tạo phản, thế thì mối nguy hại cho ông ta còn tương đối nhỏ; còn nếu không tước phiên, Ngô Vương kéo dài cuộc tạo phản thì gây tai hoạ cho quốc gia càng lớn. Mùa Đông năm Hán Cảnh Đế thứ 3 (năm 154 trước công nguyên) Sở Vương vào triều tham kiến Thiên tử. Nhân cơ hội này Triều Thố tố cáo Sở Vương Lưu Mậu trước đây đã phục vụ Bạc Thái hậu và đã phạm tội gian dâm, xin Hoàng đế xử tử ông ta. Hán Cảnh Đế ban bố chiếu lệnh miễn cho Sở Vương tội chết, đày ông ta đến quận Đông Hải. Triều đình thừa thế cũng tước luôn của Ngô Vương Lưu Tỵ hai quận Tượng Chương và Hội Kê. Cộng thêm tội Triệu Vương đã mắc hai năm trước nên đã tước luôn cả quận Hà Gian của ông ta. Do mắc tội mua quan bán tước mà Giao Tây vương Lưu Ấn cũng bị tước mất 6 huyện. Các đại thần triều đình nhà Hán bàn bạc tước giảm đất phong của nước Ngô. Ngô Vương Lưu Tỵ sợ Chính phủ Trung ương tước phiên vô hạn độ nên đã vin vào đó để âm mưu phát động binh lính, mưu đồ phất cờ tạo phản. Thấy rằng trong đám Chư hầu vương không có người nào có khả năng tiến hành âm mưu bí mật với mình, nghe nói Giao Tây vương là người vũ dũng hào khí, lại giỏi về quân sự, các chư hầu nước Tề đều sợ ông ta, thế là Ngô Vương cử Trung đại phu Ứng Cao đi sang Giao Tây vương công tác. Ứng Cao không mang theo thư của Ngô Vương mà chỉ truyền đạt khẩu dụ ý của Ngô Vương Lưu Tỵ là: “Ngô Vương không có tài đức, sớm muộn gì thì cũng gặp tai hoạ, không dám tự mình ra ngoài, nên cử tôi đến trình bày ý định tốt đẹp của Ngài”. Giao Tây vương nói: “Xin tiên sinh chỉ giáo”. Ứng Cao trả lời: “Hiện nay Chúa thượng đề bạt những kẻ gian loạn, tán dương những kẻ gian thần, sùng ái ngụy quân tử, tin tưởng ở những kẻ khốn kiếp làm điều thị phi, lơi lỏng các luật lệnh, chiếm đoạt đất đai của chư hầu, càng ngày càng khủng bố dữ, tàn sát nhiều, trừng trị các lương thần, thiện dân ngày càng nghiêm trọng. Tục ngữ có câu: “Thoạt đầu ăn cám, sau này ăn cơm”. Ngô Vương và Giao Tây vương đều là những chư hầu vương nổi tiếng, nếu chẳng may bị triều đình phát giác, e rằng tất cả chúng ta đều không được yên thân. Ngô Vương đang bệnh hoạn, hơn 20 năm rồi không đến Kinh vào Triều được. Ngài rất lo bị người ta nghi ngờ thì không có cách nào tự bạch, hiện nay đã chú ý cẩn thận hơn mà vẫn sợ không có ai hiểu cho. Thần nghe trộm thấy Đại vương Ngài bị liên lụy bởi việc bán quan tước, nghe nói chư hầu vương bị thu hồi phong địa, mà tội lỗi không chỉ có như vậy, nên sợ rằng không phải chỉ bị thu hồi đất đai mà thôi đâu”. Giao Tây vương đáp lại rằng: “Ngài nói rất đúng, có việc như vậy thật. Vậy thì Ngài tính làm sao đây?” Ứng Cao nói: “Thù hận tương đồng thì phải giúp đỡ lẫn nhau; sở thích tương đồng thì phải thông cảm với nhau; tâm tình tương đồng thì phải cùng nhau làm trọn; nguyện vọng tương đồng thì phải cùng nhau theo đuổi; lợi ích tương đồng thì phải đồng sinh cộng tử. Ngày nay Ngô vương tự thấy có chung mối lo âu với Đại vương, mong rằng sẽ thuận theo thời thế, tuân theo đạo lý, hy sinh tính mệnh, giải trừ tai hoạ cho thiên hạ. Không biết Ngài có đồng ý với cách suy nghĩ của Ngô Vương hay không?” Giao Tây vương giật mình nói: “Tôi làm sao dám làm như vậy? Ngày nay Chúa thượng tuy có nóng nảy vội vàng, tôi cũng đành chịu chết mà thôi, chứ không thể không suy tôn ông ta”. Ửng Cao trả lời: “Khanh cử đại phu Triều Thố đến mê hoặc Thiên tử, chiếm đoạt lấy phong địa của các chư hầu vương, làm cho các trung hiền không nghe, không thấy gì hết, các đại thần trong triều đình đều oán ghét, các chư hầu vương đều có ý đồ mưu phản. Những điều khanh làm đã lên đến cực điểm. Sao Tuệ xuất hiện, hoàng trùng đã nhiều lần gây tai hoạ. Tình hình này một vạn năm mới gặp một lần, còn khi âu sầu khổ não thì chính là điều kiện để thánh nhân xuất hiện. Cho nên Ngô Vương dự định lấy việc mưu sát Triều Thố ở trong triều đình làm lời hiệu triệu quân đội hậu vệ đi theo Đại vương tung hoành ngang dọc ngoài chiến trường. Nhân dân những vùng mà quân đội đánh đến, tất cả đều qui hàng, những thành phố mà quân đội tấn công đều thu phục được cả, trong thiên hạ không có người nào dám không thần phục. Nếu quả thật Đại vương không giữ được lời hứa, thì Ngô Vương dẫn Sở Vương đi đánh chiếm Hàm Cốc Quan, cố thủ ở Doanh Dương, giữ lấy kho lương, ngăn chặn quân đội nhà Hán. Sắp xếp các cư xá cho yên ổn, chờ Đại vương đến. May ra mà Đại vương thân chinh giá lâm thì thiên hạ có thể bị thôn tính, hai vị Quân vương sẽ chia nhau thiên hạ, chẳng được lắm sao?” Giao Tây vương nói: “Được ”. Ửng Cao về đến nước Ngô liền tấu báo lên Ngô Vương. Ngô Vương vẫn còn lo Giao Tây vương vẫn không chịu tham gia phối hợp, cho nên ông đã thân chinh đi đến chỗ Giao Tây vương để liên kết với Giao Tây vương tại chỗ. Quần thần trong nước Giao Tây, có người nghe nói Giao Tây vương có âm mưu bí mật nên đã khuyên rằng: “Phụng dưỡng Hoàng đế là việc lớn rất tốt. Hiện nay Đại vương liên minh với quân đội của Ngô Vương Lưu Tỵ tấn công về phía Tây. Nếu sự việc thành công thì hai vị Quân vương chia nhau thiên hạ, nếu như hoạn nạn thì cùng chịu. Đất phong của các nước chư hầu không bằng 2/10 của Hán quận, nếu khởi binh làm loạn sẽ làm cho Thái hậu lo lắng, đó không phải là một chủ ý hay”. Về cơ bản Giao Tây vương không nghe lời khuyên của họ, mà cho Sứ giả đi mời các Tề vương, Truy Xuyên vương, Giao Đông vương, Tế Nam vương, Tế Bắc vương cùng phối hợp hành động. Tất cả đã nhận lời sẽ phối hợp và còn cho rằng: “Thành Dương Cảnh vương là người đại nghĩa, đã từng tấn công giết chết cả họ nhà họ Lã, hiện nay không cần phải liên lạc với Thành Dương vương mà sau khi sự việc thành công sẽ chia sẻ thắng lợi cho họ.” Các chư hầu vương nghe nói họ sẽ bị triều đình thu bớt đất đai thì vô cùng kinh ngạc và sợ hãi, rất nhiều người đã thù oán Triều Thố. Trong khi chờ chiếu thư của triều đình thu hồi các quận Hội Kê, Dự Chương của nước Ngô, Ngô Vương đã khởi binh chống lại triều đình trước. Tháng Giêng năm Bính Ngọ, nước Giao Tây đã giết chết 2000 viên quan lại do Trung ương trièu Hán cử đến. Các nước chư hầu Giao Đông, Truy Xuyên, Tế Nam, Sở, Triệu vv.. cũng khởi sự như vậy và cùng khởi binh Tây tiến. Sau khi khởi binh, Tề vương đã hối hận là đã tham gia phản loạn, nên đã uống thuốc độc tự tử, phản bội lại điều ước của liên minh. Khi cuộc chiến chưa phân rõ thắng bại ở Tề Bắc vương thì Lang trung lệnh của ông đã cưỡng chế canh giữ ông, không cho ông khởi binh. Giao Tây vương làm đại soái cùng với ba nước là Giao Tây, Truy Xuyên, Tế Nam cùng bao vây Lâm Truy. Triệu vương Lưu Toại cũng tham gia phản loạn, bí mật cử Sứ giả đến Hung nô để cùng liên minh tác chiến. Bảy nước chư hầu đã khởi binh phản loạn. Ngô Vương Lưu Tỵ đã tổng động viên toàn bộ quân đội ở trong nước và còn tiến hành động viên chiến tranh ở nước Ngô, ông ra lệnh: “Trẫm đã hơn 62 tuổi rồi, Trẫm tự xuất quân ra trận. Con trai nhỏ của Trẫm tuy mới 14 tuổi cũng sẽ xung phong vào bộ đội. Tẫt cả những người tuổi tác như Trẫm, hoặc những người như con nhỏ của Trẫm đều cần phải động viên”. Cuộc khởi binh lên tới hơn 20 vạn người. Cử Sứ giả đi về phía Nam để hoạt động ở Mẫn Việt và Đông Việt. Đông Việt cũng xuất binh cùng tham gia. Tháng Giêng của Giáp ( 60 năm ) Hán Hiếu Cảnh đế thứ 3, Ngô Vương Lưu Tỵ là người đầu tiên khởi binh làm phản ở Quảng Lăng, Tây tiến vượt sông Hoài Hà để phối hợp với quân đội của nước Sở. Nước Sở cử Đại sứ đặc mệnh đem chiếu thư đến các chư hầu vương. Trong chiếu thư viết: “Ngô Vương Lưu Tỵ cung kính thăm hỏi những người con của các Giao Tây vương, Giao Đông vương, Truy Xuyên vương, Tế Nam vương, Triệu vương, Sở vương, Hoài Nam vương, Hoành Sơn vương, Lư Giang vương và Cố Trường Sa vương, xin các Ngài hãy chỉ giáo cho tôi. Vì trong Chính phủ Trung ương nhà Hán có giặc thần chuyên quyền, chẳng có công đức gì đối với quốc gia mà lại di xâm chiếm phong địa của các chư hầu vương, bắt bớ các quan lại rồi thẩm vấn, trừng trị họ để làm nhục các chư hầu vương, không dùng nghi lễ của các chư hầu vương để đối đãi với các thân nhân cốt nhục cuả Lưu Thị, cách chức các công thần của Tiên Hoàng đế, gieo tai hoạ cho toàn dân thiên hạ, âm mưu làm nguy hại cho quốc gia xã tắc. Hoàng đế bệ hạ ốm yếu bệnh tật, thần trí không được tỉnh táo minh mẫn, không thể cảnh giác với các gian thần. Ngô Vương tôi muốn khởi binh mưu sát các gian thần loạn đảng ở ngay trong triều đình, rất mong mọi người mau mau chỉ giáo. Tệ quốc tuy phong địa nhỏ hẹp, song cũng có cả một vùng 3000 dặm; nhân dân tuy ít cũng có thể trưng tập được 50 vạn tinh binh, cường tướng. Bình thường bản vương đã giữ được mối quan hệ hữu hảo hơn 30 năm với nước Nam Việt. Quân vương nước Nam Việt không do dự đã xuất một bộ phận quân đội để cùng quả nhân chinh chiến. Thế là Trẫm lại có thêm hơn 30 vạn quân đội. Bản vương tuy không mạnh, cũng xin tình nguyện tự mình hành động cùng với các chư hầu vương. Nam Việt giáp giới với Trường Sa ở về phía Nam, do con trai của Trường Sa vương soái lĩnh quân đội bình định khu vực phía Bắc Trường Sa, phía Tây hướng về phía các thuộc địa và Trung Hán. Thông báo cho Nam Việt vương ý đồ này. Sở vương, Hoài Nam vương cùng Trẫm tiến về phía Tây. Các chư vị vương hầu ở nước Tề cùng Triệu vương bình định các khu vực Hà Gian, Hà Nội v.v...rồi sau đó một bộ phận tiến vào Lâm Tấn quan, một bộ phận cùng Trẫm hội hợp ở Lạc Dương; chính ra các Yến vương, Triệu vương cùng với thủ lĩnh các dân tộc người Hồ ký kết hiệp định phối hợp khi xuất binh. Yến vương thì tiến lên phía Bắc bình định các quận Đại địa, Vân Trung; các binh mã chuyên thống trị dân tộc Hồ thì tiến vào Tiêu Quan, áp sát thành phố Trường Sa, giúp đỡ Thiên tử, từ đó mà làm cho Hoàng thất được bình an. Mong rằng các chư hầu vương hãy làm việc cho tốt. Con trai Sở Nguyên vương cùng với Tam vương Hoài Nam có đến hơn 10 năm không được tắm gội, căm thù triều đình đến tận xương tủy, đã muốn tìm cơ hội để xuất binh từ lâu. Song vì Trẫm vẫn chưa được sự đồng ý của các chư hầu vương, cho nên chưa dám nghe theo. Hiện nay nếu các chư vị Đại vương có thể tiếp tục ủng hộ, trấn áp sự tàn bạo, đạt dược mục đích là yên định chính quyền của họ Lưu thì đó cũng là hy vọng của quốc gia vậy. Nước Ngô tôi tuy nghèo, nhưng tôi cũng tiết kiệm ăn mặc, tiêu pha, tích luỹ kim tiền, rèn cán luyện quân, tích lũy lương thực hết ngày này qua tháng khác đã được hơn 30 năm rồi. Mong rằng các vị chư hầu hãy lợi dụng tối đa những điều kiện này. Người nào chém giết hoặc bắt được một Đại tướng thì sẽ được ban thưởng 5000 cân tiền vàng, được phong ấp một vạn hộ. Người nào giết được hoặc bắt sống được một Liệt tướng của triều đình thì sẽ được ban thưởng 3000 cân tiền vàng, được phong ấp 5000 hộ. Người nào giết hoặc bắt sống được một Tì tướng của triều đình sẽ được ban thưởng 2000 cân tiền vàng, phong ấp 2000 hộ. Người nào giết hoặc bắt được quan viên 2000 thạch của triều đình sẽ được ban thưởng 1000 cân tiền vàng, được phong ấp 1000 hộ. Người nào giết hoặc bắt được quan viên 1000 thạch của triều đình sẽ được ban thưởng 500 cân tiền vàng, được phong ấp 500 hộ. Tất cả những nhân sĩ trên đây đều có thể trở thành Liệt hầu. Trong số quan viên triều đình nếu có ai đem quân đội cùng trại ấp đến đầu hàng. Nếu mang đến một vạn lính thì được phong ấp một vạn hộ như bắt được một Đại tướng; người đầu hàng có 5000 người như bắt được một Liệt tướng; người đầu hàng có 3000 người như bắt được một Tì tướng; người đầu hàng có 1000 người như bắt được một quan chức 2000 thạch. Còn những quan lại khác thấp hơn đều có thể theo thứ tự đẳng Cập mà được ban thưởng chức vụ, kim tiền. Tất cả các vật phẩm để khen thưởng đều nhiều gấp đôi so với qui định trong pháp luật của chính quyền nhà Hán. Mong rằng các chư vị hầu vương hãy ra lệnh rõ ràng cho các sĩ đại phu tuân theo, không nên lừa dối những người khác. Tiền tài của bản vương khắp thiên hạ ở đâu cũng có, không nhất thiết phải đến nước Ngô để nhận. Các chư vị Hầu vương có thể hưởng thụ quanh năm không hết. Những người đáng được ban thưởng, các vị có thể báo cho bản vương biết, bản vương sẽ đến tận nơi để ban thưởng. Vậy xin cung kính thông báo tình hình này để các vị cùng biết.” Có 7 bản tấu về tạo phản của các nước chư hầu đã được chuyển đến Thiên tử. Thiên tử Hán Cảnh đế đã phái Thái uý Điều hầu Chu Á Phu thống soái 36 viên tướng, xuất binh đón đánh quân đội của nước Ngô và nước Sở; và cũng phái Khúc Chu hầu Lệ Ký tiến đánh quân đội của nước Triệu; ra lệnh cho tướng Loan Bố tấn công quân đội nước Tề; ngoài ra còn cử Đại tướng Đậu Anh đến đóng quân ở Vinh Dương để giám thị quân đội nước Tề, nước Triệu. Các tấu báo về sự tạo phản của hai nước Ngô, Sở đã được gửi đến, quân đội chính phủ của chính quyền nhà Hán vẫn chưa hành động, lúc đó Đậu Anh vẫn còn chưa lên đường, Hán Cảnh đế cho gọi Viên Ang, nguyên Thừa tướng của nước Ngô đến. Lúc này Viên Ang đang nghỉ ở nhà, Hoàng đế ra lệnh cho mời ông đến. Hoàng đế đang cùng Triều Thố điều binh, chuẩn bị quân lương. Hán Văn đế hỏi Viên Ang: “Khanh đã từng làm Thừa tướng của nước Ngô, khanh có hiểu rõ người của Ngô Vương là Đại thần Điền Lục Bá hay không. Ngày nay Ngô Vương, Sở quốc làm phản, khanh thấy thế nào?” Viên Ang trả lời: “Không nên trù trừ do dự gì nữa, hiện nay có thể đánh bại họ được rồi”. Hán Cảnh đế hỏi tiếp: “Ngô Vương dựa vào việc có mỏ đồng để đúc tiền, nấu nước biển để làm muối, là bậc hào kiệt trong thiên hạ, đến bạc đầu mới khởi binh làm phản. Nếu đúng là như vậy thì họ không quan tâm đến việc chuẩn bị, làm sao có thể gây phiến loạn được? Khanh dựa vào cái gì mà nói họ không hành động?” Viên Ang trả lời: “Đúng là có cái lợi về đúc tiền và làm muối của nước Ngô thật, nhưng có cái gì là hào kiệt đâu ! Nếu quả thật Ngô Vương có tìm ra hào kiệt thì sẽ phò tá cho họ làm những việc chính nghĩa chứ không để cho họ khởi binh tạo phản đâu. Những kẻ mà Ngô Vương lôi kéo được chỉ là những tên vô lại, những tên gian đúc tiền vong mạng, cho nên họ sẽ tiếp tục đứng lên tạo phản”. Triều Thố nghe ông nói xong thì thở dài và nói: “Viên Ang phân tích rất hay”. Hán Cảnh đế lại hỏi: “Vậy thì làm thế nào để chống lại bọn phản loạn?” Viên Ang trả lời: “Xin Hoàng đế cho các nhân sĩ xung quanh lui ra”. Hán Cảnh đế cho mọi người xung quanh lui ra ngoài, chỉ còn lại một mình Triều Thố ở bên cạnh. Viên Ang nói: “Điều mà thần sẽ nói, không nên để cho quần thần biết”. Thế là Hán Cảnh đế lại cho Triều Thố lui ra. Triều Thố đi đến nhà nghỉ ở phía Đông, trong lòng rất căm thù Viên Ang. Hán Cảnh đế lại hỏi Viên Ang về kế hoạch chống phản loạn, Viên Ang trình bày: “Hai nước Ngô, Sở cáo thị cho thiên hạ rằng “Theo sắc phong cuả Hán Cao Tổ thì con em của các chư hầu vương đều có đất phong của mình, ngày nay thần giặc Triều Thố tự tiện chỉ trích tội lỗi của các chư hầu vương, cướp đoạt lãnh thổ của các chư hầu vương”. Cho nên họ vin vào cớ đó để tạo phản, cùng khởi binh tiến về phía Tây dẹp quân Triều Thố. Chỉ cần khôi phục lại các lãnh địa đã có trước đây thì các chư hầu vương có thể cuốn cờ thu binh, đình chỉ phản loạn. Ngày nay cũng chỉ cần chém đầu Triều Thố, cử các Sứ thần đi xá tội cho 7 nước chư hầu như Ngô, Sở v.v.. khôi phục lại lãnh địa trước đây của họ thì binh lính sẽ không phải đổ máu mà vẫn bìnhđịnh được toàn bộ bọn phản loạn”. Nghe lời Viên Ang nói, Hán Cảnh đế trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu rồi mới nói: “Nếu quả thật có thể chấm dứt được phản loạn, thì Trẫm có thể không nuông chiều một mình Triều Thố, từ bỏ những thứ yêu thích để tạ ơn bá tính trong thiên hạ”. Viên Ang nói ; “Ngoài cái ngu kế này ra, thần không còn kế sách nào khác nữa, mong rằng bệ hạ suy nghĩ thật kỹ càng rồi quyết định”. Thế là Hán Cảnh đế bổ nhiệm Viên Ang làm Thái Thường, con trai của em Ngô Vương Lưu Tỵ là Đức Cầu làm Tông Chính. Viên Ang chuẩn bị sẵn sàng để trị vì. Mười mấy ngày sau, Hán Cảnh đế ra lệnh cho Trung uý triệu kiến Triều Thố, quát ông phải lên xe phóng thẳng đến Đông Thị. Thế là Triều Thố, mình mặc triều phục bị xử tử ngay ở Đông Thị. Tiếp đó Hoàng đế lại phái Viên Ang đi thờ Tông miếu, để cho Tông Chính Đức hầu lấy danh nghĩa họ hàng thân thích phò Hán khuyên bảo, ra lệnh cho họ phải đến nước Ngô, thông báo cho Ngô Vương những chính sách trên đây của Viên Ang. Đến nước Ngô thì quân đội hai nước Ngô, Sở đã bắt đầu tấn công thành quách của nước Lương rồi. Là thân thích của Ngô Vương nên Tông Chính mới đến cầu kiến Ngô Vương trước, khuyên Ngô Vương Lưu Tỵ quì xuống tiếp nhận huấn lệnh của triều đình. Nghe nói Viên Ang đến, Ngô Vương cũng biết ông ta muốn thuyết phục mình nên cười và nói: “Trẫm đã từng làm Hoàng đế ở xứ Đông, còn phải quì lạy ai đây?” Không những cự tuyệt hội kiến Viên Ang mà còn bắt ông ta giam vào doanh trại, âm mưu ép ông ta phải đầu hàng Ngô Vương vì đã đới binh phạm thượng. Viên Ang không chịu, thế là Ngô Vương cho quân lính bao vây trại tạm giam định giết chết Viên Ang. Nhân lúc ban đêm, Viên Ang đã trốn thoát, chạy bán sống bán chết, chạy vào doanh trại quân Lương, nên mới trở về được Kinh sư. Điều hầu Chu Á Phu sẽ ngồi trên chiếc chuyên xa Lục thừa, phóng đến Huỳnh Dương hội chiến. Đi đến Lạc Dương thì gặp Kịch Mạnh, ông phấn khởi nói: “7 nước chư hầu phản bội triều đình, tôi ngồi xe quân sự đi đến đây, tự mình nghĩ rằng chưa đến Lạc Dương thì còn được an toàn. Lại cho rằng các chư hầu vương đã bắt mất Kịch Mạch. Giờ đây Kịch Mạch chẳng làm sao cả, tôi đã đánh chiếm được Huỳnh Dương rồi. Khu vực phía Đông Huỳnh Dương không có gì đáng lo ngại cả”. Đến Hoài Dương, Chu Á Phu đến gặp cha là cựu Quách đô uý Giáng Hầu để xin ý kiến, ông hỏi cha: “Có kế sách gì để đối phó với bọn phản loạn không?” Quách đô úy trả lời: “Quân đội của nước Ngô rất tinh nhuệ, khó có thể đánh chính diện với chúng được. Quân đội của nước Sở có quân nhu, lương thực rất nhẹ nhàng, ta không thể đánh lâu dài với họ được. Giờ đây ta thay tướng quân bày mưu tính kế, chẳng bằng đem quân đến các đồn bốt ở Đông Bắc mà đóng quân, nói cho quân Ngô biết ý đồ phản nghịch của quân Lương, nhất định quân Ngô sẽ đem toàn bộ tinh binh để đánh chúng. Giờ đây con xây thành luỹ cũng chẳng bằng đem quân đi đánh địch, sau đó phái các đội khinh binh chặn đứng cửa khẩu Hoài Tứ, chặn hết đường tiếp tế của quân Ngô. Phía bên kia quân Ngô và quân Lương không giữ nổi. Quân Ngô mệt mỏi lại không có lương thực, lúc đó con thừa cơ dùng bộ đội chủ lực hùng mạnh tấn công quân địch đã tan tác, nhất định có thể phá tan được quân đội của nước Ngô”. Điều hầu Chu Á Phu nghe rồi gật đầu nói: “Ý định này rất hay”. Thế là nhận ngay kế sách của Quách đô uý. Chu Á Phu ra lệnh cho quân Hán giữ vững thành luỹ ở phía Nam Xương Ấp và phái khinh binh đi cắt đứt nguồn lương thực của quân Ngô. Khi Ngô Vương Lưu Tỵ khởi binh thì đại thần nước Ngô là Điền Lục Bá làm Đại tướng. Điền Lục Bá nói với Ngô Vương: “Quân đội tập hợp để tấn công hướng Tây, chẳng có con đường kỳ diệu nào khác, khó mà thành công được. Thần mong rằng thần sẽ được nhận 5 vạn quân, cần đi theo sông lên Hoài Bắc, chiếm lĩnh Hoài Nam, Trường Sa rồi tiến vào Vũ Quan để hội sư với Đại vương, đây cũng là một kế hoạch kỳ diệu để chiến thắng kẻ địch”. Thái tử của Ngô vương Lưu Tỵ khuyên cha: “Đại vương giương cao ngọn cờ chống phản loạn, quân đội này khó có thể trao binh quyền cho người khác. Binh quyền mà giao cho người khác, thì người khác cũng lại dùng binh quyền để phản lại Ngô Vương. Vậy phụ thân sẽ phải làm gì đây?” Huống hồ lại đi nhận một cánh quân đơn độc hành động thì sẽ xuất hiện rất nhiều điều lợi hại chưa thể đoán chắc được, còn mình thì lại để tổn thất lực lượng một cách vô ích”. Ngô Vương nghe con nói xong vẫn không chịu đáp ứng lời thỉnh cầu của Điền Lục Bá. Hoàn tướng quân là một vị tướng trẻ của nước Ngô tâu lên Ngô Vương kế sách: “Quân đội của nước Ngô đa số là bộ binh. Bộ binh chiến đấu ở khu vực gian nan nguy hiểm là có lợi nhất. Quân đội của triều đình nhà Hán có nhiều chiến xa và kỵ binh. Chiến xa và kỵ binh chiến đấu ở vùng đồng bằng rất có lợi. Trên đường đi qua, nếu Đại vương có gặp những thành ấp đánh không được thì bỏ ngay nó đi, nhanh chóng tiến về phía Tây chiếm lĩnh kho vũ khí của Lạc Dương, chiếm dụng những kho lương thực, dựa vào địa thế hiểm trở của núi non và sông Hoàng Hà để kêu gọi các chư hầu. Tuy quân Ngô chưa vào cổng thành, nhưng cục diện thiên hạ đã đi theo Ngài thì đại để có thể xác định được. Nếu Đại vương hành quân chậm chạp, lưu lại ở những thành phố không quan trọng, thì khi xe cộ binh mã của triều đình nhà Hán đuổi kịp, bất thần đột nhập vào địa điểm hội quân của Lương, Sở thì việc lớn của bệ hạ dã thất bại. Ngô Vương Lưu Tỵ hỏi các chư vị lão tướng, các lão tướng đều nói: “Đây là chiến thuật của lực lượng xung phong trẻ tuổi lâm trận, có thể được, nhưng làm thế nào để hiểu được phương châm chiến lược cơ bản?” Thế là Ngô Vương lại không tiếp thu sách lược của Hoàn tướng quân nữa. Ngô Vương độc quyền thâu tóm quân quyền, quân đội còn chưa vượt sông Hoài Hà thì các tân khách đã được phong hiệu Uý, Hầu, Tư mã, duy chỉ có một mình Chu Khâu là không được làm việc. Chu Khâu là người huyện Hạ Phi, bỏ chạy sang nước Ngô, bán rượu để sống, phẩm hạnh rất bất lương. Cho nên Ngô Vương Lưu Tỵ coi thường Chu Khâu, không giao cho ông một chức quan gì. Chu Khâu yết kiến Ngô vương và phân bua: “Thần vì không có bản lĩnh, không thể nhận nhiệm vụ trong quân đội được. Thần không dám xin dẫn quân đi đánh trận, mà chỉ xin Đại vương cho thần một Phù tiết của triều đình nhà Hán, thần nhất định sẽ báo đáp công ơn Đại vương”. Ngô Vương liền ban cho Chu Khâu một Phù tiết của Hán triều. Sau khi Chu Khâu được ban Phù tiết, thừa lúc đêm tối đã chạy vào thành Hạ Phi. Quân dân Hạ Phi nghe nói nước Ngô khởi binh tạo phản nên đã phòng thủ thành trì rất nghiêm mật. Đến cư xá Hạ Thạp, Chu Khâu triệu kiến huyện lệnh huyện Hạ Phi. Sau khi huyện lệnh vào cửa, Chu Khâu đã để cho nhân viên tùy tùng đưa ra một tội danh để giết chết viên huyện lệnh. Tiếp đó triệu kiến những người anh em của ông ta là những quan lại thân hào ăn cánh với ông và cảnh cáo họ rằng: “Quân phảnloạn của nước Ngô sẽ đến Hạ Phi ngay bây giờ. Khi đại quân tiến vào thành sẽ tán sát cả huyện Hạ Phi, thời gian không quá một bữa cơm. Giờ đây nếu đầu hàng trước thì tính mệnh gia đình các người nhất định được bảo đảm an toàn, các người còn có thể được phong quan, phong hầu nữa”. Những người này đến tuyên bố, mọi người ở huyện Hạ Phi đều xin đầu hàng. Chỉ trong một đêm Chu Khâu đã nhận được hơn 3 vạn binh lính. Ông cử người đến thông báo cho Ngô Vương về tình hình huyện Hạ Phi. Ngô Vương cử Chu Khâu dẫn đầu quân đội của ông ta đi đánh chiếm thành ấp. Chờ khi đến Thành Dương, quân đội của Chu Khâu đã tănglên đến trên 10 vạn người và đã đánh bại được quân đội của Trung uý Thành Dương. Mãi sau khi được tin Ngô Vương Lưu Tỵ thất bại trong chiến đấu, binh lính đào ngũ nhiều, tự Chu Khâu cũng suy đoán được là không còn cách nào để cùng Ngô Vương hoàn thành được sự nghiệp lớn là tạo phản, cho nên đã tức thì quay trở lại Hạ Phi. Chưa đến Hạ Phi, Chu Khâu đã chết vì mụn nhọt ở trên lưng. Trung tuần tháng Hai, quân đội của Ngô Vương Lưu Tỵ bị Chu Á Phu đánh tan phải rút lui. Thế là Hán Cảnh đế hạ chiếu cho các tướng sĩ: “Nghe nói người hành thiện thì lên trời báo tin phúc vận ; người gian tà thì lên trời xin ban cho họ tai hoạ. Hán Cao Tổ tự biểu dương công đức, kiến lập chư hầu, U vương, Điếu Huệ vương tuyệt chủng vô hậu, Hiếu Văn Hoàng đế xót thương họ, tăng thêm ân huệ, phong cho con của U vương là Lưu Toại, phong cho con cuả Điếu Huệ vương là Lưu Ấn v.v.. được làm Vương, để cho họ được thờ cúng Tông miếu của các tiên đại quốc vương của họ để làm Phiên quốc của Vương triều nhà Hán. Đức hạnh của Cao Hoàng đế, Hiếu Văn đế có thể sánh cùng trời đất, chiếu sáng ngang cùng Nhật Nguyệt. Ngô Vương Lưu Tỵ vong ân bội nghĩa, gây ra vô vàn tội ác trong thiên hạ, gây rối loạn chế độ tiền tệ của Nhà nước, bệnh tật hơn 20 năm trời không vào triều bái kiến Thiên tử. Các ngành hữu quan nhiều lần yêu cầu phải định tội cho Lưu Tỵ, Hiếu Văn Hoàng đế đều khoan dung tha thứ, mong ông ta có thể cải tà qui chính. Ngày nay Ngô Vương Lưu Tỵ cùng với Sở vương Lưu Mậu, Triệu vương Lưu Toại, Giao Tây vương Lưu Ấn, Tế Nam vương Lưu Quần Quang, Truy Xuyên vương Lưu Hiền, Giao Đông vương Lưu Hùng Cừ câu kết với nhau tạo phản, làm những điều vô đạo, dấy binh gây nguy hại cho quốc gia xã tắc, giết các đại thần của triều đình và các Sứ giả do triều đình nhà Hán phái đi, cưỡng bức cướp đoạt tài sản của dân chúng, giết haị những người bình dân vô tội, thiêu cháy dân cư, đào mồ quật mả, hung tàn đến cực điểm. Hiện nay bọn người như Lưu Ấn lại phạm tội trọng nghịch vô đạo, thiêu huỷ tông miếu, vơ vét những phục khí, ngự vật của các tông miếu. Trẫm vô cùng căm phẫn bọn người này. Trẫm đang mặc thường phục, không ở chính điện, các tướng quân đang động viên các sĩ đại phu trấn áp quân địch phản loạn. Trong khi trấn áp bọn phản loạn, luồn sâu vào trận địa địch, giết thật nhiều địch lập công, bắt sống được những tên quan viên địch trên 300 thạch đều muốn giết chết bọn chúng, không khoan dung phóng thích. Tất cả những tên dám cả gan chiếu lệnh một cách phi nghĩa hoặc không tuân chiếulệnh đều bị chém đầu.” Thoạt đầu, khi Ngô Vương vượt qua sông Hoài Hà đã cùng với Sở vương Toại Tây tấn công đánh phá La Bích, thừa thắng tiến quân mạnh mẽ vô cùng. Lương Hiếu vương rất sợ hãi, cử 6 vị tướng đi đón quân Ngô. Quân Ngô lại đánh bại 2 vị tướng của quân Lương, binh lính đều chạy cả về nước Lương. Nhiều lần Lương vương phải cử Sứ giả đến thông báo với Điều hầu Chu Á Phu, thỉnh cầu cho quân đến tăng viện. Điều hầu Chu Á Phu không trả lời. Tiếp đó Lương Hiếu vương lại cho Sứ giả đến Trường An nói xấu Chu Á Phu trước mặt Hán Cảnh Đế. Hán ảnh Đế liền cho người báo cho Điều hầu đi chi viện cho nước Lương. Chu Á Phu thì cho rằng vẫn nên cố thủ chứ không nên xuất quân. Lương Hiếu vương bổ nhiệm Vĩ An Quốc và Trương Vũ, em trai của Thừa tướng Trương Thương của nước Sở lên làm tướng mới có thể đẩy lùi được cuộc tiến công của quân Ngô. Quân Ngô dự định tiến về phía Tây, song vì thành trì của nước Lương đã được phòng thủ kiên cố nên không dám Tây tiến nữa mà áp sát quân đội của Điều hầu Chu Á Phu ở gần Hạ Ấp, định cùng quân quan quyết chiến. Tuy Điều hầu Chu Á Phu đóng chặt cửa không ra, cự tuyệt chiến đấu với binh lính của nước Ngô. Quân đội nước Ngô đã ăn hết lương thực, binh sĩ đều đói khát, nhiều lần khiêu chiến, thừa cơ đêm tối đã chạy khỏi doanh trại của Điều hầu Chu Á Phu, tạo dựng thanh thế rất lớn ở vùng Đông Nam doanh trại. Điều hầu Chu Á Phu ra lệnh cho quân sĩ phải tăng cường phòng thủ phía Tây Bắc doanh trại. Quả nhiên quân Ngô chỉ dương đông kích tây mà đã tấn công ở phía Tây Bắc. Quân đội của Ngô Vương đại bại, binh sĩ bị chết đói rất nhiều nên phía Tây đã bị tan rã. Sau cuộc chiến, Ngô Vương cùng mấy ngàn tinh binh do ông chỉ huy đã nhân đêm tối chuồn hết, vượt qua sông Trường giang chạy đến Dan Đồ, đóng quân ở Đông Việt. Binh mã Đông Việt thường có trên một vạn người, Ngô Vương liền cử người triệu tập số tàn binh. Triều đình nhà Hán cử người dùng tiền vàng đi mua chuộc Đông Việt. Đông Việt liền nói dối, lừa gạt Ngô Vương Lưu Tỵ. Khi Ngô Vương đi ra ngoài uý lạo quân đội, thì Đông Việt liền cho người dùng cái qua đâm chết Ngô Vương, làm giả cái đầu lâu của ông ta cho xe phóng nhanh về giao cho triều đình nhà Hán. Con trai Ngô Vương là Lưu Tử Hoa, Lưu Tử Câu phóng đến Mẫn Việt. Từ sau khi Ngô Vương tự bỏ rơi quân đội để chạy trốn, quân phản loạn nước Ngô liền tan rã, lục tà lục tục ra hàng quân đội của Thái uý và Lương quốc. Bộ đội của Sở vương Lưu Mậu cũng bị đánh tan, Lưu Mậu phải tự sát. Quân đội do 3 chư hầu vương chỉ huy bao vây tấn công thành Truy Xuyên suốt 3 tháng dòng không đánh chiếm được. Sau khi quân đội của Chính phủ nhà Hán đến thì 3 vương Giao Tây, Giao Đông và Truy Xuyên đều tự mang quân quay về. Giao Tây vương tay trần chân đất, nằm trên đệm cỏ, uống nước lã đến nhận tội trước Thái hậu. Thái hậu Lưu Đức nói: “Quân đội Hán triều từ xa đến, ta quan sát thấy họ rất mệt mỏi, có thể tập kích họ được, mong rằng Đại vương thu thập tàn quân phát động tiến công. Cho dù không đánh bại được quân quan cuả họ thì lúc đó hãy nhảy xuống biển cũng chưa muộn”. Giao Tây vương trả lời: “Tất cả quân đội của thần đều đã bị đánh bại cả rồi, không thể chiến đấu được nữa”. Ý kiến của Thái tử không được chấp nhận. Cung Cao hầu Vĩ Đồi, một viên tướng của triều đình nhà Hán đang viết thư cho Giao Tây vương nói: “Thần phụng chiếu lệnh sẽ giết tất cả những người bất nghĩa. Nếu đầu hàng thì sẽ được miễn tội, mọi việc sẽ lại như cũ; người nào không chịu đầu hàng thì sẽ bị tiêu diệt. Ngài định làm thế nào? Phải chờ Ngài trả lời, thần mới có thể làm việc dễ dàng được”. Giao Tây vương cởi áo để trần, đi đến doanh trại quân đội nhà Hán cúi đầu phân bua: “Lưu Ấn tôi giữ phép không nghiêm, sợ sệt bàn dân thiên hạ, đã làm khổ tướng quân từ xa xôi đến đất nước nghèo khổ này. Xin hãy trừng phạt, băm vằm mổ xẻ tội ác của tôi đi. Cung Cao hầu Vĩ Đồi đang chuẩn bị những nghi thức để tiếp kiến ông, nói: “Ngài bị đám quân sự làm khổ rồi, rất mong được nghe nguyên nhân xuất quân của Ngài”. Giao Tây vương vừa cúi đầu vừa quì tiến lên nói: “Hồi đó Triều Thố là đại thần tâm phúc của Thiên tử đã thay đổi pháp lệnh đã qui định của Hán Cao Tổ, tước đoạt lãnh địa của các chư hầu vương. Chúng tôi cho rằng Triều Thố làm việc bất nghĩa, sợ hắn đồi bại sẽ nhiễu loạn thiên hạ. Bảy nước chúng tôi khởi binh, dự định dùng thủ đoạn này để giết chết Triều Thố. Hiện nay nghe nói Triều Thố đã bị xử tử, chúng tôi thận trọng đã rút quân về”. Tướng quân Cung Cao hầu Vĩ Đồi nói: “Nếu Ngài thật sự cho rằng Triều Thố là người không tốt, tại sao không tấu báo lên cho Hoàng đế biết? Ngài không có chiếu lệnh, hổ phù, tự ý phát binh công kích Hầu vương đang kiên trì chính nghĩa. Qua những hành vi này có thể thấy rõ ý đồ của Ngài quyết không phải là muốn giết chết Triều Thố”. Thế rồi ông rút chiếu thư ra đưa cho Giao Tây vương tuyên đọc. Sau khi đọc xong chiếu thư, ông nói: “Giao Tây vương, Ngài tự xử lấy đi”. Giao Tây vương trả lời: “Người như thần đây có thừa tội chết”. Thế là Giao Tây vương tự sát. Thái hậu và Thái tử của ông đều chết theo. Giao Đông vương, Truy Xuyên vương cũng đều chết cả. Hầu quốc bị phế trừ qui tụ về chính quyền Trung ương nhà Hán. Lệ Ký tướng quân cầm quân đi bao vây tấn công nước Triệu, sau 10 tháng thì đánh phá được nước Triệu. Triệu vương tự sát. Do bị ép uổng nên Tế Bắc vương không bị giết chết mà chỉ bị đưa sang Truy Xuyên để làm Quốc vương. Thoạt đầu khi Ngô Vương Lưu Tỵ khởi binh đầu tiên làm tạo phản, đã thống soái quân đội nước Sở, liên hợp với hai nước Tề,Triệu. Tháng Giêng năm Hán Cảnh Đế thứ 3 khởi binh, sau 3 tháng thì bị Chính quyền nhà Hán đập tan, chỉ có nước Triệu là bị đánh tan sau cùng. Sau khi bình định được bọn phản loạn, Hán Cảnh đế còn ban sắc lệnh phong thiếu tứ Bình Lục hầu Lưu Lễ của Nguyên vương làm Sở vương để kế tục Nguyên vương. Rồi lại đưa Nhữ Nam vương là Lưu Phi đến đất cũ của nước Ngô làm Quốc vương, xưng hiệu là Giang Đô vương. Tuyển tự “Sử ký“ Quyển 106 ĐIỀN PHẦN Vũ An hầu Điền Phần là em cùng mẹ của Hoàng hậu Hán Cảnh đế, sinh ra ở Trường Lăng. Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh đã làm đến chức Đại tướng, quyền thế hồi đó rất vang dội, còn Điền Phần chẳng qua chỉ là một viên quan nhỏ của Chư Tào Lang, chưa có danh tiếng gì cả, thường hay đến chơi với Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh ở trong phủ, cùng ăn uống với Đậu Anh, quì lạy cứ như con cháu vậy. Mãi đến cuối đời Hán Cảnh đế, Điền Phần dần dần có chức tước cao, được Hoàng đế yêu mến, được nhận chức Thái Trung Đại phu. Điền Phần rất có tài ăn nói, biện luận rất giỏi, còn nghiên cứu các sách báo “Bàn Vu”. Hoàng hậu, chị ruột của Điền Phần cho rằng ông rất có tài năng. Sau khi Hán Cảnh đế băng hà là ngày Thái tử đăng cơ thành Hoàng đế. Vương Thái hậu nhiếp chính, những biện pháp Bà dùng để trấn áp, vỗ về thần dân cả nước thường đều dùng sách lược của các tân khách ở phủ của Điền Phần. Em trai của Điền Phần là Điền Thắng được triều đình sách phong là em trai của Vương Thái hậu. Năm Hán Cảnh đế thứ 3, triều đình phong cho Điền Phần là Vũ An hầu, Điền Thắng được phong là Chu Dương hầu. Vũ An hầu Điền Phần vừa nắm quyền đã định làm Tể tướng. Ông ta cung kính tiếp đãi các quan khách, giới thiệu các danh nhân lưu sĩ với những người nhàn rỗi ở trong nhà, khiến cho những danh lưu nhã sĩ này dần dần có chức tước cao, ý đồ là dùng phương pháp lôi kéo nhân sĩ này để lật đổ quyền lực của tướng Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh. Năm Kiến Nguyên thứ nhất (năm 140 trước công nguyên), Thừa tướng Vệ Quán vì bệnh tật nên bị cách chức, Hoàng đế triệu tập các Đại thần để bàn việc bổ nhiệm Thừa tướng và Thái uý mới. Tịch Phúc khuyên Vũ An hầu Điền Phần: “Thời gian Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh làm quan cao chức trọng ở trong triều đình đã rất dài, các nhân sĩ trong triều đều ngả về phía ông ta.Hiện nay tướng quân Ngài vừa mới nổi lên, thế lực còn chưa hiển hách bằng Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh. Giả thử Hoàng đế có bổ nhiệm Ngài lên làm Thừa tướng thì Ngài cũng nên khiêm tốn, kiên quyết nhường cho Ngụy Kỳ hầu. Ngụy Kỳ hầulàm Thừa tướng, tướng quân Ngài nhất định sẽ được nhậm chức Thái uý. Kỳ thực địa vị của Thừa tướng và Thái uý là ngang hàng nhau, Ngài làm như vậy không những không tổn thất gì, ngược lại còn được tiếng là nhường Hiền”. Thế là Vũ An hầu Điền Phần liền thủ thỉ nói với Vương Thái hậu để ngầm báo lên Hoàng thượng. Thế là Hán Vũ đế liền bổ nhiệm Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh làm Thừa tướng, bổ nhiệm Vũ An hầu Điền Phần làm Thái uý. Tịch Phúc chúc mừng Ngụy Kỳ hầu và lợi dụng cơ hội này để khuyên răn Ngụy Kỳ hầu: “Bản tính của Ngài là ghét ác quí thiện, ngày nay có nhiều người tốt ca tụng Ngài, cho nên Ngài mới làm được đến chức Thừa tướng. Vậy mà Ngài vẫn căm phẫn bọn người xấu. Bọn gian tà còn rất nhiều, chúng cũng sẽ chống lại Ngài cho mà xem; nếu không thể khiêm nhường bao dung, thì sẽ bị người đời làm tiêu tan chức quan ngay lập tức”. Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh không nghe lời khuyên can ngọt ngào của Tịch Phúc. Cả hai Ngụy Kỳ hầu và Vũ An hầu đều thích học thuyết nho gia, giới thiệu Triệu Quán nhậm chức Ngự sử đại phu, Vương Tạng giữ chức Lang Trung lệnh. Tiếp nhận Lỗ Giáp Công, định thiết lập Minh Đường, để cho các chư hầu vương đến Kinh sư lập nước, xoá bỏ các cửa ải, làm cho chế độ tang phục Cát Hung phù hợp với qui tắc lễ giáo, dùng những biện pháp này để thực hiện cục diện thái bình cho thiên hạ. Kiểm tra, khiển trách những người có phẩm hạnh bất hảo trong dòng họ Đậu, khai trừ chúng ra khỏi dòng họ. Trong dòng họ Đậu có rất nhiều người ngoài là Liệt hầu. Trong Liệt hầu lại có rất nhiều người lấy công chúa, nhưng không muốn đi đến phong ấp của mình. Cho nên ngày nào Đậu Thái hậu cũng phải nghe những lời phỉ báng. Thường ngày Đậu Thái hậu rất thích học thuyết Hoàng Lão, nhưng Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh, Vũ An hầu Điền Phần, Triệu Quán, Vương Tạng v.v.. lại ra sức tuyên truyền học thuyết nho gia, bài xích tư tưởng đạo gia, cho nên Đậu Thái hậu càng ngày càng không thích nhóm Ngụy Kỳ hầu. Cho đến năm Kiến Nguyên thứ 10 (năm 139 trước công nguyên), Ngự sử đại phu Triệu Quán thỉnh cầu Hoàng đế không nên tấu báo chính vụ cho Đông cung biết. Đậu Thái hậu nghe được tin này thì rất phẫn nộ. Thế là Hán Vũ đế đành phải bãi miễn và đưa nhóm Triệu Quán, Vương Tạng đi đày. Đồng thời cũng giải trừ các chức vụ Thừa tướng và Thái uý của họ, đưa Bách Chí hầu Hứa Xương lên làm Thừa tướng, đưa Vũ Cương hầu Trang Thanh Trác lên làm Ngự sử đại phu. Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh, Vũ An hầu Điền Phần từ đó nằm lì ở nhà với thân phận Liệt hầu. Tuy Vũ An hầu Điền Phần không giữ chức vụ gì, nhưng vì ông là anh chị em ruột với Vương Thái hậu cho nên ông vẫn được triều đình ái mộ. Ông có nhiều kiến nghị lên chính vụ và thường là được chấp nhận. Những quan viên và nhân sĩ có xu thế tranh giành quyền lợi với nhau trong thiên hạ đều xa lìa Ngụy Kỳ hầu mà quay về với Điền Phần. Cho nên Vũ An hầu ngày càng trở nên kiêu căng ngạo mạn. Năm Kiến Nguyên thứ 6 (năm l35 trước công nguyên) Đậu Thái hậu qua đời. Do lo mai táng không đầy đủ cho nên Thừa tướng Hứa Xương và Ngự sử đại phu Trang Thanh Trác đã bị cách chức. Hán Vũ đế đã bổ nhiệm Điền Phần làm Thừa tướng, đưa Đại tư y Vĩ An Quốc lên làm Ngự sử đại phu. Thế là các nhân sĩ trong thiên hạ, các Thái thú quận, các phong quốc vương hầu càng dựa vào Phủ của Vũ An hầu Điền Phần. Vũ An hầu Điền Phần thân hình nhỏ bé, tướng mạo xấu xí khó coi, từ ngày sinh ra đã được nuông chiều. Ông ta cho rằng đa số các chư hầu vương tuổi đều đã cao, Hán Vũ đế vừa kế vị, tuổi còn rất trẻ, tự coi mình là tâm phúc của Hoàng đế, đảm nhiệm chức Thừa tướng của triều đình, nếu không ra sức củng cố, dùng lễ chế để bắt họ phải khuất phục mình, thì thiên hạ sẽ không cung kính mình. Đúng lúc đó Thừa tướng Điền Phần vào triều tấu báo lên Hán Vũ đế. Hán Vũ đế ngồi đối diện với ông để trao đổi ý kiến một thời gian rất dài. Những điều Điền Phần nói, những đề nghị Điền Phần đưa ra đều được Hán Vũ đế chấp nhận hết. Những người do ông đề cử, có người từ bình dân đề bạt lên 2000 thạch, dần dần chuyển quyền lực của Hoàng đế vào tay ông ta. Thậm chí Hoàng đế còn nói với Điền Phần: “Không biết các quan lại do khanh bổ nhiệm đã hết chưa. Trẫm cũng cần bổ nhiệm một số quan viên”. Điền Phần đã từng tấu thỉnh Hoàng đế cho phép ông chiếm cứ phủ đệ của quan giám khảo để mở rộng nơi ở, Hán Vũ đế phẫn nộ nói: “Sao khanh không lấy hẳn cả kho vũ khí đi !” Lúc đó Điền Phần mới lủi thủi đi ra. Điền Phần đã từng tập hợp khách khứa đến chè chén. Người anh trai của ông ngồi quay về hướng Nam, còn bản thân ông thì ngồi nhìn về phía Đông, tưởng rằng đó là sự tôn nghiêm của Thừa tướng triều đình nhà Hán, không vì có mặt người anh ở đó mà chịu lăng mạ. Do đó mà Vũ An hầu Điền Phần càng ngày càng kiêu ngạo, lộng hành, xây dựng nơi ở thật đẹp. Những ruộng đất, vườn tược mà ông ta chiếm đoạt vô cùng màu mỡ, còn vơ vét những tài sản vũ khí vô cùng quí giá của các quận huyện, người gồng gánh đi lại trên đường tấp nập. Tại tiền sảnh trong phủ đệ của Điền Phần treo những bộ chuông nhạc khí. Nhà cửa phía sau phủ của ông ta có mấy trăm phi thiếp. Ngay đến những tặng vật mà các chư hầu mang biếu Điền Phần như vàng bạc, châu báu, khuyển mã, đồ chơi không sao đếm xuể. Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh không được Đậu Thái hậu nuông chiều nữa, càng ngày càng bị Hoàng thượng xa lánh, không được tin dùng, cho nên cũng chẳng còn có quyền thế gì. Những tân khách trước đây vẫn theo Ngụy Kỳ hầu, nay cũng dần dần xa rời ông, thậm chí còn rất lãnh đạm với ông. Duy chỉ có tướng quân Quán Phu là không thay đổi thái độ trước đây. Ngụy Kỳ hầu lầm lì suốt ngày không nói, trong lòng rất buồn bực, ông chỉ tiếp đãi ân cần tướng quân Quán Phu. Trong thời gian phục táng, Quán Phu đi sang phủ Thừa tướng bái kiến Điền Phần. Thừa tướng Điền Phần tự nhiên nói với Quán Phu: “Tôi định cùng Trọng nho Ngài (Quán Phu tên tự là Trọng Nho) đến thăm Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh, nhưng không may lại gặp Ngài có tang phục”. Quán Phu nói: “Nếu tướng quân Ngài có ý định đến thăm nhà Ngụy Kỳ hầu, làm sao tôi dám lấy lý do mặc áo tang mà từ chối? Xin phép để tôi báo cho Ngụy Kỳ hầu chuẩn bị yến tiệc. Mong tướng quân sáng ngày mai đến sớm một chút”. Vũ An hầu nhận lời. Sau khi Quán Phu trở về đem toàn bộ câu chuyện đã nói với Vũ An hầu Điền Phần kể lại tỉ mỉ cho Ngụ Kỳ hầu nghe. Ngụy Kỳ hầu cùng phu nhân chỉ huy người nhà ra chợ mua thịt bò, rượu ngon, và ngay đêm đó quét dọn nhà cửa sân vườn, chuẩn bị một bữa tiệc rượu lớn cho đến lúc trời sáng bạch. Trời vừa sáng, Ngụy Kỳ hầu đã cho người quản gia thăm dò, đón tiếp. Chờ cho đến tận trưa vẫn chẳng thấy bóng dáng Thừa tướng Điền Phần đâu. Ngụy Kỳ hầu nói với Quán Phu: “Chẳng lẽ Thừa tướng lại quên mất việc lên Phủ?” Trong lòng Quán Phu rất không vui, nên đã trả lời Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh: “Với thân phận người mặc áo tang, tôi đã nhận lời, Thừa tướng không nên quên chuyện này. Tôi phải tự đi đón Thừa tướng”. Thế là Quán Phu lên ngựa, tự mình đi đón Thừa tướng Điền Phần. Thừa tướng Điền Phần chẳng qua chỉ nhận lời đùa với Quán Phu thôi, kỳ thực không có một chút ý nghĩ nào là sẽ đến phủ đệ của Ngụy Kỳ hầu. Quán Phu đi đến tận cửa nhà Điền Phần mà ông ta vẫn còn nằm ngủ. Lúc đó Quán Phu vào phủ bái kiến Điền Phần, chất vấn ông: “Hôm qua tướng quân Ngài đã nhận lời sang tôi để cùng đến thăm Ngụy Kỳ hầu. Vợ chồng Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh đã chuẩn bị rượu tiệc, chờ suốt từ tờ mờ sáng cho tới tận bây giờ vẫn chưa dám đi ăn cơm”. Nghe đoạn, Vũ An hầu Điền Phần cảm thấy vô cùng kinh ngạc, xin lỗi Quán Phu: “Hôm qua tôi uống rượu say, quên khuấy mất chẳng biết đã nói với Trọng Nho những gì”. Thế là Điền Phần lên xe đi đến nhà Ngụy Kỳ hầu, nhưng lại ỳ à ỳ ạch chậm rì rì làm cho Quán Phu càng bực mình. Chờ cho mọi người uống rượu thật say xưa, Quán Phu đứng dậy nhảy, sau đó mời thừa tướng Điền Phần cùng nhảy. Thừa tướng không đứng dậy nhảy, Quán Phu từ chỗ ngồi nói chọc tức ông ta. Ngụy Kỳ hầu liền dìu Quán Phu đi ra ngoài và nói lời xin lỗi Thừa tướng Điền Phần. Thừa tướng Điền Phần và Ngụy Kỳ hầu cùng mọi người uống mãi cho đến nửa đêm, lúc đó mới phấn khởi rời khỏi phủ đệ của Ngụy Kỳ hầu. Thừa tướng Điền Phần đã từng để cho Tịch Phúc đòi đất đai ở Thành Nam của Ngụy Kỳ hầu. Ngụy Kỳ hầu vô cùng oán trách: “Tôi tuy bị lưu đày đi xa, tướng quân tuy quyền cao chức trọng, song cũng không nên dựa vào quyền thế mà chiếm đoạt !” Thừa tướng không trả lời. Sau khi nghe nói về chuyện này, Quán Phu nổi giận đùng đùng chửi mắng Tịch Phúc. Tịch Phúc không muốn hai người bị ngăn cách, nên tự nói ra những chuyện tốt, lựa lời khuyên Thừa tướng Điền Phần: “Ngụy Kỳ hầu tuổi tác đã cao, sắp qua đời rồi nên dễ chịu đựng, thôi hãy chờ xem sao !” Chẳng bao lâu Vũ An hầu Điền Phần được biết rằng Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh và Quán Phu thực tế không muốn trả lại đất cho ông, nên ông phẫn nộ nói: “Con trai Ngụy Kỳ hầu đã từng giết người, chính Điền Phần tôi đã cứu mạng cho hắn, tôi đã cứu sống nó. Thời kỳ hầu hạ Ngụy Kỳ hầu, Điền Phần tôi không từ chối một việc gì không giúp ông ta, tại sao ông ta lại tiếc rẻ mấy khoảnh đất ấy? Tại sao Quán Phu cũng tham dự vào chuyện này? Chẳng lẽ tôi không dám đòi mảnh đất này hay sao !” Từ đó Vũ An hầu Điền Phần vô cùng oán trách Quán Phu và Ngụy Kỳ hầu. Mùa Xuân năm Nguyên Quang thứ 4 (năm 131 trước công nguyên), Thừa tướng Điền Phần tố giác nhà Quán Phu ở Dĩnh Xuyên đã hoành hành ngang ngược, nhân dân vô cùng cực khổ, tấu xin Hoàng đế kiểm tra. Hán Vũ đế nói: “Đó là việc nội bộ của Thừa tướng, việc gì phải xin ý kiến của trẫm?” Lúc đó trong tay Quán Phu cũng nắm được những việc riêng của Thừa tướng Điền Phần, cũng muốn mưu cầu có lợi thu nhận được chút tiền của Hài Nam vương. Do hai bên tân khách có sự hoà giải nên việc này dần dần thanh toán được. Mùa hè năm đó, Thừa tướng Điền Phần lấy con gái của Yến vương về làm phu nhân, có chiếu lệnh của Thái hậu, triệu tập các Liệt hầu và hoàng tộc trong triều đình đều phải đến chúc mừng. Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh đến thăm Quán Phu, định cùng đi với ông ta. Quán Phu thoái thác nói: “Tôi đã nhiều lần vì say rượu nên đã thất lễ với Thừa tướng Điền Phần, vả lại gần đay Điền Thừa tướng và Quán Phu tôi lại có sự ngăn cách”. Ngụy Kỳ hầu nói với Quán Phu: “Việc đó đã hoà giải rồi”. Cố lôi kéo Quán Phu cùng đi đến phủ đệ của Điền Phần. Mọi người uống rượu say tuý luý, Vũ An hầu Điền Phần đứng dậy rót rượu cho mọi người, mọi người có mặt đều đứng dậy cúi đầu cám ơn. Đi đến chỗ Ngụy Kỳ hầu để rót rượu cho mọi người thì chỉ có bạn cũ đứng dậy, còn những người khác đều quì gối trên chiếu. Quán Phu nhìn thấy như vậy không hài lòng. Ông đứng dậy mời rượu mọi người. Khi đến trước mặt Vũ An hầu Điên Phần, Điền Phần quì gối xuống chiếu nói: “Thần không thể uống đầy cốc được”. Quán Phu rất tức giận, nhếch mép cười nói với Điền Phần: “Tướng quân Ngài là người quyền cao chức trọng, nên uống cho hết!” Vũ An hầu Điền Phần không chịu uống hết. Quán Phu cứ lần lượt rót rượu, khi đến trước mặt Lâm Nhữ hầu thì Lâm Nhữ hầu đang thì thầm nói chuyện với Trình Bất Thức cũng không đứng lên khỏi chiếu chào Quán Phu. Quán Phu bực tức lắm liền mắng cho Lâm Nhữ hầu một trận: “Ngày thường ông coi Trình Bất Thức không đáng một xu, hôm nay tôi đến chuốc rượu mời ông, sao ông lại thì thầm bên tai như con nít vậy !” Vũ An hầu Điền Phần nói với Quán Phu: “Trình Bất Thức, Lý Quảng đều là các Vệ uý của Đông cung, Tây cung cả, hôm nay Ngài mắng Trình tướng quân trước mặt mọi người, vậy thì chẳng lẽ Ngài Trọng Nho lại không để cho Lý tướng quân một chút thể diện hay sao?” Quán Phu đáp lại: “Hôm nay có rơi đầu thủng ngực cũng không tiếc, kể chi đến Trình tướng quân hay Lý tướng quân !” Khách khứa đang ngồi bỗng đứng lên thoái thác, nói là đi nhà vệ sinh, mọi người lần lượt chuồn hết. Ngụy Kỳ hầu từ từ rời khỏi bàn rượu, phẩy tay bảo Quán Phu đi ra. Vũ An hầu Điền Phần phát điên lên nói: “Đây là cái tội tôi nuông chiều Quán Phu”. Thế rồi ông ra lệnh cho kỵ sĩ bắt giữ luôn Quán Phu. Quán Phu muốn đi ra cũng không được. Tịch Phúc đứng lên cám ơn thay Quán Phu, lấy tay ấn đầu Quán Phu cúi xuống để tạ lỗi. Quán Phu càng thêm phẫn nộ, kiên quyết không xin lỗi Điền Phần. Vũ An hầu bèn ra lệnh cho kỵ sĩ trói Quán Phu lại đưa đến chiêu đãi sở, gọi Trương Sử đến và bảo: “Hôm nay triệu tập hoàng tộc là có chiếu lệnh hẳn hoi”. Từ đó Điền Phần kích động Quán Phu chửi rủa quan viên, không kính nể khách khứa, đem nhốt ông ta vào biệt ngục. Thế rồi truy cứu các việc làm trước đây của Quán Phu và phái các quan lại chia nhau đi bắt những người trong dòng họ Quán, ghép tội cho họ. Ngụy Kỳ hầu vô cùng xấu hổ bèn đề nghị tân khách giải thích thay cho Quán Phu. Cho dù như vậy vẫn không được Điền Phần lượng thứ. Các quan lại của Vũ An hầu đều là tai mắt của ông ta, tất cả mọi người trong dòng họ Quán đều chạy trốn hoặc ẩn nấp hết. Quán Phu bị giam chặt trong ngục nên cũng không có cách nào tố giác sự câu kết bí mật của Vũ An hầu được. Ngụy Kỳ hầu đứng ra cứu Quán Phu. Vợ ông đứng ra khuyên giải Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh: “Quán tướng quân đắc tội với Thừa tướng Điền Phần, đối địch với nhà Thái hậu, chẳng lẽ lại có thể cứu được sao?” Ngụy Kỳ hầu nói: “Hầu tước là do tôi tự tranh được, nếu hôm nay tôi tự vứt bỏ nó, cho dù là như vậy thì tôi cũng phải hối hận suốt đời. Hơn nữa tôi có chết cũng không để cho Quán Trọng Nho đi chết một mình, để Đậu Anh tôi sống một mình ở trên thế gian này”. Thế là Đậu Anh không để cho người nhà biết, lẻn đi ra ngoài đệ đơn cứu Quán Phu. Hoàng đế lập tức triệu ông ta vào cung. Ngụy Kỳ hầu kể lại tỉ mỉ chuyện Quán Phu say rượu làm náo loạn cả lên, và nói rằng tội của Quán Phu cũng không phải là tội chết. Hán Vũ đế nghe xong cho rằng rất đúng, liền ra lệnh đem cơm cho Ngụy Kỳ hầu ăn, nói với ông: “Trẫm tự đến Đông cung để cùng họ tranh luận.” Ngụy Kỳ hầu đến Đông cung, ra sức tâng bốc những ưu điểm của Quán Phu, nói ông ấy uống rượu say nên đắc tội. Nhưng Thừa tướng Điền Phần thì lại lợi dụng sự việc này để xỉ vả Quán Phu và kết tội ông. Vũ An hầu lại ra sức chửi rủa Quán Phu, nói rằng ông ấy kiêu căng ngạo mạn, làm nhiều điều phạm tội. Ngụy Kỳ hầu tự thấy không còn cách nào đối phó được, cho nên đã vạch trần những nhược điểm của Thừa tướng Điền Phần Vũ An hầu. Thừa tướng Điền Phần thì lại nguỵ biện nói: “Thiên hạ thái bình, bá tính yên vui vô sự, Điền Phần khoái chí vì Hoàng đế mắc bệnh tim Tấni, chỉ còn yêu thích có âm nhạc, khuyển mã và trang trại. Những người mà Điền Phần yêu mến như ca sĩ, thợ giỏi thì không như Ngụy Kỳ hầu, Quán Phu suốt ngày đêm chỉ tụ tập những hào kiệt tráng sĩ trong thiên hạ, cùng họ bàn bạc trao đổi luận chứng, chẳng bao giờ vừa ý, không phải ngẩng đầu nhìn trời, mà là cúi gục đầu vẽ đất, nhòm ngó giữa hai cung, mong rằng thiên hạ nổi loạn, tự mình lập được đại chiến công. Tôi thật không hiểu các ông Ngụy Kỳ hầu đang làm những chuyện gì”. Lúc đó Hán Vũ đế hỏi triều thần: “Trong hai người đó người nào nói có lý?” Ngự sử đại phu Vĩ An Quốc nói: “Ngụy Kỳ hầu nói cha của Quán Phu chết vì đất nước. Quán Phu tay cầm kích đột nhập vào quân Ngô mà không biết đầu đuôi ra sao cả, toàn thân bị mấy chục vết thương, tên tuổi chấn động ba quân. Đó chính là một tráng sĩ trong thiên hạ, nếu không phạm tội tày trời, mà chỉ là tranh chấp một cốc rượu thì không nên vin vào những tội khác mà kết tội tử hình cho ông ta. Ngụy Kỳ hầu nói rất đúng. Điền Thừa tướng cũng trình bày sự câu kết giữa Quán Phu với bọn côn đồ gian ác đàn áp, lừa gạt bá tính bình dân, tài sản trong nhà thì nhiều vô kể, hoành hành bá đạo ở Dĩnh Xuyên, lăng nhục hoàng tộc, xâm phạm hoàng thân quốc thích, đó chính là điều mà người ta đã nói: “Một cành cây lớn hơn cả thân cây, cẳng chân to hơn cả bắp đùi, thủ kho to hơn thủ trưởng, kết quả nếu không gãy tan thì cũng phân liệt”. Cho nên điều Điền Thừa tướng nói cũng có ý nghĩa nhất định. Mong rằng quân vương thánh minh xem xét việc này”. Lúc đó Chủ tước đô uý Ba Ảm đã đồng tình với quan điểm này của Ngụy Kỳ hầu, lúc đó Nội sử Trịnh Tuy đồng ý với lời nói của Ngụy Kỳ hầu, nhưng sau này lại không dám kiên trì ý kiến của mình, còn các triều thần khác thì không dám phát biểu ý kiến của mình. Hán Vũ đế bực tức với nội sử: “Bình thường thì khanh nói rất nhiều về Ngụy Kỳ hầu, về Vũ An hầu, bình phẩm về ưu khuyết điểm của họ, hôm nay trong buổi bàn luận của triều đình khanh lại co ro khúm núm như khuyển mã nằm dưới càng xe, Trẫm muốn chém đầu những loại người như khanh”. Nói đoạn Hán Vũ đế tuyên bố bãi triều và đứng dậy đi vào cung tiếp Thái hậu ăn cơm.Thái hậu cũng cử người đi dò la, họ đã tấu trình lên Thái hậu tất cả tình hình mà họ tìm hiểu được. Thái hậu nghe xong thì phẫn nộ, không ăn nữa, nói: “Hiện nay ta còn khoẻ mà đã có người dùng lời lẽ làm nhục em ta, nếu ta chết đi thì có lẽ sẽ thành thịt cá mất. Chẳng lẽ Hoàng đế lại như bức tượng đá hay sao? Hoàng đế còn sống thì bọn chúng phù hoạ theo, nếu Ngài qua đời rồi thì bọn này có còn đáng tin cậy nữa không?” Hán Vũ đế khoanh tay đứng trước Thái hậu nói: “Đậu Anh, Điền Phần đều là ngoại gia của tông thất cho nên Trẫm mới để cho hai người được bàn luận trong triều đình. Nếu không loại việc này chỉ một viên cai ngục là có thể tự quyết định được”. Lúc đó Lang Trung lệnh Thạch Kiến thay Hoàng đế trình bày về từng người một. Vũ An hầu đã đi ra khỏi cung, đi đến chỗ đỗ xe thì gọi Ngự sử đại phu Vĩ An Quốc lên xe. Điền Phần phẫn nộ nói: “Ngài và Trường Nho đi ủng hộ một lão phế vật, tại sao phải làm việc lấp lửng như vậy?” Vĩ ngự sử suy nghĩ rất lâu mới nói với Thừa tướng Điền Phần: “Ngài không thể tự trọng hơn được nữa sao? Khi Ngụy Kỳ hầu mạt sát Ngài, Ngài nên bỏ mũ trả ấn mà về và nói rằng “Là tâm phúc của Hoàng thượng nên tôi mới nhận việc, chính ra thì không xứng đâu, Ngụy Kỳ hầu nói rất đúng”. Nếu như vậy tất nhiên Hoàng đế phải cho rằng Ngài có lễ nghĩa, sẽ không cách chức Ngài đâu. Tất nhiên trong lòng Ngụy Kỳ hầu cũng có lo sợ nên đã đóng cửa cắn lưỡi tự tử. Hiện nay người ta mạt sát Ngài, Ngài cũng chửi rủa người ta như hàng tôm hàng cá, như con trẻ cãi nhau, thật chẳng ra thể thống gì cả !” Vũ An hầu nhận lỗi trước Vĩ An Quốc và nói: “Lúc tranh luận tôi nhất thời vội vã, không nghĩ ra chiêu bài cao thủ này.” Hán Vũ đế sai Ngự sử căn cứ vào bản án đi điều tra những sự việc mà Ngụy Kỳ hầu nói có liên quan đến Quán Phu, nhưng có rất nhiều điều không đúng. Thế là Ngụy Kỳ hầu mắc tội khi quân mạn thượng, bị vạch tội, bị giam vào ngục cấm. Khi Hán Cảnh đế còn sống, Ngụy Kỳ hầu đã từng nhận di chiếu của Hoàng đế, trong di chiếu viết: “Nếu khi gặp việc bất lợi cho khanh, khanh có thể tâu lên Hoàng thượng ý kiến của mình”. Sau khi Ngụy Kỳ hầu bị bắt thì Quán Phu phạm trọng tội phải chu di cả họ. Sự việc rất khẩn Cập, các đại thần đều không dám thanh minh gì với Hoàng đế. Cho nên Ngụy Kỳ hầu chỉ còn cách để cho đứa cháu của mình tấu trình thanh minh việc này, hy vọng được Hoàng đế cho triệu kiến một lần nữa. Sau khi gửi thư tấu lên Hoàng đế, triều đình kiểm tra các hồ sơ ở trong cung thì không thấy bản sao di chiếu của Hán Cảnh đế khi băng hà để lại cho Ngụy Kỳ hầu. Chiếu thư chỉ còn ở trong nhà Ngụy Kỳ hầu, do người nhà sao lại rồi đem cất giữ mà thôi. Thế là có người lại khép tội Ngụy Kỳ hầu giả tạo chiếu thư của Hoàng đế mà theo tội đó thì đáng phải xử tử ném xác ra chợ. Tháng 10 năm Nguyên Quang thứ 5 (năm 130 trước công nguyên) toàn bộ triều đình xử quyết Quán Phu và cả họ nhà ông. Sau đó rất lâu, Ngụy Kỳ hầu mới được nghe tin này. Sau khi biết tin Ngài rất phẫn uất, bị trúng phong, không ăn uống gì, chỉ muốn chết. Có người nói Hoàng đế vô ý giết chết Ngụy Kỳ hầu, lúc đó Ngài mới lại ăn uống và nhận chữa bệnh. Chính ra triều đình quyết định không xử tử Ngụy Kỳ hầu, nhưng có những lời độc địa lan truyền đến tai Hoàng đế. Cho nên đến ngày cuối của tháng 12, Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh bị chém đầu đem bêu trước công chúng ở Vị Thành (thành Hàm Dương cũ). Mùa Xuân năm đó, Vũ An hầu Điền Phần ốm nặng, luôn mồm kêu gào nhận tội để cho vong hồn Ngụy Kỳ hầu Đậu Anh và Quán Phu đến bên Điền Phần giết chết ông ta. Thừa tướng Điền Phần do sợ hãi quá mà chết. Con trai là Điền Điềm đã kế thừa tước vị của Điền Phần. Năm Nguyên Sóc thứ 3 (năm 126 trước công nguyên) Vũ An hầu Điền Điềm do mặc áo ngắn vào cung đã mắc tội bất kính, bị Hán Vũ đế trục xuất. Hoài Nam vương Lưu An mưu phản, sự việc bị bại lộ, triều đình truy cứu thẩm vấn. Trước đó Hoài Nam vương Lưu An vào cung bái kiến Thiên tử, Vũ An hầu Điền Phần nhậm chức Thái uý, phụng mệnh đến Bá Thương nghênh tiếp Hoài Nam vương. Điền Phần đã từng nói với Hoài Nam vương: “Hoàng đế chưa có Thái tử, đại vương là người hiền minh nhất, lại là cháu của Hán Cao Tổ, nếu Hoàng thượng tạ thế, chẳng phải đại vương sẽ kế vị thì còn ai nữa?” Hoài Nam vương nghe Điền Phần nói thì mừng rỡ lắm, đem tặng cho Điền Phần rất nhiều của cải vàng bạc châu báu. Hán Vũ đế hiểu rõ cái chết của Ngụy Kỳ hầu và Quán Phu là oan uổng, việc xử lý Vũ An hầu Điền Phần cũng không công bằng chính trực, chẳng qua chỉ là do hồi đó Thái hậu còn khoẻ mạnh nên không thể không làm như thế được. Đến khi Hán Vũ đế nghe nói Hoài Nam vương tặng cho Điền Phần vàng bạc châu báu mới giận dữ nói: “Nếu như Vũ An hầu Điền Phần còn sống, Trẫm nhất định sẽ chu di tam tộc nhà hắn !” Tuyển tự “Sử ký ” Quyển 107 ĐẶNG THÔNG LỜI MỞ ĐẦU - Đặng Thông là người quận Nam An (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên). Dưới triều Tây Hán, hoạt động chủ yếu vào thời kỳ hai Hoàng đế Văn, Cảnh. Sự tích bình sinh của Đặng Thông có thể nối là tràn đầy sắc thái truyền kỳ. Theo các văn hiến như Hán thư “đã ghi chép: Thời kỳ đầu Đặng Thông chỉ là một người chèo đò bình thường, bị người đời gọi là “Chàng trai đầu vàng”, địa vị anh ta rất thấp, thân phận cũng hèn kém. Nhưng sau khi Hán Văn đế nằm ngủ có một giấc mơ, cuộc đời của Đặng Thông mới có chuyển biến có tính thực chất. Thì ra Hán Văn đế nhìn thấy Đặng Thông mặc bộ quần áo giống hệt như bộ trang phục của người mà Nhà vua đã thấy trong giấc mơ của mình, mà chính người đó đã đưa Nhà vua lên trời, thế là Ngài trọng đãi Đặng Thông, coi ông như một thượng khách. Bản thân Đặng Thông cũng ra sức lợi dụng và nắm chặt cơ hội hiếm hoi này, hành sự cẩn thận, luôn luôn nịnh bợ và cúc cung tận tụy hầu hạ Hoàng đế, được Hán Văn đế hết sức tín nhiệm. Như vậy là ông từ hạ tầng được đề bạt lên. Hán Văn đế không những ban thưởng cho ông rất nhiều, thậm chí còn phong Đặng Thông làm Thượng đại phu, được đãi ngộ vật chất rất hậu. Vì không muốn cho Đặng Thông sau này phải nghèo khổ, chết vì đói kém, Hán Cảnh đế đã đặc biệt phong tặng cho ông mỏ đồng ở vùng Quận Thuộc, cho phép ông được tự khai thác đồng để đúc tiền. Do đó cho nên Đặng Thông đã giàu có như một Vương hầu, tiền đồng do họ Đặng đúc ra được lưu hành khắp thiên hạ. Phú Túc thường ra lệnh cho quần thần trong triều đình và nhân dân bá tính phải cung kính, ngưỡng mộ Đặng Thông. Bản thân Đặng Thông chẳng có tài cán gì, nhưng tâng bốc, nịnh hót Hoàng đế thì rất giỏi. Hán Văn đế mắc bệnh lở loét đầy người, Đặng Thông chủ động hút mủ ở nhọt cho Hoàng đế. Về điểm này thì Hán Cảnh đế của Hoàng Thái tử cũng không thể so sánh với Đặng Thông được. Sau khi Hán Văn đế qua đời, Hán Cảnh đế Lưu Khải lên nối ngôi. Lưu Khải không thích Đặng Thông, nên đã cách chức quan của Đặng Thông, đuổi ông ta về nhà và tịch thu toàn bộ gia sản của Đặng Thông. Những ngày cuối đời, Đặng Thông chết trong sự nghèo khổ. *** Đặng Thông là người huyện Nam An, Quận Thuộc, sống bằng nghề chèo thuyền, do đó mà được gọi là “Chàng trai đầu vàng ”. Có lần Hán Văn đế nằm mơ muốn lên trời mà không được. Lúc đó có một chàng trai đầu vàng đã đẩy được Hán Văn đế lên trời. Quay đầu lại Hán Văn đế thấy quần áo của anh ta không ở trên mông mà lại ở dưới chiếc thắt lưng da. Sau cơn mơ tỉnh đậy, Hán Văn đế đi đến Tiệm Đài ở trong Tây nam Cản trì của Điện Mạt Anh để tìm một con người giống như người trong mộng đã đưa Hán Văn đế lên trời. Hán Văn đế nhìn thấy Đặng Thông thì thấy rằng quần áo mà Đặng Thông đang mặc không ở trên mông mà treo ở dưới thắt lưng da, đúng y như chàng trai đầu vàng mà nhà vua đã gặp trong giấc mộng. Hán Văn đế liền triệu kiến Đặng Thông, hỏi họ tên anh ta thì được biết anh này họ Đặng tên Thông. Chữ Đặng giống như chữ “Đăng” của chữ đăng thiên là lên trời. Hán Văn đế vô cùng phấn khởi và rất yêu chiều Đặng Thông, ngày nào cũng mời anh ta đến làm Thượng khách. Đặng Thông rất e dè, thận trọng, không giao tiếp với người ngoài, cho dù Hoàng đế có tự tay tắm gội cho, Đặng Thông cũng không chịu tình nguyện đến. Thế là Hán Văn đế lại ban thưởng cho Đặng Thông nhiều khoản tiền lớn hàng vạn lạng bạc và có tới mười mấy lần như vậy. Đặng Thông cũng được thăng chức quan là Thượng Đại phu. Thời gian Hán Văn đế trị vì thường hay bỏ thì giờ đến nhà Đặng Thông chơi. Thấy Đặng Thông chẳng có tài cán gì, đối với các sự vật trong triều đình cũng chẳng hiểu biết gì, chỉ có mỗi một điều là rất chăm chỉ, cẩn thận, đem hết sức ra phục vụ Hoàng đế mà thôi. Do vậy Hán Văn đế đã từng gọi một ông thầy bói cao tay đến xem tướng cho Đặng Thông, ông thầy bói nói: “Đặng Thông nhất định sẽ chết trong nghèo đói”. Hán Văn đế nói: “Người có thể làm cho Đặng Thông giàu có là Trẫm, tại sao lại nói anh ta sẽ nghèo khổ?” Thế là Hán Văn đế liền ban ngay cho anh ta một cái mỏ đồng tại Nghiêm Đạo ở Quận Thuộc, cho phép anh ta tự đúc tiền. Như vậy những đồng tiền do họ Đặng đúc ra được lưu thông khắp thiên hạ, Đặng Thông giàu có đến mức không ai sánh nổi. Hán Văn đế đã từng bị bệnh lở loét đầy người, Đặng Thông thường hầu hạ Hán Văn đế, hút máu mủ ở những cái mụn nhọt trên người nhà vua ra. Hán Văn đế thích thú lắm, dịu dàng hỏi Đặng Thông: “Trong thiên hạ này, ai là người yêu quí Trẫm nhất?” Đặng Thông trả lời: “Phải nói rằng trên đời này không có ai yêu quí Hoàng thượng hơn Hoàng Thái tử”. Hoàng Thái tử vào cung thăm hỏi bệnh tình Hán Văn đế, Hoàng đế yêu cầu Hoàng Thái tử hút mủ ở những cái nhọt ra. Tuy Hoàng Thái tử có hút mủ ở trong nhọt của Hán Văn đế ra, nhưng mặt cứ nhăn nhó khó coi. Sau này Hoàng Thái tử nghe nói Đặng Thông đã từng chủ động hút mủ ở nhọt của Hán Văn đế. Thái tử cảm thấy rất khó chịu. Từ đó trở đi trong lòng Hoàng Thái tử rất căm ghét Đặng Thông. Sau khi Hán Văn đế băng hà, Hoàng Thái tử lên ngôi kế vị, đó là Hán Cảnh đế. Đặng Thông bị bãi chức quan, trở về sống ở quê hương. Chẳng bao lâu sau, có người tố giác Đặng Thông đã lén lút đúc tiền riêng ở bên ngoài. Hán Cảnh đế ra lệnh cho các quan lại tra hỏi, Đặng Thông rất giàu có, người ta tố giác tội trạng của Đặng Thông, toàn bộ tài sản của Đặng Thông đã bị tịch thu đưa về Phủ. Trong nhà Đặng Thông vẫn còn khoản tiền rất lớn là món tiền do Công chúa Quán Đào Trường, con gái của Hán Văn đế tặng cho Đặng Thông, thế mà các quan lại cũng tịch thu luôn sung vào công quĩ. Ngay đến một cái trâm cài trên đầu cung thu hết. Công chúa Quán Đào Trường biết tin, liền cho người mang đến cho Đặng Thông quần áo, thực phẩm. Nhưng Đặng Thông không được nhận một đồng tiền nào và cuối cùng thì tự tử chết ở nhà một người quen, trên người không có một xu dính túi. Hồi đó có một người tên gọi Triệu Đàm,vì biết thuật chiêm tinh, hầu khí mà được Hoàng đế nuông chiều. Hoạn quan ở Cung Bắc là Bá tử là một trưởng giả, một người rất quan tâm đến người khác, cho nên được gần gũi Hoàng đế. Mặc dù như vậy, nhưng mọi hành động, cử chỉ của họ đều không thể so với sự ân huệ của Hán Văn đế đối với Đặng Thông. Tuyển tự “Hán Thư “ Quyển 93 THẠCH HIỂN LỜI MỞ ĐẦU - Thạch Hiển, tự là Quân Phòng, người Tế Nam (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) không rõ năm sinh, chết vào năm Hán Nguyên đế Cảnh Ninh thứ nhất (năm 33 trước công nguyên). Thời trẻ, Thạch Hiển rất phóng đãng, không bị ràng buộc, chẳng coi quốc pháp ra gì nên đã xúc phạm đến hình luật và bị xử tội sa đoạ. Sau khi vào cung, lúc đầu Thạch Hiển giữ chức Trung Hoàng môn, ông ta câu kết với Trung Thư lệnh Hoằng Cung, khổ tâm luồn lọt vào doanh trại, a dua bợ đỡ Hoằng Cung. Sau khi Hoằng Cung chết, Thạch Hiển được giữ chức Trung Thư lệnh thay Hoằng Cung. Sau khi Hán Nguyên đế lên ngôi, Thạch Hiển bức tử sư truyền của Hán Nguyên đế là Tiêu Vọng Chi. Từ đó Thạch Hiển lợi dụng sự tin yêu của Hán Nguyên đế, bưng bít mọi tin tức, giết hại trung thần, thanh trừng những người không cùng phe cánh.Song song với việc thanh trừng địch thủ về chính trị, Thạch Hiển còn ra sức liên hiệp với mọi lực lượng quyền quí và ngoại thích ở trong và ngoài triều đình, bố trí và trọng dụng những người thân tín của mình, mở rộng kinh doanh và khống chế Trung thư. Như vậy sẽ bảo đảm cho ông độc quyền thao túng mọi mặt triều chính, mở tiền lệ cho việc các hoạn quan chuyên quyền chủ chính ở thời kỳ Đông Hán. Là một tên gian thần, Thạch Hiển biểu hiện thật rõ nét tính cách cao ngạo, tư lợi, kiêu căng, chuyên quyền độc đoán, lòng dạ hẹp hòi, nham hiểm độc ác của hắn. Trong quá trình tự tiện nắm chính quyền, Thạch Hiển đã ép buộc Tiêu Vọng Chi phải tự sát, ám sát đại thần Trương Mãnh, bãi miễn Lưu Hương, bài xích tất cả bá quan chính trực trong triều đình. Ai mà tố giác tội trạng của hắn như Cố Quyên Chi, Tô Kiến v.v...thì Thạch Hiển đả kích không thương sót, ghép hết tội nọ đến tội kia, đưa họ đến chỗ chết. Dưới sự đè nén tột độ của Thạch Hiển, các bá quan công khanh trong triều đình hoảng sợ đến cực độ, người nào cũng cảm thấy bị nguy hiểm. Sau khi Hán Nguyên đế chết, Hán Thành đế Lưu Ngạo nối ngôi. Sau khi Thạch Hiển mất chỗ dựa, bị Hán Thành đế bãi miễn chức quan, đuổi về quê hương. Trên đường đi, Thạch Hiển tuyệt thực chết. *** Thạch Hiển, tự là Quân Phòng, người Tế Nam, Sơn Đông. Hoằng Cung là người huyện Bái. Hồi trẻ cả hai cùng ăn chơi trác táng bị kết tội sa đoạ. Vào Cung làm Trung Hoàng môn, được tuyển vào làm Trung Thượng Thư.Thời kỳ Hán Tuyên đế, đảm nhiệm chức vụ quan Trung thư. Hoằng Cung hiểu nhiều pháp luật chính lệnh cùng những câu chuyện thời xưa thuộc triều đại nhà Hán, hay giúp người và làm việc rất chăm chỉ. Hồi đó Hoằng Cung giứ chức Trung Thư lệnh, Thạch Hiển giữ chức Phó xạ. Sau mấy năm, Hán Nguyên đế lên ngôi Hoàng đế, Hoằng Cung qua đời, Thạch Hiển thay Hoằng Cung giứ chức Trung Thư lệnh. Thời kỳ này Hán Nguyên đế ốm yếu bệnh tật không thể lâm triều hành sự được, thêm vào đó,ông ta lại rất thích âm nhạc. Thời gian giao cho Thạch Hiển quản lý công việc đã rất dài. Trong số hoạn quan không có kết bè kết đảng với bên ngoài triều đình, tinh thầnlàm việc chuyên sâu cẩn thận nên rất được tín nhiệm. Cho nên Hán Nguyên đế đã giao việc triều chính cho Thạch Hiển. Tất cả mọi việc chính sự trong triều đình dù to hay nhỏ cũng đều phải tấu báo cho Thạch Hiển để ông ta quyết định. Thạch Hiển tôn kính được Hoàng thượng nuông chiều, quyền thế nổi tiếng trong triều. Bá quan trong triều ai ai cũng tôn kính Thạch Hiển. Thạch Hiển là người rất khôn khéo, sảo quyệt, làm việc tốt, có thể nắm bắt được tâm tư tình cảm của Hoàng đế. Trong lòng ông ta rất nham hiểm, rất giỏi dùng ngôn từ cay độc để khích bác, bài xích những người mà ông ta thù ghét. Động một tí là Thạch Hiển thi hành hình pháp đối với họ. Trong những năm Sơ Nguyên (năm 48 - 44 trước công nguyên), cựu tướng quân Tiêu Vọng Chi, Quang lục đại phu Chu Kham, Tông chính khanh Lưu Cánh Sinh đều giữ chức Cập sự trung. Tiêu Vọng Chi làm Thượng thư, biết rõ Thạch Hiển chuyên quyền độc đoán đã kiến nghị lên Hoàng đế, ông cho rằng: “Thượng thư là nền tảng của bá quan trong triều đình, là trụ cột của nền chính trị quốc gia, cần phải có những đại thần thông minh tài trí, dũng cảm, công chính liêm minh đứng ra gánh vác. Hán Vũ đế ăn uống linh đình ở hậu đình, cho nên đã dùng các quan hoạn, như vậy không phù hợp với các chế độ cổ đại. Cần phải đình chỉ việc sử dụng quan hoạn làm Trung thư lệnh, cần phải làm như thời xưa là không xử dụng những người đã bị nhục hình.Hán Vũ đế không nghe, do đó mâu thuẫn giữa Tiêu Vọng Chi và Thạch Hiển càng thêm sâu sắc. Sau đó Thạch Hiển đã tiến hành những âm mưu hãm hại họ, khiến cho Tiêu Vọng Chi phải tự sát, Chu Kham, Lưu Cánh Sinh thì bị cách chức, tịch thu gia sản, không được triều đình sử dụng. Tình hình cụ thể xin xem cuốn “Hán thư. Tiêu Vọng Chi truyện”. Sau đó, Thái trung đại phu Trương Mãnh, Ngụy quận Thái thú Kinh Phòng, Ngự sử Trung thừa Trần Hoặc, Sư phụ Đàm Quyên Chi v.v.. đều có biểu tấu lên Hoàng đế. Có người được triệu kiến đã vạch trần những nhược điểm của Thạch Hiển. Thạch Hiển liền kiếm cớ để truy cứu cái gọi là “Tội trạng” của những người này, rồi đem Kinh Phòng, Đàm Quyên Chi ra xử tử ngoài chợ, Trương Mãnh thì tự sát trên xe công, Trần Hoặc nhận tội bị cạo trọc đầu bêu ngoài phố. Cho đến khi huyện lệnh huyện Trịnh là Tô Kiến nhận được thư riêng của Thạch Hiển tấu lên Hoàng đế, sau đó vì những việc khác nữa nên bị kết tội tử hình. Từ đó trở đi, từ bậc công khanh trở xuống ở trong triều đình đều rất sợ Thạch Hiển, không dám sàm sỡ nữa. Thạch Hiển kết bè kết đảng với Trung thư phó Tạ Cao Lương, Thiếu phủ Ngũ Lộc sung tông, người nào đi theo họ thì được quan cao chức trọng. Hồi đó trong dân gian lưu truyền câu ca dao như sau: “Lao tà, Thạch tà, Ngũ Lộc khách tà ! Quan ấn luỹ luỹ, đô la trường liễu thụ đai !” tức là bọn Thạch Hiển kéo bè kéo cánh nắm hết quyền thế. Thạch Hiển thấy cha con Tả tướng quân Phùng Phụng Thế lànhững công khanh đại thần nổi tiếng. Con gái củaông lại là Chiêu nghi của Hoàng đế ở trong cung. Lòng dạ Thạch Hiển muốn nịnh hót họ nên trước mặt Hoàng đế đã tiến cử anh trai của Chiêu nghi làPhùng Thoan đến hầu việc chăn màn.Thiên tử triệu kiến Phùng Thoan, muốn bổnhiệm anh làm Thị trung. Phùng Thoan xin được nói những điều quan trọng. Hoàng đế nghe Phùng Thoan nói Thạch Hiển chuyênquyền độc đoán thì rất phẫn nộ, không dùng Phùng Thoan mà đuổi anh về làm Lang quan. Sau đó thiếu một người giữ chức Ngự sử đại phu, quần thần đều tiến cử anh trai của Phùng Thoan là Đại hồng lô Phùng Dã Vương, họ nói tài năng va phẩm hạnh của Phùng Dã Vương đều vào loại nhất. Thiên tử trưng cầu ý kiến Thạch Hiển, Thạch Hiển trả lời: “Trong hàng cửu khanh không còn ai thích hợp hơn là Phùng Dã Vương. Hơn nữa Phùng Dã Vương lại là anh ruột của Phùng Chiêu nghi, thần lo người sau lại cho rằng bệ hạ không dùng người hiền mà chỉ dùng những người tư ái cung thân bổ nhiệm làm tam công”. Hoàng đế nói: “Rất đúng, Trẫm không thể để người ta hiểu như vậy được”. Thế là Hoàng đế ban bố chiếu thư, biểu dương, tán mỹ Phùng Dã Vương, nhưng phế bỏ chức khanh sửđại phu của ông. Chi tiết xin xem cuốn “Hán thư. Phùng Dã Vương truyện”. Trong lòng Thạch Hiển cũng biết rõ rằng mình chuên quyền thiện thế, nắm giữ quyền bính trong triều đình, cũng sợ có một ngày nào đó Thiên tử sẽ thâu nạp những ý kiến tâm phúc của người xung quanh rồi dàan dần xa lánh mình. Cho nên Thạch Hiển thường giả bộ trung thành, chọn ra một số việc tin cậy để Hoàng đế kiểm tra. Thạch Hiển đã từng đến các phủ quan để trưng thu đồ đạc, Thạch Hiển chuẩn bị biện bạch cho mình trước, nói rằng sẽ về muộn, các cổng cung sẽ đóng mất, nên thỉnh cầu Hoàng đế ra lệnh cho các quan quân canh gác ở cổng phải mở cửa cho ông. Hoàng đế đồng ý yêu cầu của Thạch Hiển. Thạch Hiển cố ý về rất muộn, nói rằng nhận lệnh của Hoàng đế yêu cầu các quan lại gác cổng phải mở cổng cho ông ta vào cung. Sau đó, quả nhiên có người viết tấu sớ lên Hoàng đế, tố cáo Thạch Hiển đòi hỏi phải mởcổng lớn của Hoàng cung. Thiên tử xem xong bản tấu, cười và đưa tấu thư của đại thần cho Thạch Hiển xem. Thạch Hiển lợi dụng tình cảm của Hoàng đế, khóc thút thít và nói: “Hoàng đế bệ hạ tín nhiệm tiểu thần, giao cho thầnlàm một số việc, quần thần không những đố kỵ mà còn muốn hãm hại tiểu thần. Những việc tương tự như thế này không phải chỉ có lần này thôi đâu, chỉ có quân chủ anh minh mới hiểu rõ phải trái. Ngu thần ti tiện, cố nhiên không thể một mình thần có thể làm cho muôn dân phấn khởi, nên đành phải chấp nhận những lời ca thán của thiên hạ. Thần tự nguyện xin Hoàng đế trút bỏ cho thần chức vụ trọng yếu, về hậu cung gánh vác côngviệc quét dọn tạp dịch. Thần có chết cũng không có gì oán thoán. Chỉ xin Hoàng đế bệ hạ có quyết tâm cứng rắn, lấy đó để thay thế tiểu thần”. Thiên tử nghe xong thì cho rằng Thạch Hiển nói rất đúng, nên lại càng thương ông ta hơn, nhiềulần úy lạo khen thưởng cho Thạch Hiển, tăng thêm bổng lộc, tiền thưởng. ThạchHiển lần lượt đã nhận của cải tài vật ban thưởng và hối lộ trị giá trên 10 triệu quan tiền. Thoạt đầu, Thạch Hiển nghe thiên hạ xôn xao bàn tán rằn ông đã giết chết cố tướng quân Tiêu Vọng Chi. Tiêu Vọng Chi là đại nho gia nổi tiếng thời đó. Thạch Hiển sợ các học sĩ trong thiên hạ phỉ báng mình nên rất đau đầu. Lúc đó Minh kinh trứ Tiết sĩ, người Lang nha Cống Vũ là Luyện đại phu, Thạch Hiển cử người đến tỏ tình hữu hảo và thiện chí, Cống Vũ liền cấu kết ngay với Thạch Hiển. Vì thế cho nên Thạch Hiển đã bảo lãnh cho Cống Vũ trước Hoàng đế nên Cống Vũ được nhận chức vụ Cửu khanh, Ngự sử đại phu và rất chu đáo trongviệc lễ tiết, phụng dưỡng. Bên ngoài, những người trước đây hay bình phẩm thì nay lại bắt đầu tán dương Thạch Hiển, còn cho rằng THạch Hiển không thể ghen tị với Tiêu Vọng Chi được nữa. Thạch Hiển cũng áp dụng phương pháp tương tự đạt âm mưu gian ttrá để giải thoát hành vi phạm tội của mình, và mượn cớ này để gây uy tín với Hán Nguyên đế. Những năm cuối đời, Hán Nguyên đế ốm nặng không dậy được, Định Đào Cung vương được Hán Nguyên đế yêu chiều nên Thạch Hiển dồn hết sức lực đưa ông lên làm Thái tử. Sau khi Hán Nguyên đế băng hà, Hán Thành đế vừa mới kế thừa ngôi Hoàng đế, đã bổ nhiệm Thạch Hiển làm Trường tín cung Trung thái bộc, Thu trung 2.000 thạch. ThạchHiển mất đi chỗ dựa, xa rời những ngày tháng quyền thế, Thừa tướng và Ngự sử nhiều lần tấu báo những tội trạng của Thạch Hiển trước đây. Thạch Hiển cùng đồng đảng là Lao Lương, Trần Thuận đều bị Hoàng đế cách chức. Thạch Hiển và vợ bị đuổi về quê hương, buồn rầu không ăn uống gì cả rồi ốm chết trên dọc đường. Những người đã từng câu kết với Thạch Hiển, dựa vào quyền thế cuả Thạch Hiển mà được làm quan đều bị triều đình bãi miễn.Thiếu phủ khanh Ngũ Lộc Sung Tông bị giáng chức làm Thái thú quận Hoằng miễn, khanh sử Trung thừa Y gia giáng xuống làm Đô úy quận Ung môn. Trong dân gian Trường An lưu truyền câu ca dao: “Y gia bị giáng xuống Quận Ungmôn, Ngũ lộc Sung tông bị lưu đày về Quận Thỏ, Lao Lương và Trần Thuận cũng đều bị trừng phạt.” Tuyển tự “Hán thư” Quyển 9 ĐỔNG HIỀN LỜI MỞ ĐẦU - Đổng Hiền, tự là Thánh Khanh, chủ yếu hoạt động trong thời kỳ Ai đế Lưu Khâm đời Tây Hán trị vì. Sau khi Hán Ai đế Lưu Khâm qua đời, được sự giúp đỡ của Thái hậu và được Đổng Hiền cho phép, Vương Mãng ra làm phụ chính. Sau này Đổng Hiền bị Vương Mãng thay thế, ấn thao Đại tư mã của ông bị triều đình thu hồi, cả hai vợ chồng đều bị bức tử. Cuối đời Tây Hán, triều chính hỗn loạn, nền thống trị hủ bại. Sau khi Hán Ai đế lên ngôi không biết làm gì, đi nuông chiều những bọn gian nịnh, đề bạt lũ gian thần. Đổng Hiền là nhân vật tiêu biểu cho bọn gian thần này. ĐổngHiền sinh ra trong một gía đình quan hoạn, bố là Đổng Cung, đã từng làm Ngự sử trong triều đình. Đổng Hiền tuy chẳng có tài cán gì, nhưng ông ta nhờ vào phong độ bề ngoài có vẻ uyên bác nên được Hán Ai đế Lưu Khâm nuông chiều. Không những chỉ làm đến chức vụ quan trọng là Đại tư mã vệ tướng quân mà thôi, mà còn được Hán Ai đế phong cho làm Cao An hầu, một thời quyền cao chức trọng. Song songvới việc được Hán Ai đế sùng ái, gia tộc Đổng Hiền cũng được thăng tiến như diều gặp gió. Ông bố là Đổng Cung được đề bạt làm Thiếu phủ khanh, được ban thưởng tước quan Nội hầu, sau này được chuyển sang làm Vệ uý; bố vợ được bổ nhiệm làm Tướng tác đại tượng; em trai được làm Chấp kim ngô... Gia tộc nhà họ Đổng nhờ đó mà được lên mây, không ai có thể so sánh kịp. Sau đó Hán Ai đế Lưu Khâm có lúc còn cho Đổng Hiền ngồi cả lên ngai vàng của Hoàng đế. Ông ta được sùng ái đến mức nằm mơ không thấy. Thời kỳ Hán Ai đế trị vì, Đổng Hiền nhất thời hưng thịnh, điều đó tất nhiên có liên quan đến sự ân ái của Hán Ai đế, nhưng Đổng Hiền cũng là người rất mực nhu mì kỳ quái, ông ta rất giỏi xiểm nịnh quyến rũ, a dua và săn đón Hoàng đế. Chính vì vậy mà Đổng Hiền suốt một đời làm thuê làm mướn, bỗng chốc nhảy vào cung đình, điều khiển cả thiên hạ, giữ vững được địa vị cuả mình. Sau khi Hán Ai đế qua đời, gia tộc nhà họ Đổngvà gia tộc họ ngoại Vương Thị càng ngày càng có mâu thuẫn sâu sắc, cuối cùng Vương Mãng ra khỏi núi quét sạch thế lực nhà họ Đổng và độc chiếm đại quyền. *** Đổng Hiền tự là Thánh Khanh, người Vân dương. Bố đẻ của ông là ĐổngCung làm Ngự sử. Đổng Hiền được tuyển làm xá nhân của Thái tử. Sau khi Hán Ai đế kế vị, Đổng Hiền theo Thái tử làm quan lang. Đổng Hiền làm lính báo giờ ở trong cung điện được hơn 2 năm. Vì mặt mũi khôi ngô tuấn tú nên khi Hán Ai đế nhìn thấy anh thì rất thích cái vẻ đẹp bề ngoài của anh, liền hỏi thăm một người: “Có phải là Đổng Hiền, xá nhân của Thái tử không?” Do đó mà Đổng Hiền được dẫn đến gặp nhà vua để nói chuyện. Hán Ai đế bổ nhiệm Đổng Hiền làm Hoàng môn lang, từ đó anh được Hoàng đế rất sùng ái. Khi Hán Ai đế biết cha anh là Vân Trung hầu liền bổ nhiệm ngay anh làm Bá lăng lệnh, rồi đề bạt lên làm Quang lục đại phu. Đổng Hiền càng ngày càng được yêu chiều, được giữ chức Phó mã đô úy thị trung, đi ra ngoài thì được ngồi xe, vào cung được hầu bên hoàng đế. Ngày tháng trôi qua, anh được ban thưởng có tới hàng vạn lạng bạc, nổi tiếng quyền quí khắp triều đình. Đổng Hiền thường được nằm cùng giường với hoàng đế. Ban ngày Đổng Hiền được ngủ cùng hoàng đế, anh nằm gối đầu lên tay áo của hoàng đế. Sau khi tỉnh dậy, Hán ai đế muốn đi ra khỏi giường, nhưng ĐổngHiền còn ngủ rất say chưa tỉnh, hoàng đế không muốn đánh thức Đổng Hiền dậy, thế là nhà vua bèn xé cánh tay áo ra để trở dậy. Hán Ai đế yêu chiều Đổng Hiền đến mức như vậy. Tích cách Đổng Hiền cũng nhu hoà xu nịnh, rất giỏi quyến rũ hoàng đế để mong củng cố được vị trí của mình. Mỗi lần hoàng đế cho Đổng Hiền được nghỉ phép, anh đều không về làng, thường ở lại trong cung để nghiên cứu y dược.Hoàng đế cho rằng Đổng Hiền không thể rời khỏi hoàng cung được, nên đã đặc biệt ra lệnh đón vợ Đổng Hiền vào cung, cho phép nàng được ở trong cung, được cư trú ở trong phu quan như vợ các quan viên khác vậy. Hán Ai đế còn phong cho em gái của Đổng Hiền làm Chiêu Nghi, về địa vị thì chỉ sau có Hoàng hậu, đổi tên phòng ở cuả nàng là “Tiêu phong” để cho tương phối với nơi ở của Hoàng hậu là “Tiêu phòng”. Đổng chiêu nghi và Đổng Hiền cùng vợ của ông phụng dưỡng Hán Ai đế suốt ngày đêm. Hán Ai đế ban thưởng cho Đổng chiêu nghi và vợ của Đổng Hiền mỗi người có tới ngàn vạn quan tiền. Hoàng đế còn đề bạt bố đẻ ra Đổng Hiền làm thiếu phủ khanh, ban tước quan nội hầu, hưởng thụ thực ấp, sau đó lại phong làm vệ uý. Hán Ai đế còn để cho bố vợ cuả Đổng Hiền làm thợ cả, để cho em trai của ông làm Chấp kim ngô. Hoàng đế còn hạ lệnh xây dựng cho Đổng Hiền một phủ đệ qui mô hùng tráng, có tiền điện, hậu điện, cửa cổng tương đương, các công trình thổ mộc cực kỳ tinh xảo, hào hoa tráng lệ, cột nhà và lan can phải trang sức sơn son thếp vàng. Thậm chí những nô bộc ở trong nhà Đổng Hiền cũng đều được Hoàng đế ban tặng những khí vậy có liên quan đến vũ khố cấm binh cùng thượng phương trân bảo. Tất cả những vật phẩm tinh vi quí giá được lựa chọn những thứ thượng hảo hạng đều thuộc về gia đình họ Đổng, thậm chí đến cả những mật khí, châu nhu ngọc hạp cũng đều là những vật chuẩn bị để ban tặng cho Đổng Hiền, không có một thứ gì là không chuẩn bị sẵn sàng. Hán Ai đế còn hạ lệnh cho thợ lành nghề xây cho Đổng Hiền lăng mộ bên cạnh nghi lăngcủa hoàng đế, tiện phòng ở giữa phải dùng gỗ bách thật cứng để làm đề tấu, bên ngoài phài có đường đi dạo, bức tường bao quanh dài có tới mấy dặm, bậu cửa, chấn song phải cực kỳ tráng lệ. Hán Ai đế định phong hầu cho Đổng Hiền, nhưng lại chưa có dịp. Đúng lúc đó thì đãi chiêu Tôn Long, Tức Phu Cung v.v...cáo phát Vương hậu Yết của Đông Bình vương Lưu Vân đã chửi bới ở trong đền thờ, Hán Ai đế liền hạ lệnh cho các ngành hữu quan phải trừng trị, họ đều nhận tội chịu phạt. Thế là Hán Ai đế liền hạ lệnh cho Tôn Long, Tức Phu Cung v.v...nói rằng Đổng Hiền đã cáo phát tội trạng của Đông Bình vương, do có công đó mà phongcho Đổng Hiền làm Cao An hầu, cho Tức Phu Cung làm Nghi Lăng hầu, cho Tôn Long làm Phương Dương hầu, mỗi người đều được phong ấp 1.000 hộ. Chỉ ít lâu sau lại phong tặng cho Đổng Hiền trại ấp 2.000 hộ. Thừa tướng Vương Gia trong lòng rất hoài nghi bản án oan của Đông Bình vương, vô cùng căm giận bọn người như Tức Phu Cung, njhiều lần đấu tranh khuyên gián Hán Ai Đế, cho rằng hành động của Đổng Hiền là làm rối loạn chế độ quốc gia. Vì khuyên gián Hoàng đế mà Vương Gia phải ngồi tù rồi bị chết ở trong ngục. Khi Hán Ai Đế vừa thừa kế ngôi vua thì tổ mẫu Truyền thái hậu và mẫu thân Đinh thái hậu đều cònkhoẻ mạnh. Hai gia đình Truyền thị và Đinh thị đều được hưởng phú quí. Người em trai của Truyền thái hậu là Truyền Hỉ được bổ nhiệm làm quan Đại tư mã, làm phụ chính ở trong triều. Ông đã nhiều lần khuyên can, nhưng không vừa lòng thái hậu nên đã bị cách chức. Cậu của Hoàng đế là Đinh Minh thay Truyền Hỉ làm Đại tư mã, cũng đã hết lòng với chức vụ này, ông ta vô cùng ghen tức vì Đổng Hiền được sùng ái. Sau khi thừa tướng Vương Gia bị chết ở trong ngục, Đinh Minh rất đồng tình với Vương Gia. Hán Ai Đế càng coi trọng Đổng Hiền hơn, định để cho Đổng Hiền thay Đinh Minh làm Đại tư mã, vô cùng căm ghét Đinh Minh nên đã hạ lệnh cách chức Đại tư mã của Đinh Minh, nói rằng khi Lưu Vân, cựu Đông Bình vương lên ngôi Hoàng đế đã không làm đúng nghi lễ. Cậu của Vương hậu Lưu Vân là Ngũ Hồng đã dùng y thuật để thị chiếu, câu kết với Dương Hoằng, bí thư lang của nhà trường để mưu phản, gây rối, dựa vào sự phù hộ của thần linh miếu mạo, Đổng Hiền đã kịp thời phát hiện và tố cáo, tất cả bọn Lưu Vân đã bị đền tội. Người em họ của Đinh Minh là đô uý Đinh Ngô, tộc phụ là hiệu uý Đinh Tuyên đều biết Ngũ Hoằng rất thân mật với Vương hậu chư hầu Hủ Đan, Đinh Tuyên dùng Hủ Đan để cai quản bọn thuộc hạ. Đinh Ngô và Ngũ Hoằng đi lại câu kết với nhau, quan hệ rất chặt chẽ, nhiều lần tiến cử Ngũ Hoằng. Ngũ Hoằng dựa vào Đinh Ngô mà sinh ra tà tâm ác ý, nhờ vào việc biết y thuật mà được may mắn nên dã làm tổn hại đến quốc gia. Vì lý do lễ cống Hoàng hậu Đinh thị, trẫm không muốn nói ra. Tướng quân quyền cao chức trọng lại không muốn ra tay, tiêu diệt bọn phản loạn ngay từ lúc chưa nổ ra, cũng không căm hận những tội ác của bọn Lưu Vân, Ngũ Hoằng, lại đi nghi ngờ là cách xử trí của chúa thượng là sai lầm, đi đón tiếp bọn Đinh Tuyên, Đinh Ngô, trái lại còn căm thù những người tố giác Lưu Vân, gây nên những nỗi oan uổng. Trước mặt trẫm, khanh nói rằng y thuật của Ngô Hoằng rất cao, xử tử thì rất tiếc, khanh nói rằng nhóm Đổng Hiền rất vinh hạnh được phong tặng. Khanh đố kỵ với những trung thần quân tử như vậy, chèn ép những người ó công, điều đó làm cho người ta rất đau lòng. Cổ nhân có nói: “Vua mà không có tướng thì sẽ bị diệt". Cho nên Lý Hữu Trấm giết Thúc Nha, sách “Xuân Thu" lại ca tụng ông ta, Triệu Thuẫn không giết bọn cướp, sach “Xuân Thu" nói rằng ông ra đã giết Quốc vương. Trẫm ra lệnh nghiêm trị tướng quân, cho nên Tứ thư sắc cáo. Tướng quân không những không hối cải, trái lại còn liên hiệp với thừa tướng Vương gia, để cho Vương gia có chỗ dựa để mà lừa dối Hoàng thượng. Các ngành có liên quan phải đưa tướng quân vào vương pháp, phải tống giam vào ngục. Trẫm có nghĩ đến nghĩ đến việc tướng quân là thân thích của Cung Hoàng hậu, được sự ưu ái của Cơ phu, nên không nhẫn tâm nghiêm trị. Có thể thu hồi chức phiêu kỵ tướng quân, cách chức quan đuổi về nhà." Thế là Hán Ai Đế đưa Đổng Hiên lên thay Đinh Minh làm Đại tư Mã, Vệ Tướng quân. Lúc này Đổng Hiền mới có 22 tuổi, không những uy danh lẫm liệt mà còn có chức vụ cao, văn võ bá quan ai nấy đều răm rắp tuân theo Đổng Hiền. Ông thấy rằng cha đẻ của mình là Đổng Cung không nên để ở chức Khanh, nên đã đổi cho ông làm Quang Lục đại phu, được thưởng 2000 thạch. Em trai của Đổng Hiền là Đổng Khoan Tín thay Đổng Hiền giữ chức phò mã đô uý. Họ hàng thân thuộc nhà họ Đổng đều được đều được đảm nhiệm các chức quan như thị trungm chư doanh, phụng triều thỉnh v.v.. Tất cả bọn họ đều được tôn trọng, ưu ái hơn họ ngoại Đinh thị và Truyền thị nhiều. Sang năm sau, dân Hung nô đến Trường An, vào triều để ýet kiến Hán Thiên tử. Khi Hán Ai Đế thết tiệc mời họ thì các đại thần nhà Hán xếp hàng ở phía trước. Hung nô Đan Vu nhìn thấy Đổng Hiền trẻ quá thì vô cùng kinh ngạc, ben sai phiên dịch hỏi rõ nguyên do chuyện náy. Hán Ai Đế bảo phiên dịch nói với Hung nô Đan Vu rằng: “Đại tư Mã tuy trẻ tuổi, nhưng đưa ông ta lên vì hiền tài và chức vị”. Thế là Đan Vu Hung nô liền đứng dậy cúi chào, chúc mừng triều đình nhà Hán đã cầu được hiền thần. Lúc đầu, khi thừa tướng Khổng Quang còn làm Ngự sử đại phu, thì cha của Đổng Hiền là Đổng Cung mới chỉ là Ngự sử, là thuộc hạ của Khổng Quang. Đến khi Đổng Hiền làm Đại Tư Mã, cũng là tam công, ngang hàng với Khổng Quang. Hán Ai Đế cố ý để Đổng Hiền đến thăm Khổng Quang vì việc riêng. Khổng Quang là người caop nhã cẩn thận, biết rằng Hoàng để muốn tôn vinh Đổng Hiền. Chờ khi có tin Đồng Hiền đến, Khổng Quang mũ áo chỉnh tề ra nghênh đón tận ngoài cửa, đến khi nhìn thấy chiếc xe của Đổng Hiền từ xa ông mới quay vào. Sau khi Đổng Hiền vào đến cửa giữa, Khổng Quang vào trong Các, chờ Đổng Hièn xuỗng xe, Không Quang tiến đến bái yết Đổng Hiền, đón tiếp ông ta rất chu đáo, tế nhị, không dám dùng nghi lễ như chủ khách. Sau khi Đổng Hiền ra về, Hán Ai đế biét như vậy thì rất vui mừng, liền phong cho con của hai người anh em của Khổng Quang làm Gián đại phu thường thị. Từ đó trở đi quyền lực và uy thế của Đổng Hiền càng cao. Lúc đó, họ ngoại của Hán Thành Đế la gia tộc Vương thị đang suy tàn, chỉ có con trai của Bình A Hầu Vương Đàm là Vương Khứ Tật, vì là thái tử của Hán Ai Đế, với thân phận là thứ tử nên rất được chiều chuộng. Hán Ai Đế lên ngôi, Vương Khứ Tật được cử làm đô uý thị trung kỵ. Hán Ai Đế cho rằng Vương thị không có người làm quan, nên đã bổ nhiệm Vương Khứ Tật là người thân tín của ân nhân cũ, rồi lại đề bạt em của ông ta là Vương Hoằng làm Trung thường thị. Bố vợ Vương Hoằng là Túc Hoặc là con trai của Túc Vọng Chi, nguyên là tướng quân đã từng làm Quận thái thú một thời gian dài, vì ốm nên bị miễn chức, làm trung lang tướng. Vương Khứ Tật là anh em với Đồng Liệt. Bố của Đổng Hièn là Đổng Cung rất ái mộ ông ta, muốn kết thành thông gia với họ. Vương Hoằng muốn hỏi con gái của Túc Hoặc làm vợ của em trai của Đổng Hiền là phò mã đô uý Đổng Khoan Tín, Túc Hoặc rất sợ, không dám nhận lời, nói riêng với Vương Hoằng rằng “Đổng Hiền là Đại Tư Mã, trong schs văn của Hoàng thượng đã có câu “Doãn chấp kỳ trung", đó là văn tự Đường Nghiêu nhường ngôi cho Ngu Thuấn chứ không phải là chuyện kể của Tam Công, trưởng lão mà thấy không thể không khiếp sợ. Chẳng lẽ điều này con một người thứ dân lại có thể đảm đương được hay sao?!" Vương Hoằng rất thông minh, nghe Tiêu hoặc nói, trong lòng ông dã hiểu là điều gì. Thế là ông quay về hội báo với Đổng Cung, tha thiết nói lên tinh thần tự ti, nhún nhường của Tiêu Hoặc. Đổng Cung thở dài nói: "Họ Đổng nhà tôi có người nào đắc tội với thiên hạ mà bị mọi người sợ hãi đến như vậy!" và trong lòng rất không vui. Sau đó Hán Ai Đế thết tiệc rượu ở Điện Kỳ Lân, cha con Đổng Hiền và những người thân thuộc cũng tham gia tiệc rượu này. Anh em Vương Hoằng như thị trung, trung thường thị đều có mặt trong bữa tiệc. Hán Ai Đế uống rượu rôì ung dung cười nói với Đổng Hiền: "Trẫm định thực hiện việc Đường Nghiêu nhường ngôi cho Ngu Thuấn, các khanh thấy thế nào?" Vương Hoằng tiến lên khuyên giải: “Thiên hạ vẫn là thiên hạ do Hán Cao tổ lập ra, không phải là thiên hạ của bệ hạ. Bệ hạ tiép tục duy trì tông miếu xã tắc, nên truyền ngôi cho con cháu, không nên giữ mãi đến vô cùng tận mới là đúng. Cơ ngiệp chính thống của quốc gia thật vô cùng quan trọng, thiên tử không thể nói chơi như vậy được!" Hán ai đế mặc nhiên chẳng nói chẳng rằng, trong lòng rất không phấn khởi,quần thần xung quanh nghe vậy thì rất sợ hãi. Thế là Vương Hoằng bị Hoàng đế đuổi ra khỏi Điện Kỳ Lân, sau đó không bao giờ được đóc Hoàng đế trong các bữa tiệc rượu nữa. Phủ đệ của Đổng Hiền vừa mới xây dựng xong, công trình vô cùng kiên cố. Thế nhưng cống lớn bên ngoài nhà Đổng Hiền thì tự nhiên vô cớ lại đổ sụp. Trong lòng Đổng Hiền rất không phấn khởi., mấy tháng sau thì Hán Ai Đế qua đời. Thái hoàng thái hậu triệu kiến Đại Tư Mã Đổng Hiền và đã gặp ông ở trong Đông sương phòng, hỏi ông về phương pháp điều độ việc tang. Đổng Hiền trong lòng lo lắng, không sao trả lời được. Thái hậu nói: "Ngày trước, Tân đô hầu Vương Mãng là Đại tư Mã đã tổ chức đại hành tiên đế, là người rất thông hiểu chuyện lễ nghĩa, ta cho Vương Mãng làm phụ tá cho ông”. Đổng Hiền nghe xong liền cúi đầu cảm tạ. Thái hậu cho sứ tiết triệu kiến Vương Mãng. Sau khi Vương Mãng đến, với danh nghĩa thái hậu sai thượng thư tố cáo Đổng Hiền trong thời gian Hoàng đế ốm đã không chữa chạy, cấm chỉ Đổng Hiền hành động, không cho ông ta tuỳ ý ra vào cung điện và phủ Tư mã. Đổng Hiền không biết làm thế nào, đến hoàng cung cúi đầu chịu tội. Vương Mãng cử xứ giả dùng chiếu lệnh của Thái hậu đến điện Khuyết hạ ra lệnh cho Đổng Hiền rawngf “Gần đây âm dương bất điều, tai hoạ liên tiếp xảy ra, dân chúng bị tai hoạ. Tam Công là phụ chính đại thần quan trọng của nước nhà, Cao an hầu Đổng Hiền chưa kinh qua thử thách, làm Đại Tư Mã thì không hợp với lòng dân. Phải thu hồi mũ áo cân đai Đại Tư Mã, cách chức đưa về nhà”. Ngay ngày hôm đó, Đổng Hiền cùng với vợ, hai người đa tự vẫn chết, cả nhà đều khiếp sợ, ngay đêm hôm đó vội vàng chôn cất thi hài họ. Vương Mãng hoài nghi vợ chồng Đổng Hiền là chết giả. Các ngành cóliên quan tấu thỉnh triều đình mở quan tài Đổng Hiền ra, đưa vào ngục để kiểm chứng. Vương Mãng lại chỉ thị cho Đại Tư đồ Khổng Quang tấu báo: “Đổng Hiền tính tình xảo quyệt, dựa vào gian mưu để được phong hầu, cha con chuyên quyền trong triều, anh em được quí trọng, thu rất nhiều bổng lộc, xây dựng trại ấp phủ đệ khang trang, tu tạo phần mộ, khoa trương vô độ, không tuân theo khuôn pháp vương triều, tiêu phí tiền tài tới ngàn vạn lạng, quốc khố do đó mà rỗng không. Cha con họ kiêu căng ngạo mạn, bất kính sứ giả của thiên tử, thu bổng lộc mà không baói tạ thiên vương, tội ác tày trời. Đổng Hiền phục tội tự sát, sau khi chết, bố ông ta là Đổng Cung vẫn không hối cải sửa chữa, vẫn dùng cchất chu sa để sơn quan tài, vẫn trang hoàng điêu khắc phong cảnh bốn mùa, bên trái vẽ rồng xanh, bên phải vẽ bạch hổ, hình vẽ bên trên có mặt trời mặt trăng bằng vàng bằng bạc, trong quan tài có rất nhiều châu báu không sao bì nổi. Những người như Đổng Cung may mắn không bị chu di, nhưng không được ở trong Kinh sư nữa. Các quan viên đại thần kiến nghị tịch thu toàn bộ tài sản nhà họ Đổng sung vào công quĩ. Còn những người dựa vào Đổng Hiền mà được tăng quan tiến chức sẽ bị bãi miễn toàn bộ”. Cha của Đổng hiền là Đổng Cung, em trai Đổng Khoan Tín và gia thuộc cùng bị đưa đến Hợp phố, nhưng mẹ đẻ của ông ta thì được đưa về quê hương Cự Lộc. Thường dân trong thành Trường an vui mừng phấn khởi, giả vờ khóc thương em ông ta, nhưng thực tế là muốn đến cướp bóc. Quan phủ phát mại tài sản nhà họ Đổng, tổng cộng giá trị lên tới 430 triệu lạng. Sau khi Đổng Hiền chết rồi lại conf bị quật quan tài lên để kiểm tra thi thể, do đó mà bị chôn lần thứ hai ở trong ngục thất. Chu Hử, người huyện Bái trước đây vẫn được Đổng Hiền hậu đãi nay tự xin ra khỏi phủ Đại Tư Mã. Ông ta mua một cỗ quan tài, giấu thi hài Đổng Hiền vào đó để đem chôn. Sau khi Vương Mãng biết thì nổi giận đùng đùng, kiếm cớ Chu Hử có tội khác để giết chết. Con Chu Hử là Chu Phù được nổi danh trong thời kỳ Kiến Vũ, làm quan đến chức Đại Tư Mã, Tư Không, được phong hầu. Trong thờikỳ Vương Hoằng, Vương Mãng còn làm quan thì anh ta làm chân chăn cừu, vô danh tiểu tốt. Sau khi Vương Mãng bị ốm yếu đã xin từ quan. Hán Th: ế Tổ hạ chiếu nói: “Sau khi Chu Vũ vương lật đổ triều đình nhà Thương đã thu thập hiền nhân. Vương Hoằng là người tu thiện cẩn sắc, thời kỳ chiến loạn, trong số quan lại chỉ có ông ta là người không tranh chấp địa vị. Hiện nay có thể để cho con cuả Vương Hoằng lên thay làm quan”. Anh ta từ lính trở thànhquan, nghe nói đó là cháu ngoại của Tiêu Hoặc. Tuyển tự “Hán Thư" Quyển 93 LƯƠNG KÝ LỜI MỞ ĐẦU - Lương Ký, tự là Bá Trác, người vùng An Định Ô Thị (nay thuộc Tây Bắc huyện Bình Lương, tỉnh Cam Túc), là một gian hùng trứ danh thời kỳ Đông Hán. Lương Ký xuất thân trong một gia đình quan lại, thoạt đầu làm việc cho Lương ích Nhĩ đại phu nước Tấn. Trong thời nhà Hán, gia tộc họ Lương tương đối giàu sang phú quí. Bố của Lương Ký là Lương Thương làm đến chức Đại tướng quân, được nhận vào gia tộc họ Thừa.Con gái và em gái của Lương Thương bị Hán Thuận đế nom thấy liền tuyển ngay vào cung làm Hoàng hậu và Quí nhân của Hán Thuận đế. Con trai của ông là Lương Ký hoàn toàn ngược lại với người cha tính tình ôn hoà khiêm tốn. Sau khi làm quan Lương Ký vô cùng tàn bạo, dâm loạn cực kỳ, hoành hành bạo ngược, gây nhiều tai hoạ cho bá tính, do đó mà trở thành một tên gian thần nổi tiếng xấu xa trong lịch sử nhà Đông Hán. Lương Ký xuất thân hiển hách, thời kỳ người cha còn sống, Lương Ký đã giả dối bất nhân, làm những điều tà bậy, thậm chí còn sai người đi ám sát người khách của bố từ Lạc Dương tới. Năm Vĩnh Hoà nguyên niên (136) tham gia đánh Kim Ngô nên được đề bạt làm Hà Nam doãn. Cha của Lương Ký là Lương Thương vừa chết đi thì Lương Ký được bổ nhiệm làm Đại tướng quân. Sau khi Thuận đế băng hà, Lương Ký lập ra 3 hoàng đế là Xung, Chất, Hoàn, nắm quyền bính trong triều đình gần 20 năm, đúng là “Thịnh vượng đến tột cùng, quyền uy khắp trong ngoài, trăm họ đều nhìn thấy, không ai dám cưỡng lại". ("Hậu Hán thư. Lương Ký truyện"). Về mặt chính trị, Lương Ký tiêu diệt hết những người chống đối, lợi dụng Hoàng đế còn non trẻ, nắm toàn bộ quyền bính trong triều, đề bạt những người thân tín, cài đặt bọn tay chân làm tai mắt, hoành hành bạo ngược. Về mặt kinh tế, Lương Ký lợi dụng chức quyền tha hồ vơ vét, tham ô hối lộ, tụ tập những bọn tài phú gian ác, thậm chí không từ cả việc tạo ra những tội danh giả để cướp đoạt tài sản của những nhà giàu. Về đời sống thì kiêu căng ngoạ mạn, dâm ô truỵ lạc, cưỡng hiếp con gái có sắc đẹp, xây dựng nhiều nhà cửa cho mình. Tóm lại trong thời kỳ Đông Hán, Lương Ký đúng là con người tiêu biểu cho sự hủ bại truỵ lạc và nền chính trị đen tối của triều đình. Có thể nói rằng Lương Ký là nhân vật điển hình đại gian đại ác, hoành hành ngang ngược, chuyên quyền độc đoán của dòng họ ngoại đời nhà Hán. *** Lương Ký tự là Bá Trác. Bề ngoài ông ta vai u thịt bắp, đôi mắt cú vọ, luôn luôn nhìn thẳng, mồm nói lắp bắp, chỉ có thể làm sổ sách. Hồi còn nhỏ, Lương Ký là người hiển quí, an nhàn du đãng, phóng túng tư tình. Lương Ký là con ma men bẩm sinh, anh ta có thể chơi suốt đêm như chơi cờ, đánh bài, đá cầu, sóc đĩa v.v.. Ngoài ra Lương Ký còn thích bắt chim, đi săn, cưỡi ngựa, chọi gà v.v.. Mới đầu Lương Ký làm Hoàng môn thị lang, chuyên nhiệm thị trung, rồi cũng làm dũng sĩ trung lang tướng, cùng với việt kỵ hiệu uý, bộ binh hiệu uý đánh Kim Ngô. Năm Vĩnh Hoà nguuyên niên, Lương Ký được cử làm Hà Nam doãn. Thời kỳ Lương Ký làm quan vô cùng bạo ngược, gây ra không biết bao nhiêu việc phạm pháp. Bố Lương Ký là Lương Thương có người bạn thân là Lữ Phóng, huyện lệnh Lạc dương. Trước mặt Lương Thương, Lữ Phóng thường hay vạch những nhược điểm của Lương Ký ra. Lương Thương đã tráchmắng Lương Ký. Lương Ký bèn sai người ám sát Lữ Phóng trên đường đi. Hắn sợ bố Lương Thương sẽ điều tra ra chân tướng của việc Lữ Phóng bị sát hại liền vu cho những người có oán thù với Lữ Phóng, thỉnh cầu đưa em trai của Lữ Vũ lên làm Lạc Dương lệnh, lại cử người đi bắt họ, giết hết gia tộc, bằng hữu, khách khứa nhà họ Lữ có đến hơn 100 người. Sau khi Lương Thương chết, thi hài còn chưa được chôn cất, Hán Thuận Đế đã cử Lương Ký làm Đại tướng quân, cử em trai Lương Ký là thị trung Lương Bất Nghi làm Hà Nam doãn. Cho đến sau khi Hán Thuận Đế băng hà, Hán Sung Đế còn đang ẵm ngửa, thái hậu lâm triều chấp chính, chiếu lệnh cho Lương Ký cùng với Thái truyền Triệu Tuấn, thái uý Lý Cố cùng tham lục thượng thư sự. Tuy Lương Ký nói năng không lưu loát, nhưng hành động tàn bạo của ông ta thì ngày càng quyết liệt. Sau khi Sung Đế băng hà, Lương Ký đưa Hán Chất Đế lên ngôi. Hán Chất Đế tuy còn nhỏ tuổi nhưng rất thông minh hiền hệ. Ngài biêt Lương Ký kiêu căng ngoạ mạn, ngay trước mặt các triều thần, ông nhìn thẳng vào Lương Ký và nói: “Đây là một tướng quân kiêu căng ngạo mạn, ngang ngược tàn ác, dối trên lừa dưới”. Lương Ký nghe vậy thì trong lòng vô cùng căm thù Hán Chất Đế, thế là hắn ra lệnh cho tay chân thân tín bỏ thuốc độc vào bánh, Hán Chất Đế ăn phải bánh có độc và đã bị chết ngay ngày hôm đó. Lương Ký lại đưa Hán Hoàn Đế lên làm quân vương, rồi vô cớ sát hại thái uyư Lý Cố và tiền thái uý Đỗ Kiều, làm cho người người trong thiên hạ dị nghị và khiếp sợ. Sự kiện này đã được ghi trong "Hậu Hán thư. Lý Cố truyện". Năm Kiến Hoà nguyên niên (147) triều đình Đông Hán đã từng phong tặng Lương Ký một trại ấp có 13.000 hộ, cho phép ông ta được đặt ở trong phủ Đại tướng quân cao đệ mậu tài. Quan thuộc của Lương Ký vượt gấp đôi Tam Công. Triều đình lại phong cho Lương Bất Nghi làm Dĩnh Dương hầu, phong cho em trai của Lương Bất Nghi là Lương Mông làm Tây Bình hầu, phong cho con trai của Lương Ký là Lương Dận làm Tương ấp hầu, mỗi người được Cập trại ấp 10000 hộ. Năm Hoà Bình nguyên niên (150), triều đình Đông Hán lại phong tặng lần thứ hai cho Lương Ký trại ấp một vạn hộ, cộng cả lần trước là 3 vạn hộ. Tế Tuyên, người Hoằng nông là người gian dâm tà ác, muốn được lòng Lương Ký, nên đã viết tấu chương lên triều đình, ca ngợi Đại tướng quân Lương Ký có công lao như Chu Công, ngày nay đã phong tước cho các con của ông, vậy thì vợ của ông cũng nên được phong làm chúa ấp, thế là triều đình liền ra chiếu lệnh phong cho vợ cuả Lương Ký là Tôn Thọ làm Tương Thành quân, đòng thời thu tô vùng Dương Địch, mỗi năm thu được khoảng 50 triệu, ngoài ra còn bổng lộc, thật chẳng kém gì Công chúa trưởng. Tôn Thọ là người đàn bà rất đẹp, lại biết trang điểm kiều diễm, nét ngọc mày ngài, phấn son xoa dưới đôi mắt, cứ như khóc lóc nỉ non vậy, tóc chải búi, lệch về một bên, chân không cân đối với người, lúc cười cứ như người đau răng, trông chả tươi vui tí nào cả. Tôn Thọ lợi dụng sắc đẹp của mình để lôi cuốn người khác. Bản thân Lương Ký cũng thay đổi chế độ xe ngựa, sửa thành chiếc xe có mui, đội mũ hẹp, dùng lụa gấp thành góc ở bên trên, có cánh lớn, mình mặc áo đơn giông đuôi chồn. Tính cách Tôn Thọ hay đố kỵ, có thủ đoạn, có thể mắng mỏ Lương Ký, cho nên Lương Ký vừa sùng ái vừa sợ bà ta. Thoạt đầu, cha của Lương Ký là Lương Thương tiến cống Hán Thuận Đế một mỹ nữ tên là Hữu Thông Kỳ. Vì mắc một lỗi nhỏ mà Hữu Thông Kỳt bị Hán Thuận Đế đuổi ra khỏi cung, trả lại cho Lương Thương. Lương Thương không dám giữ cô ta lại, liền đem gả Hữu Thông Kỳ cho người khác. Lương Ký liền cử ngay tân khách của Cập dưới đi cướp Hữu Thông Kỳ về. Đúng lúc đó thì Lương Thương chết. Lương Ký trên mình mặc áo tang đến sống chung với Hữu Thông Kỳ ở Thành Tây. Tôn Thọ chờ cho Lương Ký đi ra ngoài, bà cho một số nô bộc đi bắt Hữu Thông Kỳ về, cạo trọc đầu cô, rạch mặt cô, rồi còn dùng roi đánh và còn chuẩn bị tấu báo lên triều đình, tố giác việc làm của Lương Ký. Lương Ký trong lòng vô cúng sợ hãi, van lạy mẹ của Tôn Thọ cứu giúp. Không làm thế nào được, Tôn Thọ cũng đành đến như vậy mà thôi. Lương Kýcòn tư thông với Hữu Thông Kỳ. đẻ được một đứa con trai tên là Bá Ngọc, đem giấu đi không dám lộ mặt. Ít lâu sau thì Tôn Thọ biết được việc này, liền sai con trai là Lương Dận đi tiêu diệt nhà họ Hữu. Lương Ký sợ Tôn Thọ giết chết Bá Ngọc, thường đem Lương Bá Ngọc đi giấu ở giữa những bức tường. Lương Ký cũng rất thích giám nô Tần Cung, đề bạt Tần Cung lên làm Thái Thương lệnh, có thể tự do ra vào nơi ở của Tôn Thọ. Mỗi lần Tôn Thọ nhìn thấy Tần Cung liền đuổi hết những người xung quanh ra ngoài, giả vờ thảo luận công việc, thực tế là nhân cơ hội này để tư thông với ông ta. Tần Cung nổi tiếng trong ngoài triều đình, quyền uy rất lớn, ngay đến thích sử triều đình, quan đại thần 2000 thạch đều phải làm thân với ông ta. Ý kiến thu nhận Tôn Thọ của Lương Ký, việc tước đoạt chức quan đại thần của dòng họ Lương, bề ngoài cóa vẻ khiêm nhường, nhưng thực tế là tôn sùng swj tôn thân của Tôn thị. Những người mạo danh để làm thị trung, khanh, hiệu uý, quận thú, trưởng lại có tới mười mấy người. Chúng đều là bọn tham lam, hung bạo, hoang dâm vô độ, mỗi tên đều cử người của mình đi sách nhiễu, cướp đoạt những nhà giầu trong huyện, vu cho những tội danh này khác để bắt những người giầu có bỏ tù; đánh đập nhục hình, bắt họ phải bỏ tiền ra chuộc. Ai không có đủ tiền chuộc thì bị chết. Một người ở Phù Phong tên là Sĩ Tôn Phấn, gia đình rất giàu có, nhưng lại rất keo kiệt. Lương Ký liền tặng cho ông ta xe ngựa với mưu đồ là dùng những thứ này để vay ông ta một khoản tiền là 50 triệu đồng. Nhưng Sĩ Tôn Phấn chỉ cho vay 30 triệu. Lương Ký bỗng nổi giận đùng đùng liền thông tri cho các quan lại quận huyện, chỉ thị cho họ phải nhận rằng mẹ của Sĩ Tôn Phấn là nô tì trông coi của cải cho ông ta đã ăn cắp 10 đấu bạch ngọc và gần 1000 cân vàng đỏ rồi bỏ trốn. Thế là các quan phủ liền cho bắt và tra khảo anh em Sĩ Tôn Phán cho đến chết ở trong ngục. Toàn bộ gia sản của Sĩ Tôn Phấn có tới trên 170 triệu bạc đều bị tịch thu. Hồi đó có tục lệ là hàng năm các nơi đều phải cống hiến đúng kỳ hạn. Nơi nào cũng giành những thứ quí giá hạng nhất nộp cho Lương Ký. Còn nộp cho hoàng cung chỉ là những thứ hạng nhì. Các quan lại hối lộ cho Lương Ký để cầu quan mưu chức, hoặc những người xin giảm tội cứ xếp hàng dài dài bất tận. Lương Ký còn cử tay sai thân tín đi công cán, liên hệ với nước ngoài, ra sức vơ vét vàng bạc châu báu cùng những của quí hiếm lạ lùng. Khi ông ta đi ra ngoài, đến đâu cũng tìm những cô gái đẹp, bọn tay chân của ông ta cũng phô trương quyền thế, hoành hành ngang ngược, cướp đoạt vợ con dân lành, đánh đập quan lại, sĩ tốt địa phương. Nơi nào chúng đi qua nhân dân đều oán ghét, thù hận. Lương Ký còn xây dựng phủ trại rất qui mô. Tôn Thọ cũng xây dựng một biệt thự cho mình ở phố đối diện, công trình nào cũng hào hoa tráng lệ không cái nào chịu thua kém cái nào. Trong những căn phòng của điện đường, chỗ nào cũng có những phòng bí mật âm dương, xây kiểu liền phòng, thông hộ. Các cột và tường đều dùng đồng và sơn mài để trang trí. Các cửa ra vào và cửa sổ đều chậm khắc hoa văn màu xanh, trên những bức hoạ là những tiên linh vân khí. Lầu các thông nhau, có thể đi lại ngắm cảnh, xà bay ghế đá, lăng tẩm vươn ra mặt nước. Họ có nhiều vàng bạc châu báu, những của quí hiếm của nước ngoài xếp chật các kho tàng nhà chứa. Ngoài ra Lương Ký còn đem từ nơi xa về những con ngựa hãn huyết. Bọn Lương Ký còn xây dựng lớn những lâm viên, hồ nước, đào đất đắp thành núi, dài 9 dốc 10 dặm, mô phỏng hình dáng núi Nhị Hào sơn, rừng sâu khe suối, giống như đại tự nhiên. Những loài cầm thú chạy nhảy bay lượn ở trong núi, trong vườn. Lương Ký và Tôn Thọ cùng ngồi trên xe người kéo, mở dù lông, mặc áo vàng, mũ bạc, dạo chơi, tham quan du ngoạn trong phủ đệ, có cả một đoàn ca kỹ đi theo, trống chiêng hoà tấu, hoan lạc suốt dọc đường. Có khi chúng còn truy hoan suôts đêm, ung dung phóng túng. Khách khứa đến trước cổng mà không báo trước đều phải đút lót bọn canh cửa. Tài sản của bọn canh cửa này cũng lên tới hàng nghìn lạng vàng. Lương Ký cũng xây dựng nhiều viên lâm, chế độ y như vương gia vậy. Phạm vi phía tây đến Hoằng nông, phía đông đến Huỳnh Dương, phía nam đến Lỗ Dương. Giới tuyến phía Bắc đến tận Hoàng Hà, Kỳ Thuỷ, bao hàm Sơn Tẩu, một vùng đồi núi xa tắp, có vực thẳm bao quanh, khuôn viên gần ngàn dặm. Lương Ký cũng xây dựng Thỏ Uyển ở phía Tây thành phố Hà Nam, kéo dài liên miên mấy chục dặm, bắt binh lính trong huyện xây dựng những nhà lầu để ngắm cảnh, phải mấy năm trời mới hoàn thành. Tiếp đó Lương Ký lại gửi công văn báo cho các quan phủ sở tại phải thu bắt những con thỏ sống, trên lông thỏ phải ghi ký hiệu chức danh, nếu có ai xúc phạm đến chúng thì sẽ bị kết tội chết. Đã từng có một vị tên là Hồ Thương ở Tây vực, không biết đến điều cấm kỵ này, đi giết lầm một con thỏ, thế là có mười mấy người bị giết. Người em thứ hai của Lương Ký đã từng ngầm cử người đến săn bắn ở Đảng Thượng. Sau khi Lương Ký nghe được chuyện này liền phái người đi giết chết những vi khách này, một lúc giết chết hơn 30 người, không có người nào sống sót trở về. Lương Ký cũng xây dựng phủ đệ ở phía tây thành phố để thu nạp những kẻ lưu manh côn đồ, có khi đi cướp những phụ nữ nhà lành, bắt họ làm nô tỳ, số lượng có tới mấy nghìn người, gọi họ là những người "Tự bán mình". Năm Nguyên Gia nguyên niên (151), Hán Hoàn Đế thấy Lương Ký có công lao trong việc đưa ông ta lên ngôi hoàng đế nên có ý định tôn sùng Lương Ký một cách đặc biệt. Thế là hoàng đế triệu tập đại hội công khanh bách quan, cùng trao đổi cách tổ chức lễ mừng Lương Ký. Trong cuộc họp triều đình, có quan viên đã tấu thỉnh rằng Lương Ký vào triều chưa được thăng tiến, đeo kiếm vào điện, tấu thỉnh không cần báo danh, llễ nghi nên làm như đối với Tiêu Hà, phong Cập cho Lương Ký 4 huyện, ngang với Đặng Vũ; còn tặng cho Lương Ký vàng bạc, nô tỳ, gấm vóc, ngựa xe, quần áo toàn hạng nhất, nhiều không kém gì Hoăc Quang, tôn sùng Lương Ký như Nguyên Huân. Mỗi khi có cuộc họp các đại thần trong triều, Lương Ký ngồi ghế ngang hàng với Tam Công để bình nghị những việc thượng thư 10 ngày một lần. Chế độ này được Hoàng đế thông cáo tuyên bố trong toàn thiên hạ, coi như một nguyên tắc nghìn đời không thay đổi. Như vậy mà Lương Ký vẫn không hài lòng với các cơ quan hữu quan tấu thỉnh cho ông ta lễ vật quá đạm bạc, trong lòng rất không phấn khởi. Lương Ký chuyên quyền, nắm mọi quyền bính trong triều đình, tính tình phóng túng hung bạo càng ngày càng ác liệt, mọi việc dù to dù nhỏ đều phải do ông ta tham gia quyết đoán. Các vệ binh hầu cận trong triều đình đều do ông ta tuyển lựa. Mọi hoạt động của Hoàng đế trong cung cấm, đến những việc nhỏ nhặt nhất, Lương Ký cũng đều phải biết. Mọi sự thăng tiến của văn võ bá quan đều phải đến hậu tạ tạ ơn Lương Ký trước, sau đó mới dám đến phủ thượng thư. Ngo Thụ, người huyện Hạ Phi được bổ nhiệm làm huyện lệnh huyện Uyển thành, trước khi đi nhậm chức đã đến cáo từ Lương Ký. Tân khách của Lương Ký rải rác khắp cả Uyển huyện, do tư tình đòi Ngô Thụ phải từ chối. Ngô Thụ không nghe. Lương Ký nghe thấy vậy, chẳng nói chẳng rằng, trong lòng rất không vui. Sau khi Ngô Thụ đến nhận chức ở huyện Uyển, đã giết mấy chục tên đầu sỏ có nhiều tội ác trong số tân khách của Lương Ký. Vì thế mà Lương Ký rất hận Ngô Thụ. Sau này Ngô Thụ đảm nhận chức thích sử ở Kinh Châu. Trước khi ra đi đã đến cáo biệt Lương Ký. Lương Ký thết tiệc rượu tiễn biệt Ngô Thụ và đã bỏ thuốc độc vào trong rượu. Ngô Thụ vừa ở trong phủ đệ của Lương Ký đi ra thì bị trúng độc chết ngay trên xe. Lại còn có vị tên là Hầu Mãnh, thái thú Liêu Đông, lúc đầu không chịu bái yết Lương Ký, Lương Ký rất căm giận đã vin vào một cớ khác để xử tội băm thây Hầu Mãnh. Viên Trứ, người Nhữ Nam, hồi đó làm Lang trung, mới có 19 tuổi. Viên Trứ thấy Lương Ký hung bạo phóng túng, không khỏi phẫn nộ, nên đã đến Kinh thành tấu báo. Sau khi tấu thư được đưa vào, Lương Ký biết được tin này liền bí mật sai người đi bắt Viên Trứ. Bất đắc dĩ Viên Trứ phải cải tên đổi họ, sau đó giả vờ ốm chết, người ta mua quan tài đem chôn. Lương Ký điều tra thấy Viên Trứ chết giả liền bí mật đi bắt Viên Trứ rồi hành hạ anh ta cho đến chết.và giấu biệt chuyện này đi không cho người ngoài biết. Cómột thái học sinh tên là Lưu Thường, người Quế Dương, làmột danh nho thời đó, bình thường có quan hệ với Viên Trứ rất tốt. Lương Ký triệu anh ta đến và bổ nhiệm cho làm lệnh lại, để làm nhục anh. Hồi đó có hai người ở Thái nguyen tên là Hách Khiết và Hồ Vũ đều là người ngay thẳng và có quan hệ rất tốt với Viên Trứ. Thoạt đầu thì Hách Khiết cùng với một số người khác tấu báo lên tam phủ, tiến cử các danh sĩ trong thiên hạ mà không đi theo Lương Ký. Lương Ký rất căm hận, và nghi ngờ họi là đồng đảngcủa Viên Trứ. Thế làLương Ký chỉ thị cho quan lại phát bố côngvăn truy bắt những người viết tấu báo rồi đem giết hết bọn họ, và còn diệt trừ cả nhà Hồ Vũ. Người bị hại lên đến hơn 60 người. Lúc đầu HáchKhiết đã chạy trốn, ông biết mình cuối cùng cũng không tránh khỏi cái chết, cho nên đã khiêng quan tài đưa tấu thư đến cửa phủ Lương Ký. Sau khi tấu thư đưa vào, Hách Khiết uống thuốc đọc tự tử, do đó mà gia đình nhà ông mới được vẹn toàn. Cho đến sau khi Lương Ký bị giết, triều đình hạ chiếu thư tổ chức tế lễ rất hậu đối với những người bị hại như Viên Trứ. Lương Ký hiểm độc tàn bạo với mọi người đều giống như thế này mà thôi. Lương Bất Nghi rất thích đọc kinh thư, ưu đãinhân sĩ nên tronglòng Lương Ký rất đố kỵ vàcăm hận ông ta nên đã để cho trung thường thị tấu báo lên hoàng đế, điều Lương Bất Nghi đi làm Quang lục huân. Lương Ký còn bí mật súi giục mọi người tiến cử con trai ông ta là Lương Dận lên làm Hà Nam doãn. Lương Dận cũng có ten là Hồ Cẩu, lúc đó mới 16 tuổi, tướng mạo rất xấu xí, không hợp với chức quan viên. Trên đường đi mọi người nhìn thấy Lương Dận, không ai là không cười nhạo anh ta. Lương Bất Nghi cảm thấy hành vi của Lương Ký thật đáng nhục, cho nên giữa anh em với nhau càng có mâu thuẫn lớn. Lương Bất Nghi liền từ quan về nhà, rồi cùng người em trai là Lương Mông đóng cửa không ra ngoài. Lương Ký không muốn tân khách của mình đi lại với họ nên đã bí mật cử người cải trang lén đến cổng nhà Lương Bất Nghi ghi lại tất cả những người đã đến nhà này. Mã Dung là thái thú quận Nam, thái thú Giang hạ là Điền Minh khi mới nhậm chức quan, đi qua cổng nhà Lương Bất Nghi, rẽ vàobái yết ông ta. Lương Ký biết chuyện này đã xúi bẩy quan viên châu quận đem những chuyện đâu đâu ra bôi nhọ họ, nên cả hai người đều bị điều đi Sóc Phương. Mã Dung không phục, nên đã tự sát. Điền Minh cũng chết trên đường đi đày. Năm Vĩnh Hưng thứ hai (154), triều đình sắc phong con trai của Lương Bất Nghi là Lương Mã làm Dĩnh nguyệt hầu, con trai của Lương Dận là Lương Đào làm Thành phụ hầu. Gia đình Lương Ký trước sau có 7 người được phong hầu, 3 vị hoàng hậu, 6 người là quí nhân, 2 người là đại tướng quân, phu nhân, nữ nhi lên ngôi chúa có 7 người, có 3 người lấy công chúa làm vợ. Tất cả những người làm khanh, tướng, hiệu, doãn có tới 57 người. Lương Ký làm quan nắm quyền hơn hai chục năm, giàu có đến tột đỉnh, uy danh khắp trong ngoài, công khanh bá quan trong triều đình chỉ dám liếc nhìn, không ai dám chống lại lệnh của ông ta. Thiên tử đối với Lương Ký cũng chỉ cung kính chứ không làm gì. Hán Hoàn đế dần dần cũng bất mãn với những hành vi của Lương Ký. Năm Đình Hi nguyên niên, thái sử lệnh Trần Thụ mượn cớ trợ giúp tiểu hoàng môn Từ Hoàng, đã báo cáo lên hoàng đế tai hoạ và sự biến hoá của nhật thực và ghép tội cho đại tướng quân Lương Ký. Lương Ký nghe thấy vậy liền sai Lạc Dương lệnh đến bắt Trần Thụ, tra khảo cho đến chết ở trong ngục. Hán Hoàn đế do đó lại càng phẫn nộ Lương Ký hơn. Thoạt đầu, vợ của Đặng Hương là Tuyên Sinh, người vùng Dạ Đình có một người con gái tên là Đặng Mãnh. Sau khi Đặng Hương chết, vợ ông đã tái giá lấy Lương Kỷ. Lương Kỷ là cậu của Tôn Thọ, vợ Lương Ký. Tôn Thọ đưa Đặng Mãnh vào hoàng cung. Đặng Mãnh bị hoàng đế nom thấy, phong cho làm quí nhân. Nhân đó Lương Ký muốn nhận Đặng Mãnh làm con gái của mình để củng cố quyền vị. Do đó mà đổi họ của Đặng Mãnh thành họ Lương. Hồi đó, Bính Tôn là con rể của chị Đặng Mãnh làm nghị lang. Lương Ký rất sợ Bính Tôn nói những điều không hay trước mặt Tuyên, ngăn cản việc Đặng Mãnh đổi họ thành họ Lương, cho nên đã thuê thích khách đến ám sát Bính Tôn, và còn âm mưu giết cả bà Tuyên nữa. Gia đình bà Tuyên sống ở Đình Hi, ngay sát bên cạnh nhà trung thường thị Viên Xá. Lương Ký để cho thích khách đến ở nhà Viên Xá, đang muốn chui sang nhà Tuyên. Voiên Xá phát hiện ra thích khách liền đánh trống, gọi dân chúng đến và báo cho Tuyên. Sau khi Tuyên biết chuyện này lập tức cưỡi ngựa vào cung kể lại cho Hán Hoàn đế biết hết sự tình. Hán Hoàn đế nghe xong vô cùng tức giận nên đã cùng bàn bạc với 5 người là trung thường thị Đơn Siêu, Cụ Ái, Đường Hoành, Tả Quan, Từ Hoàng việc tiêu diệt Lương Ký. Trong lòng Lương Ký rất hoài nghi nhóm Đơn Siêu nên cử trung hoàng môn Trương Huy dẫn lính túc vệ đi đề phòng chính biến. Cụ ái lệnh cho bọn quan lại đi bắt Trương Huy, khiển trách ông ta có âm mưu bất cchính. Thế là Hán Hoàn đế tự đi vào tiền điện, triệu tập các thượng thư lên điện, tuyên bố muốn tiêu diệt Lương Ký, ra lệnh cho thượng thư lệnh Doãn Huân dẫn quan viên mang theo binh khí để bảo vệ các nha sảnh, thu hồi các loại phù tiết đưa đến tỉnh lỵ. Rồi lệnh cho hoàng môn lệnh Cụ ái dẫn một đoàn quân đầy đủ vũ khí gồm hơn 1000 người, rồi cùng với tư khang hiệu uý Trương Bưu chỉ huy quân lính bao vây trại ấp của lương Ký. Quang Lục Huân Viên Hu tiến hành thu hồi ấn tín của đại tướng quân Lương Ký, phong cho Lương Ký từ nay là Cảnh đô hương hầu. Lương Ký cùng với vợ là Tôn Thọ đã tự sát ngay ngày hôm ấy. Lệnh bắt con trai Lương Ký là Hà Nam doãn Lương Dận, người chú là đồn kỵ hiệu uý Lương Nhượng cùng những người thân tín như vệ uý Lương Thúc, việt kỵ hiệu uý Lương Trung,, trưởng thuỷ hiệu uý Lương Kích v.v.. Toàn bộ tông tộc nhà họ Lương và họ Tôn đều bị bắt giam vào ngục, sau đó bất kể già trẻ đều bị xử tử ở ngoài chợ. Lương Bất Nghi và Lương Mông đã chết từ trước rồi. Còn những công khanh, liệt hiệu, thích sử khác, nghĩa là những quan viên có từ 2000 thạch trở lên có liên luỵ đến Lương Ký cũng bị giết khoảng mấy chục người. Những tuỳ tùng Cập dưới của Lương Ký bị cách chức khoảng hơn 300 người.Quan phủ trong triều trống vắng, chỉ có Doãn Huân, Viên Hu và đình uý Hàm Đan Nghĩa là còn sống. Hồi đó công việc rất khẩn Cập, các sứ giả chạy đi chạy về, các quan viên công khanh mất đi chế độ binhf thường, trên các phố xá trong thành, trong phủ ồn ào náo nhiệt, mấy ngày sau mới bình yên trở lại, nhân dân không ai là không vỗ tay vui mừng. Triều đình tịch thu tài sản của nhà Lương Ký, quan huyện phát mại, tổng cộng được 3 triệu dùng để bổ sung cho vương ohủ, và cũng dùng để giảm bớt một nửa tô thuế cho thiên hạ. Những vườn thú của Lương Ký bị triệt tán để cho những người nghèo được sống. Khi xét những người có công trong việc tiêu diệt Lương Ký, hoàng đế dkdã ban thưởng cho mấy chục viên đại thần dưới quyền của thượng thư lệnh Doãn Huân. Tuyển tự “Hậu Hán thư" Quyển 34 ĐỔNG TRÁC Đổng Trác tự là Trọng Dĩnh, người Lâm Thao Lũng Tây. Tính cách ông ta rất hung mãnh nhưng cũng rất mưu lược. Thời kỳ còn trẻ, ông đã từng cư trú ở vùng dân tộc Khương, có giao du với các hào soái địa phương. Sau đó Đổng Trác cầy cấy ở nông thôn, có hào soái đến thăm ông, Đổng Trác đã giết thịt con bò đang cày ruộng của mình để cùng khách ăn uống vui chơi. Những vị hào soái này vô cùng cảm kích sự khảng khái độ lượng của Đổng Trác. Sau khi trở về, bọn họ đã cùng nhau gom góp được hơn 1000 con gia súc các loại để tặng cho Đổng Trác.Từ đó trở đi, do ông vừa khoẻ mạnh vừa hiệp nghĩa nên dần dần nổi tiếng. Thời kỳ ông trông nom binh mã ở châu, ông thường xuyên đi tuần thú các trại ấp, đề phòng bọn trộm cướp. Đổng Trác sức khoẻ hơn người, một mình vác hai chiếc cung, vừa cưỡi ngựa vừa bắn tên hết bên phải lại bên trái. Người dân tộc Khương rất sợ ông. Cuối đời Hán Hoàn đế, với thân phận là con nhà lành của 6 quận, Đổng Trác được trưng tuyển làm Vũ lâm lang, tháp tùng trung lang tướng Trương Hoấn làm quân tư mã, phối hợp với Trương Hoán trấn áp bọn người Khương nổi loạn ở vùng Hán Dương, thu được toàn thắng. Do có công, Đổng Trác được đề bạt làm lang trung, được ban thưởng 9000 súc lụa. Đổng Trác nói: "Người có công chỉ tính có mình tôi, nhưng người tham gia thì là tất cả”. Thế là Đổng Trác đem toàn bộ những vật phẩm được ban thưởng ra chia cho quan lại, binh lính dưới quyền, còn mình không lấy một thứ gì cả. ít lâu sau Đổng Trác được phong làm hiệu uý mậu kỷ Tây Vực. Sau đó Đổng Trác đảm nhiệm chức vụ thích sử Tỉnh châu và thái thú Hà Đông. Năm Trung Bình nguyên niên (184) Đổng Trác được đề bạt làm đông trung lang tướng, thay Lô Thực tiến công Trương Giác, lãnh tụ quân khởi nghĩa nông dân ở Khúc dương hạ. Sau khi thất bại bị kết tội chịu hình phạt. Mùa đông năm đó, người Khương ở phía Bắc Tiên linh cùng với nông dân vùng Thương Hãn, Hà Quan đứng lên phản kháng triều đình. Mùa xuân năm sau, họ lại dẫn mấy vạn quân kỵ binh tiến đánh vùng Tam phụ, xâm nhập viên lăng, đập tan cờ hiệu của bọn quan hoạn giết người. Triều đình ban chiếu cử Đổng Trác làm trung lang tướng, lấy tả xa kỵ tướng quân Hoàng Phụ Tung làm phó tướng, đem lính đi trấn áp quân khởi nghĩa. Hoàng Phụ Tung vì chiến đấu chẳng có công tích gì nên bị miễn chức về quê. Thế lực quân khởi nghĩa ngày càng mạnh. Triều đình Đông Hán lại bổ nhiệm tư không Trương Ôn làm xa kỵ tướng quân, chấp kim ngô Viên Bàng làm phó tướng. Đồng thời lại cử Đổng TRác làm phá lỗ tướng quân, cùng với tướng quân Chu Thận đi chế ngự Trương Ôn. Trương Ôn tập hợp bộ binh kỵ binh trong quân đội các quận được hơn chục vạn người, đóng quân ở Mỹ Dương để bảo vệ Viên lăng khỏi bị tập kích. Biên Chương, Hàn Toại cũng dẫn quân tiến vào Mỹ Dương. Trương Ôn, Đổng Trác đánh nhau với quân khởi nghĩa đều không thuận lợi. Tháng 11, ban dêm sao băng như lửa, sáng rực một vùng mười mấy trượng, chiếu vào trại lính của Biên Chương, Hàn Toại, lừa ngựa sợ hãi kêu rú lên. Binh lính quân khởi ngiã cho rằng đó là điềm dữ, định rút về Kim thành. Sau khi nghe nói như vậy, Đổng TRác phấn khởi lắm. Ngày hôm sau ông liền tập hợp binh lính cùng với Phượng Bao Hồng bao vây tấn công quân khởi nghĩa, làm cho họ đại bại, giết chết mấy nghìn tên địch. Biên Chương, Hàn Toại rút về Luân trung. Trương Ôn cử Chu Thận dẫn 3 vạn quân quan đuổi theo truy kích. Tôn Kiên, tham mưu quân sự của Trương Ôn nói với Chu Thận: “Trong thành quân khởi nghĩa không có lương thực, cần phải vận chuyển lương thực từ bên ngoài vào. Tôn Kiên tôi thỉnh cầu cho một vạn quân lính để cắt đứt đường tiếp tế của quân khởi nghĩa, sau đó tướng quân thống soái đại quân đánh tập hậu. Tất nhiên quân khởi nghĩa do đói khát không dám quyết chiến. Nếu họ rút vào trong đám người Khương, chúng ta hợp lực chinh phạt. Như vậy là có thể đoạt được Lương châu”. Chu Thận không nghe, dẫn quân đội đi bao vây thành Du trung. Nhưng biên Chương, Hàn Toại thì lại chia quân đồn thú ở Quì viên hiệp, trái lại còn chặt đứt tuyến cung Cập của quân đội Chu Thận. Chu Thận rất sợ, liền vứt bỏ hết xe cộ tháo lui. Lúc đó Trương Ôn cũng ra lệnh cho Đổng Trác đem 3 vạn quân đội đi trấn áp cuộc khởi nghĩa của người Khương ở Tiên linh. Quân đội của Đổng Trác người Hồ dân tộc Khương bao vây ở phía bắc Vọng viên, lương thực cực kỳ thiếu thốn, tiến thoái lưỡng nan. Thế là Đổng Trác ra lệnh cho bộ đội đang chuẩn bị vượt sông giả vờ đắp đê như là người bắt cá, sau đó chỉ huy quân đội lén lút rút đi dưới chân đê. Mãi đến khi người Khương phát hiện mới tiến lên truy đuổi. Nước sông rất sâu, không có cách nào để vượt sông truy kích được. Lúc đó quan quân trên các lộ đều bại trận, người ngựa chen nhau rút lui. Duy chỉ có quân đội của Đổng Trác là rút lui được toàn sư đoàn, đồn trú ở Phù phong. Triều đình phong cho Đổng Trác làm thu hương hầu, thực ấp 1000 hộ. Năm Trung Bình thứ 3 (186) Hán Linh đế phái sứ giả đến Trường An phong cho Trương Ôn làm thái uý. Tam Công tại ngoại là bắt đầu từ khi Trương Ôn làm thái uý trở đi. Mùa đông năm ấy Hán Linh đế lệnh cho Trương Ôn quay về Kinh sư Lạc dương, thế là Hàn Toại giết chết Biên Chương cùng Bắc Cung Bá Ngọc, Lý văn hầu, có hơn 10 vạn quân lính, tung quân đi bao vây Lõng Tây. Thái thú Lõng Tây Lý Tương Như cũng phản biến, liên minh với Hàn Toại để chiến đấu, đã giết được thích sử Lương châu là Cảnh Bỉ. Và người ngựa tư mã phù phong của Cảnh Bỉ cũng dấy binh phản loạn triều đình. Ngoài ra vương quốc của người Hán Dương tự xưng là “Hợp chủng tướng quân". Bọn họ đều hợp binh với Hàn Toại. Mọi người đều tiến cử vương quốc là chủ soái. để ông lãnh đạo các lộ binh mã tiến ông vùng Tam phụ của Đông Hán. Năm Trung Bình thứ 5, quân khởi nghĩa bao vây Trần Thương. Thế là triều đình Đông Hán lệnh cho Đổng Trác làm tiền tướng quân, cùng với tả tướng quân Hoàng Phụ Tung đánh bại quân khởi nghĩa. Nhóm Hàn Toại liền phế truất vương quốc, cử Diêm Trung, người Hán dương là huyện lệnh Tín đô cũ ra đốc thúc các đơn vị của quân khởi nghĩa. Diêm Trung lấy làm nhục vì bị mọi người ép uổng rồi tự vẫn chết. Sau khi Diêm Trung chết, nhóm Hàn Toại tranh quyền đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, sau đó bọn họ cũng tự ly tán. Năm Trung bình thứ 6 (189), chính phủ Đông Hán cử Đổng Trác làm Thiếu phủ, ông không chịu nhận chức này đã viết thư từ chối. Triều đình không có cách nào khống chế được Đổng Trác nên rất lo lắng. Cho đến khi Hán Linh đế ốm nặng thì có chiếu thư bổ nhiệm Đổng Trác làm Tịnh châu mục, lệnh cho ông đem quân về qui thuộc Hoàng Phụ Tung. Đổng Trác lại viết thư cho chính phủ, bức thư viết: “Tôi không có mưu lớn, cũng không có sự nghiệp to, ơn trời đã ban cho ân huệ, xin hãy để cho tôi cầm quân khoảng 10 năm. Sĩ binh lớn nhỏ đều đã gần gũi nhau rất lâu rồi, quyến luyến ân đức của tôi nuôi dưỡng, họ đều tự nguyện vì tôi mà hy sinh đến cùng. Tôi khẩn cầu chính phủ hãy để cho tôi thống nhất quản lý Bắc châu, đem sức ra cống hiến cho biên thuỳ của quốc gia”. Thế là Đổng Trác đóng quân ở Hà Đông để quan sát sự biến hoá của thời cuộc. Cho đến sau khi Hán Linh đế băng hà, đại tướng quân Hà Tiến, tư khang hiệu uý Viên Thiệu đặt kế hoạch mưu sát các quan hoạn, nhưng thái hậu không đồng ý, cho nên đã ngầm lệnh cho Đổng Trác đem quân vào triều, để ép thái hậu phục tùng mệnh lệnh. Sau khi Đổng Trác nhận được chiếu lệnh, lập tức dấy binh lên đường, và viết thư nói: "Những người như trung thường thị Trương Nhượng được nuông chiều đã làm rối loạn cả nước. Thần nghe mọi người xì xào bàn tán, cần phải dập tắt ngọn lửa này đi. Trích nhọt tuy có đau, nhưng có lợi cho việc ăn uống. Xưa kia Triệu Ương dấy binh ở Tấn dương, mục đích là để đánh đuổi bọn xấu bên cạnh quân vương nước Tấn. Ngày nay thần đem quân về Lạc dương, xin cho được bắt bọn Trương Nhượng, để thanh trừ bọn gian tà”. Đổng Trác còn chưa đến Kinh sư thì Hà Tiến đã thất bại rồi, hổ bôn trung lang tướng Viên Thuật đã cho đốt Nam cung, chuẩn bị đi đánh bọn quan hoạn. Còn những người như trung thường thị Đoạn Khuê ép buộc Hán Thiếu đế và Trần Lưu vương ngay đêm đó đã chạy đến Tiểu Bình tân. Từ xa Đổng Trác nhìn thấy ngọn lửa rực cháy ở Kinh sư, liền ra lệnh cho quân đội thần tốc hành quân, trời chưa sáng đã đến phía tây thành Lạc dương,nghe nói lúc đó Hán Thiếu đế đang ở Bắc Mang, cho nên đã đi trước để nghênh tiếp. Hán Thiếu đế nhìn thấy Đổng Trác đem quân đến thì vô cùng sợ hãi, khóc nức nở. Đổng Trác nói chuyện với Hán Thiếu đế, hoàng đế không tài nào đối đáp được. Đổng Trác trao đổi với Trần Lưu vương và thế là bàn đến chuyện nổ ra bạo loạn. Đổng Trác cho rằng Trần lưu vương rất hiền từ nhân hậu, và còn được Đổng thái hậu nuôi dưỡng, hơn nữa Đổng Trác và Đổng thái hậu còn là đồng tộc, cho nên Đổng Trác có ý định phế truất Hán Thiếu đế mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi. Thoạt đầu, khi Đổng Trác mới tiến vào Lạc dương, bộ binh và kỵ binh mới chỉ có không quá 3000 người. Bản thân ông cũng lo là binh lực không đủ, e rằng những người ở xa sẽ không phục tùng ông. Thế là suốt 4 - 5 ngày liền, cứ ban đêm thì Đổng Trác cho quân đội đi ra khỏi doanh trại, đến sáng ngày hôm sau lại chỉnh đốn đội ngũ giương cờ dóng trống kéo quân về doanh trại, để cho người ta tưởng rằng những quân đội cònlại ở phía tây tiếp tục tiến vào thành. Nhân dân trong thành phố Lạc dương không ai biết chuyện này. ít lâu sau, Hà Tiến và em trai của ông là Hà Miêu đem toàn bộ quân đội của mình sát nhập với Đổng Trác. Đổng Trác lại lệnh cho Lã Bố giết chết chấp kim ngô Đinh Nguyên, thôn tính quân đội của Đinh Nguyên. Thế là đội ngũ của Đổng Trác lớn mạnh lên nhiều. Sau đó Đổng Trác yêu cầu triều đình hạ chỉ cách chức tư không Lưu Hoằng, tự mình thay Lưu Hoằng làm Tư không. Do đó Đổng trác triệu tập quần thần bàn mưu phế truất hoàng đế. Khi các bá quan công khanh triều đình hội họp thì Đổng Trác ưỡn ngực cao đầu nói với mọi người: “Lớn hơn cả là trời đất, thứ đến mới là quân thần, cho nên mới thành chế độ chính trị. Ngày nay hoàng đế nhu nhược bất tài, không thể phụng tế tông miếu, trở thành quân vương được. Hôm nay tôi muốn bắt chước tiền lệ của Y Doãn, Hoắc Quang, cải lập Trần Lưu Vương lên làm vua, vác vị thấy thế nào?" Các đại thần dưới công khanh không ai dám trả lời. Đổng Trác lại cao giọng nói: “Ngày xưa khi Hoắc Quang định ra sách lược, ai dám ngăn cản đại nghị đều phải xử theo quân pháp”. Các đại thần có mặt ai nấy đều run sợ. Chỉ có thượng thư Lô Thực là dám một mình đứng lên nói: "Ngày xưa Thái Giáp được lên ngôi vua xong thì không sáng suốt, Xương ấp vương có cả nghìn tội lỗi, cho nên mới có việc phế lập như vậy. Ngày nay hoàng thượng tuổi rất trẻ, hành vi khôngcó gì là thất đức, không thể so sánh với những việc trước đây được”. Đổng Trác bỗng nổi giận đùng đùng, cắt đứt buổi họp của triều đình. Ngày hôm sau Đổng Trác lại triệu tập quần thần tại tiền điện Sùng Đức để thảo luận, ép thái hậu phải ban chiếu phế truất Hán Thiếu đế. Trong sắc lệnh nói: "Hoàng đế có tang, không có người tâm đắc, uy nghi không giống như một vi vua, nay đưa xuống làm Hoằng Nôngvương."Thế là Đổng Trác đưa Trần Lưu Vương lên ngôi, tức là Hán Hiến đế. Tiếp đó lại xem xét việc Hán Linh đế Hà hoàng hậu, nỏi rằng bà ta áp bức thái hậu Vĩnh Lạc, làm cho bà ta u buồn mà chết, phản lại lễ giáo phụ cô, không có đức hiếu thuận, nên đưa thái hậu vào cung Vĩnh An, thái hậu bị giết. Đổng Trác được thăng làm thái úy, làm tiền tướng quân sự, rồi được phong làm Mi hầu. Thế là Đổng Trác cùng với tư đồ Hoàng Uyển, tư khôngDương Bưu viết thư lên trên, rồi truy niệm Trần Phiên, Đậu Vũ cùng các nhân sĩ đồng đảng khác, để tranh thủ lấy thanh danh. Và thế là triều đình phục hồi tước vị cho những người như Trần Phiên, đề bạt, tuyển dụng con cháu họ làm quan. Chẳng bao lâu, triều đình bổ nhiệm Đổng Trác làm Tướng, cho phép ông ta vào triều gặp hoàng đế không phải báo trước, có thể đeo kiếm vào cung điện. Mẹ ông cũng được phong làm Trì dương quân. Hồi đó các dinh phủ của các tông thất quí thích trong thành phố Lạc dương hay đua nhau, nhà nhà hộ hộ đều tích luỹ rất nhiều vàng bạc châu báu. Đổng Trác thả cửa cho binh sĩ xông vào nhà họ, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp đoạt tài sản, còn dùng từ mỹ miều là "Bắt tù sổng". Cho nên dân tình khủng khiếp, người người lo sợ không biết sống chết ra sao. Cho đến khi an táng Hà thái hậu, quật mồ Hán Linh đế lên, Đổng Trác đã cướp đi toàn bộ châu báu ở trong mộ chí. Hắn còn cưỡng dâm công chúa trong triều đình nhà Hán, dâm loạn cungnữ, dùng nghiêm hình trọng phạt, hễ ai hơi chống lại là bị xử tử ngay, quần thần trong ngoài không ai dám bảo đảm tính mạng của mình. Đổng Trác đã từng phái binh lính đến Dương thành, lúc đó đang họp chợ, Đổng Trác ra lệnh giết hết mọi người, cướp tài sản đưa lên xe, đem theo phụ nữ cướp được lên đường, lại còn buộc những đầu lâu vào xe, vừa đi vừa hò hét điên loạn trở về. Đổng Trác còn phá hoại đồng tiền 5 thù, rồi đúc loại tiền nhỏ, đem toàn bộ những tượng đồng, ngựa đồng, lư chuông v.v.. ở trong thành phố Lạc Dương và Trường An nấu chảy để đúc tiền. Cho nên ngoài xã hội, hàng rẻ, vật quí, mỗi đấu lương thực giá tới mấy vạn tiền. Thêm vào đó loại tiền nhỏ không có đường viền, không có chữ làm cho người xử dụng rất bất tiện. Hồi đó người ta cho rằng Tần Thuỷ Hoàng đến Lâm Thao nhìn thấy người khổng lồ nên mới đúc tượng đồng để trấn áp họ. Còn Đổng Trác là nhân sĩ Lâm Thao lại đi tiêu huỷ tượng đồng. Tuy mục đích chế tạo và tiêu huỷ của hai người có khác nhau, nhưng về mặt hung hãn và tàn bạo thì lại rất tương đồng. Ngày thường Đổng Trác nghe nói bá tính trong thiên hạ rất căm thù bọn hoạn quan giết hại trung lương hiền thần, đến khi ông ta chuyên quyền tuy cũng làm những việc bất nhân đạo, nhưng vẫn còn có chút lương tâm, đề bạt những nhân sĩ. Đổng Trác đã bổ nhiệm lại bộ thượng thư Chu Bật, người Hán Dương, thị trung Ngũ Kinh người Nhữ Nam, thượng thư Trịnh Công Nghiệp và trưởng sử Hà Ngung v.v.. Lại đưa ẩn sĩ Cẩu Hiệp ra làm tư không. Những người có liên luỵ đến các đảng cố như Trần Kỷ, Hàn Toại đều được tuyển làm liệt khanh. Nhiều người xưa kia không được dùng, nay cũng được Đổng Trác tuyển dụng, đề bạt. Đưa thượng thư Hàn Phức lên làm thích sử Ký châu, đưa thị trung Lưu Đại lên làm thích sử Duyễn châu, bổ nhiệm Khổng Do, người Trần lưu làm thích sử Dự châu, đưa Trương Tư người Dĩnh Xuyên lên làm thái thú Nam dương. Những người thân tín dưới quyền Đổng Trác thì lại không được đưa vầo những chức vụ trọng yếu, chỉ có trong quân đội là có tướng tá mà thôi. Thời kỳ đầu vua Bình Nguyên (190), những ngườinhư Hàn Toại, sau khi đi nhận chức quan thì có hơn chục người như Viên Thiệu đã dựng cờ tạo phản, kết thành đồng minh để đánh lại Đổng Trác, và Ngũ Kinh, Chu Bật cũng bí mật hưởng ứng ở trong triều đình. Thoạt đầu, vàonhững năm cuối của Hán Linh đế, những người như Quách Thái của quân khởi nghĩa Hoàng Cân lại tiếp tục nổi lên khởi nghĩa ở vùng Tây hà bạch ba cốc, chuyển sang tấn công tỉnh Thái nguyên. Khi quân khởi nghĩa Quách Thái công phá Hà Đông, nhân dân chạy đến vùng Tam phụ để lánh nạn, bị người ta gọi là “Quân Bạch ba", bọn họ có khoảng hơn 19 vạn người. Đổng Trác cử trung lang tướng Ngưu phụ đi trấn áp quân khởi nghĩa, nhưng không đánh bại được Quách Thái. Khi nghe nói miền Đôngcó người khởi binh đánh mình thì Đổng Trác rất sợ, nên ông ta đã dùng thuốc độc giết chết Hoằng Nông vương (tiền hoàng đế Hán Thiếu đế), dự định rời đô đến Trường An. Khi các công khanh trong triều đang họp, thái uý Hoàng Uyển, tư đồ Dương Bưu tranh luận trong triều đình không có kết quả, còn Ngũ Kinh, Chu Bật thì lại kiên quyết khuyên can Đổng Trác rời đô. Do đó mà Đổng Trác phẫn nộ nói: “Khi Đổng Trác tôi vừa mới làm chủ quyền bính trong triều đình, thì hai người các ông đã khuyên tôi bổnhiệm những người tốt, cho nên tôi đã tiếp thu ý kiến của các ông, nhưng những người này lên làmquan rồi thì khởi binh phản lại tôi. Như vậy là hai người các ông đã bán rẻ Đổng Trác tôi rồi. Đổng Trác cũng không cần phụ lòng các ông”. Thế là ông ta xử tử ngay Ngũ Kinh và Chu Bật. Dương Bưu, Hoàng Uyển rất sợ hãi, đến trước mặt Đổng Trác bái lạy tạ ơn: “Vì tình nghĩa cũ, tiểu nhân không muốn phá hoại sự ngjhiệp của nhà nước, xin đừng trị tội”. Đổng Trác đã giết Ngũ Kinh và Chu Bật, sau đó ít lâu thì lại hối hận, cho nên đã biểu dương Dương Bưu, Hoàng Uyển và phong làm Quang lục đại phu. Thế là Đổng Trác ép Hán Hiến đế phải rời đô về Tây đô Trường An. Thoạt đầu Trường An bị quân khởi nghĩa Xích Mi phá hoại, cung thất, doanh trại, đền chùa bị đốt phá sạch sành sanh. Lúc đó chỉ còn lại cao miếu và quan xá thượng tại của Kinh đào phủ, thế là Đổng Trác và mọi người đến cư trú ở đó. Sau này lại đi cư đến Mạt Ương cung. Đổng Trác đã dồn toàn bộ mấy triệu người ở thành phố Lạc Dương chuyển đến Trường An. Quân lính bộ binh và kỵ binh di kèm để ép buộc họ, thật là hỗn loạn. Nhiều người đói khát đã chết trên dọc đường, thi thể chất đầy đường đi. Đổng Trác đóng quân ở Tất khuê uyển trung, rồi phóng hoả thiêu huỷ tất cả cung miếu, quan phủ, dân cư, trong phạm vi 200 dặm không còn tồn tại. Hắn còn ra lệnh cho Lã Bố cướp đoạt những vật báu ở trong lăng mộ hoàng đế và trong phần mộ của các công khanh. Lúc đó, thái thú Trường Sa Tôn Kiên cũng lãnh đạo quân đội các quận ở Dự châu đứng lên khởi nghĩa đánh lại Đổng Trác. Đổng Trác đã cử Từ Vinh, Lý Mông làm tướng đi cướp bóc khắp nơi. Từ Vinh tao ngộ Tôn Kiên ở Lương thành, trong cuộc giao chiến với nghĩa quân, quân đội của Tôn Kiên đã đại bại, bắt sống được thái thú Dĩnh châu là Lý Mân, Lý Mân phải tự sát. Mỗi lần Đổng Trác bắt được binh lính của nghĩa quân làm tù binh đều dùng vải bó lại, dựng ngược lên rồi đổ dầu sôi vào cho đến chết. Đổng Trác ngầm lệnh cho triều đình để Quang Lục Huân viết chiếu phong cho Đổng Trác làm thái sư, vị trí cao hơn các chư hầu vương. Đổng Trác dẫn quân từ Qui trì trở về Trường An. Bá quan trong triều đình xếp hàng ngoài đường để nghênh tiếp. Đổng Trác lạm dụng xe của hoàng gia, ngồi trên chiếc xe có mui xanh hoa văn vàng. Hồi đó người ta gọi loại xe này là “Xe Can mô", có ý nói là phục sức của Đổng Trác gần như thiên tử. Đổng Trác bổ nhiệm em trai là Đổng Mân làm tả tướng quân, sắc phong làm Hộ hầu, cử con trai của người anh trai tên là Đổng Hoàng làm thị trung và trung quân hiệu uý để nắm quân đội. Thế là trong tông tộc Đổng thị đã có hàng loạt cao quan lộc vị. Con cái của họ tuy chỉ là nhi đồng, nhưng nam đều được phong hầu, nữ thì được phong làm chúa ấp. Nhiều lần Đổng Trác cùng với bá quan triều đình tụ tập yến tiệc, kiêu xa dâm dật, phóng túng tư tình. Đổng Trác đã xây dựng doanh ấp cho mình ở phía Đông thành Trường An. Ông ta còn xây những lô cốt cao to kiên cố, cao tới 7 trượng, được gọi là “Lô cốt Vạn tuế ". Trong lô cốt này chưa lương thực có thể ăn được 30 năm. Chính Đổng Trác đã thường nói: “Nếu sự nghiệp thành công, tôi có thể hùng cứ thiên hạ,; nếu như thất bại, tôi có thể cố thủ ở đây để dưỡng lão”. Đổng Trác thường xuyên đến lô cốt Mi địa này. Các quan viên dưới Cập công khanh phải ra ngoài con đường hoàng môn để nghênh đón. Đổng Trác thết tiệc rượu trong lều vải, dụ hàng được mấy trăm người tạo phản ở phía Bắc. Nhưng trong khi ăn uống Đổng Trác đã giết hết những người này. Trước hết Đổng Trác cắt lưỡi họ, sau đó chặt hết chân tay, rồi đén móc mắt, sau cùng là bỏ vào nồi luộc cho đến chết. Người nào chưa chết thì ném vào gian án. Lúc đó ai trông thấy cũng rùng mình sợ hãi, nhiều người đánh rơi cả bát đũa đang ăn. Nhưng Đổng Trác thì ăn uống thoải mái, cứ như chẳng có việc gì xảy ra. Các vị quân tướng nếu ai có lỡ lời câu gì là bị giết ngay trước khi vào tiệc. Đổng Trác cũng giết cả những cựu tộc trong quan, vu cho họ là phản nghịch triều đình. Lúc đó thái sử chiêm vọng vân khí, nói rằng có đại thần đang bị giết chết. Thế là Đổng Trác liền xui người vu khống cho vệ uý Trương Ôn câu kết với Viên Thuật nên lôi ông ra đánh ngay tại chợ, đánh cho đến chết và lấy cái đó để bịt lấp đi sự thiên biến. Trước tiên Trương Ôn xuất binh đồn trú tại Mỹ dương, lệnh cho Đổng Trác giao chiến với Biên Chương. Đổng Trác tác chiến không thành công, Trương Ôn triệu hồi ông ta về, Đổng Trác về không đúng hạn. Đã về muộn, Đổng Trác lại còn cãi lại Trương Ôn. Lúc đó Tôn Kiên là tham mưu quân sự dưới quyền Trương Ôn, khuyên Trương Ôn phái binh lính đi giết Đổng Trác. Trương Ôn trả lời: “Đổng Trác rất có uy danh, tôi còn phải dựa vào ông ta để Tây chinh”. Tôn Kiên đáp: “Ông tự dẫn vương sư xuất chinh, uy trấn thiên hạ, việc gì phải ỷ lại vào Đổng Trác. Tôn Kiên tôi nghe nói các danh tướng thời cổ đại không ai dùng tử hình để tỏ rõ uy vũ của mình. Cho nên tư mã Nhương Thư giết chết Trang Cổ, Nguỵ Phùng xử tử Dương Can. Ngày nay nếu ông khoan dung Đổng Trác, như vậy là tự đánh mất điều uy trọng, sau này hối hận sẽ không kịp”. Trương Ôn không nghe theo ý kiến của Tôn Kiên đi giết Đổng Trác, còn Đổng Trác thì căm hận trong lòng. Cho nên Trương Ôn mới gặp phải tai nạn như thế này. Trương Ôn tự là Bá Thận, hồi còn trẻ có tên đẹp, mấy lần được thăng tiến, làm đến chức khanh. Ông cũng đã từng bí mật thông đồng với tư đồ Vương Doãn mưu giết Đổng Trác. Nhưng sự việc chưa thành thì đã bị sát hại. Việt kỵ hiệu uý Ngũ Phù, người Nhữ Nam vô cùng căm ghét sự hung hãn độc ác của Đổng Trác, lập chí phải giết chết hắn.Thế là Ngũ Phù giấu dao găm vào trong áo bào đi tìm Đổng Trác. Ngũ Phù và Đổng Trác nói chuyện xong, chuẩn bị cáo từ để đi. Đổng Trác đứng dậy tiễn Ngũ Phù ra cửa, lấy tay xoa lên lưng Ngũ Phù, Ngũ Phù thừa cơ rút dao đâm Đổng Trác. Nhưng đáng tiếc là đâm không trúng. Đổng Trác vùng ra chạy thoát, vội vàng hô hoán xung quanh đến bắt Ngũ Phù, chửi cho Ngũ Phù một trận: “Tên khốn kiếp này định tạo phản à!" Ngũ Phù lớn tiếng chửi bới Đổng Trác: “Tao hận là không băm vằm mày ra trăm mảnh được!" Chưa dứt lời thì đã bị giết chết ngay. Hồi đó tư đồ Vương Doãn và Lã Bố cùng với bộc tạ sĩ Tôn Thuỵ đã có âm mưu giết Đổng Trác. Có người đã viết chữ "Lã" lên trên vải, khoác lên người đi qua thành phố, còn hát vang: “Bố ba!". Có người đã báo cáo việc này cho Đổng Trác biết, Đổng Trác không hiểu là việc gì. Tháng 4 năm Sơ Bình thứ 3 (192), Hán Hiến đế vừa khỏi bệnh dự cuộc họp triều thần tại Mạt ương điện. Đổng Trác mặc triều phục vừa bước lên xe, bỗng con ngựa sợ hãi lồng lên hất Đổng Trác ngã xuống đất. Đổng Trác quay về thay áo, bà vợ ông khuyên ông không nên đi nữa, Đổng Trác không nghe, vẫn cứ đi. Thế là Đổng Trác dàn binh hai bên ven đường. Binh lính dàn hàng từ lô cốt cho đến tận hoàngcung, bên trái là bộ binh, bên phải là kỵ binh, bảo vệ bốn mặt, lệnh cho những người như Lã Bố phải hộ vệ phía trước và phía sau. Thế là Vương Doãn và Sĩ Tôn Thuỵ mật tấu với Hán Hiến đế việc mưu sát Đổng Trác, để cho Sĩ Tôn Thuỵ vẫn đem chiếu thư giao cho Lã Bố, lệnh cho kỵ đô uý Lý Túc và mười mấy dũng sĩ tâm huyết với Lã Bố, nguỵ trang thành vệ sĩ mai phục sẵn tại Bắc Dạ môn chờ Đổng Trác đi đến. Vừa lúc Đổng Trác sắp đến thì con ngựa sợ hãi không đi nữa, Đổng Trác cảm thấy kỳ lạ định quay trở về. Lã Bố khuyên Đổng Trác cứ đi, thế là người ngựa kéo nhau vào Bắc Dạ môn, Lý Túc dùng đao giết Đổng Trác. Nhưng Đổng Trác mình mặc áo giáp nên không bị giết, chỉ bị thương ở bả vai., nhảy xuống xe. Ông quay đầu hô lớn:" Lã Bố đâu? Mau đến cứu ta”. Lã Bố đáp: “Ta phụng lệnh chiếu thư hoàng đế đến giết cái tên kẻ cướp này!" Đổng Trác há mồm chửi ầm lên: “Cái tên chó chết này cũng dám phản nghịch hay sao !" Lã Bố vung cây mâu giết chết Đồng Trác, những quân lính khác cũng ùa lên băm chém Đổng Trác. Chủ bạc điền nghi và thương đầu của Đổng Trác đi đến bên thi thể Dổng Trác, Lã Bố liền giết chết luôn hai người này. Lã Bố cưỡi ngựa công bố chiếu thư tiêu diệt Đổng Trác để cho mọi người trong ngoài triều đình đều biết. Quân binh ai cũng hô to vạn tuế, vạn tuế, nhân dân thì ca múa nhảy nhót, hoan lạc trên đường phố. Còn các bà ở trong thành phố Trường An thì đem bán đồ trang sức, lên phố mua thịt rượu về liên hoan ăn mừng, khắp phố phường vui tươi phấn khởi. Triều đình cử Hoàng Phụ Tung đến lô cốt để vây đánh Đổng Mân, em trai của Đổng Trác, bắt giết mẹ, vợ và con gái của hắn, coi như tiêu diệt tông tộc Đổng thị. Và còn bêu đầu Đổng Trác ở ngoài phố. Khi đó thời tiết bắt đầu viêm nhiệt, Đồng Trác rất béo tốt, mỡ chảy lênh láng khắp mặt đất. Quan lại bảo vệ thi thể Đổng Trác châm lửa vào bụng Đổng Trác, lửa bùng lên sáng rực và cứ cháynhư vậy suốt mấy ngày liền. Một số môn sinh của Viên thị tụ tập ở bên xác Đổng Trác. Thiêu đốt xong, tro bụi bay đầy đường. Từ trong lô cốt của Đổng Trác, người ta lấy ra được hơn 2, 3 vạn cân vàng,, 8, 9 vạn cân bạc, còn nhiều châu báu, gấm vóc, lương thực khác chất cao như núi. Tuyển tự "Hậu Hán thư" Quyển 72 ĐÁI PHÁP HƯNG Lời mở đầu - Đái Pháp Hưng, người Nguỵ Tấn thời kỳ Nam Bắc triều, sinh tại huyện Sơn Âm, quận Hội Kê (nay là vùng Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang), là quyền thần nổi tiếng trong chính quyền Lưu Tống. Hồi còn trẻ, anh và người cha là Đái Thạc Tử cùng làm nghề buôn bán, chủ yếu là hàng dệt để kiếm sống. Gia cảnh bần hàn do đó mà trong sự bạo ngược của cường hào Nam Bắc triều Nguỵ Tấn, trong thói đời của môn đệ sùng thượng. Đái Pháp Hưng xuất thân trong giới thấp hèn, tự nhiên thuộc về cái gọi là tầng lớp" Hàn sĩ". Đái Pháp Hưng bước vào đời sĩ hoạn là vào thời kỳ đầu Lưu Tống. Hồi đó Bành Thành Vương Lưu Nghĩa Khang phát hiện ra tài năng của anh, bắt đầu dùng anh làm ký thất lệnh sử. Sau khi Lưu Nghĩa Khang thất bại, Đái Pháp Hưng đi theo Tống hiếu vũ đế Lưu Tuấn, giữ chức Nam trung lang điển thiêm. Từ sau Tống Văn đế trở đi, các chư vương nhà họ Lưu Tống và các tướng soái tranh quuyền đoạt lợi, nội chiến liên miên. Để ngăn chặn nội chiến và làm suy yếu quyền thế của các trấn tướng, Hiếu Vũ đế liền cử những hàn sĩ thân tín xuống dưới để giám đốc những “Điển thiêm" của các trấn tướng. Thế là Đái Pháp Hưng hoạt động trên vũ đài lịch sử trong bầu không khí và bối cảnh xã hội như vậy. Là nhân vật đại biểu của giai tầng hàn sĩ, Đái Pháp Hưng được Tống hiếu vũ đế Lưu Tuấn ban thưởng, côi trọng và đề bạt. Ông đã từng giữ các chức vụ như Nam đài thị ngự sử mà còn kiêm việc quản lí trung thư cơ yếu, có thực lực rất mạnh. Thời kỳ chấp chính, Đái Pháp Hưng và một quyền thần khác là Đái Minh Bảo lợi dụng lòng tin của hopàng đế, độc đoán chuyên quyền, kết đảng doanh tư, thu nạp hối lộ, khuynh đảo một thời. Cho nên trong “Tống thư. Ân hạnh truyện “đã viết về họ “Đại thông nhân sự, đa nạp hoá hối, phàm sở tiến đạt, ngôn vô bất hành, thiên hạ bức tấu, môn ngoại thành thị, gia sản tịnh luỹ thiên kim". Sau khi Tống hiếu vũ đế Lưu Tuấn băng hà, Đái Pháp Hưng dần dần bị thất thế. Thời kỳ thống trị của Lưu Tử Nghiệp, ông vua đã bị phế truất, do mâu thuẫn của giai tầng thống trị ngày càng sâu sắc, Đái Pháp Hưng cũng bị co lại rất sâu. Và bị ông vua đã bị phế truất chiếu lệnh cho chết tại nhà, hưởng thọ 52 tuổi. *** Đái Pháp Hưng là người huyện Sơn Âm, quận Hội Kê. Gia cảnh bần hàn. Phụ thân tên là Đái Thạc Tử. Bình thường làm nghề buôn vải để sống. Đái Pháp Hưng có hai người anh tên là Đái Đình Thọ và Đái Đình Hưng. Đái Đình Thọ có tài đặc biệt về thư pháp., còn người em Đái Pháp Hưng thì lại đi sâu nghiên cứu học vấn. Hồi đó ở huyện Sơn Âm có một hộ lớn tên là Trần Tải, gia đình phú quí, tiền tài có hơn 30 triệu. Hồi đó nhân dân làng quê của Đái Pháp Hưng đều nói: “Ba người con trai của Đái Thạc Tử có thể sánh được với 30 triệu tiền của Trần Tải." Hồi nhỏ Đái Pháp Hưng cũng đã từng bán vải ở chợ Sơn Âm để sống. Sau này anh chuyển sang làm quan lại, anh được cử làm thượng thư đài thương bộ lệnh sử. Đại tướng quân Bành thành vương Lưu Nghĩa Khang là lệnh sử thông tuệ thượng thư đài phát hiện được 5 người như Đái Pháp Hưng. Thế là Bành thành vương Lưu Nghĩa Khang bắt đầu xử dụng Đái Pháp Hưng làm lệnh sử ký thất. Thế lực của Lưu Nghĩa Khang, sau khi bị Tống Văn đế tiêu diệt, Đái Pháp Hưng vẫn tiếp tục làm việc. Thời kỳ Lưu Tuấn trấn thủ Giang châu, Đái Pháp Hưng vẫn phụ trách Nam trung lang điển thiêm. Lưu Tuấn kiến nghị khởi sự ở Ba khẩu, Đái Pháp Hưng cừng những người như Điển thiêm Đái Minh Bảo, Sát Nhàn v.v...cùng chuyển sang làm đốc hộ tham quân. Sau khi Lưu Tuấn lên ngôi hoàng đế, bọn họ lại cùng được bổ nhiệm làm Nam đài thị ngự sử, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ trung thư tỉnh thông sự xá nhân. Các quan viên như Đái Pháp Hưng chuyên môn phụ trách các công việc cơ mật trong nội bộ triều đình, quyền khuynh đương triều. Tống hiếu vũ đế Hiếu Khang nguyên niên (454), triều đình cử Đái Pháp Hưng làm Kiến vũ tướng quân, thái thú quận Nam lỗ thôi kiêm chức trung thư thông sự xá nhân, lệnh cho ông phục vụ thái tử đông cung. Năm Đại Minh thứ 2 (458), ba vị Điển thiêm do cùng hiệp trợ Lưu Tuấn khởi sự, tham dự vào âm mưu bí mật Nam hạ nên được phong thưởng. Tống hiếu vũ đế sắc phong Đái Pháp Hưng làm Ngô xương huyện nam, sắc phong Đái Minh Bảo làm Tương hương huyện nam, sắc phong Thái Nhàn làm Cao xương huyện nam, mỗi người được phong thực ấp 300 hộ. Hồi đó Thái Nhàn đã tạ thế, triều đình truy phong. Đái Pháp Hưng vì có công nên vẫn giữ các chức vụ như kỵ thị lang, Cập sự trung và trung lang tướng bảo vệ thái tử và thái thú quận Nam lỗ như cũ. Tống thế tổ trực tiếp điều khiển chính vụ trong triều đình, không sùng ái đại thần, nhưng không thể không uỷ nhiệm những ng]ời tai mắt tâm huyết của ông. Vì Đái Pháp Hưng rất thông hiểu cổ đại và hiện thế, cho nên ông được hoàng đế thân tín trọng thị. Tuy ông rút khỏi việc phục vụ thái tử đông cung, nhưng việc đó càng làm cho những kẻ thống trị tầng lớp trên trong triều đình càng trọng thị ông hơn, sùng ái ông hơn. Sào Thượng Chi, một trong những nhân sĩ đầu tiên của quận Lỗ, trong những năm Tống văn đế Nguyên Gia (424 - 453), thị phụng Thuỷ Hưng vương Lưu Tuấn học tập, ông thông hiểu các khoa văn học lịch sử v.v.. nên cũng được hoàng đế tin yêu như vậy. Những năm đầu của Hiếu Kiến,Sào Thượng Chi được bổ nhiệm làm Đông hải quốc thị lang, vẫn kiêm chức Trung thư tỉnh thông sẹ xá nhân. Phàm khi quốc gia cần tuyển chọn hiền tài, thuyên chuyển, xử phạt, khen thưởng hoặc những vấn đề trọng đại khác, bao giờ hoàng đế cũng bàn bạc với hai người là Đái Pháp Hưng và Sao Thượng Chi để quyết định. Ngay cả những việc phức tạp trong ngoài triều đình, phần nhiều giao cho Đái Minh Bảo đi xử lý. Tính cách hoàng đế Lưu Tuấn nghiêm minh và nóng nảy hấp tấp, động một tí là nổi trận lôi đình, phồng mồm trợn mắt cáu kỉnh, động một tí là lạm dụng hình phạt, là ra lệnh giết. Gặp những tình huống như vậy, đại thần Sào Thượng Chi thường phải đứng giữa giải thích, phần nhiều giúp được cho nhân viên có liên quan thoát nạn. Các cơ quan chính phủ rất ỷ lại vào Sào Thượng Chi. Thái độ cử chỉ trình bày với Sào Thượng Chi có khác, do Đái Pháp Hưng. Đái Minh Bảo được sùng ái nên có quan hệ giao tiếp rộng rãi nên đã nhận rất nhiều hối lộ. Phàm người nào đã được hai ông tiến cử, không có trường hợp nào là không thành công, thiên hạ tranh nhau nịnh bợ Đái Pháp Hưng, Đái Minh Bảo. Ngoài cổng nhà họ bao giờ cũng có người xếp hàng, huyên náo cứ như cái chợ, mỗi nhà tích luỹ được cả ngàn vàng. Đặc biệt là bản thân Đái Minh Bảo kiêu căng ngoạ mạn một cách kinh khủng. Ngườicon trai lớn của ông ta là Đái Kính làm việc ở Dương châu, ngang nhiên dám tranh mua các vật phẩm ngự dụng với hoàng đế. Sáu cung ra ngoài, Đái Kính ăn mặc hào hoa lộng lẫy, cưỡi ngựa đi đi lại lại xung quanh xe của họ, khiến cho hoàng đế Lưu Tuấn phải phẫn nộ, hạ lệnh giết chết Đái Kính và bắt Đái Minh Bảo giam vào trong Thượng phương. ít lâu sau Đái Minh Bảo được ân xá phóng thích, mọi chức vụ vẫn như cũ. Sau khi Tống Thế tổ băng hà, Lưu Thế Nghiệp, vị hoàng đế đã bị phế truất lên ngôi hoàng đế, Đái Pháp Hưng được đề bạt làm Việt kỵ hiệu uý. Hồi đó, thái té Giang hạ vương Lưu Nghĩa Cung làm quan lục thượng thư, kiêm tổng kỷ, còn Đái Pháp Hưng, Sào Thượng Chi nắm thực quyền thời gian lâu dài, thanh danh uy thế khắp trong ngoài triều đình. Lưu Nghĩa Cung tiếp thu bài học của Bành thành vương Lưu Nghĩa Khang, vốn là người nhút nhát, cẩn thận, đến bây giò lại càng cẩn thận hơn trong mọi công việc. Vị vua bị phế truất trước là Lưu Tử Nghiệp còn chưa kịp tự mình xử lý những việc quân cơ chính vụ của nước nhà thì có chiếu lệnh phải thực thi sắc lệnh, mọi việc đều đến tay Đái Pháp Hưng. Mọi việc lớn nhỏ trong thượng thư đài đều do một mình ông quyết định. Nhan Sư Bá, Lưu Nghĩa Cung chẳng qua chỉ là hư danh mà thôi. Đồng thời, tuổi tác của vị hoàng đế đã bị phế ngôi ngày càng cao cũng mongmuốn làm được chút gì đó. Lúc đó Đái Pháp Hưng nhỉều lần khuyên ngăn tiền phế đế Lưu Tử Nghiệp, lần nàocũng nói với tiền phế đế Lưu Tử Nghiệp rằng :"Bệ hạ làm như thế, chẳnglẽ lại muốn làm Doanh Dương vương hay sao?" Tiền phế đế có chút nóng nảy bất bình. Viên quan hoạn được nhà vua sùng ái là Hoa Cố Nhi càng được yêu chiều hơn, hoàng đế ban thưởng cho Hoa Cố Nhi vàng bạc châu báu không sao thống kê nổi, Đái Pháp Hưng thường phải giảm bớt đi, kết quả Hoa Cố Nhi rất căm giận Đái Pháp Hưng. Phế đế Lưu Tử Nghiệp thường xuyên phái hoạn quan Hoa Cố Nhi đi đến các chợ dân gian để thăm dò trinh sát xem những câu ca dao lưu truyền trong dân gian là gì. Nhưng, lời đồn trong xã hội đều nói Đái Pháp Hưng mới là thiên tử thật sự, tiền phế đế Lưu Tử Nghiệp chẳng qua chỉ là hoàng đế giả. Hoa Cố Nhi trở về lợi dụng những câu ca dao này để tấu báo lên hoàng đế, và nói: “Bên ngoài đồn rằng trongcungcó hai thiên tử: bệ hạ là một, còn một người nữa chínhlà Đái Pháp Hưng. Bệ hạ ở trong thâm cung, không thể nào đi lại giao dịch với các quan viên quần thần được, còn Đái Pháp Hưng thì cùng với thái tế Lưu Nghĩa Cung, Nhan Sư Bá, Liễu Nguyên Cảnh kết thành một giuộc, liên hệ với nhau, đi lại rất là mật thiết, môn khách thường xuyên có hàng mấy trăm người, ttriều đình trongngoài, thần dân bá tính không ai là không khiếp sợ bọn họ. Hơn nữa Đái Pháp Hưng lại là đại thần thân tín của Hiếu vũ hoàng đế Lưu Tuấn, đã từng phục vụ trong cung nhiều năm, giờ đây đối với mọi người như trong một nhà, e rằng chỗ ngồicủa hoàng đế sẽ không còn là bệ hạ nữa”. Tiền phế đế nổi giận lôi đình, hạ lệnh bãi miễn chức quan của Đái Pháp Hưng, trước hết đuổi về quê hương, sau đó lưu đày đến quận huyện vùng biên giới. Sau đó ít lâu thì có lệnh ban cho chết tại nhà. Khi chết Đái Pháp Hưng mới có 52 tuổi. Trước khi qua đời, Đái Pháp Hưng niêm phong kho phủ mà ông ta đã tích luỹ, giao cho gia nhân chìa khoá, yêu cầu phải trông coi và bảo quản cẩn thận kho phủ này. Sang ngày thứ hai sau khi Đái Pháp Hưng chết, triều đình giết luôn cả hai người con ttrai của ông và lệnh phải hoả thiêu quan tài của Đái Pháp Hưng, tịch thu toàn bộ tài sản nhà ông. Đái Pháp Hưng có tài văn chương, một số sáng tác của ông còn được lưu hành trong dân gian. Tuyển tự “Tống thư " Quyển 94