🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Cuộc Chinh Phạt Của Alexander Đại Đế
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG CUỘC CHINH PHẠT CỦA
ALEXANDER ĐẠI ĐẾ
Tác giả: Arrian
(Lucius Flavius Arrianus) Alpha Books
Trình bày lại ebook (05/01/‘15): QuocSan Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Thư ngỏ gửi độc giả
Nền văn minh Hy-La cổ đại chỉ kéo dài khoảng 20 thế kỷ, nhưng thành tựu và ảnh hưởng của nó trong lịch sử nhân loại không thể đo đếm được bằng con số thời gian cụ thể nào.
Người Hy Lạp-La Mã cổ tạo dựng nên nền dân chủ, nền khoa học duy lý và một nền triết học rực rỡ. Họ xây dựng nên những công trình nguy nga như đền Parthenon, đấu trường Colisée, Khải hoàn môn và thư viện Hoàng gia Alexandria… Họ sáng tạo nên những huyền thoại vượt thời gian như Iliad, Odyssêy hay Oedipus… Phải nói rằng đây là nền văn minh đã phát triển rực rỡ về mọi mặt với những tác phẩm và thành tựu ở nhiều thể loại như văn học, mỹ thuật, kiến trúc, triết học, y học, toán học, lịch sử, vật lý… mà cho đến ngày nay vẫn không ngừng được kiếm tìm, nghiên cứu và khám phá.
Vào quãng những năm 2000, các dịch giả trẻ như Nguyễn Cảnh Bình, Cao Việt Dũng mang trong mình ước mơ giới thiệu và chuyển ngữ trọn vẹn bộ sách Những cuộc đời song hành của Plutarch – một trong những bộ sách quan trọng nhất trong kho tàng văn minh Hy-La cổ đại. Tâm huyết của họ được thể hiện bằng thành quả là tập 1 Những cuộc đời song hành do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành.
Nhưng công việc đó vẫn còn dang dở và đã phải dừng lại trong dăm năm trời. Phải đến thời điểm những năm 2010, sau những thôi thúc mạnh mẽ cần xuất bản các tác phẩm kinh điển về nền văn minh Hy-La cổ đại, chúng tôi mới quyết tâm dành trọn vẹn công sức và thời gian để xây dựng nên Tủ sách Hy-La kinh điển của Alpha Books. Bắt đầu từ đâu và triển khai như thế nào? Chúng tôi lần theo dấu chân những “người khổng lồ” trên thế giới, thông qua các danh mục sách kinh điển, chúng tôi đã hình thành nên một danh mục đủ để đeo đuổi trong hàng chục năm trời. Nhưng trước tiên, vẫn phải bước những bước đầu tiên. Và con đường ấy thật nhiều chông gai: sự e dè, nghi ngại của những độc giả tốt bụng, sự hụt hơi trên dặm đường dịch thuật, sự kỳ công trong từng trang bản thảo. Sau những tác phẩm đầu tiên về nền văn minh Hy-La như Chính trị luận của Aristotle, Cộng hòa của Plato; Iliad và Odyssêy của Homer; Ngày cuối trong đời Socrates của Plato đã được ra mắt bạn đọc, Tủ sách Hy-La vẫn đang không ngừng được phát triển, mở rộng nhằm giúp bạn đọc tiếp cận được toàn bộ di sản trí tuệ khổng lồ của nền văn minh này trong mọi lĩnh vực. Và rồi đây, chúng tôi sẽ tự hào giới thiệu tới bạn đọc những tác phẩm quan trọng của Arrian, Herodotus, Plutarch hay các công trình nghiên cứu đồ sộ của Edward Gibbon, v.v…
Lần xuất bản đầu tiên sẽ không tránh khỏi còn tồn tại những thiếu sót. Chúng tôi hy vọng nhận được sự góp ý chân thành của quý bạn đọc để hoàn thiện các tác phẩm đã được chuyển ngữ. Hy vọng quý bạn đọc sẽ thu được
nhiều tri thức hữu ích khi lựa chọn các tác phẩm trong Tủ sách này. CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA
Lời giới thiệu
Arrian, hay Lucius Flavius Arrianus, tác giả cuốn sách này, là một triết gia, một quan chức, một nhà quân sự, người sinh trưởng trong gia đình giàu có – đó là tất cả những điều kiện xã hội của một trí thức tinh hoa đúng nghĩa theo truyền thống phương Tây, người sẽ được hưởng một nền giáo dục đủ cao và có cuộc sống đủ tách biệt khỏi những vấn đề thường nhật để có cái nhìn cao thượng nhưng thực tế, khách quan nhưng có chủ kiến về mọi vấn đề cần nhận thức. Đáng tiếc rằng cũng như những tác gia khác của thời cổ-trung đại, Arrian xứ Nicomedia có lẽ đã nghiên cứu và viết rất nhiều tác phẩm quan trọng, nhưng đa phần trong số đó đã không còn có thể tìm thấy. Tác phẩm Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế là kiệt tác quan trọng hiếm hoi còn được đến ngày nay. Đây thực sự là một kiệt tác mà chỉ riêng ở lĩnh vực hẹp về khoa học quân sự, khoa học chính trị hay thậm chí nhân học, ta có thể nói ngay rằng không thể hiểu về quân sự cổ đại và tư duy phức hợp cổ-trung đại giữa huyền thoại-chiến công, nhà nước-quân đội, thần thánh con người,… mà không tham khảo và đọc một cuốn sách như vậy. Cần nói thêm rằng, cho đến nay, Arrian chắc chắn là tác gia đã đọc nhiều nhất, biết nhiều nhất và có những tư liệu quan trọng nhất về nền quân sự Macedonia và Alexander Đại đế. Tất thảy những điều ấy cho phép hội tụ đủ điều kiện để ông viết nên một kiệt tác về một con người kiệt xuất.
Một con người kiệt xuất là người khiến người khác muốn đọc về họ sau khi nghe về họ – và đó là người mà những cá tính hẹp hòi nhất và con người nhất lại khiến chúng ta thấy họ gần gũi và đáng nhớ hơn bao giờ hết. Alexander Đại đế chính là một con người kiệt xuất như vậy. Nếu mỗi cuộc đời là một tác phẩm, thì tự cuộc đời của Alexander là một tác phẩm vĩ đại. Nếu mỗi anh hùng đều cần một sử thi để trở nên trọn-vẹn là một anh hùng, thì tác phẩm mà bạn đọc cầm trên tay đây chính là sử thi quan trọng hoàn thiện hình ảnh vị vua-thần chiến tranh của thế giới cổ-trung đại. Hãy đọc những câu cuối cùng trong kiệt tác này, để có thể bắt đầu đọc nó trong tinh thần của chính nó: “… Nhưng là một con người, nếu ai đó coi thường Alexander, trước hết anh ta nên tự so sánh mình với ngài: bản thân anh ta, một kẻ tầm thường ít tiếng tăm còn Alexander là vị hoàng đế vĩ đại với những thành công mà không ngòi bút nào tả xiết, người cai trị hai lục địa, người mà danh tiếng đã được cả thế gian biết tới. Làm sao có ai đó dám lăng mạ ngài, khi người đó hiểu rằng sự khinh thị và mục đích tầm thường của anh ta chỉ chứng minh cho sự bất lực của bản thân mà thôi?… tôi tin rằng vào thời đại đó, không một dân tộc nào, không một thành phố nào, không một cá nhân nào lại không biết tới cái tên Alexander; không có một ai trên thế gian này giống như ngài, và do đó, tôi không thể không tin rằng có một vài quyền lực siêu nhiên nào đó liên quan tới cái chết của ngài…Trong
cuốn sách này, tôi thừa nhận rằng bản thân có thấy Alexander phạm phải một số sai lầm, nhưng tôi không ngại ngần gì trong việc bày tỏ lòng ngưỡng mộ vô bờ bến đối với con người ngài. Ở những điểm tôi chỉ trích ngài, tôi cần phải làm như vậy vì tôi mong muốn được kể lại sự thật như tôi đã thấy, và do đó, giúp ích cho độc giả của tôi. Những điều này là động lực để tôi bắt đầu viết cuốn lịch sử này: và tôi cũng xin cảm tạ thần linh đã hỗ trợ tôi hoàn thành tác phẩm này.”
Những tác phẩm Cổ-Trung đại nói chung là khó-hiểu và dễ-đọc với phần lớn những người muốn tìm hiểu – một mặt vì chúng thường bao hàm những ẩn ý cổ thuộc về một nghệ thuật văn chương mà đến nay gần như đã biến mất, nhưng mặt khác những người viết không sử dụng đến hệ thống thuật ngữ khoa học rắc rối hay những phương pháp nghiên cứu phức tạp nào. Dù vậy, xuyên qua mọi lớp vỏ ngôn ngữ và thời đại, có những điều luôn luôn khiến con người ở bất cứ nơi đâu bị thu hút, đó là sự huyền bí gắn liền với những tâm tình phàm tục, sự vĩ đại mà một nửa của nó là cá nhân và nhỏ nhen, những chiến công oanh liệt mà phần chìm là sự dằn vặt và những khát vọng dường như là tầm thường nhất, và những phẩm chất phi thường trong hình hài một con người nhân gian. Tác phẩm Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế mà bạn đang cầm trên tay là một cuốn sách kỳ lạ và đáng đọc như thế.
Alpha Books trân trọng gửi đến bạn đọc tác phẩm giá trị này. Chúng tôi hy vọng, tác phẩm này của Arrian sẽ làm thỏa mãn những ai yêu thích tìm hiểu về nghệ thuật quân sự, chiến tranh, cũng như nền văn minh Hy-La. Trong quá trình hoàn thành tác phẩm, mặc dù đã rất cố gắng, song chúng tôi e rằng vẫn còn những thiếu sót. Bởi vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc về bản dịch để hoàn thiện trong những lần xuất bản sau.
Hà Nội, ngày 18 tháng 01 năm 2015
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA
Những cuộc chinh phạt của Alexander đại đế[1]
Arrian, hay Lucius Flavius Arrianus, là một người Hy Lạp sinh ra vào khoảng một vài năm trước năm 90 sau Công nguyên (SCN), trong một gia tộc giàu có tại Nicomedia, thủ phủ của La Mã thuộc Bithynia. Cha của ông được công nhận là công dân La Mã, điều này cho phép Arrian bắt đầu sự nghiệp trong công cuộc phục vụ vương quyền. Vào khoảng năm 108 SCN, ông học triết học dưới sự hướng dẫn của Epictetus.[2] Triết lý này đề cao sự tri túc [contentment – nghĩa là biết đủ]. Tri túc đem đến một đời sống lặng lẽ, bình yên, không có gì đáng để bận tâm phiền não. Sự bình an tâm hồn là điều đáng quý trọng hơn cả. Niềm an lạc ấy được tìm thấy thông qua sự tự kiềm chế [self-control] hay tự chủ [self-mastery]; đó là khả năng chế ngự lòng ham muốn và làm chủ bản thân, không để mình buông thả theo dục vọng. (ND)](2) và ghi chép những lời thuyết giảng của triết gia này trong cuốn The Discourses (tạm dịch: Những tranh luận) và tóm tắt các bài giảng của Epictetus trong Manual (tạm dịch: Sổ tay). Ông thăng tiến rất nhanh trong sự nghiệp. Vào khoảng năm 129 hoặc 130 SCN, ông đã là quan chấp chính. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm thống đốc một khu vực biên giới thuộc Cappadocia, điều này cho thấy Hoàng đế Hadrian[3]tin tưởng vào khả năng quân sự và quản lý của ông tới mức nào. Arrian chỉ huy hai quân đoàn La Mã và đông đảo quân đội đồng minh, gánh vác một trọng trách chưa từng có tiền lệ đối với người Hy Lạp trong giai đoạn đó. Năm 134 SCN, ông đánh đuổi quân xâm lược Alan khỏi vùng Armenia trong một cuộc chinh phạt mà ông đã mô tả trong The Formation Against the Alans (tạm dịch: Dàn trận chống lại quân Alan). Ông cũng viết Tactical Manual (tạm dịch: Nghệ thuật tác chiến) cho kỵ binh và Circumnaviagation of the Black Sea (tạm dịch: Hành trình qua biển Đen), một ghi chép về chuyến hải hành mà ông đã thực hiện từ Trapezus tới Dioscurias vào những năm 131-132 SCN. Ông đã rút khỏi chức vụ này hoặc bị triệu hồi trước thời điểm vua Hadrian băng hà vào năm 138, và trong phần đời còn lại, ông sống tại Athens và chuyên tâm vào việc viết lách. Arrian đã trở thành công dân Athens và trở thành quan chấp chính vào năm 145, điều khiến ông có đủ điều kiện trở thành thành viên của Hội đồng Areopagus,[4]hội đồng quản trị chính của Athens. Không ai biết gì hơn về cuộc đời của ông. Những tác phẩm còn lại về thời kỳ Athens của Arrian bao gồm On the Chase (tạm dịch: Bàn về truy kích), cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế gồm bảy quyển, và Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ) – một ghi chép về chuyến hải hành từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư của hạm đội Alexander Đại đế.
Trích Lời tựa của dịch giả[5]
Sau khi thời đại Alexander khép lại, ngay từ đầu thế kỉ thứ II TCN, văn học Hy Lạp đã suy tàn một cách nhanh chóng, và trong suốt 100 năm – khoảng từ năm 50 TCN tới năm 50 SCN – khi nền văn học Latinh đang ở đỉnh cao, nó gần như đã tiêu biến. Nền văn học này đã có một lịch sử dài lâu, và từng là một trong những đỉnh cao vinh quang của thế giới trong khoảng 1000 năm. Tuy vậy, văn học Hy Lạp không hoàn toàn kết thúc. Thế kỷ thứ hai trong kỷ nguyên của chúng ta đã bắt đầu một cách khó khăn khi có một sự phục hưng tinh thần Hy Lạp, và tiếng Hy Lạp một lần nữa được sử dụng với vai trò là một ngôn ngữ văn học – dĩ nhiên, người ta đã luôn dùng tiếng Hy Lạp trên khắp những vùng đất rộng lớn ở phía đông của Đế chế La Mã, và những người La Mã được giáo dục đã quen thuộc với ngôn ngữ này cũng như những người Anh có học thức ngày nay quen với tiếng Pháp. Người ta không bao giờ xác định được thời điểm bắt đầu của một trào lưu văn học, và ngay từ thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Kitô giáo, đã xuất hiện nhiều nhà văn Hy Lạp nổi tiếng, một trong số đó là Plutarch. Tuy vậy, không khó để xác định khởi đầu của thời phục hưng Hy Lạp, bắt nguồn từ sự kiện Hadrian lên ngôi vào năm 117 SCN. Phần nhiều nỗ lực và sức mạnh của thời phục hưng Hy Lạp, quả thực, nhờ vào người đàn ông xuất chúng này, vốn phần nào cũng là một nhà thơ và là người say mê văn học Hy Lạp cổ. Sự bảo trợ mà ông đem đến cho những nhà triết học Hy Lạp của thời đại đó bảo đảm cho sự vĩ đại và tầm ảnh hưởng ngày một gia tăng của họ, và ảnh hưởng này, tới lượt nó, lại tác động như một cú hích tới sự phục hưng của văn chương Hy Lạp. Hoàng đế Marcus Aurelius[6]đã viết cuốn sách nổi tiếng của ngài bằng tiếng Hy Lạp.
Arrian đã tích cực tham gia vào trào lưu phục hưng văn chương Hy Lạp. Trào lưu này cũng đã thu hút các nhà văn cùng thời khác, có thể nhắc tới một số tên tuổi như Appian,[7]sử gia người Hy Lạp viết về La Mã; Pausanias,[8] người mà tác phẩm Tour of Greece (tạm dịch: Dạo chơi Hy Lạp) của ông đã trở thành một trong những nguồn khảo cứu của tôi; Galen[9]– một tác gia viết về y học; và Lucian[10]với lối viết đơn giản nhưng hóm hỉnh một cách tuyệt vời – một tác giả mà trên nhiều phương diện là đáng đọc nhất trong tất cả những tên tuổi nêu trên.
Tất cả những nhà văn này đều sử dụng cách diễn đạt rất khác biệt so với ngôn ngữ Hy Lạp lúc bấy giờ. Họ bắt chước lối viết cổ (archaizing) một cách thận trọng, mô phỏng một cách có ý thức, hoặc cố gắng mô phỏng ngôn ngữ và phong cách văn chương của 300 hoặc 400 năm trước. Điều này chắc chắn ảnh hưởng tới chất lượng tác phẩm của các tác giả này. Họ rất dụng công trong sáng tác, và không có điều gì kiểu như phong cách “tự nhiên” tồn tại
trong đó, mặc dù lớp hậu thế chúng ta ngày nay đã luôn tin rằng phong cách văn chương tuyệt vời nhất là phong cách đạt đến sự tự nhiên. Các nhà văn Hy Lạp trong thế kỷ thứ hai không hề nghĩ như vậy; đối với họ, các nhà văn vĩ đại của 400 hoặc 500 năm trước đã tạo ra một phong cách nghệ thuật chuẩn mực và cách duy nhất để có được sự xuất sắc đó là sao chép lại cách diễn đạt của các vị đó càng giống càng tốt. Chỉ có hai cuốn sách chúng ta có ngày nay gần gũi với tiếng koinê, hoặc tiếng Hy Lạp của Syria và Tiểu Á thời đại đó, là cuốn Tân Ước và ghi chép của Arrian về những bài giảng của Epictetus. Trong nhiều thế kỷ, cả giới học giả lẫn những kẻ thông thái rởm, đều cho rằng tiếng Hy Lạp của kinh Tân Ước là thứ tiếng thiếu tinh tế và thấp kém – một trong những ví dụ tiêu biểu là lời giễu nổi tiếng của Nietzsche rằng Chúa hẳn đã học tiếng Hy Lạp, nhưng có lẽ ngài không xuất sắc lắm trong môn học này. Nhưng ngày nay, hầu hết chúng ta đã ngộ ra, và vẻ đẹp của tiếng Hy Lạp trong kinh Tân Ước, cũng như sức mạnh diễn đạt của nó khiến chúng ta ao ước rằng, phải chi những nhà văn của kỷ nguyên đó đã đón lấy thứ ngôn ngữ sống động ngay trên đôi môi của họ thay vì tìm kiếm nó trong những văn bản của quá khứ. Một ví dụ về việc tính chất nhân tạo này[11]có thể đi xa tới mức nào đã được chính Arrian cung cấp. Một trong những cuốn sách của ông – cuốn Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ), có một phần ngắn được viết dựa trên ghi chép của Nearchus về chuyến hải hành từ sông Ấn tới vịnh Ba Tư – ông sử dụng, rõ ràng là để thay đổi, hoặc đơn giản để cho thấy rằng ông có thể sử dụng phương ngữ Ionic[12]như Herodotus.
Tiêu chuẩn lạ lùng này là một gánh nặng hầu như không thể chịu đựng nổi với các nhà văn thời kỳ đó. Trong số họ, chỉ Lucian vận dụng nó một cách khéo léo; những người còn lại, gồm cả Arrian, đều không tránh khỏi gượng gạo, chẳng khác gì việc một nhà văn Anh hiện đại, người ngưỡng mộ cách diễn đạt đầy màu sắc, mềm mại và sinh động của văn xuôi thời Elizabeth, đã quyết định viết phác họa những chân dung lịch sử theo phong cách của ngài Thomas North.[13]
Do đó, từ quan điểm về phong cách, Arrian không phải là một nhà văn hàng đầu. Theo một cách nào đó, đây là một ưu điểm cho dịch giả; trong khi một dịch giả dịch những tác phẩm Hy Lạp kinh điển sẽ luôn cảm thấy thua kém bởi ý thức về một sự kém cỏi, thì người dịch tác phẩm của Arrian lại luôn cảm thấy hào hứng bởi cảm giác tự mãn, hầu như có thể thông cảm được, bằng cách làm lu mờ chính tác giả bởi cái mà Shelley,[14]khi bàn về bản dịch Symposium (tạm dịch: Tiệc rượu) tuyệt hay của chính ông, đã gọi là “tấm mạng che màu xám phủ lên những từ ngữ của chính tác giả”, và ở chỗ này hay chỗ khác, ông thậm chí đã hoàn thiện ý tứ của tác giả. Tuy nhiên, tác
phẩm của Arrian, về cơ bản, là rõ ràng và dễ hiểu; và đó là một ưu điểm.
Danh sách những từ viết tắt
AJP Tạp chí Triết học Mỹ.
CQ: Tạp chí Classical.
Xã hội cổ xưa và những thể chế. Những nghiên cứu đệ trình lên
Ehrenberg Studies:
Fuller:
Victor Ehrenberg (Ancient Society and Institutions. Studies presented to Victor Ehrenberg), E. Badian biên tập (Oxford, 1966).
Trung tướng J. F.C. Fuller, Tài chỉ huy quân sự của Alexander Đại đế (The General-ship of Alexander the Great) (London, 1958).
JHS: Tạp chí Hellenic Studies.
Tarn,
Alexander Tod:
Wilchen, Alexander
Ngài William Tarn, Alexander Đại đế (Alexander the Great), 2 tập (Cambridge, 1948).
M. N. Tod, Tuyển tập những bản chép lịch sử Hy Lạp (A Selection of Greek Historical Inscriptions), tập 2) (Oxford, 1948).
Ulrich Wilcken, Alexander Đại đế (Alexander the Great), G. C. Richards dịch (London, 1932); tái bản với lời giới thiệu những nghiên cứu về Alexander, chú thích và thư mục tài liệu tham khảo của Eugene N. Borza (New York, 1967).
Dẫn nhập
Arrian ngày nay chỉ được nhớ tới với vai trò là tác giả của cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế và là học trò của triết gia Epictetus, người đã gìn giữ những bài giảng của thầy mình khỏi sự lãng quên. Tuy nhiên, Arrian còn là nhân vật nổi tiếng trong thời đại của ông. Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chỉ là một trong số những tác phẩm lịch sử quan trọng, trong khi ông giữ chức quan chấp chính tại La Mã và Athens, đồng thời cai trị một khu vực biên giới của đế chế La Mã suốt một thời gian dài.
CUỘC ĐỜI CỦA ARRIAN
Flavius Arrianus Xenophon, tên đầy đủ[15]của Arrian, là một người Hy Lạp, sinh ra tại Nicomedia, thủ phủ của La Mã thuộc Bithynia, vào khoảng một vài năm trước năm 90 SCN.[16] Ông xuất thân trong một gia đình giàu có, và chính Arrian đã tiết lộ với chúng ta rằng ông giữ chức tư tế (priesthood) của nữ thần Demeter[17]và nữ thần Kore[18]trong thành phố. Giống như những người Hy Lạp giàu có khác, cha của Arrian được công nhận là công dân La Mã, rõ ràng là do một trong những hoàng đế Flavia,[19] mà khả năng cao nhất là vua Vespasian, ban cho. Bởi vậy, Arrian ngay từ khi ra đời đã là một công dân La Mã đầy triển vọng trong sự nghiệp phục vụ vương quyền, nếu ông thực sự theo đuổi điều đó và có đủ năng lực cần thiết.
Arrian trải qua thời niên thiếu và tuổi trẻ tại mảnh đất quê hương, nơi ông hẳn đã được thừa hưởng một nền giáo dục thượng lưu Hy Lạp theo lối thông thường về văn học và hùng biện. Sau đó, cũng giống như nhiều người Hy Lạp trẻ tuổi khác có vị thế xã hội tương đương – những người theo đuổi sự nghiệp phục vụ vương quyền, Arrian quyết định hoàn thiện học vấn của mình bằng cách theo học triết học. Vào khoảng năm 108, ông đã tới Nicopolis ở Epirus, nơi nhà triết học Khắc kỷ Epictetus đã thành lập một trường học sau khi Domitian ra lệnh trục xuất các triết gia khỏi La Mã vào năm 92/93.[20] Epictetus là một người xuất chúng, đã từng chịu cảnh nô lệ, chủ yếu bận tâm tới những vấn đề đạo đức. Những bài giảng của ông nhấn mạnh vào việc mỗi cá nhân đều phải quan tâm tới tâm hồn của anh ta, coi thường sự giàu có và xa hoa, có nhiều điểm gần gũi với Kitô giáo. Quả thực, thi thoảng, người ta vẫn suy nghĩ một cách sai lầm rằng những quan điểm này hẳn đã chịu tác động của một tôn giáo mới. Giống như Socrates, Epictetus đã không để lại bất cứ trang viết nào, nhưng may mắn thay, ông đã để lại một ấn tượng khó phai đối với người học trò trẻ tuổi đến độ Arrian đã ghi chép lại những lời giảng của thầy mình và sau đó, đã xuất bản chúng trong cuốn Discourses (tạm dịch: Những tranh luận)[21]gồm tám quyển. Bốn trong số tám quyển này vẫn được lưu giữ cho tới ngày nay, đem đến cho chúng ta bức chân dung sinh động về một con người lỗi lạc. Ngoài ra còn có cuốn Manual (tạm dịch: Sổ tay) và Handbook (tạm dịch: Sách kim chỉ nam), mà trong đó, vì lợi ích của công chúng, Arrian đã kết hợp những nội dung chính trong bài giảng của Epictetus. Trong thời Trung đại, cuốn sách này được ưa chuộng và trở thành cẩm nang cho đời sống trong tu viện. Rõ ràng là Arrian đã thu nhận được những tiêu chuẩn đạo đức cao từ Epictetus mà từ thước đo đó, ông đã đem ra để đánh giá Alexander Đại đế. Epictetus cũng nhiệt thành tán dương sự hối hận sau khi hành động sai trái, chúng ta nhận thấy thái độ tương tự khi Arrian ngợi ca cách hành xử của Alexander Đại đế
sau khi giết Cleitus. Do Epictetus đã lấy trải nghiệm cuộc đời mình dưới thời Domitian ở La Mã để minh họa cho những bài giảng của ông, những luận bàn của Arrian về “nguyên nhân sụp đổ của các hoàng đế”, kẻ nịnh thần, cũng xuất phát từ một nguồn tương tự.
Về sự nghiệp phục vụ vương quyền của Arrian cho tới khi ông giữ chức quan chấp chính vào năm 129 hoặc 130, chúng ta chỉ biết rằng ông đã phục vụ tại biên giới Danube, có thể là ở Gaul và Numidia. Sự nghiệp của Arrian có thể đã được thúc đẩy bởi niềm yêu thích văn hóa Hy Lạp của Hadrian, người đã kế vị Trajan, lên ngôi hoàng đế vào năm 117. Nhưng việc bổ nhiệm Arrian giữ chức thống đốc của Cappadocia, một năm sau khi ông giữ chức quan chấp chính là sự thừa nhận khả năng quân sự và tài cai trị của ông; bởi không có bằng chứng nào cho thấy Hadrian cho phép một tình cảm ủy mị nào đẩy đế chế của ngài vào tình trạng nguy hiểm. Trong thời gian khu vực biên giới rộng lớn và trọng yếu của Cappadocia đã mở rộng ra phía Bắc tới tận biển Đen, và dọc bờ biển phía Đông của nó từ Trapezus tới tận Dioscurias, Arrian đã được trao quyền chỉ huy hai quân đoàn La Mã và một lực lượng lớn đồng minh, một quyền chỉ huy hiếm có và có lẽ là vô tiền khoáng hậu đối với một người Hy Lạp trong giai đoạn đó. Đó là một khoảng thời gian đầy xáo trộn “được tạo ra bởi những cuộc chinh phạt ngắn ngủi của Trajan vượt ra ngoài vùng Euphrates, và bằng việc nhanh chóng quay trở lại chính sách phòng vệ của Hadrian”.[22] Vào năm 134, người Alan băng qua vùng Caucasus, đe dọa xâm lược Cappadocia và mặc dù họ không vượt qua được biên giới, Arrian vẫn được ghi nhận là người đã đuổi quân xâm lược ra khỏi vùng Armenia. Tác phẩm còn lại của Arrian, The Formation against the Alans (tạm dịch: Dàn trận chống lại quân Alan), mô tả cách sắp xếp lực lượng của ông, cùng với trật tự hành quân và những chiến thuật được tuân theo. Hai tác phẩm khác đánh dấu thời kỳ ông làm thống đốc vẫn còn tồn tại tới ngày nay, tác phẩm Circumnavigation of the Black Sea (tạm dịch: Hành trình qua biển Đen) và Tactical Manual (tạm dịch: Nghệ thuật tác chiến). Tác phẩm sau có niên đại vào khoảng 136/137 SCN. Cuốn sách chỉ quan tâm tới những chiến thuật của kỵ binh; vì Arrian nói rằng ông đã viết một tác phẩm về chiến thuật bộ binh. Cuốn Circumnavigation of the Black Sea là một ghi chép, dựa trên bản báo cáo chính thức (bằng tiếng Latinh) được ông, với vai trò thống đốc, đệ trình lên hoàng đế về chuyến hải hành từ Trapezus tới Dioscurias và hai chuyến đi khác để xây dựng nên một bản ghi chép về toàn bộ bờ biển Đen. Chuyến hải hành này diễn ra vào giai đoạn đầu Arrian nhậm chức – trong sách ông nhắc tới việc nghe tin về cái chết của vua Cotys năm 131/2 – nhằm kiểm tra những phòng tuyến trong khu vực của mình.
Arrian được bổ nhiệm chức thống đốc của Cappadocia năm 137, nhưng ông đã rời bỏ chức vụ này hoặc đã được triệu hồi trước thời điểm hoàng đế
Hadrian băng hà vào tháng Sáu năm 138. Dường như ông không nắm giữ bất kỳ chức vụ nào cao hơn, vì nhiều lý do mà chúng ta chỉ có thể đoán chừng, nhưng ông đã tiếp tục cư trú tại Athens và dành phần đời còn lại cho việc viết lách. Ông đã trở thành công dân Athens, và vào năm 145/146 ông đã giữ chức quan chấp chính, một chức vị cao của Athens cổ đại. Điều cuối cùng chúng ta biết về ông là vào năm 172/173, ông là thành viên của Hội đồng Areopagus, và năm 180, nhà thơ trào phúng Lucian đã nhắc tới ông bằng những từ ngữ cho thấy ông đã mất.
Những tác phẩm mà Arrian viết khi ở Athens rất phong phú và đa dạng. Trình tự sáng tác những tác phẩm này không thể được xác định một cách chính xác, nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng những tác phẩm đầu tiên của ông khi đó là tiểu sử của Dion[23]vùng Syracuse, Timoleon[24]vùng Corinth, và cuộc đời của Tilliborus, một kẻ cướp nổi danh, người đã gây tai họa cho Tiểu Á. Tất cả những tác phẩm này đều đã biến mất không một dấu vết. Trong những trước tác của mình, Arrian thường nhắc tới người trùng tên với ông, Xenophon người Athens, với tinh thần ganh đua và tìm kiếm phần bổ sung cho một cuốn sách của nhà văn cao tuổi hơn về cùng một chủ đề.[25] Bằng cách chọn cùng một nhan đề, On the Chase (tạm dịch: Bàn về truy kích), Arrian nhấn mạnh mối liên quan và thách thức sự so sánh. Quả thực, ông viết rằng ông đã dành cả tuổi trẻ của mình để theo đuổi những sở thích giống như của Xenophon thành Athens – săn bắn, chiến thuật, và triết học. Những tác phẩm lịch sử của ông ra đời muộn hơn. Ngoài cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế, cuốn sách mà nhan đề và sự phân chia thành bảy quyển của nó rõ ràng đã bắt chước cuốn Anabasis của Xenophon, Arrian đã viết Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ), một ghi chép về chuyến hải hành của hạm đội Alexander Đại đế từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư (dựa trên cuốn sách của Nearchus) được mở đầu bằng mô tả về Ấn Độ và con người xứ sở này. Trong Events after Alexander (tạm dịch: Những sự kiện sau khi Alexander qua đời) bao gồm mười quyển, chúng ta hầu như chỉ thấy tường thuật về hai năm đầu tiên. Phần còn lại đã biến mất – chắc chắn là mất mát lớn nhất trong số các tác phẩm của Arrian. Chúng ta chỉ sở hữu những phần không trọn vẹn từ những tác phẩm khác của ông, Parthian History (tạm dịch: Lịch sử Parthia) viết về những cuộc chinh phạt của Trajan trong 17 quyển, và History of Bithynia (tạm dịch: Lịch sử của Bithynia) kể lại câu chuyện về mảnh đất quê hương ông từ thời huyền thoại tới năm 74 TCN, khi vị vua cuối cùng, Nicomedes IV, đã trao lại vương quốc của ngài cho La Mã.
NHỮNG CUỘC CHINH PHẠT CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ
Cuốn sách này thực sự là một tuyệt tác của Arrian, một sự bảo đảm vĩnh viễn cho danh tiếng của ông. Arrian đã nói rõ về tầm quan trọng của cuốn sách này đối với ông:
“Tôi không cần tuyên bố danh tính của mình – mặc dù nó chưa từng được ai biết tới; tôi không cần ghi rõ quê hương tôi và gia đình tôi, hay bất kỳ một chức vụ nào mà tôi đã từng nắm giữ. Tôi chỉ muốn nói điều này: rằng cuốn sách này, từ khi tôi còn trẻ, đã quý giá hơn quê hương, dòng họ và sự thăng tiến – quả thực, đối với tôi, nó chính là tất cả những điều đó.”
Arrian đã nắm bắt được một đề tài hấp dẫn, và một cơ hội tuyệt vời. Không một ai từng viết về Alexander nhiều hơn ông. Không một ai, dù là một nhà thơ hay nhà văn nào, có được sự công minh như ông. Chừng nào những tác phẩm của những tác giả viết về Alexander trước đó còn tồn tại những sai lầm hiển nhiên, chừng đó một Alexander thực sự còn bị che giấu dưới lớp lớp những tuyên bố mâu thuẫn. Những tác giả này thậm chí không thể xác định chính xác địa điểm diễn ra trận chiến quyết định với Darius; họ không biết những ai đã cứu sống Alexander ở Ấn Độ. Chưa bàn tới việc Achilles – người may mắn được Homer thuật lại kỳ công, những người kém may mắn hơn, như những bạo chúa người Sicily chẳng hạn, cũng được ưu ái hơn Alexander. Cuốn sách của Arrian quả thực đã chấm dứt tình trạng này. Tầm quan trọng của Alexander Đại đế to lớn đến mức Arrian đã không ngần ngại thách thức cả những sử gia Hy Lạp vĩ đại.
Với nhiệm vụ này, Arrian đã sở hữu những lợi thế quan trọng. Chúng ta không thể nói điều gì chắc chắn về thời điểm ông bắt đầu viết cuốn sách này, nhưng nhiều khả năng là không phải ở nửa đầu thế kỷ thứ II. Lúc đó, ông khoảng 60 tuổi; ông chắc hẳn đã đọc rất nhiều tác phẩm về Alexander và quen thuộc với những sử gia cổ đại như Herodotus, Thucydides và Xenophon; ông đã viết một số lượng tác phẩm đáng kể, mặc dù không tác phẩm nào nhiều tham vọng như cuốn sách này; ông ít nhất đã có một nền tảng triết học và có trải nghiệm phong phú về quân trị lẫn cai trị; cuối cùng, và không hề kém quan trọng hơn, ông sở hữu một lương tri (common sence) vượt trội.
Tuy nhiên, ông cũng chia sẻ nhiều khó khăn lớn với những sử gia khác khi viết về Alexander Đại đế. Người đầu tiên trong số đó là Diodorus người Sicily, người xuất hiện khoảng 300 năm sau cái chết của Alexander Đại đế, người đã dành cuốn sách thứ 17 trong bộ Universal History (tạm dịch: Lịch sử thế giới) của mình để viết về triều đại của Alexander Đại đế. Quintus
Curtius, nhà văn Latinh, đã viết cuốn History of Alexander (tạm dịch: Lịch sử về Alexander Đại đế) vào thế kỷ thứ I SCN, trong khi đó vào đầu thế kỷ thứ II, Plutarch, nhà viết tiểu sử người Hy Lạp, đã viết Life of Alexander (tạm dịch: Cuộc đời của Alexander Đại đế), cuốn sách cung cấp một bổ sung hữu ích cho Arrian. Cuốn Philippic Histories (tạm dịch: Lịch sử các diễn văn) của Pompeius Trogus, người viết sớm hơn Diodorus một chút, chỉ còn được lưu lại trong bản tóm tắt nghèo nàn của Justin (thế kỷ thứ III SCN).[26] Tất cả các tác giả này đều phải đối diện với việc lựa chọn những chi tiết nào trong vô số những nguồn dữ liệu mâu thuẫn về cuộc đời của Alexander Đại đế. Bởi vậy, Arrian đã không cường điệu khối lượng dữ kiện mà chọn cách “đương đầu” với các sử gia về Alexander. Phần nhiều những tư liệu về vị hoàng đế này đã biến mất không một dấu vết, những gì còn lại, trong “hình hài” của những tác phẩm không trọn vẹn, gắn với một số tác giả hiện có, khẳng định tuyên bố của Arrian rằng có nhiều lời dối trá về Alexander và vẫn còn tồn tại nhiều phiên bản mâu thuẫn về hành động của vị hoàng đế này.
Nhiều người tháp tùng Alexander đã viết về cuộc viễn chinh và người lãnh đạo từ quan điểm riêng của họ.[27] Callisthenes,[28]cháu của Aristotle, được coi như là “một chuyên viên báo chí” của Alexander trước người Hy Lạp – vì những đồng minh của ngài không hề nhiệt tình chút nào. Cũng chính Callisthenes đã viết một ghi chép về cuộc viễn chinh mà trong đó nhà vua, người chắc chắn “đã hiệu chỉnh” câu chuyện của Callisthenes, mang nhiều đặc điểm nổi bật của “các anh hùng trong thần thoại”. Phiên bản chính thức này tất yếu phải dừng lại khi tác giả của nó bị bắt giữ, và sau đó bị hành hình vì nghi ngờ mưu phản. Sự kiện cuối cùng được ghi chép lại là trận Gaugamela. Chares, viên thị thần hoàng gia, đã viết một cuốn sách về các giai thoại khi ông còn ở trong triều, trong khi Onesicritus, hoa tiêu chính của Alexander, học trò của Diogenes, đã để lại một ghi chép là sự pha trộn nguy hiểm giữa thật và giả. Đối với ông, Alexander là “một triết gia trong lĩnh vực quân sự”, một người đàn ông mang sứ mệnh. Nearchus, người đã chỉ huy hạm đội của Alexander trong chuyến hải hành từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư, tiếp bước cùng với một ghi chép ít khoa trương hơn, nhưng không may là ghi chép này chỉ bắt đầu từ chuyến hải hành của ông. Sau đó, chỉ giới hạn trong những ghi chép cùng thời quan trọng nhất, chúng ta có những bản chép sử của Ptolemy, người mà sau khi Alexander băng hà, đã trở thành người cai trị và sau này là vua của Ai Cập, và bản chép sử của Aristobulus, người có vẻ là một kỹ sư hay kiến trúc sư. Về những ghi chép này, tôi sẽ bàn tới sau. Nhưng ghi chép về Alexander phổ biến nhất trong những thế kỷ sau đó – mà Cealius, bạn của Cicero, đã đọc được – lại được viết bởi một người không tham gia cuộc viễn chinh, Cleitarchus. Ông đã viết bản sử đó tại Alexandria
vào cuối thế kỷ thứ IV, hoặc có thể muộn hơn. Cleitarchus đã mô tả Alexander như “một người anh hùng”, như Callisthenes đã làm, và (có chút phi lý) như người sở hữu những phẩm chất tiêu biểu nhất của một vị vua Hy Lạp. Nhưng sức hấp dẫn chủ yếu của cuốn sách hầu như chắc chắn là từ những mô tả sống động và những tình tiết gây xúc động mạnh, chẳng hạn như việc Thais, gái điếm hạng sang của Hy Lạp đã dẫn dắt Alexander, một kẻ nghiện rượu trong cuộc truy hoan ồn ào dẫn tới việc đốt cung điện tại Persepolis, việc Alexander nhận những mặt hàng xa xỉ của người Ba Tư, bao gồm cả một hậu cung gồm 365 cung phi, rồi cuộc truy hoan kéo dài hàng tuần ở Carmania, vụ đầu độc Alexander, v.v…
Arrian đã đọc tất cả hoặc đọc phần nhiều những bản chép sử này. Ông chắc chắn quen với những lời phê phán của những trường phái triết học, đặc biệt là phái Khắc kỷ, và những nhà hùng biện.[29] Họ tìm thấy một sự tương hợp trong tật nghiện rượu, tính tự phụ của Alexander, sự thiếu hụt khả năng tự kiểm soát bản thân mà dần trở thành thứ bạo lực giết chóc và những tham vọng thần thánh của ngài.
Đối mặt với vấn đề về tính xác thực, Arrian quyết định, một cách rất khôn ngoan, sử dụng bản chép sử của Ptolemy và Aristobulus làm nền tảng cho câu chuyện của ông. Ở những chỗ mà hai phiên bản này khớp nhau, ông nhất trí coi những sự kiện đó là chân thực. Ở những điểm họ khác nhau, đôi khi ông dùng cả hai phiên bản; hoặc thường xuyên hơn, khi thấy nghi ngờ, ông chọn theo Ptolemy. Chắc chắn rằng, về những vấn đề quân sự, các ghi chép của Ptolemy là nguồn tham khảo chính của Arrian. Điều này không phải là một sự liều lĩnh. Vì Alexander đã mất trước khi hai sử gia này viết lịch sử về ngài, họ chắc chắn không thể kiếm được món lợi lộc nào từ việc dối trá, trong khi đó với Ptolemy, sẽ là sự nhục nhã cho một vị vua nếu ông bịa đặt. Không khó khăn gì khi tìm kiếm những lý do cho việc tại sao Aristobulus và đặc biệt là Ptolemy có thể không quan tâm tới việc nói sự thật hay tại sao họ lại che giấu một phần sự thật. Nhưng sẽ có lý hơn khi tin rằng, Arrian đã đi tới một quyết định, sau một quá trình nghiên cứu lâu dài các cứ liệu sẵn có, rằng những tác giả này cung cấp những ghi chép trung thực nhất và đáng tin nhất về Alexander. Để bổ sung cho những tác phẩm của họ, Arrian cũng sử dụng “những câu chuyện” của các sử gia khác, chẳng hạn như Callisthenes và Chares, ở những điểm có “mối liên hệ đáng kể và đáng tin nhất”.
Trong giới hạn mà chúng ta có thể nhận định, lựa chọn Ptolemy như là nguồn cứ liệu chính của Arrian là hoàn toàn đúng đắn, đặc biệt là khi ông quan tâm rất nhiều tới những vấn đề quân sự vì Ptolemy là một người chinh chiến nhiều kinh nghiệm, người đã góp phần vào nhiều cuộc chiến mà ông mô tả, mặc dù ban đầu không phải là một nhân vật xuất sắc. Những ghi chép của Ptolemy về những cuộc chiến lớn của Alexander, như chúng ta thấy qua
con mắt của Arrian, không cách nào tránh được việc có những chỗ khó hiểu, có lẽ vì khó khăn của một người trong cuộc với việc duy trì một cái nhìn toàn cảnh về cuộc chiến. Chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng Ptolemy đã không nằm trong Bộ tham mưu (The Staff) cho tới tận cuối năm 330. Những hoạt động quân sự khác, cụ thể là những hoạt động mà Ptolemy đã tham gia, đều được ghi chép với sự rõ ràng đáng ngưỡng mộ, mặc dù ông có khuynh hướng phóng đại đóng góp của mình.[30] Điều này có thể hiểu được và không quan trọng lắm. Khó cảm thông hơn là sự bôi nhọ Perdiccas có hệ thống một cách rõ ràng, người vốn là đối thủ khó ưa của Ptolemy trong cuộc tranh chấp quyền lực sau cái chết của Alexander.[31] Sai lầm chính trong cuốn sách của ông dường như là ở sự dè dặt về một vài tình tiết dễ gây tranh luận hơn hoặc có thể dễ mang tai tiếng về sự nghiệp của Alexander. Arrian đã không trích dẫn ông như một nguồn chính cho câu chuyện về vụ giết hại Cleitus, mặc dù khó có thể tin rằng Ptolemy đã không nhắc gì tới bi kịch này, trong khi đó các ghi chép của ông lẫn của Aristobulus đều là cơ sở để Arrian viết về nỗ lực của Alexander trong việc du nhập nghi lễ phủ phục (proskynesis[32]). Dường như Ptolemy đã không nói gì hơn về những tình tiết này. Điều tương tự có lẽ cũng xảy ra với “âm mưu” của Philotas và các cận thần trẻ tuổi, mặc dù ông đã buộc tội cả Philotas lẫn Callisthenes.
Cuốn sách của Aristobulus đã cung cấp một bổ sung hữu ích cho Ptolemy, vì Aristobulus dường như quan tâm hơn tới địa lý và lịch sử tự nhiên. Hầu hết các chi tiết địa lý và đo đạc địa hình trong Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế đều được lấy từ cuốn sách của Aristobulus và ông cũng là người mô tả những tính toán đo đạc của Alexander nhằm cải tiến hệ thống kênh đào của Babylon và hàng hải trên sông Tigris. Aristobulus cũng là người được nhà vua ra lệnh khôi phục lăng mộ của Cyrus gần Pasargadae, nơi đã bị bọn trộm cướp tàn phá. Chúng ta mắc nợ ông những mô tả về lăng mộ này trước và sau khi bị cướp phá, những mô tả mà sau này đã được khảo cổ học hiện đại công nhận. Câu chuyện sống động về cuộc hành quân qua sa mạc Gedrosia với những quan sát về thực vật học có giá trị có lẽ cũng được khai thác từ cùng một nguồn. Cũng chính Aristobulus là người thuật lại công cuộc khai phá những bờ biển ở Ả Rập cùng những kế hoạch mà Alexander đã thực hiện cho cuộc chinh phục vùng đất này. Một trong những động lực viễn chinh của Alexander đã được Aristobulus tiết lộ là ngài muốn những người Ả Rập thừa nhận mình là một vị thần – điều mà chúng ta biết được từ Strabo,[33]vì Arrian đã không nhắc tới nguồn cứ liệu mà ông đã sử dụng.
Tuy nhiên về khía cạnh cá nhân, trước tác của Aristobulus đặt ra nhiều nghi vấn. Trong khi Ptolemy sẵn lòng vượt qua những khía cạnh không mấy dễ chịu trong tính cách của Alexander, cuốn sách của Aristobulus dường như
có tính chất “biện giải” rõ ràng khiến nó có phần “khoa trương” (kolax). Sử gia này đã nhấn mạnh một cách công tâm sự rộng lượng của nhà vua đối với hoàng tộc Ba Tư bị bắt giữ, và kiên trì giữ quan điểm về việc Cleitus tự chuốc lấy rắc rối. Tuy vậy, mặc dù ông buộc tội Philotas và Callisthenes, ông rõ ràng dè dặt hơn Ptolemy khi đưa ra những nhận xét đánh giá. Sau đó, việc Aristobulus tuyên bố rằng đức vua không phải là một kẻ nghiện rượu nặng, dù ngài vẫn còn sa đà vào những dạ yến chỉ với mục đích đàm luận, hẳn đã khiến người ta cảm thấy nực cười. Chỉ riêng vụ giết hại Cleitus đã bác bỏ tuyên bố này. Trên thực tế, nó thể hiện một phản ứng thái quá từ quan điểm khó lòng bào chữa được về việc Alexander nghiện rượu. Nhiều sử gia đã mô tả nhà vua vào lúc cuối đời như là nạn nhân của nỗi sợ hãi có tính chất cuồng tín. Theo những gì họ thuật lại thì Alexander, nghe theo lời khuyên của các nhà tiên tri, đã hành hình một thủy thủ dám đeo dải băng có dấu hiệu hoàng gia và một người đàn ông dám ngồi lên ngai vàng. Tuy nhiên, Aristobulus lại nói rằng người thủy thủ đó chỉ bị phạt đánh và sau đó được thả đi, còn người đàn ông thứ hai đã bị hành hình vì động cơ của y, điều đó ngụ ý rằng, y không phải chịu nhiều đau đớn hơn. Tuy nhiên, điều này rất đáng nghi ngờ, nhất là khi kẻ này bị đem ra để trút giận. Mặt khác, Aristobulus thuật lại rằng chính nhà tiên tri Peithagoras đã kể với ông rằng Alexander rất ưu ái ông vì Peithagoras đã tiết lộ với ngài rằng kết quả của những lần hiến tế cho thấy một thảm họa sắp giáng xuống đầu ngài.
Arrian đã đem đến cho công trình của mình sự kiên nhẫn, lương tri, tri thức nhân văn sắc sảo cũng như trải nghiệm quân trị và cai trị đáng kể. Về những vấn đề quân sự, ông tôn trọng những kết quả mà Ptolemy đã đưa ra. Sau đó, ông đi theo một nguồn thông tin đáng tin cậy từ một nhóm nhỏ những người Macedonia, những người mà ông dường như luôn luôn hiểu rõ. Sẽ là nóng vội khi đánh giá thấp Arrian bằng cách nói rằng ông chẳng làm được gì nhiều ngoài việc tóm tắt trước tác của Ptolemy. Như vậy là không công bằng. Chúng ta chỉ so sánh ghi chép của Arrian về Issus hoặc về Gaugamela với ghi chép của Quintus Curtius,[34]người chắc chắn đã tiếp cận cuốn sách của Ptolemy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua một nguồn khác, để đánh giá thành tựu của ông. Điều này không có nghĩa là tác phẩm của Arrian về những hoạt động quân sự đã hoàn toàn làm thỏa mãn độc giả, hay ông đã nói với chúng ta mọi điều mà chúng ta muốn biết về quân đội Macedonia. Chẳng hạn, chúng ta không biết rằng người ta trả công cho những người lính thuộc các đơn vị khác nhau bằng hình thức nào, và quan trọng hơn, chúng ta gần như chẳng biết bất cứ điều gì về khâu hậu cần của quân đội. Một lần nữa, về trận Gaugamela, Arrian thất bại trong việc giải thích làm cách nào người đưa tin từ Parmenio có thể tìm tới Alexander sau khi anh ta đã bắt đầu đuổi theo Darius. Đôi khi ông dường như đã hiểu nhầm
Ptolemy, vì việc người Macedonia tin rằng Alexander, sau khi băng qua sông Hydaspes, đã dẫn đầu đội kỵ binh của ngài với hy vọng có thể đánh bại toàn bộ đội quân Porus, là điều hoàn toàn không chắc chắn. Mặt khác, Arrian phê phán một cách hợp lý tuyên bố của Aristobulus về việc con trai của Porus đã được cử tới chỉ với 60 chiến xa để ngăn Alexander băng qua sông Hydaspes, và tán dương vị hoàng đế đã dám từ chối việc liều mạng tấn công người Ba Tư ngay trong đêm tại Gaugamela theo lời khuyên của Parmenio. Hơn nữa, Arrian gần như đã luôn sử dụng những thuật ngữ kỹ thuật rất chính xác, điều đem lại một sự trợ giúp lớn đối với sinh viên ngành lịch sử quân sự. Ông cũng quan tâm tới tên các vị chỉ huy của những đơn vị quân sự. Việc Arrian sử dụng taxis (“đơn vị”) như là một từ hữu ích và “Chiến hữu” (Hetairoi) để nói tới đội Kỵ binh Chiến hữu hoặc chỉ “Những người thân cận” của Alexander đã gây ra nhiều khó khăn, nhưng về điều này, Arrian hầu như không thể chịu trách nhiệm. Sự quan tâm tỉ mỉ tương tự hiển nhiên dành cho những vấn đề cai trị. Những sắc lệnh của các thống đốc được nhắc tới một cách đúng đắn, và trong suốt cuốn sách, với những người Macedonia Arrian cẩn thận viết thêm tên cha của họ, chẳng hạn như Ptolemy, con trai của Lagus, và đối với người Hy Lạp, ông viết thêm tên thành phố quê hương của họ. Nếu Arrian không làm như vậy, chắc chắn sẽ gây ra nhiều nhầm lẫn, vì xét thấy thiếu tên chính xác của những người Macedonia, và có vô số người mang tên Ptolemy hay Philip.
Tuy vậy, chúng ta phải lấy làm tiếc rằng Arrian đã giải thích chủ đề của ông theo một khuôn mẫu phần nào hạn hẹp, có lẽ là vì hình mẫu của ông, sử gia Xenophon, cũng chỉ tập trung vào cuộc viễn chinh của mình. Không giống như Polybius,[35] Arrian không bàn luận tại sao Alexander xâm lược châu Á – tuy nhiên, ông hẳn sẽ nói rằng đó là vấn đề đối với sử gia của Philip và rằng Alexander không bao giờ nghĩ về việc ngừng lại một cuộc hành quân khi nó đã thực sự bắt đầu – ông cũng không nhắc tới những cuộc hành quân trước ở châu Á hoặc sự hiện diện của lực lượng Macedonia ở châu Á vào năm 334. Ghi chép của ông về những sự kiện vào năm 336, điều đã xác định những mối liên hệ của Alexander với những thành bang Hy Lạp, ít nhất về mặt hình thức, đã được xử lý một cách giản lược đến mức chỉ có thể hiểu một cách mơ hồ. Hệ quả là độc giả, tôi ngờ rằng, sẽ cảm thấy băn khoăn khi Arrian nói tới “những quyết định của người Hy Lạp” trong khi chẳng hề nhắc tới Liên minh Corinth. Trên thực tế, mối quan hệ của Alexander với những thành bang Hy Lạp và những sự kiện xảy ra ở Hy Lạp trong suốt cuộc viễn chinh hầu như hoàn toàn không được chú ý tới. Điều này, ở một vài mức độ, có thể hiểu và biện minh được, mặc dù những hy vọng của người Ba Tư về việc đẩy cuộc chiến tranh sang Hy Lạp vào năm 333 sẽ trở nên khó hiểu nếu không có cơ sở là sự bất mãn của Hy Lạp. Quả
thực, thiên kiến của Arrian với Alexander dẫn ông tới chỗ xử lý hết sức sơ sài đoạn quan trọng này trong cuộc chiến cho dù âm mưu này của người Ba Tư đã sớm thất bại. Ngoài ra, độc giả hẳn phải cảm thấy rất hiếu kỳ, về chuyện đã xảy ra với Vua Agis của Sparta, người đã biến mất khỏi những trang viết của Arrian sau khi nhận 30 ta-lăng và 10 con tàu từ người Ba Tư, thậm chí là về cuộc nổi loạn của người Sparta vào năm 331 mà Alexander được thuật lại là có lưu tâm tới.
Arrian rõ ràng không hề nỗ lực đem đến một ghi chép toàn diện về chiến tranh, hoặc về những tiền đề của nó. Chúng ta chỉ tình cờ nghe thấy những vấn đề về đế chế Ba Tư đã diễn ra trước khi Darius lên ngôi vào năm 336, và mọi độc giả hẳn phải tự hỏi rằng: “Tại sao người Ba Tư lại cho phép lực lượng của Alexander băng qua châu Á mà không có sự phản kháng nào?” Thậm chí, sau khi cuộc viễn chinh bắt đầu, chúng ta còn được biết về điều người Ba Tư dự định làm khi họ liên hệ với Alexander. Chỉ trong đêm ở Issus vào tháng Mười một năm 333, chúng ta mới được nghe về những kế hoạch của Darius trong những tháng trước. Arrian đã thận trọng bỏ qua tình trạng của quân Ba Tư, như Giáo sư Brunt đã chứng minh.[36] Ông không phớt lờ những vấn đề của người Ba Tư, nhưng phương pháp của ông “là đi theo những cuộc tiến công và mô tả những hành động của chính Alexander.”
Chân dung Alexander của Arrian, nói chung, rộng mở với việc phê bình hơn là tường thuật về những hoạt động quân sự của ông, một phần thông qua sự tin cậy của ông với Ptolemy và Aristobulus. Tuy nhiên, bức chân dung Alexander này không đơn giản là một tổng hợp những cứ liệu của Arrian; bởi Arrian sở hữu một tính cách nổi trội mà chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng trong thái độ của ông đối với vấn đề tôn giáo và đạo đức. Phần nhiều những đặc điểm tính cách về Alexander mà Arrian mô tả là không thể bác bỏ được. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng những phẩm chất đã khiến vị hoàng đế này có thể duy trì vị trí thống lĩnh đối với quân đội trong vòng nhiều năm, một khả năng lãnh đạo táo bạo vốn luôn được mong đợi ở một vị tướng trong thời đại của Alexander Đại đế – dù Arrian không che đậy sự thật rằng những người dưới quyền vị hoàng đế này đôi khi cho rằng nhà vua đã đi quá xa trong việc mạo hiểm cuộc đời mình; niềm tin vào chiến thắng (điều hiếm khi không được như ý), mà cùng với điều đó, ngài đã truyền cảm hứng cho đội quân của mình; và cuối cùng là sự quan tâm của Alexander đối với sự sung túc của những người dưới quyền. Chúng ta cần nhớ rằng, sau chiến thắng tại Granicus, Alexander “quan tâm tới những người bị thương; ngài tới thăm họ, kiểm tra vết thương của họ, hỏi từng người xem họ bị thương như thế nào và trong hoàn cảnh nào, lắng nghe câu chuyện của họ và cho phép họ phóng đại tùy thích.” Chúng ta nhớ lại sự quả quyết và ngoan cố của ngài trong nhiều giai đoạn khó khăn, nổi bật là trong lần đối đầu với sự kháng cự
liều mạng của những người Tyre trong bảy tháng trời ròng rã, và lòng can đảm của ngài trong tai ương, được minh chứng bằng “hành động đáng khâm phục nhất”, từ chối uống nước trong chiếc mũ sắt, vốn quá ít ỏi để cả đội quân chia sẻ, trong cái nóng như thiêu như đốt của sa mạc Gedrosia – một bằng chứng, mà như Arrian đã lưu ý, cho thấy khả năng chịu đựng và tài chỉ huy của Alexander. Arrian cũng tán dương cách cư xử rộng lượng của Alexander đối với Porus, một vị vua bại trận người Ấn Độ – mặc dù điều này không đồng nghĩa với sự giúp đỡ không vụ lợi – và lòng trắc ẩn của ngài đối với hoàng tộc Ba Tư bị bắt giữ. Trong cuốn sách, có nhiều ví dụ về tình cảm của Alexander đối với những chiến hữu của ngài, đặc biệt là với người bạn chí cốt Hephaestion. Lòng tin của vị hoàng đế đối với họ đã được mô tả một cách sinh động trong câu chuyện nổi tiếng với thầy thuốc Philip. Arrian cũng đã nhiệt thành bình luận về sự ăn năn của Alexander sau khi giết hại Cleitus.
Khi trí tưởng tượng của Arrian được nhen lên bởi những tình tiết như vậy, ông đã đẩy câu chuyện lên cao trào và đạt tới độ hùng biện. Trong hầu hết các phần, ông bằng lòng với việc để câu chuyện tự nói lên ý nghĩa của mình. Chắc hắn, ông đã né tránh một cách thận trọng thuyết duy cảm và phủ nhận một cách rõ ràng sự thật về những câu chuyện được ưa thích kiểu như chuyến viếng thăm của nữ hoàng Amazon hoặc cuộc truy hoan kéo dài hàng tuần dọc Carmania. Có lẽ không đoạn văn nào mô tả sự ngưỡng mộ của Arrian đối với người anh hùng của ông tốt hơn và làm nổi bật giọng điệu tự sự của ông hơn là trong đoạn Arrian mô tả Alexander Đại đế trở về với đội quân của mình sau khi bình phục khỏi vết thương đã suýt khiến ngài bỏ mạng. Tôi xin trích dẫn phần cuối của đoạn này:
Ngài bước xuống gần khu trại và quân lính nhìn ngài bước đi; họ tập trung xung quanh ngài, chạm vào tay, vào đầu gối, vào quần áo của ngài; một vài người, bằng lòng với việc nhìn thấy ngài đang đứng gần, quay đi với lời cầu nguyện ở trên môi. Những vòng hoa được quàng lên ngài và những bông hoa dường như trở nên rực rỡ hơn.
Nhưng sự ngưỡng mộ hiển nhiên của Arrian đối với Alexander và những thành tựu của ngài cũng không ngăn ông chỉ trích người anh hùng của mình vì ngài đã không đạt được những tiêu chuẩn cao mà một người khắc kỷ như Arrian cho rằng một ông vua nên đạt được. Cụ thể, Alexander đã bị phê phán một vài lần vì tham vọng quá lớn. Arrian không biết và sẽ không suy đoán về những hoạch định tương lai của Alexander, nhưng ông tin rằng vị hoàng đế này sẽ không bao giờ hết đam mê với những cuộc chinh chiến. Những nhà thông thái Ấn Độ đã được khen ngợi bởi quan điểm “mỗi người chỉ nên sở hữu mảnh đất mà anh ta đang đứng”, và Alexander, mặc dù tán thưởng quan điểm này, vẫn luôn hành động hoàn toàn trái ngược. Rõ ràng là đối với
Arrian, những cuộc chinh phục của Alexander chỉ là biểu hiện của tham vọng khôn cùng về danh tiếng. Điều này phần nào là sự thật, nhưng không phải là toàn bộ câu chuyện. Arrian đã chỉ trích lá thư của Alexander gửi cho Cleomenes, thống đốc Ai Cập, trong đó nhà vua hứa sẽ tha thứ cho những tội lỗi trong quá khứ của ông ta, đồng thời cho phép ông ta làm những việc cần thiết trong tương lai nếu ông ta xây dựng những đền thờ ở Ai Cập vinh danh Hephaestion. Sự hiểu biết và lòng nhân đạo của sử gia thể hiện rõ ràng trong thái độ của ông với vụ giết hại Cleitus. Hành động của Alexander đã khiến Arrian cảm thấy thương xót cho người đàn ông đã sa đà vào hai thói trụy lạc là nhục dục và rượu chè. Nhà vua đã không giữ được tự chủ – điều mà Arrian đã lưu ý từ trước rằng đây là yếu tố cần thiết để đem lại hạnh phúc. Quan điểm tương tự cũng xuất hiện trong bài diễn văn của Coenus tại sông Hyphasis khi ông nói với Alexander rằng: “Khi chúng ta được ưu đãi mọi thứ, tinh thần tự chủ là điều đáng khâm phục” – chắc chắn đây là quan điểm riêng của Arrian, dù nó có được Coenus chia sẻ hay không.
Theo quan điểm của tôi, nhược điểm chính trong chân dung Alexander của Arrian nằm ở hai chỗ – một là khuynh hướng che đậy khía cạnh ít hấp dẫn hơn trong tính cách của nhà vua mà hẳn bắt nguồn từ nguồn cứ liệu về ông, và hai là thất bại của Arrian trong việc đánh giá đúng mục đích của Alexander, đặc biệt là về vấn đề người Ba Tư.
Điều thứ nhất là rõ ràng khi viết về thời điểm trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu. Những đồng minh Hy Lạp đã chê trách Alexander vì cuộc tàn sát người Thebes, phá hủy thành phố này và biến những người sống sót thành nô lệ. Trong Những cuộc chinh phạt của AlexanderĐại đế không có một điều gì được thuật lại về trách nhiệm của Alexander khi thông qua hình phạt này, mặc dù thực sự ngài phải chịu trách nhiệm về điều đó. Tuy nhiên, kể cả Plutarch, người mà không ai có thể buộc tội là có thái độ thù địch với Alexander, cũng ngầm cho rằng Alexander phải chịu trách nhiệm cho việc này; và mục đích của Alexander (khi thông qua hình phạt với Thebes), như Plutarch đã nhận thấy, là làm kinh sợ những thành bang Hy Lạp khác, khiến họ phải quy phục ngài. Về trận Granicus, Arrian thuật lại mà không bình luận gì về vụ thảm sát gần 18.000 lính đánh thuê Hy Lạp cũng như không hề lưu tâm tới sự dã man hay tính không thích hợp của nó. Tương tự, vụ thảm sát 7.000 người Ấn tại Massaga Ấn Độ cũng được kể tới mà không có một nhận xét nào. Về việc Philotas dính líu vào âm mưu chống lại nhà vua, Arrian bằng lòng chấp nhận tuyên bố của Ptolemy, mặc dù “những bằng chứng rõ ràng” cho tội lỗi này chưa được viện dẫn đầy đủ. Hơn nữa, việc đốt cháy cung điện tại Persepolis được nhắc tới rất ngắn gọn mà không hề đề cập tới một phiên bản khác cho rằng nó đã bị đốt trong một bữa tiệc rượu. Nhưng mặt khác, Arrian đã đem đến một ghi chép được cân nhắc kỹ hơn về vụ giết
Cleitus so với Aristobulus, và rõ ràng ông miễn cưỡng chấp nhận những khẳng định của Ptolemy và Aristobulus khi cho rằng Callisthenes có dính líu tới âm mưu phản loạn của các cận thần trẻ tuổi.
Điều mà độc giả hiện đại thấy thiếu vắng trong cuốn sách của Arrian là đánh giá về những vấn đề lớn hơn. Alexander xuất hiện như một nhà lãnh đạo lớn, một người chinh phục vĩ đại, người sở hữu một tham vọng khôn cùng, người đã đạt tới thành công tột đỉnh của nhân loại và nếu ngài đã phạm phải những tội ác lớn, ngài là người biết hối lỗi. Dĩ nhiên, cuộc chinh phạt đế chế Ba Tư là thành tựu vĩ đại nhất của Alexander, nhưng điều chúng ta muốn biết là phải chăng ngài còn hơn cả một nhà chinh phục vĩ đại nhất. Ngài đã xây dựng những kế hoạch gì cho đế chế của mình? Ngài muốn những thần dân của mình xây dựng phần nào trong đế chế đó? Giữa vô số những điều mơ hồ về Alexander Đại đế, có một điều rõ ràng là ngài rất hăng hái với điều mà những nhà văn hiện đại gọi là “chính sách liên minh”. Biểu hiện rõ ràng nhất về chính sách này là lời cầu nguyện của ngài tại Opis – một lời cầu nguyện mà Arrian ghi chép lại nhưng không hề bình luận gì – rằng người Macedonia và người Ba Tư sẽ chung sống hòa bình và cùng nhau cai trị vương quốc. Đây là một quan điểm có tính cách mạng, mà chúng ta có thể chắc chắn rằng nó đã không được cả người Macedonia lẫn nhiều người Hy Lạp đồng tình. Theo Plutarch thuật lại thì đó là vì người thầy lỗi lạc nhất của Alexander Đại đế, triết gia Aristotle, người đã truyền cho ngài tình yêu văn chương Hy Lạp mà đặc biệt là những tác phẩm của Homer, đã viết thư khuyên răn vị vua trẻ hãy đối xử với những người Hy Lạp như một nhà lãnh đạo và đối xử với “những kẻ dã man” như một ông chủ. Thái độ khinh thị đối với “những kẻ dã man” này chắc chắn là phổ biến. Nhưng Alexander, người hẳn đã nghi ngờ điều này trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu – Artabazus và những lãnh đạo người Ba Tư khác đều đã sống trong cảnh tha hương dưới triều đại của vua Philip khi Alexander còn là một đứa trẻ – đã nhanh chóng bác bỏ nó. Sau trận Gaugamela, chúng ta thấy Alexander đã chỉ định những người Ba Tư làm thống đốc, chắc chắn không phải vì thiếu những người Macedonia thích hợp với chức vụ này.
Arrian rõ ràng đã đồng tình với thiên kiến chống lại “những kẻ dã man” của Aristotle và không chấp nhận quan điểm của Alexander về tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Trong lần mô tả tính cách của Alexander ở cuối cuốn sách, ông nhìn nhận việc hoàng đế chấp nhận trang phục của người Ba Tư và việc ngài nhập đội quân Ba Tư vào quân đội Macedonia chỉ như “một kế sách” để cho thấy ngài không có thái độ khinh thị với những thần dân Ba Tư của mình. Quả thực, Arrian đã sớm chê trách việc hoàng đế chấp nhận trang phục phương Đông như là một hành động “dã man” mà không có khác biệt nhiều lắm với hình phạt “man rợ” của ngài với Bessus.[37] Cả hai hành động,
dưới con mắt của Arrian, đều làm nên giá trị con người của Alexander. Kể cả trong trường hợp Bessus, Arrian không nhận ra rằng Alexander với vị thế là một “Hoàng đế vĩ đại” đã sử dụng một hình phạt của người Ba Tư đối với Bessus. Ở một chỗ khác, ông cho rằng Alexander “đang dần hướng tới sự phung phí quá độ “của những kẻ dã man”, và việc hoàng đế kết hôn với Roxane, công chúa người Bactria, là một hành động khai sáng. Về điều này, ông viết: “Tôi ủng hộ ngài hơn là chê trách.” Arrian ý thức rõ về việc “Chính sách liên minh” cùng với việc chấp nhận trang phục Ba Tư và nghi lễ hoàng gia Ba Tư là một nỗi sỉ nhục cay đắng đối với những người Macedonia. Men rượu khiến Cleitus dám tỏ bày những lời bất bình được sẻ chia và cảm thông sâu sắc, trong khi quy mô âm mưu phản loạn của các cận thần trẻ tuổi khiến người ta nghĩ rằng động cơ của họ phần nhiều không phải vì mục đích cá nhân mà là vì chính trị. Tuy vậy, Arrian chưa từng tự đặt ra câu hỏi rằng nếu chính sách liên minh đơn giản chỉ là một “phương kế” để lấy lòng người Ba Tư thì tại sao Alexander lại khăng khăng duy trì nó ở mức độ rộng lớn như vậy?
Plutarch đã có phần cường điệu khi cho rằng số lượng thành phố mà Alexander sáng lập đã lên tới con số 70. Trong Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế, Arrian nhắc tới một con số ít hơn mười hai thành bang; đó không phải là lý do để phàn nàn, vì ông đã không đưa ra bản liệt kê nào. Chúng ta cũng không hề được biết về những động cơ của Alexander, mà như nhiều học giả cho rằng động cơ quân sự hoặc kinh tế, vốn chỉ là một phần trong sứ mệnh lan truyền văn hóa Hy Lạp khắp châu Á của ngài. Qua cuốn Lịch sử Ấn Độ, chúng ta được biết rằng ngài đã khuyến khích những người Cossaea từ bỏ thói quen du canh du cư để sống định cư trong những thành phố mới được xây dựng.
Theo ghi chép về những ngày cuối cùng của hoàng đế, Alexander thực sự đảm nhiệm rất nghiêm túc các sứ mệnh tôn giáo của mình. Arrian thường thuật lại rằng hoàng đế tổ chức lễ hiến tế hoặc tiệc rượu, và coi những lời tiên tri được đưa ra bởi những nhà tiên tri của ngài, nổi tiếng nhất là Aristander, là hoàn toàn chính xác. Chỉ có duy nhất một lần, trước việc vây hãm Tyre, Arrian đã mỉa mai: “Dù mơ hay không mơ, điều hiển nhiên là vây hãm Tyre là một việc vô cùng khó khăn.” Tuy nhiên, thái độ phản đối hay hoài nghi của Arrian về việc nhà vua rất chăm lo tới chuyện thờ cúng trong thời đại của ngài – một thái độ mà Arrian chia sẻ với Plutarch và sử gia Appian – đã khiến ông không đánh giá đúng những tham vọng thần thánh của Alexander. Việc Alexander tin rằng ngài chính là con trai của thần Zeus Ammon, vì tổ tiên của ngài, Hercules là con trai của thần Zeus, là rất chắc chắn, mặc dù phải thừa nhận là không thể đưa ra bằng chứng. Alexander đã lên đường tới Siwah[38]với “hy vọng biết thêm về bản thân một cách chính
xác hơn, hay ít nhất là để nói rằng ngài đã biết được điều gì đó”. Đối với Arrian, tuyên bố của Alexander chỉ là một “phương kế” khác nhằm gây ấn tượng với thần dân của ngài. Arrian bộc lộ thái độ hoài nghi tương tự về sự thần thánh của Alexander. Năm 324, các thành bang Hy Lạp, chắc chắn là để đáp lại “đề nghị” của nhà vua, đã gửi những theoroi (những sứ thần được gửi đi vì sứ mệnh thiêng liêng) tới để trao mũ miện bằng vàng cho ngài ở Babylon. Việc các sứ thần đó là những theoroi là không thể nghi ngờ; việc chính họ cũng đội mũ miện chứng minh điều đó. Nếu Arrian viết rằng “họ tới như những theoroi thực sự”, sử dụng từ gốc Hy Lạp với hàm ý ngờ vực hoặc mỉa mai, ông hẳn có ý nói Alexander, vốn là một người phàm, sẽ không bao giờ có thể trở thành một vị thần. Các vị thần luôn bất tử, con người thì không, và “sau cùng”, như Arrian đã bình luận một cách lạnh lùng, “Alexander mất không lâu sau đó”.
Arrian đã đem đến một trước tác tốt nhất và đáng tin cậy nhất về cuộc viễn chinh của Alexander Đại đế, tránh được những cường điệu mà các vị tiền bối của ông mắc phải, đồng thời sửa chữa lại những chỗ nhầm lẫn của họ. Trong khi những ghi chép sử của Diodorus và Curtius, cụ thể là, tiểu sử của Plutarch đã soi sáng (và đôi khi làm mờ) tính cách của Alexander, có lúc là về cả những kỳ công quân sự của ngài, thì cuốn sách của Arrian lại là nền tảng cho hiểu biết của chúng ta. Nó gây ấn tượng cho độc giả như thể đây là tác phẩm của người đàn ông trung thực nhất, người đã có những nỗ lực nghiêm túc và tỉ mỉ để khám phá sự thực về Alexander Đại đế – một nhiệm vụ dường như là bất khả trong thời đại của ông – và là người đã phán xét với lòng nhân ái những nhược điểm mà một người đàn ông đã bộc lộ ra trước những cám dỗ của vương quyền tối cao. Chúng ta không phủ nhận những điểm hạn chế của cuốn sách, nhưng cần phải ghi nhớ rằng quan điểm của Alexander về đế chế của ngài, gồm cả những kẻ chinh phục Macedonia và những kẻ bị chinh phục Ba Tư, đã biến mất cùng với ngài. Việc làm thế nào để chung sống với kẻ bị chinh phục và liên kết làm một với họ trong một chính quyền là một quan điểm đã không được hoàn thiện cho đến rất lâu sau khi Alexander qua đời.
QUÂN ĐỘI CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ[39]
Vào mùa xuân năm 334, Alexander khởi hành từ Macedonia, rời Antipater với 12.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh để bảo vệ mảnh đất quê hương và trông chừng những thành bang Hy Lạp. Quy mô của đội quân mà cùng với nó, ngài đã băng qua eo biển Hellespont được ghi chép lại rất khác nhau, tổng số dao động trong khoảng 30.000 tới 43.000 bộ binh và từ 4.000 tới 5.500 kỵ binh. Nhưng con số chi tiết mà Diodorus đưa ra: 32.000 bộ binh và 5.100 kỵ binh, về cơ bản, gần với tổng số mà Arrian (Ptolemy) đưa ra, và có thể là con số chính xác. Quy mô và cách bố trí lực lượng giữ khu vực chiếm được trên đất của địch tại Abydos – nơi chắc chắn đã có sự xuất hiện của vài đội quân vào năm 334 – chưa được biết tới, nhưng có nhiều khả năng nó chỉ là một lực lượng nhỏ và chủ yếu là bộ binh đánh thuê.
Trụ cột của bộ binh là bộ binh hạng nặng Macedonia, “Bộ binh Chiến hữu” (Foot Companions), đã được tổ chức dựa trên nền tảng quân địa phương thành sáu tiểu đoàn (taxeis), mỗi tiểu đoàn khoảng 1.500 người. Thay vì mang theo cây thương chín feet (gần 3 mét) như bộ binh hạng nặng của Hy Lạp, bộ binh Macedonia được vũ trang với một thanh giáo hoặc sarissa[40]khoảng từ 4 đến 4,3 mét, mà phải dùng cả hai tay mới sử dụng được. Một tấm khiên tròn, màu sáng được đeo ở vai trái, nhỏ hơn tấm khiên thường được lính Hy Lạp mang theo và sử dụng bằng tay trái. Cả bộ binh Hy Lạp lẫn Macedonia đều mặc giáp và đội mũ sắt, nhưng có thể là lính Macedonia không mặc giáp che ngực.[41] Đội hình phalanx (một thuật ngữ tiện dụng để chỉ toàn bộ bộ binh Macedonia hạng nặng), giống như tất cả những đội quân Macedonia khác, đều được vua Philip áp dụng một tiêu chuẩn rèn luyện và kỷ luật xuất sắc. Không giống như đội hình phalanx mà người La Mã đã chạm trán khoảng một thế kỷ trước, đội hình phalanx của Alexander có tính cơ động cao và có khả năng áp dụng chiến thuật nhanh, như chúng ta sẽ được thấy khi đọc sáu chương đầu tiên trong cuốn sách của Arrian.
Trong trận chiến, cánh phải của đội hình phalanx được bảo vệ bởi những Hypaspist hay “Vệ quân”. Họ là một tập hợp những người xuất sắc, bao gồm tiểu đoàn Hoàng gia (agema) và hai tiểu đoàn khác, mỗi tiểu đoàn xấp xỉ 1.000 người. Alexander thường sử dụng họ trong những cuộc hành quân nhanh chóng và những hoạt động lưu động khác, thường kết hợp với kỵ binh và những đội quân vũ trang hạng nhẹ. Điều này cho thấy, mặc dù không được chứng minh, rằng vệ quân được vũ trang sơ sài hơn bộ binh hạng nặng; nhưng nếu như vậy, chúng ta không rõ điểm khác biệt này dựa vào đâu.
Các thành viên của Liên minh Corinth đóng góp 7.000 bộ binh hạng nặng, trong đó có 5.000 lính đánh thuê Hy Lạp. Phần còn lại trong bộ binh của
Alexander bao gồm 7.000 quân Thracia và Illyria, được trang bị lao và hai đội bắn tên do người Crete và Macedonia chịu trách nhiệm. Đơn vị xuất sắc nhất trong số những đội quân trang bị hạng nhẹ là quân Agrianes, gồm 1.000 người. Họ được đánh giá rất tốt trong tương quan với lính Macedonia và xuất sắc không kém những Gurkhas[42]trong quân đội Ấn Độ. Về phía các đội quân đồng minh, họ đã sát cánh bên Alexander trong suốt các cuộc chinh phạt và được Arrian nhắc đến khoảng 50 lần. Cùng với những cung thủ và vệ quân, quân đồng minh đã góp phần trong tất cả những lần trinh sát, các trận đánh nhỏ, đồng thời đã chiến đấu rất anh dũng trong nhiều chiến dịch.
Niềm kiêu hãnh giữa đội kỵ binh được nắm giữ bởi “Những chiến hữu Hoàng gia” (Royal Companions) người Macedonia. Đội quân này ban đầu có 1.800 kỵ binh, chia thành tám tiểu đội hay Ilai, tất cả ở dưới quyền chỉ huy của Philotas, con trai của Parmenio. Trong số đó, Tiểu đội Hoàng gia, bao gồm khoảng 300 người, là vệ quân riêng của Alexander, đội quân mũi nhọn cho sức mạnh tấn công của kỵ binh trong những trận đánh lớn. Vị trí của họ là ở bên cánh phải của vệ quân, những người có nhiệm vụ duy trì liên kết giữa Kỵ binh Chiến hữu và đội hình phalanx. Bên cánh trái của đội hình phalanx là kỵ binh Thessaly, bao gồm khoảng 1.800 người vào lúc khởi đầu cuộc viễn chinh. Đặt dưới quyền chỉ huy chung của Parmenio, họ đảm nhận nhiệm vụ khó khăn tại Issus và Gaugemela là giữ chân lực lượng kỵ binh xuất sắc của người Ba Tư càng lâu càng tốt trong khi Alexander tung ra đòn quyết định ở cánh phải. Những đồng minh Hy Lạp đã cung cấp 600 kỵ binh, và phần còn lại là 900 quân, được hợp thành bởi những người Thrace, Paconian, và “Lính trinh sát” (Prodomoi), những người còn được gọi là “Kỵ binh đánh giáo” (Sarissophoroi) vì họ được trang bị sarissa, có thể là ngắn hơn những chiếc sarissa mà bộ binh sử dụng. Việc những kỵ binh hạng nhẹ là người Macedonia hay người Thrace là không rõ ràng; nhưng chắc chắn họ được phân biệt với “quân Thrace”. Cuối cùng, mặc dù Diodorus không nhắc tới kỵ binh đánh thuê trong danh sách lực lượng của ông, Alexander có thể đã có một vài đội như vậy ngay từ đầu. Trước trận Gaugamela, ít nhất, ngài có thể đã sở hữu khoảng 1.000 lính đánh thuê.[43]
Bất chấp nhu cầu về những đơn vị đồn trú tại Tiểu Á và Ai Cập, quân đội của Alexander tại Gaugamela đã lên tới con số 40.000 bộ binh và 7.000 kỵ binh. Theo như Arrian thuật lại, chỉ một vài viện quân đáng kể tới từ quân đội Macedonia và quân đồng minh khi Alexander đặt chân lên đất Gordium vào đầu năm 333. Không có bằng chứng nào cho thấy Alexander đã nhận được quân viện trợ trước trận Gaugemela. Quintus Curtius, người đã thuật lại rằng sau năm 331 Alexander đã nhận được nhiều viện quân, cũng chỉ nhắc tới những viện quân của lính đánh thuê trong giai đoạn này. Rõ ràng sự gia tăng về số lượng binh lính phần lớn là do tuyển mộ lính đánh thuê từ Hy
Lạp và những lính đánh thuê đã từng chiến đấu cho Ba Tư. Alexander ban đầu đối xử với nhóm sau như những kẻ phản bội, nhưng sau này, khi nhận ra rằng điều này chỉ kích động sự kháng cự liều mạng nên sau đó vài tháng, ngài đã thay đổi chính sách của mình. Nhiều đơn vị đồn trú của Alexander bao gồm phần lớn là lính đánh thuê.
Ngay sau trận Gaugamela, Alexander nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ của quân đội Macedonia, không ít hơn 6.000 lính bộ binh và 500 kỵ binh. Điều này cho phép ngài thành lập tiểu đoàn thứ 17 cho bộ binh, điều chắc đã diễn ra vào đầu năm 330.[44] Những tiểu đoàn khác chắc hẳn vẫn duy trì được sức mạnh trong một thời gian. Đó là phân đội Macedonia cuối cùng mà Alexander nhận được cho tới khi ông trở về phía Tây sau cuộc chinh phạt Ấn Độ, và cũng không có lý do thuyết phục nào về việc ông nhận được một đội quân tiếp viện nào khác. Vào năm 333, những đội quân đồng minh từ các thành bang Hy Lạp và từ Thessaly đã được thải hồi tại Ecbatana. Chúng ta được thuật lại là nhiều người trong số họ đã được tuyển mộ lại như những lính đánh thuê. Lính đánh thuê Hy Lạp được sử dụng ngày càng nhiều, và những đơn vị đồn trú tại nhiều thành phố được Alexander lập ra tại những tiểu bang (satrapy) miền Đông, thường gồm những lính đánh thuê này cùng với cư dân bản địa và một vài người Macedonia không đủ sức khỏe. Có thể đoán được rằng một phần trong số 10.000 bộ binh và 3.500 kỵ binh được để lại để bảo vệ Bactria vào năm 327 đều là người Macedonia.
Sau Gaugamela, mô hình chiến tranh đã thay đổi. Ở Bactria và Sogdiana, Alexander nhận ra ông đang phải đương đầu với sự kháng cự của cả một dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Bessus và sau đó là Spitamenes, những người đã gạt đi những mâu thuẫn lớn và tập trung mở rộng chiến tranh du kích. Để có thể đối phó với kiểu chiến đấu linh hoạt này, vào năm 329, Alexander đã tiến hành một thay đổi quan trọng trong việc tổ chức Kỵ binh Chiến hữu. Chúng ta không còn nghe về tám tiểu đội (Ilai), mà nghe nói đến (ít nhất) tám trung đoàn (Hipparchiai), mỗi trung đoàn bao gồm hai tiểu đội hoặc nhiều hơn. Một số tiểu đội này dường như bao gồm cả những kỵ binh xuất sắc người Ba Tư.[45] Dĩ nhiên, Alexander đã sử dụng kỵ binh Ba Tư bên ngoài Kỵ binh Chiến hữu. Vào đầu năm 330, chúng ta được biết về đơn vị kỵ binh phóng lao người Ba Tư, và tại trận chiến sông Hydaspes vào năm 326, Alexander đã sử dụng đội quân của Daae, những cung thủ cưỡi ngựa, cũng như những kỵ binh từ Bactria, Sogdiana, Scythia, Arachotia, và vùng Parapamisus hoặc vùng Hindu Kush.[46]
Tại Massaga ở Ấn Độ, người ta thuật lại rằng Alexander đã cố gắng tuyển mộ lính đánh thuê Ấn Độ cho quân đội của mình, nhưng khi họ có ý định đào ngũ, ngài đã tàn sát hàng loạt nhóm binh lính. Không có đợt tuyển mộ
lính Ấn Độ nào khác được ghi chép lại, và đội quân Ấn Độ duy nhất trong quân đội của Alexander mà chúng ta được biết là đội quân do các vương gia (rajah) Taxiles, Porus và thành phố Nysa cung cấp với tổng số khoảng 11.000 người. Tuy nhiên, nếu Nearchus chính xác khi nói rằng (Indica 19.5) ngay khi bắt đầu chuyến hải hành xuôi theo sông Hydaspes, Alexander mang theo 120.000 quân lính (Curtius 8.5.4) đưa ra con số tương tự về quân đội của ngài khi bắt đầu cuộc chinh phạt Ấn Độ; Plutarch (Alexander 66.4) cũng thuật lại tương tự về lực lượng (kỵ binh) mà Alexander mang theo khi rời Ấn Độ, Alexander chắc hẳn phải có một lượng quân Ấn Độ rất lớn trong quân đội của mình. Nhưng sự hiện diện của họ chỉ là tạm thời, bởi không có dấu hiệu nào cho thấy có bất kỳ người Ấn Độ nào quay trở lại phía Tây cùng với ngài.
Giữa những lời than phiền của người Macedonia vào năm 324, Arrian nhắc tới việc thành lập trung đoàn kỵ binh thứ 15 mà hầu hết bao gồm những người Iran, nếu chúng ta chấp nhận việc hiệu đính của Giáo sư Badian với trước tác của Arrian.[47] Điều này có nghĩa là việc phân chia Kỵ binh Chiến hữu thành tám trung đoàn đã bị loại bỏ, và chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi trở về từ Ấn Độ, Kỵ binh Chiến hữu chỉ còn bốn trung đoàn. Đôi khi người ta nói rằng thay đổi này phản ánh những tổn thất trong suốt cuộc hành quân qua sa mạc Gedrosia. Đội quân của Hephaestion được miêu tả như một “Chiliarchy”, một nhóm gồm 1.000 người, và mặc dù thực sự Hephaestion đúng là một “Chiliarch”[48]hoặc một “Vizier”, điều đó không có nghĩa hiển nhiên là phải giữ lại tên của ông dẫn đến đội quân của ông được gọi là “chiliarchy của Hephaestion”, thay vì “trung đoàn của Hephaestion”. Điều này, đối với tôi, dường như có nghĩa là những trung đoàn mới (trên danh nghĩa) có khoảng 1.000 người. Nếu như vậy, việc thay đổi sẽ được tiến hành trong cách tổ chức, hợp nhất kỵ binh vào những đơn vị yếu hơn và mạnh hơn.
Vào năm 324, khoảng 30.000 người Ba Tư trẻ tuổi (những “Người nối nghiệp”), được rèn luyện theo kiểu mẫu của Macedonia trong ba năm ròng, đã được sáp nhập vào đội quân của Alexander tại Susa. Cùng năm đó, sau cuộc binh biến tại Opis, Alexander đã gửi những người Macedonia không đủ sức khỏe hoặc đã quá tuổi phục vụ quân ngũ, khoảng 10.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh, chắc hẳn là phần lớn lực lượng Macedonia của ngài, trở lại quê hương. Vào năm 323, quân tiếp viện đã tới Babylon. Philoxenus đã mang theo một đội quân từ Caria và Menander mang một đội quân từ Lycia, trong khi Menidas đã tới cùng đội kỵ binh dưới quyền chỉ huy của ông. Chắc hẳn là, như Brunt giả định,[49]đó là những phân đội mới đến từ Macedonia để thay thế cho những cựu binh đang trên đường về nhà. Từ năm 331, Alexander đã không tuyển mộ thêm nhân lực từ quê hương. Tuy nhiên, việc
có phải Alexander muốn giảm bớt yếu tố Macedonia xuống mức không đáng kể trong quân đội của ngài hay không thì không chắc chắn. Hơn nữa, Peucestas đã mang tới 20.000 cung thủ và những lính bắn đá người Ba Tư, cũng như một lực lượng đáng kể quân Cossaea và Tapurian, mà có thể là kỵ binh. Lúc đó, Alexander đã thực hiện cuộc cải cách cuối cùng của ngài. Những người Ba Tư đã hợp nhất vào các đơn vị Macedonia theo một cách thức mà mỗi trung đội bao gồm bốn phó chỉ huy người Macedonia và mười hai người Ba Tư, mỗi người đều được vũ trang theo kiểu mẫu dân tộc của họ.
Trong tương lai, sau đó, hoặc ít nhất là trong tương lai gần, quân đội ở châu Á chủ yếu bao gồm những phân đội người Iran. Theo lời thuật lại của Quintus Curtius, dấu hiệu duy nhất về quy mô của hợp phần Macedonia đã được đưa ra trong bài diễn văn mà Alexander đọc nhưng đây hẳn là sáng tác riêng của sử gia. Trong đó nhà vua nhắc tới đội quân gồm 13.000 bộ binh và 2.000 kỵ binh, tất cả đều là người Macedonia, ngoại trừ những đơn vị đồn trú.
Quyển Một
Nếu có ai đó băn khoăn vì sao tôi lại tiếp tục đào xới những bước đường viễn chinh của Alexander, việc mà rất nhiều người đã thực hiện, thì xin quý vị hãy dành chút thời gian đọc trọn tác phẩm rồi hãy đưa ra những đánh giá khách quan nhất về công trình của tôi.
Đối chiếu những ghi chép của Ptolemy và Aristobulus về Alexander Đại đế, con trai của vua Philip xứ Macedonia, ở những điểm giống nhau tôi đều thực hiện việc khảo cứu về độ xác thực của những dữ liệu này, còn ở những điểm khác nhau, tôi lựa chọn điều mà tôi cảm thấy có nhiều khả năng xảy ra hơn và thú vị hơn.[50] Cuộc đời của Alexander vĩ đại và bí ẩn hơn bất kỳ nhân vật lịch sử nào – việc tái hiện cuộc đời ông trên trang giấy, dù là của bất cứ tác gia nào, luôn dẫn đến những tranh cãi không dứt về tính xác thực; tuy vậy, dường như đối với tôi, việc sử dụng những cứ liệu của Ptolemy và Aristobulus là đáng tin hơn cả, vì Aristobulus là người đã sát cánh trong những cuộc viễn chinh của Alexander, còn Ptolemy có ưu điểm là một vị vua, mà việc nhầm lẫn sẽ đem lại sự xấu hổ cho người hơn bất kỳ ai. Hơn nữa, Alexander đã qua đời khi những người này viết về ông nên họ không phải chịu một áp lực nào, và họ cũng không thể thu được món lợi nào từ việc xuyên tạc sự thật. Một vài tuyên bố của những sử gia khác về Alexander có thể tương ứng với những truyền thuyết phổ biến: một vài trong số đó thú vị và nhiều khả năng là sự thật, tôi cũng đã nhắc đến chúng trong công trình của mình.
Vua Philip của Macedonia qua đời khi Pythodelus đang là quan chấp chính ở Athens.[51] Người kế vị ông, Alexander, khi đó chỉ tầm 20 tuổi.[52] Tương truyền rằng, khi vừa kế vị, Alexander đã tới Peloponnese, yêu cầu tất cả các thành bang trong Hy Lạp một lần nữa thể hiện sự trung thành như đã thể hiện với cha ngài bằng việc tập hợp lực lượng, và khởi phát một cuộc viễn chinh tới xứ Ba Tư. Sự khước từ duy nhất là từ phía những người dân thành Lacedaemon (Sparta), viện dẫn những truyền thống xưa cũ rằng không thể để ngoại nhân là người thống lĩnh. Cũng tại Athens, có nhiều vấn đề đã nảy sinh; nhưng mọi chướng ngại cuối cùng đã bị phá bỏ với sự xuất hiện của Alexander. Thậm chí vị hoàng đế trẻ tuổi còn nhận được những cam kết ủng hộ mạnh mẽ hơn cả thân phụ ngài là Philip[53]lúc sinh thời. Sau khi dàn xếp xong việc này, Alexander trở lại Macedonia và chuẩn bị cho cuộc chinh phạt châu Á.
Chiến cuộc đánh dấu cho năm trị vì đầu tiên của Alexander là cuộc đột kích vào xứ Tharce, vùng đất nằm ở biên giới phía bắc quê hương Macedonia của ngài vào mùa xuân năm 335 TCN, nơi đang bị xới tung vì cuộc tranh chấp của người Triballi và Illyria.[54] Để chu toàn cho cuộc viễn
chinh sẽ vươn tới đất Ba Tư bên kia bờ đại dương, việc sáng suốt nhất cần làm ngay là dẹp yên những hỗn loạn ở vùng đất cận kề xứ sở của ngài. Trong vỏn vẹn mười ngày, Đại đế và đội quân hùng mạnh của ngài đã bỏ lại sau lưng Amphipolis, thành phố bên bờ biển Aegea, rời Philippi và ngọn núi Orbelus, băng qua Nestus, tới ngọn Haemus. Ở đây, chắn giữa ngài và tập hợp lực lượng dân bản địa[55]cùng những người Tharce trên đỉnh là triền núi dốc, nơi chỉ có thể hành quân từng đơn vị một. Những người Tharce tự do với vũ khí lăm lăm trong tay đã tập hợp một hàng rào chắn bằng các chiến xa, với dụng ý xa hơn là sẽ đè bẹp hoàn toàn đội quân Macedonia khi những binh lính này đang dần tiến lên từ triền núi. Họ hy vọng rằng sự va chạm với chiến xa sẽ gây ra tổn thất cho quân đội kẻ thù, từ đó, tạo được thế cân bằng về lực lượng.
Đứng trước thử thách phải vượt qua ngọn núi với ít tổn thất nhất, Alexander đã đưa ra đối sách là dùng bộ binh hạng nặng đi theo đội hình phalanx, trong đó từng chiến binh nhích từng bước một với khiên che kín trên đầu; họ di chuyển sát nhau thành một đội hình chặt chẽ nhất có thể, với cách thức này khi các chiến xa lăn xuống triền núi, chúng sẽ lao vượt qua họ mà không gây ra thương tích gì. Chiến lược của ngài đã tỏ ra hiệu quả: không có khoảng trống giữa các đơn vị để các chiến xa gây tổn thất, chúng chỉ có thể nảy lên trên những tấm khiên xếp chồng nhau. Người Macedonia khi vượt qua đợt tấn công của các chiến xa, đã hò reo một cách điên cuồng khi lên tới đỉnh, hăm hở xông vào đội hình đối phương với sự dũng cảm đáng kinh ngạc. Cung thủ dưới sự điều động của ngài đã di chuyển sang bên cánh phải để có được một vị trí thuận lợi hơn trước tuyến chính trong đội hình, nhằm phong tỏa những đợt phản công mà người Thrace có thể tung ra. Vệ binh của ngài cùng với những người Agrianes di chuyển về phía cánh trái, tạo thành gọng kìm bóp nát đội hình của kẻ thù. Chiến lược hoàn hảo này của ngài có vẻ đã quá chu toàn, vì trước khi gọng kìm siết lại, toán quân ô hợp của những người Thrace đã tự tan vỡ trước sự tấn công mạnh mẽ của bộ binh. Quả thực, thậm chí trước khi những đội quân dưới sự chỉ huy của Alexander ở cánh trái tiếp xúc với quân Thrace, lực lượng của họ đã bị phá vỡ và bỏ chạy xuống núi. Khoảng 1.500 người đã bị giết, chỉ một vài người bị bắt; phần lớn những người còn lại rất nhanh nhạy và quá thông thuộc địa hình để không bị rơi vào tay kẻ thù. Kho báu, đồ dự trữ, phụ nữ và trẻ em của người Thrace, tất cả đều thuộc về những chiến binh thắng trận.
Những chiến lợi phẩm gửi trở lại các thị trấn ven biển, được giao lại cho Lysanias và Philotas[56]tùy ý sử dụng, còn ngài thì tiếp tục hành quân về phía trước. Sau đó, Alexander tiếp tục băng qua dãy Haemus tới vùng Triballi, và tới sông Lyginus, nơi cách Danube ba ngày hành quân. Tin về
những bước tiến công của Alexander đã loan tới Syrmus, vua của những người Triballi, người đã từng bước gửi phụ nữ và trẻ em tới Danube với mệnh lệnh phải băng qua sông tới một hòn đảo gọi là Pine Tree. Những người Thrace láng giềng cũng đã trú tại hòn đảo này nhằm chống lại cuộc tiến công của Alexander, cùng với Syrmus và những tùy tùng riêng của ông, dù phần lớn những người Triballi đã rút lui một cách vội vàng tới con sông này hẳn một ngày trước khi Alexander bắt đầu hành quân.
Khi tin tức về cuộc di chuyển của những người Triballi tới tai Alexander, ngài bắt đầu cho tấn công. Alexander đã đổi hướng đường đi của mình, tính toán lại chiến lược, và tìm thấy một chốt gác của người Triballi. Sau khi khai thác thông tin từ những thổ dân bị bắt lúc đang ngủ trưa và biết rằng họ đang chuẩn bị cho cuộc chiến tại khu rừng cạnh bờ sông, Alexander quyết định thay đổi cách dụng binh của mình. Ngài sắp xếp đội hình theo hàng dọc để giáp chiến, lệnh cho cung thủ và những người ném lao tấn công cấp tập với mục đích dụ quân địch đang ẩn náu trong các cứ điểm tới khu đất trống. Quân Triballi khi bắt đầu chịu thiệt hại từ những đợt xạ tiễn đã lao ra với ý định đè bẹp những toán quân tầm xa vốn chỉ được trang bị khinh giáp. Chính lúc đó, cái bẫy của Alexander đã hạ xuống gọn gàng và thành công mỹ mãn. Ngài hạ lệnh cho Philotas tấn công ở cánh phải với kỵ binh vùng thượng Macedonia, Heracleides và Sopolis với kỵ binh từ Bottiaea và Amphipolis tấn công từ bên cánh trái. Quân chủ lực tiến lên phía trước với sự yểm trợ của kỵ binh, đụng độ trực tiếp với trung quân của địch.
Người Triballi về cơ bản có thể cầm cự được trước những đợt xạ kích, nhưng khi vấp phải đợt tấn công dồn dập của bộ binh Macedonia ở cự li gần và sự giày xéo không thương tiếc của kỵ binh thì nhất loạt tan vỡ. Tàn quân rút lui một cách hỗn loạn ra phía bờ sông. Thương vong hơn 3.000 người, chỉ có một số ít sống sót vì sự dày đặc của tán rừng và buổi hoàng hôn nhập nhoạng làm cản trở cuộc truy kích của người Macedonia. Theo Ptolemy, quân Macedonia chỉ thiệt hại hơn chục kỵ binh và khoảng 40 quân bộ.
Ba ngày sau trận chiến, Alexander đã tới Danube. Đây là dòng sông lớn nhất ở châu Âu; nó dẫn tới một con đường lớn hơn bất kỳ con đường nào khác, và hình thành nên đường biên giới với những lãnh thổ của một vài bộ tộc hiếu chiến. Phần lớn trong số họ có nguồn gốc Celtic – quả thực, nguồn của con sông này là ở lãnh thổ của người Celtic – phần xa nhất là thuộc về người Quadi và Marcomanni; sau đó, theo hướng đông, nó sẽ băng qua lãnh thổ của người Iazyges, một nhánh của Sauromatae, của Getae, của chính Sauromatae, và cuối cùng là của Scythia, nơi nó đi tới điểm cuối của hành trình và băng qua năm ngọn núi để đổ vào biển Đen.[57] Trên sông Danube đã có sẵn những tàu chiến từ Byzantium băng qua biển Đen[58]để chờ đợi
Alexander. Ngài đã lãnh đạo họ cùng với bộ binh hạng nặng và cung thủ, cố gắng đổ bộ hòn đảo mà người Triballi và Thrace đang lẩn trốn. Tuy nhiên, tình huống lúc đó không hề ưu ái ngài: tất cả những con tàu của Alexander đều gặp phải chướng ngại khi cố gắng thả neo trong khi chúng vốn đã ít ỏi về số lượng và không được vận hành tốt lắm; phần lớn đường bờ sông của hòn đảo quá dốc để đổ bộ, và tàu thuyền buộc phải băng qua những khúc sông hẹp, điều quá khó để khắc phục. Trước tình trạng này, Alexander đã ra lệnh rút quân thay vì vượt sông và tấn công người Getae. Một lực lượng lớn quân Getae – khoảng 4.000 kỵ binh và hơn 10.000 bộ binh – đã được hợp nhất bên kia sông, sẵn sàng ngăn chặn bất kỳ đợt vượt sông nào, đây chính là một trong những lý do khiến Alexander thay đổi kế hoạch. Một lý do khác là ý tưởng mới để đổ bộ sang bờ bên kia của sông Danube dường như rất hấp dẫn.[59] Alexander đã đích thân hợp nhất hạm đội, ra lệnh hạ trại ngoài trời và chất đầy cỏ khô trong đó. Ngài cũng tập hợp tất cả những thuyền độc mộc sẵn có. Đây là loại thuyền có rất nhiều ở vùng lân cận. Người bản địa sử dụng chúng để đánh bắt cá, ghé thăm các dân tộc láng giềng ở phía thượng lưu con sông, và thông thường là để sử dụng cho những đợt cướp phá. Khi đã tập hợp được số lượng thuyền độc mộc nhiều nhất có thể, toàn bộ quân, hoặc phần lớn đội quân của Alexander, đã dùng phương tiện này để vượt sông. Thực tế thì số lượng này rơi vào khoảng 1.500 kỵ binh và 4.000 bộ binh.
Việc vượt sông được tiến hành ngay trong đêm, và công cuộc đổ bộ ít nhiều đã được che giấu nhờ cánh đồng lúa mạch. Ngay trước rạng đông, Alexander đã tiến quân xuyên qua cánh đồng, hạ lệnh cho bộ binh mở đường, phát quang cánh đồng. Kỵ binh bám theo bộ binh và khi họ rời khỏi khu vực đất trống, Alexander điều họ vượt lên cánh phải, đồng thời, lệnh cho Nicanor tiến lên cùng với kỵ binh trong đội hình chặt chẽ trên mặt trận đã được mở rộng.
Cuộc tấn công mở màn của kỵ binh đã giáng một đòn quá nặng nề lên người Geate; việc Alexander băng qua sông Danube, con sông lớn nhất châu Âu, một cách dễ dàng chỉ trong một đêm quả là hành động mạo hiểm khiến dân Geate vô cùng kinh ngạc, chưa kể tới sự ác liệt của cuộc tấn công và hình ảnh đáng sợ của đội hình phalanx đang tiến về phía họ. Người Geate đã quay đầu bỏ chạy về thị trấn, nơi cách con sông khoảng hơn 6 kilômét; nhưng ngay khi họ nhận ra Alexander, cùng với đội kỵ binh của ngài, đã chắn ở phía trước và dàn quân dọc bờ sông nhằm ngăn chặn mai phục hoặc bao vây, dân Geate đã bỏ cả thị trấn, nơi lúc này chỉ được phòng vệ một cách sơ sài, và mang theo tất cả số phụ nữ và trẻ em mà ngựa của họ có thể chuyên chở được, tiếp tục tháo chạy tới một khu vực trống, càng xa con sông càng tốt. Alexander đã tiếp quản nơi này cùng với mọi thứ có giá trị mà
người Geate đã bỏ lại phía sau. Những chiến lợi phẩm này được Meleager và Philip chuyển tới căn cứ sau khi san phẳng thị trấn. Ngay bên bờ sông Danube, Alexander Đại đế đã tiến hành lễ tạ ơn thần Zeus Vị cứu tinh, thần Heracles[60]và cả thần sông vì đã cho phép ngài vượt sông. Cũng trong ngày hôm đó, ngài và toàn bộ quân đội tiếp tục cuộc viễn chinh.
Trong thời điểm này, có nhiều sứ thần của Syrmus, vua của người Triballia và từ rất nhiều các bộ tộc tự do khác dọc sông Danube tới cầu kiến Alexander. Người Celtic từ biển Adriatic cũng đã cử đại diện tới – những người đàn ông ngạo mạn và cao lớn. Tất cả đều bày tỏ mong muốn được kết giao với Alexander, và hai bên cũng đã trao đổi vật làm tin. Alexander đã hỏi những sứ thần Celtic rằng họ e sợ nhất điều gì. Ngài hy vọng rằng quyền uy của ngài đã vang xa tới vùng đất của họ, thậm chí xa hơn nữa, và mong rằng người Celtic sẽ trả lời rằng: “Thưa bệ hạ, điều mà chúng tôi e sợ nhất trên thế gian chính là Ngài.” Tuy nhiên, Alexander đã không được như ý. Do người Celtic sinh sống ở một vùng đất xa xôi, không dễ dàng bị tấn công, và cũng không nhận ra rằng cuộc viễn chinh của Alexander nhằm tới mọi mảnh đất trên thế giới nên họ đã đáp lời rằng điều mà họ sợ hãi nhất là bầu trời sụp đổ. Tuy vậy, Alexander đã quyết định liên minh với họ, đưa họ về quê hương và chỉ thầm nghĩ rằng người Celtic đã nghĩ quá nhiều về chính bản thân họ.[61]
Sau đó, Alexander tiến quân tới lãnh thổ của Agrianes và Peaones, nơi ngài được cấp báo rằng Cleitus, con trai của Bardylis, đang làm loạn, rằng y đã đứng về phe của Glaucias, hoàng tử của Taulanti; hơn nữa, còn có tin là người Autariates có ý định tấn công ngài trên đường hành quân.[62] Vì những lý do trên, Alexander cho rằng đây là thời điểm phù hợp để tiến quân, không thể trì hoãn hơn được.
Langaros, vua của người Agrianes, người đã không hề giấu giếm sự kính phục của mình với Alexander kể cả khi vua Philip (thân phụ của Alexander) còn sống, đã đích thân tới tiếp kiến Alexander. Xuất hiện cùng với Langaros trong dịp này là đội vệ binh, đội quân xuất sắc nhất và được trang bị tốt nhất mà ông sở hữu. Nghe tin Alexander muốn tìm hiểu xem người Autariates là những ai và sức mạnh của họ ra sao, Langaros khuyên Alexander chẳng nên băn khoăn về họ, vì Autariates là bộ tộc chiến đấu kém cỏi nhất trong khu vực này. Ông đề nghị Alexander cho phép mình được đích thân tấn công họ và khiến họ phải chịu đựng những tổn thất nặng nề. Nhờ những sự giúp đỡ này, Langaros đã được Alexander ban tặng mọi niềm vinh dự, bao gồm cả những tặng phẩm mà trong vương triều của người Macedonia coi là có giá trị nhất. Alexander cũng hứa hẹn rằng nếu Langaros tới thăm ngài tại Pella, ngài sẽ gả Cyna, em gái của ngài[63]cho ông. Tuy vậy, Langaros đã không
kịp hưởng niềm vinh dự này. Ông đã ốm bệnh và qua đời sau khi trở về quê hương.
Lúc đó, Alexander đã tiến quân dọc theo sông Erigon, trên đường tới Pelium, một thị trấn mà Cleitus chiếm đóng, nơi được coi là cứ điểm được phòng vệ vững chãi nhất trong khu vực.[64] Ngài đã dừng chân trước sông Eordaicus với ý định sẽ thực hiện một cuộc đột kích vào ngày hôm sau. Thị trấn được bao quanh bởi những đồn chỉ huy và những khu rừng rậm rạp. Các đồn này đều do quân đội của Cleitus nắm giữ, bởi vậy, trong trường hợp đột kích, họ có thể tấn công quân Macedonia từ mọi phía. Glaucias, vua của người Taulanti, vẫn chưa tới nơi. Tuy nhiên, Alexander đã không lãng phí thời gian. Trong khi đó, kẻ thù của ngài, khi biết ngài đang tiến vào thị trấn, đã hiến tế ba nam, ba nữ và ba con cừu đực đen. Họ đã cố ý dụ quân Macedonia ở những điểm đóng quân gần hơn; nhưng không lâu sau khi quân Macedonia xuất hiện trong phạm vi đủ gần, quân đội của Cleitus đã bỏ những vị trí phòng vệ được tin là vững chãi của họ. Người ta thấy xác của những nạn nhân bị đem ra hiến tế vẫn đang nằm tại nơi họ ngã xuống.
Alexander nhốt quân của Cleitus trong thị trấn, và chiếm giữ ngay một vị trí ở gần tường thành, tính kế phong tỏa; nhưng ngày hôm sau, Glaucias xuất hiện với một lực lượng hùng mạnh. Hệ quả là, Alexander đã bỏ kế hoạch chiếm giữ thị trấn, do lực lượng của ngài tương đối mỏng, nhiều binh lính thiện chiến đã rút lui vào bên trong thành, và còn nhiều hơn những binh lính, dưới sự chỉ huy của Glaucias, sẽ sẵn sàng tấn công Alexander khi ngài đang ra sức phòng vệ. Do đó, Alexander đã ra lệnh cho Philotas mang theo những súc vật chở hành lý để tìm kiếm nguồn lương thực; đi cùng Philotas còn có một nhóm nhỏ kỵ binh làm nhiệm vụ bảo vệ. Hành động này đã không qua mắt được Glaucias; ông di chuyển lên phía trên, chiếm cứ vùng đất cao, nơi bao quanh khu vực mà Philotas đang tìm kiếm nguồn lương thực. Mối nguy hiểm treo lơ lửng trên đầu nhóm kỵ binh và đàn súc vật nếu bóng tối đột ngột bao phủ họ đã được báo cho Alexander, ngay lập tức ngài giải cứu họ với một đội quân được hợp thành từ những người Agrianes, cung thủ, vệ quân và một đội kỵ binh gồm 400 lính khỏe mạnh. Ngài để những đội quân còn lại ở gần thị trấn; và vì ngài đã rút lui toàn bộ lực lượng, kẻ thù của ngài, những kẻ trước đó đã bị phong tỏa trong thành, đã nhanh chóng phá vỡ vòng vây và nhập vào đội quân của Glaucias. Tuy nhiên, Glaucias đã từ bỏ vị trí của ông trên đồn cao ngay khi thấy Alexander xuất hiện. Nhóm của Philotas đã an toàn trở về chỗ đóng quân.
Mặc dù vậy, dường như vẫn còn một vài lực lượng dưới quyền chỉ huy của Glaucias và Cleitus nhận ra Alexander đang lâm vào một tình thế khó khăn. Họ đã nắm giữ các đồn chỉ huy, cùng với những đội kỵ binh và những phân đội khác đã được vũ trang với lao và ná bắn đá, ngoài ra còn có một lực
lượng đáng kể bộ binh hạng nặng; những binh lính này hiện đang ở giáp ranh với thị trấn, tất cả đều đang sẵn sàng tấn công vào đợt rút lui của Alexander; trong khi đó quân đội của ngài bắt buộc phải đi qua một con đường hẹp, nhiều cây cối, với một bên là sông và một bên là những chân đồi dốc đứng, rất khó có thể vượt qua, thậm chí chỉ với đội hình bốn hàng. Trước tình huống này, Alexander đã sắp xếp đội hình chính của đội kỵ binh thành đội hình 120 hàng, 200 kỵ binh mỗi cánh được ra lệnh là không được làm ồn, và phải tuân theo mệnh lệnh một cách khôn ngoan. Sau đó, ngài hạ lệnh cho bộ binh hạng nặng trước hết dựng thẳng giáo của họ; sau đó, theo mệnh lệnh của chỉ huy, hạ thấp những mũi nhọn để tấn công, đưa chúng sang trái rồi sang phải. Toàn bộ đội hình phalanx đã dịch chuyển một cách mau lẹ, xoay theo cách này rồi cách khác, thực hiện vô số những di chuyển phức tạp. Sau khi hạ lệnh cho đội quân của mình chuyển qua một số đội hình khác nhau với tính linh hoạt cao, Alexander ra lệnh cho cánh trái tập hợp thành đội hình mũi nhọn và chuẩn bị tấn công.
Kẻ thù, chắc hẳn cảm thấy sửng sốt bởi sự thông minh và kỷ luật của những thao tác này, đã rời bỏ vị trí xuống những đoạn đường thấp hơn của ngọn đồi, quên cả việc đợi quân Macedonia tới để đánh giáp lá cà. Sau đó, Alexander đã hô hào toàn quân hô vang tiếng xung trận, gõ giáo mác vào khiên. Tiềng ồn vang dội đến độ những người Taulanti không thể chịu nổi và đã phải rút lui về thị trấn.
Một nhóm nhỏ của quân địch vẫn còn ở lại, chiếm cứ một ngọn đồi mà Alexander bắt buộc phải vượt qua; vì vậy, ngài đã hạ lệnh cho Kỵ binh Chiến hữu và đội vệ quân riêng của ngài chuẩn bị hành động và sẵn sàng tấn công. Tính toán được đưa ra là nếu kẻ địch quyết bám trụ ở ngọn đồi, phân nửa trong số họ sẽ phải xuống ngựa và hỗ trợ cho kỵ binh. Tuy vậy, ngọn đồi đã bị bỏ lại; quân địch đã rời đi tới đường tiếp giáp với những ngọn núi. Alexander cùng với Kỵ binh Chiến hữu đã chiếm cứ ngọn đồi. Ngài triệu hồi quân Agrianes và cung thủ – một lực lượng gồm 2.000 người, ra lệnh cho vệ quân băng qua sông, dẫn theo sau là những đơn vị Macedonia khác. Ngay khi tới được bờ bên kia, toàn lực lượng sẽ tập trung hướng về phía cánh trái nhằm tạo ra một thể thống nhất trước mặt quân thù. Trong khi đó, từ ngọn đồi, Alexander sẽ quan sát tỉ mỉ bất kỳ sự di chuyển nào mà quân thù thực hiện.
Nhìn thấy quân Macedonia băng qua sông, người bản địa đã rút khỏi khu đất cao với ý định sẽ tấn công nhóm của Alexander khi nhóm này rút lui sau cùng; Alexander đã một mình phá vây một cách nhanh chóng trong khi lực lượng chính của bộ binh, đang chuẩn bị vượt sông, hô vang những tiếng xung trận. Kẻ thù, trước đợt tổng công kích dữ dội, đã nhất loạt tan vỡ. Alexander lúc này mới hạ lệnh cho quân Agrianes và cung thủ tiến tới hai
bên bờ sông. Ngài là người băng qua sông đầu tiên và thiết lập đội pháo binh ở bờ sông. Alexander hạ lệnh yêu cầu tất cả những loại đạn pháo đều phải bắn ở tầm xa để có thể tấn công kẻ thù, những kẻ mà ngài thấy rằng đang gây khó khăn cho quân đội của ngài. Cung thủ được lệnh tấn công từ giữa dòng sông. Quân của Glaucias không dám mạo hiểm trong phạm vi này, và người Macedonia vượt sông an toàn mà không phải chịu bất kỳ thương vong nào trong quá trình rút lui.
Ba ngày sau, đội quân của Cleitus và Glaucias đã hạ trại mà không có sự phòng vệ đầy đủ: không đặt ra những trạm lính gác thường xuyên, không có hàng rào hoặc hào bảo vệ; hơn nữa, phòng tuyến của họ lại mở rộng một cách nguy hiểm. Lúc đó, Alexander đã tận dụng lợi thế của sự bất cẩn này – điều hẳn là do (Cleitus và Glaucias) nghĩ rằng Alexander đã hoảng sợ rút quân. Dưới sự bao phủ của bóng tối, ngài đã dẫn vệ quân, quân Agrianes, cung thủ cùng quân đội của Perdiccas và Coenus vượt sông trở lại, đồng thời ra lệnh cho phần còn lại của đội quân nhất loạt theo sau. Thời điểm chín muồi để tấn công đã tới; bởi vậy, không chờ tới khi tập trung được toàn bộ lực lượng, Alexander hạ lệnh cho quân Agrianes và cung thủ đột kích bất ngờ trên một mặt trận hẹp – một kiểu dàn quân chắc chắn đã dội toàn bộ sức mạnh khủng khiếp nhất lên đầu kẻ thù ngay tại điểm yếu của họ. Một vài người bị giết ngay trên giường ngủ, một số người khác bị bắt khi cố gắng tẩu thoát. Nhiều người bị bắt và bị giết ngay tại chỗ, số đông bỏ chạy trong hoảng sợ và hỗn loạn. Chỉ một vài người còn sống sót. Việc truy lùng kẻ địch còn kéo xa tới tận những ngọn núi trên lãnh thổ Taulanti. Không ai có thể trốn thoát trừ phi họ quẳng lại toàn bộ vũ khí. Cleitus đã chạy về thị trấn; sau đó, phóng hỏa nó, rồi chạy tới chỗ người Taulanti, nơi ông tìm chỗ nương náu cùng với Glaucias.
Trong khi đó, nhiều sự kiện đã diễn ra tại Thebes.[65] Một số người, với ý định lật đổ chính quyền, đã vời một số kẻ tha hương vì vấn đề chính trị quay trở lại; những người này lén xâm nhập thành phố trong đêm, bắt và giết Amyntas và Timolaus, hai người cai trị Cadmeia và không hay biết gì về mối nguy hiểm bên ngoài.[66] Sau đó, họ tự xuất hiện trong Hội đồng, kích động người Thebes nổi loạn chống lại Alexander, hành động vì “sự tự do” và “tự trị”,[67]thuyết phục Thebes quẳng đi gánh nặng gông xiềng mà người Macedonia đã quàng vào cổ họ. Đám người này còn biến lời xúi giục của họ trở nên hấp dẫn hơn nữa với người Thebes bằng cách khăng khăng khẳng định rằng Alexander đã qua đời tại Illyria – điều này dường như là tin đồn phổ biến vào thời điểm đó, vì ngài đã vắng mặt quá lâu mà không hề có liên lạc gì với họ.[68] Trong trường hợp này, người Thebes đã làm điều mà số đông họ muốn làm, đó là phớt lờ sự thật và thuyết phục bản thân tin vào điều
mà họ muốn tin theo.
Tin tức về những sự kiện này khiến Alexander hết sức bận tâm. Suốt thời gian qua, ngài đã không có lòng tin với Athens, và giờ đây âm mưu này lại tới từ Thebes. Alexander không thể coi nhẹ chuyện này, vì mối nguy rõ ràng mà ngài phải đối mặt là sự bất mãn có thể lan rộng tới những người Lacedaemonia, những người dù trong bất kỳ trường hợp nào, vẫn luôn ngấm ngầm oán hận quyền chỉ huy của người Macedonia, rồi tới những thành bang khác ở Peloponnese, thậm chí tới những người Aetolia, vốn là những kẻ chẳng thể nào tin tưởng được. Bởi vậy, ngài đã quyết định hành động, tiến quân về phía Eordaea và Elimiotis, vượt qua những rặng núi của Stymphaea và Paravaea, tới đất Pelinna thuộc Thessaly trong vỏn vẹn bảy ngày. Sáu ngày sau, Alexander đặt chân lên đất Boetia, và tin ngài vượt qua Cổng thành đã không tới được tai người Thebes cho tới khi toàn bộ lực lượng của Alexander tập trung tại Onchestus.[69] Thậm chí những người đứng đầu vụ nổi loạn vẫn tiếp tục rêu rao rằng Alexander đã qua đời: họ tuyên bố rằng đội quân dưới quyền chỉ huy của Antipater từ Macedonia đã tới, và giận dữ phủ nhận việc Alexander đang đích thân chỉ huy quân đội – họ khăng khăng rằng nếu đó là Alexander, đó hẳn là Alexander khác: Alexander, con trai của Aeropus chứ không phải Alexander, con trai của Philip.
Ngày hôm sau, Alexander rời Onchestus và hành quân tới Thebes. Ngài dừng chân trước hàng rào vây quanh của Iolaus, chờ đợi ở đó trong khi cho người Thebes thời gian để suy nghĩ lại, trong trường hợp họ thay đổi ý kiến và quyết định điều đình với ngài. Tuy vậy, người Thebes đã chẳng đi tới một thỏa thuận nào hoặc chịu nhường nhịn một phân; ngược lại, đội kỵ binh và một lực lượng đáng kể bộ binh hạng nhẹ đã nhanh chóng xuất kích và tấn công vào tiền đồn của quân Macedonia cùng với những đợt xạ kích nhưng không thu được kết quả nào. Alexander đã ra lệnh cho nhóm bộ binh hạng nhẹ và cung thủ ra ngoài để kiểm tra, việc chẳng mấy khó khăn với nhóm này dù họ đã tiến quân được khoảng cách khá xa so với vị trí chính của ngài. Ngày hôm sau, Alexander cùng với toàn quân di chuyển xung quanh những cổng thành dẫn tới Eleutherae và Attica. Tại đây, ngài vẫn kiềm chế không tung một đợt đột kích vào những phòng tuyến của thành phố và chọn một vị trí không xa Cadmeia, hỗ trợ cho những người Macedonia đang bám trụ tại vùng đó. Người Thebes đã bao quanh thành phố với một hàng rào kép, canh giữ hết sức cẩn trọng nên đơn vị đồn trú bị bao vây sẽ không nhận được sự trợ giúp bên ngoài nào, hoặc không thể tung ra những đợt tấn công bất ngờ vào kẻ thù của mình. Tuy vậy, Alexander đã không hề di chuyển mà vẫn kiên nhẫn chờ đợi, ngài vẫn hy vọng giữ được mối giao hảo với người Thebes và cố gắng tránh xung đột với họ.[70]
Trong tình huống này, tất cả những người có quyền lợi lớn ở thành phố đã lo lắng tiếp cận Alexander và xin ngài đặc xá cho tội nổi loạn; nhưng những kẻ đi đày và nhóm người chịu trách nhiệm về việc triệu hồi họ, đặc biệt một vài người là thủ lĩnh của Liên minh Boeotia, đã khước từ khả năng nhận được khoan hồng của Alexander và tìm cách kích động cuộc chiến bằng mọi cách. Tuy vậy, Alexander vẫn chờ đợi và không hề tấn công.
Ptolemy, con trai của Lagus, trong ghi chép của ông về sự kiện này, đã thuật lại rằng Perdiccas, một viên chỉ huy giữ nhiệm vụ canh gác, cùng với tiểu đoàn đứng không xa trước hàng rào của quân thù, đã bắt đầu một cuộc đột kích riêng mà không chờ đợi bất kỳ hiệu lệnh nào từ Alexander.[71] Sau khi tạo ra được một lỗ hổng trong hàng rào, Perdiccas đã chắn đường đội quân Thebes, theo sau anh ta là Amyntas, con trai của Andromenes, người đã cùng với những binh lính dưới quyền mình hợp thành một đạo quân và ngay lập tức tiến lên phía trước khi thấy Perdiccas vào được bên trong thành. Để tránh cho những người này khỏi bị quân Thebes tàn sát, Alexander đã ra quyết định tiến công, để cung thủ và quân Agrianes băng qua lỗ hổng ở hàng rào, nhưng vẫn giữ lại cận vệ riêng và phần còn lại của đội vệ quân ở bên ngoài.
Trong khi cố gắng mở thêm một lỗ hổng xuyên qua hàng rào thứ hai, Perdiccas đã bị thương; anh ta được mang trở lại căn cứ nhưng vết thương khá nghiêm trọng và khó mà giữ được mạng sống. Quân lính của Perdiccas, hợp nhất với những cung thủ của Alexander, giữ chân quân Thebes trên con đường lầy lội đổ về phía Heraleum, gây khó khăn cho họ khi họ rút lui về phía đền thờ; nhưng thời điểm khi quân Thebes chuyển hướng, đương đầu với những người đuổi theo với tiếng la hét thịnh nộ, quân Macedonia đã buộc phải rút lui. Khoảng 70 cung thủ đã thiệt mạng cùng với chỉ huy của họ là Eurybotas vùng Crete; số còn lại đã vội vã thỉnh cầu cứu viện từ cận vệ của Alexander cùng với phần còn lại của đội vệ quân.
Thấy quân lính của mình đang rút lui hoàn toàn cùng với những người Thebes đang đuổi theo sau, Alexander đã nhanh chóng tung đòn đáp trả. Ngài đã ra lệnh cho bộ binh tấn công, và đuổi quân thù vào bên trong cổng thành. Cuộc tháo chạy nhanh chóng trở nên hỗn loạn – đến độ, quân Thebes không kịp đóng cổng thành. Quân Macedonia đã bám theo họ sát gót, vượt qua cổng thành, xâm nhập được vào bên trong những công sự, nơi cần phải có thêm nhiều chốt gác phía trước mà giờ đã bị bỏ lại trong tình trạng không được phòng vệ. Một nhóm binh lính được hợp nhất với đơn vị đồn trú của Cadmeia rồi từ đó tiến tới con đường hướng về phía Ampheum, dẫn tới thị trấn trong khi những đội quân ở phía gần tường thành, nơi đã bị chiếm đóng trong suốt cuộc tháo chạy, đã nhất loạt tiến công, đi tới khu quảng trường chợ.
Quân đội của Thebes chỉ trụ vững được một thời gian ngắn trước Ampheum, cho tới khi quân Macedonia cùng với Alexander tấn công họ từ mọi phía. Kỵ binh của người Thebes, những người nỗ lực mở đường xuyên qua các tuyến phố, đã bỏ chạy tới vùng đất trống, trong khi lính bộ binh cũng chỉ ráng hết sức để thoát thân. Trong cơn kích động, quân Phocis, Plataea và lính từ những thị trấn Boeotia khác đã chém giết bừa bãi những người Thebes – lúc đó họ đã không có bất cứ sự bảo vệ nào – nhiều hơn cả quân Macedonia. Họ đốt nhà, giết những người ở lại; họ chém giết những người có ý kháng cự; quân lính thậm chí không hề nương tay với phụ nữ và trẻ em, kể cả khi họ đã níu lấy các bệ thờ.[72]
Sự tàn ác của cuộc tàn sát, cùng với quy mô và tầm quan trọng của thành phố thất thủ, và trên hết có lẽ là tính bất ngờ của sự kiện này đối với cả người chiến thắng lẫn kẻ chiến bại, tất cả đã khiến những người thuộc dòng giống Hy Lạp còn lại choáng váng không kém so với chính những người Hy Lạp liên quan. Cuộc viễn chinh Sicily,[73]chỉ ước tính riêng số người chết, đã đem đến một thảm họa tương đương với người Athens; nhưng cần phải nhớ rằng, cuộc viễn chinh đó xảy ra ở một nơi xa xôi: đội quân đã bỏ mạng đó không phải là quân đội bản địa, mà phần lớn là quân đội của các thành bang trong liên minh; bản thân người Athens vẫn còn chưa bị tổn hại, vẫn có thể trụ vững trong nhiều năm chống lại Ba Tư và liên minh Lacedaemonia; và với những lý do đó, thất bại tại Sicily không khiến người Athens nghĩ đến một tai ương không thể tránh khỏi, hoặc là một câu chuyện kinh hoàng tương đương (với thảm họa của người Thebes) đối với những người Hy Lạp khác. [74] Hơn nữa, thất bại tại Aegospotami là ở trên biển, và dù người Athens có cảm thấy bẽ mặt vì việc Trường Thành của họ bị phá hủy, phần lớn hải quân của họ đã đầu hàng, đế chế của họ đã thất bại, họ vẫn duy trì hình thức cai trị cha truyền con nối và nhanh chóng khôi phục lại sức mạnh cũ của mình; quả thực, Trường Thành đã được xây dựng lại, quyền lực trên biển của họ đã được phục hồi, và người Athens, sau đó, thực sự đã có thể đảo ngược tình thế và cứu nguy cho người Lacedeamonia, những người đã từng là đối thủ ghê gớm và suýt chút nữa đã phá hủy Athens[75]thoát khỏi một nguy cơ lớn. Chính người Lacedaemonia, sau những thất bại tại Leuctra và Mantinea, đã thấy sửng sốt bởi sự bất ngờ của thảm họa hơn là bởi tổn thất mà họ gánh chịu; và cảnh tượng kỳ lạ của cuộc tấn công Sparta của người Boeotia và Arcadia, do Epaminondas chỉ huy, đã gây cho họ và đồng minh nỗi kinh hoàng còn hơn cả mối hiểm nguy tức thì đó.[76] Hơn nữa, việc chiếm Plataea không thể được coi là một thảm họa lớn vì đây chỉ là một thị trấn nhỏ, và hầu hết cư dân của thị trấn này đã chạy trốn sang Athens, chỉ có rất ít người bị bắt khi thị trấn sụp đổ; và cuối cùng, việc chiếm Melos và Scione cũng chẳng mấy quan trọng: họ chỉ là những cộng đồng dân cư tách biệt, và sự
sụp đổ của họ, dù là một điều hổ thẹn cho những người gây ra vụ này, hầu như không thể bị coi là một cú sốc nặng nề đối với toàn bộ người Hy Lạp.[77] Với Thebes, trái lại, đó là một vấn đề hoàn toàn khác: sự vô kỷ luật, diễn tiến quá nhanh của các sự kiện dẫn tới vụ nổi loạn, việc thành phố bị hạ quá đột ngột và dễ dàng, vụ thảm sát kinh hoàng và không thể tránh được, tình trạng nô dịch hoàn toàn của một thành phố vượt trội về quyền lực và danh tiếng quân sự ở Hy Lạp, nói không ngoa, đều được cho là do cơn thịnh nộ của Thần linh. Mọi người đều nhận thấy rằng, sau cùng, Thebes đã bị trừng phạt vì sự phản bội – họ đã phải trả giá vì đã phản bội Hy Lạp trong chiến tranh Ba Tư, cho việc chiếm đóng Plataea trong suốt thời gian đình chiến, vì sự nô dịch tàn nhẫn đối với thần dân của họ, vì vụ thảm sát những người đã đầu hàng không phải với Thebes, mà với Sparta, việc tàn phá vùng quê mà trong đó quân đội Hy Lạp đã đẩy lùi cuộc xâm lược của Ba Tư, và cuối cùng, vì sự ác ý hiểm độc mà người Thebes đã bộc lộ ra đối với người Athens khi ủng hộ đề nghị do liên minh Lacedaemonia đưa ra, rằng dân Athens nên bị bán làm nô lệ.[78] Giờ đây mọi người đều tuyên bố rằng các vị thần đã đưa ra nhiều dấu hiệu cảnh báo cho tai họa này – những dấu hiệu đã từng bị phớt lờ, nhưng giờ đây và sau này, sẽ mãi mãi được ghi nhớ, đã được minh chứng rõ ràng bởi lời tiên tri trước sự kiện về số mệnh bất hạnh đang tới.[79]
Alexander đã giao phó cho quân đội đồng minh, những người đã đóng góp cho cuộc chiến, quyền định đoạt cuối cùng về số mệnh của Thebes. Họ đã quyết định đóng quân tại Cadmeia, và san phẳng thành phố.[80] Tất cả đất đai của Thebes, ngoại trừ đất thánh, đều được chia cho quân đồng minh; phụ nữ, trẻ em, và tất cả những người đàn ông còn sống sót đều bị bán làm nô lệ – ngoại trừ các tư tế hoặc nữ tư tế và một vài cá nhân có mối quan hệ mật thiết với Alexander hoặc Philip, hoặc có mối kết giao chính thức với Macedonia. Nói chung, người ta tin rằng sự kính trọng của Alexander dành cho Pindar đã khiến ngài tha cho tất cả những hậu duệ còn sống của nhà thơ này – thậm chí, nhà của Pindar cũng không hề bị đụng tới. Ngoài ra, quân đồng minh đã quyết định xây dựng và củng cố Orchomenus và Plataea.[81]
Khi tin tức về vụ tháo chạy của quân Thebes lan khắp, người Arcadia, những người đã từng tham gia vào cuộc nổi loạn, đã kết tội tử hình một vài người đồng xứ từng xúi giục họ; người Elis đã ân xá cho những kẻ tha hương chính trị của họ, đơn giản vì họ có quan hệ tốt với Alexander; nhiều nhánh khác của người Aetolia đã cử đại diện tới nài xin sự tha thứ trên mảnh đất mà họ tiếp tay cho cuộc nổi loạn chỉ vì tin tức từ Thebes. Ở Athens, dòng người tị nạn Thebes đổ về từ cuộc chiến diễn ra đồng thời với dịp thực hiện nghi thức tế lễ Huyền bí (the Great Mysteries);[82]tin tức kinh hoàng đã
khiến người Athens giảm bớt nghi lễ, và bắt đầu nhận tất cả tài sản được chuyển từ khu vực bên ngoài vào thành phố.[83] Hội đồng trưởng lão được triệu tập và theo đề nghị của Hội đồng Demades, mười người có quan hệ đặc biệt tốt đẹp với Alexander, để thể hiện quan điểm của Athens và để cam đoan với ngài, dù có phần không đúng lúc lắm, rằng dân Athens lấy làm hạnh phúc khi thấy ngài an toàn trở về từ Illyria và Triballi, rằng họ hoàn toàn ủng hộ việc ngài trừng phạt người Thebes vì tội nổi loạn của họ. Câu trả lời của Alexander cho những đại diện này khá thân thiện; tuy nhiên, trong lá thư gửi người Athens, ngài yêu cầu giao nộp Demosthenes và Lycurgus, ngoài ra còn có cả Hypereides, Polyeuctus, Chares, Charidemus, Ephialtes, Diotimus và Moerocles, tất cả những người mà Alexander cho rằng phải chịu trách nhiệm về thất bại ở Chaeronea và những sai lầm nhất định trong chính sách, gây thiệt hại cho quyền lợi của thân phụ Philip và ngài, sau đó là dính líu tới cái chết của vua Philip.[84] Hơn nữa, Alexander tuyên bố rằng những người phải chịu trách nhiệm về cuộc nổi loạn chính là người Thebes, những kẻ đã gây ra nó. Người Athens, thay vì giao nộp những người bị nêu tên, đã một lần nữa tới cầu xin Alexander rủ lòng thương – điều mà ngài đã thuận theo, có thể vì sự kính trọng đối với người Athens, có thể đơn giản là vì ngài đang vội vã tiếp tục cuộc viễn chinh châu Á và không muốn để lại sau lưng bất cứ mối nghi hoặc nào tại Hy Lạp. Tuy vậy, Alexander ra lệnh lưu đày Charidemus – một trong những người ngài yêu cầu người Athens giao nộp nhưng không được toại nguyện. Hình phạt đã được thực thi, và Charidemus đã phải lẩn trốn tại châu Á dưới vương triều của Darius.[85]
Giờ đây Alexander một lần nữa đi về phía bắc, tới Macedonia, và đã dâng lên thần Zeus trên đỉnh Olympia một nghi lễ tạ ơn đã có từ thời đại của Archelaus.[86] Ngài cũng tổ chức một lễ hội tại Aegae, và theo một vài ghi chép, lễ hội được tổ chức để tỏ lòng tôn kính các nữ thần Muse.[87] Trong suốt nghi lễ, có tin tức từ Pieria báo rằng bức tượng của Orpheus, con trai của Oeagrus vùng Thrace, đã đổ mồ hôi liên tục, một hiện tượng đã được những nhà tiên tri phân tích theo nhiều cách khác nhau; tuy vậy, một trong số họ – Aristander vùng Telmissus – đã nói với Alexander rằng ngài không có lý do gì để hoảng sợ: điều đó chỉ cho thấy rằng những người viết những vần thơ tụng ca (ode[88]) và sử thi cùng với những nhà thơ trữ tình đã làm việc tích cực để ca ngợi Alexander và những kỳ công của ngài sẽ được lưu danh trong thơ ca và âm nhạc.[89]
Ngay khi bắt đầu đợt viễn chinh tiếp theo, Alexander đã để Antipater lo công việc tại Macedonia và Hy Lạp, và dành một lực lượng khoảng 30.000 bộ binh, bao gồm bộ binh hạng nhẹ, cung thủ, và hơn 5.000 kỵ binh[90]cho công cuộc vượt eo biển Hellespont.[91] Đường hành quân của ngài đi qua hồ
Cercinitis, qua Amphipolis, băng qua cửa sông Strymon, rồi cửa sông Pangaeum, tiến tới Abdera và Maroneia, hai khu định cư của người Hy Lạp bên bờ biển; từ đó, Alexander tiếp tục đi tới Hebrus, nơi ngài cũng vượt qua không mấy khó khăn, hành quân xuyên qua Paetica và băng sông Melas, đặt chân tới Sestus sau 20 ngày rời mảnh đất quê hương. Tại Elaeus, Alexander tế lễ trước lăng mộ của Protesilaus, người được cho là người đầu tiên của quân đội Agamemnon đặt chân lên đại lục châu Á khi những người Hy Lạp tiến đánh thành Troy. Mục đích dâng lễ của ngài là để đảm bảo rằng ngài có thể có được nhiều may mắn hơn Protesiaus.[92]
Nhiệm vụ dẫn kỵ binh và phần lớn bộ binh từ Sestus băng qua eo biển Hellespont tới Abydos đã được giao phó cho Parmenio, và việc này được thực hiện với 160 chiến thuyền ba tầng chèo (trireme) và một số lượng lớn thuyền buôn. Người ta tin rằng Alexander Đại đế đã giong thuyền từ Elaeus tới cảng Achaeanm,[93]đích thân nắm quyền chỉ huy kỳ hạm của ngài, và khi đi được quá nửa hành trình, ngài đã giết một con bò đực để dâng lên thần Poseidon, đổ rượu từ chiếc cốc vàng xuống biển cả để làm vui lòng các nữ thần biển Nereïd. Tương truyền rằng khi chiến thuyền cập đến bờ biển bên kia, Alexander mình mặc võ phục, là người đầu tiên đặt chân lên đại lục châu Á. Ngài đã xây dựng một bệ thờ ngay tại bờ biển châu Âu mà ngài vừa rời đi và một nơi khác mà ngài đã đổ bộ ở phía bên kia của eo biển hẹp, cả hai bệ thờ đều để tạ ơn thần Zeus, vị thần bảo hộ cho những lần đổ bộ an toàn, cùng với thần Athena và Heracles.[94] Khi đã vào bờ, Alexander tiến sâu hơn vào nội địa, tới thành Troy và tế lễ dâng lên Athena, nữ thần bảo hộ của thành phố; ngài cũng đã dâng áo giáp của mình cho đền thờ, và để trao đổi, ngài đã lấy đi một vài vũ khí vẫn còn được giữ ở đây kể từ cuộc chiến thành Troy. Người ta cho rằng những vũ khí này đã được vệ sĩ của Alexander mang đi trước khi ngài bước vào trận chiến.[95] Người ta cũng thuật lại rằng Alexander đã tiến hành tế lễ Priam trước bệ thờ của thần Zeus nhằm ngăn chặn nguy cơ phải đối đầu với gia tộc của Neoptolemus,[96] những người mà dòng máu của họ cũng chảy trong huyết quản của ngài.
Tại Troy, thuyền chủ (sailing-master) của Alexander, Menoetius đã đội vương miện bằng vàng cho ngài, như Chares đã làm với người Athens, người đã tới từ Sigeium với một số người khác, hoặc là người Hy Lạp hoặc là người bản địa. Có ghi chép nói rằng Hephaestion đã đặt vòng hoa lên lăng mộ của Patroclus; còn một ghi chép khác thì cho rằng Alexander đã đặt vòng hoa lên lăng mộ của Achilles, nói rằng Achilles là một người đàn ông may mắn vì đã có một nhà thơ vĩ đại – Homer – viết về những kỳ công của mình và khiến những ký ức về Achilles được lưu giữ mãi.[97] Chắc hẳn, Alexander thấy ghen tị với Achilles về sự may mắn này; vì ngài đã không được hưởng
phúc phần đó: không một sử gia đáng kính trọng nào đã tuyên bố cho cả thế giới biết tới những kỳ công của ngài. Đó hẳn là một thất bại, một sự gián đoạn trong chuỗi dài những thành công của Alexander Đại đế.
Không một áng văn xuôi lịch sử nào, một bài thơ trữ tình nào được viết về ngài; Alexander thậm chí còn không được tụng ca trong những bài tụng ca kiểu như những bài thánh lễ để gìn giữ danh tiếng và ký ức về Hiero, Gelo, Thero, hoặc nhiều người đàn ông khác không xuất sắc bằng Alexander; hệ quả là câu chuyện tuyệt vời về cuộc đời ngài ngày nay còn xa lạ hơn cả câu chuyện về những nhân vật vô danh nhất thời cổ đại.[98] Thậm chí cuộc hành quân của một vạn quân dưới sự chỉ huy của Cyrus nhằm chống lại Artaxerxes, số phận của Clearchus và những người bạn tù của ông, rồi lần quay lại biển dưới mệnh lệnh của Xenophon, nhờ những trang sử của chính Xenophon, còn nổi tiếng hơn những thành tựu vĩ đại của Alexander;[99]tuy vậy, không giống như Xenophon, Alexander không phải là một chỉ huy cấp dưới; ngài không thất trận trước vua Ba Tư hoặc chỉ giành được chiến thắng trước một lực lượng đang cố gắng chặn đường hành quân ra biển. Trái lại, không có một người đàn ông nào khác trên thế gian, dù là người Hy Lạp hay người mang dòng máu khác, có thể giành được nhiều thành công rực rỡ như Alexander. Và đó là lý do tôi thực hiện dự án viết lịch sử về ngài, với niềm tin rằng sẽ mang câu chuyện cuộc đời của Alexander Đại đế đến với mọi người. Tôi không cần tuyên bố danh tính của mình – mặc dù nó chưa từng được ai biết tới; tôi không cần ghi rõ quê hương tôi và gia đình tôi, hoặc bất kỳ một chức vụ hành chính nào mà tôi từng nắm giữ. Tôi chỉ muốn nói điều này: rằng cuốn sách này, từ khi tôi còn trẻ, đã quý giá hơn quê hương, dòng họ và sự thăng tiến – quả thực, đối với tôi, nó chính là những điều đó. Đó là lý do tôi liều lĩnh đảm nhận vị trí đầu tiên này trong văn học Hy Lạp, trong khi Alexander, nắm giữ vị trí đầu tiên trong sự nghiệp quân sự.
Từ thành Troy, Alexander hành quân tới Arisbe, nơi toàn bộ lực lượng của ngài tập kết sau khi vượt eo biển Hellespont; ngày hôm sau, ngài tiến tới Percote, và ngày kế tiếp, đã vượt qua Lampsacus, và tạm dừng chân trước sông Practius, con sông bắt nguồn từ Ngọn Ida và đổ ra vùng biển nối liền biển Đen và eo biển Hellespont. Từ đây, Alexander đi qua Colonae tới Hermotus. Trên đường viễn chinh, ngài bố trí cho lính trinh sát dưới quyền chỉ huy của Amyntas, con trai của Arrabaeus, dẫn đầu đoàn quân, cùng với đội Kỵ binh Chiến hữu từ Apollonia do Socrates, con trai của Sathon, chỉ huy, và bốn tiểu đội khác được biết tới với tên gọi là những lính trinh sát cấp cao. Thị trấn của Priapus, nằm trên đường hành quân của Alexander, đã đầu hàng trước ngài và Alexander đã gửi một nhóm binh lính dưới quyền chỉ huy của một người trong đội Kỵ binh Chiến hữu – Panegorus, con trai của Lycagoras, tiếp quản thị trấn này.
Lực lượng của quân Ba Tư được đặt dưới quyền chỉ huy của Arsames, Rheomithres, Petines, và Niphates kết hợp với Spithridates, phó vương của Lydia và Ionia, và Arsites, phó vương miền bắc Phrygia. Họ đã tập kết gần thị trấn của Zeleia cùng với kỵ binh Ba Tư và những đội lính đánh thuê của Hy Lạp. Khi nhận được tin Alexander đã vượt biển tới đại lục châu Á, họ đã gặp nhau để luận bàn về tình thế này. Memnon[100]của Rhodes cho rằng nên tránh một cuộc giao chiến liều mạng, ông đã chỉ ra rằng bộ binh của Macedonia đông hơn nhiều; Alexander đích thân chinh chiến còn Darius thì không. Bởi vậy, tốt hơn là đốt bỏ toàn bộ những cánh đồng lúa mạch, giẫm nát đồng cỏ, thậm chí là phải dùng tới kế bỏ không thành, để đẩy Alexander vào tình trạng thiếu lương thực và không thể bám trụ lại đất này. Tuy vậy, tương truyền là Arsite đã đáp lại đề nghị này rằng ông không muốn đốt bỏ bất cứ ngôi nhà nào của bất kỳ thần dân nào dưới quyền cai trị của mình. Những chỉ huy khác đều ủng hộ Arsite – chắc chắn vì họ không tin tưởng Memnon, và đoán rằng ông lo lắng vị trí của mình sẽ rơi vào tay Darius nếu cuộc chiến bắt đầu quá sớm[101]của quân đánh thuê mà còn là một trong những người thuộc giai cấp thống trị của Ba Tư, và là người đã kết hôn với em gái của Artabazus. Vào năm 335, Memnon đã ngăn chặn thành công mũi tiến quân của quân Macedonia tới Tiểu Á, và cũng trong thời gian này, ông đã tán thành cuộc chiến xâm lược châu Âu (Diod, 17.18.12). Về những hành động sau đó và cái chết của Memnon, xem Quyển hai. Có lẽ một phần động cơ thúc đẩy các xatrap từ chối kế hoạch của Memnon là do lòng ghen tị của họ đối với ông.](52).
Trong lúc đó, Alexander đang xúc tiến cuộc chiến trên sông Granicus. Bộ binh của ngài tập trung thành hai nhóm, cả hai cánh đều được kỵ binh bảo vệ, trong khi tất cả phương tiện chuyên chở đi theo sau. Những nhóm quân trinh sát đều đặt dưới quyền chỉ huy của Hegelochus, với những kỵ binh đánh giáo và khoảng 500 lính được trang bị khinh giáp. Chỉ mới thăm dò được một đoạn sông, quân trinh sát đã nhanh chóng quay trở lại báo tin quân đội Ba Tư đã bày sẵn thế trận ở bờ bên kia. Ngay lúc đó, Alexander đã đưa ra những mệnh lệnh cần thiết để chuẩn bị cho cuộc giao chiến. Tuy nhiên, Parmenio phản đối điều này; vị lão tướng đích thân tới trước mặt Alexander mà tâu rằng: “Thưa bệ hạ, theo quan điểm của thần, kế hoạch tốt nhất cho tình huống hiện tại là nghỉ chân ở bên này sông. Bộ binh của quân địch quá thua kém về số lượng so với quân ta, và thần không nghĩ chúng dám liều mạng giữ khoảng cách quá gần này suốt đêm. Bởi vậy, nếu chúng rút lui, quân ta có thể vượt sông vào lúc rạng sáng mà không có trở ngại gì – chúng ta sẽ ở thế thượng phong trước khi quân địch có cơ hội gây khó dễ. Trái lại, cố gắng vượt sông trong thời điểm này chỉ là một sự liều mạng không hơn. Chúng ta không thể vượt sông theo hàng ngang, vì sông này có rất nhiều chỗ
nước sâu, bờ sông lại quá cao, có những chỗ gần như thẳng đứng. Lựa chọn vượt sông theo hàng dọc là tối ưu, nhưng nếu đội hình này lỏng lẻo, kỵ binh của địch sẽ tấn công vào quân ta khi ta còn đang loay hoay giữa dòng nước và đó là bất lợi lớn nhất có thể xảy ra. Thất bại ngay từ khi bắt đầu sẽ là điều rất tồi tệ lúc này, và gây thiệt hại lớn đối với thắng lợi của chúng ta trong cuộc trường chinh.”
Alexander đã đáp lời rằng: “Parmenio nói không sai, nhưng ta sẽ cảm thấy tự xấu hổ khi một dòng nước nhỏ như thế này (một cách nói có phần làm giảm giá trị của sông Granicus) lại có thể gây khó dễ cho quân ta, trong khi ta đã vượt eo biển Hellespont mà chẳng vấp phải một trở ngại nào. Sự lưỡng lự này không xứng đáng với danh tiếng của dân tộc chúng ta và sự sốt sắng của chính ta khi đương đầu với hiểm nguy. Chắc chắn điều đó sẽ khiến người Ba Tư thêm kiêu ngạo; chẳng có gì xảy ra với họ để khiến họ sợ hãi, và họ sẽ bắt đầu nghĩ rằng họ là những binh lính thiện chiến chẳng kém gì chúng ta”.[102]
Không chút chần chừ, Alexander đã cử Parmenio chỉ huy cánh trái, còn ngài di chuyển lên cánh phải. Quyền chỉ huy cánh phải được giao cho Philotas, con trai của Parmenio, cùng với Kỵ binh Chiến hữu, cung thủ và lính đánh giáo Agriane; Amytas, con trai của Arrabaeus dẫn theo kỵ binh đánh giáo, quân Paeonia, và tiểu đội của Socrates. Phía cánh trái bao gồm những tiểu đoàn vệ quân do Nicanor, con trai của Parmenio chỉ huy; sau đó là những tiểu đoàn bộ binh do Perdiccas, con trai của Orontes, rồi Coenus, con trai của Polemocrates, và Amyntas, con trai của Andromenes chỉ huy; cuối cùng là đội quân dưới quyền chỉ huy của Philip, con trai của Amyntas. Vị trí tiên phong của cánh trái được giao phó cho kỵ binh Thessaly do Calas, con trai của Harpalus chỉ huy, và tất cả những đội quân này đều nhận được sự hỗ trợ từ quân kỵ binh đồng minh do Philip, con của Menelaus, chỉ huy và quân Thrace do Agathon lãnh đạo. Cánh phải do bộ binh đảm nhiệm – bao gồm những tiểu đoàn của Craterus, Meleager và Philip, mở rộng tới trung quân như một tổng thể.
Quân Ba Tư có khoảng 20.000 kỵ binh và một số lượng gần tương đương bộ binh đánh thuê người nước ngoài. Quay trở lại từ khu đất dốc ở dòng sông, họ đã sắp xếp kỵ binh dọc bờ sông, tạo thành một mặt trận rộng lớn và bộ binh ở phía sau.[103] Tại một địa điểm trên bờ sông, họ đã tập trung những tiểu đoàn mạnh bởi vì từ đó, họ có thể nhận thấy Alexander, trong tấm áo bào lộng lẫy, dẫn theo một đoàn tùy tùng với sự sùng kính đặc biệt, đang de dọa cánh trái của họ.
Đó hẳn là một sự im lặng khủng khiếp khi cả hai đội quân đứng bất động ở bờ sông, như thể đang e sợ điều sắp xảy đến. Trong khi quân Ba Tư vẫn
đang đợi đợt vượt sông bắt đầu để tấn công quân Macedonia vào lúc họ đang gắng sức tới được bờ bên kia, Alexander đã nhảy lên lưng ngựa, lệnh cho vệ sĩ của ngài theo sau và chỉ huy cuộc chiến. Mệnh lệnh được đưa ra là Amyntas, con trai của Arrabaeus, lao vào dòng nước cùng với lính trinh sát cấp cao, quân Peaonian và bộ binh chiến hữu, dẫn đầu bởi Ptolemy, con trai của Philip, cùng với tiểu đội của Socrates, tiểu đội kỵ binh tiên phong trong ngày hôm đó; sau đó đích thân ngài, tại vị trí đầu não cánh phải của toàn quân, giữa âm thanh đinh tai nhức óc của tiếng kèn trumpet và tiếng hô xung trận, sẽ tiến về phía con sông. Ngài giữ đội quân tiến xiên theo sức đẩy của dòng nước nhằm ngăn một vụ tấn công bên sườn khi quân đội của ngài nhô lên khỏi mặt nước, và để ngài có thể giao chiến với một mặt trận vững chắc nhất mà ngài có thể xây dựng được.
Những đội quân tiên phong dưới quyền chỉ huy của Amyntas và Socrates, khi tiến tới bờ bên kia sông, đã bị cản trở bởi một loạt những vũ khí do quân Ba Tư ném xuống. Quân Ba Tư tiếp tục sử dụng hỏa lực trên sông từ vị trí chỉ huy ở khu đất cao, và từ dải đất tương đối bằng phẳng gần rìa sông. Một cuộc chiến giáp lá cà đã nổ ra. Quân kỵ binh Macedonia cố gắng thoát ra khỏi dòng nước, trong khi quân Ba Tư nỗ lực hết sức để ngăn chặn điều đó. Trong đợt công kích dữ dội đầu tiên, quân của Alexander, thua kém về số lượng, đã chịu tổn thất nặng nề; vị trí của họ không an toàn và họ phải chiến đấu giữa dòng nước trong khi quân địch có được một thế vững chãi ở trên bờ – chưa kể tới việc họ phải đương đầu với đội kỵ binh thiện chiến của Ba Tư, cùng với Memnon và những người con trai của ông đang chiến đấu dũng cảm giữa chiến trận.
Ngay ở lần chạm trán đầu tiên, quân Ba Tư đã bị chia tách và thiệt hại về quân số, mặc dù một vài người trong đội tiên phong của quân Macedonia đã phải cầu viện Alexander, người đang trên đường vượt sông: quả thực, ở vị trí đầu não của cánh phải, ngài gần như đã vượt qua sông. Một lát sau, Alexander đã ở giữa dòng sông, lãnh đạo đội quân của ngài chiến đấu ở nơi tập trung đông nhất những chỉ huy và quân kỵ binh Ba Tư. Một cuộc chiến khốc liệt đã diễn ra xung quanh Alexander. Trong khi đó, quân Macedonia, những người đang tìm cách vượt sông, nhận ra giờ đây nhiệm vụ của họ đã dễ dàng hơn trước rất nhiều. Đó là một cuộc chiến kỵ binh với những chiến thuật của bộ binh: ngựa chiến với ngựa, người đấu với người, quân Macedonia đã nỗ lực hết sức để đẩy lùi kẻ địch từ phía bờ sông ngược vào khu đất trống, trong khi quân Ba Tư chiến đấu để ngăn chặn cuộc đổ bộ hoặc đẩy kẻ thù của họ xuống dòng nước.
Thế trận nhanh chóng đổi chiều, nghiêng về phía quân của Alexander; kinh nghiệm của họ và sức mạnh của đợt tấn công bắt đầu được bộc lộ, cộng với việc quân Macedonia sử dụng giáo dài làm từ gỗ có ưu thế vượt trội hơn
hẳn những cây giáo nhẹ của người Ba Tư.
Trong cuộc chiến, cây giáo của Alexander bị gãy. Alexander đã gọi Aretis, một trong những người hầu cận của ngài, để lấy một cây giáo khác, nhưng chính Aretis cũng gặp những khó khăn tương tự, dù anh ta vẫn đang chiến đấu hết sức dũng cảm với phần còn lại của vũ khí. Giơ cây giáo gãy cho Alexander thấy, Aretis kêu lớn, để vị chủ tướng nhận ra được tình thế của anh ta và kêu gọi sự giúp đỡ từ những người khác, và Demaratus vùng Corinthian, một trong những vệ sĩ của Alexander, đã đưa cho ngài cây giáo của mình. Với vũ khí mới trong tay, Alexander đã quan sát thấy Mithridates, con rể của Darius, đang dẫn một tiểu đội kỵ binh xếp thành đội hình mũi nhọn khá xa trước đội quân chính; ngay lập tức Alexander phi nước kiệu tới trước Mithridates, dùng giáo đập mạnh vào mặt anh ta, rồi hất anh ta ngã xuống đất. Sau đó, Rhoesaces đã phi ngựa tới chỗ Alexander cùng với một thanh đại đao, giáng một đòn mạnh vào đầu Alexander làm tróc mất một phần chiếc mũ đội đầu của ngài. Nhưng ngay lúc đó Alexander đã kịp phản công, khiến Rhoesaces ngã xuống với một mũi giáo xuyên qua áo giáp, đâm thẳng vào ngực. Cũng chính thời điểm đó, Spithridates nâng thanh đại đao lên, sẵn sàng giáng một đòn chí tử vào Alexander từ đằng sau; nhưng Cleitus, con trai của Dropidas, đã nhanh chóng ra tay cứu ngài. Trong lúc đó, nhóm của Alexander đã nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ từ quân kỵ binh khi họ từng đội một vượt sông thành công và nhập vào đội quân của vị thống lĩnh trẻ tuổi.
Quân Ba Tư lúc này đang ở trong thế nguy hiểm: không có lối thoát nào cho ngựa lẫn người khỏi cuộc tấn công mạnh mẽ của những lính đánh giáo người Macedonia; họ bị đẩy lùi, và cộng thêm với sức công phá của đợt tấn công chính, quân Ba Tư đã phải chịu tổn thất nặng nề từ đội quân khinh giáp. Họ bắt đầu tan vỡ ngay tại nơi Alexander tự mình gánh vác trận địa.
Một khi trung tâm đã không còn giữ được, cả cánh phải lẫn cánh trái của kỵ binh Ba Tư đều nhất loạt tan vỡ. Khoảng 1.000 người bị giết – một tổn thất không quá lớn, vì Alexander đã nhanh chóng hạn chế việc truy đuổi quân Ba Tư mà chuyển sang tấn công đám lính đánh thuê, những người vẫn đang giữ nguyên vị trí của họ – điều quả thực không phải từ nỗ lực chứng minh lòng dũng cảm nào mà đơn giản là vì quân đánh thuê Hy Lạp không khỏi bàng hoàng trước một thảm họa xảy ra quá đột ngột. Sắp xếp một cuộc đột kích phối hợp bằng bộ binh và kỵ binh, Alexander đã nhanh chóng bao vây và tàn sát họ. Chỉ có một hai người trốn thoát được giữa ngổn ngang xác chết.[104] Khoảng 2.000 người bị bắt làm tù binh. Trong số những người bị giết có những chỉ huy của quân Ba Tư: Niphates, Petines, và Spithridates, xatrap của Lydia; Mithrobuzances, thủ lĩnh của Cappadocia; Mithridates, con rể của Darius; Arbupales, con của Darius và cháu của Artexerxes;
Pharnaces, anh vợ của Darius, và Omares, thủ lĩnh của đạo quân người nước ngoài. Arsites đã tẩu thoát tới Phrygia, nơi ông được thuật lại là đã tự tử vì người Ba Tư bắt ông phải chịu trách nhiệm về thất bại này.
Quân Macedonia tổn thất khá ít, khoảng 25 Kỵ binh Chiến hữu thiệt mạng trong trận đột kích đầu tiên. Alexander đã hạ lệnh cho Lysippus[105]dựng những bức tượng bằng đồng của họ tại Dium. Lysippus cũng là người đã vượt qua rất nhiều đối thủ để được chọn tạc tượng cho Alexander.[106] Khoảng 60 quân kỵ và 30 quân bộ đã thiệt mạng.[107] Theo lệnh của Alexander, tất cả những người chết đều được chôn cất cùng với vũ khí và quân trang vào ngày hôm sau trận chiến. Cha mẹ và con cái của họ được miễn các khoản thuế ở địa phương và tất cả những hình thức về nghĩa vụ cá nhân hoặc các khoản thuế đánh vào tài sản. Alexander rất quan tâm tới những người bị thương; ngài tới thăm họ, kiểm tra vết thương của họ, hỏi từng người xem họ bị thương như thế nào và trong hoàn cảnh nào, lắng nghe câu chuyện của họ và cho phép họ phóng đại tùy thích. Alexander cũng đã tiến hành những nghi lễ chôn cất đối với những thủ lĩnh người Ba Tư và những lính đánh thuê người Hy Lạp, những người đã ngã xuống khi đang chiến đấu trong hàng ngũ của kẻ thù; ngài gửi đám tù binh Hy Lạp tới lao động khổ sai ở Macedonia, như một sự trừng phạt vì dám phản đối giải pháp của Liên minh Corinth bằng cách chiến đấu cho quân đội kẻ thù, chống lại chính những người đồng hương của họ. Để tạ ơn nữ thần Athena, ngài gửi tới Athens 300 bộ áo giáp đầy đủ của quân Ba Tư, cùng với câu đề tặng rằng: Alexander, con trai của Philip, và những người Hy Lạp (trừ những người Lacedaemonia) dâng tặng người những chiến lợi phẩm được lấy từ quân Ba Tư ở lục địa Á châu[108].
Alexander đã chỉ định Calas đảm nhiệm chức xatrap, vị trí trước đây vốn thuộc về Arsites với mệnh lệnh giữ nguyên các khoản thuế như trước đó; tất cả những người bản địa xuất hiện sau khi lẩn trốn ở trên những ngọn đồi và bị bao vây đã được ngài cho phép quay trở lại nhà của họ; đối với những người Zeleia, ngài tha thứ cho họ vì hiểu rằng họ chiến đấu cùng với quân Ba Tư chỉ vì bị ép buộc. Alexander cử Parmenio tiếp quản Dascylium; và điều này được thực hiện mà không gặp phải trở ngại gì khi những vệ quân đã bỏ lại thị trấn.[109]
Mục tiêu tiếp theo của Alexander là Sardis. Ngài vẫn còn cách đó khoảng 13 hoặc 14 kilômét khi gặp Mithrines, chỉ huy pháo đài bên trong; đi cùng với ông là những người lãnh đạo của thị trấn. Họ tới để giao nộp thị trấn cho Alexander, trong khi Mithrines cũng xin dâng lên ngài pháo đài và của cải. Alexander dừng chân trước Hermus, một con sông cách Sardis khoảng 4 kilômét, và cử Amyntas, con trai của Andromenes tiếp quản pháo đài; ngài
đối xử với Mithrines theo cách thức phù hợp với địa vị của ông, cho phép những người Sardis và những người Lydian khác giữ phong tục cũ của quê hương họ và trả tự do cho họ.[110]
Trong lúc Alexander ở Sardis, ngài đã tới vệ thành, nơi quân đồn trú của Ba Tư đã từng đóng quân, và nhận ra rằng pháo đài này, được xây dựng trên ngọn đồi cao, dốc và được bảo vệ bằng tường thành ba lớp, là một vị trí cực kỳ vững chãi.
Ngài nảy ra ý nghĩ sẽ xây dựng ở đây một đền thờ và ban thờ vinh danh thần Zeus, và trong khi ngài đang băn khoăn chọn vị trí tốt nhất thì một cơn bão mùa hè ập tới đột ngột cùng với tiếng sấm rền vang và một cơn mưa trút xuống cung điện của những vị vua Lydian, đã khiến Alexander nghĩ rằng thần Zeus đã tự chỉ định vị trí nơi đền thờ của người sẽ được xây lên; bởi vậy, ngài đã hành động theo ý nguyện đó của người.
Alexander đã giao phó cho Pausanias, một trong những Kỵ binh Chiến hữu, chịu trách nhiệm về pháo đài, và hạ lệnh cho Nicias tổ chức và trao tặng đồ cống nạp. Quyền cai trị Lydia và khu vực lãnh thổ trước kia do Spithridates làm chủ đã được trao cho Asander, con trai của Philotas, với một lực lượng đáng kể bộ binh khinh giáp và kỵ binh. Calas và Alexander, con trai của Aeropus, được gửi tới vùng đất của Memnon[111]cũng với những người Peloponnesian và hầu hết những đội quân đồng minh khác, ngoại trừ quân Argives, những người đã đóng quân tại pháo đài ở Sardis.
Trong khi đó, tin tức về vụ giao chiến kỵ binh đã tới Ephesus. Những lính đánh thuê từng là đơn vị đồn trú ở thị trấn đã cướp được hai tàu chiến và trốn thoát. Đi cùng họ là Amyntas, con trai của Antiochus, người đã rời Macedonia nhằm tránh mặt Alexander. Anh ta chắc chắn không có điều gì phàn nàn về cách đối xử của Alexander; anh ta chỉ không ưa ngài và chán ghét sự hiện diện của ngài.
Alexander mất ba ngày để đi tới Ephesus. Khi tới nơi, ngài đã kêu gọi tất cả những lính đánh thuê bị trục xuất trở về quy phục ngài, bỏ đi những phe phái quyền lực, và phục hồi thể chế dân chủ. Tất cả những khoản thuế trước kia phải nộp cho Ba Tư được ngài chuyển lại cho đền thờ Artemis.[112] Mọi cư dân trong thị trấn, những người đã gỡ bỏ mối e sợ những chủ nhân chính trị của họ, đã nóng lòng xử tử những kẻ chịu trách nhiệm trong việc kêu gọi sự hỗ trợ của Memnon, và những kẻ hoặc đã cướp phá Đền thờ hoặc đã đập vỡ bức tượng Philip ở đó, hoặc đã mở lăng mộ của Heropythus – người giải phóng, ở quảng trường tập thể. Họ đã kéo lê từ đền thờ và ném đá đến chết Syrphax và con trai ông là Pelagon cùng với tất cả đám cháu trai. Tuy vậy, Alexander, người có ý thức rất rõ rằng dân Ephesian, những người đã được trao cho cơ hội tiếp tục săn đuổi những kẻ phạm tội và theo đuổi khao khát
báo thù, sẽ đi quá lòng hận thù và dục vọng cá nhân và hạ sát cả những người vô tội, đã kiên quyết dừng lại. Kết quả là, nhờ vào quyết định sáng suốt của ngài tại Ephesus, người dân ở đây đã không thể đi xa hơn những gì mà họ đã làm.
Trong suốt thời gian đó, những sứ thần tới từ những thị trấn của Magnesia và Tralles đã đến quy phục. Theo đó, Alexander đã phái Parmenio cùng với một lực lượng khoảng 2.500 bộ binh đồng minh, 2.500 quân Macedonia, và 200 Kỵ binh Chiến hữu, cử Alcimachus, con trai của Agathocles, với một lực lượng tương đương, tiến tới những thị trấn của người Aeolia và tất cả những thị trấn của người Ionia hiện vẫn còn lệ thuộc vào Ba Tư. Trong khắp những vùng đất này, ngài đã tước quyền sở hữu của nhóm cai trị, xây dựng chính quyền dân chủ, cho phép mọi cộng đồng đều được thực thi luật pháp và phong tục riêng của họ, đồng thời miễn cho họ những khoản thuế mà trước đây họ phải nộp cho người Ba Tư.[113] Trong khi đó, ngài vẫn ở Ephesus, tế lễ thần Artemis, và tổ chức một buổi diễu hành kỷ niệm, với đầy đủ quân trang và đội hình chiến trận.
Ngày hôm sau, Alexander đã hành quân tới Miletus với một lực lượng bao gồm tất cả bộ binh, cung thủ, quân Agriane, kỵ binh Thrace, Tiểu đội Hoàng gia của Kỵ binh Chiến hữu, và ba tiểu đoàn khác. Vòng thành bao đã rơi vào tay ngài mà không cần tới một đợt tấn công nào, vì đơn vị đồn trú đã rút, ngay khi Alexander ra lệnh dừng chân và đề nghị phong tỏa những công sự phòng vệ bên trong, nơi Hegisistratus, người đã được Darius giao phó việc phòng vệ thị trấn, vẫn đang hy vọng có thể chống cự được. Hegisistratus trước đây đã đôi lần viết thư xin hàng gửi cho Alexander, nhưng tình hình về hạm đội Ba Tư sau đó đã khuyến khích ông nỗ lực hơn trong việc giữ lấy thành phố cho chủ nhân của mình. Tuy nhiên, Nicanor đã nhanh chân hơn; ông đã mang hạm đội Hy Lạp tới Miletus ba ngày trước hạm đội của Ba Tư và đã thả neo với 160 tàu tại Lade, một hòn đảo không xa thị trấn. Người Ba Tư đã bỏ lỡ cơ hội của họ; và những chỉ huy của họ, ngay khi nhận ra rằng hạm đội của Nicanor đã thả neo tại Lade trước khi họ tới, đã đem tàu của họ thả neo dưới Cửa sông Mycale. Alexander, khi chắc chắn rằng không chỉ có duy nhất hạm đội của ngài dừng chân ở Lade, đã hạ lệnh cho đạo quân Thrace và khoảng 4.000 lính đánh thuê khác đổ bộ vào hòn đảo.
Quân Ba Tư có khoảng 400 tàu, vượt trội hơn về số lượng so với quân Macedonia, nhưng lão tướng Parmenio, bất chấp điều này, vẫn hối thúc Alexander tiến hành một cuộc giao chiến. Ông tin chắc rằng một cuộc chiến trên biển sẽ diễn ra theo hướng có lợi cho người Hy Lạp, nhưng lý do thực sự cho đề nghị này lại là một dấu hiệu từ thần linh – người ta đã nhìn thấy một con chim đại bàng xuất hiện trên bờ biển ngay phía sau những con tàu của Alexander. Parmenio cho rằng nếu giành được chiến thắng trong hoàn
cảnh hiện tại sẽ là một thuận lợi có tính chiến lược lớn, trong khi đó nếu không may thất bại thì đó cũng không phải là điều quá tồi tệ, khi người Ba Tư, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng vẫn đang làm chủ biển cả. Ông nói ông đã chuẩn bị sẵn sàng để đích thân xuất trận và liều mạng. Alexander đã đáp lời rằng Parmenio đã mắc sai lầm, và ông hẳn đã phân tích sai dấu hiệu. Thứ nhất, sẽ là sai lầm khi liều mạng lao vào một cuộc giao chiến trên biển chống lại một lực lượng lớn hơn nhiều, và đem một hạm đội chưa được rèn luyện gì đối đầu với toàn bộ lực lượng hải quân Cyprus và Phoenicia đã được tôi luyện ở mức độ cao; hơn nữa, biển cả là một nơi nguy hiểm – người ta không thể đặt niềm tin vào nó, và ngài cũng sẽ không liều mạng xuất hiện trước quân Ba Tư; nếu thất bại, điều này quả thực sẽ rất tồi tệ và tác động sâu sắc tới mối quan tâm chung về chiến tranh trong những giai đoạn đầu của nó, trên tất cả là sẽ khuyến khích những người Hy Lạp nổi loạn ngay khi họ nhận được tin người Ba Tư đã giành thắng lợi trên biển. Thứ hai, những lý do Parmenio đưa ra chưa đủ để liều mạng giao chiến. Ngài cũng đưa ra những phân tích về dấu hiệu khác so với Parmenio: sự xuất hiện của chim đại bàng, không nghi ngờ gì, là một dấu hiệu thuận lợi; nhưng trên thực tế việc chim đại bàng được nhìn thấy trên bờ biển chắc chắn báo hiệu rằng quân đội của ngài, chứ không phải hải quân của ngài, sẽ khiến hạm đội Ba Tư trở nên vô dụng – ngài sẽ chiến thắng trận đấu trên biển từ đất liền, như dấu hiệu đã chỉ ra.
Trong lúc này, một người Miletus xuất sắc có tên là Glaucippus đã tiếp kiến Alexander với lời đề nghị từ các thần dân của thị trấn và lính đánh thuê người nước ngoài, những người chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ thị trấn dưới sự giám sát của người Ba Tư: điều này có nghĩa là họ sẵn sàng giao nộp quyền sử dụng những bến cảng, mở cửa tường thành của họ cho cả Alexander lẫn người Ba Tư; đồng thời họ hy vọng rằng với những thỏa thuận này, lệnh bao vây sẽ được rút bỏ. Alexander đáp lại lời đề nghị này bằng cách cho phép Glaucippus quay trở lại với các chiến hữu của ông, và nói rằng họ nên sẵn sàng phòng thủ vào buổi bình minh sáng hôm sau. Alexander đã tiếp tục gia tăng lực lượng phong tỏa; thành lũy đã bị oanh tạc ở tầm gần, những công sự đã bị công phá bởi những cầu ván gỗ; sau đó Alexander đã mang theo quân lính của mình, lúc này đã sẵn sàng giữ vững bất kỳ một vị trí nào tại nơi những công sự phòng vệ bị chọc thủng hoặc bị công phá đủ để mở một lối vào, trong khi những người Ba Tư tại Mycale đang trong quá trình chuẩn bị tiến công chống lại những đồng minh đã gần như đã biến mất trong tầm mắt họ.
Khi những quân lính của Nicanor ở Lade nhận thấy cuộc đột kích của Alexander bắt đầu, họ đã điều khiển tàu thuyền đi dọc bờ biển, tới cảng biển tại Miletus, nơi hạm đội xuất hiện ở phần hẹp nhất của lối vào, tàu này nằm
kế sát tàu kia; bởi vậy cảng biển đã đóng lại trước hạm đội của Ba Tư và người Miletus không còn hy vọng giúp đỡ gì ở khu vực đó. Người Miletus và lính đánh thuê ở thị trấn đã bị thúc ép bởi cuộc tấn công của Alexander; và trước diễn biến mới này, một vài người trong số họ đã lao xuống biển, dùng khiên làm thuyền để bơi tới một hòn đảo nhỏ (không có tên) không xa thị trấn, trong khi những người khác nỗ lực đến tuyệt vọng để trốn khỏi thuyền trước khi những tàu chiến của Macedonia tới. Tuy vậy, họ đã quá chậm chân và bị bắt tại lối vào cảng biển. Phần lớn những người Miletus trong thành đều bị giết.
Thị trấn giờ đây đã rơi vào tay Alexander, và ngài chuyển hướng chú ý tới những người đã trốn thoát tới hòn đảo nhỏ. Bờ biển của hòn đảo này dốc và việc đổ bộ lên đó cũng giống như việc bắc thang trèo lên tường thành vậy; Alexander đã biến việc này trở nên dễ dàng hơn nhiều bằng cách cố định những thang leo tường thành vào phần đầu của thuyền – tuy nhiên, khi nhận thấy rằng những kẻ chạy trốn, khoảng 300 lính đánh thuê Hy Lạp, sẵn sàng chiến đấu tới chết, ngài đã bị cảm động bởi lòng dũng cảm và trung thành của họ. Alexander đã không trừng phạt họ với điều kiện những người này phải quy phục ngài. Tất cả những người Miletus không bị giết khi thị trấn bị chiếm đóng đều được Alexander thả tự do.
Trong lúc đó, quân Ba Tư tiếp tục sử dụng Mycale như một căn cứ để quấy nhiễu hạm đội Hy Lạp tại Miletus. Hằng ngày, họ di chuyển về phía Miletus với hy vọng kích động được mâu thuẫn; tối đến, họ giữ nguyên vị trí mặc dù đây chẳng phải là một nơi an toàn lắm, vì họ bị bắt buộc phải lấy nước cho hạm đội từ Maeander, ở cách đó một quãng đường dài.[114] Alexander vẫn giữ hạm đội tại cảng biển nhằm tránh việc quân Ba Tư tấn công mở lối vào. Ngài đã hạ lệnh cho Philotas tuần tra khắp đường bờ biển của Mycale cùng với quân kỵ binh và ba chiến hữu bộ binh, ngăn quân Ba Tư đổ bộ lên bờ. Hệ quả là, việc thiếu nước và những quân nhu khác khiến toàn bộ thủy thủ Ba Tư lâm vào tình trạng khốn đốn; bởi vậy, họ đã bơi thuyền tới Samos, chất đầy thuyền những thứ họ cần, và trở về Miletus. Rời cảng biển, họ đã bày trận cùng với đội hình chính của hạm đội, hy vọng nhử quân Macedonia vào vùng nước sâu, trong khi năm con tàu của họ tiếp tục tới vùng biển đã được bảo vệ giữa Lade và vị trí đóng quân của Macedonia trên bờ biển. Họ nghĩ rằng đó hẳn là một cơ hội gây bất ngờ cho hạm đội của Alexander khi không có ai trên tàu, vì họ đã được kể rằng hầu hết các thủy thủ đã được giao những nhiệm vụ khác, chẳng hạn như kiếm củi đốt, hoặc đi cắt cỏ hay tìm kiếm nguồn lương thực. Một vài người lính quả thực đã đi ra ngoài, nhưng số người còn lại vẫn đủ để đảm nhận nhiệm vụ. Khi Alexander thấy năm tàu chiến của địch đang tiến tới, ngài đã ngay lập tức cử mười tàu chiến sẵn sàng đâm thủng chúng. Năm tàu chiến của Ba Tư đã nhận thấy sự
xuất hiện đầy thù địch và hoàn toàn bất ngờ của tàu Hy Lạp; và ngay khi nhìn thấy cảnh tượng đó, họ đã xoay buồm chuyển hướng, nhanh chóng quay trở lại, tái nhập vào hạm đội. Một trong những con tàu này, được những người Iassian chèo lái, là một con tàu chậm chạp, đã thất bại trong việc tẩu thoát; ngoại trừ bốn người dẫn đầu đã trốn chạy và tái nhập thành công vào hạm đội, toàn bộ thủy thủ đoàn bị bắt. Kết quả là hạm đội Ba Tư đã không kèn không trống rời khỏi Miletus.
Lúc này, Alexander quyết định giải tán hạm đội. Trong thời điểm đó, ngài không có đủ tiền bạc để duy trì hạm đội; Alexander hiểu rằng khó lòng hạ được hải quân Ba Tư, và ngài cũng không mong muốn để bất kỳ đội quân nào của ngài, dù là trên biển cả hay đất liền, phải liều mình lao vào thảm họa.[115] Hơn nữa, quân đội của Alexander đang làm chủ trên đất liền, ngài có ý thức rất rõ rằng ngài không cần sử dụng tới bất kỳ hạm đội nào: bằng cách chiếm lấy những thị trấn ven biển, Alexander có thể khiến hải quân Ba Tư trở nên bất lực, vì họ chẳng thể sử dụng một cảng biển nào ở bờ biển châu Á và không có nguồn nào thay thế cho tất cả thủy thủ của họ. Đó chính là trọng điểm trong phân tích của Alexander về dấu hiệu chim đại bàng – điều đó có nghĩa là ngài “sẽ chinh phục những con tàu từ đất liền”.
Sau khi giải quyết ổn thỏa mọi chuyện ở Miletus, Alexander bắt đầu đi tới Caria vì nhận được báo cáo rằng quân Ba Tư đang ở Halicarnassus với một lực lượng đáng kể lính bản địa và lính đánh thuê. Những thị trấn nằm trên đường hành quân của ngài đều đã đầu hàng mà không vấp phải bất kỳ sự kháng cự nào. Tuy nhiên, trên đường tới Halicarnassus, ngài đã chọn một vị trí cách thị trấn khoảng một kilômét với dự đoán về một cuộc vây hãm kéo dài. Ngoài địa thế tự nhiên vốn có của Caria, bất kỳ sự thiếu sót nào trong việc duy trì sự an toàn của nó đều đã sớm được Memnon, người đã được Darius giao phó quyền cai trị vùng hạ châu Á và là thủ lĩnh của toàn hạm đội, củng cố; một lực lượng hùng mạnh của lính Ba Tư và lính đánh thuê đã tới đóng quân ở thị trấn, và sự xuất hiện của tàu chiến ở cảng biển đồng nghĩa với việc các thủy thủ cũng có thể giúp chuẩn bị cho đợt tấn công.[116]
Trong ngày đầu tiên, Alexander đã tới những công sự ở thị trấn, phía đối diện với Mylasa. Khi ngài đi tới cổng, những người bảo vệ đã xông ra phá vây và phóng lao tầm xa. Quân đội của Alexander đã phản công mà không gặp khó khăn gì và đẩy lùi quân địch trong thành. Một vài ngày sau, cùng với một lực lượng bao gồm Vệ binh, Kỵ binh Chiến hữu, và những tiểu đoàn bộ binh dưới quyền chỉ huy của Amyntas, Perdiccas, và Meleager, được hỗ trợ bởi quân Agrianes và cung thủ, Alexander đã quay trở lại khu vực thị trấn, phía đối diện với Myndus, ngài quan tâm tới tình trạng của các chốt phòng vệ ở khu vực này, với hy vọng tìm kiếm được một lối vào dễ dàng
hơn.[117] Alexander nghĩ rằng cũng sẽ có một cơ hội nếu ngài, bằng một cuộc đột kích, có thể chiếm lấy Myndus, mảnh đất mà việc sở hữu nó sẽ khiến việc bao vây Halicarnassus (trở nên) dễ dàng hơn rất nhiều. Kế hoạch có vẻ hấp dẫn hơn vì một vài người ở Myndus đã đề nghị rằng họ sẽ mở cổng thành cho Alexander nếu ngài tiến quân trong bóng tối. Ngài làm theo lời họ và tới thị trấn vào khoảng nửa đêm. Tuy nhiên, ở đây không hề có dấu hiệu đầu hàng nào cả. Alexander, người đang mong đợi nơi này quy phục ngài, đã không chuẩn bị gì cho việc bao vây: ngài không hề mang theo những súc gỗ nặng [để phá thành], pháo hay thang leo tường thành; tuy vậy, với trang bị vũ khí sơ sài Alexander vẫn hạ lệnh cho bộ binh Macedonia tiến quân và bắt đầu đánh lấn. Họ đã phá hủy một pháo đài, nhưng sự sụp đổ của nó không phá bỏ được tường phòng vệ; quân đội của thị trấn chống trả mãnh liệt và cùng với sự trợ giúp của quân tiếp viện tới bằng đường biển từ Halicarnassus, đã chống trả thành công cuộc đột kích. Bởi vậy, Alexander đã hạ lệnh rút lui trong khi chưa hạ được mục tiêu. Ngài lại chuyển hướng quan tâm sang việc bao vây Halicarnassus.
Để có thể gia tăng sức mạnh công phá – sử dụng được những pháo đài mà từ đó có thể bắn phá vào những người bảo vệ thành lũy cũng như việc dùng pháo và các súc gỗ nặng để phá thành – Alexander cho đào hầm ở bên ngoài thị trấn, khoảng 14 mét chiều rộng và 7 mét chiều sâu. Công việc được hoàn thành một cách dễ dàng và các pháo đài nhanh chóng được đưa vào sử dụng. Trong đêm tối, một nhóm quân Halicarnassus đã cố gắng dùng hỏa lực tấn công pháo binh của Macedonia, bao gồm cả những pháo đài, vốn chưa sẵn sàng vào vị trí hoặc chưa được sử dụng; nhưng quân Macedonia đang làm nhiệm vụ phòng vệ, cùng với sự giúp đỡ của những quân lính khác, những người đã tỉnh giấc bởi tiếng ồn và gia nhập vào với nhóm của họ, đã đẩy lùi quân Halicarnassus vào trong những chốt phòng vệ của thị trấn mà không gặp khó khăn gì. Quân địch thiệt hại 170 người, trong đó có Neoptolemus, người đã bỏ trốn sang phe Darius.[118] Anh ta là con trai của Arrabaeus và anh của Amyntas. Về phía quân Alexander, có khoảng 16 người chết và 300 người bị thương – số lượng người bị thương tương đối lớn vì họ bị tấn công trong bóng tối và rất khó để tự phòng vệ.
Một vài ngày sau, có một sự vụ tình cờ xảy ra: hai bộ binh Macedonia thuộc tiểu đoàn của Perdiccas uống rượu trong lều và khoe khoang về việc họ đã dũng cảm thế nào; sẵn có men rượu trong người, mỗi người khoác lác hết mức có thể và nhanh chóng xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ. Cuối cùng, hai người cầm vũ khí của mình xông ra tấn công vào tường thành của thị trấn nằm ở trên vùng đất cao đối diện với Mylasa chỉ với mục đích chứng minh cho đối phương thấy mình can đảm ra sao chứ hoàn toàn không có ý định nghiêm túc về một cuộc tấn công liều chết. Một vài người lính trong thị
trấn đã thấy sự xuất hiện của hai gã ngốc và khiêu khích họ. Tuy nhiên, những người Macedonia đã giết những người tới gần và phóng vũ khí vào những người vẫn còn cách họ một khoảng, bất chấp việc những người Halicarnassus đông hơn và ở trên một vùng đất có nhiều lợi thế hơn vì họ có thể bắn phá hoặc tiến hành một cuộc đột kích từ vùng đất cao. Một mặt, những quân lính thuộc tiểu đoàn Perdiccas đã nhanh chóng đối diện với mối de dọa này, và mặt khác, họ nhận được quân tiếp viện từ thị trấn. Đó là một cuộc chiến đấu ác liệt cho tới khi quân Macedonia một lần nữa lại đẩy lui thành công đợt tấn công của quân địch vào trong cổng thành. Quả thực, thị trấn đã gần như bị chiếm cứ. Trong lúc đó, những bức tường thành đều chỉ được phòng vệ sơ sài, và sự sụp đổ của hai pháo đài cạnh nhau cùng với bức tường ở giữa đã tạo nên một lối vào dễ dàng, cho phép mở ra một cuộc đột kích. Hơn nữa, pháo đài thứ ba đã bị hư hại nặng nề và có thể dùng mìn phá sập; nhưng trước khi bất cứ điều gì được thực hiện, người trong thị trấn đã tìm được một cách phòng vệ tốt hơn bằng cách xây dựng, từ bên trong, một bức tường gạch hình vòng cung – với sự giúp sức của tất cả mọi người.
Ngày hôm sau, Alexander đã sử dụng pháo thủ để tấn công, và vấp phải sự chống trả ngay lập tức bởi một nhóm người trong thị trấn. Mục đích của họ là dùng hỏa lực tấn công những phương tiện đột kích của Alexander, và họ đã thành công trong việc đốt cháy một phần bức bình phong ở gần tường thành và một trong những pháo đài bằng gỗ, dù mọi thứ khác đều đã được bảo vệ bởi quân lính dưới quyền chỉ huy của Philotas và Hellanicus, những người chịu trách nhiệm bảo vệ ở đó. Trong suốt cuộc đột kích, Alexander đã đích thân xuất quân, và kết quả là nhóm đột kích đã ngăn chặn được những người nổi loạn – hầu hết họ đều bỏ lại vũ khí – và nhanh chóng rút lui vào bên trong thị trấn.
Bất chấp thất bại này, trong các giai đoạn đầu của những đợt tấn công ngay sau đó, những người canh giữ tường thành vẫn có được lợi thế: vị trí của họ trên vùng đất cao là một thế chiến lược; các binh lính hình thành nên tấm chắn ở phía trước những cỗ máy đột kích của Alexander có thể đối đầu với những loạt vũ khí được phóng ra không chỉ từ phía trước của mũi tiến quân, mà còn từ hai bên sườn, nơi mà từ những pháo đài ở cả hai bên của lỗ hổng ở tường thành cũ, quân địch có thể cấp tập tấn công họ; quả thực khi quân đội Macedonia đi tới chỗ tường thành mới được xây dựng, họ có thể sẽ bị tấn công từ phía sau.
Một vài ngày đã trôi qua trước khi Alexander tiếp tục đột kích bức tường gạch mới bên trong thị trấn. Trong thời gian đó, ngài đã đích thân chịu trách nhiệm về vụ đột kích. Bước tiến công của ngài đã vấp phải một cuộc phản công của toàn bộ lực lượng trong thị trấn: một sư đoàn ngay tại lỗ hổng ở tường thành, nơi Alexander xuất hiện và một sư đoàn khác tại Tripylum, hay
Cổng thành Triple, nơi người Macedonia ít ngờ tới nhất. Những khúc củi đang cháy dở và những vật liệu dễ cháy khác đều được quăng vào những phương tiện đột kích khiến chúng bốc cháy dữ dội; tuy vậy quân lính dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Alexander vẫn không chịu lùi bước; các máy bắn đá được trang bị ở pháo đài tiếp tục phóng tới những tảng đá nặng để gây áp lực. Hệ quả là, những người bảo vệ thị trấn đã bị đánh bại và bị đẩy lùi một lần nữa vào trong các chốt bảo vệ. Quân địch chịu tổn thất nặng nề: một vài người đã bị giết khi đánh giáp lá cà với quân Macedonia, những người khác kẹt ở giữa đống đổ nát của bức tường bị phá thủng: họ không thể vượt qua vì lỗ thủng quá hẹp so với đám đông xô lấn, và những khối đá chắn đường đã trở thành một trở ngại gần như không thể vượt qua.
Lực lượng thực hiện cuộc phá vây tại Tripylum đã đụng độ với Ptolemy, thủ lĩnh của vệ quân hoàng gia, cùng với những binh lính dưới quyền chỉ huy của Addaeus, Timander và sự hỗ trợ của bộ binh khinh giáp. Giống như đợt rút lui của những người Halicarnassus khác, đợt rút lui của lực lượng này cũng là một thảm họa: bởi vì khi họ rút lui qua cây cầu hẹp bắc qua hào, sức nặng của đội quân đã làm cây cầu hoàn toàn sụp đổ. Nhiều người hoặc đã rơi xuống hào, hoặc đã bị đồng đội của họ giẫm đạp tới chết hoặc bị người Macedonia bắn từ trên cao. Cuộc tàn sát đẫm máu nhất xảy ra ở cổng thành, nơi đã vội vã đóng cửa thành trong nỗi sợ hãi mù quáng về việc quân Macedonia sẽ bám gót những kẻ tháo chạy; chính những người bảo vệ đã không cho một số lượng lớn chiến hữu của họ vào thành, và số này sau đó đã bị quân Macedonia chém giết ngay dưới tường thành. Một lần nữa, thị trấn gần như đã lọt vào tay Alexander; nhưng ngay cả khi dùng tới biện pháp cực đoan như thế này, ngài vẫn muốn cứu lấy nó, chỉ cần thần dân ở đây đưa ra bất kỳ một dấu hiệu thương lượng nào. Bởi vậy, Alexander đã kêu gọi dừng cuộc đột kích.
Trong trận chiến này, Halicarnassus thiệt hại khoảng 1.000 người, Alexander khoảng 40 người, trong số đó có Ptolemy, thủ lĩnh vệ binh hoàng gia, Clearchus trong vai trò chỉ huy đội cung thủ, Addaeus, một chiliarch – hay còn được gọi là chỉ huy tiểu đoàn – và một số người Macedonia nổi tiếng khác.
Những thủ lĩnh Ba Tư, Orontobates và Memnon lúc đó đã gặp gỡ để thảo luận về tình huống này. Rõ ràng là trong những điều kiện hiện tại, việc kéo dài hơn nữa tình trạng không chịu nhượng bộ là không khả thi; một phần tường thành đã hoàn toàn đổ vỡ, những phần khác bị tàn phá nghiêm trọng, và trong những đợt phá vây gần nhất, họ đã thiệt hại nặng nề, nhiều người hoặc đã bị giết hoặc đã không thể tiếp tục chiến đấu do bị thương. Bởi vậy, vào khoảng nửa đêm, họ đã đốt nhà kho cùng với pháo đài bằng gỗ vốn được xây dựng để chống lại đợt tấn công của quân Macedonia. Những ngôi nhà ở
gần tường thành cũng bị đốt, trong khi những ngọn lửa từ pháo đài và các nhà kho đang cháy dữ dội đã theo hướng gió lan sang các tòa nhà khác. Tàn quân rút lui tới Arconnese, một thành lũy trên đảo, và vùng đất cao được gọi là Salmakis.
Những sự kiện này đã được một vài người Halicarnassus đào tẩu sau cuộc chiến báo cáo cho Alexander; bởi vậy, khi ngọn lửa bắt đầu lan rộng trước mắt ngài, bất chấp thực tế là đã gần nửa đêm, ngài hạ lệnh cho quân lính dưới quyền giết tất cả những người có hành vi đốt nhà. Ngược lại, bất kỳ cư dân thị trấn nào được tìm thấy trong nhà đều được cứu khỏi đám cháy.
Ánh sáng ban ngày đã làm lộ những chỗ chiếm đóng của quân Ba Tư và lính đánh thuê của Salmakis và Arconnese. Tuy nhiên, Alexander đã quyết định không bao vây những thành lũy này, vì thực tế là quân đội của ngài sẽ gặp nhiều trở ngại, trong khi ngài cũng sẽ mất nhiều thời gian với thị trấn vừa mới chiếm cứ được. Bao vây họ chẳng mang lại cho ngài bất cứ lợi thế lớn nào. Bởi vậy, ngài cho chôn cất những người đã bị giết trong cuộc chiến tối hôm trước, ra lệnh cho đội quân chịu trách nhiệm đột kích tiến tới Tralles, và sau đó san bằng thị trấn. Để thành lập đơn vị đồn trú ở nơi này, cùng với phần còn lại của Caria, Alexander đã để lại một lực lượng khoảng 3.000 bộ binh – lính đánh thuê – và khoảng 2.000 kỵ binh dưới quyền chỉ huy của Ptolemy. Sau đó, ngài chuẩn bị cho việc đi tới Phrygia.
Alexander đã tôn Ada, con gái của Hecatomnus lên làm người cai trị toàn bộ Caria. Người phụ nữ này là vợ của Hidrieus – và cũng chính là chị gái của ông, một mối quan hệ theo đúng phong tục của Caria; Hidrieus, người đã mất trên giường bệnh, đã trao lại quyền lực của mình cho Ada, và việc một người phụ nữ cai trị một vùng đất cũng không phải là điều xa lạ ở châu Á trong thời đại của Semiramis trở về trước.[119] Sau này, Ada bị Pixodarus phế truất, cướp lấy quyền lực; vị trí này sau khi Pixodarus mất đã được Orontobates, con rể của ông, tiếp quản theo chỉ định của Nhà vua. Khi Alexander xâm lược Caria, Ada lúc đó chỉ là chủ nhân của Alinda, một trong những nơi được phòng vệ tốt nhất ở Caira. Bà đã đích thân trình diện trước Alexander, giao nộp thị trấn, và đề nghị nhận ngài là con nuôi. Alexander đã không khước từ đề nghị này. Ngài đem Alinda trao lại cho bà, và khi Alexander trở thành chủ nhân của Caria cùng với việc Halicarnassus thất thủ, ngài đã đặt toàn bộ mảnh đất này dưới sự cai trị của bà.
Có một số lượng lớn những người Macedonia phục vụ cho cuộc chinh phạt chỉ mới vừa kết hôn khi cuộc viễn chinh bắt đầu. Cảm thấy cần phải quan tâm tới những người lính này, Alexander đã thải hồi họ ở Caria, gửi họ về quê nhà để có một mùa đông với những người vợ của họ; những người này đã được giao phó cho Ptolemy, con trai của Seleucus, một thủ lĩnh của
vệ quân Hoàng gia, và hai thủ lĩnh có vị trí cao khác: Coenus, con trai của Polemocrates, và Meleager, con trai của Neoptolemus – cả hai người này được chọn vì chính họ cũng là những người vừa mới kết hôn. Chỉ thị của các tướng lĩnh đưa ra là gia tăng việc tuyển mộ kỵ binh và bộ binh trong phạm vi rộng nhất có thể, hợp nhất những người này với đội quân hiện đang ở dưới quyền chỉ huy của họ. Không hành động nào của Alexander khiến ông được quân đội Macedonia yêu quý hơn hành động này.
Cùng lúc đó, Alexander đã cử Cleander, con trai của Polemocrates, tuyển thêm quân ở Peloponnese, trong khi Parmenio được phái đi Sardis cùng với một lực lượng bao gồm một trung đoàn Chiến hữu, kỵ binh Thessaly, những đạo quân đồng minh khác và những xe ngựa chở hành lý. Mệnh lệnh của ngài là tiến quân từ Sardis tới Phrygia. Đích thân Alexander đã hành quân tới Lycia và Pamphylia để thiết lập sự kiểm soát với bờ biển và khiến hạm đội của kẻ thù không thể di chuyển được. Trên đường đi, nơi đầu tiên mà ngài chiếm đóng là một thị trấn vững chãi của Hyparna; nó được canh giữ bởi một đơn vị đồn trú của lính đánh thuê, nhưng trước đề nghị đình chiến, họ đã bỏ thành lũy và đầu hàng. Không có một cuộc chiến nào hết. Khi tới Lycia, Alexander đã tiếp quản Telmissus, cư dân ở đó đã không chống lại ngài. Sau đó, ngài đã băng qua Xanthus và chấp thuận sự quy phục của Pinara, Xanthus, Patara và khoảng 30 khu vực nhỏ khác.[120]
Lúc này đã vào giữa mùa đông, và lần di chuyển tiếp theo của Alexander là tới Milyas – nơi trên thực tế thuộc về vùng Phrygia lớn (Greater Phrygia) nhưng vào giai đoạn đó lại được cho là một phần của Lycia[121]theo mệnh lệnh của vua Ba Tư. Ở đây, Alexander đã gặp những đại diện từ Phaselis, tới dâng tặng cho ngài mũ miện vàng và đề nghị kết giao. Các đề nghị tương tự từ khu vực rộng lớn hơn của vùng hạ Lycia cũng được đưa ra. Alexander đã đáp lời các sứ thần tới từ Phaselis, cũng như từ Lycia, rằng hãy giao nộp thị trấn của họ cho những chủ nhân xứng đáng hơn, điều đã được thực hiện một cách thích đáng trong mọi trường hợp. Ngay sau đó, ngài đích thân đi tới Phaselis và giúp cư dân thị trấn hạ một pháo đài mà người Pisidia xây dựng gần đó như một căn cứ để từ đó quấy nhiễu Phaselis – và người Pisidia đã thực sự quấy phá họ, những người lao động ở trên bờ thường xuyên chịu tổn thất nặng nề bởi những đợt đột kích của Pisidia.
Trước khi Alexander hoàn thành công việc với Phaselis, ngài đã được báo cáo về sự phản bội của Alexander, con trai của Aeropus. Người này là một trong những Chiến hữu của ngài, những người có mối liên hệ gần gũi với Nhà vua, và đồng thời, là chỉ huy của kỵ binh Thessaly; ông cũng là anh trai của Heromenes và Arraabacus, cả hai kẻ dính líu tới vụ ám sát vua Philip. [122] Về vụ ám sát vua cha, Alexander, bất chấp bằng chứng hiển nhiên
chống lại người cùng tên với ngài, đã không truy cứu y, vì y là một trong những người đầu tiên ủng hộ ngài sau cái chết của vua Philip, hộ tống ngài tới cung điện, và vũ trang cho ngài như chủ nhân của y; sau đó, Alexander đã trao cho y một vị trí danh dự trong đoàn tùy tùng riêng của ngài, cử y tới chỉ huy những cuộc hành quân ở Thrace, và cuối cùng là chỉ định y làm thủ lĩnh của kỵ binh Thessaly thay cho Calas, người đã được bổ nhiệm cai trị một vùng đất.[123]
Âm mưu đã được tiết lộ cho Alexander trong ngày hôm sau. Amyntas, người đã trốn sang quân Ba Tư, đã mang những đề nghị viết tay từ người đồng đội, Alexandros (từ đây tôi sẽ gọi ông ta như vậy) tới Darius. Do đó, Darius đã gửi tới bờ biển một cận thần đáng tin cậy trong đám tùy tùng của ông ta, tên là Sisines, bề ngoài tỏ vẻ là viếng thăm Atizyes, xatrap của Phrygia, nhưng thực tế là để liên lạc với Alexandros, và hứa hẹn sẽ giao ngai vàng của Macedonia và 1.000 ta-lăng vàng nếu gã ám sát thành công Alexander. Tuy nhiên, Sisines, khi rơi vào tay của Parmenio, đã tiết lộ mục đích thực sự trong nhiệm vụ của ông ta, và được bảo vệ để đưa tới chỗ của Alexander để thuật lại toàn bộ câu chuyện. Alexander đã tập hợp những người bạn của ngài để thảo luận về tình huống này, và những thành viên của đội Chiến hữu được ngài tin tưởng nhất đã thể hiện quan điểm cho rằng trước hết, thật sai lầm khi để một chỉ huy không đáng tin cậy lãnh đạo trung đoàn kỵ binh xuất sắc nhất, và ngài lúc này nên đưa ra quyết định nhanh chóng, trước khi Alexandros bắt tay với quân Thessaly và nổi loạn. Hơn nữa, một dấu hiệu đáng ngại đã làm gia tăng mối lo âu của họ; sự kiện này xảy ra khi trong cuộc vây hãm Halicarnassus, Alexander đang ngủ trưa thì bỗng có một con chim nhạn bay lượn vòng trên đầu ngài, kêu thất thanh như báo hiệu một điềm không lành, và đậu ở nhiều chỗ trên giường ngủ của ngài.
Alexander quá mệt mỏi để thức dậy đúng lúc đó, nhưng tiếng ồn ào mà con chim nhạn gây ra đã làm phiền ngài, ngài đã dùng tay xua đuổi nó đi nhưng không được. Con chim không hề sợ hãi, nó cứ bay tới rồi đậu trên đầu của Alexander, và không hề động đậy cho tới khi ngài hoàn toàn tỉnh giấc.
Cho rằng dấu hiệu này chẳng mấy quan trọng, nhưng Alexander vẫn thông báo cho nhà tiên tri Aristander của Telmissus, người đã khẳng định rằng điều đó báo trước về sự phản bội của một người bạn; và ngoài ra, âm mưu sẽ bị bại lộ, vì chim nhạn là loài chim thân thiện với con người và hay bép xép quá mức.
Điều này rõ ràng chứng thực cho câu chuyện của Sisines; nên nhà vua đã cử con trai của Alexander, Amphoterus (anh trai của Craterus) tới chỗ Parmenio, cùng với một vài người bản địa Perga để hành động theo kế hoạch. Để tránh bị nhận ra trong suốt hành trình, Amphoterus đã khoác trang
phục của người bản địa, và đã tới được chỗ Parmenio mà không bị phát giác; Amphoterus không có một chỉ thị viết tay nào vì Alexander cảm thấy trong một sự việc kiểu này, việc giao phó bất cứ tài liệu viết tay nào cũng sẽ rất nguy hiểm – ngài chỉ đưa ra chỉ thị bằng miệng. Theo cách này, Alexandros đã bị bắt và tống giam.
Lúc này Alexander đã rời Phaselis. Ngài đã cắt cử một phần lực lượng vượt qua những ngọn núi tới Perga, dọc những con đường mà người Thrace đã làm cho ngài để hành trình dài và gian khổ được thuận tiện hơn. Alexander cùng với những đội quân đã được lựa chọn hành quân dọc bờ biển, một con đường chỉ có thể đi qua được vào mùa gió bắc – còn vào mùa gió nam thì không thể đi qua bờ biển này. Đã có những đợt gió nam thổi mạnh trước khi ngài bắt đầu; nhưng (nhờ ơn Thần linh, như Alexander và tùy tùng của ngài đã cảm thấy) ngọn gió đã chuyển sang hướng bắc và khiến việc di chuyển trở nên nhanh chóng và dễ dàng.[124] Tiến quân từ Perga, ngài đã gặp những sứ thần từ Aspendus, những người giao nộp thị trấn nhưng đồng thời nài xin ngài không đặt bất cứ một đội quân đồn trú nào ở đó. Về quân đồn trú, Alexander để họ toại nguyện; nhưng ngài yêu cầu thị trấn nên đóng góp 50 ta-lăng để trả lương cho lính và bàn giao lại tất cả số ngựa được chăn thả ở đây vốn là đồ cống nạp cho Darius.[125] Cả hai yêu cầu này đều được đồng ý, và những phái viên này được trở về nhà.
Mục tiêu tiếp theo là Side, một thị trấn mà dân ở đó có nguồn gốc từ Cyme ở Acolia. Họ có một truyền thống là khi những người đến lập nghiệp từ Cyme đã chèo thuyền tới đó và đổ bộ, tìm kiếm một quê hương mới, họ đã nhanh chóng lãng quên nguồn gốc Hy Lạp của mình và bắt đầu nói chuyện bằng ngôn ngữ nước ngoài – không phải thứ ngôn ngữ của những cư dân ở vùng lãnh thổ đó mà là một thứ phương ngữ hoàn toàn mới của riêng họ; và kể từ đó, người Side vẫn luôn là những người nước ngoài, xa lạ về ngôn ngữ, cũng như mọi thứ khác, đối với những cư dân sống ở các khu vực lân cận.
Alexander đã để một nhóm binh lính chiếm đóng Side và sau đó, tiến tới Syllium, một thị trấn vững chãi đã được lính đánh thuê và quân đội bản địa nắm giữ. Tuy vậy, ngài không thể chiếm lấy nơi này bằng cách đột kích mà không có những đợt vây hãm như thường lệ, và trên thực tế, cùng với bản báo cáo mà ngài đã nhận được trên đường hành quân, ngài đã quyết định quay trở lại Aspendus. Bản báo cáo cho biết rằng người Aspendus đã nuốt lời; họ đã từ chối bàn giao số ngựa cho chủ nhân xứng đáng hơn và không chịu trả tiền; hơn nữa, họ đã mang những tài sản có thể vận chuyển được vào trong những chốt phòng vệ của thị trấn, đóng cổng thành, chống lại quân của Alexander, và đã làm những việc cần thiết để củng cố tường thành.
Phần chính của thị trấn Aspendus được xây dựng trên một ngọn đồi dốc và dễ dàng phòng vệ, nền của nó đã bị sông Eurymedon làm rỗng. Cũng có một số ngôi nhà nằm trên vùng đất bằng xung quanh thành lũy chính này, tất cả đều được rào quanh trong một bức tường không cao lắm. Bức tường này, cùng với tất cả những ngôi nhà trên đất bằng dường như không thể nắm giữ được, đã bị cư dân vùng này bỏ lại khi họ biết Alexander đang tới. Họ đã vội vã rút lui và lẩn trốn trong vùng trung tâm vững chãi trên ngọn đồi. Ngay khi tới thị trấn, Alexander đã dẫn quân của ngài đi vào phía bên trong của thành lũy ngoài – lúc đó đã không còn được phòng vệ – và đóng quân tại những ngôi nhà bỏ hoang này.
Sự xuất hiện của Alexander và cảnh tượng quân đội của ngài bao vây thị trấn đã khiến nhiều cư dân ở đây hoảng sợ: họ đã cử đại diện tới gặp và nài xin ngài cho phép họ được làm theo những thỏa thuận cũ. Tuy nhiên, bất chấp thực tế rằng Aspendus rõ ràng là một thành lũy vững chãi và bản thân ngài không hề chuẩn bị cho một cuộc vây hãm kéo dài, Alexander đã khước từ yêu cầu của họ; ngài hạ lệnh, ngoài số ngựa mà họ đã hứa bàn giao từ trước, họ sẽ phải giao nộp 100 ta-lăng thay vì 50 như trước đây và phải giao nộp những người đứng đầu cộng đồng này làm con tin; ngoài ra, họ còn phải tuân theo người cai trị mới do đích thân Alexander chỉ định, nộp đồ cống nạp hằng năm cho Macedonia, và phải đệ trình một cuộc thẩm vấn về quyền sở hữu hợp pháp mảnh đất mà họ bị buộc tội là đã chiếm đoạt bằng vũ lực, khi nó vốn là tài sản sở hữu của các dân tộc láng giềng.
Khi sự vụ này được dàn xếp theo ý ngài, Alexander đã tiến quân tới Perga, và từ đó, hành quân qua Telmissus, tới Phrygia.[126] Cư dân của Telmissus thuộc chủng tộc của người Pisidia châu Á; thị trấn ngự trên một vùng đất cao và dốc, con đường dẫn tới đó khá bất tiện, vì một sườn núi đổ xuống thẳng đứng từ thị trấn phía trên, cắt đứt con đường ở chân núi, trong khi đối diện với nó, ở phía bên kia, là một khu đất trồi lên với một độ dốc tương đương. Hai vách đá đã hợp thành một kiểu cổng vào tự nhiên ở lối đi, nên chỉ một lực lượng khá mỏng cũng có thể ngăn chặn kẻ thù bằng cách chiếm cứ vùng đất cao. Và điều này chính xác là những gì người Telmissus đã làm: họ đã chiếm cứ vùng đất cao ở cả hai bên đường vào thành, và dàn quân với tất cả lực lượng sẵn có. Do đó, Alexander đã hạ lệnh dừng chân. Ngài tiên liệu rằng khi quân địch thấy quân đội của ngài đóng quân qua đêm, họ sẽ không còn bày binh bố trận ở đường vào thành nữa mà sẽ rút phần lớn lực lượng của họ vào thị trấn ở gần đó, chỉ để lại một nhóm binh lính trên các ngọn đồi để canh chừng. Dự đoán của ngài đã hoàn toàn chính xác: phần đông lực lượng địch đã rút lui, chỉ để lại đơn vị tiền đồn. Alexander sau đó đã giáng một đòn tấn công mạnh mẽ cùng với một lực lượng bao gồm cung thủ, những tiểu đoàn đánh giáo, và nhiều bộ binh hơn. Lực lượng mỏng ở trên
đồi, không thể chống đỡ được sức công phá của đợt tấn công, liền rời bỏ vị trí, trong khi Alexander đã băng qua con đường hẹp, chiếm lấy cứ điểm mới gần thị trấn.
Trong lúc đó, những đại diện từ thị trấn lớn của Selga tới xin tiếp kiến Alexander. Cư dân của vùng này cũng là người Pisidia châu Á – và là những người lính thiện chiến. Họ là những kẻ thù cũ của Telmissus, và mục đích của họ là đề nghị Alexander cho phép họ được hỗ trợ ngài. Alexander đã chấp nhận đề nghị này, và từ thời điểm đó, ngài nhận thấy họ đáng tin trên mọi phương diện.
Cho rằng không thể hạ được thị trấn Telmissus mà không có một cuộc bao vây kéo dài, Alexander tiến quân tới Sagalassus, một khu vực khác rộng lớn tương đương và cũng giống như Telmissus, thuộc dòng dõi những người Pisidia. Người Pisidia đều là những người lính thiện chiến, và người Sagalassus nổi bật ngay cả giữa một dân tộc chiến binh như vậy. Họ đã đóng quân ở vùng đất cao phía trước thị trấn, một vị trí tốt cho việc phòng vệ không kém những bức tường thành, và chờ đợi cuộc đột kích của quân Macedonia. Ở phía cánh phải của mũi tấn công là sư đoàn vệ quân dưới quyền chỉ huy của Alexander. Sát cánh với họ là những tiểu đoàn bộ binh, hình thành nên toàn bộ trung tâm của phòng tuyến và được chỉ huy bởi nhiều tướng lĩnh. Cánh trái được Alexander giao phó cho Amyntas, con trai của Arrabaeus. Phía trên cánh phải, ngài đã bố trí đội cung thủ và quân Agrianes, trong khi cánh trái đã được che chắn bởi những tiểu đoàn đánh giáo Thrace do Sitalces chỉ huy. Kỵ binh không được sử dụng trong trận này vì địa thế không phù hợp. Về phía quân địch, họ đã nhận được viện quân từ Telmissus, những người đã đưa ra đề nghị hỗ trợ.
Khi quân của Alexander tới khu vực dốc nhất của con đường đi tới cứ điểm của người Pisidia trên ngọn đồi, họ đã bị những toán lính nhỏ tấn công ở cả hai cánh. Quân địch đã tận dụng được lợi thế địa hình, tấn công quyết liệt và khiến quân của Alexander rất khó đáp trả; trong dịp này, họ giành được thắng lợi cục bộ vì đã đẩy lui được nhóm cung thủ, những người dẫn đầu cuộc đột kích và chỉ được trang bị sơ sài. Tuy nhiên, quân Agrianes, khi nhìn thấy những sư đoàn bộ binh cùng với Alexander đang tới gần, đã kiên quyết không rút lui. Một cuộc chiến giáp lá cà nổ ra; người Pisidia, không hề mặc giáp bảo vệ, phải đương đầu với bộ binh hạng nặng với đầy đủ quân trang; hệ quả là họ đã bị thiệt hại nặng nề và nhất loạt tan vỡ. Khoảng 500 người đã thiệt mạng; chỉ có một vài người bị bắt, vì quân Pisidia được trang bị nhẹ nhàng và hiểu rõ về địa thế nên đã trốn thoát dễ dàng; trong khi đó, quân Macedonia được trang bị giáp nặng và không hiểu biết gì về vùng đất, nên không có ai quá hăm hở truy đuổi quân địch. Tuy vậy, Alexander vẫn truy đuổi những kẻ trốn thoát và đột chiếm thị trấn. Cleander, người chỉ huy
của cung thủ, đã thiệt mạng trong đợt tấn công này cùng với khoảng 20 người khác.
Sau đó Alexander đã tiếp tục tấn công những cộng đồng người Pisidia khác; ngài đã chiếm được một vài nơi bằng cách đột kích, còn một số nơi khác đã đầu hàng mà không kháng cự gì.
Đợt tiến quân tiếp theo của Alexander là tới Phrygia. Đường hành quân của ngài đi qua hồ Ascania – nơi dân cư các khu vực lân cận vẫn tới để lấy muối tự nhiên, nên họ không phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp ở biển. Năm ngày sau, ngài đã tới Celaenae.
Thị trấn của Celaenae là một thành trì cao, dốc, được canh giữ bởi 1.000 lính Caria và 100 lính đánh thuê Hy Lạp, những người nhận lệnh từ chính quyền Ba Tư của Phrygia. Đơn vị đồn trú ở đây đã đưa ra một đề nghị với Alexander: họ hứa sẽ giao nộp thành trì với điều kiện không có một viện quân nào tới đây vào ngày hôm đó – ngày giao nộp thành sẽ do họ quyết định; và dường như chấp thuận điều này thì có lợi hơn cho Alexander so với việc bao vây một thành trì có địa thế không thể tấn công như vậy. Do đó, ngài đã để lại một lực lượng khoảng 1.500 người để quan sát thị trấn, và chờ đợi ngày hành quân tới Gordium. Trước khi rời đi, Alexander đã chỉ định Antigonus, con trai của Philip, là người cai trị Phrygia, và thăng chức cho Balacrus, con trai của Amytas, làm chỉ huy đội quân đồng minh thay cho Antigonus.[127] Về phía Parmenio, ngài cho triệu kiến ông cùng với toàn bộ quân do ông chỉ huy tại Gordium – và mệnh lệnh được thực thi kịp thời. Những binh lính Macedonia vừa mới kết hôn, những người đã được gửi về quê nhà, cũng sẽ tái nhập tại Gordium với những đội quân mới được tuyển mộ – 3.000 bộ binh Macedonia và khoảng 300 kỵ binh, 200 kỵ binh Thessaly và 150 người từ Elis, dưới quyền chỉ huy của Alcias. Việc chỉ huy toàn quân do Ptolemy, con trai của Seleucus; Coenus, con trai của Polemocrates; và Meleager, con trai của Neoptolemus, đảm nhiệm.
Gordium thuộc vùng Hellespontine Phrygia; thị trấn nằm bên cạnh sông Sangarius, bắt nguồn từ Phrygia, chảy qua Bithynian Thrace rồi đổ vào biển Đen. Trong suốt thời gian Alexander lưu lại đây, đã có nhiều sứ thần từ Athens tới tiếp kiến ngài với thỉnh cầu trả tự do cho những tù nhân chiến tranh Athens, những người đã bị bắt trong cuộc chiến Granicus và lúc đó đang bị giam cầm tại Macedonia cùng với khoảng 2.000 tù nhân khác. Dù thế nào, trong thời điểm đó, thỉnh cầu này đã không được chấp thuận, và các sứ thần đã bị ép buộc phải trở lại quê hương dù chưa hoàn thành nhiệm vụ. Bởi vì, Alexander nhận thấy rằng trong khi cuộc chiến chống lại người Ba Tư vẫn đang tiếp diễn, sẽ là nguy hiểm nếu ngài nới lỏng dây cương, khoan thứ cho bất kỳ người Hy Lạp nào, những người đã đồng ý chiến đấu cho kẻ
thù, chĩa mũi giáo chống lại quê hương mình. Tuy vậy, ngài nói với các sứ thần Athens rằng họ nên gặp ngài vào một dịp khác để bàn về vấn đề này, khi tình huống trở nên dễ chịu hơn.[128]
Quyển Hai
Sau những sự kiện như đã được thuật lại, đảo Chios đã rơi vào tay của Memnon, người được Darius trao quyền chỉ huy tối cao hải quân Ba Tư và chịu trách nhiệm phòng thủ toàn bộ bờ biển châu Á. Mục đích trong lần hành động này của Memnon là hy vọng làm chệch hướng cuộc chiến tranh sang phía người Hy Lạp và Macedonia. Sau đó, ông đã giong buồm tới Lesbos, và tự biến mình thành chủ nhân của tất cả các thị trấn trên đảo ngoại trừ Mitylene, nơi cư dân đã khước từ việc thết đãi Memnon. Do đó, ông đã đổ bộ lên Mitylene và phong tỏa nó bằng một hàng rào kép; thêm vào đó, Memnon còn cho xây dựng 5 lô cốt, và nhờ đó, ông có thể kiểm soát thị trấn không mấy khó khăn. Một phần hạm đội của Memnon có nhiệm vụ canh giữ cảng biển; ông gửi những tàu thuyền khác tới mũi đất của Sigrium,[129]nơi cập bến thường xuyên của những thương nhân đến từ Chios, Gerastus, Malea, và nhờ đó có thể quan sát bờ biển và ngăn chặn bất kỳ một đợt xâm nhập vào Mitylene nào từ đường biển.
Tuy vậy, trước khi Memnon hoàn thành nhiệm vụ, ông đã lâm bệnh và qua đời. Sự ra đi của ông là bước lùi nghiêm trọng nhất mà người Ba Tư trải qua trong suốt cuộc chiến này.
Memnon trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời – khi đang chờ đợi quyết định kế tiếp của Darius – đã giao phó quyền chỉ huy của ông cho cháu trai là Pharnabazus, con trai của Artabazus; Pharnabazus và Autophradates cũng đã tiếp tục tiến hành cuộc vây hãm một cách quyết liệt. Cư dân Mitylene, khi nhận thấy họ đã bị phong tỏa ở nội địa và bị một hạm đội mạnh bao vây, đã tới gặp Pharnabazus. Trước hết, họ đồng ý tống khứ những đội quân đánh thuê mà Alexander cử tới để chiến đấu vì họ; thứ hai là hủy bỏ hiệp ước mà họ đã giao kết với Alexander[130]và chấp nhận liên minh với Darius theo những điều khoản về hòa bình của Antalcidas;[131]và cuối cùng là cho phép những người bị trục xuất quay trở lại và nhận lại quyền sở hữu một nửa số tài sản trước kia của họ. Những điều khoản này đã được chấp thuận; nhưng Pharnabazus và Autophradates sau khi đã vào được bên trong thị trấn đã xây dựng một đơn vị đồn trú dưới sự chỉ huy của Lycomedes của Rhodes và giao cho một người trong nhóm bị trục xuất là Diogenes nắm quyền chỉ huy chung. Đồng thời, họ đã ép buộc cư dân thị trấn phải đóng góp một khoản tiền, một phần được lấy từ những người giàu có, phần còn lại được lấy từ thuế chung. Sau đó, Pharnabazus đã giong buồm tới Lycia cùng với những đội lính đánh thuê, còn Autophradates đi tới những hòn đảo khác.
Trong lúc đó, Darius đã cử Thymondas, con trai của Mentor, tìm kiếm những lính đánh thuê do Pharnabazus phụ trách, và chính thức hạ lệnh để Pharnabazus tiếp quản quyền chỉ huy của Memnon. Bởi vậy, những lính
đánh thuê đã được chuyển tới cho Thymondas,[132]còn Pharnabazus đã tái nhập với Autophradates và hạm đội. Họ đã cử 10 tàu, do một người Ba Tư tên là Datames chỉ huy, tới những hòn đảo Cyclades. Sau đó, cùng với một đội tàu một trăm chiếc, họ tới Tenedos, thả neo ở một nơi gọi là cảng biển phía Bắc. Họ đã yêu cầu cư dân trên đảo hủy bỏ những giao ước với Alexander và người Hy Lạp, tuân thủ những điểu khoản Hòa bình của Antalcidas, những điều khoản mà những cư dân này đã chấm dứt với người Ba Tư.
Mong muốn của cư dân Tenedos không có gì hơn ngoài việc được tiếp tục duy trì giao ước với Alexander và người Hy Lạp; nhưng trong tình huống này, họ bị ép buộc phải tin rằng hy vọng an toàn duy nhất của họ là chấp thuận những điều khoản của người Ba Tư; hơn nữa không thể trông cậy vào Hegelochus, vì cho dù ông có thể xin Alexander tập hợp hạm đội một lần nữa thì ông cũng không có đủ lực lượng để giải vây.[133] E sợ việc bị Pharnabazus và quân lính của ông bao vây, người Tenedos đã đầu hàng, đi ngược lại mong ước thực sự của mọi người.
Trong thời gian đó, Proteas, con trai của Andronicus, nhận lệnh từ Antipater, đã tập hợp một số lượng tàu chiến từ Euboea và vùng Peloponnese để bảo vệ bờ biển Hy Lạp và những hòn đảo trong trường hợp người Ba Tư tấn công bằng đường biển, điều mà theo tin tức cấp báo là chắc chắn sẽ xảy ra. Khi có tin báo rằng Datames đã rời khỏi Siphnos với một đội gồm mười con tàu, Proteas cùng với mười lăm con tàu của riêng ông đã tới Chalcis thuộc Euripus trong đêm tối. Vào lúc rạng đông, Proteas đã tới đảo Cythnus, và suốt một ngày dài, ông thả neo ở đây nhằm tìm kiếm thêm thông tin về mười tàu địch, đồng thời tìm kiếm cơ hội tấn công các thủy thủ Phoenicia với sức công phá mạnh mẽ hơn trong đêm tối. Ngay khi loại bỏ được tất cả nghi ngờ về sự hiện diện của Datames tại Siphnos, Proteas đã xuất kích trước rạng đông, trong khi trời vẫn còn tối, và tung ra một đợt tấn công bất ngờ, bắt giữ được tám trên mười tàu địch cùng với đoàn thủy thủ. Datames đã bỏ chạy cùng với hai tàu chiến và sau đó tái nhập vào phần còn lại của hạm đội.
Quay trở lại với Alexander tại Gordium xứ Phrygia. Luôn luôn bị thôi thúc phải tận mắt chiêm ngưỡng cỗ xe Gordius và xem kỹ nút thắt của sợi thừng kỳ diệu buộc trên cỗ xe, Alexander đã dẫn đoàn tùy tùng tới vệ thành, thăm cung điện của Gordius và con trai ông là Midas. Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng khi Gordius sống ở Phrygia, ông chỉ là một kẻ nghèo khó, tài sản chỉ có hai cái ách buộc bò và một mảnh đất nhỏ để trồng trọt. Một cái ách được ông dùng để cày bừa, còn một cái thì ông dùng cho cỗ xe của mình. Một ngày nọ, khi Gordius đang làm việc, một con chim đại bàng đậu trên cái ách cày và ở đó cho đến khi hai con bò được tháo ách và kết thúc ngày lao động.
Goridus rất băn khoăn và tìm tới những nhà tiên tri Telmissus để hỏi xem dấu hiệu đó dự báo điều gì – vì người Telmissus rất giỏi trong việc giải mã bí mật của thần linh, phụ nữ, trẻ em, cũng như những người đàn ông vùng này đều được thừa hưởng khả năng tiên tri đó. Gần khu làng thuộc sở hữu của những người này, Gordius gặp một người phụ nữ đang kéo nước; ông đem kể cho cô ta câu chuyện về con đại bàng, và cô ta, vốn thuộc dòng dõi của các nhà tiên tri, khuyên Gordius nên trở về nơi ông nhìn thấy dấu hiệu, làm lễ tạ ơn thần Zeus, Chúa tể của các vị thần. Gordius thuyết phục cô đi cùng ông và chỉ cho ông cách thực hiện một nghi lễ. Ông đã làm như cô nói, và sau đó, kết hôn với cô, sinh được một người con trai, đặt tên là Midas.
Khi Midas lớn lên và trở thành một chàng trai anh tuấn, đã có xung đột xảy ra giữa những người Phrygia. Một nhà tiên tri nói với họ rằng vị vua của họ, người có thể chấm dứt những tranh cãi, sẽ được một cỗ xe mang tới. Trong lúc họ vẫn đang tranh cãi xem nên làm điều gì với lời sấm truyền này, Midas cùng với cha mẹ đang cưỡi trên một cỗ xe và dừng chân đúng tại nơi những người Phrygia đang bàn bạc. Nhận thấy điều đó hoàn toàn phù hợp với lời sấm truyền, người Phrygia quyết định đây chính là người đàn ông ở trên cỗ xe mà thần linh đã báo trước cho họ. Bởi vậy, họ đã tôn Midas lên làm vua. Ngài đã giải quyết những tranh cãi của họ và đặt cỗ xe của thân phụ lên vệ thành như một lời tạ ơn thần Zeus, Chúa tể của các vị thần vì đã gửi chim ưng tới.
Cũng có một truyền thuyết khác về cỗ xe: theo lời sấm truyền, ai có thể mở được nút thắt cố định cái ách sẽ thì người đó sẽ trở thành bá chủ của châu Á.[134] Dây thừng được làm từ sợi của cây sơn thù du (cornel tree), và nút thắt được thắt chặt một cách khéo léo tới mức không ai có thể thấy được đâu là điểm bắt đầu, đâu là điểm kết thúc của nó. Với Alexander, việc làm sao để tháo được nút thắt này là một vấn đề nan giải. Ngài cảm thấy không hài lòng nếu vẫn để nút thắt lại như cũ, vì thất bại này của ngài chắc hẳn sẽ dẫn tới nhiều chuyện phiền phức. Những ghi chép về sự việc này cũng có nhiều điểm khác nhau: một vài ghi chép thuật lại rằng trong tình huống khẩn cấp đó, Alexander đã mạnh dạn tuốt thanh bảo kiếm, chặt đứt nút thắt và la to lên: “Ta đã gỡ được nó rồi”; Aristobulus lại cho rằng Alexander đã rút đinh ghim – một kiểu chốt bằng gỗ được bắt vít xuyên qua tay cầm của cỗ xe và giúp giữ chắc nút thắt – và nhờ đó, đã phá được nút thắt Gordius. Tôi không dám mạo muội võ đoán về vấn đề này. Tuy vậy, dù trong bất kỳ trường hợp nào, khi Alexander và đoàn hộ tống rời khỏi nơi để cỗ xe, có một cảm nhận chung là câu đố về nút thắt đã được giải và lời sấm truyền chắc chắn sẽ linh nghiệm. Đêm đó, ở Gordium, xuất hiện sấm chớp – một dấu hiệu nữa từ các vị thần; bởi vậy, Alexander, người tràn ngập niềm tin vào tất cả những dấu hiệu này, đã tiến hành tế lễ vào ngày hôm sau để cảm tạ các vị
thần và tuyên bố về việc gỡ được nút thắt Gordius.
Ngày hôm sau, Alexander bắt đầu hành quân tới Ancyra ở Galatia, nơi ngài gặp đại diện của những người Paphlagonia, những người bày tỏ mong muốn được thiết lập mối giao hảo với ngài, xin quy phục dưới quyền cai trị của ngài và van nài ngài không hành quân qua lãnh thổ của họ. Alexander đã hạ lệnh cho họ tuân phục Cales, người cai trị Phrygia,[135]và sau đó, tiến quân tới Cappadocia, nơi ngài nhận được sự quy phục của toàn bộ lãnh thổ giáp với sông Halys và của dải đất lớn xa hơn về phía tây và phía bắc. Bổ nhiệm Sabictas[136]làm người cai trị Cappadocia, Alexander tiến quân tới cổng thành Cilicia. Khi tới địa điểm mà Cyrus đã từng đóng quân cùng với Xenophon, ngài nhận thấy cổng thành rất kiên cố;[137]bởi vậy, Alexander đã để Parmenio ở lại đó cùng với bộ binh hạng nặng, còn ngài thì hành quân dưới sự che phủ của bóng đêm, đi tới cổng thành cùng với vệ quân và quân Agrianes, với mục đích tung ra một đợt tấn công bất ngờ vào lực lượng canh gác. Quả thực, quân địch đã quan sát thấy đợt tiến công của ngài; nhưng cuộc đột kích không vì thế mà kém thành công; chỉ riêng tin Alexander đích thân ra trận cũng đã khiến quân địch hoảng sợ. Họ đã bỏ lại các đồn bốt và tháo chạy. Rạng sáng hôm sau, Alexander đã vượt qua cổng thành với toàn bộ lực lượng và tiến vào Cilicia, nơi ngài được báo tin là Arsames đã từ bỏ mục đích ban đầu của ông ta là giữ Tarsus cho Ba Tư: có thể khi biết Alexander đã vượt qua Cổng thành, Arsames đã có ý định bỏ lại thị trấn; cư dân ở đây còn lo sợ rằng ông ta sẽ cướp phá khu vực này trước khi rời đi. Bởi vậy, Alexander đã đem theo kỵ binh và hầu hết đội quân lưu động nhất của bộ binh khinh giáp và dốc sức tiến quân nhanh nhất có thể. Trong khi đó, Arsames khi biết tin này đã không thể thực hiện được ý định vơ vét của cải ở thị trấn mà chỉ có thể tháo chạy càng nhanh càng tốt về phía cung điện của Darius.
Cũng trong khoảng thời gian này, Alexander đã lâm bệnh. Theo như ghi chép của Aristobulus, nguyên nhân bệnh tật của Alexander là do kiệt sức, nhưng những người khác thì cho rằng nguyên nhân của lần đau ốm này là do ngài đã nhảy xuống sông Cydnus để bơi trong lúc người đang đầm đìa mồ hôi. Sông Cydnus chảy qua Tarsus, và vì nó bắt nguồn từ cửa sông Taurus rồi chảy xuyên qua vùng đất trống nên nước sông Cydnus sạch và lạnh; hệ quả là Alexander đã bị co giật, kèm theo sốt cao và mất ngủ. Tất cả những thầy thuốc của ngài đều tuyệt vọng, ngoại trừ một người – Philip vùng Acarnania. Philip là người đã theo hầu Alexander và ông không chỉ là một thầy thuốc đáng tin cậy mà còn là một người lính thiện chiến. Trước tình trạng của vị vua trẻ, Philip đã dâng lên ngài một liều thuốc xổ. Alexander chấp nhận giải pháp này, và khi Philip đang chuẩn bị thuốc, ngài nhận được một mảnh giấy từ Parmenio: “Xin bệ hạ hãy cẩn trọng với Philip, thần được
báo tin rằng y đã bị Darius mua chuộc để đầu độc ngài.” Alexander đọc lời cảnh báo, và với mảnh giấy ở trong tay, ngài đón lấy chén thuốc rồi đưa mảnh giấy cho Philip. Trong khi Philip đang bận đọc xem mảnh giấy viết gì, Alexander đã nuốt luôn liều thuốc. Hiển nhiên là chẳng có gì không ổn với liều thuốc; Philip chẳng hề tỏ ra sợ hãi trước cảnh báo của Parmenio, mà đơn giản chỉ khuyên Alexander tiếp tục làm theo những chỉ dẫn của ông – bởi nếu nghe theo, ngài sẽ hồi phục. Liều thuốc có công hiệu và khiến Philip được tin yêu hơn trước. Cũng từ thời điểm đó, Philip hiểu rằng Alexander là người bạn đáng tin cậy của ông; điều này cũng là hiển nhiên đối với bất cứ ai biết về tính cách của ngài: một người có lòng tin bất di bất dịch vào bạn bè và có thể luôn bình thản trước cái chết.[138]
Sau đó, Alexander đã cử Parmenio đi tới những cổng thành khác nằm ở biên giới giữa Cilicia và Assyria.[139] Mệnh lệnh của Parmenio là chiếm giữ những vị trí cửa ngõ này cùng với những đội quân đã được giao phó cho ông – bộ binh đồng minh, lính đánh thuê Hy Lạp, quân Thrace do Sitalces chỉ huy và kỵ binh Thessaly. Alexander, rời khỏi Tarsus sau khi Parmenio rời đi, mất một ngày hành quân để đi tới Anchialus, một thị trấn được cho là do vua Sardanapalus của Assyria xây dựng. Dựa vào quy mô của những bức tường thành vây quanh và sự vững chãi của nền móng, có thể thấy rõ ràng Anchialus đã từng là một thị trấn lớn và đã dần có được một tầm quan trọng to lớn. Gần tường thành là lăng mộ của Sardanapalus, phía trên là bức tượng của ông trong tư thế một người đàn ông đang vỗ tay, với một lời khắc bằng chữ của người Assyria.[140] Theo người Assyria, lời khắc này được viết bằng thơ, nhưng dù là thơ hay không thì nghĩa chung của nó như sau: “Sardanapalus, con trai của Anakyndaraxes, đã xây dựng Tarsus và Anchialus trong một ngày. Hỡi người xa lạ, hãy ăn uống và chơi đùa, vì mọi thứ khác trong đời một người đàn ông đều không đáng giá bằng điều này”[141]– và “điều này” được hiểu là tiếng vỗ tay. Họ cũng nói rằng từ “chơi” là một uyển ngữ để ám chỉ một vài điều khác trong ngôn ngữ gốc của người Assyria.
Từ Anchialus, Alexander đã tiến quân tới Soli, nơi ngài đặt một đơn vị đồn trú và bắt thị trấn này phải nộp một khoản tiền phạt là 200 ta-lăng bạc vì đã dám hỗ trợ quân Ba Tư; sau đó cùng với ba tiểu đoàn bộ binh Macedonia, quân Agrianes, và toàn bộ cung thủ, ngài đã tiến đánh những cộng đồng của người Cilicia, những người đang chiếm cứ trên những quả đồi. Ngài đã chiếm được một vài nơi nhờ các đợt tấn công; một vài nơi đã đầu hàng; và trong vòng một tuần, Alexander trở lại Soli, nơi ngài nhận tin Ptolemy và Asander đã giành chiến thắng trước chỉ huy quân Ba Tư là Orontobates, người đang giữ vệ thành ở Halicarnassus cùng với các thị trấn của Myndus,
Caunus, Thera và Callipolis, đồng thời nắm quyền sở hữu Cos và Triopium. [142] Theo tin tức được truyền tới, Orontobates đã bị đánh bại trong một trận chiến lớn; ông ta đã thiệt hại khoảng 700 quân bộ và 50 quân kỵ, và ít nhất 1.000 quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Để ăn mừng chiến thắng này, Alexander đã làm lễ hiến tế Asclepius[143] và tổ chức một cuộc diễu binh kỷ niệm với toàn bộ lực lượng, theo sau là một cuộc chạy rước đuốc [a torch race] và những cuộc thi về âm nhạc, thơ ca và thể thao. Về thị trấn Soli, ngài cho phép cư dân nơi đây giữ chính quyền riêng của họ. Sau đó, Alexander khởi hành tới Tarsus và hạ lệnh cho kỵ binh tiến quân dưới quyền chỉ huy của Philotas, băng qua vùng đồng bằng Alea để tới sông Pyramus. Cùng với bộ binh và tiểu đội Kỵ binh Hoàng gia, ngài tiến quân tới Magarsus, và từ nơi đó, sau khi làm lễ tế thần Athena ở địa phương, ngài hành quân tới Mallus, nơi ngài đã thực hiện tất cả những nghi lễ hợp thức để vinh danh một vị á thần là Amphilochus. Sau đó, cũng ở nơi này, Alexander phát hiện ra một vài âm mưu chính trị đang được tiến hành và đã dàn xếp mọi chuyện ổn thỏa. Ngài cũng miễn cho người dân thị trấn này khoản cống nạp mà họ vẫn phải đóng cho Darius với lý do rằng Mallus là vùng đất của Argos, còn ngài lại chính là hậu duệ của Heracleidae, vùng Argos.
Alexander vẫn đang ở Mallus khi được tin Darius và toàn bộ quân Ba Tư đang ở Sochi, một nơi thuộc lãnh thổ Assyria, cách cổng thành Assyria khoảng hai ngày hành quân. Ngài đã tập hợp toàn bộ tướng lĩnh và thông báo với họ tin tức quan trọng này. Họ đã nhất trí về một cuộc tiến công ngay lập tức. Alexander tỏ lòng biết ơn tới toàn bộ tướng lĩnh và cho giải tán cuộc họp. Ngay ngày hôm sau, ngài tiến quân với mục đích tấn công rõ ràng. Sau hai ngày hành quân, quân đội của Alexander đã vượt qua cổng thành. Ngài chiếm cứ một vị trí ở gần Myriandrus, và trong suốt đêm đó, đã có một cơn mưa bão dữ dội đến mức ngài buộc phải ở lại đó và không có cơ hội để nhổ trại.
Trong lúc đó, Darius hoàn toàn không có mục đích rõ ràng cho việc tiến quân; ông đã chọn một khu vực thuộc Assyria, một nơi đất bằng và trống trải, làm cứ điểm. Địa thế này thuận lợi cho kỵ binh và phù hợp cho hoạt động của đại quân dưới quyền chỉ huy của ông. Amyntas, con trai của Antiochus, kẻ đã đào tẩu khỏi quân đội của Alexander, khuyên Darius không nên rời khỏi một nơi có địa thế tốt như thế, vì không gian rộng lớn này chính xác là những gì mà quân đội Ba Tư cần nhất. Darius làm theo lời khuyên của Amyntas, nhưng ngay sau đó, ông lại cảm thấy nghi ngờ khi không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của Alexander, người hẳn đã yếu đi vì nhiều lý do: trận ốm tại Tarsus, cuộc tổng duyệt binh, những nghi lễ đã được tiến hành tại Soli và
cuối cùng là cuộc viễn chinh chống lại những bộ tộc Cilicia cư trú trên những quả đồi. Hơn nữa, Darius luôn nghĩ rằng điều ông tìm thấy mới là đáng tin nhất, và vào dịp đó, những lời tán dương của những kẻ nịnh thần, như nó luôn luôn, và sẽ luôn luôn là nguyên nhân sụp đổ của mọi ông vua, đã khiến Darius tin rằng Alexander đã từ bỏ mong muốn tiến sâu hơn vào lục địa châu Á và chính việc ông, Darius – vua của Ba Tư, đích thân cầm quân đã khiến Alexander do dự. Một số người khác bắt đầu trách móc Darius vì đã khoác lác rằng kỵ binh Ba Tư sẽ chiến thắng quân đội Macedonia một cách dễ dàng và giẫm nát nó thành từng mảnh vụn.[144] Chỉ có Amyntas chống lại họ, khăng khăng khẳng định rằng Alexander sẽ truy đuổi Darius ở bất kỳ nơi nào mà Alexander biết vị vua Ba Tư đang ở đó, và cố gắng thuyết phục ông không thay đổi vị trí. Nhưng lời khuyên tồi hơn đã giành được ưu thế – bởi đó là những gì mà Darius muốn nghe vào thời điểm ấy; hơn nữa, chắc hẳn đã có một vài quyền lực siêu nhiên xui khiến Darius chuyển sang chiếm cứ một vị trí mà ông sẽ có được ít lợi thế hơn cả cho kỵ binh của ông lẫn cho tính ưu việt về số lượng và sức nặng về vũ khí của quân Ba Tư – một vị trí mà Darius không có cơ hội làm kinh ngạc quân địch với sự chói lòa từ đội quân vĩ đại của ông. Điều này thực chẳng khác nào trước khi bùng nổ cuộc đại chiến, Darius đã hai tay dâng chiến thắng cho Alexander và quân Macedonia. Định mệnh đã quyết định việc Macedonia sẽ giành được quyền bá chủ châu Á từ tay Ba Tư, như Ba Tư đã giành được nó từ tay người Media, và như người Media đã giành được nó từ tay những người Assyria.
Buông bỏ vùng đất có địa thế hết sức thuận lợi, Darius hối hả xua quân băng qua vùng đất hẹp còn được gọi là cổng thành Amanus – con đường độc đạo băng qua núi Amanus – và dừng chân tại Issus mà không để Alexander nhận ra ông đang ở phía sau lưng quân đội Macedonia.[145] Khi đã chiếm cứ Issus, Darius đã cắt xẻo thân thể và giết chết bất kỳ người Macedonia nào mà ông tìm thấy, những người đã bị bỏ lại ở đây vì không đủ sức khỏe để tiếp tục chiến đấu. Ngày hôm sau, Darius hành quân tới sông Pinarus. Về phía Alexander, ngài không tin rằng Darius đang ở phía sau đội quân của mình nên đã cử một nhóm quân Chiến hữu trên một chiếc thuyền galley giong buồm trở lại Issus, hạ lệnh cho họ tìm hiểu xem tin tức đó có chính xác hay không. Đường bờ biển của Issus quả thực rất sâu, và điều này cho phép nhóm quân Chiến hữu của Alexander trên thuyền galley thấy được điều họ muốn thấy một cách dễ dàng hơn. Quân Ba Tư thực sự đang ở đó. Khi quay trở lại, họ nhanh chóng báo tin cho Alexander: Darius đã nằm trong tầm kiểm soát.
Trước tiên, Alexander triệu tập các chỉ huy bộ binh và kỵ binh cùng với tất cả các tướng lĩnh của quân đồng minh và cổ vũ sĩ khí của họ. Ngài nói, “Hãy ghi nhớ rằng mối nguy hiểm đó đã luôn luôn đe dọa các người. Cuộc
quyết chiến này sẽ diễn ra giữa một đội quân bách thắng và một kẻ thù bại trận. Hơn nữa, các vị thần, bằng cách dẫn dụ Darius rời bỏ vùng đất trống và nhồi nhét đại quân của ông ta trong một dải đất hẹp, đã đứng về phía chúng ta. Chúng ta có đủ không gian để dàn trận bộ binh, trong khi họ, thua kém chúng ta cả về sức mạnh lẫn dũng khí, sẽ nhận thấy rằng sự vượt trội về số lượng của họ chẳng đem lại lợi ích gì. Kẻ thù của chúng ta, những người Media và những người Ba Tư, trong suốt nhiều thế kỷ đã sống trong cảnh nhung lụa xa hoa; còn chúng ta, lớp cha trước lớp con sau, từ đời này sang đời khác, đã được tôi rèn trong thử thách gian nguy, chinh chiến loạn lạc. Hơn nữa, trận đánh này chính là trận quyết đấu giữa người tự do và kẻ nô lệ. Dĩ nhiên là có những đội quân Hy Lạp phục vụ cho quân đội Ba Tư – nhưng họ mới khác biệt với chúng ta làm sao. Số người đi theo Darius đều là vì tiền mà bán mạng cho ông ta – và với một cái giá cũng chẳng cao cho lắm, trong khi quân đội chúng ta đều một lòng chiến đấu vì Hy Lạp, trái tim của chúng ta đập vì mảnh đất ấy. Về những đội quân ngoại bang của chúng ta – quân Thrace, quân Paeonia, quân Illyrian, quân Agrianes – họ là những binh lính dũng cảm và thiện chiến nhất ở Âu châu, còn đối thủ của họ chỉ là những kẻ chậm chạp và khờ khạo nhất trong những bộ tộc ở châu Á. Và cuối cùng, hãy xem ai là chỉ huy tối cao của hai quân đội đó? Các ngươi có ta, Alexander, còn họ có Darius!”
Sau khi phân tích kỹ những tình thế chiến trường cho các tướng lĩnh của mình, Alexander tiếp tục chỉ ra rằng phần thưởng của chiến thắng cũng sẽ vô cùng to lớn. Chiến thắng lần này sẽ không chỉ hạ bệ những chỉ huy thân cận của vua Ba Tư, đánh bại đội kỵ binh của quân địch dọc hai bờ sông Granicus, hay 20.000 lính đánh thuê ngoại bang; đó sẽ còn là trận đại thắng trước quân Media, quân Ba Tư và tất cả những dân tộc Á châu mà họ cai trị. Darius – Vua Ba Tư đã đích thân ra quân, và một khi cuộc chiến này kết thúc, quân địch chẳng còn lại gì ngoài quyền sở hữu châu Á và nhiều cảng biển. Alexander nhắc tới những kỳ công chói lọi mà ngài cùng với các tướng lĩnh đã giành được, và lưu ý rằng bất cứ một hành động dũng cảm nổi bật của một cá nhân nào cũng sẽ được nêu danh và ca ngợi. Vị vua trẻ cũng nhắc tới Xenophon và đội quân Một vạn người của ông, dù đội quân đó rõ ràng không thể so sánh với quân đội của ngài về sức mạnh hay danh tiếng – một lực lượng không hề có sự hỗ trợ của kỵ binh Thessaly, Boeotia, Peloponnes, Macedonia, Thrace và cũng không hề có cung thủ hoặc lính ném đá như quân đội Macedonia. Xenophon chỉ có một đạo quân nhỏ được tuyển một cách vội vàng từ Crete và Rhodes. Và ông cùng với những người lính của mình, tuy bị vua Ba Tư đánh bại tại cổng thành Babylon,[146]đã đẩy lùi thành công tất cả những đội quân bản địa, những người cố gắng ngáng đường hành quân của họ tới biển Đen. Alexander đã không bỏ sót bất kỳ một
lời khích lệ nào để động viên những tướng lĩnh dũng cảm của ngài, những người sẽ xả thân cho trận đại chiến sắp tới; và họ, với vô vàn cảm kích, đã siết chặt tay ngài, đồng lòng thúc giục vị hoàng đế trẻ tuổi hãy bắt đầu ngay cuộc chiến.
Mệnh lệnh đầu tiên mà Alexander đưa ra là hạ lệnh cho quân lính của ngài ăn uống no nê, đồng thời, phái một nhóm nhỏ kỵ binh và cung thủ tới con đường hẹp gần bờ biển để do thám con đường mà ngài sẽ phải băng qua để quay lại; sau đó, ngay khi trời tối, Alexander đã đích thân dẫn toàn bộ lực lượng của mình, một lần nữa, chiếm cứ lối đi hẹp dẫn vào cổng thành. Việc này diễn ra một cách bí mật vào khoảng nửa đêm; khoảng thời gian còn lại [từ đêm về sáng], ngài cho quân lính nghỉ ngơi tại chỗ, trên vùng đất vững chãi, với những tiền đồn nhằm giữ sự quan sát chính xác và cẩn trọng, trước khi ánh sáng của ngày mới chiếu tới từ lối vào dọc đường bờ biển. Tiến quân theo đội hình hàng dọc với lối đi hẹp là cần thiết, nhưng ngay khi khu đất bắt đầu trải rộng ra, Alexander đã dần dần mở rộng đội hình, đẩy bộ binh hạng nặng lên, cho đến khi ngài di chuyển tới nơi mà bên phải ngài là đồi núi, còn bên trái là biển cả.
Trong suốt đợt tiến quân, kỵ binh chốt ở cuối đội hình, nhưng ngay khi tới vùng đất trống, Alexander đã hạ lệnh bố trí trận địa: ba tiểu đoàn vệ binh do Nicanor, con trai của Parmenio chỉ huy, được cử sang bên cánh phải gần vùng đất cao, cùng với tiểu đoàn của Coenus ở cánh trái kề cận với đội quân của Perdiccas, tạo thành một phòng tuyến từ cánh phải tới trung tâm – vị trí của bộ binh hạng nặng. Ở phía xa nhất của cánh trái là đội quân của Amyntas, và ngay cạnh họ, trước hết là tiểu đoàn của Ptolemy, sau đó là tiểu đoàn của Meleager, hướng về trung tâm. Chỉ huy bộ binh cánh trái được giao cho Craterus, còn chỉ huy cánh phải cũng như toàn bộ đội quân được giao cho Parmenio, người đã hạ lệnh rằng dù với bất cứ lý do gì, cũng không được phép để một khoảng trống giữa phía xa nhất của cánh trái và biển; vì nếu như vậy, họ sẽ bị bao vây một cách dễ dàng, khi quân địch, với lợi thế hơn về số lượng, tấn công vào sườn, chia cắt quân Macedonia.[147]](19).
Khi Darius nhận được tin Alexander đang tiến công, ông liền cử khoảng 3.000 kỵ binh và 20.000 bộ binh khinh giáp vượt sông Pinarus, với mong muốn tạo ra một cơ hội dẫn đội hình chính của quân Ba Tư tới cứ điểm mà không vấp phải phiền nhiễu gì. Đội hình Ba Tư được sắp xếp như sau: quân tiên phong của bộ binh hạng nặng là 30.000 lính đánh thuê Hy Lạp, sẽ đương đầu với bộ binh của Macedonia, cùng với 60.000 bộ binh hạng nặng Ba Tư – được biết tới với tên gọi Kardakes[148]– hỗ trợ, chia đều cho hai bên cánh trái và cánh phải. Những đội quân này di chuyển theo hàng, và khu đất không thể chứa được một số lượng quân lớn hơn. Cạnh khu đất cao phía bên
cánh trái của Darius, và đối diện với cánh phải của quân Alexander, là một sư đoàn khác khoảng 20.000 lính, một vài thành phần của đội quân này làm nhiệm vụ tuần tra hậu quân của Alexander; về phía những ngọn đồi ở cánh trái, vua Ba Tư bố trí những tiểu đội cắm chốt ở gần ngọn đồi phía sau cánh phải của Alexander. Phần còn lại của quân đội Darius, một số lượng lớn bộ binh hạng nặng và bộ binh hạng nhẹ, là những lính đánh thuê Hy Lạp ở hậu quân và những binh lính Ba Tư có nhiệm vụ trợ giúp cả hai cánh. Toàn bộ quân đội Ba Tư, được kể lại là có số lượng lên tới 600.000 người.[149]
Ngay khi Alexander nhận thấy mảnh đất trước mặt ngài đang dần mở ra từng chút một, ngài đã hạ lệnh cho đội kỵ binh – những sư đoàn kỵ binh Thessaly và Macedonia,[150]cùng với Kỵ binh Chiến hữu – do đích thân ngài chỉ huy, tiến từ hậu quân lên cánh phải. Đồng thời, ngài đưa những đội quân Peloponnesia và những đội quân đồng minh khác sang phía cánh phải do Parmenio chỉ huy. Darius cùng với lực lượng bộ binh chính đã sẵn sàng. Ông ra hiệu cho đội kỵ binh đã được cử vượt sông yểm trợ cho việc di chuyển. Phần lớn binh lính trong đội đó được điều động lên cánh phải nhằm đe dọa Parmenio ở bên gần phía biển, khu vực có phần thích hợp hơn cho hoạt động của kỵ binh; một vài người được Darius cắt cử sang cánh trái, phía dưới những ngọn đồi, nhưng khi ông nhận ra sự thiếu hụt về không gian khiến nhóm này trở nên vô dụng, vị vua Ba Tư đã nhanh chóng triệu hồi gần như tất cả số binh lính này trở về chiến đấu ở phía cánh phải. Đích thân Darius giữ trung quân, một vị trí truyền thống dành cho vua Ba Tư. (Xenophon đã giải thích nguyên tắc cơ bản về cách bày binh bố trận của người Ba Tư.)[151]
Gần như tất cả kỵ binh Ba Tư đều được chuyển sang vị trí ở gần phía biển, đối diện với cánh trái của Alexander, và để đương đầu với họ, vị thống soái trẻ tuổi chẳng có gì ngoại trừ kỵ binh Peloponnesia và những kỵ binh đồng minh khác; trước tình thế này, Alexander đã cử kỵ binh Thessaly dốc toàn lực để yểm trợ, nhưng phải khéo léo che đậy sự di chuyển của họ trước mặt kẻ thù bằng cách đi qua hậu quân của những tiểu đoàn bộ binh đông đúc. Đồng thời, ngài hạ lệnh cho quân trinh sát dưới sự chỉ huy của Protomachus cùng với quân Paeonia do Ariston chỉ huy, cung thủ do Antiochus chỉ huy, tiến lên phía trước.
Quân Agrianes dưới quyền chỉ huy của Attalus, và được một vài đội kỵ binh và cung thủ hỗ trợ, đã nhận lệnh kéo lên vùng đất cao để hình thành một góc với đường tiến quân chính của Alexander, chia cánh phải của đội quân thành hai nhánh tách biệt, một nhánh để dụ Darius và phần lớn quân đội Ba Tư sang bờ sông bên kia, một nhánh chiếm cứ quả đồi ở phần hậu quân của Macedonia. Quân tiên phong của bộ binh ở cánh trái là những cung thủ Crete và quân Thrace, do Sitalces chỉ huy, cùng với kỵ binh ở cánh trái
đi trước họ; tất cả các đơn vị đều có một số lượng lính đánh thuê tương xứng được chỉ định cho họ.
Nhận thấy điểm yếu rõ ràng bên cánh phải cũng như nguy cơ bị đánh lấn ở cuối đội quân, Alexander đã rút từ trung quân hai tiểu đội Kỵ binh Chiến hữu – cụ thể là, tiểu đội quân Anthemus do Peroedas chỉ huy và một tiểu đội được gọi là Leugaean dưới quyền chỉ huy của Pantordanus, con trai của Cleander – và điều họ sang cánh phải, với mệnh lệnh phải di chuyển một cách bí mật, tránh để kẻ thù phát hiện ra sự thay đổi về đội hình này; đồng thời, ngài tiếp tục gia tăng sức mạnh cho cánh phải bằng đạo quân bao gồm những người Agrianes và lính đánh thuê Hy Lạp, rồi hạ lệnh đánh lấn cánh trái của quân địch. Alexander tung ra một đợt đột kích bằng một nhóm nhỏ quân Agrianes và cung thủ. Trong khi đó, quân Ba Tư đang chiếm cứ trên những ngọn đồi, đã không thực hiện một đợt công kích nào. Họ nhanh chóng bị đánh bật ra khỏi vị trí và phải tìm kiếm sự an toàn ở sườn núi. Trước tình thế đó, Alexander đã thay đổi quyết định. Ngài đã sử dụng số quân lính mà lẽ ra là để đối phó với đám quân Ba Tư trên đồi nhằm củng cố cho lực lượng tấn công chính, chỉ để lại 300 kỵ binh trông chừng đám tàn quân đã tháo chạy.[152]
Alexander tiến quân chậm rãi và thận trọng; thi thoảng, ngài lại hạ lệnh nghỉ chân, tạo ra một ấn tượng rằng thời gian hoàn toàn đứng về phía ngài. Tuy vậy, Darius cũng không hề hạ lệnh tấn công. Ông ta giữ quân của mình ở nguyên vị trí bên bờ sông. Ở nhiều chỗ bờ dốc vốn gây khó khăn cho các đội quân trong việc phòng thủ, Darius đã cho gia cố bằng những hàng rào cọc – sự đề phòng này chỉ khiến quân đội của Alexander coi Darius là một kẻ hèn nhát.
Lúc này, hai lực lượng đối đầu đã ở trong một khoảng cách khá gần nhau. Tuy vậy, Alexander vẫn cưỡi ngựa đi từ hàng cuối cùng trong đội quân của ngài, lần lượt hết hàng này đến hàng khác, khích lệ từng người, nói chính xác cấp bậc và danh hiệu của họ, không chỉ những sĩ quan ở cấp bậc cao nhất mà còn cả những chỉ huy tiểu đoàn và đại đội; thậm chí những người lính đánh thuê cũng không hề bị lãng quên, mà bất cứ một danh hiệu hoặc một hành động dũng cảm nào cũng được nêu danh. Trước sự cổ vũ của Alexander, toàn quân đồng loạt hô vang: “Tấn công! Tấn công!”
Mặc dù đã thấy quân đội Ba Tư ở tầm gần, Alexander vẫn lệnh cho toàn quân di chuyển theo một nhịp độ chậm rãi, vì di chuyển quá nhanh có thể khiến đội ngũ trở nên lộn xộn, rồi tan vỡ; nhưng khi ở trong tầm bắn, Alexander, dẫn đầu đội quân của ngài ở cánh phải, đã phi nước kiệu lao xuống dòng sông. Toàn bộ lực lượng đã nhanh chóng theo sau: một cuộc tấn công mau lẹ sẽ làm quân địch sửng sốt, và họ càng nhanh chóng sang được
bờ bên kia, họ càng ít bị tổn thất bởi cung thủ Ba Tư. Dự liệu của Alexander quả không sai: quân Ba Tư đã tan vỡ ngay khi ngài giáp mặt với họ – một chiến thắng cục bộ rực rỡ đối với đội quân do ngài đích thân chỉ huy. Tuy nhiên, ở trung tâm, mọi chuyện biến chuyển không được tốt lắm: một vài đại đội bị tan vỡ, đã chạy về phía cánh phải và cánh trái, để lại một khoảng trống trong hàng ngũ, và trái ngược với Alexander, người đã vượt sông một cách nhanh chóng và đã sẵn sàng, trong cuộc giáp chiến buộc quân Ba Tư phải rút lui, trung quân Macedonia tiến quân rất chậm chạp; hơn nữa, bờ sông có nhiều chỗ dốc khiến họ khó lòng duy trì đội ngũ như thường lệ. Kết quả là lính đánh thuê Hy Lạp của Darius đã tấn công vào chính điểm đó của quân Macedonia, nơi để lộ khoảng trống lớn nhất. Đó là một cuộc chiến ác liệt. Quân Hy Lạp của Darius đã đẩy quân Macedonia xuống dòng nước, và dành nguyên một ngày để cứu cánh trái của họ, lúc này đã sẵn sàng rút quân, trong khi quân Macedonia, với chiến thắng của Alexander rõ ràng ngay trước mắt, đã quyết phải giành được một chiến thắng tương xứng và không muốn bị tước đi danh hiệu bất bại mà cho đến lúc đó đã được nhất trí trao tặng cho họ. Cuộc chiến mỗi lúc một quyết liệt hơn bởi sự ganh đua lâu đời về mặt chủng tộc giữa người Hy Lạp và người Macedonia. Trong giai đoạn này của cuộc chiến, Ptolemy, con trai của Seleucus,[153]và khoảng 120 người Macedonia xuất sắc khác đã thiệt mạng.
Cánh phải thắng trận của Alexander khi nhìn thấy quân Ba Tư đối diện họ đã sẵn sàng chiến đấu liền di chuyển về phía trung quân, lúc này đang bị lính đánh thuê Hy Lạp của Darius gây khó dễ. Từ phía dòng sông, họ đã đẩy lùi quân Ba Tư và sau đó, đánh lấn vào cánh trái của quân địch, tung ra một đợt tấn công sườn vào đám lính đánh thuê và nhanh chóng khiến chúng tan rã. Khi cuộc chiến đã dần phát triển lên cao trào, kỵ binh Ba Tư đối diện với kỵ binh Thessaly của Alexander đã bắt đầu tấn công dữ dội vào tiểu đoàn Thessaly. Hành động này lúc đó khá là liều mạng. Quân Ba Tư đã vỡ đội hình khi biết tin đội quân lính đánh thuê Hy Lạp của họ đã bị bộ binh Macedonia làm cho tê liệt và đập tan, và Darius đã phải đích thân ra quân. Đó là dấu hiệu cho một thất bại chung – một cách công khai, không thể che giấu được. Kỵ binh với những trang bị nặng nề đã gánh chịu tổn thất nghiêm trọng, và có hàng ngàn binh lính hoang mang sợ hãi, những người chiến đấu trong hoảng loạn và tuyệt vọng để thoát khỏi những con đường núi hẹp. Hầu hết số binh lính này, hoặc bị giẫm đạp đến chết bởi chính đồng đội của họ hoặc bị quân thù truy đuổi, chém giết. Kỵ binh Thessaly đã tấn công họ một cách cấp tập và dũng mãnh, không một chút xót thương và quân Ba Tư, cả bộ binh lẫn kỵ binh, đều chuốc lấy thất bại nặng nề.
Vào thời điểm quân Ba Tư tan vỡ trước cuộc tấn công của Alexander, Darius đang ngự trên chiến xa. Trước cảnh quân đội của mình tan tác, vị vua