🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Chàng Trai Tháng 12
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
NHỮNG CHÀNG TRAI THÁNG 12
Nguyên tác: The December Boys
Tác giả: Michael Noonan
Dịch giả: Thanh Nga
Nhà xuất bản Trẻ
Nguồn: Gacsach.com
Biên tập: V.C
Bìa: Tornad
Tạo ebook: inno14
★★★
https://thuviensach.vn
Tác Giả
Michael Noonan là tác giả của 18 cuốn tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn nổi tiếng dành cho độc giả ở nhiều lứa tuổi, bao gồm series truyện dài kì Flying Doctor, Magwitch và A Different Drummer. Ông cũng là nhà viết kịch bản, nhà soạn kịch cho các chương trình phát thanh, đài truyền hình, phim truyện và sân khấu. Các tác phẩm của ông đã được xuất bản, dựng thành phim và trình chiếu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cuốn sách đầu tay của ông có tên là In the Land of the Talking Trees được sáng tác khi ông còn đang phục vụ trong quân ngũ ở New Guinea trong Chiến tranh Thế giới thứ II. Cuốn tiểu thuyết dành cho các độc giả tuổi teen của ông có tên là McKenzie's Boots (có tên trong dang sách "Những cuốn sách bán chạy nhất cho thanh thiếu niên" vào năm 1988 do American Library Association bầu chọn) được dựa theo những kinh nghiệm mà ông có được trong suốt thời kì chiến tranh. Tác phẩm The Patchwork Hero đã được Đài truyền hình ABC chuyển thể thành phim và giành giải thưởng cao. Giống như The December Boys, bối cảnh cho câu chuyện xảy ra vào năm 1930.
Sau chiến tranh, Michel Noonan theo học ngành hội họa tại Phòng tranh Quốc gia ở Melbourne (ông là tác giả của cuốn tiểu sử về hoạ sĩ Turner, cha đẻ của bức tranh The Sun Is God nổi tiếng), tiếp đó là ngành kịch nghệ, văn học, lịch sử và triết học tại Đại học Sydney. Từ năm 1957 đến năm 1979, ông sống ở Anh, sau đó quay trở về Australia và sống nốt quãng đời còn lại ở Queensland. Ông mất năm 2000.
• Lời Tác Giả:
https://thuviensach.vn
Cuốn sách Những chàng trai tháng 12 có bối cảnh vào những năm 1930, trước Thế chiến thứ II. Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu những năm 1930 đã khiến nền kinh tế của các nước Châu Đại Dương bị ảnh hưởng nặng nề. Khu cắm trại bỏ hoang và những hang động bít kín mà các cậu bé trong truyện tìm thấy tại vịnh Captain’s Folly chính là hình ảnh những nơi ở tạm bợ do những người nghèo khổ và thất nghiệp dựng lên.
https://thuviensach.vn
Tác Phẩm
Những chàng trai tháng 12 (The December Boys) từ lâu đã được coi là một tác phẩm kinh điển của Australia. Đó là câu chuyện về 5 cậu bé đến từ Cô nhi viện St.Roderick. Tên của 5 cậu là Maps - thích lần theo đường bờ biển, Sharks - tóc đỏ và đầy chấm tàn nhang, Fido - được đặt tên theo một chú cún trong truyện tranh, Misty - có một mắt bình thường còn mắt kia không tốt, và bị che bởi cái mắt kính mờ tịt, và Choker - được đặt tên như thế ("Choker" có nghĩa là kẻ hay bị nghẹt, nói không nên lời) vì chẳng bao giờ trả lời được các câu hỏi trong lớp học.
Năm người bạn này được gọi là "Những chàng trai tháng Mười Hai" vì mọi người đều nghĩ chúng đều được sinh vào tháng Mười Hai. Chúng được đưa đến bãi biển vào kì nghỉ, do bà Hodge "tài trợ". Câu chuyện này được kể qua lời của Choker với một cái nhìn mới mẻ, ngây thơ và lạ lẫm đối với môi trường xung quanh cũng như với những sự việc xảy ra ở đó.
Khi các cậu bé mới đến Capitan’s Folly, tất cả đều sung sướng vì cảm giác tự do. Vì trước đó chưa đứa nào được đến bãi biển, nên chúng thích thú từ cơn sóng, bãi cát và mọi trò khám phá mà chúng có thể thực hiện quanh bãi biển. Captian's Folly là một thị trấn nổi lên từ cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930 và khá vắng vẻ. Các cậu bé được giới thiệu với một đám dân cư sinh sống ở đây - những người lập dị một cách ngộ ngĩnh và thú vị. Trong đó gồm chủ nhà - ông bà McAnsh, và mấy cậu bé nhanh chóng phát hiện ra rằng hai ông bà dễ dàng bị "hạ gục" bời vài chai rượu vang, cho phép chúng được tự do nhiều hơn. Mấy cậu cũng kết bạn với một đôi vợ chồng - cô Teresa và chú
https://thuviensach.vn
Can Đảm, cùng với ông Lão Làng O'Leary - một người có rất nhiều kiến thức về địa phương. Qua O'Leary mà các chú còn gặp những người khác như Galore Bàn Tay Vàng, Hai Martin và Porter Bụng Phệ.
Vào đêm Giao Thừa, Choker tình cờ nghe được chú Can Đảm nói với ông Lão Làng rằng họ (chú Can Đảm và cô Teresa) không thể sinh con và họ muốn nhận một đứa con nuôi. Cảm thấy quá "nặng gánh" nếu cứ giữ bí mật này một mình, Choker đành thú nhận với vị linh mục, và ông khuyêncậu nói ra với những người bạn của mình. Kể từ đó, kỳ nghỉ hầu như bị phá hỏng bởi sự ganh đua và cạnh tranh căng thẳng của các cậu bé, nhằm thể hiện mình vượt trội hơnnhững đứa khác, để thu hút sự chú ývà cảm tình của cô Teresa, với mong muốn được nhận làm con nuôi, trở thành thành viên của một gia đình thật sự...
Xuyên suốt câu chuyện là chủ đề về tình bạn, về ước mơ có một gia đình, về mong muốn rất thường thấy của tuổi mới lớn là được "hoà nhập" với xã hội, được "bình thường" như những người khác.
“The December Boys” đã được dựng thành phim, với vai chính thuộc về Daniel Radcliffe (diễn viên đóng vai Harry Potter).
★★★
https://thuviensach.vn
§1
“Con còn lời nào muốn xưng tội nữa không, con trai?” Một giọng thì thầm khàn đục cất lên, phía bên kia tấm lưới sắt là cái bóng của vị linh mục.
Có chứ, tôi vẫn còn muốn xưng tội tiếp nhưng không biết phải mở lời như thế nào.
Từ trước tới nay mọi tội lỗi của tôi chỉ xoay quanh mấy chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, không có gì là đặc biệt: lỡ miệng nói bậy, gọi tên Người, bật cười trong nhà thờ, nói dối về việc rửa chân mỗi tối, bỏ qua các buổi cầu nguyện sáng và đêm. Tuy nhiên tôi luôn cảm thấy mình có lý do để bỏ qua mấy buổi cầu nguyện đó, bởi lâu nay tôi vốn đã không chăm chú lắm vào điều được coi là Thiên đường của mọi người – các tín đồ Công giáo, Tin Lành…
“Hãy nói ta nghe, con trai.”
Biết phải giải thích thế nào đây? Tôi tình cờ nghe được thông tin đó thì đâu phải là lỗi của tôi. Nó đè nén trong tôi suốt quãng thời gian qua, như một thứ trái cấm mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài mong muốn được nếm thử một lần xem sao.
“Con có một bí mật.” – Cuối cùng tôi cũng cất lời.
“Một bí mật sao, con trai?”
“Vâng, thưa Cha.”
“Và nó khiến con phải lo lắng?”
“Vâng, thưa Cha.”
“Có lẽ con đã bị cám dỗ bởi những suy nghĩ tội lỗi?” Mọi việc có thể không phải bắt đầu theo cái cách mà Cha nghĩ, nhưng rõ ràng là những suy nghĩ tội lỗi của tôi thì có thật.
https://thuviensach.vn
Sự thật là mấy tuần gần đây trong đầu tôi luôn tràn ngập cái ý nghĩ tội lỗi ấy. Thông tin mà tôi nghe lỏm được thật quý giá, và tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải làm sao để ngăn không cho thông tin ấy lọt vào tai của bốn đứa bạn thân.
“Một bí mật cũng có thể là tội lỗi, con trai ạ.”
Đó chính là điều mà tôi đã luôn lo sợ.
“Hãy bày tỏ nỗi lòng của con và rồi tâm hồn con sẽ được thanh thản.”
Và thế là tôi kể cho Cha nghe. Về việc tôi đã nghe lỏm được, một cách vô tình, cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông có tên Foley Can Đảm và O’Leary Lão Làng về một phụ nữ tên Teresa.
Có lẽ Cha hiếm khi phải nghe lời xưng tội từ một con chiên mới 12 tuổi như tôi. Cha ngồi trầm ngâm suy tư bên trong căn buồng buông rèm tối đó, nơi những suy nghĩ vẩn đục được các con chiên tự do thổ lộ và chế ngự. Phía bên kia tấm lưới sắt là tôi, đang quỳ gối xưng tội. Toàn bộ căn phòng được bao trùm bởi một sự yên lặng như tờ, đâu đó thỉnh thoảng vang vọng những tiếng thì thầm xưng tội của những con chiên đang ngồi trên các băng ghế dài phía bên ngoài.
“Con trai của ta,” – Cha khẽ nói – “bằng việc muốn giữ riêng thông tin này cho bản thân, liệu con đã công bằng với những người khác chưa? Nếu con vẫn tiếp tục giữ im lặng, thì có nghĩa là con đang ích kỷ và trong mắt của Chúa, đó là một tội lỗi. Do đó, để tìm lại sự thanh thản cho mình, có lẽ tốt nhất là con nên chia sẻ thông tin mà con nghe được với những người bạn của mình. Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những nỗi lo trong cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng ta được chia sẻ”.
Tiếp đó Cha nói lời xá tội cho tôi bằng tiếng Latinh. Ngày nay phương thức sám hối có vẻ cũng thay đổi, từ việc đọc ba lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng hằng đêm đến việc đọc kinh Mân
https://thuviensach.vn
Côi trong 10 ngày liên tục, phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và độ thường xuyên của tội lỗi mà người đó mắc phải. Tôi đã được Cha miễn cho không phải sám hối nhưng vốn kiến thức ít ỏi về tín ngưỡng vẫn đủ để tôi hiểu được rằng tội lỗi của tôi sẽ chỉ được gột rửa hoàn toàn khi tôi chịu làm theo lời khuyên của Cha và tiết lộ với tám cái tai thính kia của tụi bạn về cái điều sẽ khiến chúng phải ồ lên vì kinh ngạc.
“Hãy cầu nguyện cho ta, con trai” – vừa nói Cha vừa kéo tấm gỗ nhỏ đằng sau tấm sắt và quay qua tiếp tục nghe lời cầu nguyện ở phía bên kia của căn phòng.
Cầu nguyện cho Cha nữa ư? Với “nhiệm vụ” mà Cha vừa giao, chắc chắn tôi sẽ vô cùng bận rộn cầu nguyện cho bản thân mình ấy chứ.
https://thuviensach.vn
§2
Vừa mới hai tuần trước thôi, chúng tôi đã tới một nơi gọi là vịnh Captain’s Folly và lần đầu tiên trong đời cả bọn được nhìn thấy biển (và hình ảnh về cái tội lỗi vô thức của riêng tôi).
Chứng kiến sự kiện trọng đại buổi sáng hôm đó là chín con mắt, vẫn còn tinh ranh và rạng ngời như những hạt thủy ngân: hai mắt của Spark, Maps, Fido và tôi, con mắt thứ chín thuộc về Misty. Bên mắt phải của cậu ấy không được tốt cho lắm, thường được che bằng một miếng kính tròn đục.
Cho đến giờ thì bề mặt Trái Đất vẫn như những mẩu bánh nướng mang hình các châu lục và hòn đảo, bao bọc xung quanh bởi nước. Không phải là nước bình thường. Là nước với một sức mạnh siêu phàm: sức mạnh truyền cảm hứng cho các ngư dân cất cao giai điệu hò kéo thuyền: sức mạnh cuốn phăng những con tàu dạt ra ngoài đảo cọ hoang trong khi phải mất hàng năm để đưa những chiếc chai đựng tin tức của họ về với thế giới văn minh. Thật phi thường làm sao! Đại dương quá rộng lớn! Bầu trời cũng như hòa chung vào cùng đại dương. Buổi sáng thứ Sáu hôm đó, cả lũ chúng tôi leo lên ngọn đồi vàng rực bởi ánh nắng ban mai của mùa hè, mấy ngón chân trần không tất đang ngọ nguậy bên trong những đôi giày chỉ dành riêng cho ngày Chủ Nhật.
“Các chàng trai, xin giới thiệu với các cháu,” – BàMcAnsh giang rộng cánh tay ra nói – “Thái Bình Dương”.
“Đúng vậy, Trái Bình Phương” – chồng bà McAnsh đứng bên cạnh lẩm bẩm.
Trước ngày hôm đó, khái niệm của chúng tôi về biển cả vẫn luôn là cái gì đó rất… nhân tạo. Trong phòng khách của trại trẻ
https://thuviensach.vn
mồ côi St. Roderick có treo một bức tranh sơn dầu cảnh biển đầy u ám, thỉnh thoảng cứ có dịp là tụi tôi lại dán mắt vào đó trầm trồ thán phục. Còn các cặp vợ chồng hiếm muộn cứ đến rồi đi, mà chẳng buồn để mắt đến một đứa nào trong lũ chúng tôi. Và giờ đây, trước mắt chúng tôi là một vùng biển rộng lớn, xanh ngắt, với những cơnsóng bạc đẹp đến không ngờ. Đứa nào cũng bị choáng ngợp, không thốt nên lời.
Chưa một ai trong số chúng tôi được chuẩn bị trước về cảnh đẹp hùng vĩ này. Càng không thể so sánh với cái hồ nước nhỏ trong bức tranh về Đức Mẹ treo trong nhà thờ ở St. Roderick. Sự so sánh ấy quả là khập khiễng! Những tấm áp phích quảng cáo du lịch dán đầy trong các ga tàu cũng chẳng là gì so với những gì đang diễn ra trước mắt chúng tôi đây.
Fido, đứa nhỏ tuổi nhất trong nhóm năm đứa tụi tôi, nó gầy đến nỗi xương sườn của nó chắc chỉ bằng mấy sợi dây hàng rào thép gai, không kìm nén nổi đã hét lên đầy sửng sốt: “Nhìn kìa, các cậu! Chắc dưới đó có lửa!”
“L-ử-a??” – bà McAnsh, người phụ nữ già nua, gầy gò chịu trách nhiệm trông nom tụi tôi, tròn mắt hỏi lại – “Dưới đó?” “Cô ơi, cô ơi, nhìn kìa!” – Fido lại rối rít gào lên, tay chỉ thẳng ra biển – “Nó đang sôi kìa! Sôi sùng sục! Chắc chắn ở dưới đó có lửa!”
Tôi cũng cho rằng Fido đã nói đúng. Cái gọi là “biển” trước mắt tụi tôi có khỉ chỉ là một tấm gương khổng lồ đang được nấu chảy sủi bọt trắng xóa. Mà công nhận là đứng ở trên đỉnh đồi này thì thấy nóng thật. Có lẽ vì dưới đó có lửa thật!
Đúng lúc đó ông McAnsh lên tiếng: “Lạy Chúa tôi, Cynthia, xem ra lần này chúng ta nhận được khá nhiều tín hiệu xấu về sự bảo trợ của mình.”
Tín hiệu xấu! Tụi này ư? Ông ấy nói vậy là sao nhỉ? Người già thật khó hiểu.
https://thuviensach.vn
Ông McAnsh mặc một chiếc quần rộng thùng thình, nhàu nhĩ, chân đi đôi giày nâu lem luốc. Ria mép không được tỉa tót thường xuyên nên trông càng luộm thuộm. Còncái mũ trên đầu ông ấy thì cũ nát khỏi phải bàn. Có lẽ nó đã bị lê la trên hàng trăm dặm đường sa mạc, sau đó bị cuốn xa ra ngoài khơi, chịu sự bào mòn của nước muối biển, để rồi sau đó bị đánh dạt vào bờ, trước khi chịu sự giằng xé và cào cấu bởi nanh vuốt của một chú chó lang thang nào đó đang đi dạo trên biển.
Lại thêm một tín hiệu xấu nữa vừa lóe lên. Lần này là Misty. “Đó là cơn Đại Hồng Thủy!” – Misty đột nhiên gào ầm lên – “Một cơn Đại Hồng Thủy!” – Giọng điệu sặc mùi mấy tay buôn bán tàu ở gần trại trẻ St. Roderick – “Đây sẽ là cơn Đại Hồng Thủy đáng nguyền rủa và lớn nhất từ trước tới nay cho mà xem.”
“Ôi, lạy Chúa tôi!” – ông McAnsh nhăn mặt lầm bầm. “Cẩn thận cái mồm! Cẩn thận cái mồm!” – bà McAnsh nạt nộ - tụi tôi, tất nhiên rồi.
Ông McAnsh dùng tay áo lau miệng chai rượu vang, rồi đưa cho vợ. Sau khi tu một hơi dài, bà McAnsh vẫy tay xua tụi tôi: “Đi nào, mấy đứa! Đi xuống thôi.”
“Lên xuống” – ông McAnsh càu nhàu.
Hai chân bà McAnsh rung lên bần bật khó nhọc bước đi trên con đường mấp mô đầy đá và sỏi. Có lẽ một trong hai cái mắt cá chân của bà ấy cần phải được lắp cho chặt lại. Cả lũ lục đục bám theo, ông McAnsh nhét chai rượu vào trong túi áo khoác. Miệng chai thò ra ngoài túi, lúc la lúc lắc như muốn trêu ngươi chúng tôi.
https://thuviensach.vn
§3
Spark bỗng trở nên lắm mồm hơn thường ngày, ngay khi cảm đám xuống tới chân đồi.
Có lẽ cái mùi mằn mặn của biển đã truyền cảm hứng cho Spark, khiến cậu ta liên tưởng tới cái mùi gia súc nồng nặc thường vương lại trong các phòng học và phòng ngủ ở trại mồ côi vào những ngày có phiên chợ. Cứ mỗi tuần một lần, người ta lại họp chợ bán cừu và gia súc, đôi khi còn có cả ngựa hoang và dê núi. Những tiếng nói oang oang, những tiếng mặc cả như chợ vỡ luôn khiến Spark tò mò và thích thú. Ước mơ của cậu ấy là một ngày nào đó được đứng chung hàng ngũ cùng đám người buôn bán đó. Trong đám tụi tôi mới chỉ mình Spark biết bản thân muốn gì. Cậu ấy thường tự tưởng tưởng đứng trên bục đấu giá, rồi trả giá cho những món-đồ-tưởng-tượng. Thậm chí còn không quên luyện giọng để khởi động trước các phiên đấu giá giả vờ cứ như thật. Tụi tôi cũng tin là cậu ấy sẽ đạt được ước mơ đó.
Dọc đường đi xuống triền đồi, Spark không ngừng hô vang: “Hurrum! Hoo! Hee! Haw-hah! Haw-hah! Bong! Bong! Bong! Booong.” Theo ngôn ngữ của Spark thì tụi tôi sẽ phải tự hiểu câu đó có nghĩa là: “Một trăm! Hai! Ba! Bốn! Bốn rưỡi! Bốn rưỡi! Bốn rưỡi! Bán!”
Spark có mái tóc vàng như nghệ, mặt đầy tàn nhang và một đôi mắt xanh buồn. Trong một lần vị giám mục tới thăm trại St. Roderick, khi được hỏi thường làm gì trước khi đi ngủ mỗi tối, Spark đã nói ngay không cần suy nghĩ: “Con cầu nguyện cho đức Giáo hoàng”. Vị giám mục cười vang và khen ngợi cậu là một đứa bé thông minh và nhanh trí. Cũng từ hôm đó cái tên
https://thuviensach.vn
Spark – có nghĩa là ánh sáng lóe lên, hoặc sự thông minh – được ra đời.
Đám chúng tôi xách theo mấy cái vali rẻ tiền của mình và đi theo hai vợ chồng nhà McAnsh tiến sâu vào trong lòng thung lũng nằm kề sát với biển. Nó như một bức tượng bán thân, không đầu, hai cánh tay rời ra, cổ tay là những vách đá nhô thẳng ra biển, còn lòng bàn tay chìm sâu dưới lòng đại dương. Dưới chân đồi là hai ngôi nhà tranh, một cái sơn màu xanh nhạt, trong vườn tràn ngập những cây hoa mang hình giọt băng thường chỉ nở vào ban ngày, điểm xuyết cùng rất nhiều cây mao lương hoa vàng, cây hoa cải hương sắc đỏ rực rỡ. Đứng từ trên??? nhìn xuống, vườn hoa này thật chẳng khác nào một tấm thảm hoa nhiều màu sắc đang trải dài dưới ánh Mặt Trời. Ngôi nhà còn lại có màu trắng, dọc lối vào trải toàn đá trắng như vôi, trước vừa có tấm bảng để chữ:
“Không Có Công Lý"
Chân đồi phía bên kia đưa chúng tôi đi thẳng ra biển: những cồn cát trắng mịn cùng thảm cỏ xanh rì trải dài. Đây đó là những dấu chân in đậm trên cát, chạy dài ra tận mép nước.
Không ai bảo ai, cả đám đồng loạt đưa mắt dõi theo vệt dấu chân đó, dọc theo triền cát trắng, nhìn thẳng ra ngoài biển. Có cái gì đó màu đỏ đang nhấp nhô giữa làn nước. Một quả bóng bị bỏ quên chăng? Không phải, là ai đó đang đùa nghịch với những con sóng. Cuối cùng trí tò mò của chúng tôi cũng được giải đáp khi một người mặc đồ bơi màu xanh thẫm từ dưới biển trồi lên và đi vào bờ.
Dù ở khoảng cách xa thế nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng sẽ nhận ra được đối phương có phải là người-trong-hội hay không. Ví dụ, lũ trẻ con tập tễnh mới biết đi sẽ dễ dàng tìm thấy “đồng bọn” của mình giữa một rừng người, trong khi những đứa bé lớn hơn một chút sẽ chỉ tìm đến với hội trẻ con đồng trang lứa, hay nói một cách khó nghe hơn thì chó sẽ chỉ chơi với
https://thuviensach.vn
chó. Chúng tôi ngay lập tức nhìn ra cái người vừa từ dưới biển đi lên là một phụ nữ trưởng thành. Cô ấy dùng cả hai tay hất nước lên ngực và hông để cho trôi hết cát còn vương lại, kế đó cởi cái mũ bơi màu đỏ trên đầu ra, để lộ mái tóc màu nâu nhạt dài đến chấm vai. Cô vo tròn cái mũ lại rồi ném thẳng lên bờ. Ngay sau đó cô bất ngờ sải chân chạy vài bước, nhún nhẹ chân rồi lộn một vòng trên cát. Đó là cú nhào lộn hoàn hảo và đẹp mắt nhất mà tôi từng được xem. Hai tay chống thẳng trên cát, mái tóc lòa xòa chấm đất rồi đột nhiên cả người cô hất ngược ra đằng sau, hai chân chạm đất, mái tóc buông dài trên vai. Tất cả những động tác ấy chỉ xảy ra trong chớp mắt nhưng có lẽ chính khoảng cách xa đã khiến chúng như một thước phim quay chậm, lôi cuốn đến lạ thường. Quả là một màn trình diễn đã đời cho chín con mắt của tụi tôi. Trong tâm trí của tôi, màn nhào lộn trên biển ấy mãi luôn tươi mới như bông hoa được bảo quản giữa những trang sách của ký ức.
Đó là ấn tượng đầu tiên của chúng tôi về cô Teresa. Cô ấy đi về phía cái mũ bơi màu đỏ, cúi xuống nhặt nó lên. Ngay khi đặt chân lên triền cát mịn, đột nhiên cô thay đổi hẳn phong thái đi lại. Mấy thằng con trai tụi tôi ngơ ngác nhìn nhau không hiểu tại sao cô Teresa tự nhiên đi kiểu duyệt binh như vậy, nhưng chỉ một lát sau cả đám đã ồ lên gật gù ra chiều hiểu biết, bởi đi bộ trên cát khô không hề đơn giản chút nào. Nếu nhìn thoáng quan, cô Teresa trông như một phụ nữ trưởng thành, nhưng sau cú nhào lộn ngoạn mục vừa rồi thì tất cả đều nhất trí rằng ở mức độ nào đó, cô ấy vẫn thuộc về thế giới trẻ con của chúng tôi.
Hai vợ chồng ông bà McAnsh vẫn lầm lũi đi xuống đồi, khiến cả đám tụi tôi phải hộc tốc chạy theo cho kịp. Phía bên dưới, vườn hoa giọt băng lộng lẫy như những tấm băng-rôn trắng muốt, tiếng sóng biển rì rầm mời gọi. Trước mắt chúng tôi là hai tháng tự do tung hoành ngang dọc – hai tháng để lên kế
https://thuviensach.vn
hoạch cho một cuộc đào tẩu – và chúng tôi sẽ phải tận dụng cho tốt cơ hội ngàn-năm-có-một này.
https://thuviensach.vn
§4
Quần áo bơi của chúng tôi được thiết kế và may bởi các nữ tu sĩ ở viện St. Roderick. Và mặc dù trong phòng họ có treo rất nhiều tranh Kinh Thánh cũng như nhiều vật dụng tôn giáo khác nhưng rõ ràng vẫn có sự “ló mặt” của quỷ sa-tăng trong các mẫu thiết kế của họ thì phải. Những bộ quần áo bơi này được cắt ra từ vỏ bao bột mì, sau đó nhuộm đen. Tuy nhiên vẫn không xóa nổi mấy cái tên nhãn hiệu trên bao bì, chúng vẫn hiện rõ mồn một trên mấy bộ đồ bơi mà chúng tôi vừa mặc vừa lần theo dấu chân trên cát của cô gái khi nãy. Trên nền cát ướt vẫn còn nguyên mấy dấu chân, nay đã cách mép nước một khoảng khá rộng, bởi thủy triều đã rút ra đằng xa.
Nhóm năm đứa tụi tôi, đứa mặc phần có nhãn bột mì ra đằng trước, đứa lại mặc ra đằng sau. Trông chúng tôi chẳng khác nào mấy cái biển quảng cáo di động. Ánh nắng Mặt Trời chói chang khiến cho toàn thân chúng tôi như bị thiêu cháy, theo từng khúc một. Da đứa nào cũng tái nhợt vì cớm nắng ở phần trên đầu gối, quanh vùng cổ, vai, phía trên khuỷu tay, và màu đen của mấy bộ đồ bơi càng làm nổi bật sự xanh xao vàng vọt đó.
Cả đám lom khom quanh dấu chân. “Chân cô ấy thật nhỏ, làm mình nhớ tới sơ Ursula” – Spark giơ chân ra ướm thử vào dấu chân trên cát, trầm ngâm nhận xét. Sơ Ursula thường hay bị viêm tấy ở kẽ ngón chân, nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài thì phải công nhận sơ là nữ tu vui tính và yêu đời nhất trong tu viện ở St. Roderick, bởi lúc nào sơ cũng tươi cười với mọi người, mặc dù đang bị mấy cái ngón chân hành hạ. Mấy thằng chúng tôi ai cũng phải công nhận sơ Ursula là người phụ nữ thánh thiện duy nhất còn sót lại trong cái tu viện nữ đó.
https://thuviensach.vn
“Nhưng tay thì siêu to” – Fido buông thõng một câu, trong khi mải mê dùng tay so sánh với dấu bàn tay còn in lại trên cát. “Có lẽ cô ấy bị bỏ rơi lại” – Misty nói, ra chiều hiểu biết. Cả đám đồng loại ồ lên…
“Bị bỏ rơi á?” “Hả” “Khi nào?” “Cậu điên rồi!”
“Bởi gánh xiếc.”
“Cậu đang nói cái quái gì thế” “Gánh xiếc nào?”
“Cô ấy chắc là một thành viên của nhóm nhào lộn. Của một gánh xiếc nào đó. Và bị bỏ rơi lại.”
“Arrr, não cậu đúng là có vấn đề rồi” – Maps cười chế nhạo. Không ai trong đám tụi tôi tin vào cái giả thuyết của Misty. Từ sau một lần được dắt đi xem xiếc ở trong chợ, cậu ta lúc nào chẳng bị ám ảnh bởi các gánh xiếc. Còn với tôi, ấn tượng về gánh xiếc chỉ là: tiếng những chú sư tử gầm lên bực tức vào mỗi buổi sáng, khi đám chim bói cá cất tiếng gáy. Như thể tiếng gáy đó giống như một tiếng cười nhạo, làm xúc phạm đến phẩm giá của loài được coi là chúa sơn lâm, vua của muôn loài. Spark chăm chú xem xét dấu chân ở gần mép nước: “Haw! Chân cô ấy bị chai!”
“Đâu? Đâu?”
“Mắt cậu tinh thật!”
Spark chỉ vào cái đường cong cong ở chỗ ngón chân cái. Công nhận là ở bên cạnh vết ngón chân cái có chỗ hơi lõm xuống một chút thật. Thật không hiểu nổi sao một người nhào lộn dẻo dai và nhẹ nhàng đến như vậy lại sở hữu một bàn chân có tì vết? Spark đã cố tỏ ra khinh khỉnh, bất cần, để không ai có thể trêu chọc cậu ấy về chuyện chú ý tới đám con gái. Lúc nãy trong khi đang thay đồ bơi trong căn nhà gỗ sát vách với nhà của gia đình McAnsh, cậu ấy nói: “Cô ta lộn nhào như vậy để rũ hết đám kiến trong tóc ra mà thôi.”
Dù chân cô ấy có bị tật hay không thì cả lũ vẫn quyết định lần theo đến tận dấu chân cuối cùng, để rồi tất cả cùng đối mặt với
https://thuviensach.vn
mặt biển rộng mênh mông.
Liệu có quá sớm để chúng tôi mạo hiểm lặn ngay xuống biển hay không?
“Đi đi mà! Xuống đi!” – Maps hét to. Maps vẫn luôn là đứa liều mạng nhất trong nhóm, và cũng là đứa thông minh nhất. Cái nickname Maps, có nghĩa là bản đồ, cũng bắt nguồn từ cái thói quen suốt ngày chúi mũi vào các quyển át-lát, rồi dùng ngón tay từ từ lần theo các con đường và đại dương của cậu ta. Do đó, có thể nói trong năm đứa tụi tôi thì Maps là đứa quen thuộc nhất với đại dương, và cũng dễ hiểu khi cậu ta phấn khích muốn lao xuống biển ngay đến vậy.
Bốn đứa líu ríu bám đuôi Maps lội xuống chỗ nước cạn, nơi các con sóng nhỏ nối đuôi nhau xô đập nhè nhẹ vào phần dưới chân tụi tôi. Cả lũ thích thú dùng chân chơi đùa cùng làn nước trong veo, như thể chúng tôi đang đượcxỏ chân vào những đôi giày trong suốt và mát lạnh. Nước tràn vào các kẽ móng chân, làm cho các ngón chân ngọ nguậy theo nhịp sóng nước, ngay cả khi chúng tôi không hề cử động chúng. Những năm tháng sống cùng nhau ở viện St. Roderick đã khiến chúng tôi luôn có chung nhiều mối xúc cảm và cảm xúc lúc này đây chính là một trong số đó. Tất cả đều nhận thức được sự vĩ đại của đại dương, vẻ đẹp cũng như sự huyền bí của nó, khi chúng tôi từ từ tiến ra xa, từng bước, từng bước một, cùng thốt lên những tiếng thích thú xen lẫn chút sợ hãi khi lần đầu tiên bị sóng xô vào chân, khi lần đầu tiên mấy bộ đồ bơi của chúng tôi bị ướt nhoẹt bởi nước biển. Tiếng sóng biển xô đập không ngừng, đủ để lấp đầy hàng vô số vỏ ốc trên biển, đủ để nhấn chìm những tiếng gào thét như muốn vỡ tung vì phấn khích của tụi tôi.
“Nó lăn tăn sủi bọt như nước chanh ý!”
“Tiếc là dưới đó không có tí lửa nào. Mình đang lạnh cóng lên đây này.”
“Điên mất thôi!”
https://thuviensach.vn
“Ê, nó có vị như nước thánh vậy!”
“Ôi, ôi, mạnh thật. Nó đang đẩy mình ra xa này!” Đó là câu nhận xét đầu tiên của lũ chúng tôi về cái thực thể vĩ đại này. Chúa Trời đã tạo ra thế giới và nước, nhưng chẳng phải sau đó chính đại dương đã đảm nhiệm nốt công việc của Người sao? Ví dụ như các phát kiến địa lý của các nhà thám hiểm lừng danh Vasco da Gama, Magellan, Columbus, Walter Raleigh chẳng hạn. Nếu không phải là đại dương thì làm sao chúng ta có thể biết tới những con người này? Đại dương cũng là mái nhà của những phiên chợ buôn bán trên biển, nơi ẩn náu của những tên cướp biển và cả bọn buôn người, được mô tả qua những vòng xoáy hình vân tay trên bản đồ thế giới. Không có đại dương sẽ không tồn tại khái niệm con tàu Người Hà Lan bay nổi tiếng, loài sứa biển, loài cá chuồn, cá voi, cá mập… hay câu nói treo lưỡi “She cells seashells on the seashore” mà không đứa trẻ nào không biết trong các bài học tiếng Anh vỡ lòng. Maps là đứa đầu tiên lao mình xuống nước, đâm thẳng vào giữa những con sóng với đôi mắt mở to, mái tóc đen mào gà của cậu ta chổng ngược lên như cái mũ trùm đầu của người Dominic. Maps biến mất sau làn nước trong vài giây, sau đó bất ngờ trồi lên rất nhanh, mái tóc giờ đã xẹp xuống da đầu, cái quần bơi dính chặt vào người như vừa mới được quét thêm một lớp sơn mới. Kế đó từng người từng người một, chúng tôi tiến ra đắm mình xuống nước, còn Misty tìm mọi cách để không bị ướt kính. Nhưng chỉ vài phút sau mọi cảm giác bỡ ngỡ và sợ sệt ban đầu tan biến hết, cả lũ chúng tôi té nước vào nhau và hò hét ầm ĩ vang trời, khiến cho một vài khán giả bất đắc dĩ phải quay ra nhìn.
Phía trên các vách đá hai bên bờ vịnh có các rìa đá chòi ra biển, và ở trên bề mặt đó là những cái lán được dựng lên nửa vời, nửa lều nửa hang động. Cái lều phía bên trái được sơn vàng, đứng thấp thoáng bên trong là một người đàn ông béo lùn, trán
https://thuviensach.vn
hói, da có màu tai tái. Ông ta mặc quần soóc rộng lùng bùng trễ xuống tận hông, hai tay vòng lại trước mắt như đang theo dõi cái gì đó ở đằng xa. Phía bên phải, ngay trước cửa căn lều màu xám có lắp kính là một người đàn ông cao, gầy, đang đứng phì phèo cái tẩu thuốc. Còn trên bãi biển, xa xa trên triền cát, cô gái nhào lộn ban nãy, đầu đội mũ rộng vành, đang chăm chú theo dõi chúng tôi. Hai vợ chồng nhà bà McAnsh đã dặn chúng tôi không được lội quá xa bờ, vì thế sau một hồi ngụy lặn, cả đám lũ lượt kéo lên bờ.
Misty là đứa đầu tiên lên bờ, một phần là vì sóng biển làm mờ kính, một phần là vì các ngón tay của cậu ta trở nên tím tái vì lạnh. Chỉ vài phút sau, mấy đứa còn lại cũng lần lượt theo chân Misty. Tôi đã từng nhắc tới sự hiện diện của quỷ sa-tăng trong mấy bộ đồ bơi của tụi tôi. Hẳn sa-tăng đã có một quãng thời gian khá vui vẻ tại vịnh Captain’s Folly này. Và giờ là lúc hắn có thể tận hưởng niềm hạnh phúc trước nỗi bất hạnh của đám năm đứa tôi. Vũng nước nơi bọn tôi vừa lội xuống có vẻ sẫm màu hơn hẳn những chỗ nước khác. Đó là màu đen từ những bộ đồ bơi. Chúng tôi chỉ kịp nhận ra điều đó khi nhìn thấy những dòng thuốc nhuộm đen đang chảy dài thành vệt trên bắp chân, lúc cả bọn vừa đặt chân lên bờ.
Và đó không phải là sự mất mặt duy nhất mà chúng tôi phải hứng chịu. Không đứa nào ngờ được rằng vải bao bột lại hút nước kinh khủng đến như vậy, cả đám phải ì ạch leo lên bờ với một đống nước lõng bong trong đũng quần.
“Ê, nhìn này! Tụi mình chẳng khác nào mấy con ong nghệ! – Spark hớn hở gào ầm lên.
Trong khi Fido bật cười như nắc nẻ thì Misty lại tỏ vẻ lo lắng thấy rõ. Còn Maps lại cho đây là âm mưu hiểm độc của quỷ xa tăng nhằm làm nhục chúng tôi. Và đúng là khi ấy tôi cảm thấy xấu hổ thật. Cũng may là quanh chúng tôi không có bóng người nào cả, trừ một con ngựa xám già gần căn lều màu vàng. Các nữ
https://thuviensach.vn
tu tại St. Roderick có thể là chuyên gia trong việc tạo ra những bộ lễ phục cầu kỳ và tinh tế dành cho các linh mục nhưng họ quả là những nhà thiết kế đồ bơi tồi.
Cả đám kéo lên bờ ngồi phơi nắng trên một trạm cứu hộ bỏ hoang, hướng mặt nhìn ra biển. Trên đầu chúng tôi là tấm bảng:
VỊNH CAPTAIN’S FOLLY
CÂU LẠC BỘ LƯỚT SÓNG VÀ CỨU HỘ
Từng đợt sóng biển nối đuôi nhau xô vào bờ, ngay dưới chân chúng tôi. Đối với tôi, chúng như một bàn tay khổng lồ chìa ra mời gọi, như một lời cảnh báo nghiêm khắc dành cho tất cả mọi người. Trong mắt tôi, biển cả không phải là một cơn đại hồng thủy. Tôi cũng không bao giờ nghĩ đâu đó bên dưới làn nước trong xanh kia có một ngọn lửa đang âm ỉ cháy. Nó vừa khiến tôi liên tưởng đến một điều gì đó, nhưng lại không xác định được là cái gì. Có một điều chắc chắn rằng đó không phải là con quái vật khổng lồ mà sơ Agnes vẫn thường dọa chúng tôi.
Sơ Agnes là một nữ tu ngoài giáo hội, một chú ông thợ đeo tạp-dề-đen giữa một rừng ong thợ đầy nguyên tắc. Sơ quyết định vào tu viện như một hành động tạ ơn cho lần thoát chết đuối khi còn trong thời con gái.
Thời con gái nào? Chúng tôi không khỏi thắc mắc khi nghe câu chuyện đó. Bởi không thằng nào có thể tưởng tượng được rằng khuôn mặt héo hon u sầu đằng sau cái mũ tu sĩ cứng ngắc kia đã từng có thời hồng hào và căng phồng sức sống của tuổi trẻ. Cứ như là cuộc đời sơ trước giờ vẫn luôn nhuốm một màu cứng nhắc và già nua như vậy. Bởi chẳng một cô bé mười một tuổi yêu đời nào lại chịu giam mình cả đời bên trong những bức tường đám trầm lặng ấy, chỉ vì một lần được cứu sống khỏi chết đuối. Với một người mất cân bằng trầm trọng như thế thì chẳng có gì ngạc nhiên khi quan điểm của họ về biển cả lại lệch lạc đến vậy.
https://thuviensach.vn
Trong khi cả đám đang mải rũ cát ra khỏi người, đột nhiên Fido thụp vội người xuống, cuộn tròn hai cái đầu gối và khuỷu tay lại. Cậu ấy là người đầu tiên trong nhóm phát hiện ra cô gái nhào lộn đang thơ thẩn đi dạo giữa các triền cát. Cô ấy vẫn mặc cái áo bơi màu xanh khi nãy, giờ đã khô, trên đầu là chiếc mũ rơm rộng vành có đính hoa kết bằng sợi. Chúng tôi chẳng còn lại gì với chất liệu đó bởi vì hồi ở viện St. Roderick, chúng tôi vẫn thường dùng để đan thành khay đựng khăn ăn, sau đó đem bán tại các buổi từ thiện trong nhà thờ hoặc làm quà tặng cho các nhà bảo trợ cho cô nhi viện.
Mỗi bước dậm chân mạnh xuống cát làm cho cát bắn tung tóe khắp nơi. Chỉ nhìn thoáng qua cũng có thể nhận thấy đó là những bước chân hạnh phúc, yêu đời, và không hề bị chai sạn như chúng tôi đã suy đoán. Cô ấy cầm theo một cái chai màu hồng, bên trong đựng một thứ dung dịch gì đó sền sệt, màu hồng đục.
Cả đám lồm cồm bò dậy bằng cả hai tay và đầu gối, khi thấy cô gái tiến lại gần.
“Ai là thủ lĩnh ở đây?” – cô gái hỏi bằng một giọng nói trong trẻo và ngân nga như đang hát.
Mấy thằng chúng tôi ngần ngừ quay qua nhìn nhau. Xưa nay chưa thằng nào nghĩ tới chuyện bầu ra thủ lĩnh, trưởng nhóm hay điều gì đó tương tự. Chúng tôi vẫn thường tự gọi mình là nhóm “Những cậu bé tháng 12” bởi vì nghe nói sinh nhật của cả năm đứa đều rơi vào cùng tháng. Nhưng nếu phải chọn thủ lĩnh, có lẽ sẽ là Spark hoặc Maps.
“Không sao. Tôi sẽ là thủ lĩnh. Các cậu xếp hàng lại đi.” Cô ấy nói vậy nghĩa là sao?
“Nhìn vai các cậu kìa” – cô ấy nói tiếp “da các cậu sẽ đỏ như tôm luộc cho coi. Xếp hàng lại đi. Ai sẽ đứng đầu nào? Cậu đi. Cứ đứng yên đó”.
https://thuviensach.vn
Maps là người nhận được vinh dự đó. Cậu ấy thường chỉ nheo nheo hai mắt mỗi khi nghĩ ra trò gì láu cá hay cảnh giác trước một sự việc nào đó. Và giờ thì hai mắt của cậu ấy đang là như vậy, trong khi cái môi trên đang vểnh ngược lên một bên, nửa như đang nhăn nhó, nửa như đang cười nhếch miệng. Cô Teresa lắc lắc cái chai, dùng răng mở nắp, sau đó đổ một ít dung dịch màu hồng ra lòng bàn tay rồi thoa nhẹ lên khắp vai Maps. Fido đã sai khi phỏng đoán về bàn tay của cô Teresa. Không hề to một tẹo nào, trái lại, đó là đôi bàn tay nhỏ nhắn của một phụ nữ trưởng thành. Chẳng trách cú nhào lộn khi nãy của cô ấy hoàn hảo đến vậy. Ở phần cổ và mặt, da của cô Teresa có màu mật ong rám nắng trong khi vai, chân và tay của cô lại mang màu nâu đậm. Mái tóc nâu của cô buông xõa, rẽ ra làm hai bên, càng làm tôn lên hai gò má cao. Cô Teresa có đôi mắt màu vàng lục rất lạ, khác hẳn với màu xanh ngọc bích của chiếc áo bơi mà cô đang bận trên người.
“Các cậu từ đâu tới?” – Cô Teresa hỏi, miệng vẫn ngậm cái nắp chai.
“Viện St. Roderick ạ.”
Chừng như thấy thật khó nói chuyện với cái nắp chai trong miệng, cô Teresa liền đưa nó cho Maps rồi qua qua xoa dung dịch hồng lên vai cho Spark. Anh chàng bối rối thấy rõ, khi cứ lắp ba lắp bắp không nên lời. Thay vì khẳng định lại cái giả thiết ban đầu của mình rằng cô Teresa bị gánh xiếc bỏ rơi lại, thì Spark bắt đầu kể lể cho cô gái lạ mặt mới quen về hành trình chuyến đi của cả nhóm tụi tôi: ngày hôm qua, ngay khi bình minh vừa rạng, cả nhóm được đưa lên tàu và đi suốt một ngày cho đến rạng sáng nay mới tới thành phố. Tại ga trung tâm, chúng tôi lại bắt xe buýt tiếp tục cuộc hành trình xuyên quốc gia, để rồi được chào đón bởi hai vợ chồng nhà McAnsh tại một sân ga đìu hiu không một bóng người. Người tiếp theo nhận được vinh hạnh từ cô Teresa chính là Misty. Nhưng Spark vẫn
https://thuviensach.vn
đứng bên cạnh lải nhải về câu chuyện của mình, về việc đây là lần đầu tiên năm đứa chúng tôi được nhìn thấy biển, nhờ ơn một phu nhân cao quý hiện đang sống trên quả đồi gần đây, trong căn biệt thự kín cổng cao tường cùng chòi tháp cao có chong chóng gió lấp lánh ánh vàng.
“Đó là Phu nhân Hodge” – Cô Teresa nói. Và không cần phải kể tiếp, cô ấy cũng biết tụi tôi là ai và tại sao lại đến đây. “Đúng vậy, và bà ấy trang trải mọi chi phí cho chuyến đi của chúng cháu. Lại còn cho chúng cháu ăn nữa.”
“Mấy cậu đúng là cần phải ăn nhiều vào” – Cô Teresa vừa nói vừa quay qua kéo lấy hai vai tôi, sau khi đã bôi dầu xong cho Misty – “Các cậu ai cũng gầy giơ xương ra”.
Kem chống nắng công nhận là mềm mại và thơm thật. Các ngọn đồi trước mặt tôi bỗng trở nên mờ ảo lung linh hơn hẳn khi cô Teresa thoa kem lên vai cho tôi. Tôi đã lo rằng người mình sẽ phát ra từ tính giống như một cục nam châm. Bởi vì một lần tôi chứng kiến khi người ta cọ sát đuôi bút chì hiệu Eversharp vào miếng vải thô, nó đã hút được cả một miếng giấy nhỏ bay về phía mình và dính chặt ở đuôi bút. Không hiểu sức hút nam châm của tôi sẽ còn mạnh đến thế nào, với sự cọ xát liên tục giữa hai tay của cô Teresa và hai vai của tôi như hiện giờ. Xung quanh tôi lúc này đang có vài mẩu giấy được vùi nửa vời dưới cát, và biết đâu chúng sẽ lao tới dính lấy cả người tôi luôn thì sao. Đấy là còn chưa kể đến tờ nội quy đang được đính nửa vời trên tấm bảng thông báo gần đó với một bên mép đã quăn tít và bật tung cả ra. Không có gì đảm bảo là tờ nội quy đó sẽ tha cho tấm thân gày còm này của tôi, cùng cái quy định (mà mọi người đều bỏ qua): cắm tấm tập thể và phải mặc những bộ đồ kín đáo từ cổ xuống đầu gối. Trong khi đó, tôi cảm thấy như đang trải qua lễ xức dầu thánh, khiến con người cảm thấy cuộc đời thêm tươi đẹp hơn, hoàn toàn đối lập với lễ xức dầu thánh cho người sắp từ bỏ thế gian.
https://thuviensach.vn
Fido đã co giò bỏ chạy khi tới lượt mình.
“Mau!” – Co Teresa hét lên – “Bắt cậu ta lại! Lôi cậu ta về đây!” Spark và Maps thấy vậy vội chạy theo túm được khi Fido đã chạy tới gần cái bảng thông báo ở đằng xa. Fido bị Spark và Maps túm lưng lôi xềnh xệch về, tạo thành hai rãnh dài trên cát. Và cậu ta vẫn giữ nguyên tư thế đó trong khi được thoa kem, nhưng dưới bàn tay của cô Teresa, anh chàng bỗng trở nên thuần hơn hẳn. Không nói câu nào, chỉ ngoan ngoãn ngồi đó ngước lên nhìn cô Teresa và khi thấy cô mỉm cười với mình, cậu ta lập tức nhe răng cười lại. Một lát sau, Fido quệt một chút kem lên đầu ngón tay trỏ và đưa lên mũi ngửi. Trong số năm đứa bọn tôi, cậu ta có vẻ giống một chú cún nhỏ nhất: cái nickname Fido cũng là đặt theo tên một nhân vật trong truyện tranh, một chú-chó-cảnh-giống-như-con-muỗi.
“Tại sao cô lại nhào lộn như vậy?” – Fido ngây ngô hỏi. “Nhào lộn ư?”
“Lúc cô bước từ dưới biển lên ấy.”
“Tôi có nhào lộn sao?”
“Có mà, đúng không các cậu?” – Fido quay ngoắt lại tìm sự ủng hộ của chúng tôi, cả lũ vội gật đầu lia lịa.
“Vậy sao, vậy chắc là tôi có nhào lộn thật. Đúng rồi, tôi luôn thích lộn vài vòng vào các thứ Sáu.”
Cô Teresa cười phá lên thích thú khi phát hiện ra sở thích kỳ quặc khác người của mình. Kế đó cô với tay lấy cái nắp chai trong tay Maps và đóng chai lại.
“Hôm nay đừng phơi nắng quá lâu nữa. Ngày mai tôi sẽ cho mỗi cậu một lượt kem khác.” – nói rồi cô giơ tay chỉ vào một cái lều kiêm-cửa-tiệm dựng trên triền cát – “Các cậu có thể tìm tôi trên đó. Nếu tôi không có ở đó thì cứ rung chuông, hoặc gõ gõ lên quầy nhé. Chào các cậu.”
Mấy đầu ngón tay của Teresa bóng lộn bởi kem dưỡng. Cô nháy mắt chào tụi tôi, sau đó quay lưng đi về phía triền cát, mái
https://thuviensach.vn
tóc buông xõa bên dưới mũ rơm tung bay nhè nhẹ trong gió. Cả mười con mắt chăm chú dõi theo bóng Teresa dần xa. Lần thứ hai trong ngày, cô ấy tiếp tục gây bất ngờ cho chúng tôi. Lần đầu là cú nhào lộn trên biển đã thu hút sự chú ý của chúng tôi. Còn bây giờ là kem chống nắng, nó giống như một cái lưới vô hình bắt gọn lấy chúng tôi vậy.
https://thuviensach.vn
§5
Trong ngày đầu tiên ở vịnh Captain’s Folly, chúng tôi đã nghe theo lời khuyên của cô Teresa, không phơi quá lâu dưới ánh nắng Mặt Trời. Thay vào đó chúng tôi tự bảo vệ làn da bằng cách ngâm mình dưới làn nước mát lạnh của đại dương.
Nơi bờ phía nam của bãi biển là khối tảo biển khổng lồ với những chiếc lá to sụ và những cành cây bằng cổ tay, cổ chân tụi tôi. Mỗi đứa rút ra một con dao nhíp, quà Giáng sinh của các sơ, và khía lên đó. Trên cán dao có khắc tên nhà cung cấp cám và bột vỏ sò cho đàn gà ở St. Roderick – và trứng gà trước giờ vẫn luôn là thứ xa xỉ đối với bọn tôi.
Được cái, mấy cái lá được cắt ra khá dễ dàng nên chỉ một lúc sau, chúng tôi đã có đủ lá để đan thành mũ lá hình tam giác, vài chiếc quần lá chỉ đủ che phần cẳng chân và năm đôi dép lá. Tiếp đó là áo giáp lá, găng tay lá và cuối cùng là tạp dề lá. Trông chúng tôi chẳng khác gì những chiến binh thời Trung cổ đang chuẩn bị ra trận, với vũ khí là những thanh kiếm và giáo mác được vót nhọn, làm từ mấy cành cây bẻ ra từ khối tảo biển to đùng kia.
Kế đó năm thằng chúng tôi, trong mấy bộ áo giáp hăng hăng mùi tảo biển, hùng dũng tiến về phía con ngựa xám đang ngọ nguậy không yên ở cuối bãi biển. Sóng biển vẫn tiếp tục tung bọt trắng xóa ở bờ phía bắc, gần căn-lều-kiêm-hang-động màu vàng nhô ra sát với biển. Khi đó thủy triều đã rút gần hết, để lộ ra những viên đá mang nhiều hình thù ngộ nghĩnh và lạ mắt.
Tiếng ai đó thảng thốt kêu lên: “Con ngựa đó đang đớp nước!” Một giọng khác cáu kỉnh gắt: “Im nào!”
https://thuviensach.vn
Bên dưới mấy cái mũ oặt ẹo làm từ tảo biển, chúng tôi lặng lẽ đứng nhìn con ngựa xám già dùng chân trước đạp mạnh xuống nước, làm cho nước bắn tung tóe lên, sau đó nhanh chóng nghiêng đầu hớt trọn chỗ nước vào miệng. Nó lặp đi lặp lại hành động đạp-và-táp đó thêm vài lần nữa. Đến lần thứ ba, khi nó ngẩng đầu lên, tụi tôi đã kịp nhìn thấy một miếng màu bạc nhỏ lấp lánh giữa hai hàm răng hô. Một miếng bạc thật.
“Ey! Nhìn này! Con ngựa đó bắt được cá mà không cần đến lưỡi câu!”
Mấy thanh gươm đồ chơi rởm ngay lập tức bị rơi vào quên lãng, bởi cả lũ còn mải dõi theo bước chân lọc cọc của con ngựa xám già đang chậm chạp di chuyển từ mép nước lên tới bờ đá, hai hàm răng ngậm chặt con cá. Vừa đặt chân lên tới bờ, nó vội nhả ngay con mồi lên một phiến đá bằng phẳng rồi nện gót bỏ đi, chẳng buồn để mắt tới sự sống chết của chú cá tội nghiệp kia. Nó nghển cổ nhìn về phía những cụm cỏ xanh mơn mởn dọc sườn đồi phía trên bãi đá.
Bỗng từ đâu xuất hiện một cái đầu nhỏ nhắn màu đen cùng cái cổ thon dài. Một chú mèo đen đốm trắng.
Mỗi bước nhảy của nó phải dài tới cả mét, thỉnh thoảng lại dừng bước, thăm dò động tĩnh của con ngựa và cả bọn tôi. Thập thò theo sát phía sau là ba cái đầu màu đen nhỏ xíu xiu, mà tụi tôi đoán là con của chú mèo hoang kia. Mèo mẹ vẫn thận trọng đứng xa vài mét, nhìn chằm chằm về phía tảng đá có con cá đang nằm phơi bụng trên đó. Bất thình lình nó phóng về phía trước, nhanh như một tia chớp, chộp gọn lấy con cá rồi rút ngay về chỗ ẩn nấp ban đầu, đằng sau những cụm cỏ xanh. Và chỉ vài giây sau không còn thấy bóng dáng của bốn mẹ con nhà nó đâu nữa.
Thật đúng như một phép màu.
Vậy mà chú ngựa xám già vẫn ung dung tự tại, quay đầu nhìn ra biển, như thể đang trầm ngâm suy nghĩ giữa tiếng rì rầm của
https://thuviensach.vn
sóng. Trong khi cả đám đang sôi nổi bàn tán về những gì vừa xảy ra, bỗng có một giọng Ai-len đặc sệt, vọng xuống từ cái lều sơn vàng, cắt ngang: “Có gì mà phải ngạc nhiên! Ngày nào mà con ngựa đó chẳng đi bắt cá về làm mồi cho mấy con mèo hoang.”
Đó là tiếng của người đàn ông béo lùn, trán hói, da có màu tai tái.
Chẳng hiểu ông ta nghĩ gì mà đi nói như vậy? Chuyện một con ngựa già bắt cá nuôi lũ mèo hoang – cho dù có diễn ra một trăm lần một ngày thì cũng vẫn là một điều thần kỳ.
Rõ ràng ông ấy không đồng quan điểm với mấy thằng tụi tôi. Ông lạch bạch đi chân đất ra phía rìa cửa và ngó xuống. Mấy ngón chân quặp vào chẳng khác gì chân chim bồ câu. Spark nhận xét: “Chân ông ta như rễ cây khô í nhỉ.” Mái tóc trắng bù xù như bụi cây kim tước được buông xõa trên vai và sau lưng. Đôi mắt xanh thẫm màu nước biển nổi bật trên khuôn mặt khắc khổ, mang đậm dấu ấn tuổi tác.
“Lũ mèo nhà đang biến thành mèo hoang hết rồi” – giọng ông khàn khàn – “Tàn dư của cuộc khủng hoảng kinh tế. Cũng giống như Socrates”.
“Socrates là ai ạ?” – cả lũ đồng thanh hỏi.
“Lạy Chúa tôi, mấy đứa không biết Socrates là ai sao? Chẳng phải tụi bay vừa nhìn thấy mánh khóe của nó sao?” – vừa nói ông vừa hất đầu về phía con ngựa, và chúng tôi chợt hiểu ông đang ám chỉ ai – “Nó được đặt tên theo một triết gia Hy Lạp cổ đại. Người ta đưa nó đến đây cùng đám thanh niên và cả ngày nó chỉ có mỗi một nhiệm vụ duy nhất là mơ mộng. Nhưng thỉnh thoảng nó cũng bị gọi xuống kéo cày, làm cỏ trong vườn cho đám thanh niên. Sự xuất hiện của Socrates luôn khiến cho bầu không khí nơi đây trở nên nhộn nhịp và sống động hơn hẳn.
https://thuviensach.vn
Cũng may, mẹ bề trên ở nhà thờ St. Roderick là người Ai-len nên chúng tôi hiểu được dễ dàng những điều người đàn ông đó vừa nói.
“Nhưng ta e rằng ngày tàn của thị trấn này đã tới, và mấy đứa hẳn đã nhận thấy được điều đó ngay từ đầu. Tất nhiên, khi dân cư nơi đây còn đông đúc thì mỗi ngày đều là một cơ hội lớn. Chúng ta cũng đã từng có cả tá bác sĩ, luật sư riêng của vùng. Vậy mà giờ đây tất cả bọn họ đều đã bỏ đi, để theo đuổi tiền tài và danh vọng. Một người có thể bỏ ra cả ngày tỉ mẩn khắc từng chữ cái tên mình lên thành ghế ở bến xe buýt trên đỉnh đồi, để rồi một tuần sau đó tiếp tục lững thững lên đó hoàn thiện nốt tác phẩm của mình. Ta nói cho mấy đứa nghe, cho dù mấy đứa có tưởng tượng mình là gì bên dưới đám tảo biển rác rưởi kia đi chăng nữa, thì chỉ cần một cuộc khủng hoảng kinh tế thôi cũng đủ hút cạn linh hồn của một đời người.”
Không đứa nào hiểu được ý ông ấy thực sự muốn nói gì nhưng chúng tôi rất ấn tượng với giọng nói oang oang của ông. Đôi mắt sâu hoắm già nua cứ nhìn chúng tôi chằm chằm, hai tay bám chặt lấy vách núi, một cái chân ngắn ngủn thì đang quặp ra đằng sau để gãi chân kia.
“Ta đoán mấy đứa đang ở nhà của vợ chồng nhà Bandy McAnsh đúng không?”
“Vâng, thưa ông” – Spark nói – “Ông ấy gọi chúng cháu là những tín hiệu xấu.”
“Tín hiệu xấu?”
Trong một giây, ông lão quắc mắt trừng trừng, rồi bất ngờ ngoác miệng cười phá lên, lộ rõ hai cái răng vàng khè: “Ha ha. Vậy ra đó là cách ông ta gọi mấy đứa sao? Tín hiệu xấu?” Nói rồi ông lại tiếp tục tràng cười như pháo rền của mình mà không hề có một lời giải thích nào cho hành động kỳ cục này. Tuy vậy, sau khi đi một vòng xem nhà McAnsh thì có lẽ chúng tôi đã phần nào hiểu được ẩn ý đằng sau tràng cười ấy – “Hai người đó sẽ
https://thuviensach.vn
dạy cho mấy đứa làm sao để tồn tại, dựa vào trí thông minh của bản thân, nếu tụi bay có tinh thần ham học hỏi. Phải công nhận là đôi vợ chồng đó có năng khiếu về cuộc sống. Rất nhiều đứa trẻ đã được đưa tới đây, toàn một lũ mơ mộng ngốc nghếch.”
Âm thanh du dương của tiếng đàn piano chợt phá tan bầu không khí tĩnh lặng của vịnh.
Cả sáu người chúng tôi đồng loạt quay ra ngó nghiêng tìm nơi phát ra tiếng nhạc. Nhưng nó từ đâu vọng tới mới được chứ? Ông lão vung tay lên, giơ nắm đấm về phía đầu bên kia của vịnh, và chúng tôi nhận ra nó xuất phát từ căn-lều-kiêm-hang
động của người đàn ông hút tẩu thuốc ban nãy.
“Gã vô tích sự điên rồ!” – ông lão gầm lên giận dữ - “Mấy đứa có biết bên trong cái hang đó có cái gì không? Có biết khônggg?” “Có chứ ạ” - một đứa lên tiếng – “Một cây đàn piano”. “Một cây đàn piano khổng lồ.”
Đứa nào đứa nấy vẫn còn đang choáng ngợp bởi tiếng đàn. “Ta tin chắc đó là một cây đàn khổng lồ mốc meo cũ kỹ. Cứ nghe cái mớ âm thanh tắc tị đang tra tấn chúng ta thì rõ, chắc chắn mấy phím đàn này có vấn đề. Chắc phải có lý do gì đó nên hắn ta mới chơi một thứ khó nghe đến như thế, đúng không? Phải có lý do nào đó.”
Ông vừa nói vừa nhìn qua hết đứa này đến đứa kia để tìm sự đồng tình, tuy nhiên với năm thằng chúng tôi, bản nhạc ấy thật đẹp đẽ. Ông làu bàu nói tiếp: “Hắn là một trong những tên ngốc nghếch nhất mà ta từng thấy. Có cô vợ quý tộc ngày ngày chui lên cái lều đó thắp nến cầu nguyện cho những linh hồn đã chết bằng những tờ giấy bạc năm bảng. Còn gã khờ này, suốt năm năm qua không làm gì khác ngoài việc đóng thuyền. Con thuyền đó đang được phủ bạt đen ở đằng sau đồi. Tuần nào cũng thấy hắn đến đấy??? búa búa sửa chữa cho con thuyền. Hắn đã lên kế hoạch chèo thuyền vòng quanh thế giới. Đúng là một ý tưởng điên rồ mà! Thậm chí hắn còn rủ ta tham gia cùng
https://thuviensach.vn
nữa chứ. Ta là một thủy thủ già đã về hưu, nhưng như thế thì đã sao. Tên ta là O’Leary và vào thời điểm khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, mọi người thường gọi ta là thủy thủ Lão Làng. Ta cũng đã quen với cái tên đó. Mấy đứa nghe đi! Nghe đi! Sao lại có loại nhạc dở tệ đến vậy cơ chứ! Đến cả Socrates thật sống dậy cũng không chịu nổi cái âm thanh ồn ào bát nháo này.”
Con ngựa có vẻ như muốn bỏ đi về phía cồn cát. Nhưng không phải vì muốn trốn chạy khỏi tiếng đàn piano đang vọng ra từ cửa sổ kính của căn nhà màu xám kia.
“Ta nói cho mấy đứa nghe, ở cái vịnh Folly này toàn những kẻ quái gở, và ta là một trong số đó” – ông O’Leary Lão Làng chỉ thẳng tay về phía căn nhà có tấm biển: Không Có Công Lý – “Còn cái đám ngốc nghếch kia nữa chứ” – Ngón tay ông giơ cao hơn, về phía căn nhà vách liền vách bên dưới thung lũng – “Gã Watson già cùng đám phù thủy của mình thường xuyên pha chế loại dung dịch từ những quả mâm xôi, củ cải vàng, bí ngô và mấy thứ tương tự. Toàn thuốc độc cả thôi, rất nhiều là đằng khác. Nhưng hắn vẫn luôn dương dương tự đắc gọi đó là rượu!”
Nếu ông O’Leary gọi tiếng đàn piano là tiếng bát nháo thì có lẽ đánh giá của ông về rượu tự pha chế cũng không chính xác. Ông còn huênh hoang tự nhận mình là người nắm giữ nhiều thông tin quý báu nhất về lịch sử và con người nơi đây. Tuy nhiên, mối bận tâm của chúng tôi lại là một điều khác.
Misty nhặt lấy một viên đá và nghiêng người toan ném xuống nước. Nhưng trước khi viên đá kịp chạm tới mặt nước, ông Lão Làng rền rĩ kêu lên: “Xin Chúa tha tội. Cháu sẽ khiến Henry nổi giận mất!”
Con mắt còn tốt của Misty mở to thảng thốt hỏi xem Henry là ai, trong khi tám con mắt còn lại của tụi tôi cũng đồng loạt hướng về phía ông để tìm lời giải đáp.
“Nó thường xuất hiện ở gần đống phế liệu.”
Phế liệu gì, chúng tôi đồng thanh hỏi.
https://thuviensach.vn
“Tàu thuyền chứ gì nữa. Chứ mấy đứa tưởng tự dưng mà nơi này được gọi là Vịnh Captain’s Folly sao? Từ “Captain” tức là thuyền trưởng đó chẳng lẽ không có ý nghĩa gì sao? Một viên thuyền trưởng nào đó chắc đã nhầm tưởng cái vịnh nhỏ này là đầu cửa sông của thành phố. Chỉ có tên ngốc mới có thể mắc phải một sự nhầm lẫn cơ bản đến thế. Vậy mà cái chuyện không tưởng đó đã xảy ra. Và giờ Henry vẫn thường len lỏi quanh đám gỗ mục nát còn sót lại của con tàu. Phải công nhận một điều, Henry là một con cá mú vĩ đại nhất mà ta từng biết. Kể từ khi lần đầu đặt chân tới đây, vào tám năm về trước, ta vẫn chưa một lần chạm được vào nó, chứ đừng nói là bắt. Khả năng phát hiện ra lưỡi câu từ xa của nó vẫn luôn là một bí ẩn đối với ta, mặc dù ta đã tìm mọi cách, kể cả chỉ dùng có độc một cái que và ít chất nổ gêlinhit phát sáng.”
Ông ngừng lại, giơ một tay lên cho chúng tôi xem. Các đầu móng tay nhăn nheo và bạc màu, như cái mai rùa: “Người ta thường nói não của một con cá không to hơn đầu ngón tay út của con người. Vậy mà Henry vẫn đủ láu cá để không cắn câu của ta. Nó đúng là một con quỷ tinh ranh.”
Nếu ông Lão Làng đến đây sớm vài năm nữa thôi thì có thể nói ông đã đi theo rình rập con cá đó một quãng thời gian dài bằng cả số tuổi của tụi tôi.
“Nhưng rồi ta sẽ bắt được nó. Ta sẽ làm được. Sẽ bắt được nó.” Ánh mắt ông ấy lóe lên như thể chúng tôi sẽ là những mồi câu tiếp theo. Không ai bảo ai, đứa nào đứa nấy nhích dần từng bước lùi ra xa, trong khi Spark khôn khéo che đậy sự rút lui ấy bằng một câu hỏi: “Ông ơi, con cá mú đó to bằng nào ạ?” “Nó to gấp đôi người cậu, nhóc con ạ, gấp đôi! Ta rất hy vọng là sẽ tóm được nó tối nay, nhưng thứ Sáu thường không được may mắn cho lắm.” – vừa nói ông vừa liếc mắt nhìn về phía đỉnh đồi đối diện, nơi chúng tôi đã từng đứng trầm trồ nhìn xuống vịnh Captain’s Folly. Nhưng có điều gì đặc biệt về ngày
https://thuviensach.vn
thứ Sáu nhỉ? – “Đó luôn là một ngày xấu, khi Foley Can Đảm oang oang với toàn thế giới về sự xuất hiện của mình.” Foley Can Đảm là ai?
“Thật là đáng trách, đến Foley Can Đảm mà tụi bay cũng không biết sao? Không một đứa nào biết sao? Chưa bao giờ nghe tới cái tên đó à? Đó chính là ngày thứ Sáu mà ta nói!” – ông chỉ tay về phía đỉnh đồi đối diện – “Vào ngày này mỗi tuần, trước khi màn đêm buông xuống, thường là khoảng một tiếng sau khi Mặt Trời lặn, từ trên kia, mấy đứa sẽ nghe thấy tiếng động cơ ầm ĩ, phát ra từ chiếc xe máy đỏ mà Foley sẽ chễm chệ ngồi trên đó điều khiển. Anh ta trang bị đầy đủ từ găng tay, mũ bảo hiểm, kính mắt đến chiếc áo khoác da bóng lộn cùng chiếc quần hầm hố” – nói rồi ông hỉ mũi tỏ vẻ khinh bỉ nhìn xuống mấy cái áo giáp làm từ tảo biển của tụi tôi – “Rồi anh ta sẽ phi xe bon bon lao xuống con đường gập ghềnh khúc khuỷu này, như thể hai tay lái là đôi cánh của một chiếc phi cơ, tiếng động cơ rền vang ầm ĩ, và ánh đen phát ra từ cái mũ bảo hiểm vung vẩy như một thanh gươm sáng chói trong đêm. Với những kẻ đứng ngoài quan sát như chúng ta, mọi thứ diễn ra chỉ như trong nháy mắt nhưng với cô vợ trẻ của Foley thì quãng thời gian chờ đợi đó thật chẳng khác nào cả thiên thu. Cô ta chính là người đã bôi kem chống nắng cho mấy đứa tụi bay khi nãy. Đã có lúc tất cả chúng ta ở dưới đây đều phải nín thở vì lo sợ, và ta xin thừa nhận rằng không ít lần ta thì thầm cầu nguyện cho sự an toàn của Foley.”
Cái chú Foley Can Đảm này chắc chắn phải là một người đàn ông cao lớn lực lưỡng, như thế mới xứng đáng là chồng của người phụ nữ mà chúng tôi vừa gặp hồi trưa, người đã nhào lộn vào trong trái tim của năm thằng chúng tôi. Họ sẽ là một cặp vợ chồng vô cùng hoàn hảo!
Ông thủy thủ Lão Làng có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện: “Và nếu ta là mấy cậu, ta sẽ không đi lang thang khắp nơi trong
https://thuviensach.vn
mấy cái áo lá tảo biển đó lâu. Bởi khi khô đi, nó sẽ dính chặt vào người, và vợ chồng nhà Bandy McAnsh có lẽ sẽ phải dùng búa và đục để lấy chúng ra khỏi người mấy cậu cho coi.”
Kế đó ông lão ngửa đầu cười vang, nhưng rồi im bặt, cau có nhìn ra vịnh, khi tiếng đàn piano tiếp tục ngân vang. Ông với tay lấy một miếng sắt gõ boong boong vào miếng kim loại treo lủng lẳng trước cánh cửa sơn vàng. Tất nhiên là tiếng đàn piano không vì thế mà bị át đi, trái lại, tiếng kim loại chát chúa đó chỉ có thể khiến con cá mú Henry khó chịu mà thôi.
“Để ta nói cho mấy đứa nghe điều này” – ông lão lại cất tiếng – “Cứ lần nào ta sắp lừa được con quái Henry đó là y như rằng tên đó xuất hiện và xua nó ra xa bởi cái âm thanh chói tai kia. Và sau ngần ấy năm trời, Henry đã coi đó như một lời cảnh báo. Đây đúng là một cuộc cạnh tranh ma quỷ mà!”
Ông lão vẫn tiếp tục một mình than thở còn tụi tôi kéo nhau đi khám phá cái thân tàu màu đỏ đang được trùm kín dưới tấm vải bạt màu đen. Mấy cái áo giáp làm từ lá cây bắt đầu co lại. Không thể tin được loại áo giáp này, vì thế cả đám nhanh chóng lột bỏ từng miếng, từng miếng một.
Hoàng hôn bắt đầu đổ dài xuống dọc triền đồi, báo hiệu một ngày sắp kết thúc. Nhưng với năm đứa tụi tôi, đó mới là sự bắt đầu. Bởi đứa nào cũng háo hức chờ đợi sự xuất hiện của người có tên Foley Can Đảm.
https://thuviensach.vn
§6
Khu nhà McAnsh bao gồm căn nhà chính và căn nhà gỗ nhỏ liền kề. Tường nhà được sơn màu xanh nhạt, và trang trí bằng các kiểu quốc kỳ, cờ hiệu trông rất vui mắt, khiến cho không khí trong phòng lúc nào cũng như có lễ hội. Những lá cờ hiện diện ở khắp nơi, trên rèm cửa, khăn bàn, khăn ăn…
Mấy cái giường ngủ trong căn nhà gỗ được trải ga giường cũng mang hình cờ hiệu sặc sỡ, và chỉ khi chui xuống dưới những tấm ga giường đó, mấy đứa chúng tôi mới hiểu ý của ông Bandy khi gọi chúng tôi là những tín hiệu xấu – mặc dù sự so sánh đó thật khó hiểu và khập khiễng.
Nhiều ngày sau đó, chúng tôi đã tìm thấy trong phòng khách một tấm hải đồ ghi rõ ý nghĩa của các tín hiệu quốc tế và nhận ra rằng: thì ra lâu nay mấyđứa vẫn nằm ngủ trên những hình vuông mang ký hiệuCó người ngã xuống biển, Tôi cần một hoa tiêu, Tôi đang đem theo thư tín… Vậy thôi cũng đủ tưởng tượng ra không ít những cơn ác mộng khủng khiếp.
Cũng nhờ tấm hải đồ đó mà chúng tôi nhận ra rằng chiếc váy của bà McAnsh có hình cờ hiệu
Các động cơ của tôi đang phóng giật lùi. Ông Bandy buộc ở đầu cái kèn trombone bằng chiếc khăn mang hình cờ hiệu trông rất lạ mà không đứa nào trong chúng tôi xác định được nó có ý nghĩa gì. Nhưng cứ suy theo cái tiếng kèn đầy cảnh báo của ông thì có lẽ chúng có nghĩa là
Hãy tránh xa, tôi đang gặp khó khăn trong việc điều khiển tàu.
Tấm khăn trải bàn mà chúng tôi vẫn ngồi ăn tối mang hình phù hiệu hải quân cũ. Sau bữa ăn, chúng tôi được giao nhiệm
https://thuviensach.vn
vụ rửa bát đĩa, bằng miếng giẻ cũng mang hình cờ hiệu. Công việc đó thật quá đơn giản và nhẹ nhàng so với những việc mà chúng tôi vẫn phải làm khi ở St. Roderick. Chúng tôi cũng không phải nơm nớp lo sợ sẽ bị trừng phạt nếu lỡ tay làm đổ hay làm vỡ món đồ nào, không chỉ riêng đồ sành sứ. Ở viện St. Roderick tôi đã từng phải lau toàn bộ sàn hành lang chính, bên dưới gầm cầu thang rộng thênh thang, nơi chỉ các nữ tu và khách mời được lui tới. Chỉ có điều tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đó quá tốt, hơn hẳn mức cần thiết, khiến cho Mẹ Bề trên có lần bị trượt ngã và gẫy xương hông. Sau đó tôi bị điều sang tổ gọt khoai tây. Kể từ đó tôi đã hiểu được sự tinh tế của cái gọi là quyền miễn trừ ngoại giao. Sẽ không ai nói gì, cũng không sợ bị trừng phạt hay phải làm việc gì nặng nhọc. Tuy nhiên, gọt khoai tây chính là một trong những nhiệm vụ tồi tệ nhất mà không đứa trẻ nào mong muốn. Bởi lúc nào cũng có một sơ kè kè bên cạnh, luôn miệng phàn nàn về việc bạn đang lãng phí khoai tây, chỉ vì cái vỏ khoai tây bạn vừa gọt không đủ mỏng để ánh nắng Mặt Trời có thể rọi qua.
Phía bên ngoài căn nhà của gia đình McAnsh, bóng đêm đang dần bao trùm lấy toàn bộ thung lũng và vươn rộng ra ngoài biển khơi. Chúng tôi đã quá quen thuộc với cảnh bóng đêm đi kèm theo tiếng chó sủa, tiếng còi tàu cùng tiếng lanh canh của các toa tàu, nhưng việc bóng đêm hòa lẫn cùng tiếng thì thầm, thổn thức của sóng biển như thế này là lần đầu tiên. Năm đứa hồi hộp dỏng tai ngóng tiếng động cơ xe máy của chú Foley Can Đảm.
Trong khi chờ đợi, bà McAnsh kể cho chúng tôi nghe lần gặp mặt đầu tiên với ông Bandy; về đám cưới của hai người và lời chúc phúc của mọi người. Bọn tôi ngồi nghe câu chuyện tình lãng mạn nhà McAnsh một cách chăm chú.
“Ngay từ ban đầu ta đã chú ý tới ông ấy” – bà cười tươi với tụi tôi, sau đó quay qua mỉm cười âu yếm với ông Bandy – “Cái cách
https://thuviensach.vn
ông ấy đi vào và gọi đồ uống. Cái cách ông ấy nhấc mũ lên gật đầu chào mọi người, và đó luôn là một dấu hiệu tốt lành cho quán bar đông khách của ta. Hai chân gần như không đứng vững khi nhìn thấy nụ cười lịch lãm của Bandy. Trước đó, ta chưa từng trải qua cảm giác hồi hộp như vậy trong cuộc đời mình. Sau đó, ngày nào ông ấy cũng băng qua cả một quả đồi, lặn lội tới quán bar của ta chỉ để làm một vại bia hay một cốc rượu. Cứ nhìn theo bóng ông ấy lủi thủi đi về một mình là tim ta như thắt lại. Tất nhiên là khi đó ta đã biết khá nhiều về Bandy, một người đàn ông tốt, có công việc làm vườn ổn định tại tư gia Hodge. Ông ấy từng sát cánh bên người chồng quá cố của phu nhân Hodge trong đội kỵ binh hồi chiến tranh. Đúng không, mình?”
“Chính xác” – ông Bandy gật gù.
Ta đã không ngừng tự hỏi xem mối quan hệ giữa hai chúng ta sẽ đi đến đâu. Cho tới một ngày ông Bandy bỏ cả buổi chiều để ngồi ở quán bar của ta, và trước khi Mặt trời xuống núi, ta đã trở thành bà McAnsh tương lai. Em nói đúng không, mình?”
“Không sai” – ông Bandy nói.
“Khi đó ta đã nói – và giờ ta vẫn nói như vậy – một người đàn ông luôn thể hiện rõ bản chất của mình qua cái cách họ uống rượu. Có rất nhiều người không xác định được mình muốn gì. Những người chỉ hớp từng ngụm nhỏ là những người khá kỹ tính, còn những người tu liền một hơi lại là những người thô kệch, lỗ mãng. Bandy của ta thì khác hẳn, luôn biết bản thân muốn gì, biết phải thưởng thức đồ uống sao cho đúng cách. Và ông ấy cũng là người yêu cầu một câu trả lời ngay lập tức, không có chuyện lần lữa với Bandy McAnsh. Sau câu trả lời đồng ý đầy hạnh phúc của ta, một đám cưới long trọng được tổ chức tại nhà thờ. Có thể nói phương châm chung của vợ chồng ta về sự cho và nhận đã mang lại cho chúng ta năm năm chung sống hạnh phúc cho tới hôm nay. Chúng ta là vậy, đúng không quý ngài
https://thuviensach.vn
McAnsh? Sống và được sống, đó chẳng phải là cách sống của chúng ta sao?”
“Chính xác lời của tôi là sống để yêu. Chúng ta là vậy.” Cuối cùng thì cũng tới giờ chúng tôi phải đi ngủ. Không có đứa nào tìm cách chống lại điều đó. Cả lũ lần lượt thay sang bộ quần áo ngủ mà các sơ đã tự tay may lấy, sau đó dàn hàng ngang ra đứng ngoài cửa, dõi mắt nhìn về phía con đường gập ghềnh trên đỉnh đồi, lắng nghe tiếng chim hải âu, tiếng đàn piano hòa quyện cùng tiếng rì rầm của sóng biển.
Mấy đứa bị mừng hụt tới hai lần. Lần đầu là chiếc xe của người đàn ông chuyên đóng tàu vào các ngày cuối tuần mà ông O’Leary vừa nhắc tới ban chiều. Chiếc thứ hai xuống dốc với tốc độ nhanh hơn một chút, sau đó dừng lại bên ngoài căn lều của câu lạc bộ lướt sóng, nơi một vài thành viên của đội cứu hộ thường cắm trại vào các ngày thứ Bảy và Chủ nhật. Cả đám vẫn tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi, cái nóng của mùa hè vẫn len lỏi lẩn khuất trong không khí ẩm ướt của biển.
Vào những đợt nắng nóng cao điểm mùa hè, chúng tôi hiếm khi ló mặt ra khỏi bốn bức tường của viện St. Roderick lúc muộn thế này, trừ phi phải tham gia đoàn diễu hành lễ hội của nhà thờ, trong những bộ lễ phục đậm mùi hương trầm. Còn bây giờ người đứa nào đứa nấy toát ra toàn mùi kem chống nắng và tảo biển. Cả vịnh như đang nín thở chờ đợi. Khắp nơi, các ánh đèn lần lượt được thắp sáng, từ tòa biệt thự của quý bà giàu có, đến căn nhà tạm bợ của ông lão tự pha chế rượu, và cái đèn lồng treo lủng lẳng trước của nhà Lão Làng. Đám chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho một màn hành động bất ngờ và vô cùng kịch tính – những tiếng nổ vang rền, ánh đèn pin chói lòa phát ra từ cái mũ bảo hiểm lóe sáng như thanh kiếm bạc xé tan màn đêm tĩnh lặng của các vịnh nhỏ bé này. Tuy nhiên âm thanh đầu tiên mà chúng tôi nghe được chỉ là mấy tiếng brừm brừm nho nhỏ phát ra từ sau đỉnh đồi. Cái tiếng brừm brừm nho nhỏ kia đã
https://thuviensach.vn
biến thành tiếng động cơ nổ vang rền, như muốn đánh thức cả cái thị trấn này dậy. Một tia sáng chói lòa quét ngang toàn thung lũng. Càng ngày, tiếng động cơ càng trở nên mạnh mẽ, như một con quái vật bằng sắt phì phò mài vuốt chuẩn bị cho một cuộc tấn công. Chú Foley và chiếc xe lao như bay xuống triền dốc, cả thung lũng và vịnh Captain ngập tràn tiếng động cơ, làm rung chuyển toàn bộ bầu không khí nơi đây. Bóng đêm như bị chia cắt thành từng mảnh nhỏ, rung rinh va đập vào nhau, vang vọng ra tận biển khơi – ngôi nhà của chú cá mú tinh ranh Henry và các loài cá lớn nhỏ khác.
“Chắc chắn đó là người đàn ông can đảm và vĩ đại nhất thế giới” – Misty trầm trồ thán phục.
Chiếc xe vẫn tiếp tục xuyên thủng màn đêm, lao bon bon trên sườn đồi khúc khuỷu đó. Ánh đèn pin trên trán chú ấy vụt quét qua mặt chúng tôi. Thật bất ngờ, nó như một cái tát nhẹ lên má, một cái xiên vào mắt, và cả đám lũ lượt chạy lên chỗ cao nhất của cồn cát gần nhà, trên người có độc bộ quần áo ngủ. Chúng tôi cũng kịp nhìn thấy hình ảnh chú Foley Can Đảm ngoặt tay lái rẽ thẳng vào căn tiệm nơi cô Teresa đang nhảy tưng tưng reo hò trong chiếc áo khoác dài.
Tiếng động cơ đột nhiên tắt ngúm, ánh đèn pin cũng lịm dần, kéo theo tiếng chó sủa phát ra từ căn biệt thự nhà Hodge, rồi chúng tôi nghe thấy tiếng ai đó cười vang, một tiếng cười đậm chất đàn ông, sau đó là tiếng phụ nữ ríu rít: “Anh yêu, anh yêu!”
Kế đó, hai vợ chồng họ vui vẻ cùng nhau vào nhà, trên vai chú Foley khoác một chiếc balô to sụ.
Sóng biển rì rầm như đang vỗ tay tán thưởng. Còn năm thằng chúng tôi vẫn còn chưa hết choáng ngợp trước màn biểu diễn ngoạn mục vừa diễn ra trên sườn đồi.
Dưới chân chúng tôi, triền cát bỗng trở nên ẩm ướt lạ thường, mát lạnh như những cánh hoa rơi, như thể chúng đã mất đi toàn bộ hơi ấm của mình khi màn đêm buông xuống, giống như
https://thuviensach.vn
cái cách mà mấy bông hoa giọt băng vẫn thường khép lại khi Mặt Trời xuống núi.
Chúng tôi rón rén tiến về nơi chiếc xe mô-tô đang được dựng sừng sững. Sức nóng của động cơ vẫn còn lan tỏa trong không khí, mấy chiếc xi-lanh vẫn còn nóng tới mức khi Spark vừa sờ nhẹ lên nó, ngay lập tức phát ra tiếng xèo xèo cùng làn hơi nước.
Năm đứa thay phiên nhau ra sờ mó chiếc xe, cho tới khi thấy bóng chú Foley xuất hiện trước cửa. Chú ấy bước ra ngoài hiên, vươn vai thở phào khoan khoái rồi quay lưng đi vào trong nhà. Còn mấy thằng chúng tôi, đang thập thò nấp sau bờ giậu, nhanh chóng rút về chỗ cồn cát, sau đó chạy thẳng một mạch về nhà chui vào dưới mấy tấm ga có hình “tín hiệu xấu”. Trên đường về nhà, chúng tôi đã giẫm phải đám tảo biển rơi rớt ra từ mấy cái áo giáp lá ban chiều. Đúng là giờ chúng đã đặc quánh lại và không còn độ đàn hồi như trước nữa.
Giờ thì tụi tôi đã lờ mờ hiểu được tại sao cô Teresa lại thích nhào lộn vào các ngày thứ Sáu đến như vậy.
https://thuviensach.vn
§7
Tiếng chuông cầu nguyện trong nhà thờ, tiếng leng keng của chuỗi tràng hạt khi sơ vào phòng đánh thức mọi người, tiếng be be của đàn cừu và đám gia súc ngoài chợ - đó là những âm thanh buổi sáng duy nhất mà chúng tôi đã được biết, cho tới khi đặt chân tới vịnh Captain’s Folly này. Giờ thì chúng tôi thức dậy trong tiếng gáy của đàn chim biển và ánh bình minh đỏ rực trải dài lên làn nước trong xanh.
Trước khi ăn sáng, cả đám dắt díu nhau chạy ra ngoài chiêm ngưỡng con xe máy hầm hố tối hôm qua giữa ánh sáng ban ngày. Trông nó chẳng khác nào một con bò tót khổng lồ được làm bằng thép và lắp thêm bánh xe.
“Có ai thách tớ ngồi lên đó không?” – Spark hỏi.
“Tớ thách” – Maps nói, và thường thì cũng chỉ có cậu ấy là chịu mở miệng.
Phải tới khi Spark trèo lên con xe đó, bốn đứa còn lại mới hình dung ra được hết sự đồ sộ của chiếc xe. Trông Spark như đang bò ra trên một cái xẻng ngoại cỡ. Cậu ta bắt đầu oằn èo thể hiện, phải rướn gần như hết người về phía trước thì hai tay Spark mới với được tới tay cầm của xe. Kế đó cậu bóp bóp cái bầu nhựa màu đen của cái còi. Một tiếng bíp ré lên. Spark tụt vội xuống khỏi xe và cả đám chúng tôi phi như bay ra sau cồn cát để nấp. Nhưng chẳng thấy bóng dáng của chú Foley hay cô Teresa đâu.
Sáng hôm đó, hai ông bà McAnsh cũng không dậy sớm, vì vậy tụi tôi quyết định đi dạo quanh thung lũng. Đầu tiên, chúng tôi bị thu hút bởi mấy cái quai búa trên con thuyền đang đóng dở
https://thuviensach.vn
nằm hớ hênh trên cát. Không thấy bóng dáng chủ nhân của nó đâu. Có lẽ ông ấy đang lúi húi sửa chữa gì đó ở trong thân tàu. Thảm hoa giọt băng trắng muốt đang vươn mình đón lấy tia nắng Mặt Trời, từng bông từng bông một, tiếp đó là từng khóm từng khóm, trải dài từ vườn nhà McAnsh uốn lượn quanh các triền đồi trong thung lũng. Một bên là rừng thông xanh mướt, và những dải hoa đậu màu vàng, màu tím đang nở rộ. Xa hơn một chút là vết tích của những căn lều tạm bợ khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra – nơi chúng tôi quyết định sẽ phải lên đó khám phá cho thật kỹ.
Chúng tôi tha thẩn dạo chơi quanh bãi rác khổng lồ của thung lũng, xới tung mọi thứ lên, như thể khơi lại ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong suốt quãng thời gian ông lão O’Leary săn lùng con cá mú Henry. Spark bắt đầu phiên đấu giá cái khung giường gỉ sắt. Hồi ở St. Roderick, bốn đứa còn lại vẫn thường hùa theo các phiên đấu giá của cậu ta bằng những câu trả giá rẻ bèo, nhưng hôm nay cả đám sôi nổi hò hét qua làn khói bụi với những cái giá cao đến ngất trời. Như thể chúng tôi đang sở hữu những khoản tiền kếch xù và cái khung giường cũ nát đó đáng giá cả một gia tài vậy.
Chợt tôi nhìn thấy một mẩu gỗ chạm khắc được mạ vàng đã nhạt màu. Tôi cúi xuống bới tung mọi thứ lên, lấy cho bằng được miếng gỗ đang bị vùi dưới một lớp bụi dày. Đó là một khung ảnh nhỏ được chạm trổ khá tinh vi.
Hình ảnh cái chong chóng mạ vàng trên nóc nhà Hodge hiện rõ qua cái khung ảnh hình vuông đã được lau chùi cẩn thận. Khung ảnh vừa đủ to để tôi có thể nhét cái mặt mình vào đó, nhưng không đủ to để chui lọt đầu. Nếu so với mấy đứa còn lại thì cái tôi tìm được vẫn đáng giá hơn hẳn: Misty với mẩu gạc hươu, Maps với mấy quyển tạp chí cũ, Fido khệ nệ kéo theo cái xuồng bằng thiếc, trong khi Spark vẫn khăng khăng đòi bán đấu giá những thứ bọn tôi vừa tìm được.
https://thuviensach.vn
Không khí trong nhà McAnsh yên ắng đến thảm hại. Mọi người lặng lẽ ngồi ăn, không ai nói tiếng nào, ngoài tiếng dĩa, cốc lanh canh và tiếng ợ hơi của ông Bandy. Thật trái ngược hẳn với hình tượng hào hoa phong nhã mà bà McAnsh đã kể cho chúng tôi tối qua. Bà vừa liếc xéo sang phía chồng một cái nhìn sắc lẹm. Công nhận là hình tượng của ông Bandy đã sụt thảm hại chỉ sau có một đêm. Tôi nhận thấy ánh mắt của ông cứ liên tục nhìn về phía chai rượu rỗng không một cách tiếc nuối.
Trên cồn cát cũng chưa hề thấy bóng dáng chú Foley Can Đảm đâu.
Tay vẫn giơ cao cái khung ảnh rỗng, tôi đưa con ngựa già Socrates vào tầm ngắm. Nó vẫn đang đứng bất động, mơ mộng nhìn ra ngoài biển khơi. Không thấy bóng mẹ con đàn mèo hoang đâu. Trên trời, một con chim hải âu đang lượn lờ bay trong gió, nó bay chậm đến nỗi tôi cứ ngỡ nó đang đứng yên, ngoài một chút phe phẩy ở đầu cánh. Ở phía đằng xa, những cột sóng va đập vào nhau tung bọt trắng xóa. Chứng kiến bức tranh sống động đó, tôi chợt nhận ra một điều: đại dương làm tôi liên tưởng tới sự vĩnh cửu. Nó dường như không có giới hạn, cứ trải dài mãi mãi. Có lẽ do được nuôi dạy bởi các sơ trong tu viện từ tấm bé nên trong tôi luôn mang một nỗi sợ hãi về sự vĩnh cửu. Hoặc có lẽ đây cũng chỉ là một bằng chứng rằng đức tin của con người – niềm tin vào sự bất diệt của bản thân – tồn tại ngay từ giai đoạn đầu đời.
Cảnh vật trong khung ảnh đột nhiên thay đổi, lọt vào chính giữa khung hình là chân dung của chú Foley Can Đảm.
https://thuviensach.vn
§8
Buổi sáng thứ hai tại vịnh Captain’s Folly, chúng tôi đã phải mất một lúc lâu mới dụ được ông O’Leary mở miệng. Chỉ tại câu hỏi ngu ngơ của Misty:
“Ông đã từng ở trên con tàu đó đúng không ạ?”
“Ta? Ta ở trên con tàu nào?” – ông kinh ngạc hỏi lại. “Con tàu ngoài kia kìa!” – Misty chỉ về phía con tàu đang đậu ngoài khơi.
“Mi đang lảm nhảm cái gì thế?”
“Tại ông nói mình là thủy thủ mà”.
“Mi nghĩ ta bao nhiêu tuổi rồi hả?”
“Cháu nghĩ ông phải cỡ tuổi của thuyền trưởng Cook” – Misty ngây ngô trả lời.
“Kiểu đùa đó chẳng hay ho chút nào đâu” – Ông O’Leary cao giọng, để lộ hai cái răng nanh trông như hai dấu ngoặc đơn. Chẳng hiểu sao ông ấy lại tỏ vẻ khó chịu đến vậy khi được khen sống lâu như thuyền trưởng Cook. Ông chỉ hào hứng trở lại khi nói về chú Foley: “Đúng vậy, như mấy đứa đã nhìn thấy, khi trở về vào mỗi đêm thứ Sáu, trông cậu ta hùng dũng là thế, nhưng chỉ đến sáng hôm sau đã biến thành một người trông đến là mệt mỏi. Nếu giờ chẳng may có ai đó bị chết đuối ngoài kia thì cậu ta sẽ chẳng có đủ sức mà cứu đâu, mặc dù là thành viên chủ chốt của đội cứu hộ dưới đường hầm thì đúng là cậu ta đã chẳng còn đủ sức để làm việc gì khác thật.”
“Đường hầm nào cơ ạ?” – bọn tôi hỏi bật lại.
“Chẳng phải cậu ta là đội trưởng sao?” – ông nói như thể đó là điều hiển nhiên mà ai cũng phải biết – “Họ đang xây dựng đường tàu điện ngầm mới dưới lòng thành phố, công việc rất
https://thuviensach.vn
tốn công sức và mệt mỏi, mặc dù nghe nói tiền công cũng khá lắm”.
“Tại sao họ lại phải xây dựng đường tàu ở dưới lòng đất ạ?” – Fido tò mò.
“Ngốc thế!” – Spark chế giễu – “Trên mặt đất không còn chỗ chứ sao. Cháu nói có đúng không ạ?”
“Chắc chắc vậy” – ông O’Leary mím môi tỏ vẻ không chắc chắn. Sơ Catherine, giáo viên tiếng Anh của tụi tôi mà ở đây chắc chắn sẽ quở trách ông vì tội nói sai ngữ pháp cho mà xem. Nhưng e rằng ông già lắm điều này sẽ không vì thế mà sửa đổi.
Fido vẫn không hiểu nổi tại sao người ta phải xây dựng đường tàu ở dưới lòng đất. Bởi ở nơi chúng tôi sống, tàu hỏa có thể chạy hàng trăm dặm mà không sợ bị va vào cái cây hay tổ kiến nào. Ấn tượng duy nhất của chúng tôi về thành phố là những tòa nhà vắng vẻ, những cánh cửa sổ tối tăm và không khí ảm đạm.
Tuy nhiên, những thông tin ông O’Leary vừa nói thật đáng để suy nghĩ. Trong mắt tụi tôi, phải làm việc dưới hầm tối chẳng khác nào đi làm nô lệ. Cũng dễ hiểu tại sao chú Foley vội vã quay trở về tận hưởng bầu không khí trong lành của đại dương và sự ấm áp của ánh Mặt Trời vào ngày cuối tuần.
Vừa nhìn thấy bóng chú Foley từ xa, cả bọn nhao nhao đặt ra những câu hỏi khiến một người lão làng như ông O’Leary cũng phải lúng túng.
“Các cậu ơi!” – Fido đột nhiên hạ giọng, khi thấy chú Foley phóng xe lao vùn vụt qua cồn cát trắng – “Chú ấy trông như tượng đài í nhỉ”.
“Cái gì?” – ông lão giật nảy mình hỏi lại.
“Tượng đài!” – Fido dõng dạc nói.
“Tượnggggg – đàiiiii!” – Spark ngân nga.
“Đúng là da cậu ta có màu nâu bóng thật, và cậu ta có được tạc tượng hay không thì đó là việc của vợ chồng cậu ta. Nhưng
https://thuviensach.vn
không ai lại đi ví một người đang còn sống với cái tượng đài cả, hiểu chưa?” – ông lão lạnh lùng nói. Có lẽ tại ông không hiểu ý của Fido thôi, chứ tụi tôi hiểu hết. Chú Foley Can Đảm có thân hình cân đối, đôi chân rắn chắc, đôi vai vạm vỡ và cơ bắp cuồn cuộn của thần Adonis, bức tượng bằng đồng đứng sừng sững giữa ngã tư, gần viện St. Roderick. Chiếc áo khoác duy nhất mà bức tượng Adonis có được là lớp bụi dày cộp có màu vàng đỏ.
Chúng tôi cũng không có thời gian giải thích điều đó với ông Lão Làng, bởi cả bọn còn đang mải quan sát mọi cử động của chú Foley khi chú lên xe và đạp chân nổ máy. Không ai bảo ai, đứa nào đứa nấy phi như bay trên nền cát cứng chạy về phía thần tượng của mình. Vừa nhìn thấy tụi tôi, chú với tay bóp còi inh ỏi, như muốn giục tụi tôi hãy chạy nhanh hơn nữa, bởi chú ấy sắp sửa rời đi.
Chú Foley quả là bản sao của tượng đài Adonis trong hình dạng con người. Cái xe máy trông đồ sộ là thế khi Spark ngồi lên nhưng lại rất vừa vặn với thân hình cao lớn của chú ấy. Năm đứa chúng tôi vây xung quanh, trầm trồ thán phục, xen lẫn chút e dè.
Mỗi lần từ viện St. Roderick đi bộ tới nhà thờ trung tâm, chúng tôi thường dừng lại chiêm ngưỡng cái tượng đài lừng lững giữa ngã tư. Tượng thần Adonis ăn mặc giống như một vị thần Hy Lạp, nhưng tay lại cầm một khẩu súng trường ở tư thế nghỉ. Trông bức tượng lúc nào cũng như đang mỉm cười, nét mặt không thay đổi dưới mọi thời tiết. Chúng tôi vẫn luôn muốn nhìn thật gần vào khuôn mặt ấy, và ước mơ đó đã trở thành hiện thực khi chú Can Đảm mỉm cười với chúng tôi – nụ cười thân thiện và ấm áp, đủ dành cho tất cả mọi người ở St. Roderick.
“Tất cả leo lên đây nào!” – chú Foley khoát tay gọi, giọng sang sảng.
https://thuviensach.vn
Lũ chúng tôi vẫn còn chưa hết ngất ngây khi được nhìn ngắm tận mắt thần tượng của mình nên chẳng đứa nào hiểu được câu đó nghĩa là thế nào, cho tới khi chú bế bổng Spark lên đặt vào giữa hai tay lái, Misty ngồi trên nóc bình xăng, còn Maps, Fido và tôi yên vị trên yên ghế sau. Ba đứa chúng tôi đứng hết cả lên, một tay ôm chặt lấy nhau, tay còn lại vòng quanh cổ chú Foley.
Tiếng động cơ rồ lên và bánh xe bắt đầu lăn. Cả đám bám chặt lấy nhau khi xe bắt đầu tăng tốc. Tấm biển Không Có Công Lý nhảy nhót phía trước mặt chúng tôi. Khi mấy chú cháu gần tới bãi đá bên dưới căn lều của ông Lão Làng, đột nhiên chú Foley quặt tay lái lao thẳng về phía mép nước, lướt nhanh qua đám bọt trắng xóa, để lại đằng sau những vệt dài trên nền cát ướt. Có lẽ đất bên dưới chân chúng tôi cũng đang bị rạn nứt. Ở phía trên tay lái, Spark hò hét ầm ĩ vì phấn khích. Cậu ta lại mở phiên đấu giá chăng? Không, cậu ra đang kêu chú Foley phóng nhanh hơn nữa. Và chú ấy đã làm như vậy. Cuộc phiêu lưu của mấy chú cháu tụi tôi càng lúc càng nhanh, càng lúc càng tiến xa khỏi mép nước. Ông già Lão Làng hai tay chống nạng, từ trên cao nhìn xuống với ánh mắt muốn tóe lửa. Các thành viên của CLB lướt sóng đang ngồi nhàn rỗi trên bờ.
Chưa bao giờ chúng tôi được la hét đã đời như vậy. Chỉ tội nghiệp chú Foley, đang bị sáu cánh tay siết chặt lấy cổ. Nhưng tất nhiên chú ấy không vì thế mà phàn nàn, trái lại, chú ấy ngửa đầu cười vang khi thấy sự phấn khích của năm đứa tụi tôi.
Rất lâu sau đó, khi chiếc xe dừng hẳn lại, chúng tôi mới cảm nhận được hơi nóng bốc ra từ động cơ bên dưới. “Thấy đã chưa?” – chú Foley nháy mắt hỏi.
Với tôi, Misty và Fido, có lẽ như thế là quá đủ, ba đứa nhảy khỏi xe, loạng choạng như say rượu. Trong khi Maps vẫn ôm chặt lấy cổ chú Foley, Spark nhảy tưng tưng trên tay lái đòi chú đi thêm vài vòng nữa. Nếu Misty, Fido và tôi biết trước được điều sẽ xảy ra sau ngày hôm đó (điều mà tôi tình cờ nghe lỏm
https://thuviensach.vn
được trong đêm giao thừa), có lẽ chúng tôi đã cố gắng bám trụ tới cùng.
Thay vào đó, ba đứa chúng tôi leo lên bờ ngồi nghỉ. Ai cũng phải công nhận một điều: chú Foley Can Đảm là một tay lái bậc thầy, một nhà vô địch.
https://thuviensach.vn
§9
Điều đó càng được khẳng định rõ hơn khi chúng tôi quay trở về căn nhà – kiêm – cửa – tiệm của gia đình chú Foley. Đó là lần đầu tiên chúng tôi tới thăm nhà chú Foley. Chú mời cả đám tới nhà để ăn mừng cuộc gặp gỡ tình cờ của mấy chú cháu, bằng bánh ngọt và đồ uống lạnh do cô Teresa đích thân chuẩn bị. Vừa ăn chú vừa kể cho chúng tôi nghe sự tích của ngôi nhà này. Hóa ra nó được cắt ra từ một toa tàu cũ. Chúng tôi trầm trồ ngắm nhìn những bức ảnh được treo kín mít trên tường. Trong đó có một tấm hình chú Foley đứng khoanh tay oai vệ bên cạnh chiếc xe máy, miệng cười rạng rỡ. Kế đó là bức hình chụp chú Foley đầu đội vòng nguyệt quế, trên tay cầm rất nhiều cúp bạc. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là bức ảnh chụp khu chú Foley đang nghiêng người phóng như bay trong gió, nhanh đến nỗi toàn thân chú mờ mờ ảo ảo như mặt đất bên dưới chúng tôi lúc mấy chú cháu lướt nhanh trên cát. “Giờ thì mấy đứa biết chú điên khùng thế nào rồi đó” – chú Foley lên tiếng.
“Ey! Chú bỏ hai tay ra lái xe kìa!”
“Ta đã nói ta là một tên điên khùng mà!” – chú Foley cười vang.
Đúng lúc đó, cô Teresa đi vào, đặt lên bàn hai đĩa bánh ngọt, rồi khoát tay gọi chúng tôi. Có gì đó tương đồng giữa cái cách mà cô ấy nói chuyện với cái cách mà Spark vẫn thường thể hiện tại các phiên đấu giá tưởng tượng. “Đó là bức ảnh chú ấy đang khởi động. Lại đây! Lại đây xem chú Foley Can Đảm của mấy đứa đang ngẩng cao đầu kiêu hãnh trong bức ảnh có một không hai này, phóng xe như bay với tốc độ 60 dặm/giờ còn hai tay
https://thuviensach.vn
khóa chặt sau lưng. Thật kỳ diệu, thật mới mẻ, thật phấn khích, đúng không? Nếu chưa được thấy bức ảnh thách thức với thần chết này thì quả là phí nửa đời người”.
“Nhìn này! Có tận hai người!”
Quả là có hai người trong bức hình treo trên tường thật. “Cuộc đua tử thần!” – cô Teresa reo lên – “Họ phi như bay trong gió! Bất phân thắng bại! Họ vụt qua nhau, họ bám đuổi lấy nhau giành giật từng cen-timet một! Đó là cuộc đua khốc liệt giữa chú Foley và chú Johns, nó gay cấn và hồi hộp chẳng khác nào những trận đánh ở đầu trường La Mã ngày xưa.” “Cô ơi! Có phải cô đó không?” – một đứa reo lên.
Cô Teresa nhíu mày nhìn vào bức ảnh: hình ảnh một cô gái trẻ, mặc áo sơ – mi bẻ cổ, đi giày ống cao. Chúng tôi dám chắc đó là cô ấy. Không thể lẫn vào đâu được.
“Ừm, cô nghĩ là vậy” – cô Teresa hóm hỉnh hùa với chúng tôi. “Cô cũng biết lái xe sao?”
“Đúng vậy”.
“Các cậu nhìn này! Buông tay, buông chân luôn!” Phải công nhận bức ảnh đó trông nghệ thuật không kém gì những bức ảnh của chú Foley. Trong đó, cô Teresa đang nằm rạp người trên nắp bình xăng, chiếc xe vẫn đang phóng như bay trong gió, hai tay giang rộng ra như đôi cánh, hai chân quặp ra đằng sau lưng. Chẳng trách cô ấy nhào lộn nhẹ nhàng đến như vậy.
Tiếp đó, bài thuyết minh được nhường cho chú Foley. “Xin giới thiệu với mấy đứa bức ảnh thể hiện trí óc của con người hoàn toàn có khả năng chiến thắng thần chết! Nữ tài xế trong bức hình vừa trình diễn một màn nhào lộn điêu luyện trong tư thế của một con chim đang sải cánh tung bay trong gió. Cô ấy vẫn hoàn toàn giữ được thăng bằng trên chiếc xe đang phóng như bay với tốc độ kinh hồn: 60 dặm/giờ. Xin quý vị cho một
https://thuviensach.vn
tràng pháo tay cổ vũ tinh thần cho nữ tài xế xuất sắc của chúng ta”.
Chú Foley vỗ tay ầm ĩ và năm đứa tụi mình cùng hùa theo. Phát hiện bất ngờ vừa rồi khiến cho đầu óc tôi quay cuồng, không phân biệt được thật hay mơ nữa.
“Tại sao cô lại từ bỏ thế ạ?”
“Là chú bắt cô ấy từ bỏ đấy” – chú Foley nói.
“Tại sao ạ?”
“Tại vì cô ấy lấy mất ánh hào quang của chú!” – vừa nói chú Foley vừa quay sang nhìn cô Teresa một cách trìu mến, mà sau này khi nghe ông O’Leary kể về vụ tai nạn năm đó tụi tôi mới hiểu rõ hơn mọi chuyện. Khi chú Foley và cô Teresa dọn về sống ở vịnh Captain này, họ đã kéo theo cả toa tàu cũ – nơi trú ẩn tạm bợ của mấy công nhân ngành điện thất nghiệp. Chú Fopey đã cắt nó ra làm đôi, sau đó nối lại với nhau bởi một căn nhà gỗ ở chính giữa. Một đầu được biến thành căn tiệm nhỏ của cô Teresa, đồng thời làm kho chứa hàng và nơi nhận thư tín của cả vịnh.
Chúng tôi ăn uống cười nói vui vẻ, chín con mắt vẫn dán chặt vào mấy bức ảnh trên tường. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao chú Foley có thể lao như bay xuống đồi trong đêm tối một cách dễ dàng như vậy.
Có vẻ như chú Foley đã cân nhắc đắn đo rất lâu trước khi nói ra suy nghĩ của mình: “Tại sao vẫn chưa có ai nhận nuôi mấy đứa?”
“Anh Foley!” – cô Teresa thốt lên sửng sốt.
Chú Foley cũng nhận ra câu hỏi vừa rồi của mình có phần hơi khiếm nhã, nên chỉ biết nhìn tụi tôi cười trừ một cách bẽn lẽn. Tuy nhiên, tụi tôi hoàn toàn không chạnh lòng tẹo nào trước câu hỏi đó. Nói chính xác hơn, tụi tôi cảm thấy vô cùng cảm kích trước sự quan tâm ấy. Khi thấy chúng tôi không tỏ ý khó chịu vì câu hỏi của mình, chú Foley liền thở phào nhẹ nhõm.
https://thuviensach.vn
Như để chuộc lỗi, chú hào hứng kể: “Hôm trước chú vừa nghe được một câu chuyện rất buồn cười…”
Tuy vậy, ở trong bếp, cô Teresa có những phản ứng rất khó hiểu.
“Ôi anh Foley, có cần phải thế không?”
“Em yên tâm, chuyện vui thôi. Tụi nhỏ chắc chắn sẽ thích”. “Nếu mà chúng hiểu được”.
Chúng tôi quay lại nhìn nhau không hiểu ý cô Teresa muốn ám chỉ điều gì – cho tới khi chú ấy bắt đầu kể chuyện. Chú ấy cứ lăn ra cười ngặt cười nghẽo trước cả khi tụi tôi kịp hiểu nội dung câu chuyện. Càng cố giải thích, chú ấy càng cười to hơn. Hai mắt chú ấy giàn giụa nước, đỏ lên vì những tràng cười. Nếu có ai nhìn thấy chú Foley lúc ấy chắc sẽ tưởng chú bị mắc một căn bệnh dị ứng kỳ lạ nào đó. Chúng tôi chỉ lo chú sẽ cười đến thắt ruột mất. Cô Teresa đứng ở cửa bếp, ngán ngẩm lắc đầu nhìn ông chồng của mình. Kết quả là bọn tôi vẫn chỉ nghe được lõm bõm vài từ trong toàn bộ câu chuyện đó. Tuy nhiên, trong mắt tụi tôi, cái cách mà chú ấy kể chuyện cũng đủ hài hước lắm rồi.
Cuối ngày hôm đó, sau khi ăn uống no nê, tôi lôi cái khung ảnh mới nhặt được lên, và tự hình dung ra hình ảnh vợ chồng cô chú Foley đang nhào lộn trên chiếc xe đua. Tôi đã chôn nó dưới cồn cát và đánh dấu vằng một que củi khô. Tuy nhiên, khi đó tôi không thể ngờ được rằng chính cái khung ảnh cũ kỹ cùng những hình ảnh tưởng tượng ấy sẽ gây cho tôi không ít rắc rối, chỉ vài tuần sau đó.
https://thuviensach.vn
§10
Cuộc sống tần tiện và kỷ luật tại St. Roderick đã vô tình nhen nhóm cái tính nhỏ nhen, ganh đua trẻ con giữa mấy thằng tụi tôi, nhưng những thứ đó đã biến mất ngày khi chúng tôi bước chân vào thế giới tràn ngập ánh nắng Mặt Trời và tự do tại cái vịnh Captain’s Folly này. Thậm chí tôi đã cho rằng Thiên đường hay vườn địa đàng chính là nơi mà tất cả mọi sự cạnh tranh hay sự ganh đua – cũng như hậu quả của chúng – đều biến mất mãi mãi. Chúng tôi không còn là những cậu bé mang trái tim tội lỗi sau mỗi buổi cầu kinh tối Chủ nhật, chạy đua xem đứa nào tắt được nhiều nến nhất bằng cái chụp nến hình chóp. Cũng không còn tranh giành nhau quanh đĩa bánh mì và hũ mứt, chỉ vì một lát bánh mì trông có vẻ dày hơn hay phết nhiều mứt mận hơn một chút. Và khi đứng trước mặt các sơ, đứa nào đứa nấy lại tỏ ra ngoan ngoãn, hiền lành một cách khá là giả tạo.
Ngày thứ Năm của chúng tôi ở cái vịnh xinh đẹp này cũng là ngày cuối cùng của tháng 12. Lớp da bị cháy nắng trên lưng tụi tôi đã bắt đầu bong, mặc dù kem chống nắng của cô Teresa đã giúp chúng tôi khỏi những tổn thương da trầm trọng hơn.
Chú Foley sẽ quay trở về đêm nay, vì thế chúng tôi bỏ ra cả ngày quanh quẩn bên ông Lão Làng O’Leary, nghe ông giải thích xem người ta đã phải dùng toa móoc xe tải để chở hai nửa toa tàu cũ đó xuống triền đồi như thế nào.
“Phải nói đó là một điều thần kỳ” – ông mơ màng hồi tưởng – “Họ đã vượt qua sáu khúc quanh co gập ghềnh đó một cách ngoạn mục, hai nửa toa tàu đó được đưa xuống thung lũng an toàn và nguyên vẹn, thay vì lăn lông lốc xuống triền đồi và biến
https://thuviensach.vn
thành một đống sắt phế thải. Nếu mấy đứa chịu khó quan sát kỹ hơn bên dưới lớp sơn màu kem của hai nửa toa tàu, sẽ thấy trước đây nó từng là toa ăn hạng nhất. Một kết cục buồn cho cái toa tàu, nhưng đây quả đúng là một nơi lý tưởng để vứt bỏ ánh hào quang của quá khứ”. Ông ấy vẫn một mực tin rằng cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua là cần thiết để cân bằng lại giữa các quốc gia và lòng tốt giữa con người với nhau.
Ông chà đạp không thương tiếc lên hy vọng của tụi tôi về buổi tối cuối năm sắp tới. “Để ta nói cho tụi bay nghe. Đừng mong chờ sẽ có sự kiện gì hay ho được tổ chức. Sẽ chẳng bao giờ nơi đây tìm lại được cái không khí lễ hội tưng bừng như nó đã từng có. Thậm chí có người còn tạo ra cả một dàn pháo hoa của riêng mình ấy chứ. Ta không bịa đâu, một dàn pháo hoa thực thụ luôn. Những quả pháo sáng bay vút lên trời cao, tuôn trào thành hàng trăng hàng ngàn ngôi sao lấp lánh hoặc tạo thành những vòng xoáy sáng trắng như những cái chong chóng khổng lồ. Chỉ có điều chủ nhân chế tạo ra nó với mục đích để bán, nhưng mấy đứa biết đấy, khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra, những trò chơi đó trở nên xa xỉ và lãng phí. Vì thế cậu ta cùng rất nhiều người khác đã bỏ tới thung lũng này. Chắc chắn rằng ở nơi nào đó trên kia, nơi họ đã từng dựng lều tạm bợ sống qua ngày, còn nguyên cả một kho…”
Một kho pháo hoa, ôi!
“Nhiều lúc ta vẫn tự hỏi” – ông lão tiếp tục – “không biết tới khi nào mới có một mồi lửa chạy dọc thảm cỏ xanh rì kia tới thẳng kho thuốc pháo ấy và thắp sáng cả vùng trời nơi đây vào một đêm giao thừa oi ả. Mặc dù nếu chuyện đó xảy ra, dám chắc con quỷ Henry sẽ lại hoảng hồn chuồn mất khi sắp sửa cắn mồi câu của ta.”
Và nếu chuyện đó xảy ra thật, sẽ không còn chút pháo hoa nào còn sót lại trên khu cắm trại bỏ hoang đó. Cả đám chúng tôi bỏ mặc ông già O’Leary lại một mình mà đắm chìm trong nỗi
https://thuviensach.vn
tuyệt vọng của loài người, để lũ lượt kéo nhau lên khu cắm trại bỏ hoang kia.
Trên đó giờ đây chỉ còn lại những dải đất trồng, dấu tích của những khóm hành tây, khoai tây, cây đại hoàng, bắp cải… và những chiếc lều dựng tạm bợ, giấy dán tường được cắt ra từ các tờ báo, tạp chí, những bức ảnh quăn góc và những bức vẽ tay nguệch ngoạc của chính họ. Một trong số đó vẫn còn nguyên hai chiếc giường, chủ nhân của chúng có lẽ là fan trung thành của phim ảnh: bởi trên tường được dán đầy những bức ảnh cắt ra từ tạp chí của Marion Davies, Jean Harlow và Janet Gaynor. Trong khi người hàng xóm bên cạnh lại là fan cuồng nhiệt của các môn thể thao: bởi khắp nhà dán đầy ảnh của cung thủ Henry Segrave và chiếc cúp vàng, tay golf cừ khôi Gene Sarazen, nhà vô địch 100m tại Thế vận hội tổ chức tại Los Angeles, cùng nhà vô địch quyền Anh Gene Tunney.
Chủ nhân của mấy túp lều còn lại nếu không phải là người hứng thú với các vấn đề chính trị thì chí ít cũng là người thích theo dõi tin tức hàng ngày. Các bài báo được cắt ra xếp thành từng xấp ngay ngắn, với dòng tít nói về việc thủ tướng các nước và lãnh đạo các nền kinh tế thế giới gặp mặt nhằm tìm ra hướng giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế; và những dòng bình luận trào phúng đã nhạt màu. Bên dưới là bài báo ca ngợi Byrd, nhà thám hiểm tài ba người Mỹ là người đầu tiên bay tới Nam Cực và hình ảnh một vị thiếu tá lục quân mới thăng cấp hàm tại cầu cảng Sydney, dùng thanh kiếm cong cắt băng khánh thành. Ở góc phòng vẫn còn treo lủng lẳng quyển lịch của ba năm về trước.
Một vài căn có sàn, một số khác được trải vải bạt cắt ra từ mấy cái bao tải cũ. Tuy nhiên, tất cả đều đã mọc cỏ xanh rì, đây đó là mấy khóm hoa dại. Chúng tôi cậy tung nền nhà lên và ngó xuống bên dưới tìm kiếm nhưng không thấy bóng dáng cây pháo hoa nào. Tuy vậy, mọi nỗ lực của chúng tôi không phải là
https://thuviensach.vn
vô nghĩa. Cả đám tìm được cả một thùng đựng dụng cụ câu cá, đủ cần câu cho mỗi đứa một chiếc, mấy cuộn dây câu vẫn còn tốt và mấy cái móc câu vẫn sắc nhọn, dù đã hơi bị gỉ.
Nơi đây chẳng bị bỏ không như tụi tôi đã nghĩ. Thứ nhất, trên mấy bức tường đã tróc sơn vẫn còn những bông hoa hướng dương đang nở rộ, chứng tỏ chủ nhân trước kia của chúng là những người thanh nhã và biết hưởng thụ cuộc sống. Thứ hai, nghe đồn ở đây có ma.
Maps chỉ vào căn lều trước mặt chúng tôi và thì thào: “Căn lều đó có ma”. Chỉ một câu đó thôi cũng đủ khiến bốn đứa còn lại rúm ró sợ hãi. Maps không phải là không có lý khi nói như vậy, bởi chúng tôi nghe thấy có tiếng rên rỉ vọng ra từ bên trong. Không lẽ có ma quỷ ở cái vịnh Captain này thật? Theo lời sơ Catherine ở St. Roderick, mỗi khi xuất hiện, quỷ sa-tăng phát ra những tiếng kêu kỳ dị khác thường. Hắn thường quanh quẩn tại hiện trường những vụ án mạng chưa tìm ra hung thủ. Có lẽ khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra, đã có người bị ám sát tại đây.
“Vào đi” – Maps giục Spark, kẻ đang lộ vẻ tò mò thấy rõ, nhưng vẫn còn hơi chần chừ - “Tớ thách cậu đánh thức hắn dậy đấy”.
“Đánh thức ai?” – Spark bật lại.
“Con ma đang ngáy khò khò đó”.
“Được rồi!” – Spark hít một hơi dài, hai tay xốc lại cái cạp quần chon gay ngắn, cái cách mà cậu ấy vẫn thường làm mỗi khi nhận lời thách đó của tụi tôi – “Được rồi, mình sẽ thử. Hi – hi!”
Mấy năm nay chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm với những người ngủ ngáy rồi. Tuy nhiên, nếu so với con ma trong lều kia thì mấy sơ ở St. Roderick vẫn như có bộ giảm thanh trong người vậy.
https://thuviensach.vn
Đây cũng là căn lều rộng nhất tại khu đất bỏ hoang này, trần nhà được lợp thiếc, và cửa sổ không có kính. Lũ chúng tôi lùi ra xa trong khi Spark rón rén tiến về căn lều, thò đầu qua cửa sổ nhìn vào bên trong. Spark giống như con mèo hoang đang rình mò con cá mà chú ngựa già Socrates bắt được từ dưới biển, còn bốn đứa chúng tôi là đám mèo con đang thập thò đứng đợi từ xa.
Trong lều, tiếng ngáy vẫn vang lên đều đều như lò kéo bễ. Spark lom khom dưới bệ cửa sổ thêm một lúc nữa, rồi nhón chân chạy thật nhanh về phía mấy đứa tụi tôi.
“Ai thế?” – Maps hỏi vội.
“Rip Van Winkle”.
“Là ai?” – Fido ngẩn người ra.
“Nhân vật trong truyện của Washingto Irving, nằm ngủ suốt nửa đời người, để rồi khi thức dậy đã thấy râu tóc bạc phơ dài đến tận gót chân.” – Spark giải thích.
Có lẽ cái người nằm trong căn lều đó đã bỏ thành phố tới đây, để trốn chạy cái đói và những khu phố thất nghiệp, cũng như cảm giác xấu hổ khi phải xếp hàng chờ suất ăn bên ngoài các bếp ăn từ thiện. Để rồi chìm vào giấc ngủ dài đợi cho cơn khủng hoảng trôi qua và sự thịnh vượng quay trở lại với tất cả mọi người.
Giờ thì đến lượt Maps bị thách đố.
“Thách cậu đánh thức được hắn dậy đấy”.
“Có lẽ hắn không muốn bị đánh thức”.
“Sao cậu không tự mình đi mà hỏi” – Spark cười sằng sặc và hô vàng cái khẩu hiệu đặc trưng của mình: “Hurrum! Hoo! Hee! Haw!”.
Maps nhìn chằm chằm ông bạn mình một lúc rồi miễn cưỡng chấp thuận lời thách đố. “Được thôi, tớ sẽ làm”. Nét mặt lạnh lùng, đầy cảnh giác của cậu ấy không hề lay chuyển một tẹo nào.
https://thuviensach.vn
“Nhớ cù vào ngón chân hắn” – Spark ranh mãnh nói. Vai mèo mẹ giờ đã được chuyển sang cho Maps. Tôi biết Misty và Fido cũng có chung sự ghen tị với tôi khi thấy vẻ bình tĩnh của Maps lúc chấp nhận lời thách đố đó của Spark. Tiếng ngày o o giờ đã vọng tới cả chỗ tụi tôi đang đứng nghe như tiếng huýt sáo bị ai đó bóp nghẹt. Maps ngó nghiêng một hồi qua cửa sổ, sau đó chậm rãi đi về phía tụi tôi, một bên miệng nhếch lên đầy xảo quyệt.
“Spark, không hề có ngón chân nào”.
Hóa ra người nào đang ngáy đó không chỉ là nạn nhân của cuộc khủng hoảng mà còn là cựu chiến binh cụt chân của Đại chiến Thế giới lần thứ nhất!
“Vậy sao,” – Spark không chút do dự nói tiếp – “vậy thì kéo đuôi đi”.
Tất nhiên là Maps có cách giải quyết cái bí ẩn này một cách nhanh chóng và thực tế hơn, bằng cách vỗ hai tay thật mạnh vào nhau và gào ầm lên: “Chúc Mừng Năm Mới!”.
Tiếng ngày chợt ngưng bặt, một thân hình xám xịt bật dậy nhô cao hơn cả khung cửa sổ, Maps và Spark rú lên cười ngặt nghèo, chế nhạo ba thằng tụi tôi, lúc này đang ngẩn người ra vì bất ngờ. Hóa ra con ma ngáy ngủ đó chính là con ngựa già Socrates với hàm răng trắng lóa. Hy vọng rằng trong năm tới, Socrates sẽ bắt được nhiều cá to hơn. Chúng tôi coi đây là một trò đùa vui, để ăn mừng cho sự tự do của cả nhóm tại cái vịnh Captain’s Folly xinh đẹp này.
Thật không may, niềm vui đó không kéo dài được lâu.
https://thuviensach.vn
§11
Khi áng chiều tà đầu tiên xuất hiện, chúng tôi cảm nhận được không khí giao thừa đã thực sự bắt đầu.
Mấy ngọn đồi đằng sau vịnh Captain’s Folly tuy đã che khuất cảnh Mặt Trời lặn, nhưng không đủ để giấu đi những tia sáng đỏ rực đang hòa lẫn cùng làn nước biển trong xanh. Chỉ cần nhìn thấy màu vàng cam đậm của những con tàu đang đi trên biển là chúng tôi có thể đoán được quả cầu lửa ấy vĩ đại đến nhường nào.
Chú Foley trở về sau khi Mặt Trời đã lặn khoảng một tiếng, kèm theo tiếng nổ chát chúa quen thuộc của cái động cơ xe máy và ánh đèn pha sáng rực như lưỡi gươm bạc, muốn khuấy tung màn trời đêm cho tới khi không khí trở nên đặc quánh. Lúc chú Foley giang tay ôm lấy cô Teresa, bỗng nhiên cái mũ bảo hiểm, cùng áo khoác da và chiếc quần hầm hố khiến chú ấy to lớn lạ thường, và cô Teresa như biến mất trong vòng tay ấy.
Vợ chồng ông bà Bandy McAnsh đã xách theo chai rượu đi tới Serenity, vì thế năm đứa bọn tôi được tự do muốn làm gì tùy thích. Cả đám chui vội vào mấy bộ quần áo ngủ rồi chuồn khỏi nhà, đi xem lễ hội về đêm.
Câu lạc bộ lướt sóng là điểm dừng chân đầu tiên. Cánh cửa câu lạc bộ mở rộng, phía bên ngoài dựng một thùng bia lớn đã được khoan lỗ. Bên trong là tiếng nhạc xập xình phát ra từ cái máy hát di động. Điện được dẫn về từ Serenity, toàn bộ mặt tiền của căn lều sáng rực rỡ nhờ một bóng đèn tròn khổng lồ, rọi sáng cả hai cồn cát bên ngoài và vùng nước cạn gần bờ. Trong khi ở viện St. Roderick, người ta thường chỉ dùng đèn hồ quang mỗi khi phải lùa đàn gia súc ra chợ bán mà thôi.
https://thuviensach.vn
Thấp thoáng trong bóng tối nơi ánh đèn không với tới được là năm thằng tụi tôi đang nằm rạp xuống cát, hồi hộp chờ đợi cuộc vui bắt đầu. Mặc dù không đứa nào biết đêm nay sẽ có tiết mục gì, nhưng ai cũng chắc mẩm hy vọng được chứng kiến những màn thú vị.
Chú Foley vừa xuất hiện trong một chiếc áo sơ mi và quần soóc, đi bên cạnh là cô Teresa đang âu yếm khoác tay chồng. “Chúng ta đi nào, cùng nhau tiến lên, rồi lượn vài vòng” – vừa thấy họ, Spark liền cao hứng ngân nga điệp khúc quen thuộc của mình.
Các thành viên trong câu lạc bộ lướt sóng ai cũng trẻ hơn chú Foley nhiều. Người nào người đấy đều có bạn gái đi cùng. Tất cả mọi người đều vui vẻ nhảy múa theo tiếng nhạc. Riêng chú Foley được giao nhiệm vụ phụ trách thùng bia. Ông O’Leary cũng có mặt trong buổi tối hôm nay – bên dưới vẫn mặc nguyên cái quần soóc lụng thụng hàng ngày, nhưng được cái, phía trên là áo sơ mi trắng tinh, kèm theo chiếc cà vạt to như cái mái chèo. Ông không quên cầm theo một cái cốc nhôm cũng to tướng. Và hai chân thì vẫn đi đất như mọi khi.
“Cứ đợi cho tới khi ông ấy nhảy sẽ biết” – Spark thì thầm – “Cô Teresa sẽ phải rất cẩn thận nếu không muốn bị giẫm vào chân”. Giờ đây khi đã khá thân thiết, chúng tôi gọi cô bằng tên Teresa, chứ không gọi theo tên chồng, như mọi người vẫn gọi. Nỗi lo lắng của tụi tôi hóa ra thành thừa bởi ông O’Leary không phải là người thích nhảy. Ông chỉ đứng một góc nhìn mọi người, mặt nhăn nhó tỏ vẻ khó chịu thấy rõ.
Một lát sau, vợ chồng ông bà McAnsh xuất hiện, cùng nhau tiến thẳng ra chỗ sàn nhảy. Họ cũng lắc cũng giật, như thể muốn lắc cho rơi hết đám cát còn bám lại trên giày và quần áo. Sau đó cả hai khoát tay gọi bia.
Tối nay lại một lần nữa chúng tôi không có cơ hội chiêm ngưỡng dung nhan của quý bà giàu có nhất vùng. Mặc dù ở đây
https://thuviensach.vn
đã gần một tuần nhưng chưa đứa nào được một lần nhìn thấy mặt bà, ngoài người quản gia và người giữ chó của gia đình. Chủ nhân của cây đàn piano khổng lồ, người được mọi người đặt biệt danh là Galore Bàn tay vàng, cũng không thấy xuất hiện. Tương tự với chủ nhân của căn nhà gắn tấm biển về công lý và người tự pha chế rượu.
Nhưng ông Porter Bụng Phệ - chuyên gia đóng tàu vào các buổi cuối tuần – thì có. Dường như ông làm điều đó chỉ để chứng minh với mọi người một điều: một người hoàn toàn có thể tự đóng tàu một mình, dù cho có bị hạn chế về vóc dáng. Ông Porter vừa béo, vừa hói, mặt lúc nào cũng đỏ au, bụng phệ ba ngẫn, mồ hôi nhễ nhại, tay luôn thường trực điếu thuốc lá và nốc bia ừng ực như hũ chìm. Theo bản danh sách các tay bia rượu khét tiếng trong vùng của bà McAnsh thì ông ấy là người đầu bảng. Ông Lão Làng O’Leary có lẽ sẽ là đối thủ ngang cơ với ông Porter Bụng Phệ về khoản này, nếu ông không ngừng huyên thuyên trò chuyện với chú Foley. Trong khi đổi đĩa hát và rót bia cho mọi người, đầu chú Foley say sưa lắc lư cùng điệu nhạc.
Đột nhiên, một đôi trai gái từ bên trong chạy ra, nói cười ầm ĩ. Họ cứ chạy, chạy mãi cho tới khi bóng tối nuốt chửng lấy cả hai.
“Họ trốn đi chơi riêng đấy!” – Spark nói oang oang. Cứ cái đà này không sớm thì muộn, tụi tôi cũng bị mọi người phát hiện ra cho coi.
“Cậu có im đi không hả!” – Maps khẽ gắt lên.
Với chúng tôi, chỉ cần được đứng từ xa quan sát mọi người hội hè cũng là thỏa mãn lắm rồi. Đêm giao thừa mọi năm, cả đám toàn phải nằm giương mắt ngắm trần nhà ở St. Roderick, dỏng tai lên nghe bên ngoài tiếng còi xe inh ỏi, tiếng mọi người hát vang bài ca truyền thống “Ngày xửa ngày xưa” để đón mừng năm mới. Còn giao thừa năm nay ở vịnh Captain’s Folly, mặc dù
https://thuviensach.vn
không biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng chúng tôi biết nó chắc chắn nó sẽ đặc biệt hơn tất cả các năm trước cộng lại. Đột nhiên từ đằng xa có tiếng ai đó kêu thất thanh. “Là con Socrates” – Spark nói.
“Nó không bao giờ hét lên như thế”
“Không, là cái chị lúc nãy hét vì bị con Socrates hôn trộm. Muuaaakkkkk” – Spark vừa nói vừa chu mỏ ra bắt chước. Cả đám lại phải quay sang ra hiệu cho cậu ta nhỏ tiếng xuống.
Và rồi chẳng ai còn thời gian để ý tới đôi bạn trẻ kia nữa, vì chú Foley vừa bước ra khỏi cửa, vung tay liệng cái đĩa hát vào trong đêm tối, giống như cái cách người ta vẫn thường làm với chiếc boomerang. Cái đĩa bay vút trong gió, vụt qua đầu tụi tôi và cuối cùng cắm phịch xuống bãi cát chỉ cách chỗ chúng tôi nằm có vài phân. Cả đám lổm ngổm bò ra lượm lại cái đĩa “Nhà trên bãi chăn thả” (cũng là một bài hát cổ), khi đó đã cong queo méo mó đến thảm hại.
Đột nhiên anh chàng vừa chạy đi lúc nãy lảo đảo quay trở về, tay khua loạn xạ trong không khí, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng cô gái kia đâu. Tiếng nhạc đột nhiên tắt ngúm. Chú Foley cởi phăng áo sơ mi ra và hò hét ra lệnh gì đó.
Chỉ mới một giây trước họ còn đang nhảy múa vui vẻ, vậy mà trong nháy mắt các thành viên của đội cứu hộ ai về chỗ người nấy, xếp hàng ngay ngắn. Chú Foley với vội lấy cái phao treo lủng lẳng ở chân đài quan sát và lao thẳng xuống nước, những người còn lại bám sát theo sau. Ba người leo lên đài quan sát, còn chú Foley một mình lao ra biển. Sóng xô vào người chú mỗi lúc một dữ dội làm bọt nước bắn tung tóe. Ở phía đằng xa, mặt biện khẽ nhấp nhô gợn sóng, tối đen một màu. Không thấy tăm hơi cô gái bị chết đuối kia đâu.
Cả bờ biển sáng rực bởi ánh đèn pha ô tô và xe máy. Ánh sáng từ chiếc đèn ô tô đang đậu giữa hai cồn cát rọi thẳng ra biển, mở
https://thuviensach.vn
đường cho chú Foley vượt qua những con sóng lớn đang giận dữ đập tới tấp vào luồng ánh sáng trắng. Nhìn từ xa, trông chúng chẳng khác nào những con bò tót hiếu chiến với những chiếc sừng khổng lồ trắng xóa.
Ông bà McAnsh, ông O’Leary Lão Làng, ông Porter Bụng Phệ và một vài người khác có mặt tại bữa tiệc đang túm tụm lại xung quanh chân tháp quan sát. Một ánh đèn khác rọi ra từ cái xe mô tô to đùng của chú Foley, vừa được cô Teresa và hai người nữa hì hục đẩy ra. Chúng quét qua quét lại từ bên này vịnh sang bên kia vịnh, rà soát kỹ lưỡng mọi động tĩnh trên biển. Thỉnh thoảng lại có bóng mấy con chim hải âu bay vụt qua.
Tụi tôi trườn từ từ tới gần chỗ chiếc xe máy và nghe được một anh trong câu lạc bộ đang cố trấn an cô Teresa: “Anh ấy sẽ không sao đâu. Anh ấy vẫn đang ở trong vùng an toàn mà”.
“Nhưng ở đó đâu có vàng đai chống cá mập đâu”. “Vịnh này không có cá mập”.
“Sao cậu có thể chắc chắn điều đó?”
“Trước giờ chưa có ai bị cá mập tấn công ở đây cả”. “Tôi chưa bao giờ thấy ai lại đi bơi trong đêm tối mịt mù như thế này. Sao cô ta điên thế không biết!”
Cũng may là nãy giờ chưa hề thấy có bóng dáng cái vây cá mập nào. Duy chỉ có một điều: đây là lãnh địa của con cá mú khổng lồ Henry, mà nó là chuyên gia đi tấn công con người, nếu không nói là ăn thịt người. Lo là lo ở chỗ đó.
Chú Foley đã ngừng bơi và quay đầu nhìn về phía bờ. Cái đèn ph axe máy vẫn tiếp tục quét dọc bãi biển. Lúc này đây trông mặt biển như một cái huyệt khổng lồ, được bao quanh bởi những cột sóng trắng. Bỗng nhiên, ai đó từ trên tháp quan sát kêu ầm lên, tay chỉ về phía bắc của bãi biển. Ngay lập tức đèn pha xe máy được lia thật nhanh về phía đó.
Hình ảnh cô gái bị mất tích hiện rõ lên mồn một.
https://thuviensach.vn
Cô ta đang cười vang khoái chí, chân vung vẩy nghịch nước, quần áo thì ướt sũng nước. Cô ấy có vẻ ngà ngà say. Anh bạn trai vội chạy thật nhanh về phía bạn gái mình và dìu cô lên bờ, đi về phía cái xe ô tô đang đậu trên cồn cát. Tiếng của ông Lão Làng, át cả tiếng sóng biển, nghe có vẻ cay độc nhưng xa quá nên tụi tôi không nghe được rõ.
Tiếp đó mọi người chạy ra dìu chú Foley lên bờ. Và cái giây phút chú vừa đặt chân lên bờ cát mịn cũng chính là lúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, bởi từ căn lều của ông Galore Bàn tay vàng, chúng tôi nghe thấy bản nhạc “Ngày xửa ngày xưa” đang vút lên thánh thót.
https://thuviensach.vn
§12
Hai vợ chồng ông bà McAnsh bắt đầu một năm mới bằng cách giúp nhau vượt qua mấy cồn cát để về nhà. Chúng tôi thì vẫn ở lại.
Chú Foley đã quay trở lại với một chiếc quần soóc mới, giao lại thùng bia và công việc thay đĩa hát cho người khác. Trông chú ấy không có vẻ gì là bực tức khi phải xông pha ra biển một cách vô nghĩa và đầy nguy hiểm như vậy. Chú ngồi một mình trên chiếc ghế đẩu dựng bên ngoài sân. Ông lõa lắm điều O’Leary, như một con bướm đêm khổng lồ khó tính, đang le ve bên cạnh trút vào tai chú nỗi bực dọc của mình. Chúng tôi nằm cách đó khá xa vì thế nghe câu được câu chăng. Cái bóng của họ đổ dài trên cát, về phía chỗ tụi tôi đang nằm.
“Đã ai được uống thử bia chưa?” – một đứa lên tiếng. Tất nhiên là chưa thằng nào trong chúng tôi có được vinh dự đó.
“Không biết mùi vị của nó thế nào nhỉ?” – một đứa khác nói, giọng mơ màng.
Không khí lễ hội của đêm giao thừa có lẽ đã khiến cho đầu óc tôi không còn được tỉnh táo. Đột nhiên tôi tự đưa ra lời thách thức, mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao: “Ai dám thách tớ không?”.
“Tớ thách”.
Maps và Spark đồng thanh nói, vẻ mặt hai đứa hí hửng thấy rõ khi tìm thêm được một đồng minh tham gia vào trò chơi thách đố mạo hiểm của mình. Tôi nhẹ nhàng trườn từng bước trên cát, từ từ bò tới gần nơi chú Foley và ông O’Leary đang đặt hai cốc bia trên bậu cửa sổ. Khi tay tôi chỉ còn ách cái cốc chưa
https://thuviensach.vn
đầy một gang thì đột nhiên ông O’Leary đứng phắt dậy, dậm cái chân – thô – kệch – như – rễ - cây bình bịch xuống đất. Tôi lăn vội sang góc bên kia của cửa sổ, tim đạp thình thịch như muốn rơi ra khỏi lồng ngực. Thật may là ông ấy không phát hiện ra tôi.
“Hãy nhìn đám trẻ ranh không cha không mẹ kia kìa, thật là láo xược!” – ông gào ầm lên. Còn chú Foley ngoái đầu về phía bốn con mà gày còm đang trườn vội trên cát tìm chỗ trốn.
“Đám ranh con láo toét, dám trốn nhà đi chơi khuya như thế này sao!” – ông ta vẫn tiếp tục quát với theo – “Tụi bay rồi sẽ có kết cục chẳng ra làm sao đâu. Có gì hay ho đâu mà xem, ngoài đám đàn bà con gái say xỉn và lão gàn dở vô tích sự suốt ngày trốn trong hang đánh mấy bài dân ca Scotland dở tệ”.
Chú Foley cười ầm lên và kéo ông O’Leary ngồi xuống ghế. “Chỉ liếc qua một cái thôi là tôi nhận ra bọn chúng” – ông giải thích. Còn tôi thì đang cố ép mình thật sát vào bức tường kế bên để không bị phát hiện – “Ban đầu tôi còn tưởng lại có thêm mấy đứa con gái nào đang say lướt khướt trên đó chứ. Cặp vợ chồng nghiện rượu đó cần phải canh chừng bọn trẻ nghiêm ngặt hơn mới phải”. Ông vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt, dù cho chú Foley có tìm mọi cách kéo ông ngồi xuống ghế thế nào đi nữa. Kế đó ông đã nói ra những điều mà tôi vẫn luôn ngờ ngợ về hai vợ chồng nhà McAnsh: “Tất nhiên, họ bày vẽ nhận chăm sóc tụi nhóc đó là có mục đích cả. Một đằng lợi dụng lòng tốt của bà nhà giàu dòng họ Hodge, mặt khác muốn khoe cho cả đám con chiên ở Serenity thấy mình là cặp đôi đức hạnh đến nhường nào”.
“Bác Lão Làng, ngồi xuống đi” – chú Foley nói đến lần thứ ba – “Rồi, như vậy tốt hơn rồi. Cho dù mục đích của họ có là gì đi chăng nữa thì họ cũng đâu có làm hại gì đến tụi nhỏ đâu. Bác cứ thử nghĩ mà xem. Đây là lần đầu tiên mấy đứa trẻ mới được nhìn thấy biển”.
https://thuviensach.vn
“Thì đúng là vậy” – ông Lão Làng ngửa cổ nốc cạn chỗ bia còn lại, sau đó lại mở miệng than thở về nỗi ám ảnh của mình – “Và mỗi khi nghĩ về quãng thời gian tôi đã lãng phí vào cái con quỷ Henry đó, tôi lại ước rằng mình chưa bao giờ đặt chân tới biển”.
“Thôi nào, chúng ta cùng cạn” – chú Foley nâng cốc của mình lên.
Ông già ngoan ngoãn làm theo, không chút do dự. “Mà bác thấy sao về mấy đứa trẻ đó?” – chú Foley hỏi. “Thấy sao về chúng là thế nào?"
“Thì là bác nghĩ thế nào về chúng?”
“Việc quái gì tôi phải nghĩ về chúng? Tôi còn chưa đủ chuyện phải lo hay sao, hơi đâu quan tâm đến đám trẻ ranh đó”. Chú Foley khẽ cười.
“Mà tự dưng sao cậu lại hỏi tôi như vậy?”
“Teresa cứ liên tục nói về chúng”.
“Ờ, và để tôi nói cho cậu biết tại sao. Kể từ khi mọi người lũ lượt rời bỏ cái vịnh này đi, thì không còn có nhiều khách hàng khiến cho vợ cậu bận rộn như xưa nữa. Giai đoạn hậu khủng hoảng khó khăn cho tất cả mọi người, tôi rất thông cảm với vợ chồng cậu”. Nói tới đây thôi, bỗng nhiên ông lão ngưng bặt, bởi lúc này mắt ông còn đang mải dán chặt vào vật gì đó ở phía nam của bãi biển.
Chú Foley vẫn còn mệt mỏi thấy rõ sau chuyến cứu người vô nghĩa vừa rồi. Chú vẫn tiếp tục nói trong khi không hề nhận thấy rằng mắt ông Lão Làng giờ đang hướng sang chỗ khác: “Khi chúng cháu mới kết hôn, cả hai quyết định chưa vội sinh con bởi còn bận đi lưu diễn khắp nơi. Sau tai nạn của cô ấy, trong một thời gian dài bác sĩ khuyên chúng cháu không nên có con bởi như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới tính mạng của Teresa. Rồi cơn khủng hoảng nổ ra, và không người làm cha làm mẹ nào lại muốn con cái mình phải sống trong cái thế giới tăm tối đó. Và giờ thì có vẻ như ông trời lại muốn khước từ không cho chúng
https://thuviensach.vn
cháu được một mụn con. Cháu nghĩ là do cháu, cả tuần làm việc dưới lòng đất, hít phải quá nhiều khí độc hại. Tuy nhiên, tối thứ Sáu tuần trước, khi cháu vừa về đến nhà, Teresa đã luôn miệng nhắc tới những đứa trẻ ấy. Và cháu đã nảy ra một ý định…”
“Ừm, cậu lúc nào chẳng lắm ý tưởng tuyệt với” – có lẽ ông Lão Làng cũng chẳng hiểu bản thân mình đang định nói gì. “Cháu không định vội vã thúc ép gì cô ấy. Cháu muốn để cô ấy có thêm vài tuần nữa và làm quen với đám trẻ nhiều hơn. Sau đó cháu sẽ nói với Teresa rằng: “Chúng ta hãy lấy lại quãng thời gian đã mất. Hãy cho anh biết trong năm đứa trẻ ấy, em thích đứa nào nhất và chúng ta sẽ nhận nó làm con nuôi!” Bác nghĩ sao?”
“Hóa ra chỉ là con ngựa xám già” – ông Lão Làng lạch bạch quay lại ghế ngồi – “Tôi đã giật mình tưởng lại có đứa con gái điên rồ nào say xỉn đi lội nước”.
“Đó là điều cháu định sẽ làm” – chú Foley vẫn tiếp tục đăm chìm trong cái thế giới riêng của mình.
“Cậu luôn làm những điều mà cậu muốn, Foley Can Đảm ạ. Đó là con người cậu. Và giờ thì tôi phải đi lấy thêm một cốc bia đây”.
“Cháu cũng vậy. Ngoài này có vẻ cũng hơi lạnh rồi”. Cả hai đứng dậy cùng nhau đi vào bên trong.
Còn lại mình tôi, mặt vẫn áp sát vào vách tường, tai ù đặc đi như vừa bị nhỏ I - ốt, toàn thân cứng đờ không nhúc nhích nổi. Sau khi bình tâm trở lại, tôi hối hả leo qua triền cát chạy thẳng về nhà.
“Có chuyện gì xảy ra không?” – bảy con mắt con lại đổ dồn về phía tôi háo hức chờ đợi.
“Không!” – tôi nói – “Tớ phải đợi cho tới khi chú Foley và ông Lão Làng đi vào trong”.
Tôi quyết định giữ câu chuyện vừa nghe được ấy cho riêng mình và bắt đầu năm mới với một bí mật động trời.
https://thuviensach.vn
§13
Những ngày sau đó, người bạn đồng hành thân cận nhất của tôi chính là cái khung ảnh cũ.
Đầu tôi trở nên mụ mị bởi ám ảnh rằng Spark, Maps, Misty hoặc Fido sẽ là sự lựa chọn số một của cô Teresa. Chỉ có cái khung ảnh mới giúp tôi trút bỏ được gánh nặng đó, mỗi lần tôi biến nó thành khung cửa sổ và đôi tai của mình. Bức tranh về bầu trời xanh thẳm không gợn bóng mây trong đó khiến tôi liên tưởng tới đôi mắt của chú Foley. Có lần, tôi lại bắt được đôi mắt màu vàng lục của cô Teresa ở gần đường chân trời. Vào cuối ngày, khi Mặt Trời bắt đầu xuống núi, thu gọn vào bốn góc của cái khung là hình ảnh mà tôi vẫn thường nhìn thấy trong các bức họa nổi tiếng của Italia ở St. Roderick. Những cánh hoa giọt sương rực rỡ trong ánh nắng ban mai là thế để rồi thu mình lặng yên khi ánh nắng chiều vụt tắt. Cái mùi mằn mặn của biển cũng như ngấm vào từng thớ gỗ của cái khung ảnh đang được đặt cao trên cồn cát. Bỗng từ đâu xen vào giữa khung hình là hình ảnh một chiếc xuồng chở khách du lịch, có tiếng người hướng dẫn đang kể lịch sử của vịnh Captain’s Folly. Du khách đổ dồn về một bên mạn thuyền để chiêm ngưỡng cái xác tàu chìm gần đó làm cho cái xuồng tròng tranh nghiêng hẳn sang một bên. Lại có tiếng người hướng dẫn gào ầm lên yêu cầu hành khách trở lại vị trí nếu không muốn cái xuồng bị lật. Điều đáng nói là ở chỗ, nghe thấy tiếng là vậy nhưng sao trong bức tranh của tôi không hề có bóng dáng của người hướng dẫn viên du lịch đó, chỉ có hình ảnh của chiếc xuồng còn lưu lại trong khung. Có lẽ đó chính là sức mạnh của cái khung hình, có thể làm biến đổi cả hiện thực.
https://thuviensach.vn
Cơ hội của tôi so với những đứa còn lại là bao nhiêu? Cô Teresa chưa một lần chú ý đặc biệt gì đến tôi, trừ một lần hỏi tại sao các bạn lại gọi tôi là Choker, tức là đứa bị nghẹn. Spark giải thích đó là vì ở St. Roderick, cứ mỗi lần bị gọi đứng dậy trả lời câu hỏi là tôi lại vô cớ không nói nên lời. Và cô ấy đã mỉm cười hiền từ với tôi kèm theo một tiếng thở dài đầy cảm thông. Từ sau lần thoa kem chống nắng ngoài biển đó, cô gọi tôi là Choker như thể đó là tên thật của tôi vậy. Cũng không khó để nhận thấy cô đã thoa kem cho Fido và Misty nhẹ nhàng đến thế nào. Fido bởi vóc người nhỏ bé của cậu ấy chăng? Hay Misty bởi cậu ta chỉ có một mắt tốt? Không lẽ tôi sẽ phải tự hành xác để trở nên gầy gò như Fido hoặc tự làm cho mình lác xệch đi để cạnh tranh với Misty sao? Theo phân tích ban đầu của tôi, Maps không phải là dạng mà cô Teresa sẽ để mắt tới. Chỉ có Spark là mối đe dọa lớn nhất. Trong số năm thằng chúng tôi thì cậu ta là đứa có khả năng làm cho các sơ ở St. Roderick mỉm cười. Cái miệng nhanh nhảu cùng các phiên đấu giá ngộ nghĩnh của Spark luôn khiến cho họ thích thú, kể cả những vị khó tính nhất.
Do đó tôi trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết với từng lời ăn tiếng nói, từng ánh mắt cử chỉ của cô Teresa khi cô ở bên chúng tôi. Tôi đã nghĩ ra đủ trò để chứng tỏ sự yếu đuối, bất lực của mình. Tôi nắm giữ trong tay một thứ vũ khí bí mật nhưng lại không làm sao để sử dụng nó có lợi cho mình. Ví dụ, nếu tôi cắt một nhùm tóc của mình, gửi tới cửa tiệm của cô Teresa kèm theo một bó hoa tươi thắm, ngay lập tức tôi sẽ bị bốn đứa còn lại lôi ra chất vấn, hoạnh họe, và chắc chắn bọn nó sẽ bắt bằng được tôi phải khai ra bí mật kinh khủng đó.
Thế còn chú Foley quý đứa nào nhất trong đám tụi tôi? Một tuần sau cái đêm cuối năm định mệnh đó, tôi bí mật theo dõi dò ý của chú. Cái tuần đó thật là ồn ã, bởi tiếng quai búa, tiếng máy khoan phát ra từ xưởng đóng tàu của ông Porter
https://thuviensach.vn
Bụng Phệ. Ông đã gần tiến tới công đoạn sơn tàu rồi, nên có lẽ nó sẽ kịp hạ thủy trong thời gian chúng tôi còn ở đây. Bốn đứa kia tỏ ra rất háo hức về điều đó, trong khi tôi đường như đã mất mọi cảm giác.
Cái khung ảnh này giúp tôi theo dõi Fido đang hì hục kéo xuống nước cái xuồng bằng thiếc mà cậu ta moi được từ bãi rác hôm trước. Đó là các mảnh thiếc được dính vào nhau ở hai đầu bằng đinh và gỗ, được quết một lớp nhựa đường để chống thấm. Một thanh gỗ được bắc ngang để giữ cân bằng. Spark, Maps và Misty lăng xăng giúp Fido đưa con xuồng ra xa tới nơi có các con sóng dập dềnh. Với cả bốn đứa cùng leo lên một lúc, nước biển mấp mé như muốn ào vào trong xuồng. Chỉ cần một cơn sóng to cũng đủ nuốt gọn con xuồng cùng bốn đứa đang ngồi trên đó, và tôi sẽ là đứa duy nhất còn sót lại. Đó là một ý nghĩ cực kỳ tội lỗi và tôi cảm thấy ghê sợ chính bản thân mình khi dám nghĩ ra một điều kinh khủng như vậy. Tuy nhiên, cái ý muốn bốn đứa còn lại biến mất khỏi cõi đời này cứ lặp đi lặp lại mỗi lần tôi nhìn ngắm nhìn thế giới qua cái khung tranh đã bạc màu của mình.
https://thuviensach.vn
§14
“Xin Cha hãy tha thứ cho con, vì con đã có tội…” Và đó chính là câu đầu tiên trong buổi lễ xưng tội của tôi. Lại thêm một tuần nữa trôi qua, và buổi sáng Chủ nhật hôm
đó, ông bà McAnsh đưa chúng tôi tới nhà thờ Serenity để xưng tội với Cha Scully trước khi buổi lễ bắt đầu. Cũng tại đây tôi đã được nhận được lời khuyên nên chia sẻ bí mật kia với bốn người bạn còn lại của mình.
Trong suốt buổi lễ sau đó, tôi không nghĩ được điều gì khác ngoài chuyện có nên làm theo lời khuyên bảo của Cha Scully hay không. Buổi lễ đã gần kết thúc, và tôi vẫn chưa tìm ra được kế sách nào cho vẹn toàn.
Ông bà McAnsh bỏ mặc chúng tôi lại cho tự đi về vịnh Captain’s Folly. Họ lấy lý do cần phải đi gặp bạn nhưng từ chỗ chúng tôi đứng có thể dễ dàng thấy hai người đang dắt díu nhau vào cổng sau của quán rượu Dog’s Hind Leg, gần cái quán nơi khi xưa bà McAnsh đã nhận được lời cầu hôn của ông Bandy. Tôi có cảm giác như bước chân của mình ngày một hằn sâu trên cát bởi sức nặng của cái bí mật không – thể - nói – ra đang đè lên hai vai, trong khi Spark đang vui vẻ hát vang bài ca đấu giá của mình. Đến chiều thì tim tôi như có tảng đá đè nặng không gì chống đỡ nổi. Và khi bóng đêm bao trùm lấy căn phòng nhỏ của chúng tôi, khi đã yên ổn bên trên cái ga trải giường và bên dưới mấy cái chăn mang hình tín hiệu xấu, tôi có cảm giác rằng đến những kẻ phạm tội giết người cướp của cũng không thể ăn năn hối lỗi được bằng tôi.
Ánh trăng giờ đã chiếu sáng cả căn buồng, nhưng vẫn chưa có đứa nào ngủ được. “Tớ có thể ngửi thấy mùi sơn mới trên con
https://thuviensach.vn
tàu của ông Bụng Phệ” – một đứa mào đầu, và tiếp sau đó là những câu chuyện bàn luận rôm rả về chiếc tàu. Đây cũng là một thứ tự do xa xỉ mà chúng tôi không bao giờ có được khi còn St. Roderick, sau khi đèn đã tắt. Không hiểu ông Bụng Phệ sẽ làm thế nào để đưa con tàu khổng lồ đó xuống nước? Không đứa nào đưa ra được câu trả lời cho câu hỏi hóc búa đó. Bỗng nhiên Spark đặt ra một câu hỏi không hề liên quan, một câu hỏi khiến tôi phải quay trở về đối mặt với hiện tại đột ngột đến nỗi tôi tưởng như vừa bị ăn một quả đấm vào mạng sườn.
“À này, Choker, sao hôm nay cậu ở chỗ xưng tội lâu thế?” “Ừ, đúng rồi. Siêu lâu ấy chứ!”
“Cậu đã xưng tội gì thế?”
Tất cả những câu đó đều nhắm vào tôi.
Những tấm ga giường và chăn sặc sỡ nhiều màu sắc là thế bỗng trở nên chỉ còn hai màu xám và đen trong mắt tôi. Mấy cái chăn cái tay ngọ nguậy không ngừng bên dưới lớp chăn bỗng trở nên cứng đờ khi nghe lời xưng tội thứ hai trong ngày của tôi. Tôi kể cho bốn đứa còn lại về những gì tôi đã nghe lỏm được tại câu lạc bộ lướt sóng ngày hôm đó. Tất cả đều hiểu rất rõ tại sao tôi quyết định tiết lộ thông tin này với mọi người. Việc giữ kín bí mật ấy trong lòng sẽ chỉ khiến cho tội lỗi của tôi trở nên trầm trọng hơn. Không một ai nói tiếng nào, tất cả lặng lẽ quay lưng vào nhau và vào góc tường. Có lẽ, cũng như tôi, cả bọn đang hồi tưởng lại quãng thời gian vừa qua cùng với cô Teresa, từng ánh mắt, nụ cười, từng lời ăn tiếng nói của cô dành cho mình, để rồi đánh giá xem cơ hội của mình là bao nhiêu. Tôi đã trải qua tâm trạng đó suốt hơn mười ngày nay vì thế tôi hiểu rất rõ những gì đang diễn ra trong đầu bọn họ.
Không một lời nào được thốt ra, sau khi tôi kết thúc bài xưng tội của mình, ngoài tiếng kèo kẹt của mấy cái lò xo khi có ai đó trở mình. Một sự im lặng đáng sợ bao trùm toàn bộ căn phòng, chỉ còn lại tiếng sóng biển rì rầm ngoài kia.
https://thuviensach.vn
Tất cả đám chúng tôi đều bị bỏ rơi và được đưa về St. Roderick nuôi dưỡng. Thỉnh thoảng ở trong viện St. Roderick cũng có đứa may mắn được nhận nuôi và bắt đầu cuộc sống mới bên ngoài. Nhưng đã nhiều năm trôi qua và năm đứa chúng tôi vẫn chưa một lần được ai để mắt tới, vậy mà bây giờ mỗi đứa đều nắm trong tay một cơ hội để đổi đời.
Các sơ vẫn luôn trấn an tụi tôi rằng đến một lúc nào đó, mỗi đứa chúng tôi sẽ tìm được bố mẹ cho riêng mình. Và tôi biết, tất cả chúng tôi đứa nào cũng có hình mẫu bố mẹ lý tưởng riêng. Bởi tôi cũng vậy. Nhưng cho dù những ông bố bà mẹ tưởng tượng ấy có tuyệt vời đến thế nào đi chăng nữa thì chắc chắn vẫn không ai hoàn hảo và đáng mến hơn cô Teresa và chú Foley. Do đó, sự lựa chọn của cô Teresa vẫn là ước vọng lớn nhất đời của năm đứa bọn tôi.
https://thuviensach.vn
§15
Với việc ngày nào cũng chơi đánh trận giả ngoài bãi biển, làn da cớm nắng xanh bợt của chúng tôi chẳng mấy chốc đã chuyển sang màu nâu sẫm. Bộ đồ bơi đen xì trước đây cũng chuyển hẳn sang mày xám cũ rích của bọt biển, làm cho cái nhãn hiệu trên quần càng nổi rõ mồn một: hình con gà trống béo ị đang cất tiếng gáy bên cạnh dòng chữ Bột mì Mãi Vươn Cao. Các thớ vải dãn ra đến nỗi chúng tôi đã phải thắt vài cái nút trên quai áo để giữ cho đũng quần khỏi bị tụt xuống dưới đầu gối.
Không ai hỏi han hay bàn luận thêm gì về câu chuyện mà tôi nghe lỏm được giữa chú Foley và ông O’Leary. Có lẽ bởi đứa nào cũng đinh ninh rằng chú Foley đã có quyết định của riêng mình. Khi chú cho tụi tôi xem những bức ảnh sống động về cuộc sống trước kia của mình, chẳng phải chú ấy đã hỏi tại sao chưa có ai nhận nuôi tụi tôi đó sao. Sau đó cháu gái của cô Teresa tới chơi và ở lại một đêm, một cô bạn có cái giọng léo nhéo, tầm tuổi tụi tôi, tóc vàng, chân tay khẳng khiu, mặc quần sóoc trắng, áo màu da cam.
“Chú Doley nói muốn nhận mình làm con nuôi” – cô bé tự hào nói.
“Thật sao?”
“Các cậu nghĩ là bó mẹ mình sẽ chịu chắc?” – cái giọng chanh chua bật lại.
Nếu tôi mà là bố mẹ cô ta thì tôi lại chẳng mừng quá đi ấy chứ, nhưng tôi đồ rằng chú Foley sẽ không chịu nổi cô ta quá ba ngày. Đó là một đứa con gái hống hách và tự phụ, đủ tiêu chuẩn được khoác áo nữ tu ở St. Roderick.
https://thuviensach.vn
Tại bàn ăn buổi sáng ngày hôm sau, chúng tôi nhìn nhau đầy thận trọng. Sau khi hoàn thành các công việc mà ông bà McAnsh phân công, chúng tôi lại được tự do ra ngoài chơi. Misty ra ngồi một mình ngoài cồn cát, trong khi bốn đứa còn lại tha thẩn dạo quanh ghềnh đá quan sát hai người đánh cá cần mẫn nhất vịnh: Ông O’Leary và chú ngựa già Socrates. Ông lão đang hoan hỉ thả cái mồi câu cũ kỹ xuống nước, trong khi con Socrates đứng bên cạnh đang dùng chân khuấy nước ầm ĩ, để rồi nghiêng đầu đớp lấy những váng nước bắn vọt lên không trung một cách điệu nghệ.
Trước nay tụi tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi đếm đầu người xem đứa nào có mặt đứa nào không, bởi lúc nào mà năm đứa chúng tôi chẳng dính chặt lấy nhau. Do đó, phải mất một lúc lâu, cả đám mới phát hiện ra sự vắng mặt của Misty.
Thì ra cậu ta đang lượn lờ trong khu vườn trước cửa nhà cô Terasa.
Giờ thì dù ông lão O’Leary có bắt được con Henry khổng lồ đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không đời nào chịu nán lại để chứng kiến thời khắc lịch sử ấy. Cả bốn đứa xô nhau chạy như bay qua ghềnh đá, lao về phía cồn cát trắng nhà cô Teresa, bỏ lại đằng sau tám vết chân còn mới nguyên trên cát.
Chạy được một quãng thì Maps dừng lại đi bộ thong dong, để mặc cho ba thằng tụi tôi tiếp tục chạy thục mạng về khu vườn nơi Misty Hayward đang lom khom cần mẫn nhặt cỏ.
Cậu ta đang tính toán điều gì? Định bắt chước ông già Bandy McAnsh tự nhận mình là thợ làm vườn chăng?
Misty luôn có cách rất lạ để bày tỏ thái độ rằng mình đang phớt lờ những người xung quanh. Cậu ta sẽ nhắm tịt con mắt bình thường của mình lại và nhìn mọi thứ qua con mắt mờ kia. Và cậu ta đang làm như vậy với ba đứa tụi tôi. Sau đó lại lúi húi cúi xuống nhặt cỏ tiếp, như thể không nhìn thấy bọn tôi đang đứng sờ sờ trước mặt.
https://thuviensach.vn
“Cậu đang làm cái quái gì thế?” – một đứa cau có gắt lên. Misty vẫn vờ như không nghe thấy gì, tiếp tục công việc của mình một cách cần mẫn. Từ bên trong nhà phát ra một bản nhạc du dương và tiếng cô Teresa đang khe khẽ hát theo. “Cô ấy thuê cậu đấy à?”
“Bao nhiêu tiền?”
“Cẩn thận không cậu xới tung cả mấy bông hoa lên bây giờ.” Misty hành động như thể đôi tai của cậu ta giờ cũng trở nên kém hiệu quả như con mắt phải của mình. Có tiếng chân cô Teresa đi về phía cửa ra vào và ba đứa bọn tôi nhanh chóng trốn ra sau bờ giậu. Đứa nào cũng nhíu mày khó chịu khi thấy cô mỉm cười âu yếm với thằng Misty. Sau khi cô quay vào trong nhà, cả đám lại trồi lên ngó nghiêng qua hàng rào. “Biến đi!” – Misty rít lên.
Cậu ta với tay lấy một nắm đất và định ném về phía tụi tôi. Tất nhiên là tụi tôi sẽ né kịp.
“Biến đi!” – cậu ấy lại gắt lên.
“Nói cho tụi này biết đi. Cậu kiếm được bao nhiêu tiền trong vụ này?”
“Chẳng đồng nào cả” – Misty cộc lốc nói.
“Vậy thì tự dưng sao cậu lại đi làm việc đó?”
“Biến đi!”
Và một cục đất bay vèo về phía tụi tôi đang đứng nhưng cả ba thằng núp xuống kịp.
“Tớ biết chuyện gì đang xảy ra rồi” – Spark nói – “Chẳng có ai thuê ai cả, mà chính cậu đã đề nghị được nhổ cỏ hộ cô Teresa”. Đúng vậy, tôi nhớ có lần cô Teresa than phiền là chưa có thời gian làm cỏ cho khu vườn trước nhà. Mặt Misty đột nhiên tái nhợt đi, và tụi tôi hiểu Spark đã đoán đúng.
“Nghe này, tất cả hãy biến khỏi đây ngay! Biến ngay đi!” – nói rồi cậu ta vung tay ném tiếp cục đất thứ hai, lần này là nhắm thẳng vào Spark. Tất nhiên là Spark thụp đầu né kịp, sau đó
https://thuviensach.vn
ngóc lên nói với theo: “Tớ nghĩ là tớ cần phải giúp cậu một tay mới được”.
Những nắm đất tiếp tục được ném vèo vèo qua hàng rào, kèm theo những lời đe dọa của Misty nhưng ngần ấy sao cản nổi ba đứa tụi tôi. Spark, Fido và tôi lần lượt xắn tay nhập cuộc, nhổ tất cả những gì có màu xanh mà trông giống cỏ dại. Tiếng cãi cọ, tranh giành của chúng tôi làm át cả tiếng nhạc trong nhà, vọng tới tai cô Teresa. Từ trong nhà chạy ra, mặt cô lộ rõ vẻ ngạc nhiên khi thấy có thêm ba đứa tụi tôi trong vườn.
“Chuyện gì thế này? Mấy đứa tính mở hội Hướng đạo sinh đấy hả?”
“Nhổ cỏ lên! Nhổ cỏ lên! Xong!” – Spark tay làm thoăn thoắt, miệng nghêu ngao hát.
Misty hoàn toàn có thể kể cho cô Teresa biết sự thật của câu chuyện, nhưng làm sao cậu ta dám mở lời chứ? Bởi đó sẽ là một nước cờ sai trầm trọng. Việc tỏ ra thù địch với ba đứa bọn tôi – nhất là khi chúng tôi tình nguyện giúp cậu ta – sẽ chỉ làm cho hình ảnh cậu ta trong mắt cô Teresa xấu đi mà thôi.
“Hôm nay quả là một ngày may mắn của cô. Nếu các cháu muốn giúp cô đến vậy thì đương nhiên là cô sẵn lòng rồi” – cô Teresa cười rạng rỡ.
Kết quả là, Spark: chịu trách nhiệm cắt cỏ, Fido: chịu trách nhiệm lau chùi và đnáh bóng các gạt tàn thuốc lá, các hộp đĩa hát bằng đồng thau mà chú Foley cất công mang từ Châu Âu về hồi cuối Thế chiến lần thứ nhất. Tôi: cũng là lau chùi và cọ rửa các bậc cầu thang và cửa sổ trước.
Còn Maps thì sao? Sau một hồi im lặng và chậm rãi một cách khó hiểu, cậu ta từ từ tiến lại phía mấy cô cháu tụi tôi. Không để cho cô Teresa kịp nghĩ ra việc giao cho mình, cậu ấy nói rất nhanh: “Cô ơi, cô có thời gian dạy cháu không?”
“Dạy cháu ư? Nói cô nghe xem cô có thể dạy cháu điều gì nào?”
https://thuviensach.vn