🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Câu Chuyện Kỳ Thú Trong Kinh Thánh - Logan Marshell
Ebooks
Nhóm Zalo
ADAM VÀ EVA
Tên người đàn ông đầu tiên là Adam và vợ của ông ta là Eva. Họ sống trong một khu vườn xinh đẹp cách xa các phương Đông và được gọi là Địa Đàng. Vườn Địa Đàng là một vùng đất có loài cây quí hiếm và nhiều hoa thơm cỏ lạ. Nhưng không lâu sau, họ đã không vâng lệnh Chúa, họ bị dụ dỗ bởi một vị quỷ thần nên đã ăn phải trái cấm trong vườn Địa Đàng. Thế là họ phải rời bỏ căn nhà xinh đẹp để ra đi.
Thế rồi hai vợ chồng Adam và Eva phải rời khỏi vườn Địa Đàng và trở về nhân gian sinh sống và làm việc. Hai người họ sống với nhau một thời gian thì Chúa Trời ban cho họ những đứa con. Đứa trẻ đầu tiên ra đời được mẹ Eva đã đặt tên là Cain, ít lâu sau lại một đứa bé nữa ra đời và được mẹ đặt tên là Abel.
Những đứa con của Adam và Eva lớn lên, đã nối nghiệp cha mẹ để làm những công việc mà trước đây cha mẹ mình đã làm. Cain, người anh lớn chọn công việc đồng áng và trồng trọt những loại cây ăn quả. Abel, người em nhỏ làm công việc nhồi lông cừu và trở thành người chăn cừu.
Lúc Adam và Eva còn sống trong vườn Địa Đàng, họ có thể nói chuyện với Chúa Trời cũng như nghe những lời Chúa Trời dạy bảo. Nhưng giờ đây họ đã trở về với nhân gian, họ không còn được nghe những lời của Chúa Trời như trước đây nữa. Vì vậy, cách đến với Chúa duy nhất là họ xếp những viên đá thành một bệ thờ và đặt bàn thờ Chúa lên đó, đặt lên những phẩm vật để cúng tế và đốt đi với mong muốn gửi vào đó những nỗi niềm riêng của mình và mong muốn đức Chúa sẽ nghe thấy, nhưng rồi đức Chúa cũng không nghe thấy. Sau đó, mỗi lần cúng tế Chúa Trời họ đều cầu nguyện và xưng tội với Chúa, họ nói lên tất cả những lỗi lầm của mình và cầu mong đức Chúa ban phúc lành cho họ.
Trong hai anh em Cain và Abel, mỗi người có mỗi cách phụng sự Chúa Trời riêng. Cain thì dâng Chúa Trời hoa quả và hạt giống, Abel thì nướng một chú lừa do chính mình nuôi lớn để cúng đức Chúa Trời. Không biết vì lý do gì mà Chúa Trời hài lòng với sự dâng cúng của Abel và không hài lòng với sự dâng cúng của Cain. Có lẽ đức Chúa mong muốn Cain dâng lên ngài những đồ vật có sự sống như Abel đã làm và cũng có lẽ Cain đã không dâng cúng đức Chúa Trời bằng tất cả lòng thành của mình.
Đức Chúa thể hiện rằng mình không hài lòng với Cain và Cain lẽ ra phải biết hối lỗi và xưng tội trước Chúa để cầu mong tha thứ, nhưng cậu ta đã rất giận dữ Chúa và cũng nổi giận với cả Abel. Khi họ cùng nhau ra đồng để làm việc, Cain đã đánh đập người em của mình là Abel và giết anh ta. Thế là đứa trẻ đầu tiên xuất hiện trong nhân gian đã trở thành kẻ sát nhân giết hại em trai của mình.
Và đức Chúa đã bảo với Cain, “Đây là Abel, người em của ngươi!”.
Cain đã trả lời đức Chúa, “Con không biết tại sao con phải nhận đó là em trai của con?”
Thế là đức Chúa hỏi Cain, “Điều gì khiến con làm như thế? Dòng máu của em trai con nhưng một tiếng khóc kêu cứu phát ra từ mặt đất. Con có thấy mặt đất mở ra như một chiếc mồm rộng lớn để uống máu của em trai con không? Chừng nào con còn sống, con sẽ phải sống dưới lời nguyền của Chúa đối với kẻ sát nhân đã giết hại em mình như con. Con sẽ phải đi lang thang khắp đất trời và không bao giờ tìm thấy nhà cửa, bởi vì con đã làm một việc xấu xa.
Cain nói với Chúa, “Sự trừng phạt đối với con sẽ nặng hơn bất kỳ hình phạt nào khác. Ngài hãy đuổi con ra khỏi cộng đồng và giấu con đi, nếu không bất kỳ người nào nhìn thấy họ cũng sẽ giết con, bởi vì con đơn độc chỉ có một mình và sẽ không có bất kỳ người bạn nào cả”. Sau đó, đức Chúa bảo với Cain, “Nếu ai làm hại Cain, người ấy sẽ bị trừng phạt vì hành động đó”. Và đức Chúa khắc dấu vào người của Cain vì vậy mà ai cũng biết cậu ta và đồng thời cũng
biết rằng đức Chúa cấm không cho ai làm hại đến cậu ấy. Thế rồi Cain và vợ của mình trở lại ngôi nhà của Adam để sinh sống ở phần đất của mình, vợ chồng họ sinh con đẻ cái và xây dựng một thành phố trên mảnh đất này; Cain đặt tên cho thành phố sau khi sinh đứa con đầu lòng, anh ta gọi nó là Enoch.
NOAH VÀ CON THUYỀN LỚN
Sau khi Abel bị giết và người anh trai là Cain đi đến vùng đất khác, đức Chúa Trời lại ban tặng cho Adam và Eva một đứa bé khác. Đứa trẻ này có tên là Seth; sau đó Chúa lại ban cho họ nhiều con trai và con gái. Vợ chồng Adam và Eva sống được nhiều năm nhưng cuối cùng họ đã chết như lời Chúa phán bảo họ phải chết, bởi vì họ đã ăn trái cấm.
Lúc Adam chết, trên quả đất đã có nhiều người sinh sống, con cái của Adam và Eva lại sinh con đẻ cái, rồi bọn trẻ này lớn lên lại tiếp tục sinh con đẻ cái. Nam nữ, già trẻ, lớn bé đã lên đến hàng chục người. Họ đều có bò, cừu và thú nuôi, rồi họ đi hết từ nơi này sang nơi khác và họ đã tìm ra những đồng cỏ. Bọn trẻ suốt ngày chơi đùa xung quanh các căn lều và đốt lửa trại mỗi khi trời tối, rồi cùng nhau hát lên những bài ca, những người lớn tuổi thì ngồi kể chuyện. Sau một thời gian, vùng đất mà con trai Adam sinh sống đã trở nên trù phú, đông đúc.
Đáng buồn thay, khi ngày càng đông người và lòng người cũng mỗi ngày thêm xấu xa, càng ngày càng ít những người đàn ông và phụ nữ tốt. Tất cả mọi người sống gần nhau và họ ít đi tìm kiếm những vùng đất mới; vì thế nên bọn trẻ học lẫn nhau những thói hư tật xấu và cứ như vậy dần dần chẳng phân biệt được cái gì đúng và tốt nữa.
Và đúng như điều mà Chúa Trời đã nhận định, ngài đã biết được vì sao con người đã trở nên xấu xa và suy nghĩ cũng như hành động của con người lại độc ác đến vậy.
Tuy nhiên, bên cạnh phần lớn những con người độc ác đó, cũng có những con người lương thiện, nhưng họ chỉ là số ít. Người tốt nhất lúc bấy giờ là người đàn ông có tên là Enoch. Anh ta không phải và con trai của Cain mà là một Enoch khác, anh ta đến từ gia đình của Seth - con trai Adam, anh ta được sinh ra sau cái chết của Abel. Trong khi mọi người xung quanh Enoch đều làm những điều ác, thì người đàn ông này chỉ làm những điều thiện. Anh ta cùng với Chúa Trời du hành và chuyện trò thân mật. Nhưng cuối cùng, Enoch cũng
trở nên già đi và mệt mỏi với cuộc sống, Chúa đã mang anh ta từ Trái đất bay đến Thiên đàng. Anh ta đã không chết, trong khi tất cả mọi người kể từ thời Adam không tuân theo lệnh Chúa thì anh ta lại không như thế, anh ta đã để Chúa mang anh ta về trời. Điều này muốn nói lên rằng Enoch đã được đưa lên trời và anh ta sống mãi.
Tất cả mọi người vào thời Enoch không phải đi chăn cừu. Một vài người trong số họ học cách làm thế nào để chế tạo ra nhiều cung tên, cày và rìu, ít lâu sau họ biết làm tan chảy sắt để làm thành những con dao, kiếm và bát đĩa sử dụng trong gia đình. Họ gieo những hạt thóc giống trên đồng và thu hoạch mùa màng, họ trồng nhiều nho và cây ăn quả. Nhưng rồi đức Chúa Trời đã nhìn xuống trái đất và nói:
“Ta sẽ mang đi tất cả những thành quả mà các ngươi làm ra; bởi vì loài người trên thế giới này rất ác độc!”.
Thế rồi đức Chúa Trời đã nhìn thấy một người đàn ông lương thiện trong thời gian tồi tệ này. Người ấy là Noah, trong tầm ngắm của Chúa Trời, Noah đã cố gắng làm mọi điều tốt như du hành cùng đức Chúa, nói chuyện với Chúa. Noah có ba người con trai, tên của chúng là Shem, Ham và Japheth.
Đức Chúa nói với Noah, “Thời gian tới, khi tất cả đàn ông và phụ nữ trên trái đất này bị tiêu diệt. Mọi người phải chết bởi vì họ là những kẻ xấu xa. Nhưng con và gia đình của con sẽ được cứu rỗi, vì chỉ mình con biết cố gắng làm những điều đúng đắn lương thiện”.
Sau đó đức Chúa đã chỉ cho Noah cách cứu rỗi cuộc đời của chính mình và những đứa con trai. Ông ta đã làm một chiếc thuyền lớn, lớn bằng những chiếc thuyền lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Thuyền rất dài, rất rộng và rất cao, mỗi một vòm mái của nó dài và rộng bằng cả ngôi nhà ba tầng, nó có thể nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mỗi một con thuyền như vậy gọi là “một Ark”[1]. Đức Chúa bảo Noah chế tạo con thuyền lớn này và chuẩn bị sẵn sàng phòng khi cần dùng đến nó.
Vì Noah, đức Chúa đã nói, “Ta sắp mang một trận đại hồng thuỷ đến trái đất này, nước lũ sẽ ngập hết tất cả đất đai và dìm chết tất cả loài người. Và tất cả thú vật sẽ bị chết đuối cùng với con người. Con phải làm một con thuyền đủ lớn để mang những đôi thú vật, mỗi loài mỗi đôi mà con người sẽ phải cần đến như cừu, dê và những loài
vật có sừng, như vậy sẽ có những loài thú vật cũng như con người tốt tồn tại và sống trên trái đất sau khi nạn đại hồng thuỷ qua đi. Con cũng phải mang thức ăn lên thuyền đủ để nuôi sống con và gia đình của con, cũng như các loài vật; thức ăn phải đủ trong vòng một năm vì trận lũ này sẽ kéo dài đúng một năm.
Noah đã làm tất cả những việc mà Chúa Trời căn dặn, mặc dầu những người xung quanh xem đó như là những việc kỳ quái, vì làm chiếc thuyền lớn như thế ở đây làm gì có nước để căng buồm. Thời gian trôi qua, Noah và con trai của mình ngày đêm hì hục làm thuyền, trong khi những người xấu xa xung quanh vô cùng ngạc nhiên và rất có thể họ đã cười chế nhạo việc Noah làm thuyền lớn ở nơi không có biển.
Cuối cùng, chiếc thuyền lớn đã hoàn thành và trông như một ngôi nhà khổng lồ, sừng sững trên nền đất. Có một cánh cửa lớn bên hông thuyền và một cửa sổ trên mái để lấy ánh sáng mặt trời. Thế rồi đức chúa bảo với Noah:
“Hãy lên thuyền mau đi, con và vợ của con, cả các con của con nữa, tất cả hãy lên thuyền đi, nước lũ sắp ập đến rồi đấy. Con hãy mang theo những loài vật, chim muông và bò sát nữa; những loài vật này sẽ rất cần thiết cho loài người, chúng sẽ được sống trên trái đất và tiếp tục sinh sôi nảy nở”.
Như vậy, vợ chồng Noah với ba người con của họ là Shem, Ham và Japheth cùng ba nàng dâu lên thuyền. Chúa cũng đã mang những loài thú vật, chim muông và những loài bò sát đưa chúng đến và cho lên thuyền. Noah và con trai nhốt những con vật vào đúng vị trí, mang thức ăn cho chúng. Sau đó, họ đóng cánh cửa thuyền lớn lại, không còn người nào và thú vật nào lên thuyền được nữa.
Ít ngày sau, mưa bắt đầu đổ xuống, những cơn mưa lớn mà trước đây chưa bao giờ có. Dường như cánh cửa trời đã được mở để dội xuống trần gian những dòng nước cuồn cuộn. Những con suối đầy nước, những động sông nước dâng mỗi lúc mỗi cao, chiếc thuyền lớn của Noah bắt đầu nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mọi người rời bỏ nhà cửa để chạy lên đồi cao; nhưng không lâu những ngọn đồi cũng bị ngập nước, tất cả mọi người trên đồi đều bị chết đuối.
Một vài người leo lên những ngọn núi cao hơn để lánh nạn, nhưng nước dâng lên cao và cao mãi đến lúc ngay cả những ngọn núi cao
chót vót cũng bị nhấn chìm và tất cả những kẻ xấu xa đều cùng chung số phận, đều bị chết đuối trong biển nước mênh mông. Dòng nước lăn mình đến khắp nơi trên trái đất, chảy khắp những nơi có loài người sinh sống. Tất cả động vật, thú vật thuần hoá, vật nuôi, cừu, bò. .. đều bị chết đuối; các loài động vật hoang dã, sư tử, hổ báo và các loài khác cũng đều bị chết đuối. Ngay cả loài chim cũng không thể sống sót, tổ của chúng cũng bị nước cuốn trôi, chúng đã không còn nơi nào để bay trong cơn bão tố khủng khiếp. Qua bốn mươi ngày đêm, cơn mưa vẫn còn kéo dài, mãi cho đến khi không còn sự sống nào nữa, ngoại trừ những loài còn sót lại trên chiếc thuyền lớn của Noah.
Sau bốn mươi ngày thì cơn mưa bắt đầu tạnh, nhưng nước lũ vẫn bao phủ trái đất suốt hơn sáu tháng trời, chiếc thuyền Ark đã trôi qua biển và dạt vào một vùng đất liền. Thế rồi đức Chúa đã cho thổi một cơn gió lên mặt nước, làm cho nước bị bốc hơi; vì thế mà mực nước ngày càng hạ xuống. Ngọn núi đầu tiên nhô lên khỏi mặt nước, rồi đến những ngọn đồi và cuối cùng con thuyền lớn của Noah cũng ngừng trôi và nằm lại trên một ngọn núi, tên của ngọn núi này là Mount Ararat.
Thế nhưng Noah vẫn không hay biết điều gì đã xảy ra trên trái đất, bởi vì cánh cửa thuyền đã đóng kín. Sau một thời gian chờ đợi, Noah đã mở cửa sổ và thả những con quạ ra bên ngoài. Những con quạ bây giờ đã có đôi cánh khoẻ mạnh; chúng bay lượn quanh bầu trời cho đến lúc nước lũ rút xuống, không có thể tìm thấy nơi đậu và không còn bay trở lại thuyền nữa.
Thế rồi Noah cũng thả cả những con bồ câu; nhưng những con chim bồ câu thì không tìm thấy nơi nào để đậu cả, thế là chúng bay trở lại thuyền, Noah đã bắt chúng trở lại. Đợi thêm một tuần, Noah lại thả những con chim bồ câu một lần nữa. Và vào một buổi tối, những chú chim bồ câu bay trở lại con thuyền và mang trên mỏ những chiếc lá xanh mà chúng cắp được từ những cây Ôliu.
Cũng nhờ đó mà Noah biết nước lũ đã rút và cây cối đã mọc trở lại. Anh đợi thêm một tuần nữa và lại thả những chú chim bồ câu ra khỏi thuyền; nhưng lần này những con chim bay đi đã không bao giờ còn quay trở lại. Noah biết rằng, quả đất đã khô ráo trở lại. Thế là anh ta dỡ bỏ một phần mái nhà và nhìn ra ngoài, anh ta thấy những ngọn
đồi khô ráo xung quanh con thuyền và nước lũ không còn phủ khắp mọi nơi nữa.
Đến lúc này, Noah sống trên thuyền đã hơn một năm, anh ta vô cùng vui mừng khi được nhìn thấy những đồng cỏ và cây cối xanh tươi. Và đức Chúa nói với Noah:
“Hãy ra khỏi thuyền, cùng với vợ con, những nàng dâu và tất cả loài vật còn sống trên chiếc thuyền này!”
Thế là Noah mở cửa, cùng với gia đình bước ra khỏi thuyền, lại một lần nữa đặt chân lên mặt đất. Các loài thú vật, chim muông, các loài bò sát trên thuyền đều ra khỏi thuyền và tất cả lại bắt đầu mang đến sự sống trên trái đất.
Việc đầu tiên Noah làm khi rời khỏi con thuyền là đến tạ ơn đức Chúa đã ban sự sống cho gia đình mình trong khi mọi loài trên trái đất đã bị diệt vong. Anh ta lại thiết lập bàn thờ và phẩm vật dâng cúng đức Chúa và cùng với gia đình mình thề trước Chúa những việc sẽ làm sau này.
Đức Chúa vui vẻ nhận sự dâng cúng của Noah và dạy rằng: “Ta sẽ không huỷ diệt lại trái đất và con người nữa, không còn điều gì xấu xảy đến với họ. Từ nay về sau không còn nạn lụt nào ngập chìm quả đất; nhưng các mùa xuân, hạ, thu, đông sẽ không thay đổi. Ta tặng cho con Trái đất; con sẽ là người thống trị Trái đất và toàn bộ sinh vật trên trái đất này”.
Thế rồi đức Chúa tạo ra một chiếc cầu vồng bắc qua bầu trời, rồi Người nói với Noah và con trai Noah rằng: chừng nào họ và con cái của họ sau này còn thấy chiếc cầu vồng thì còn nhớ đến đức Chúa và chiếc cầu vồng bắc ngang bầu trời, xuyên qua những đám mây là biểu tượng của lời hứa rằng Chúa luôn tưởng nhớ đến Trái đất và muôn loài đó và Ngài không bao giờ gieo nạn đại hồng thuỷ, huỷ diệt con người trên trái đất nữa. Cho nên mỗi lần chúng ta nhìn thấy chiếc cầu vồng xinh xắn, chúng ta lại tưởng nhớ đến lời hứa của Chúa với thế gian này.
[1] Ark: thuyền lớn
HAGAR VÀ ISHMAEL
Sau trận Đại hồng thuỷ, đại gia đình nhà Noah mỗi ngày mỗi đông đúc và chỉ ít năm sau đó, quả đất một lần nữa lại đầy người. Nhưng so sánh trước và sau nạn Đại hồng thuỷ, họ đã có sự khác biệt lớn trong đời sống của mình. Trước nạn Đại hồng thuỷ phần hớn họ ăn ở cùng nhau vì thế mà có rất nhiều người sinh sống trên cùng một mảnh đất và không có vùng đất nào khác nữa. Nhưng sau đại nạn hồng thuỷ, các gia đình bắt đầu di cư để tìm kiếm nơi ở mới cho riêng mình. Người thì đến vùng này, kẻ thì sang vùng khác, vì vậy dân số lại lớn lên thêm, họ đã sống khắp nhiều nơi trên trái đất như thời kỳ trước khi xảy ra nạn Đại nạn hồng thuỷ.
Một phần dân cư đến phương Bắc và dựng nên thành phố gọi là Nineveh, rồi họ đã trở thành chủ nhân cai trị thành phố trên vùng đất rộng lớn gọi là Assyria, người dân bản xứ gọi là Assysians. Những đoàn người khác thì đi về phía Tây và định cư tại lưu vực sông Nin, thế rồi họ đã tìm ra vùng đất Ai Cập, vùng đất của những Thánh Đường, kim tự tháp hùng vĩ, tượng đài Zphanh và các công trình kỷ niệm.
Những đoàn người khác thì lang thang đến vùng tây bắc cho đến khi bắt gặp những bờ biển dài và họ gọi đó là biển Mediterranean[1]. Ở đó họ đã tìm thấy những thành phố như Sidon và Tyre. Phần lớn người dân sống ở đây là thuỷ thủ, họ dong buồm đến những nước xa xôi, sau đó mang về xứ sở của mình những thứ họ tìm ra từ những vùng đất khác rồi trao đổi, buôn bán với người dân Babylon, Assyria, Ai Cập và những quốc gia khác.
Trong số những thành phố họ lập nên có hai thành phố tên là Sodom và Gomorrah. Người dân trong hai thành phố này rất xấu xa độc ác, họ huỷ diệt mọi thứ xung quanh họ. Rất may đã có một người tất tên là Lot và gia đình đã trốn thoát. Một người tốt khác tên là Abraham đã không sống trong hai thành phố này. Ông ta đã cố gắng cầu xin Chúa Trời ban cho một cậu con trai để mang lại niềm vui cho gia đình mình.
Sau khi hai thành phố Sodom và Gomorrah bị huỷ điệu, Abraham đã chuyển lều trại của mình đi về phía Tây Nam, đến một nơi khác gần vùng đất được gọi là Gerar, không xa lắm so với biển lớn. Và cuối cùng, trên vùng đất này, Abraham và vợ mình là Sarah được Chúa ban cho hạnh phúc, hai vợ chồng sinh hạ một người con mặc dù khi đó Abraham tuổi cũng đã già.
Họ đặt tên cho cậu bé là Isaac như lời thiên thần mách bảo. Vợ chồng Abraham và Sarah đã sống rất hạnh phúc với đứa con bé bỏng của mình, sau đó họ đã tổ chức một buổi yến tiệc linh đình để mời mọi người đến chung vui, ai nấy đến đây đều không ngớt lời ca tụng chúc mừng Isaac.
Lúc bấy giờ Sarah có một người hầu gái tên là Hagar, một phụ nữ người Ai Cập, cô ta đã bỏ nhà ra đi và gặp một thiên thần bên giếng, không hiểu sao sau đó người hầu gái lại quay trở về với Sarah. Cô ta cũng có một đứa con và cô ta đặt tên cho đứa con của mình là Ishmael. Thế là căn lều của Abraham đã có hai đứa trẻ, đứa lớn là Ishmael con trai của Hagar, đứa nhỏ là Isaac, con trai của Abraham và Sarah.
Ishmael có một chút gì đó không thích Isaac, điều này đã làm mẹ Sarah rất tức giận, cô ta bảo với chồng mình:
“Em không muốn có đứa nhỏ Ishmael lớn lên cùng với con trai mình. Hãy đuổi hai mẹ con Hagar đi khỏi nhà, kẻo họ gây rắc rối cho em”. Abraham rất lấy làm tiếc trước sự bất hoà giữa Sarah và Hagar cũng như giữa Isaac và Ishmael; về phần Abraham, anh là người đàn ông tốt nên đã tìm mọi cách hoà giải khúc mắc giữa họ. Nhưng rồi đức Chúa đã bảo Abraham, “Đừng lo lắng về Ishmael và mẹ của cậu ấy”. Hãy làm như lời của Sarah đã bảo với con, hãy đuổi họ ra khỏi nhà. Tốt nhất nên để Isaac một mình rời khỏi nhà và cho cậu ta mọi thứ của con. Ta sẽ quan tâm đến Ishmael và cho cậu ấy nhiều con cháu để nối dõi.
Thế rồi vào một buổi sáng, Abraham đã đuổi Hagar và con trai cô ấy đi, với mong muốn họ sẽ quay trở lại vùng đất Ai Cập, nơi họ đã ra đi. Abraham cho họ một số thực phẩm và một chai nước để sử dụng cho cuộc hành trình. Chai nước vào thời ấy khác với chai nước thời đại chúng ta, chai nước thời chúng ta được làm bằng thuỷ tinh, còn
chai nước thời đó được làm bằng da dê, Abraham đã đổ đầy một chai nước như vậy để cho Hagar mang theo.
Hagar rời khỏi căn lều Abraham, dẫn theo đứa bé không biết sao họ lại đi lạc vào vùng sa mạc, cô ta không biết đây là đâu, đến lúc chai nước cô ta mang theo cũng đã uống cạn; đứa trẻ tội nghiệp phải chịu ánh nắng gay gắt của mặt trời và sự nung đốt của bãi cát trên sa mạc mà chẳng có tí nước nào để uống. Cô ta nghĩ rằng mình sẽ chết vì quá khát; cô ta đặt con trai mình vào trong bụi cây, một mình ra đi và tự nhủ:
“Mình không thể chịu được khi nhìn đứa con tội nghiệp của mình chết vì khát nước”.
Nghĩ như thế một lúc, Hagar bật khóc rồi cô ta nghe thấy tiếng kêu khát nước của con mình, thế rồi cô ta nghe một giọng nói từ đâu vọng lại:
“Này Hagar, điều gì khiến bạn băn khoăn lo nghĩ? Đừng lo sợ! Đức Chúa Trời sẽ nghe thấy tiếng khóc của con và con trai con. Đức Chúa sẽ quan tâm chăm sóc cho hai người, sẽ khiến con trai của con sinh sôi, phát triển thành một dân tộc lớn.
Ấy là giọng nói của một thiên sứ và thế là Hagar nhìn thấy gần ngay ở đó một dòng suối nước mát xuất hiện trong sa mạc. Hagar vui mừng khôn xiết, vội vã đổ đầy một chai nước và mang đến cho đứa con của mình đang nằm dưới bụi rậm.
Sau này Hagar đã không trở lại Ai Cập. Cô ấy tìm ra một nơi để sinh sống và nuôi dưỡng, dạy dỗ con trai mình ở một nơi hoang dã, cách xa con người. Ishmael lớn lên ở sa mạc, đã học được cách sử dụng cung tên. Anh ta trở thành một người đàn ông hoang dã và con cái của anh ta sau này lớn lên cũng trở thành những người hoang dã. Họ là những người Arabian[2] của vùng đất sa mạc, ngay cả đến ngày nay cũng không có ai cai trị ngoài người Ả Rập, họ lang thang khắp sa mạc và sống rất yên vui. Thế rồi, Ishmael trở thành cha, ông của nhiều thế hệ con cháu, những người sống hoang dã trên sa mạc, họ đã sống trên vùng đất này mãi cho đến ngày nay.
[1] Mediterranean: Một vùng thuộc Địa Trung Hải
[2] Arabian: Người Ả Rập
ABRAHAM VÀ ISAAC
Bạn phải nhớ rằng, tại thời điểm mà chúng ta đang nói đến, khi đó con người thờ phụng đức Chúa bằng cách thiết lập các bàn thờ bằng đất đá và đặt lên đó những cúng phẩm để dâng lên đức Chúa. Cúng phẩm thời đó thường là thịt các loài vật như cừu, dê, bê hoặc các loài khác dùng để làm thức ăn. Những thứ thức ăn dùng để cúng vào thời đó được gọi là “vật tế thần”.
Nhưng thực tế sự thờ phụng các vị thần thời bấy giờ là rất kỳ quái và khủng khiếp. Họ nghe rằng họ sẽ làm vui lòng Chúa Trời nếu mang nhiều “vật tế thần” quí báu và tươi sống để dâng lên Chúa Trời; họ còn mang những đứa trẻ nhỏ ra trước bàn thờ để giết chúng và dâng cúng thần cây, thần đá, những vị thần vốn không có thật mà chỉ có trong tưởng tượng.
Đức Chúa Trời mong muốn nói cho Abraham và con cháu anh ta biết rằng việc giết người để cúng tế là hành động man rợ, việc đó không mang lại niềm vui cho cuộc sống của họ. Đức Chúa đã mang những lời này dạy bảo Abraham, vì thế mà anh ta và con cái của anh ta sau này không bao giờ quên được. Cũng lúc đó Chúa Trời mới biết được tại sao Abraham trung thành và biết vâng lời; biết tại sao Abraham tin nhiệm tuyệt đối ở Chúa, hoặc, chúng ta có thể nói, vĩ đại làm sao đức tin của Abraham với Chúa.
Thế là Chúa Trời ra lệnh cho Abraham, nhưng Chúa cũng không dự định là Abraham sẽ vâng lời. Chúa bảo:
“Bây giờ con hãy mang Isaac đi, đứa con trai mà con yêu quí nhất đi đến vùng đất Moriah, ta sẽ chỉ cho con một đỉnh núi, con hãy đặt Isaac ở đó và thiêu cháy Isaac để dâng cúng cho ta”.
Mặc dầu mệnh lệnh này khiến con tim của Abraham vô cùng đau đớn, tuy vậy Abraham đã không tỏ vẻ ngạc nhiên như những người cha trong thời đại chúng ta khi nhận mệnh lệnh này; vì việc làm đó là
rất bình thường đối với những người sống trong vùng đất của Abraham vào thời đó. Abraham chưa một khoảnh khắc nghi ngờ về lời của Chúa. Ông ta biết rằng Isaac là đứa trẻ mà Chúa đã hứa khả và giờ đây Chúa cũng hứa hẹn mang đến cho Isaac những đứa con và người sẽ mang chúng đến một đất nước lớn. Anh ta không biết tại sao Chúa lại giữ lời hứa với Isaac nếu Isaac bị giết để làm cúng phẩm; trừ phi Ngài cứu Isaac lên từ cõi chết.
Nhưng rồi Abraham đã lập tức tuân lời Chúa, mang theo hai người đàn ông trẻ tuổi cùng đi và một con lừa chất đầy củi đốt; ông ta đi về phía bắc ngọn núi cùng với con trai ông ta là Isaac. Sau hai ngày đi bộ, họ đã ngủ lại dưới một gốc cây của một vùng quê vắng vẻ. Đi hết ba ngày đường, họ trông thấy một ngọn núi xa xa. Họ đến gần ngọn núi và Abraham nói với những người trẻ tuổi:
“Ở lại đây với con lừa, đợi tôi và Isaac đến bên kia núi cúng tế, khi cúng xong chúng tôi sẽ trở lại”. Vì Abraham tin rằng bằng cách nào đó đức Chúa sẽ mang Isaac trở về với cuộc sống. Ông ta lấy củi chất trên lưng con lừa bảo Isaac mang đi, họ đi bộ cùng nhau lên núi. Đang đi, Isaac nói:
“Cha! Củi có đây nhưng làm gì có thịt cừu để nướng mà dâng cúng?”.
Abraham nói: “Này con trai, đức Chúa sẽ cho con thịt cừu”.
Họ đến một nơi xa mãi trên đỉnh núi, ở đó Abraham đã chất đất đá để lập một bàn thờ; Ông ta đặt củi đốt lên đó. Thế rồi ông ta trói hai tay và hai chân Isaac lại, đặt Isaac lên đống củi trên bàn thờ. Ông ta cầm con dao dơ lên và giết chết con trai mình. Trong một khoảnh khắc Isaac đã bị giết bởi bàn tay của cha mình.
Chỉ một lát sau, một thiên thần của Chúa từ Thiên Đường lên tiếng gọi Abraham và nói: “Abraham! Abraham!”.
Abraham trả lời “Dạ con đây, thưa ngài!”. Thế rồi thiên sứ nói:
Đừng đặt bàn tay con lên thân thể con trai con, như thế sẽ làm hại cậu ấy. Bây giờ ta đã biết rằng con yêu Chúa Trời hơn cả người con trai mà con đã sinh ra, con đã biết vâng lời Chúa, từ nay duy nhất người con trai của con sẽ được đến với Chúa.
Những lời nói từ vị thiên sứ này thực sự đã làm vơi đi niềm đau trong trái tim Abraham. Ông ta vui vì biết rằng không phải đức Chúa muốn giết con trai ông ta! Abraham nhìn quanh và thấy trong bụi rậm một con cừu đực xuất hiện, nó đang bị mắc kẹt bằng chính những chiếc sừng của nó. Abraham bắt con cừu và đặt lên giá để nướng tại vị trí mà ông ta định thiêu con trai mình trước đây. Quả thực những lời nói của Abraham đã đúng khi nói với con trai ông ta rằng Chúa sẽ ban cho thịt cừu.
Nơi đặt bàn thờ này được Abraham đặt tên là Jehovah-Jireh, nói theo cách giải thích của Abraham là “Đức Chúa ban cho”.
Sự dâng cúng này quả thật là kỳ quái, nhưng cũng không phải là không có ích. Điều đó chứng tỏ Abraham, Isaac đều phụ thuộc Chúa, nhờ Chúa mà họ được dâng tặng; Isaac cũng như tất cả đều từ người mà có, con cái, cháu chắt đều được người ban cho. Sau đó Abraham cũng hiểu được rằng; về sau đức Chúa không muốn những đứa trẻ hay bất kỳ người nào bị giết để dâng cúng và giòng tộc Do thái sau này của Abraham và Isaac sau này không bao giờ được dùng cúng phẩm là con người mà phải thay vào đó là bò, cừu và các loài động vật khác.
Những cúng phẩm thường mang nhiều công sức khó nhọc, nhưng bù lại họ được nhận niềm vui từ Chúa, bởi vì hạnh phúc đã nhanh chóng đến với họ. Họ đã hân hoan đón nhận những lời dạy của Chúa, rằng phải biết yêu thương sinh mệnh, sinh mệnh là món quà quí giá nhất của tình yêu và cuộc sống.
CHUYỆN VỀ JACOB
Sau khi Abraham chết, con trai ông ta và Isaac đến sống ở vùng đất Canaan. Cũng như cha mình, Isaac làm một căn lều để gia đình sinh sống và có hàng chục người xung quanh ông ta. Họ nuôi những đàn cừu và vật nuôi để lấy thức ăn, họ cũng phải tìm những đồng cỏ và nước uống.
Isaac và vợ mình là nàng Rebekah sinh được hai người con, đứa lớn tên là Esau và đứa nhỏ tên Jacob.
Esau là một người thợ đốn củi và yêu thích công việc săn bắn; và một người đàn ông râu tóc rậm rạp.
Jacob là người trầm tư, thường ở nhà và ngụ tại căn lều để trông nom bầy thú cho cha mình.
Isaac yêu thương Esau hơn Jacob, bởi vì Esau thường mang những thú vật mà mình săn bắn được cho cha; trái lại vợ Isaac là Rebekah lại thích Jacob, bởi vì cô ta thấy Jacob là người khôn ngoan và cẩn thận trong công việc.
Những người sinh sống trên vùng đất này, mỗi khi có người chết thì con trai lớn sẽ được chia của cải cha mẹ để lại nhiều gấp đôi những người còn lại. Điều này gọi là “quyền thừa kế” mà người con cả trong gia đình được hưởng. Vì vậy mà Esau - người anh lớn đã được nhận của cải nhiều hơn em mình là Jacob. Bên cạnh đó còn có một đặc ân từ lời cầu nguyện mà Chúa đã hứa khả cho gia đình của Isaac.
BÁN QUYỀN THỪA KẾ
Bấy giờ sau khi đã trưởng thành, Esau đã không giữ quyền thừa kế. Còn Jacob, người đàn ông khôn ngoan chỉ ao ước có được quyền thừa kế giống như Esau, sau khi cha chết. Một lần, sau cuộc đi săn trên đồng cỏ, Esau trở về nhà trong trạng thái mệt mỏi và đói khát, anh ta thấy Jacob có một cái bát chứa đầy thức ăn chuẩn bị cho bữa tối. Esau liền nói:
“Hãy cho anh một vài món ăn màu đỏ. Anh đang đói lắm!”.
Jacob trả lời, “Em sẽ cho anh với điều kiện anh hãy bán quyền thừa kế cho em!”.
Và Esau nói, “Bây giờ quyền thừa kế còn có ý nghĩa gì đối với anh khi anh đang đối mặt với cái chết? Em sẽ có quyền thừa kế của anh nếu em cho anh cái gì đó để ăn”.
Thế rồi Esau cũng đã hứa rằng anh ta sẽ trao quyền thừa kế cho Jacob. Thật là không phải khi Jacob tỏ thái độ ích kỷ như thế với anh trai của mình; nhưng càng sai trái hơn khi Esau chỉ vì một chút lợi ích nhỏ nhặt như vậy mà đã bỏ mất quyền thừa kế thiêng liêng của mình và quên đi cả lời nguyền của Chúa.
Một thời gian sau, khi Esau 40 tuổi, anh ta đã cưới hai bà vợ. Điều đó là rất không tốt đối với thời đại chúng ta và cách làm này sẽ không được tán thành dù đó là người đàn ông tốt mà có nhiều hơn một người vợ. Hai người vợ của Esau là người thuộc xứ Canaan, họ chỉ tôn thờ các thần linh mà không tin Chúa Trời. Và họ đã khuyên bảo con cái của mình cũng tôn thờ thần linh như họ; vì thế từ thời Esau trở đi, con cháu các đời sau không còn biết đến Chúa, họ đã trở nên rất độc ác, xấu xa. Điều đó đã kéo dài mãi cho đến về sau.
Isaac và Rebekah rất bấy làm tiếc khi con mình kết hôn với những người vợ chỉ biết tôn sùng thần linh mà không tin vào Chúa Trời; nhưng rồi Isaac vẫn yêu thương đứa con lanh lợi của mình là Esau
hơn đứa con trầm lặng Jacob. Nhưng Rebekah vẫn yêu thương Jacob hơn.
Isaac cuối cùng rồi cũng già yếu đi và đôi mắt cũng mờ dần chẳng còn nhìn thấy gì. Một ngày ông ta nói với Esau:
“Này con trai, ta đã già rồi và không biết còn sống được bao lâu. Nhưng trước khi ta chết cha muốn nói với con vài điều, vì con là con trai lớn của cha, lời nguyền của Chúa sẽ có trong con, con của con và cháu của con. Con hãy đi ra cánh đồng, dùng cung tên bắn thú vật để làm thức ăn và làm cho cha một món ăn mà cha thích sau này ta sẽ ăn nó, con hãy hứa với cha đi”.
Bấy giờ Esau thưa với cha mình rằng phúc lành không đến với anh ta, vì anh ta đã bán điều đó cho em mình là Jacob. Nhưng rồi cậu ta cũng không nói điều đó với cha mình: Anh ta đi ra cánh đồng để săn bắn, cố tìm ra loài động vật mà thịt của nó khiến cha mình thích nhất.
Lúc đó Rebekah núp ở bên ngoài và đã nghe được mọi điều Isaac bảo với Esau. Cô ta biết rằng Jacob có phúc lành hơn Esau và cô ta đã yêu thương Jacob hơn Esau. Sau đó cô ta gọi Jacob đến và bảo cho cậu ta biết những điều Isaac đã nói với Esau, cô ta bảo:
“Con trai của mẹ, bây giờ mẹ bảo con và con sẽ được phúc lành thay cho anh trai con. Hãy đến đàn thú nuôi và mang cho em hai con dê non, mẹ sẽ nấu chúng thành những món ăn mà cha con thích như lời ông ta bảo với Esau, sau đó con hãy mang đến cho cha con, cha con sẽ nghĩ rằng đó là Esau và sẽ cho con phúc lành, mọi thứ sẽ thực sự thuộc về con”.
Nhưng Jacob nói với mẹ, “Mẹ nên biết con và Esau không giống nhau. Cổ và vai của anh trai con được phủ bởi mái tóc dài, trong khi đầu của con thì không. Cha con sẽ nhận ra con và sẽ bảo con không phải là Esau; thế rồi thay vì ban phúc lành cho con thì ông ấy sẽ nguyền rủa con”.
Rebekah trả lời con trai mình, “Không đâu con, con hãy làm theo lời mẹ bảo rồi mẹ sẽ chăm sóc con. Nếu ai đó hại con cưng có nghĩa là hại ta, vì thế đừng lo sợ, hãy mang đĩa thịt này đi”.
Thế là Jacob mang đi một ít thịt của hai con dê non mà mẹ anh ta đã làm thành món ăn, nó sẽ có mùi vị mà Isaac rất thích. Sau đó, Rebekah tìm một bộ quần áo của Esau cho Jacob mặc và đắp lên cổ và vai Jacob một ít da thú, vì thế khi chạm vào cổ và tay của Jacob sẽ có cảm giác râu tóc rậm rạp.
Sau đó Jacob đến căn lều và mang thức ăn tối đến, anh ta cố gắng nói với cha như mẹ mình đã dặn, anh ta nói:
“Con đây thưa cha!”
Và Isaac nói, “Con là ai, con trai?”
Jacob trả lời: “Con là Esau, đứa con trai lớn của cha; con đã cố gắng làm những điều cha dặn; bây giờ cha hãy ngồi dậy và ăn tối với những món ăn mà con đã làm đây, sau đó cha ban phúc lành cho con như cha đã hứa”.
Isaac nói: “Tại sao con lại tìm ra thức ăn này nhanh đến thế?”. Jacob trả lời: “Bởi vì đức Chúa Trời đã chỉ đường cho con”.
Isaac cảm thấy nghi ngờ rằng đây không phải là con trai Esau của mình và ông ta nói: “Đến đây để cha xem con nào, xem xem con có chắc chắn là con trai Esau của ta không”.
Thế là Jacob đến bên cạnh giường của Isaac và ông ta đã sờ vào mặt vào cổ và cả tay của Jacob nữa, sau đó ông nói:
“Giọng nói thì giống Jacob, nhưng hai tay thì giống Esau. Con chắc chắn là con trai Esau của ta chứ?”.
Jacob nói dối với cha: “Vâng con đây!”.
Thế là người cha đã ăn thức ăn Jacob mang đến, ông ta hôn Jacob và tin đó là Esau; sau đó ban cho Jacob phúc lành, ông ta nói với Jacob:
“Chúa sẽ ban cho con sự tươi mát của Thiên đường, sự giàu có của Trái đất, rất nhiều hạt giống và rượu. Các dân tộc sẽ cúi đầu trước con và mọi người sẽ trở thành tôi tớ của con. Con sẽ là chủ nhân của em trai con, gia đình của con sẽ đời đời tiếp nối và thống trị con người. Con sẽ ban phúc thần thánh cho người con yêu và nguyền rủa những kẻ con khinh ghét”.
Ngay khi Jacob nhận được sự ban phúc, anh ta vội vàng đứng dậy và đi ra. Anh ta vừa đi ra ngoài thì Esau đi săn trở về trên tay bưng một đĩa thức ăn Esau đã nấu. Esau nói:
“Cha hãy ngồi dậy và ăn đĩa thức ăn con mang đến, sau đó ban phúc lành cho con”.
Isaac nói: “Sao, con là ai?”
Esau trả lời, ''Dạ con là con trai cha, đứa con trai lớn của cha là Esau đây!”
Isaac run run và nói, “Thế thì ai vừa mang thức ăn đến cho ta? Ta đã ăn thức ăn đó và ban phúc cho người đó rồi; đúng là cậu ta đã được ban phúc”.
Esau khi nghe điều này, biết rằng mình đã bị lừa; cậu ta khóc lớn, giọng gay gắt, “Ôi, cha ơi, em con đã lấy đi phúc lành của con, cũng như đã lấy đi quyền thừa kế của con! Cha không thể cho con phúc lành nào nữa sao? Cha đã cho em con mọi thứ rồi ư?”
Isaac nói với Esau mọi điều ông ta đã nói với Jacob, rằng đã cho Jacob quyền thống trị người anh em của mình. Nhưng Esau đã muốn cầu xin phúc lành khác và Isaac nói:
“Con trai, con sẽ sống trong sự giàu có của trái đất và sự mát mẻ của Thiên đường. Con sẽ sống bằng thanh kiếm của mình nhưng con cháu của con sẽ phải phục vụ con cháu của Jacob. Nhưng khi thời cơ đến con hãy thoát ra khỏi ách thống trị của em trai con và con sẽ được tự do”.
Nhiều năm sau những điều này đã xảy đến. Con cháu của Esau đã sinh sống ở một vùng đất có tên là Edom, thuộc miền nam nước Do Thái, đó là vùng đất mà con cháu Jacob sinh sống. Sau một thời gian những người Do Thái đã nắm quyền thống trị người xứ Edom và sau đó những người Edom đã tự giải phóng khỏi ách thống trị của người Do Thái. Nhưng điều này xảy sau đó hàng trăm năm.
Con cháu dòng họ Jacob có phúc hơn nhiều so với con cháu của Esau, họ đã được ban phúc lành vì họ là những người biết thờ phụng Chúa, còn con cháu của Esau đã tin theo các Thần tượng và trở nên ác độc.
NẤC THANG LÊN THIÊN ĐƯỜNG
Sau khi Esau nhận ra rằng mình đã mất quyền thừa kế và được ban phúc lành, cậu ta rất giận dữ và có ý chống lại người em trai của mình là Jacob; anh ta tự nhủ và nói với người khác:
“Cha ta Isaac là lão già không sống được lâu, ông ta đã chết sớm, rồi ta sẽ giết chết Jacob vì hắn đã cướp đoạt quyền lợi của ta”.
Khi Rebekah nghe được điều này, cô ta đã bảo với Jacob, con hãy rời khỏi nhà và thoát ra khỏi tầm ngắm của Esau trước khi quá muộn. Có lẽ lâu không thấy con cậu ấy sẽ quên đi sự hận thù của mình và thế là con có thể quay trở lại. Con hãy đi đến vùng Haran, cậu của con là Laban đang sống ở đó, con hãy xin cậu ở lại đó một thời gian.
Chúng ta phải nhớ rằng, Rebekah đến từ gia đình Nahor, em trai của Abraham đang sống ở Haran, cách xa miền đông bắc Canaan, Laban là em trai của Rebekah.
Như vậy, Jacob đã rời khỏi Beersheba, vùng ngoại biên của sa mạc, anh ta du hành một mình với chiếc gậy trên tay. Một buổi tối, đúng hơn là lúc hoàng hôn, cậu ta đến một thung lũng, cách xa nhà cậu ta đến sáu mươi dặm. Ở đây không có giường nằm, anh ta tìm một viên đá rồi gối đầu nằm ngủ.
Vào một đêm Jacob đã mơ một giấc mơ đẹp. Trong giấc mơ, cậu ta thấy một chiếc thang bắc từ mặt đất lên tới Thiên đường và trên các bậc thang có các thiên thần đang đi lên đi xuống. Cậu ta còn nhìn thấy đức Chúa đứng bên trên chiếc thang. Đức Chúa bảo với Jacob: “Ta là đức Chúa Trời, là Thượng Đế của Abraham và là Thượng Đế của cha con là Isaac và ta cũng là Thượng Đế của con. Vùng đất mà con đang nằm đó sẽ thuộc về con và con cháu của con; con cháu của con sẽ sinh trưởng khắp vùng đất này, Đông, Tây, Nam, Bắc như bụi của trái đất, gia đình con và cả thế giới sẽ được ban phúc
lành. Ta sẽ cùng con đi khắp mọi nơi, sẽ đưa con đến những nơi cần đến rồi mang con trở lại vùng đất này. Ta sẽ không bao giờ rời xa con và ta chắc chắn sẽ giữ đúng lời hứa với con”.
Lúc trời gần sáng, Jacob bừng tỉnh, cậu ta liền nói: “Chắc chắn đức Chúa Trời ở trong vùng đất này mà ta không biết! Ta cứ tưởng chỉ một mình ta nhưng Chúa Trời đã ở đây với ta. Vùng này là nhà của Chúa, đây là cánh cửa của Thiên đường!”.
Jacob cầm viên đá mà đêm qua anh ta vừa gối đầu dựng lên rồi đổ dầu vào đó để dâng cầu Chúa. Sau đó Jacob đặt tên nơi ấy là Bethel[1], theo ý nghĩa mà Jacob đặt tên thì đó có nghĩa là “Ngôi nhà của Chúa”.
Lúc ấy Jacob đã thề với Chúa, anh ta nói:
“Nếu đức Chúa thực sự đến với con và cùng con chung bước thì ngài hãy cho con bánh mì để ăn và mang con đến ngôi nhà của cha con trong sự thanh bình, thế rồi ngài sẽ là Thượng Đế của con, viên đá này là nhà của ngài, mọi thứ mà ngài cho con con sẽ dâng cầu Chúa một phần mười”.
Thế rồi Jacob lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Cậu ta đi xuyên qua dòng sông Jordan ở một chỗ cạn, dùng chiếc gậy của mình để dò đường; cậu ta leo lên một ngọn núi, men theo con đường phía đông của một sa mạc lớn và cuối cùng rồi anh ta cũng đến được thành phố Haran. Bên ngoài thành phố là một cái giếng, đó là nơi người đày tớ của Abraham đã gặp mẹ của Jacob là Rebekah; sau khi đợi một lúc cậu ta thấy một phụ nữ trẻ dắt theo con cừu và mang nước đến cho họ.
Cha của Rachel là Laban cũng là cậu của Jacob đã vui mừng đón nhận Jacob và dẫn cậu ta vào nhà.
Jacob yêu cầu Laban đồng ý gả con gái là Rachel để làm vợ mình và Jacob cũng đặt điều kiện, “Nếu cậu gả con gái cậu là Rachel cho con thì con sẽ làm việc cho cậu bảy năm”.
Laban nói, “Thật là tốt nếu con chấp nhận lấy nó, tốt hơn là phải gả nó cho người lạ”.
Thế là Jacob sống bảy năm trong nhà Laban, trông cừu, chăn bò và lạc đà cho cha vợ. Vì tình yêu dành cho Rachel nên Jacob cảm thấy thời gian bảy năm dường như ngắn lại.
Thấm thoắt đã đến ngày tổ chức hôn lễ; họ đã tổ chức lễ rước dâu theo phong tục của vùng đất này, họ trùm lên đầu cô dâu một chiếc khăn dày vì thế không ai có thể nhìn thấy mặt cô dâu. Thế là cô ta đã cưới Jacob, khi Jacob dở chiếc khăn trùm đầu cô dâu ra thì cậu ta phát hiện đó không phải là Rachel mà là Leah, chị gái của Rachel, cô ta là người không xinh đẹp, Jacob không hề yêu cô ta.
Jacob vô cùng giận dữ vì đã bị lừa gạt, mặc dù cách làm này cũng như cách mà cậu ta đã làm để lừa gạt cha và anh trai Esau của mình. Thế rồi Laban nói:
“Ở đây không bao giờ cho phép người em lấy chồng trước người chị, cứ chấp nhận lấy Leah làm vợ của con và làm việc cho ta thêm bảy năm nữa rồi sau đó con sẽ cưới Rachel”.
Vào thời kỳ đó như chúng ta đã biết, đàn ông thường lấy hai vợ, thậm chí còn nhiều hơn hai vợ. Thế là Jacob ở lại đây thêm bảy năm nữa, tổng cộng là mười bốn năm, trước khi cưới Rachel làm vợ.
Trong thời gian sống ở Haran, Jacob đã có được mười một đứa con trai nhưng chỉ có một đứa là con của Rachel, Jacob rất yêu thương đứa trẻ này. Đứa trẻ này là Joseph, được cha mình yêu thương hơn những đứa trẻ khác, một phần bởi vì Joseph là con út và một phần bởi vì đó là đứa con của người vợ mà ông ta yếu mến, Rachel.
[1] Bethel: nhà thờ của những người không theo quốc giáo
JOSEPH VÀ CHIẾC ÁO KHOÁC NHIỀU MÀU
Sau khi Jacob trở lại vùng Canaan với mười một người con trai, Jacob lại có thêm người con trai khác, đứa con thứ hai của Rachel ra đời, Jacob cũng rất yêu mến đứa trẻ này. Nhưng sau khi sinh người con thứ hai chưa được bao lâu thì Rachel qua đời, Jacob vô cùng buồn rầu. Đến nay chúng ta còn được chiêm ngưỡng ngôi mộ của Rachel trên con đường giữa Jerusalem và Bethlehem. Jacob đặt tên cho đứa con thứ hai của Rachel là Benjamin; thế là Jacob có cả thảy mười hai người con trai, phần lớn đã trưởng thành, còn Joseph vẫn còn là một cậu bé mười bảy tuổi và em trai cậu ta là Benjamin thì vẫn còn là trẻ con.
Trong những người con của mình, Jacob yêu Joseph nhất, một phần vì là con của Rachel, một phần vì cậu ta còn quá trẻ; ngoài ra cậu ta còn là một người tốt, có niềm tin và biết suy nghĩ. Jacob cho Joseph chiếc áo choàng dài nhiều màu sắc sặc sỡ, có tay áo rất rộng. Đây là một đặc ân của Jacob đối với Joseph, điều ấy khiến cho các anh em khác ganh tị.
Sau đó, Joseph thường làm những việc đúng đắn trong khi các anh của mình đã làm nhiều việc sai trái, thỉnh thoảng Joseph mách với cha những việc sai trái của các anh trai mình, vì thế mà các anh trai của Joseph rất tức giận Joseph. Họ càng ghét Joseph hơn khi Joseph kể cho họ nghe hai giấc mơ lạ của mình. Một ngày nọ cậu ta nói: “Các anh em hãy lắng nghe tôi kể về giấc mơ của mình. Tôi đã mơ rằng chúng ta ra đồng bó lượm, đột nhiên bó của tôi đứng dậy còn các bó của các anh đứng xung quanh và cúi đầu trước bó của tôi!”.
Họ đã nói một cách khinh bỉ, “Ngươi cho rằng giấc mơ của ngươi là đúng thế sao, ngươi sẽ thống trị chúng ta và chúng ta phải cúi đầu trước ngươi ư?”.
Thế là một vài ngày sau, Joseph nói, “Ta lại mơ lại một giấc mơ, trong giấc mơ này ta thấy mặt Trời, mặt Trăng và mười một vì sao, tất cả đều cúi đầu trước ta”.
Sau đó cha Joseph đã bảo với cậu ta, cha không thích con mơ giấc mơ như thế. Cha con, mẹ con, anh em của con sẽ đến và cúi đầu trước con nếu con là một vị vua!”
Các anh em của Joseph rất ghét cậu ta và không bao giờ nói chuyện với cậu ta một cách tử tế, còn cha Joseph thì suy nghĩ nhiều về điều mà Joseph nói.
Một lần, mười anh em Joseph đang chăm nom đàn thú trên cánh đồng gần Shechem, cách Hebron mười lăm dặm, nơi đó có một vài căn lều của Jacob. Sau đó Jacob muốn gửi một thông điệp đến những đứa con trai của mình, ông ta gọi Joseph và nói với cậu ta:
“Các anh em của con đang chăn thú gần Shechem, ta muốn con đến đó và uỷ thác cho họ một việc, nếu nhận thấy họ làm tốt, nếu bầy thú nuôi được chăm sóc tốt, sau đó con hãy về nói lại cho ta suy nghĩ của họ”.
Một mình đi xuyên qua cánh đồng, vượt mười lăm dặm và quay trở lại chỉ là một việc đơn giản đối với một cậu bé đang tuổi trưởng thành. Joseph lại là một người biết chăm lo cho bản thân và rất tự tin; thế là cậu ta bắt đầu hành trình, thẳng về phía cánh đồng, xuyên qua những ngọn núi, băng qua Bethlehem, Jerusalem và Beth, tuy nhiên chúng ta cũng không chắc rằng các thành phố này được xây dựng, ngoại trừ Jerusalem là một thành phố lớn.
Khi Joseph đến được Shechem, cậu ta không tìm thấy các anh em của mình, có lẽ họ đã cùng đàn thú nuôi chuyển đến một nơi khác. Một người đàn ông gặp Joseph đi bộ lang thang trên cánh đồng và hỏi cậu ta, “Anh tìm ai?”.
Joseph nói, “Tôi không tìm thấy các anh em của tôi; những người con trai của Jacob. Anh có thể nói cho tôi họ đang ở đâu không?”.
Người đàn ông nói, “Họ đang ở Dothan; vì tôi nghe họ nói, họ đi đến đó”.
Thế rồi Joseph đi băng qua các ngọn đồi đến Dothan, đi hết quãng đường mười lăm dặm. Từ xa các anh em của Joseph đã nhìn thấy cậu ta đang tiến về phía họ. Họ nhận ra nhờ bộ quần áo sặc sỡ của Joseph; một người trong số họ bảo với mọi người: “Nhìn xem, người mơ mộng đang đến kìa! Đến đi, chúng ta sẽ giết chết hắn, sau đó ném xác xuống lỗ, rồi bảo với cha là cậu ta bị thú săn ăn thịt; thế là chúng ta sẽ thấy giấc mơ của hắn thành sự thật ra sao!”.
Một người anh em cậu ta tên là Reuben có thiện cảm với Joseph hơn những người khác. Cậu ta nói:
“Chúng ta đừng giết hắn, hãy ném hắn xuống hố ở nơi hoang vắng này rồi bỏ đi, hắn sẽ chết ở đó”.
Reuben có ý định sau khi mọi người đi xa sẽ quay trở lại và kéo Joseph lên khỏi hố và mang về cho cha. Những người anh em khác đã làm như lời của Reuben; họ ném Joseph xuống hố. Joseph đã khóc lóc van xin các anh trai cứu mình nhưng họ đã không làm như thế, họ bình thản ngồi xuống và ăn tối trên bãi cỏ, trong khi tiếng kêu cứu của em mình vẫn từ xa vọng lại.
Sau khi ăn tối xong, Reuben tình cờ đi sang một vùng khác trên cánh đồng cùng lúc đó có nhóm người đàn ông lạ cùng nhau cưỡi lạc đà từ Gilead, phía Đông sông Jordan đến Ai Cập để mua những miếng nhựa thơm từ cây nhựa của những người Ai Cập.
Một người anh em khác của Joseph là Judah nói, “Chúng ta giết người anh em của mình thì có lợi gì? Chúng ta bán Joseph cho những người đàn ông này chẳng phải tốt hơn sao, hãy để họ mang cậu ta đi? Rốt cuộc thì cậu ấy cũng là anh em của chúng ta, tốt nhất chúng ta đừng giết cậu ấy”.
Những anh em khác đồng ý với Judah, thế là họ chặn những người đàn ông đang đi qua đó, họ kéo Joseph lên khỏi hố và bán Joseph
cho những người đi đường với giá hai mươi đồng bạc, sau đó những người kia đã mang Joseph đến Ai Cập.
Sau đó Reuben trở lại chiếc hố, nơi mà họ đã ném Joseph xuống, Reuben nhìn xuống hố những chẳng thấy Joseph đâu cả. Reuben cảm thấy rất bối rối, anh ta trở về chỗ các anh em mình và nói: “Cậu ta không còn ở trong cái hố! Tôi vừa thấy điều đó!”.
Thế là các anh em khác đã kể với Reuben chuyện họ vừa bán Joseph và tất cả anh em đều đồng ý chuyện dối lừa cha mình. Họ giết chết một con vật sau đó lấy chiếc áo khoác của Joseph nhúng vào máu con vật đó và mang về cho cha, họ nói với người cha rằng: “Chúng con tìm thấy chiếc áo này trên cánh đồng hoang. Cha hãy xem xem chiếc áo này có phải là chiếc áo của con trai cha không”.
Jacob nhận ra ngay đây là chiếc áo của con trai mình. Ông ta nói: “Đây là chiếc áo khoác của con trai ta. Một thú hoang dã ăn thịt nó. Không còn nghi ngờ gì nữa, Joseph đã bị thú hoang xé xác rồi!”.
Con tim của Jacob dường như bị xé rách khi mất Joseph, tất cả đều do ông ta bảo Joseph một mình đi qua vùng đất hoang dã. Các anh em đều xúm lại cố gắng an ủi ông ta nhưng ông ta chẳng thấy khuây khoả. Ông ta nói: “Ta sẽ đến phần mộ đứa con đáng thương của ta để làm lễ tang cho cậu ấy”.
Thế là người đàn ông già đã rất đau buồn vì đứa con trai Joseph của mình; sau đó một thời gian, những anh em xấu xa của Joseph biết rằng Joseph vẫn còn sống nhưng họ không nói với cha mình hành động xấu ác của họ và đã bán cậu ta để làm nô lệ cho kẻ khác.
GIẤC MƠ CỦA MỘT ÔNG VUA
Những người đàn ông đã mua Joseph từ anh em của cậu ta là những người thuộc dòng họ Ishmael, các bạn phải nhớ rằng, Ishmael là con trai của Hagar, người hầu của Sarah. Những người đàn ông này mang Joseph đi về đồng bằng phía Nam, đó là vùng duyên hải thuộc miền Tây của Canaan; sau vài ngày họ mang Joseph đến Ai Cập. Cậu bé Joseph sống trong lều trại đã lâu nên dường như còn lạ lẫm khi nhìn dòng sông Nin rộng lớn, những thành phố đông ngịt người, những tự miếu và kem tự tháp hùng vĩ đồ sộ!
Những người trong dòng tộc Ishmael đã bán Joseph để làm nô lệ cho một người đàn ông có tên là Potiphar, ông ta 1à một sĩ quan quân đội của Pharaoh, vị Vua nước Ai Cập. Joseph là một cậu bé bảnh bao, có tấm lòng bao dung độ lượng, có tinh thần trách nhiệm, vì thế mà ông chủ của cậu ta là Potiphar cảm thấy rất thân thiện với cậu ta. Sau một thời gian, ông ta để cho Joseph trông nom nhà cửa và mọi thứ trong nhà. Được vài năm vẫn tiếp tục làm việc đó cho Potiphar với danh nghĩa là một đầy tớ nhưng trên thực tế Joseph đã tự làm chủ mọi việc của mình và còn cai quản cả những người đầy tớ khác.
Nhưng trên ai hết, người vợ của Potiphar và người thân thiện với Joseph nhất, về sau lại trở thành kẻ thù của cậu ta bởi vì Joseph đã không làm những việc sai trái để làm vui lòng cô ấy. Cô ta đã kể những chuyện xấu xa của chồng mình và rồi bắt Joseph thực hiện một hành động sai trái. Chồng cô ta đã nghe lời vợ của mình nên đã rất tức giận Joseph và bắt cậu ta vào ngục cùng ở với những kẻ tội phạm khác đã phạm vào pháp luật của vùng đất này. Thật khó khăn cho Joseph, từ một người trông nhà trở thành kẻ tội phạm khi chính mình không hề làm sai việc gì, thế rồi bị xô đẩy vào nơi ngục tù tối tăm giữa những người xấu xa ác độc.
Nhưng Joseph đặt niềm tin vào Chúa Trời, hy vọng một ngày nào đó tất cả sự thật đều được phơi bày, vì thế cậu ta mặc dù ở trong tù nhưng luôn tỏ ra vui vẻ, thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác. Người cai ngục thấy rằng Joseph không giống những kẻ tội phạm khác, nên đối xử rất tử tế với Joseph. Một đôi khi, Joseph lại được người cai ngục giao phó trông nom chăm sóc những người cai ngục khác, giống như chăm sóc những người trong gia đình Potiphar mà trước đây cậu ấy đã làm. Người cai ngục không còn trông coi mọi thứ trong tù nữa mà đã giao phó nhiều việc cho Joseph, ông ta đặt niềm tin vào Joseph vì Joseph đã làm tốt công việc mà ông ta giao. Joseph đã làm đúng, đã biết phụng sự Chúa Trời và được Chúa Trời ban phúc lành trong mọi công việc.
Khi Joseph ở trong tù, hai người đàn ông khác bị vị Vua Ai Cập gửi đến đây, bởi vì nhà Vua không hài lòng về họ. Một người là quản gia chính của nhà Vua, là kẻ hầu rượu cho nhà Vua; người khác là đầu bếp làm bánh mì, cậu ta làm bánh mì cho nhà Vua. Hai người đàn ông này được cai quản bởi Joseph, Joseph đã phục dịch họ vì họ là những người có địa vị trong xã hội.
Một buổi sáng, khi Joseph đến căn phòng của hai người quản gia, cậu ta nhận thấy hai người họ rất buồn rầu. Joseph nói với họ:
“Tại sao hôm nay trông các anh buồn thế?”. Joseph là người có tâm hồn vui vẻ và hạnh phúc; anh ta cũng muốn những người khác hạnh phúc như mình, ngay cả tù nhân cũng vậy.
Sau đó một trong số hai người kia nói: “Mỗi một chúng ta trong đêm qua đã mơ một giấc mơ rất lạ lùng và không ai giải thích được ý nghĩa trong giấc mơ của chúng ta”.
Trong lúc ấy, Joseph nghĩ đến chuyện đức Chúa Trời cho mình quyển kinh thánh trước đây, nên cậu ta nói với hai người đàn ông rằng cậu ta có thể nói lên được ý nghĩa của những giấc mơ.
“Hãy nói với tôi”, Joseph nói: “Giấc mơ của anh là gì. Có lẽ đức Chúa của tôi sẽ giúp tôi giải thích được nó”.
Thế là người quản gia kể về giấc mơ của mình. Ông ta nói, “trong giấc mơ tôi thấy cây nho có ba nhánh, các nhánh đâm nhiều chồi, những chồi nở thành những đoá hoa, những đoá hoa lại kết thành những chùm nho. Sau đó tôi hái những chùm nho và ép thành nước, rồi rót nước trái cây đó vào trong cốc nước của Pharaoh, sau đó nước ép từ nho đó đã trở thành rượu để dâng cho đức Pharaoh, đúng như lúc tôi từng làm khi tôi còn hầu bên cạnh bàn ông ấy.
Thế rồi Joseph nói, “Đây là ý nghĩa giấc mơ của anh. Ba nhánh cây biểu hiện có ba ngày. Trong ba ngày tới, đức Pharaoh sẽ gọi anh ra khỏi nhà tù và trở lại nơi làm việc của ông ấy. Anh sẽ được đứng hầu bên cạnh bàn ông ấy, anh sẽ rót rượu cho ông ấy như anh đã làm trước đây. Nhưng khi anh rời khỏi nhà tù xin hãy nhớ đến tôi và cố gắng tìm cách để cứu tôi ra khỏi trại tù này. Tôi sẽ trốn khỏi vùng Canaan và làm nô lệ, tôi không làm gì nên tội để bị giam vào nhà tù này cả. Hãy nói với đức Vua giúp tôi rằng tôi phải được tự do”.
Dĩ nhiên là người quản gia chính cảm thấy vui vẻ khi nghe nói về giấc mơ tốt lành của mình. Còn người thợ làm bánh mì thì nói rằng, hy vọng sẽ có một câu trả lời tốt về giấc mơ của mình:
“Trong giấc mơ của tôi” người thợ làm mì nói, “có ba chiếc giỏ đựng mì màu trắng trên đầu tôi, cái này chồng trên cái kia và trên cùng và một giỏ các loại thịt nướng và thức ăn cho Pharaoh; sau đó có những con chim bay đến và ăn thức ăn trên chiếc giỏ trên đầu tôi”.
Joseph nói với người thợ làm bánh mì:
“Đây là ý nghĩa giấc mơ của anh, tôi rất tiếc phải nói điều này với anh. Ba giỏ mì là ba ngày. Trong ba ngày tới, đức Vua sẽ ra lệnh mang anh treo bên trên cây, sau đó những đàn chim sẽ đến mổ và ăn thịt sống của anh cho đến khi còn bộ xương treo lủng lẳng trong không trung”.
Thế rồi mọi chuyện đã xảy đến như lời Joseph nói. Ba ngày sau đó, đức Pharaoh đã bảo những người cai ngục đến nhà tù. Họ đến và mang cả hai người là quản gia chính và thợ làm bánh mì đi. Người
thợ làm bánh mì bị họ treo cổ cho đến chết, sau đó ném xác cho đàn chim ăn thịt mổ xẻ thành từng mảnh. Vị quản gia chính được họ mang về chỗ cũ, ở đó cậu ấy được hầu bên cạnh Pharaoh và ngày ngày hầu rượu cho đức Vua.
Bạn sẽ nghĩ rằng người quản gia nhớ đến điều cầu xin để được tự do của Joseph và thể hiện sự khôn ngoan của mình. Thế nhưng trong cảnh sung sướng, anh quản gia này đã quên mọi điều Joseph cầu xin. Hai năm trôi qua, Joseph vẫn ở trong nhà tù, mãi cho đến khi tròn ba mươi tuổi.
Nhưng rồi vào một đêm, chính vị Vua Pharaoh lại mơ một giấc mơ thực sự, hai giấc mơ trong một, sáng sớm thức giấc, Vua cho gọi tất cả những bậc thức giả của Ai Cập đến để giải thích giấc mơ của mình. Nhưng không một ai trong họ có thể giải đáp ý nghĩa của những giấc mơ đó. Đức Vua đã vô cùng bối rối và cảm thấy ý nghĩa trong giấc mơ là một điều rất quan trọng mà mình cần phải biết.
Đột nhiên vị quản gia đang đứng bên cạnh nhà Vua nhớ ra chuyện giấc mơ trong tù của mình hai năm trước và nhớ đến người đàn ông đã giải thích ý nghĩa giấc mơ cho cậu ta một cách chính xác. Thế rồi cậu ta nói:
“Tôi nhớ chuyện sai lầm này của tôi. Hai năm trước, Vua Pharaoh đã giận dữ với những tôi tớ của mình, người đã tống tôi cùng với một thợ làm bánh mì vào ngục. Trong thời gian ở tù vào một đêm mỗi chúng tôi mơ một giấc mơ và ngày sau một người đàn ông trẻ trong tù, thuộc tộc người Do Thái đến từ Canaan đã giải thích ý nghĩa giấc mơ của chúng tôi và đúng sau ba ngày họ đã đến, đúng như người Do Thái trẻ ấy đã nói. Tôi nghĩ rằng nếu người đàn ông trẻ này vẫn còn ở trong tù thì cậu ta có thể nói cho Vua biết ý nghĩa mà Vua đã mơ thấy”.
Bạn lưu ý rằng, người quản gia gọi Joseph là “một Hebrew”. Joseph thuộc bộ tộc Do Thái vì thế gọi Hebrew cũng giống như gọi người Do Thái. Gọi là Hebrew có nghĩa ám chỉ “người du mục” và thuộc về
Do Thái là do cha họ Abraham đã đến từ vùng đất khác thuộc sông Euphrates và đã dọc theo con sông này để đến Canaan.
Thế là đức Vua vội vã ra lệnh thả Joseph, Joseph được tự do, anh ta được mặc một bộ y phục mới để đến trình diện trước ngai vàng. Pharaoh nói:
“Ta mơ một giấc mơ mà không ai có thể giải thích được. Ta nghe nói rằng ngươi là người có khả năng đoán mộng rất tài tình”.
Joseph trả lời:
“Khả năng này không phải tự tôi có mà là Chúa Trời đã trả lời đúng. Ngài đã mơ những gì?”.
“Trong giấc mơ”, Pharaoh nói: “Ta đứng bên bờ sông và thấy bảy con bò béo tốt, mập mạp từ dưới sông đi lên và gặm cỏ. Trong khi chúng đang gặm cỏ thì lại có bảy con khác từ dưới sông đi lên theo bọn chúng, những con bò này rất gầy gò và đáng thương như những tạo vật khốn khổ tồi tàn mà ta chưa từng thấy bao giờ. Những con bò gầy gò đáng thương ấy ăn hết cỏ của những con bò mập mạp, nhưng rồi sau khi chúng ăn hết cỏ, chúng cũng gầy gò và khốn khổ như trước. Sau đó ta tỉnh dậy”.
Một lúc sau, ta ngủ trở lại và lại tiếp tục mơ. Trong lần mơ thứ hai này, ta thấy bảy hạt mầm mọc ra với một thân cây rất lớn, khoẻ mạnh và tốt lành. Sau đó bảy hạt mầm khác lớn lên sau chúng, rất gầy, đáng thương và tàn úa. Bảy hạt mầm gầy này sau đó đã hút hết dinh dưỡng của bảy hạt mầm kia, nhưng rồi sau đó chúng cũng gầy gò đáng thương và tàn úa như trước.
Sau đó ta đã kể giấc mơ của mình với tất các bậc minh triết, nhưng không có ai có thể giải thích được hai giấc mơ của ta. Ngươi có thể nói những giấc mơ của ta có ý nghĩa như thế nào không?”.
Joseph thưa với đức Vua:
“Hai giấc mơ của ngài có cùng một ý nghĩa. Đức Chúa đã phó thác cho đức Vua Pharaoh những điều mà ông ta phải làm trên mảnh đất này. Bảy con bò béo tốt ấy có nghĩa là bảy năm, bảy hạt mầm tươi tốt cũng có nghĩa là bảy năm. Bảy con bò gầy và bảy hạt mầm yếu ớt cũng mang ý nghĩa là bảy năm. Những con bò béo tốt và những hạt mầm tươi xanh có nghĩa là bảy năm sung túc, giàu có. Bảy con bò gầy gò và bảy hạt mầm yết ớt thể hiện bảy năm nghèo nàn đói khát. Những điềm báo đó sẽ đến trên vùng đất Ai Cập, có bảy năm giàu có sung túc mà chúng ta không bao giờ thấy; những cánh đồng mang lại mùa màng bội thu so với trước đây; sau bảy năm thì những cánh đồng sẽ không còn bội thu nữa, bảy năm lại trôi qua như thế, những năm sung túc giàu có sẽ bị lãng quên và con người sẽ không còn gì để ăn nữa”.
“Bây giờ, đức Vua Pharaoh hãy tìm ra một người thông thái, để cho anh ta đặt ra pháp chế và áp dụng khắp vùng đất này. Trong suốt bảy năm giàu có, hãy để lại một phần cây trồng, cất đi để phòng khi cần đến. Nếu làm như thế thì khi cần sẽ có thức ăn dồi dào cho mọi người và sẽ không có ai bị đau đớn khổ sở, vì mọi thứ sẽ đầy đủ”.
Đức Vua Pharaoh nói với Joseph: “Từ khi Chúa Trời cho người điều này, trên thế gian không còn ai thông minh như ngươi. Ta sẽ bổ nhiệm ngươi vào làm việc và để cho ngươi đặt ra pháp chế cho vùng đất Ai Cập. Tất cả mọi người đến thuộc quyền cai trị của ngươi; duy nhất ngai vàng Ai Cập là của ta, ta sẽ ở trên ngươi”.
Sau đó Pharaoh cởi chiếc nhẫn trong tay mình và đeo vào tay của Joseph để làm ấn tín, vì vậy mà Joseph có thể ký tên và đóng dấu thay nhà vua. Sau đó nhà Vua khoác lên mình Joseph chiếc áo choàng bằng vải Lanh rất đẹp, đeo vào cổ cậu ta một dây chuyền vàng. Sau đó ông ta cho Joseph cưỡi lên xe ngựa và xếp vào hàng ngũ kế tiếp sau đức Vua. Họ đã hô hào trước Joseph, “Hãy quỳ xuống”. Như vậy là Joseph nắm quyền thống trị toàn bộ lãnh thổ Ai Cập.
ĐỒNG TIỀN TRONG BAO TẢI
Khi Joseph nắm quyền thống trị vùng đất Ai Cập ông ta đã làm đúng như lời ông ta thường nói. Ông ta thường không ngồi nghỉ ngơi vui đùa trong khi làm việc, không hề để người khác phải chờ đợi mình. Ông ta tìm thấy công việc trong mọi lúc và bắt đầu làm việc một cách chăm chỉ, trung thực. Ông ta đi khắp các vùng trên đất nước Ai Cập, ông ta đã chứng kiến sự phì nhiêu của những cánh đồng, mách bảo cho họ tận dụng hết khả năng và khai thác hết công suất. Ông ta khuyên bảo mọi người đừng phung phí và phải tích trữ lương thực cần thiết cho tương lai.
Ông ta kêu gọi mọi người đóng góp cho nhà Vua, cứ có năm giạ[1] thì góp một giạ để tích trữ. Mọi người mang thóc của mình đến sau khi đã giữ lại đủ cho nhu cầu sử dụng của mình. Joseph chứa thóc vào những kho lớn trong thành phố, số thóc nhiều đến mức không còn có thể chứa thêm được nữa.
Vị Vua Ai Cập đã gả con của mình là một nàng Công chúa trẻ đẹp để làm vợ Joseph. Cô ta tên là Asenath; hai vợ chồng họ đội ơn Chúa đã sinh được hai người con trai, đứa lớn tên là Manasseh, một từ có nghĩa là “Làm cho quên”.
“Vì” Joseph nói: “Thượng Đế đã khiến cho ta quên hết tất cả rắc rối và công việc khó nhọc như một sự cứu rỗi”.
Đứa con trai thứ hai tên là Ephraim, một từ có nghĩa là “Nhiều hoa quả”. “Bởi vì” Joseph giải thích, “Thượng Đế không những làm cho vùng đất này đầy hoa trái mà người còn khiến mảnh đất phiền muộn trong tâm hồn ta cũng đầy hoa trái”.
Thế là bảy năm trù phú đã trôi qua, những năm cần đến rồi đã đến. Những vùng lân cận đã xuất hiện nạn đói, chẳng có thức ăn để ăn, nhưng ở vùng đất Ai Cập thì lương thực rất đầy đủ. Phần lớn mọi
người sử dụng thức ăn dự trữ, nhiều người tích trữ không đủ thì họ đến cầu xin nhà Vua cứu tế.
“Hãy đến Joseph!” Vua Pharaoh bảo, “phải làm tất cả mọi điều ông ta bảo các ngươi”.
Thế là mọi người đi đến chỗ Joseph, Joseph mở kho lương thực và bán cho những người có nhu cầu mua. Và không chỉ những người Ai Cập đến mua lương thực mà còn có cả những người ở các vùng đất lân cận đến mua vì nạn đói xảy ra khắp nơi. Nhu cầu lương thực cũng rất lớn trong vùng Canaan, nơi mà Jacob đã sống, cũng như những vùng đất khác. Jacob rất giàu có, ông ta có nhiều những đàn thú nuôi vàng bạc nhưng cánh đồng trong lãnh thổ của ông ta đã không mang lại mùa màng, không có thóc, nghiêm trọng hơn là gia đình của ông ta cùng với mọi người không có lương thực để ăn. Jacob người mà chúng ta bây giờ cũng gọi là người Do Thái cũng nghe được chuyện nước Ai Cập có thức ăn, thế là ông ta bảo với mấy đứa con trai: “Tại sao các con chỉ biết nhìn nhau, hãy làm gì để tìm kiếm thức ăn đi chứ? Ta nghe nói ở Ai Cập có rất nhiều lương thực. Hãy đến vùng đất ấy, mang theo tiền bạc để mua lương thực, chúng ta sẽ có bánh mì và chúng ta sẽ sống”.
Thế là mười anh em của Joseph đi đến vùng đất Ai Cập. Họ cưỡi những con lừa, vì cúc đó người ta chưa dùng ngựa để cưỡi, họ đi và mang theo tiền. Nhưng Jacob không để đứa con út của mình là Benjamin đi theo họ vì Benjamin là người thường xuyên lân cận bên cha mình, giờ đây Joseph đã không còn bên cạnh Jacob nữa vì thế mà Jacob sợ rằng sẽ có người làm hại đến ông ta.
Thế là những anh em của Joseph đến chỗ Joseph để mua thức ăn. Họ không biết rằng Joseph đã trưởng thành, mang trên người hoàng bào của Hoàng tử và ngồi trên Ngai vàng. Joseph giờ đây đã gần bốn mươi tuổi và ông ta đã trải qua hai mươi năm ở đây kể từ khi các anh em của ông ta bán ông ta đi. Những anh em của Joseph không biết Joseph nhưng trái lại, Joseph biết tất cả bọn họ ngay lần đầu tiên gặp mặt. Anh ta muốn tỏ ra nghiêm nghị với họ, nhưng
không vì thế mà anh ta căm ghét họ, anh ta muốn thăm dò xem tính cách của họ như thế nào, xem họ còn tính ích kỷ, độc ác, tàn bạo như trước nữa không.
Họ đến trước Joseph cúi đầu và mặt nhìn xuống đất, thế rồi không còn nghi ngờ gì nữa, Joseph nghĩ ngay đến giấc mơ của mình khi còn là một cậu bé, mấy bó lượm của các anh em rạp mình xung quanh bó lượm của mình. Joseph nói với họ như một người xa lạ và như thể mình không hiểu ngôn ngữ của họ, bắt họ phải giải thích bằng ngôn ngữ Ai Cập.
“Các anh là ai? Các anh từ đâu đến đây?”. Joseph nói với thái độ nghiêm nghị.
Họ trả lời Joseph một cách sợ sệt: “Chúng tôi từ vùng Canaan đến đây để mua thức ăn”.
“Không”, Joseph nói, “Tôi biết các anh đến đây vì cái gì rồi, các anh là gián điệp, đến vùng đất này để thám thính tình hình, sau đó mang quân đội đến đây chống lại chúng tôi, thực thiện chiến tranh trên vùng đất này”.
“Không, không”, mười anh em của Joseph nói. “Chúng tôi không phải gián điệp. Chúng tôi là con trai của một người đang sống ở vùng đất Canaan; chúng tôi đến đây vì thức ăn, bởi vì nhà chúng tôi đã không còn lương thực”.
“Các anh nói các anh là con trai của một người đàn ông, thế ông ta là ai? Đang sống ở đâu? Các anh còn có anh em nào khác không? Hãy nói với tôi tất cả những điều về các anh”.
Những người kia nói: “Cha tôi là một người đàn ông già ở Canaan. Chúng tôi có một người em mất tích, vẫn còn thêm một người nữa, anh ta là em út của chúng tôi, nhưng cha chúng tôi không cho cậu ấy đi theo chúng tôi”.
“Không”, Joseph nói. “Các anh không phải là những người đàn ông tốt và lương thiện. Các anh là gián điệp. Tôi sẽ bắt các anh vào tù, trừ khi có một người trở về mang đứa em út của các anh đến đây, khi tôi nhìn thấy cậu ta, tôi sẽ tin những điều các anh nói là sự thật”.
Thế là Joseph bắt mười người bỏ vào tù, giam giữ họ trong ba ngày rồi sau đó lại thả họ. Họ không ngờ rằng Joseph có thể hiểu được ngôn ngữ của họ, thế là họ bàn tán với nhau, trong khi Joseph vẫn nghe họ nói nhưng ông ta giả vờ như không nghe: “Đây là quả báo của chúng ta bởi vì chúng ta đã làm điều sai trái với người anh em của mình là Joseph cách đây hơn hai mươi năm. Chúng ta nghe cậu ta khóc, cậu ta đã van xin chúng ta khi chúng ta ném cậu ta xuống hố, chúng ta không có lòng nhân từ đối với cậu ta. Đức Chúa cho chúng ta gánh chịu những gì mà chúng ta đã làm”.
Sau đó Reuben, người mà trước đây muốn cứu Joseph nói: “Tôi đã bảo các anh không làm hại đến cậu bé cơ mà? Các anh đã không nghe tôi. Chúa Trời sẽ mang máu của người anh em chúng ta đổ lên đầu chúng ta”.
Khi Joseph nghe được điều này con tim cậu ta bỗng dưng xúc động, cậu ta thấy rằng những người anh em của mình đã rất hối hận về hành động sai trái của họ đối với cậu ta. Cậu ta quay đi nên họ không thấy được khuôn mặt với đôi mắt rơm rớm nước mắt của cậu ta. Thế rồi cậu ta trở lại chỗ họ và cũng bằng giọng nói cứng rắn như trước, cậu ta nói:
“Tôi sẽ làm điều này vì Chúa. Tôi sẽ để cho các anh về nhà, trừ ra một người. Tôi sẽ tống vào tù một người trong số các anh, những người còn lại có thể về nhà và mang thức ăn về đó cho mọi người. Sau đó các anh phải trở lại và mang đứa em út của các anh đến đây để tôi biết rằng lời các anh nói là sự thật”.
Thế là Joseph ban bố mệnh lệnh cho những người đầy tớ bắt lấy một người trong số mười anh em của ông ta, người ấy tên là Simeon, trói lại trước mặt mọi người sau đó giam vào ngục. Joseph
tiếp tục lệnh cho các tôi tớ đổ đầy những bao tải lương thực, sau đó để tiền của những người đàn ông này lại trong các bao tải lương thực trước khi buộc miệng chúng lại, như thế họ sẽ tìm thấy tiền ngay khi họ mở những tải lương thực. Những người đàn ông này lại cưỡi lên lừa với những bao tải thức ăn đầy bắt đầu về nhà, để lại người anh em của họ là Simeon làm tù nhân.
Khi họ dừng lại dọc đường để kiếm thức ăn cho lừa thì một người anh em của họ mở một bao tải lương thực ra, cậu ta phát hiện tiền của cậu ta nằm trên thóc. Cậu ta vội vã gọi những người anh em: xem này, đây là tiền của tôi, tiền của tôi đã trở lại với tôi!” Họ hoảng sợ nhưng không dám trở lại Ai Cập, vùng đất của những luật pháp lạnh lùng. Họ trở về nhà và kể lại cho người cha nghe hết mọi chuyện xảy ra với họ, kể chuyện người anh em Simeon ở tù, phải ở lại đó cho đến khi họ trở lại đó và mang theo Benjamin.
Khi họ mở những tải lương thực của họ thì mỗi một miệng bao đều có tiền của họ, số tiền mà họ đã mang đi để mua lương thực đều được trả về. Họ cảm thấy rất lo lắng. Sau đó họ nói là sẽ đến lại Ai Cập và mang theo Benjamin, nhưng Jacob nói với họ:
“Các con mang lần lướt những đứa con trai của ta đi. Joseph đã đi, Simeon đã đi và giờ các con lại mang Benjamin đi nữa ư. Những điều các con làm đều chống lại cha!” Reuben nói: “Đây là hai đứa con của con, trường hợp con không mang Benjamin trở về cho cha thì cha có thể giết nó nếu cha muốn”. Jacob nói: “Đứa con trai út của ta sẽ không đi theo các con. Anh trai của nó đã chết, còn mỗi mình nó bên cạnh ta. Nếu có tai hại nào xảy đến với nó, điều đó sẽ mang ta xuống mồ với mái tóc bạc trắng và nỗi buồn vô tận”.
[1] Giạ: đơn vị đong thóc.
SỰ HUYỀN BÍ CỦA ĐỨA CON MẤT TÍCH
Thức ăn mà những đứa con trai của Jacob mang về từ Ai Cập cũng chóng hết, vì gia đình của Jacob rất lớn. Hầu hết các con trai đều cưới vợ và họ cũng có con cái, tất cả con cháu đã đông đến con số sáu mươi sáu, ngoài ra còn có những người đầy tớ hầu hạ họ nữa, cả những người đàn ông chăm sóc gia súc cho Jacob.
Khi thức ăn mang từ Ai Cập về đã gần hết Jacob nói với mấy đứa con trai:
“Hãy đến Ai Cập một lần nữa và mua thức ăn cho chúng ta”.
Judah, con trai Jacob, người mà những năm về trước đã đề nghị bán người anh em của mình là Joseph cho những người Do Thái, nói với cha mình: “Thật là vô ích nếu chúng ta đến Ai Cập, trừ phi chúng ta mang Benjamin đi cùng. Kẻ thống trị vùng đất đó đã nói với chúng con rằng, “Anh sẽ không thể gặp được tôi, trừ phi đứa em út của anh cùng đến với anh”.
Berjamin nói, “Tại sao anh lại bảo với người đàn ông ấy là anh có một người em? Anh đã đặt em vào nơi nguy hiểm khi anh nói điều đó với ông ta”.
“Tại sao”, những đứa con trai của Jacob nói. “Chúng tôi không thể không nói. Người ấy yêu cầu chúng tôi nói về gia đình mình. Cha anh sống ở đâu? Có bao nhiêu anh em? Và chúng tôi đã nói với ông ấy, những câu hỏi của ông ấy thật là bí hiểm. Chúng tôi làm sao biết được ông ấy bảo chúng tôi phải đưa người em của các ngươi đến đây, để ta thấy cậu ta?”.
Judah nói: “Để Benjamin đi với tôi, tôi sẽ chăm sóc cậu ấy. Tôi hứa với mọi người rằng tôi sẽ mang cậu ấy về nhà an toàn. Nếu cậu ta không trở về, tôi sẽ chịu sự nguyền rủa suốt đời. Cậu ta phải đi, hoặc chúng ta sẽ chết vì thiếu thức ăn chúng tôi sẽ đến Ai Cập và sau đó quay trở về nhà nếu chúng tôi không bị giữ lại”.
Jacob nói, “nếu sự thật là như vậy thì cậu ta cần phải đi. Nhưng hãy mang tặng người đàn ông ấy một món quà, hãy chọn một vài loại quả hảo hạng nhất trên vùng đất này, một ít đồ gia vị vài quả thơm, vài quả hạnh và cầm tiền nhiều gấp đôi ngoài số tiền mà các con được trả lại trong tải lương thực. Có lẽ các con đã sai khi bị người ta trả lại tiền. Hãy mang theo người em của con Benjamin, hy vọng đức Chúa sẽ khiến người đàn ông ấy đối xử tốt với các con và, vì thế ông ta sẽ cho Simeon được tự do và để cho các con mang Benjamin về. Nhưng nếu điều đó là ý của Chúa thì ta sẽ mất đi những đứa con, ta không thể chịu nổi”.
Thế là mười người anh của Joseph lần thứ hai tìm đến Ai Cập, Benjamin đi đến chỗ Simeon. Họ đến phòng làm việc của Joseph, nơi ông ta đang bán gạo cho mọi người và sau đó họ đến trước mặt Joseph và cúi đầu chào như lần gặp trước. Joseph thấy Benjamin cùng với những anh em của mình liền bảo quản gia chuẩn bị bữa ăn tối. Ông nói: “Tất cả nhũng người này sẽ ăn cơm với ta hôm nay”.
Khi những anh em Joseph được mời vào nhà thì họ cảm thấy rất lo sợ. Họ nói với nhau:
“Chúng ta mang nhiều tiền ở đây sẽ khiến họ nghi ngờ rằng chúng ta ăn trộm tiền và rất có thể họ sẽ bán chúng ta đi làm nô lệ”.
Nhưng người quản gia của Joseph đã đối xử với họ rất tử tế, khi họ đưa ra những đồng tiền trong các bao lương thực thì ông ta đã không lấy, ông ta nói:
“Đừng lo lắng, Chúa của các anh đã tặng các anh những thứ đó như một món quà. Tôi cũng đã có tiền của các anh”.
Những người quản gia tiếp đón mọi người vào nhà của Joseph, rửa chân cho họ theo phong tục của vùng đất này. Đến trưa, Joseph đến gặp họ. Họ mang món quả của cha gửi đến cho Joseph và một lần nữa cúi đầu trước Joseph.
Joseph đã hỏi thăm sức khoẻ của họ và nói “Cha của các anh vẫn còn sống chứ, người đàn ông già mà các anh nói đến đó? Ông ta có khoẻ không?”.
Họ nói: “Cha của chúng tôi vẫn còn sống và rất khoẻ”, rồi họ lại cúi đầu trước Joseph.
Sau đó Joseph nhìn người em của mình là Benjamin, đứa trẻ cùng cha cùng mẹ của mình và nói:
“Đây là đứa em út mà các anh đã nói với tôi đúng không? Thượng Đế rất nhân từ với em, em trai ta!”.
Con tim Joseph cảm xúc dâng trào khiến ông ta không cầm được nước mắt. Ông ta vội vàng đi vào phòng rồi bật khóc. Sau đó Joseph rửa mặt và quay lại, sắp đặt bàn ghế chuẩn bị bữa tối. Họ sắp riêng cho Joseph một bàn ăn như người chủ, những bàn ăn khác cho những sĩ quan Ai Cập và những chiếc bàn khác nữa cho nhóm người đến từ Canaan; Joseph ra lệnh thả Simeon ra khỏi tù và cho ngồi cùng bàn ăn với những người anh em của mình.
Joseph sắp xếp chỗ ngồi cho tất cả những anh em mình, người lớn nhất được ngồi đầu và người nhỏ nhất ngồi cuối. Những người anh em của Joseph cảm thấy rất ngạc nhiên về điều này, tại sao một người lãnh đạo vùng đất Ai Cập tại biết được thứ tự các anh em của họ. Sau đó Joseph đã lấy thức ăn từ bàn của mình đến cho những người anh em ăn, ông ta đã mang thức ăn cho Benjamin nhiều gấp năm lần so với những người khác. Có lẽ ông ta đang để ý xem họ có tỏ thái độ ganh tị với Benjamin như trước đây họ từng ganh tị với ông không.
Sau buổi tối, Joseph bảo với người quản gia: “Hãy đổ đầy những bao tải lương thực và tiền của người nào thì để lại vào bao tải của người đó. Để tiền và chiếc cốc bạc của ta vào trong bao tải của người trẻ nhất’.
Người quản gia làm đúng theo lời Joseph dặn: Sáng sớm ngày mai những người anh em của Joseph lên đường trở về nhà. Một lát sau Joseph nói với người quản gia:
“Nhanh lên, hãy đi theo những người đàn ông kia và hãy nói: Tại sao các người làm thế với ta, trong khi ta đã đối xử rất tử tế với các ngươi? Các ngươi đã ăn cắp chiếc cốc bạc của ông Chủ ta, đó là chiếc cốc uống nước của ông ấy”.
Người quản gia chạy theo những người đàn ông, chạy đến trước mặt họ và buộc tội ăn cắp cho họ. Họ nói với cậu ta:
“Tại sao anh có thái độ như thế với chúng tôi? Chúng tôi có ăn cắp gì đâu. Tại sao, chúng tôi mang tiền trong các bao tải lương thực của chúng tôi đến trả cho anh, sự thật chúng tôi có trộm cắp vàng bạc gì đâu? Ngươi hãy lục soát, nếu anh phát hiện chiếc cốc bạc của ông chủ anh nằm ở túi của ai chúng tôi sẽ để người ấy chết, những người còn lại sẽ bị bán làm nô lệ”.
Thế là họ để những cái bao tải lương thực trên những con lừa xuống đất và mở chúng ra; lần này cũng như lần trước, các túi lương thực đều có tiền; khi xem túi lương thực của Benjamin thì phát hiện có chiếc cốc bạc của Joseph. Trong cơn tuyệt vọng, họ buộc lại những bao tải lương thực, đặt lên lưng những con lừa và quay lại cung điện của Joseph.
Joseph nói với họ:
“Các ngươi đã làm những điều xấu xa gì? Các ngươi không biết rằng ta chắc chắn sẽ tìm ra những hành động của các ngươi ư?”
Judah nói: “Ôi Chúa ơi, chúng ta biết nói gì đây? Thượng Đế trừng trị chúng ta vì chúng ta đã gây ra nhiều tội lỗi bây giờ chúng ta phải làm nô lệ, trong túi lương thực của hết thảy lớn bé của chúng ta đều tìm thấy chiếc cốc bạc”.
“Không”, Joseph nói: “Chỉ duy nhất một người là tội phạm; chỉ một người ăn cắp chiếc cốc của ta. Ta sẽ bắt người đó làm nô lệ, những người còn lại được thả, các ngươi có thể về nhà với cha của các ngươi”.
Joseph muốn xem tính ích kỷ của các anh em mình còn hay không, nếu còn thì họ sẽ để cho Benjamin chịu khổ còn họ sẽ thoát nạn.
Còn Judah, người thực sự thúc giục anh em mình bán Joseph làm nô lệ trước đây đã đến trước Joseph, quỳ xuống và cầu xin Joseph tha cho Benjamin. Cậu ta kể lại toàn bộ câu chuyện, rằng Benjamin là một đứa con được cha yêu quí nhất trong số những người con của ông ấy. Và bây giờ người anh trai của cậu ấy đã mất. Judah nói tiếp:
“Tôi đã hứa sẽ ở đây chịu sự trừng phạt, nếu cậu bé này không được về nhà an toàn. Nếu cậu ta không trở lại nhà thì người cha già đáng thương của tôi sẽ không thể sống nổi, ông ấy đã phải chịu quá nhiều phiền muộn. Bây giờ ngài hãy để người em út của tôi trở về nhà với cha, tôi sẽ ở đây chịu làm nô lệ”.
Giờ thì Joseph đã biết điều mà ông ta bấy lâu ấp ủ trong lòng, những anh em của mình không còn tàn bạo và ích kỷ như xưa nữa, nhưng phải một người ở đây chịu khổ thì người anh em của cậu ta mới được dung thứ. Và rồi Joseph cũng không thể giấu kín nỗi niềm, không thể cầm lòng trước những người anh em của mình, ông ta đã khóc, lần này Joseph đã khóc trong tình thương và niềm vui sướng. Joseph bảo tất cả đày tớ vào phòng, còn lại một mình ông ta với các anh em, sau đó ông ta nói:
“Hãy đến gần ta, ta muốn nói với các anh”. Họ ngạc nhiên nhưng cũng đã đến bên Joseph. Joseph nói:
“Ta là Joseph; cha ta thực sự còn sống chứ?”
Những người anh em thì cảm thấy vô cùng lo sợ khi họ nghe tiếng dân tộc của họ được nói bởi một người cai trị Ai Cập và lần đầu tiên
họ biết được rằng người đàn ông nghiêm khắc lạnh lùng này, ông ta đang nắm sinh mạng của họ trong tầm tay, ông ấy chính là người em mà họ đã rắp tâm hãm hại! Thế rồi Joseph nói tiếp:
“Ta là Joseph, là anh em của các anh, các anh đã bán tôi đến Ai Cập. Nhưng ta đã không băn khoăn về hành động mà các anh đã làm. Vì Chúa đã phái ta đến để cứu rỗi cuộc sống của các anh. Đã hai năm xảy ra nạn đói và vẫn còn tiếp tục thêm năm năm nữa, cho đến khi nào không còn cày cấy và thu hoạch. Không phải các anh phái tôi đến đây mà chính là đức Chúa; ngài phái tôi đến đây để cứu vớt cuộc sống cho các anh. Đức Chúa ban cho tôi vị trí của một người cha, làm Vua Pharaoh và cai trị lãnh thổ Ai Cập. Bây giờ tôi muốn các anh về nhà, sau đó đưa cha và tất cả mọi người trong gia đình đến đây với tôi”.
Joseph choàng tay qua cổ của Benjamin và hôn vào má, hai anh em đã ôm nhau và họ khóc nức nở. Sau đó Joseph ôm hôn tất cả các anh em và tỏ ra đã hoàn toàn tha thứ cho họ; sau đó những người anh em của Joseph đã không còn thấy sợ Joseph nữa, họ đã cùng đi dạo với Joseph.
Về sau, Joseph lệnh cho mang đến nhà các anh em mình những lời chúc tốt đẹp, những món quà hậu hĩnh cùng rất nhiều thức ăn. Họ cũng gửi tặng nhiều xe ngựa mà Jacob và những người con dâu và một số người trong gia đình của họ đã cưỡi từ Canaan đến Ai Cập. Những anh em của Joseph đã sống một cuộc sống hạnh phúc cho đến mãi sau này.
MOSES, ĐỨA TRẺ ĐƯỢC TÌM THẤY TRÊN SÔNG
Bọn trẻ người Do Thái được ở lại vùng đất Ai Cập lâu hơn cả sự mong đợi. Họ đã sống trên vùng đất ấy khoảng bốn trăm năm. Việc đến được Ai Cập đã chứng tỏ họ đã được ban phúc lành. Điều đó đã cứu vớt họ trong suốt những năm đói khát, những năm đói khát trôi qua, họ tìm ra vùng đất Goshen, một phần đất của Ai Cập và họ đã sống ở đó, họ rất giàu có. Mỗi năm họ thu hoạch từ ba đến bốn vụ mùa.
Còn những người con trai Do Thái, trước khi đến Ai Cập họ đã lập gia đình tại vùng đất Canaan, họ tôn thờ những tượng thần và không thờ Chúa Trời. Nếu họ ở lại đó, con cái của họ sẽ lớn lên và cũng giống như họ, sớm mất tất cả những ý niệm về đức Chúa Trời.
Trong vùng Goshen họ đã sống đơn lẻ cùng một bộ phận người dân Ai Cập. Họ phụng sự đức Chúa Trời và cũng không rời bỏ việc thờ phụng các thần linh của Ai Cập. Và tại đó, trải qua một vài năm từ con số bảy mươi, họ đã phát triển thành một cộng đồng rất lớn. Mỗi một người con trai trong mười hai người con của Jacob đều trở thành cha[1] của một bộ lạc và Joseph là cha của hai bộ lạc, lấy tên theo hai đứa con trai của mình là Ephraim và Manasseh.
Tại thời điểm Joseph sống và một thời gian sau, người Do Thái được người Ai Cập đối xử rất thân thiện, tình yêu ấy có được là vì Joseph, người đã cứu vớt những người Ai Cập thoát khỏi nạn đói. Nhưng sau đó một thời gian những vị Vua khác lên nắm quyền cai trị Ai Cập, họ đã không quan tâm đến Joseph và giòng họ của Joseph. Ông ta thấy rằng những người Do Thái là rất đông, ông ta sợ rằng họ sẽ sớm lớn mạnh và quyền năng hơn những người Ai Cập.
Ông ta nói với những người của mình: “Chúng ta hãy cai trị những người Do Thái một cách nghiêm khắc. Họ đã trở nên thực sự lớn mạnh”.
Thế là họ đặt những luật lệ vô cùng hà khắc để thống trị những người Do Thái, họ đã đặt lên vai những người Do Thái những gánh nặng. Họ bắt những người Do Thái làm việc nặng nhọc, phục vụ cho những người Ai Cập và xây dựng thành phố cho họ và người Ai Cập, một phần khác thì bắt phụ trách mùa màng trên những cánh đồng để phục vụ họ. Họ bắt những người Do Thái làm ra những viên gạch để xây dựng các nhà kho. Họ sợ rằng những người Do Thái lớn mạnh nên đã đặt ra luật lệ là giết chết những đứa trẻ Do Thái khi chúng được sinh ra, nhưng nếu là con gái thì được sống.
Nhưng trước sự tàn bạo, độc ác ganh ghét, người dân Do Thái ngày càng đông đúc và mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn.
Một ngày nọ, khi sự tàn bạo của những người Ai Cập nên tới tột đỉnh, khi những trẻ nhỏ đều bị giết, thì một cậu bé được sinh ra.
Đứa bé thật đáng yêu, không chịu để con mình chết oan uổng, người mẹ đã mang đứa bé giấu đi, vì thế mà không ai tìm thấy đứa trẻ ấy. Khi biết mình không thể giấu con được nữa, bà ta đã lập một kế hoạch để cứu lấy cuộc sống của đứa bé; bà ta tin rằng Chúa Trời sẽ giúp đỡ và cứu lấy đứa con nhỏ xinh đẹp của bà ta.
Bà ta làm chiếc rương nhỏ hình một chiếc thuyền và quét sơn để cho nước không thể thấm vào trong. Giống như chiếc thuyền trong truyện “Noah và con thuyền lớn”. Vì biết chắc chắn rằng những người con gái của Pharaoh[2] thường xuống sông tắm, cho nên bà ta đã đặt đứa con trai nhỏ bé của mình trong chiếc thuyền nhỏ và thả trôi trên sông với hy vọng là Công chúa - con gái của Pharaoh, sẽ nhìn thấy đứa bé. Sau đó bà ta bảo đứa con gái lớn của mình, một cô bé tên là Miriam, mười hai tuổi nấp và canh ở gần ngay đó. Người mẹ và người chị trông theo chiếc rương nhỏ trôi lững lờ trên sông, họ mới lo lắng làm sao!
Con gái của Pharaoh cùng với người hầu gái xuống sông để tắm và họ đã thấy con thuyền nhỏ trôi trên mặt nước giữa đám lau sậy. Công chúa liền bảo một người hầu gái bơi ra và đưa chiếc rương
vào bờ. Vì tính hiếu kỳ của mình, cô ta muốn xem trong rương nhỏ ấy đựng thứ gì. Họ mở chiếc rương và thấy một cậu bé kháu khỉnh đang nằm ngủ và cậu bé đã khóc khi được mọi người bế ra khỏi rương.
Công chúa cảm thấy thương mến đứa trẻ nhỏ, cô ta nói: “Đây là một trong những đứa trẻ của Hebrew[3]”. Con gái của Pharaoh nghĩ rằng thật là tàn bạo nếu để đứa trẻ nhỏ đáng yêu này chết trôi trong nước. Và tình cờ một đứa bé gái chạy đến bên cạnh công chúa, công chúa bảo: “Gọi một người phụ nữ Hebrew đến đây cho ta, ta sẽ bảo người ấy làm bảo mẫu để chăm sóc đứa bé này”.
Cô bé gái tên là Miriam, là chị gái của cậu bé chạy rất nhanh về nhà và dẫn mẹ của mình đến cho công chúa. Hành động này của Miriam thể hiện rằng cô ta là một cô bé rất khôn ngoan và biết suy nghĩ. Công chúa bảo mẹ đứa bé: “Hãy mang đứa trẻ này về nhà và chăm sóc nó cho ta, ta sẽ trả lương hàng tuần cho ngươi”.
Người mẹ Hebrew vui sướng làm sao khi được mang con mình về nhà! Hiện giờ không ai có thể làm hại cậu bé được nữa, vì cậu ta đã được bảo vệ bởi Công chúa Ai Cập, con gái của đứa Vua Pharaoh.
Khi đứa trẻ đủ lớn để tách khỏi mẹ của mình thì con gái Pharaoh mang cậu ta về ở trong cung điện của cô ấy. Cô ta đặt tên cho cậu bé là Moses, một danh từ có nghĩa là “bị nước cuốn trôi”, bởi vì cô ta đã cứu cậu bé thoát khỏi dòng nước.
Thế rồi, Moses, một đứa bé dòng Hebrew đã sống trong cung điện tại một lãnh thổ cao quí, mọi người xem cậu ta như con trai của Công chúa. Ở đây, Moses học được nhiều kiến thức do những người Ai Cập truyền lại. Trong triều đình nhà Vua có nhiều nô lệ là dân Do Thái, những người con của Chúa Trời, trong quá trình trưởng thành tại đây, cậu bé người Do Thái này đã tìm nhiều cách để trả tự do cho nhiều người cùng gốc tích với mình.
Mặc dầu Moses lớn lên giữa những người Ai Cập và học tập theo nền văn hoá của họ nhưng cậu ta rất yêu quí dân tộc của mình. Họ
là những người nghèo khổ và bị ghét bỏ, là những người nô lệ nhưng cậu ta vẫn yêu thương họ bởi vì họ là những người sinh ra để phụng sự đức Chúa Trời, trong khi những người Ai Cập thờ thần tượng và thú vật. Thật kỳ lạ, con người vốn khôn ngoan như thế mà lại cúi đầu trước một con bò, con mèo, hoặc con rắn như những người Ai Cập đã làm.
Khi Moses đã thực sự trưởng thành là một người đàn ông, anh ta đã đến với những người thuộc dòng tộc của mình, rời xa sự giàu sang và quyền quí mà anh ta đã từng có cùng với những người Ai Cập. Anh ta nhân danh Chúa Trời để trả tự do cho những người Do Thái. Nhưng lúc này anh ta nhận thấy mình không thể làm gì để giúp đỡ họ. Họ không để anh ta dẫn dắt họ và như thể vị Vua Ai Cập bây giờ trở thành kẻ thù của anh ta, Moses đã rời khỏi Ai Cập và đến một vùng đất thuộc Arabia, được gọi là Midian.
Mệt mỏi với chuyến đi dài, khi đó Moses ngồi nghỉ bên một bờ giếng và cậu ta đã thấy một vài phụ nữ đến để múc nước giếng cho bò và cừu của họ uống. Sau đó có một vài người đàn ông với bộ dạng thô kệch cũng đến, họ xua đuổi những phụ nữ kia ra và ra sức múc nước cho đàn cừu của họ uống. Moses thấy thế liền đến giúp những người phụ nữ và lấy nước cho họ.
Những người phụ nữ này là chị em và là con gái của một người đàn ông tên là Jethro, ông ấy là một vị linh mục trong lãnh địa của Midian. Ông ta đã yêu cầu Moses đến ở với ông ta, giúp đỡ ông ta chăm sóc đàn cừu. Moses đã ở lại đó và kết hôn với một trong số những người con gái của Jethro. Thế là từ một vị hoàng tử trong cung điện Vua Ai Cập, Moses đã trở thành một người chăn cừu trên vùng đất hoang mạc xứ Midian.
Trong khi Moses đang chăn cừu thì đức Chúa xuất hiện, tay cầm bó đuốc sáng và bảo cậu ta trở lại Ai Cập để tiếp tục lãnh đạo người dân ở đó. Đức Chúa Trời chỉ cho Moses thấy rằng phải trừng phạt những người Ai Cập độc ác vì họ đã ngược đãi những người Do Thái. Những người Ai Cập bị trừng phạt bởi nhiều dịch bệnh và cuối
cùng họ cũng cho phép những người Do Thái ra đi. Họ đã băng qua vùng biển đỏ trong một con đường tuyệt đẹp, đi du ngoạn khắp vùng hoang mạc một thời gian dài, ở đó đức Chúa đã nuôi họ hàng ngày bằng loại bánh Manna. Chúa Trời cũng đặt ra nhiều nguyên tắc và chỉ dẫn cuộc sống hàng ngày cho họ; những nguyên tắc này được gọi là “Mười điều răn dạy” và giờ đây họ vẫn nhớ mãi những lời răn dạy của người.
[1] Cha: Trưởng tộc
[2] Pharaoh: Tất cả những vị vua Ai Cập đều gọi là Pharaoh, Pharaoh có nghĩa là một ông vua.
[3] Hebrew: Người Do Thái
NHỮNG CHÙM NHO TỪ CANAAN
Những người Do Thái ở lại trong lều trại của họ trước Mount Sinai gần một năm, trong khi họ xây dựng nơi ở tạm gọi là Tabernacle và nghiên cứu những điều luật của Chúa đã ban cho Moses. Cuối cùng đám mây trên Tabernacle đã bay đi hết, mọi người biết rằng đây là dấu hiệu để họ phải ra đi. Họ đã rời bỏ Tabernacle và những căn lều để hành trình dài nhiều ngày về vùng đất Canaan.
Cuối cùng họ đến được vùng ngoại ô giữa hai vùng sa mạc và Canaan, gọi là Kadesh. Họ đã dừng lại và nghỉ ở đây để tìm cỏ và nước uống cho đàn thú nuôi. Trong lúc chờ đợi tại Kadesh, họ đã cầu mong sớm đến được vùng đất mà ở đó sẽ là nhà của họ. Đức Chúa đã bảo Moses cho một vài người đàn ông đi trước để thăm dò vùng đất này sau đó trở về thông báo những điều họ đã tìm thấy trên đường đi; đất đai ở đó, những giống cây trồng và cả con người sống ở đó như thế nào. Những người Do Thái sẽ dễ dàng tìm được những vùng đất tốt nhờ vào những người đi thăm dò. Họ có thể hướng dẫn và chỉ ra những nơi tốt nhất để mọi người có thể đến được.
Thế là Moses chọn ra những người đàn ông tốt nhất, mạnh mẽ nhất. Tất cả có mười hai người, cai trị mười hai bộ tộc. Một trong số những người này là Joshua, người đã giúp đỡ Moses coi sóc mọi người và một người khác là Caleb, người thuộc về bộ tộc Judah. Mười hai người đàn ông này đi thưởng ngoạn khắp những ngọn núi vùng Canaan và nhìn những thành phố cũng như những cánh đồng. Trong đó có một nơi trước khi trở về lều trại, họ đã cắt một chùm nho chín. Chùm nho ấy lớn đến nỗi phải hai người trong số họ, sử dụng đòn gánh mới mang về được. Họ đặt tên cho vùng đất mà họ đã tìm ra giống nho lớn và mang về đó là Eshcol, chữ này có nghĩa là “một chùm”. Mười hai người đàn ông này được gọi là spies[1], bởi vì họ đã đến và tìm ra vùng đất này; sau đó bốn mươi ngày họ trở về cắm lều trại và đây là lời phát biểu của họ, họ nói:
“Chúng ta đã du hành khắp nơi và đã tìm ra một vùng đất giàu có. Có cỏ và thức ăn để nuôi đàn cừu, có những cánh đồng để gieo trồng lương thực và có những loài cây nhiều quả những dòng suối chảy dưới chân đồi. Nhưng chúng ta phải biết rằng, những người sống ở vùng đất này là những người đàn ông rất mạnh mẽ và họ biết chiến thắng. Họ có thành phố với thành lũy cao đến tận mây xanh, có những người đàn ông cao lớn lực lưỡng đến nỗi khi đứng bên cạnh họ chúng ta cảm thấy mình chỉ như những con châu chấu”.
Một người trong số mười hai thủ lĩnh, anh ta tên là Caleb, nói: “Tất cả điều ấy là đúng, vì vậy chúng ta sợ gì mà không đứng lên để chiếm ấy vùng đất này. Đây là vùng đất tốt, xứng đáng phải đấu tranh; Chúa luôn bên cạnh chúng ta và Ngài sẽ giúp chúng ta chiến thắng những người ấy”.
Nhưng ngoại trừ Joshua, tất cả những người thủ lĩnh khác đều nói: “Không, không cần vô ích để chiến thắng những người đàn ông mạnh mẽ ấy. Chúng ta không bao giờ có thể có những thành phố với thành lũy ấy và chúng tôi cũng không đủ đũng khí để đánh nhau với những người khổng lồ cao lớn ấy”.
Những người đi cùng trong chuyến hành trình đến đây, họ cảm thấy sợ hãi bởi những lời nói của mười spices ấy bây giờ, ngay cả vùng ngoại ô Canaan, họ còn không dám vào đó. Họ quên rằng Chúa Trời đã dẫn dắt họ ra khỏi Ai Cập, bảo vệ họ thoát khỏi sự hiểm nguy của sa mạc, đã cho họ nước suối và bánh mì và họ đã quên chuyện Chúa Trời đã dạy luật lệ cho họ từ trong rừng núi.
Tất cả những đêm ấy, sau khi những người spices phát biểu ý kiến của họ, mọi người đều lo sợ không thể nào ngủ được. Họ kêu gào và phản đối Moses, họ trách Moses vì Moses đã đưa họ đi khỏi vùng đất Ai Cập. Họ đã quên những chuyện rắc rối ở Ai Cập, quên hết những công việc nặng nhọc của cuộc đời nô lệ và họ kiên quyết đòi trở về vùng đất cũ. Họ nói:
“Chúng ta hãy chọn một người khác lãnh đạo thay cho Moses, ông ta đã mang lại cho chúng ta tất cả những tai hại này và chúng ta hãy quay về Ai Cập!”.
Nhưng Caleb và Joshua, hai trong số mười hai thủ lĩnh phát biểu: “Tại sao chúng ta phải sợ? Vùng đất Canaan là một vùng đất tốt, rất nhiều sữa bò và mật ong. Nếu Chúa Trời là bạn và ủng hộ chúng ta, chúng ta có thể dễ dàng chiến thắng những người ở đây. Vượt lên trên tất cả, chúng ta hãy không lùi bước, hãy tin đức Chúa, hãy vâng lời người”.
Thế nhưng sau đó, mọi người đã rất bực tức Caleb và Joshua, họ đã toan lấy đá để ném chết hai người này. Nhưng rồi đột nhiên mọi người nhìn thấy một hiện tượng kỳ lạ. Đức Chúa vinh quang mà mọi người đã đặt ở bàn thờ trong phòng của ngôi nhà tạm bỗng nhiên phát ra ánh hào quang chiếu thẳng ra cửa Tabernecle.
Sau đó, đức Chúa vinh quang đã bảo với Moses, ngài nói, “Đã bao lâu rồi mọi người này không tuân lời ta và khinh bỉ ta? Họ sẽ không đến được vùng đất lành mà ta đã hứa khả cho họ. Không một ai trong họ sẽ đến đây, ngoại trừ Caleb và Joshua, họ đã đặt niềm tin ở ta. Tất cả những người độ tuổi hai mươi và lớn hơn hai mươi sẽ chết trong vùng đất sa mạc. Sau đó con cái của họ sẽ trưởng thành ở nơi hoang dã, khi bọn chúng lớn lên sẽ được vào vùng đất mà trước đây ta đã hứa khả cho những người cha của họ. Dân tộc của các ngươi sẽ không có danh tiếng trên mảnh đất ta dành cho các ngươi. Bây giờ, hãy trở lại sa mạc và ở đó cho đến khi chết. Sau khi các ngươi chết, Joshua sẽ dẫn dắt con cái của các người về vùng đất Canaan. Bởi vì Caleb thể hiện một tinh thần khác biệt, hợp với ý ta, nghe theo lời ta, Caleb sẽ sống trong vùng đất này và sẽ có nhà cửa ở đó. Ngày mai, hãy trở về sa mạc theo con đường của vùng biển đỏ.
Sau đó đức Chúa Trời bảo Moses rằng, những thủ lĩnh sẽ ở vùng đất Canaan trong vài ngày, hãy xem họ sẽ trở về vùng đất hoang dã;
con hãy để họ sống trong sa mạc bốn mươi năm thay vì trở về vùng đất hứa ngay.
Khi Moses thuật lại tất cả những lời Chúa thì mọi người cảm thấy buồn hơn trước. Họ lập tức thay đổi suy nghĩ một cách ngẫu nhiên như họ đã từng toan tính trong thời gian trước đó.
“Không”, tất cả bọn họ phát biểu, “Chúng tôi sẽ không trở về vùng hoang mạc; chúng tôi sẽ thẳng tiến đến vùng đất trù phú đó, sẽ chiến đấu và chiếm lĩnh nó như lời Joshua và Caleb đã nói”.
“Các người không được đến lãnh thổ này”, Moses nói.
Nhưng mọi người đã không nghe theo lời của Moses. Họ đi lên núi và cố gắng tiến vào vùng lãnh thổ phía trước như đã dự định. Nhưng vì không có người lãnh đạo, không có kinh nghiệm nên họ đã trở lên rất lộn xộn. Sau đó, một bộ phận người dân ở vùng đất này là người Canaan và người Amorites, tiến xuống đánh đuổi và giết chết nhiều người. Thế là, họ trở nên chán nản vì bị đánh đuổi, họ quyết định nghe lời đức Chúa và Moses, một lần nữa trở về vùng sa mạc.
Sau đó, trong vùng sa mạc Paran thuộc miền Nam xứ Canaan, những đứa con của người Do Thái ở lại đây gần bốn mươi năm, tất cả cũng vì họ không tin tưởng Chúa.
[1] Spies: Những người thăm dò.
GIDEON VÀ BA TRĂM NGƯỜI LÍNH
Cuối cùng rồi những người Do Thái cũng đến được vùng đất hứa, nhưng họ đã làm nhiều điều ác nên đức Chúa bắt họ phải chịu khổ cực vì những lỗi lầm của họ. Một lần, những người Midian sống gần sa mạc ở phía Đông vùng đất của người Do Thái, đã đến gây chiến với các bộ lạc. Hai bộ lạc phải chịu định mệnh hà khắc là Ephraim và bộ phận người phía tây Jordan. Trong vòng bảy năm, năm nào họ cũng đến càn quét đúng vào dịp mùa màng, họ mang đi tất cả những lương thực mà người Do Thái thu hoạch được, mãi cho đến khi người Do Thái không còn lương thực để sống và chẳng còn những đàn cừu và vật nuôi. Người Midian cũng mang vô số bò cừu, lạc đà đến và ăn hết những cánh đồng cỏ của người Do Thái.
Dân tộc Do Thái bị đuổi khỏi làng mạc và trang trại của họ và bị ép buộc phải trốn vào các hang động trong núi.
Một hôm, một người đàn ông tên là Gideon, khi đang đập lúa mì ở một nơi kín đáo thì anh ta thấy một thiên thần ngồi dưới gốc cây sồi. Vị thiên thần nói với anh ta: “Người là một người đàn ông dũng cảm, Gideon ạ, đức Chúa sẽ ở nơi ngươi. Hãy dũng cảm ra đi và cứu vớt mọi người ra khỏi sự thống trị của những người Midian”. Gideon trả lời đến vị thiên thần:
“Ôi, đức Chúa, làm thế nào con có thể cứu được người Do Thái? Gia đình con là một gia đình nghèo ở vùng Manasseh và con là đứa con út của gia đình”.
Đức Chúa nói với cậu ta: “chắc chắn ta sẽ cùng với con, sẽ giúp đỡ con thoát khỏi những người Midian”.
Gideon cảm nhận được điều mà đức Chúa đã hoá thân như một thiên thần để nói với mình. Cậu ta mang những phẩm vật dâng lên trước vị thiên thần. Thế rồi vị thiên thần đã đón lấy vật cúng đường bằng chiếc gậy của mình. Đột nhiên có một ngọn lửa vụt qua và bốc
cháy trên những vật dâng cúng của Gideon và thoạt nhiên vị thiên thần biến mất trong sự quan sát của Gideon. Gideon cảm thấy ghê người khi nhìn thấy cảnh tượng đó, nhưng rồi đức Chúa bảo với anh ta: “Thanh bình sẽ đến với con, Gideon đừng sợ gì ta luôn ở bên con”.
Ngay tại nơi đức Chúa đã xuất hiện để gặp gỡ Gideon, dưới gốc cây sồi, cạnh làng Opharh, vùng đất của bộ lạc Mabasseh, Gideon dựng lên một bàn thờ và gọi tên bằng một từ có nghĩa là: “Đức Chúa thanh bình”. Bàn thờ này đã tồn tại trong một thời gian dài ở đó.
Đức chúa đã dạy Gideon rằng; trước khi cứu dân tộc của mình thoát khỏi những người Midian, Gideon phải đưa họ thoát ra khỏi sự thờ phụng Baal và Asherah, hai thần linh và bọn họ đang tôn thờ. Gần ngôi nhà của gia đình Gideon cũng có dựng hai bàn thờ để thờ cúng hai vị thần Baal và Asherah.
Trong đêm ấy, Gideon đến chỗ mười người đàn ông kia, ném bỏ những bức ảnh của Baal và cắt những bức ảnh của Asherah ra thành từng mảnh nhỏ, sau đó phá huỷ bàn thờ hai vị thần này. Và tại đó, ông ta cho dựng lên những bàn thờ để thờ phụng đức Chúa của người Do Thái. Sau đó họ lấy những thứ mà họ đã phá để làm nhiên liệu thiêu một con bê làm vật phẩm cúng tế.
Sáng sớm hôm sau, khi mọi người trong làng đi đến bái lạy những thần linh, họ phát hiện những mảnh giấy bị cắt, chỗ thờ phụng cũng bị ném đi, thay vào đó là bàn thờ đức Chúa và trên đó, những mảnh vụn từ bức ảnh của Asherah đang cháy như một sự hy sinh để cúng dường đức Chúa. Mọi người nhìn những Thần linh bị đốt cháy, họ liền bảo: “Ai đã làm điều này?”.
Một người nào đó nói: “Gideon, con trai của Joash, đã làm tối hôm qua”.
Thế là mọi người tập trung đến chỗ cha Gideon, tức là ông Joash, họ nói:
“Chúng tôi sẽ đi tìm và giết con trai của ông, bởi vì hắn đã huỷ hoại di ảnh của Baal, Ngài là Thượng Đế của chúng ta”.
Và Joash, cha của Gideon nói: “Nếu Baal là Thượng Đế thì ông ta có thể chăm sóc chính mình và trừng phạt người nào phá hoại hình ảnh ông ta. Tại sao các ngươi lại giúp Baal? Hãy để Baal tự làm điều đó”.
Và khi họ nhận ra Baal không thể làm hại người đàn ông đã phá huỷ bàn thờ và di ảnh của ông ta, mọi người đều chuyển từ việc phụng thờ Baal sang phụng thờ đức Chúa.
Gideon bảo những sứ giả đi khắp Manasseh trên vùng phía tây của Jordan và những bộ lạc gần phía bắc, cùng với những người thống lĩnh những bộ lạc khác tụ tập lại, với giáo mác, đao gươm nhưng số lượng rất ít vì người Do Thái chưa sẵn sàng để chiến đấu. Họ gặp nhau để họp bàn bên cạnh con suối lớn tại vùng Mount Gilboa, được gọi là “Dòng suối Harod”. Mount Gilboa là một trong ba ngọn núi nằm ở phía bắc của vùng đồng bằng Esdraelon, hoặc là đồng bằng Jezreel. Ở đó đã một lần xảy ra một trận đánh lộn. Trên đồng bằng, trải dài đến các vùng ven của những đỉnh núi này được gọi là “Đồi Moreh” là nơi đóng trại của một quân đội hùng mạnh của người Midian. Không bao lâu, những người Midian đã nghe tin Gideon đã cam đoan rằng ông ta sẽ giải cứu dân tộc của mình, họ đến chống lại ông ta với một đạo quân hùng mạnh.
Gideon là một người đàn ông rất tự tin. Ông ta ước ao được Chúa dẫn dắt và ông ta đã cầu nguyện đến Chúa, ông ta nói:
“Ôi đức Chúa đáng kính, hãy cho con một dấu hiệu rằng liệu con có thể cứu thoát những người Do Thái hay không. Đây là một ít lông cừu con đặt trên sàn. Nếu ngày mai, những lông cừu này bị ướt đẫm sương trong khi cỏ cây bên ngoài là khô ráo, điều đó chứng tỏ rằng người luôn ở bên con và người sẽ cho con chiến thắng người Midian”.
Sáng sớm hôm sau, Gideon đến xem những chiếc lông cừu. Anh ta phát hiện nó ướt đẫm sương, trong khi cỏ cây bên ngoài vẫn còn khô ráo. Nhưng rồi Gideon vẫn chưa thoả mãn, anh ta nói với đức Chúa:
“Lạy Chúa, đừng giận dữ với con, nhưng con muốn thấy thêm một dấu hiệu nữa. Sáng sớm ngày mai, ngài hãy để những chiếc lông cừu khô ráo và những giọt sương bao quanh những sợi lông này. Như thế con sẽ không còn nghi ngờ nào nữa”.
Sáng hôm sau, Gideon phát hiện thấy cỏ, cây và những bụi rậm ướt đầy sương, trong khi những chiếc lông cừu vẫn khô ráo. Gideon đã có thể tin chắc rằng đức Chúa đã chứng nghiệm lời cầu của mình và tin rằng Chúa sẽ mang vinh quang về cho những người Do Thái.
Đức Chúa bảo Gideon: “Quân đội của con rất lớn. Nếu những người Do Thái chiến đấu dũng mãnh và vinh quang thì họ sẽ nói rằng: Hãy quên đi hết thảy những sợ hãi, chúng ta sẽ chiến thắng nó bằng sức mạnh của chính mình”.
Vì có nhiều người sợ hãi không dám chiến đấu khi họ nhìn thấy đạo quân hùng mạnh và đức Chúa biết rằng những người đàn ông này chỉ gây trở ngại cho việc chiến đấu trên chiến trường. Thế nên, Gideon đã bảo họ quay về trang trại:
“Những ai sợ chiến tranh thì hãy quay về nhà”. Hai mươi hai nghìn người đã bỏ về và quân đội của Gideon giờ đây chỉ còn lại mười nghìn người. Nhưng đối với quân đội dù ít nhưng tinh nhuệ thì vẫn hơn đông người mà ô hợp, vì những người hèn nhát đã bỏ đi, chỉ còn lại những người dũng cảm thiện chiến.
Nhưng sau đó, đức Chúa đã bảo với Gideon: “Mọi người vẫn còn quá nhiều. Con chỉ cần một ít người dũng cảm thiện chiến để chiến đấu trên chiến trường thôi. Hãy mang những người đàn ông xuống núi, băng qua sông và ta sẽ chỉ cho con cách để chọn ra những người đàn ông dũng cảm nhất”.
Vào buổi sáng, Gideon tuân theo lời Chúa dẫn mười nghìn người đàn ông xuống núi và băng qua ngọn đồi, những người đàn ông cứ tưởng họ đang đi tấn công kẻ thù. Họ đến bên dòng nước, ông ta chú ý xem họ uống nước như thế nào sau đó xếp họ thành hai nhóm, tuỳ thuộc vào cách uống nước của họ.
Khi họ đến bên dòng nước, phần lớn những người đàn ông ném những bao kiếm và giáo mác sang một bên và quỳ chân xuống múc nước bằng hai bàn tay bụm lại như một chiếc cốc. Những người làm như thế Gideon lệnh cho họ đứng về một nhóm.
Còn lại một số người không dừng hẳn để múc nước uống theo kiểu những người kia. Họ vừa mang binh khí bằng tay phải, sẵn sàng chiến đấu nếu kẻ thù bất chợt tấn công, họ chỉ múc một nhúm nước uống và tiếp tục hành trình, họ uống nước bằng một tay. Đức Chúa bảo với Gideon:
“Hãy chọn những người uống nước bằng một tay. Họ là những người mà con có thể chọn để chiến đấu mang lại tự do cho người Do Thái”.
Gideon đếm những người đàn ông uống nước theo kiểu này và phát hiện ra rằng chỉ có ba trăm người trong số mười nghìn người đi theo. Sự khác biệt giữa họ là ba trăm người đàn ông này là những người đàn ông mạnh mẽ, cùng mục đích; họ không lơ là nhiệm vụ ngay cả khi uống nước, khác với những người khác. Họ mới thực sự là những người cảnh giác, đặt mục đích chiến đấu lên hàng đầu.
Thế là Gideon theo lời của Chúa, lệnh cho mọi người nghỉ ngơi ở doanh trại trên vùng Mount Gilboa, gần mười nghìn người, ông ta chỉ giữ lại cho đoàn quân của mình ba trăm người.
Kế hoạch của Gideon không cần đến một đội quân lớn; nhưng điều cần thiết là phải chọn ra những người đàn ông thận trọng, dày dặn, làm người lãnh đạo cho đội quân của họ. Gideon phân phát cho mỗi người một cây đèn, một cái phễu rót nước và một cái kèn và bảo với những người đàn ông sử dụng những thứ đó như thế nào. Ngọn
đèn là để thắp sáng, nhưng đặt nó trong cái phễu thì sẽ không bị phát hiện. Ông ta chia đội quân của mình thành ba nhóm và dẫn họ xuống núi vào lúc nửa đêm một cách thầm lặng, sau đó bố trí cho họ xếp quân xung quanh doanh trại của người Midian.
Chỉ một lát sau, một tiếng động lớn vang lên trong đêm tối và sau đó là tiếng loảng xoảng của những cái phễu vỡ và những ánh đèn rực sáng khắp nơi. Ba trăm người đàn ông cùng hét vang, họ đập vỡ những chiếc phễu của họ, rồi những ngọn đèn loé sáng lên. Những người đàn ông thổi những chiếc kèn họ đang cầm, phát ra những âm thanh rất lớn; những người Midian đang say giấc nồng, bỗng thấy kẻ thù xuất hiện bao vây họ, những ánh đèn rực rỡ và gươm đao chói loà và tiếng kèn rộn lên inh ỏi khắp nơi.
Họ bị bao vây bằng sự đột kích bất ngờ và chỉ nghĩ đến sự chạy trốn, không thể đánh lại được, nhưng họ tháo chạy đến đâu thì ở đấy kẻ thù cũng đã đợi sẵn với gươm giáo chỉnh tề. Họ trốn chạy và giẫm đạp lên nhau bất kể sống chết để trốn thoát khỏi những người Do Thái. Vùng đất của họ dọc từ phía Đông, ngang qua dòng sông Jordan, họ đã chạy theo phương hướng đó, chạy xuống một trong những thung lũng giữa những ngọn núi.
Gideon nghĩ rằng, những người Midian sẽ chạy đến vùng đất của họ, nếu họ bị đánh thua trận trên chiến trường và ông ta đã lập kế hoạch chuẩn bị đánh chặn đường rút chạy của họ. Mười nghìn người đang ở trong doanh trại mà ông ta đã cho dựng bên sườn thung lũng dẫn đến Jordan. Ở đó họ đã tàn sát rất nhiều người Midian khi họ chạy trốn băng qua dòng sông. Sau đó, Gideon hạ lệnh cho những người thuộc bộ tộc Ephraim, đến đó để chiếm giữ những vùng đất không bị chiến tranh, đóng đô tại những dòng sông mà mọi người có thể lội qua được. Những người Midian chạy trốn khỏi sự truy đuổi của quân đội Gideon cũng đến bên sườn thung lũng và ở đây họ gặp những người Ephraim đang đóng bên dòng sông, thế là nhiều người trong số họ đã bị những người Ephraim giết chết. Trong số những người bị giết có hai vị hoàng tử của người Midian tên là Oreb và Zeeb.
Một bộ phận quân đội Midian đã vượt được qua sông và tiếp tục trốn chạy về hướng sa mạc nhưng Gideon và ba trăm người lính dũng cảm đã đuổi theo, bám sát và chiến đấu với họ, quân đội Gideon đã huỷ diệt hoàn toàn quân địch, bắt hai vị vua là Zebah và Zalmunna. Sau cuộc chiến, người Do Thái đã vinh quang thoát khỏi ách thống trị của người Midian. Và người Midian không bao giờ dám rời bỏ vùng sa mạc của mình để chiến đấu với các bộ lạc Do Thái nữa.
Sau này, cho đến khi Gideon còn sống, ông ta đã cai trị như một lãnh tụ của người Do Thái. Mọi người đều tôn sùng và xem ông ta như một vị quốc vương.
“Hãy thống trị chúng tôi như một vị vua”, họ nói: “Hãy truyền ngôi vua cho con trai của người, con trai người sẽ là vị vua kế nghiệp người”.
Nhưng Gideon nói:
“Không, các người đã sẵn có một vị vua rồi, vì đức Chúa là Vua của dân tộc Do Thái chúng ta. Không người nào khác ngoài Chúa, là vị vua của bộ tộc này”.
Cả thảy có mười lăm người cai trị đất Do Thái, thì Gideon, người cai trị thứ năm là người vĩ đại nhất, can đảm, thông minh tài trí và có đức tin với Chúa Trời.
SAMSON - NGƯỜI ĐÀN ÔNG MẠNH MẼ
Bây giờ, chúng ta tìm hiểu ba vị thống lĩnh, lần lượt cai trị đất Do Thái. Họ là Ibzan, Elon và Abdon. Không có bất kỳ cuộc chiến tranh nào khi họ thống trị đất Do Thái và thời kỳ họ thống trị là thời kỳ lãnh thổ được yên bình.
Nhưng rồi, người Do Thái lại bắt đầu tôn thờ các thần linh; sau đó đức Chúa đã hơn một lần trừng phạt họ phải chịu sự thống trị của kẻ thù. Cuộc tấn công đàn áp người Do Thái lần thứ bảy là một cuộc đàn áp gian nan và lâu dài nhất, rộng khắp hơn tất cả các cuộc đàn áp khác, nó diễn ra khắp tất cả các bộ lạc. Bắt đầu từ người Philistine, một nhóm người dũng mãnh thiện chiến sống ở bờ Tây lãnh thổ Do Thái trên vùng biển lớn. Họ thờ tượng thần được gọi là Dagon, tượng thần được làm có hình dạng như một cái đầu cá trên một cái đầu người.
Những người Philistine lệnh cho quân đội của họ tiến đóng tại vùng đồng bằng duyên hải Do Thái và trán khắp tất cả lãnh thổ. Họ cướp đi tất cả giáo mác gậy gộc của người Do Thái, vì thế mà những người này không thể chiến đấu được. Họ cướp đất đai, mùa màng, khiến cho những người Do Thái không còn cái để ăn. Và như trước đây, người Do Thái một lần nữa lại lâm vào tình trạng khó khăn bối rối, họ khóc lóc cầu xin đức Chúa và đức Chúa đã nghe họ cầu nguyện.
Trong lãnh thổ bộ lạc Dan, nằm cạnh vùng đồng bằng của người Philistine có một người đang sinh sống ở đó tên là MaNoah. Một ngày nọ có một thiên thần đến và bảo với vợ ông ta:
“Ngươi sẽ có con trai và khi đứa bé lớn lên nó sẽ là người cứu vớt người dân Do Thái khỏi sự thống trị của người Philistine. Nhưng con trai của ngươi không được uống bất kỳ thứ rượu nào. Con phải để tóc của con trai con dài và không được cắt, vì cậu ta sẽ là một Nazarite với lời thề đến với đức Chúa”.
Khi đứa bé được hứa khả tới Chúa, hoặc khi một người đàn ông làm một việc gì đó cho Chúa, cậu ta phải bị cấm không được uống rượu[1], tóc của cậu ta dài chứng tỏ được lời thề hoặc lời hứa của Chúa tới cậu ta. Một người có những đặc điểm như thế được gọi là Nazarite[2] và đứa trẻ của MaNoah là một Nazarite thực thụ đã sống bằng một lời nguyền trong suốt cuộc đời.
Đứa bé được sinh ra và được đặt tên là Samson. Cậu ta lớn lên và trở thành người đàn ông mạnh mẽ nhất mà Kinh Thánh đề cập. Samson đại để không như Gideon hay Jephthah, hai người đó sinh ra để lãnh đạo dân tộc của mình và dẫn dắt họ trong chiến tranh để đem lại tự do cho dân tộc, còn mọi thứ Samson làm đều bằng chính sức mạnh của mình.
Khi Samson trưởng thành, anh ta đã đến Timnath, thuộc vùng đất của người Philistine. Ở đó cậu ta gặp một người phụ nữ Philistine trẻ tuổi, anh ta đã yêu và muốn cưới cô ấy làm vợ. Cha mẹ anh ta phản đối việc anh ta muốn cưới một người con gái thuộc dòng tộc kẻ thù làm vợ. Họ không biết rằng đức Chúa đã sắp xếp chuyện hôn nhân này. Cuộc hôn nhân sẽ mang lại nhiều bất lợi cho người Philistine và lợi ích cho người Do Thái.
Khi Samson đi đến Timnath để gặp người phụ nữ trẻ thì gặp một con sư tử xuống núi, nó gầm vang và muốn vồ lấy cậu ta. Samson mạnh mẽ tóm lấy chú sư tử và xé nát nó ra thành từng mảnh một cách dễ dàng như giết chết một con dê con và thế là anh ta tiếp tục đi. Anh ta hoàn thành chuyến đi của mình rồi trở về nhà mà không nói gì đến chuyện giết chết con sư tử.
Sau một thời gian, Samson lại phải đến Timnath để cưới người phụ nữ Philistine. Trên đường đi, anh ta dừng lại chỗ mà anh ta đã giết chết con sư tử; anh ta phát hiện một bầy ong và mật ong do những con ong tạo ra. Anh ta lấy một ít mật ong, vừa đi vừa ăn nhưng không nói chuyện này với ai.
Hôn lễ của Samson và người phụ nữ trẻ Philistine được tổ chức kéo dài suốt một tuần lễ, có cả những người đàn ông Philistine, họ cùng nhau vui thú bằng những câu hỏi và những câu đố.
“Tôi sẽ đưa ra cho mọi người một câu đố”, Samson nói. “Nếu ai trả lời được ngay trong buổi tiệc này, tôi sẽ thưởng cho người đó ba mươi bộ quần áo; còn nếu không thể trả lời được các bạn phải cho lại tôi ba mươi bộ quần áo”. “Chúng ta hãy nghe câu đố”, họ nói, “và đây là câu đố của Samson”.
“Người ăn đến trước thịt hay thịt đến trước người ăn và sức mạnh đến trước sự ngọt ngào hay là sự ngọt ngào đến trước sức mạnh”.
Mọi người không thể tìm ra lời giải đáp, mặc dầu họ cố gắng suy nghĩ trong suốt cả ngày. Và cuối cùng họ đến chỗ người vợ của Samson và nói với cô ta: “Hãy dỗ dành chồng của cô và hỏi câu trả lời, sau đó bảo với chúng tôi. Nếu cô không tìm ra được câu trả lời thì chúng ta sẽ đốt nhà cô, thiêu sống cô và gia đình cô”.
Vợ Samson thúc giục chồng mình để anh ta nói ra câu trả lời. Cô ta khóc và nài nỉ với chồng mình, cô nói:
“Nếu anh thực lòng yêu em thì anh không thể giấu em điều gì cả”.
Rốt cuộc Samson cũng nhường nhịn vợ, anh ta nói với vợ mình anh ta đã giết con sư tử như thế nào và tìm ra mật ong trên cơ thể nó. Cô ta bảo với những người của cô ta và trước khi kết thúc buổi tiệc, họ đến chỗ Samson cùng với câu trả lời. Họ nói:
“Cái gì ngọt ngào hơn mật ong? Và cái gì mạnh hơn sư tử?”. Và Samson nói với họ:
“Nếu các bạn không có cày và bò cái non, bạn không thể tìm ra câu giải đáp cho câu đố mà ta đưa ra”.
Samson muốn ám chỉ vợ mình, vợ anh ta đã nói lời giải đáp cho những người Philistine. Thế là Samson bị người ta đòi phải đưa cho
họ ba mươi bộ quần áo. Cậu ta đi ra giữa những người Philistine, giết chết lần lượt ba mươi người và lột quần áo của họ, sau đó đưa chúng cho những vị khách trong lễ hội. Tất cả điều đó đã làm Samson rất giận dữ. Anh ta rời bỏ vợ mình và quay trở về nhà. Thế rồi cha mẹ của người vợ mà Samson sắp cưới đã gả cô ta cho người đàn ông khác.
Nhưng rồi sau khi cơn giận dữ qua đi, Samson quay trở lại Timnath để gặp vợ mình. Nhưng cha của cô ta nói với chàng:
“Ngươi đã giận dữ bỏ đi và ta coi như ngươi không thể trông nom được cho con gái ta. Ta đã gả con gái ta cho người đàn ông khác và giờ nó đã là vợ của người khác rồi. Còn đây là em gái của cô ấy, ngươi có thể cưới cô em làm vợ thay vì cưới cô chị”.
Nhưng Samson đã không cưới em gái của vợ mình. Anh ta lại ra đi trong cơn giận dữ; anh ta nhất quyết tàn hại những người Philistine bởi vì họ đã lừa anh ta. Anh ta bắt tất cả những con cáo trên đường mà anh ta nhìn thấy cho đủ số lượng ba trăm con. Sau đó anh ta buộc đuôi những con cáo lại với nhau thành từng đôi và giữa mỗi một đôi anh ta buộc vào chỗ đuôi của chúng một thanh củi khô và anh ta châm lửa đốt cháy. Anh ta thả đôi cáo buộc đuôi nhau với thanh củi đang cháy dở, cho chúng chạy tung toé vào giữa những cánh đồng của người Philistine đang trong mùa thu hoạch. Những con cáo chạy tán loạn vào khắp các cánh đồng, chúng mang ngọn lửa đi khắp nới, thiêu rụi toàn bộ những cánh đồng và cây ôliu.
Khi những người Philistine phát hiện những cánh đồng của họ đã bị phá huỷ, họ đã hỏi: “Ai đã làm việc này?”.
Và mọi người đều trả lời, “Samson đã làm việc đó, bởi vì vợ cậu ta đã bị cha cô ấy gả cho một người đàn ông khác”.
Những người Philistine xem cha vợ Samson là nguyên nhân của mọi sự mất mát; nên họ đã đốt nhà ông ta, thiêu chết ông ta cùng với cô con gái mà Samson đã cưới. Samson đã trở lại và một mình
đấu tranh với cả nhóm người Philistine, anh ta đã giết chết những người đó và coi đó là sự trả giá cho việc họ đã thiêu chết vợ anh ta.
Sau đó Samson đến ở một nơi rộng rãi được dựng lên bằng đá, được gọi là đá của Etam. Những người Philistine đã tấn công bằng một lực lượng quân đội cực lớn, họ tràn qua những cánh đồng thuộc lãnh thổ của bộ lạc Judar.
“Tại sao các anh lại tiến đánh chúng tôi?”, những người Judar hỏi, “Các anh muốn gì ở chúng tôi?”.
“Chúng ta đến”, họ nói, “để thương lượng với Samson và để thoả thuận với ông ta cùng phân chia với chúng tôi”.
Những người trong bộ lạc Judar nói lại với Samson:
“Anh có biết rằng người Philistine đang thống trị chúng ta không? Tại sao anh giết người của họ để họ giận dữ? Anh có biết rằng chúng tôi phải chịu khổ cực vì hành động tàn ác của anh không? Bây giờ chúng tôi trói anh lại và giao anh cho những người Philistine, hoặc là họ sẽ huỷ hoại tất cả chúng ta”.
Samson nói: “Tôi sẽ để cho các anh trói tôi nếu các anh hứa là không giết tôi và bảo đảm anh toàn cho tôi trong tay những người Philistine”.
Họ đã hứa và Samson tự đưa tay mình để họ trói lại. Họ trói Samson bằng những sợi dây thừng mới. Những người Philistine hét lên vì sung sướng khi thấy kẻ thù bị trói bằng những sợi dây thừng và được dâng đến cho họ. Nhưng rồi ngay khi Samson đến chỗ những người Philistine, ông ta bật tung những sợi dây trói và nhặt một mảnh xương hàm của con lừa từ dưới nền đất, anh sử dụng nó như một chiếc gươm sắt nhọn. Anh ta đã giết gần một nghìn người Philistine bằng một loại vũ khí lạ thường đó. Sau rồi anh ta hát vang bài hát chiến thắng:
“Chỉ bằng một chiếc hàm lừa,
Đống này chồng đống kia,
Chỉ bằng một chiếc hàm lừa,
Ta giết cả nghìn thây..”.
Sau này Samson đi xuống thành phố lớn của những người Philistine, thành phố đó có tên là Gaza. Đó là một thành phố lớn và như tất cả những thành phố lớn khác, xung quanh có thành lũy cao ngất trời. Khi những người ở dãy Gaza phát hiện Samson trong thành phố, họ đóng cửa thành lại và nghĩ rằng sẽ bắt bỏ tù Samson. Nhưng vào ban đêm, Samson đã dậy và đi đến cổng thành, kéo những cột trụ của cửa thành ra khỏi nền đất và để lên vai mình. Anh ta mang những cánh cổng của thành phố về đỉnh núi, cách thành phố Hebron không xa.
Sau đó, Samson gặp một người phụ nữ Philistine khác và anh ta đã đem lòng yêu cô gái ấy. Tên của người phụ nữ đó và Delilah. Những thủ lĩnh người Philistine đến gặp Delilah và nói với cô ấy:
“Nếu có thể, cô hãy tìm hiểu xem điều gì đã làm cho Samson có được sức mạnh như thế và nói điều đó với chúng tôi. Nếu cô giúp đỡ chúng tôi điều khiển được anh ta, chúng ta sẽ có được sức mạnh của anh ta, chúng tôi sẽ cho cô một khối tiền lớn”.
Delilah nài nỉ Samson nói cho cô ta điều gì làm nên sức mạnh của anh ta. Samson nói vôi cô ta:
“Nếu họ trói ta bằng bảy cành cây non thì ta sẽ không còn sức mạnh nữa”.
Họ tìm cho Delilah bảy cành cây non, mềm như những cành liễu nhỏ; cô ta dùng những cành cây đó trói Samson trong khi anh ta đang ngủ: Và cô ta gọi:
“Dậy đi Samson, nhũng người Philistine đang tấn công anh kìa!”.
Samson bừng tỉnh và làm gãy những cành cây non dễ dàng như đốt chúng trong ngọn lửa rồi vứt chúng đi một cách nhẹ nhàng.
Sau lần ấy, Delilah vẫn cố gắng tìm điều bí mật của Samson. Cô ta nói:
“Anh chỉ biết đùa em thôi. Bây giờ hãy nói với em làm sao để có thể trói được anh?’. Và Samson nói:
“Để trói được ta thì phải dùng những sợi dây thừng mới, những sợi dây đó phải chưa được sử dụng lần nào, thì ta không thể vùng vẫy được”.
Đợi Samson ngủ say, Delilah đã trói anh ta bằng những sợi thừng mới. Thế rồi cô ta lại gọi như trước:
“Thức dậy, Samson, những người Philistine lại đến kìa!” và Samson lại bừng tỉnh dậy, những sợi dây thừng lại đứt ra một cách dễ dàng như làm đứt những sợi chỉ. Delilah một lần nữa lại hối thúc Samson nói ra bí mật của mình. Samson nói:
“Em chú ý rằng phải buộc tóc anh thành bảy mớ. Sau đó buộc bảy mớ tóc vào khung cửi và dệt chúng lại như dùng len dệt thành áo”.
Thế là đợi khi Samson ngủ, cô ta buộc tóc của anh ta vào khung cửi, nhanh chóng dệt những mớ tóc thành một mảng lớn. Nhưng khi anh ta thức dậy anh ta dễ dàng nhổ những mớ tóc của mình lên cùng với những cái chốt lớn của khung cửi, anh ta vẫn tỏ ra mạnh mẽ như trước.
Delilah lo lắng, không biết làm thế nào nữa, nàng liền nói:
“Anh đã bảo yêu thương em, thế mà bây giờ anh vẫn lừa dối em và còn giữ bí mật với em”. Thế rồi cô ta lại nài nỉ anh ta ngày này sang ngày khác và cuối cùng anh ta nhượng bộ cô ta và nói với cô ta bí mật thật sự về sức mạnh của mình. Anh ta nói:
“Anh là một Nazarite, sống dưới lời thề nguyền của Chúa, không uống rượu, không được phép cắt tóc. Nếu anh để tóc của anh bị cắt ngắn thì đức Chúa sẽ từ bỏ anh và tước đi sức mạnh của anh và anh cũng như những người khác”.
Delilah biết rằng cuối cùng mình cũng đã tìm ra bí mật thật sự. Cô ta tìm đến người thủ lĩnh Philistine và nói với họ:
“Lần này đến đây các người sẽ có được kẻ thù của mình; vì anh ấy đã nói với ta điều bí mật mà anh ấy giữ kín trong lòng bấy lâu nay”.
Thế là trong khi những người Philistine đang quan sát bên ngoài, Delilah để cho Samson ngủ và gối đầu lên chân của mình. Đợi đến khi Samson ngủ thật say và tiếng ngáy phát ra như sấm thì họ lấy dao cạo và cạo hết tóc của Samson. Delilah lại gọi Samson như mọi lần trước.
“Dậy mau Samson, những người Philistine đến bắt anh kìa”.
Anh ta tỉnh dậy nghĩ rằng mình có sức mạnh như trước; vì thoạt tiên anh ta không biết mái tóc dài mình đã bị cắt. Lời nguyền với Chúa đã bị phá hủy, đức Chúa đã từ bỏ anh ta. Giờ đây anh ta yếu đuối như những người khác và bất lực trước kẻ thù. Những người Philistine dễ dàng bắt anh ta làm tù nhân của họ và anh ta sẽ không bao giờ còn có thể làm hại họ nữa, họ đã móc mắt anh ta. Họ buộc anh ta vào những chiếc cùm và nhốt anh ta vào nhà tù ở Gaza. Trong ngục tù, họ bắt Samson xay chiếc cối đá để nghiền thóc và như thế, anh ta trở thành thú vật của sức nặng.
Samson ở tù được một thời gian thì mái tóc của cậu ta mọc lên trở lại và sức mạnh cũng dần dần trở lại với Samson; vì Samson hồi phục lại lời thề trước Chúa.
Một ngày nọ, những người Philistine tổ chức một buổi tiệc lớn tại một Thánh đường Dagon của họ. Họ nói:
“Thượng Đế của chúng ta đã đưa Samson, kẻ thù của chúng ta vào trong tầm tay của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau vui vẻ và dâng phẩm vật lên Dagon”.
Mọi người tụ họp rất đông trong miếu, ước tính có đến hơn ba nghìn người cả nam lẫn nữ. Họ đưa Samson đến để diễn trò và Samson được dẫn đến trước ngôi miếu, trước tất cả mọi người để làm trò tiêu khiển. Sau một lúc Samson nói với cậu bé đang dẫn cậu ta đi:
“Mang ta đến trước ngôi miếu, để tôi đứng bên cạnh một trong những chiếc cột chống đỡ, tôi có thể nhổ nó lên”.
Khi Samson đứng giữa hai chiếc cột chống đỡ, ông ta cầu nguyện:
“Cầu xin đức Chúa Trời, hãy nhớ đến con, con cầu xin Người, hãy cho con sức mạnh, chỉ một lần này nữa thôi. Đức Chúa! Hãy giúp con, con sẽ có cơ hội để báo thù những người Philistine, vì họ đã làm mù hai mắt của con”.
Samson đặt hai tay mình ôm lấy chiếc cột chống đỡ và anh nói: “Để ta chết với những người Philistine”.
Anh ta gập mình về phía trước, dùng hết sức mạnh của mình để kéo cột chống đỡ, anh ta nhấc cột chống bên mà mọi thứ sập xuống, đè nát tất cả bên dưới. Samson tự mình làm mình chết nhưng cái chết của anh ta đã kéo theo nhiều người Philistine chết, nhiều hơn tất cả những người khác mà anh ta đã giết trong suốt cuộc đời.
Thế là nỗi khiếp sợ bao trùm hết thảy những người Philistine, những người trong bộ tộc Samson đến chỗ Samson chết tìm xác ông ta, họ mang đi và hoả táng trên lãnh thổ của họ. Sau đó nhiều năm, người Philistine lại cố gắng tìm cách thống trị người Do Thái.
Samson đã chết nhưng ông ta mang lại tự do cho dân tộc mình; ông ta đáng ra sẽ làm được nhiều hơn thế nếu ông ta lãnh đạo dân tộc của mình thay vì chỉ biết tin tưởng vào sức mạnh của riêng mình và ông ta sẽ sống một cách nghiêm chỉnh hơn, nếu ông ta không làm
những việc ác. Ông ta đã phạm những lỗi lầm lớn, nhưng vì ông ta cũng thiết cầu xin Chúa tha thứ, Chúa đã biết điều đó, Chúa sử dụng Samson để mang tự do đến cho dân tộc của anh ta.
[1] Không được uống rượu: Giới cấm
[2] Nazarite: Một người có thề nguyền
CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI MÓT LÚA – RUTH
Trong thời kỳ những kẻ thống trị Do Thái, có một người tên là Elimelech đang sống ở thị trấn của vùng Bethlehem, trong bộ lạc Judah, cách Jerusalem khoảng sáu dặm về phía Nam. Vợ ông ta tên là Naomi và hai con trai của ông ta là Mahlon và Tilion. Vì một vài năm mùa màng thất bát, thức ăn trong vùng Judah trở nên khan hiếm; sau đó Elimelech cùng với gia đình đến sống tại vùng đất Moab, nằm ở phía Đông của vùng biển chết, Judah nằm ở phía Tây của vùng biển này.
Họ ở lại vùng đất ấy được mười năm và trong thời gian đó, Elimelech đã chết. Hai đứa con trai của ông ta cưới hai người phụ nữ là con dân của vùng đất Moab, một người tên là Orpah và một người tên là Ruth. Nhưng hai người đàn ông trẻ này cũng chết trên lãnh thổ Moab; thế nên Naomi và hai người con dâu trở thành những quả phụ.
Naomi nghe được rằng đức Chúa lại cho họ mùa màng bội thu và nhiều bánh trái tại vùng đất của bộ lạc Judah, vì thế sau đó cô ta đã từ vùng đất Moab muốn quay trở lại nơi quê hương của mình là thị trấn Bethlehem. Hai người con dâu rất yêu thương mẹ chồng và cả hai đều muốn cùng về với bà ta, tuy nhiên vùng lãnh thổ của bộ tộc Judah vẫn còn xa lạ với họ vì họ là những người thuộc vùng đất Moab.
Naomi bảo với họ: “Hãy về đi, các con gái, hãy trở về nhà mẹ của các con. Thượng Đế sẽ đối xử tốt với các con như các con đối xử với chồng của các con và cả với ta nữa. Đức Chúa sẽ giúp đỡ các con tìm được cho mình một người chồng mới và các con sẽ có những gia đình hạnh phúc”.
Naomi hôn tạm biệt những người con dâu và ba người phụ nữ lại chia tay trong nước mắt. Hai người goá phụ trẻ bảo với mẹ chồng:
“Mẹ là một người mẹ rất tốt với chúng con, chúng con sẽ theo mẹ và sống với những người thân của mẹ”.
“Không, không”, Naomi nói. “Các con còn quá trẻ, mẹ thì đã già rồi. Hãy trở về và sống hạnh phúc giữa những người thân của các con”.
Thế rồi Orpah hôn Naomi và trở về với dân tộc mình; còn Ruth không chịu bỏ đi. Cô ta nói:
“Đừng bảo con rời mẹ, sẽ không bao giờ con làm như thế. Mẹ đi đâu con đi đấy, mẹ sống ở đâu con sống ở đấy; dân tộc của mẹ là dân tộc của con; đức Chúa của mẹ là đức Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó và chôn cùng với nhau. Chúng ta không cùng sinh nhưng nguyện cùng chết”.
Khi Naomi thấy rằng Ruth có lập trường vững vàng bà ta không cố thuyết phục nữa; thế là hai người họ đã cùng nhau sống cuộc sống mới. Họ du hành quanh vùng biển chết và đi xuyên qua dòng sông Jordan, leo lên những ngọn núi vùng Judah và đến Bethlehem.
Naomi đã đi khỏi vùng Bethlehem mười năm, giờ quay trở lại, bạn bè của bà ta rất vui mừng khi gặp lại người cũ. Họ nói:
“Đây là Naomi à, đã bao lâu rồi chúng ta không gặp nhau nhỉ?”. Naomi nói:
“Đừng gọi tôi là Naomi[1], hãy gọi là Mara, vì đức Chúa đã cho cuộc đời tôi vị đắng. Tôi đã có mọi thứ, nào chồng, nào con trai, giờ đây gia đình tôi không còn gì cả. Đừng gọi tôi là Pleasant, cứ gọi là Bitter[2]”.
Ở Bethlehem lúc đó eo một người rất giàu có tên là Boaz. Ông ta một mình sở hữu những cánh đồng rộng lớn, mùa màng bội thu và lương thực dư dật; ông ta có quan hệ thân thích với Elimelech, người chồng quá cố của Naomi.
Tục lệ của người Do Thái là khi thu hoạch mùa vụ không được gặt tất cả mà phải để sót lại một ít để cho những người nghèo, những người cầm liềm đi theo những thợ gặt và mót lấy những gì còn sót lại. Khi Naomi và Ruth đến Bethlehem đúng lúc mùa lúa mạch đang được thu hoạch; thế là Ruth đi ra những cánh đồng để nhặt những chẹn lúa mà những thợ gặt bỏ sót. Một chuyện đã xảy ra trong khi cô ta đang nhặt lúa trên cánh đồng của Boaz, một người giàu có.
Boaz đến từ thị trấn để xem xét những người thu hoạch mùa vụ cho ông ta và ông ta nói với họ, “Chúa sẽ đến với các bạn” và họ đáp lại ông ta, “Chúa sẽ ban phúc cho ông”.
Sau đó Boaz hỏi những người thợ gặt: “Người phụ nữ trẻ đang nhặt lúa trên đồng mà ta vừa nhìn thấy là ai vậy?”.
Người đàn ông trả lời: Đó là một phụ nữ trẻ đến từ vùng đất Moab, cô ta đến với Naomi. Cô ta đã xin phép được mót lúa đằng sau những thợ gặt và cô ta đã ở đây nhặt lúa từ ngày hôm qua.
Boaz nói với Ruth: “Hãy lắng nghe ta, này con gái. Đừng đi nhặt lúa trên bất kỳ cánh đồng nào nữa, hãy ở đây với con gái nhỏ của ta. Không ai có thể làm hại con và khi con khát nước, con hãy đi uống nước ở những bình đựng nước của chúng ta”.
Ruth cúi đầu chào Boaz và cảm ơn tấm lòng của ông ta, càng tử tế hơn bởi vì cô ta là một người Do Thái xa lạ. Boaz nói: “Ta nghe cô là một cô dâu hiếu thảo của mẹ Naomi, rời bỏ quê nhà của mình đến với bà ấy trên vùng đất này. Lạy Chúa, bằng sức mạnh của mình, con sẽ được đền đáp xứng đáng!”.
Đến trưa, khi họ nghỉ ngơi và ăn trưa, Boaz đem cho cô ta một ít thức ăn và ông ta bảo với những người thợ gặt:
“Khi gặt lúa, các người hãy để lại cho cô ta một vài bó thóc, rồi làm rơi một vài bó thóc nữa, ở đó cô ta sẽ nhặt chúng”.
Tối hôm ấy, Ruth thuật lại với Naomi chuyện vì sao cô ta nhặt được nhiều thóc và nói với bà ta về chuyện người đàn ông giàu có tên Boaz, rằng ông ta rất tử tế với cô. Naomi nói:
“Người đàn ông này có quan hệ thân thích với chúng ta. Hãy ở lại trên cánh đồng cho đến luc nào mùa gặt kết thúc”. Thế là Ruth ở lại nhặt lúa trên cánh đồng của Boaz cho đến khi mùa thu hoạch kết thúc.
Đến cuối vụ thu hoạch, Boaz tổ chức một buổi tiệc trên sân đập lúa. Sau buổi yến tiệc, bằng lời khuyên của mình, Naomi đã khuyến khích Ruth ở đến với ông ta và nói với ông ta:
“Anh có quan hệ bà con với chồng tôi và cha chồng tôi, Elimelech. Bây giờ anh lại không làm tốt cho chúng tôi vì mối quan hệ với anh ấy ư?”.
Sau đó, Boaz gặp và đem lòng yêu Ruth, không lâu sau đã cưới cô ấy về làm vợ. Naomi và Ruth đến ở nhà Boaz, vì thế cuộc sống của Naomi không còn đắng cay nữa mà đã được thay bằng niềm vui. Boaz và Ruth sau đó đã sinh hạ một cậu bé trai, họ đặt tên cho đứa bé là Obed, sau này Obed có con trai và đặt tên là Jesse; Jesse là cha của David, một cậu bé chăn cừu sau này trở thành ông vua. Thế là Ruth, người phụ nữ trẻ thuộc vùng đất Moab, đã chọn lựa dân tộc Do Thái và đức Chúa Trời, trở thành người mẹ của những vị vua sau này.
[1] Naomi: có nghĩa là “Niềm vui”.
[2] Bitter: có nghĩa là cay đắng.
CHUYỆN VỀ CẬU BÉ CHĂN CỪU
Sống ở Ramah, trên những ngọn núi của Ephraim, có một người đàn ông mang tên Elkenah. Ông ta có hai bà vợ, họ làm những công việc như những người nông dân thời đó. Chỉ một trong số hai bà vợ của ông ta có con cái, còn bà vợ tên là Hannah thì không có con.
Hàng năm, Elkanah và gia đình ông ta đến cầu nguyện và cúng bái tại Thánh đường thờ Chúa trong xứ Shiloh, cách nhà ông ta khoảng mười lăm dặm. Một trong số những lần đến cầu ở đây, Hannah đã cầu xin đức Chúa Trời, bà ta cầu:
“Lạy Chúa, nếu ngài thương con thì ngài hãy phù hộ cho con có một đứa con trai, đứa con ấy của con sẽ phụng sự ngài suốt đời”.
Đức Chúa Trời đã nghe được lời cầu nguyện của Hannah và ban cho Hannah một đứa bé, cô ta đặt tên cho đứa bé ấy là Samuel, tên đó có nghĩa là “Cầu xin Chúa Trời”; bởi vì cậu bé được ra đời sau lời cầu xin của mẹ.
Samuel lớn lên trở thành một người đàn ông lương thiện và là một thủ lĩnh minh triết, anh ta cho hai con trai của mình làm thủ lĩnh của người dân Do Thái và giúp đỡ ông ta coi sóc mọi người. Nhưng những đứa con trai của Samuel không đi đúng theo con đường của cha mình. Họ đã không cố gắng làm tốt mọi công việc.
Thủ lĩnh các bộ lạc của người Do Thái tìm đến nhà Samuel ở Ramah và nói với ông ta: “Ngài nay đã già và những đứa con trai của ngài, họ đã không có được uy tín của người thủ lĩnh. Trong khi các lãnh thổ xung quanh chúng ta đã có những vị vua cai trị. Chúng ta cũng nên lập một người xứng đáng để làm vua và ngài hãy chọn ra một người làm vua cho chúng ta”.
Điều này đã làm cho Samuel không vui. Ông ta cố gắng làm sao cho mọi người thay đổi suy nghĩ đó và nói rõ những rắc rối mà vị vua có thể mang lại cho họ.
Nhưng họ vẫn không nghe lời khuyên của ông ta: “Không, chúng ta phải có một ông vua cai trị chúng ta”.
Thế là Samuel chọn ra một người đàn ông trẻ tuổi cao lớn tên là Saul để làm vua của họ, người đàn ông trẻ đấy là con trai của một người nông dân thuộc bộ lạc Benjamin. Khi Saul được gọi đến trước mọi người, mọi người đều chỉ cao bằng vai của anh ta. Samuel nói:
“Hãy nhìn người đàn ông mà đức Chúa đã chọn lựa! Không có một người nào trong số chúng ta xứng đáng hơn anh!”.
Thế là tất cả đều đồng thanh hô vang, “Đức vua của Chúa, đức vua muôn năm!”.
Samuel đã ban bố một số điều luật của một vị vua và yêu cầu người dân trong nước phải nghiêm khắc chấp hành. Ông ta viết những điều luật này thành một quyển sách và quyển sách này được Chúa ban phát đến từng nhà; sau đó Saul trở về nhà mình tại một nơi được gọi là Gibeah, mọi người đã tiếp đón anh ta bằng trái tim của Chúa và bằng tình yêu đối với một vị vua.
Thế là sau ba trăm năm người Do Thái được chia làm mười lăm bộ lạc, mỗi bộ lạc có một thủ lĩnh cai trị, giờ đây họ hợp thành một nước và có một ông vua cai trị. Nhưng trong số những người dân Do Thái, có một vài phần tử không yêu thích vị vua mới, vì vị vua này không quan tâm đến những người nông dân khổ cực. Họ nói:
“Người như vậy không thể cứu vớt chúng ta!”.
Họ thể hiện ra rằng họ không kính trọng đức vua, trong lòng của họ giá trị của ông vua bị giảm sút, Saul vẫn không nói gì và thể hiện sự khôn khéo của mình bằng cách không chú ý đến những điều họ nói. Nhưng trong những vấn đề khác thì Saul tỏ ra chẳng khôn khéo chút nào. Anh ta quên không để ý đến những lời khuyên cùng sự chỉ bảo về cách trị quốc và làm theo lời Chúa dạy của những nhà tiên tri lão thành. Trước đó không lâu, Samuel đã bảo với Saul rằng nếu không tuân theo lời Chúa thì sẽ mất vương vị của mình.
Khi Samuel bảo với Saul rằng đức Chúa sẽ tước đi vương vị của cậu ta, ông ta nói không có nghĩa là Saul sẽ mất vương vị ngay lập tức. Cậu ta không còn là vị vua của Chúa nữa và trong mắt của Chúa sẽ sớm tìm ra một người đàn ông đúng đắn và dạy dỗ cho anh ta biết được trách nhiệm của một người làm vua, thế là Chúa Trời tước đoạt quyền lực từ tay Saul và trao cho một người đàn ông khác được ngài chọn lựa. Nhưng điều đó xảy ra sau một vài năm.
Đức Chúa nói với Samuel: “Đừng thương tiếc và khóc than cho Saul nữa, vì ta đã từ chối không để cậu ta làm vua. Hãy đổ đầy dầu vào sừng, đi đến Bethlehem trong lãnh thổ Judah. Ở đó sẽ tìm thấy một người có tên là Jesse, vì ta đã chọn một vị vua trong số những đứa con trai của con”.
Samuel biết rằng Saul sẽ vô cùng giận dữ nếu cậu ta nghe thấy mình đi chọn người khác làm vua. Ông ta thưa với đức Chúa:
“Làm sao con có thể đi được? Nếu Saul biết được, hắn sẽ giết con”.
Đức Chúa nói với Samuel: kiếm một con bò cái tơ đi cùng con và bảo với mọi người rằng con đi đến để dâng cúng đức Chúa Trời và gọi Jesse và các con trai của con đến để cúng tế. Ta sẽ bảo con phải làm gì và con sẽ bôi dầu thánh vào người mà ta chỉ định.
Samuel đi băng qua những ngọn núi, thẳng tiến về hướng Nam từ Ramah đến Bethlehem, quãng đường dài chừng mười dặm và dẫn theo một con bò cái tơ. Những người thống lĩnh đô thị ở đây nghe tin báo rằng Samuel đến, họ cảm thấy lo lắng và sợ rằng ông ta đến đây sẽ thống trị họ và làm những điều tàn ác. Nhưng Samuel nói:
“Tôi đến đây với mục đích hoà bình, mang một ít phẩm vật và tổ chức một buổi tiệc để dâng lên Chúa Trời. Chính các bạn đã chuẩn bị và chúng tôi đến để cúng tế”.
Thế rồi ông ta gọi Jesse và các con trai của ông ta đến để phục vụ. Khi họ đến, ông ta nhìn những đứa con trai của Jesse một cách rất
thân thiện. Đứa lớn nhất tên là Eliab, cậu ta rất cao lớn và trông rất cao quí rồi Samuel nghĩ:
“Chắc chắn người đàn ông trẻ này đã được Chúa Trời lựa chọn”. Sau đó đức Chúa Trời nói với Samuel:
Đừng trông vẻ mặt của cậu ta, cũng đừng để ý đến chiều cao của cậu ta, vì ta đã chọn lựa cậu ta. Người thường chỉ biết nhìn dáng vẻ bề ngoài, còn đức Chúa thì nhìn thấu nội tâm.
Thế là, con trai của Jesse tên là Abinadab đi qua. Đức Chúa nói: “Ta không chọn người này”, bảy người đàn ông đến và Samuel nói:
“Không ai trong số những người này là người mà chúa lựa chọn. Đây là tất cả con cái của các con đấy ư?”.
“Không có thêm nữa”, Jesse nói. “Đứa nhỏ nhất, Cậu ta là một cậu bé, đang chăn cừu trên cánh đồng”.
Và Samuel nói:
“Tìm cậu ta về đây, chúng ta sẽ không ngồi chờ cậu ta đến”. Thế là người trẻ tuổi nhất được đưa đến. Tên cậu ta là David, một từ có nghĩa là thân yêu. Đó là một cậu bé xinh xắn, có lẽ cậu ta chỉ mới mười lăm tuổi, đôi má hồng hào và đôi mắt rất sáng.
Không bao lâu, David trẻ đã đến, đức Chúa nói với Samuel:
“Đứng dậy, xoa dầu thánh cho cậu bé, vì đây là cậu bé mà ta đã lựa chọn”.
Samuel đổ dầu lên đầu David, dưới sự chứng kiến của tất cả anh em cậu ta. Nhưng không một ai biết được đổ dầu lên đầu David có nghĩa là David sẽ trở thành một vị vua. Có lẽ, họ nghe rằng David được chọn lựa để trở thành nhà tiên tri như Samuel mà thôi.
Kể từ đó, linh hồn Chúa luôn ngự trị trong con người David và cậu ta bắt đầu thể hiện sự cao thượng của mình. Cậu ta quay trở lại đàn cừu của mình trên những sườn đồi xung quanh vùng Bethlehem, nhưng giờ đây chúa luôn bên cạnh cậu ấy.
David lớn lên càng tỏ ra dũng cảm và mạnh mẽ, không còn sợ những thú vật hoang dã đến bắt đi những con vật nuôi của mình. Hơn thế nữa, đã có một lần David đánh nhau với một đàn sư tử và gấu rồi giết hết bọn chúng, khi bọn chúng rình rập bắt đi những con cừu non và thú nuôi của anh ta. Ngày ngày David sống một mình, luyện tập môn bắn đá, anh cố gắng luyện tập một mình cho đến khi bắn đá chính xác mục tiêu. Khi giương ná bắn đá lên, anh ta biết rằng viên đá sẽ bay đến điểm mà anh ta cần bắn, anh ta trở thành một tay xạ thủ kỳ khôi.
Người đàn ông trẻ nghĩ về đức Chúa, nói chuyện với Chúa và Chúa cũng nói chuyện với anh ta, rồi chỉ cho anh ta những việc mà anh ta sẽ phải làm.
Từ sau khi Saul không tuân theo lời Chúa, linh hồn Chúa đã rời bỏ Saul và không còn nói chuyện với cậu ta nữa. Saul trở nên rất buồn lòng. Đôi khi anh ta trở nên điên điên khùng khùng và lúc nào anh ta cũng không hạnh phúc. Những người hầu của Saul để ý đến điều này và mỗi lần như thế họ đều đánh đàn và hát hò cho Saul nghe, vì thế mà lòng Saul có thêm sự vui vẻ và sự buồn rầu, ngơ ngáo cũng dần dần không còn. Một lần Saul nói: “Tìm người nào có thể chơi tốt âm nhạc và mang đến đây cho ta. Để ta nghe âm nhạc vì âm nhạc có thể cuốn đi mọi nỗi u sầu của ta”.
Một trong những người đàn ông trẻ tuổi nói: “Tôi có biết một người trẻ tuổi, đó là con trai của Jesse sống tại Bethlehem, anh ta có thể chơi đàn rất hay. Anh ta trông rất đẹp trai và dễ gần, tính tình thân thiện hoà đồng vui vẻ. Tôi cũng biết rằng anh ta là một người đàn ông trẻ tuổi những rất dũng cảm, anh ta có thể chiến đấu tốt như anh ta chơi đàn và đức Chúa luôn bên anh ta”.