🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nho Sĩ Đô Vật
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Lời giới thiệu của
TS TÔN NỮ QUỲNH TRÂN
Toan Ánh, là một tác giả lão thành, hay chính xác hơn, một nhà phong tục học có bề dày nghiên cứu, đã từng quen thuộc với độc giả Việt Nam cũng như độc giả nước ngoài qua các tác phẩm đượm màu sắc dân tộc như Làng xóm Việt Nam, Phong tục cổ truyền, Hội hè đình đám, Tinh thần trọng nghĩa Đông Phương, Người Việt đất Việt. Tác giả không hạn chế mình trong những công trình nghiên cứu, mà còn hoạt động trong lĩnh vực truyện ngắn như Sau lũy tre làng, tiểu thuyết phong tục như Ký vãng, Nho sĩ đô vật.
NHO SĨ ĐÔ VẬT được hoàn thành cách đây 15 năm, vào cuối thu 1980. Và nay, tôi được hân hạnh trực tiếp đọc tập bản thảo viết tay ấy. Nhìn tập bản thảo, tôi bồi hồi nghĩ rằng đây là một di vật lịch sử, giá nó có thể đến với độc giả trong nguyên trạng thì lại hay hơn. Giấy được tác giả dùng để viết là những tờ giấy nhỏ, cũ, được sản xuất tại miền Nam trước năm 1975. Một mặt giấy đã được in tóm tắt nội dung cuốn Hội hè đình đám II của chính tác giả. Cứ mỗi hai tờ giấy nhỏ ấy được cẩn thận dán nối lại với nhau hầu có diện tích lớn hơn, để tác giả có đủ chỗ viết vào mặt sau, nơi không có chữ in. Đấy là một chứng tích quý giá nói lên lòng yêu nghề không bờ bến của tác giả.
NHO SĨ ĐÔ VẬT đến với độc giả trong khung cảnh thời gian của phong trào Cần Vương, khung cảnh không gian là đất Phong Châu xưa của miền Vĩnh Yên (Vĩnh Phú ngày nay). Nhân vật chính là một chàng nho sinh, nhưng thay vì trói gà không chặt, chàng nho sinh ấy lại rất giỏi đấu vật. Ở đây, tình yêu đôi lứa được lồng trong tình yêu nước, tình bạn hữu. Đặc biệt
https://thuviensach.vn
hình ảnh một thiếu nữ dịu dàng, biết làm thơ, biết têm trầu cánh phượng đưa ta trở về sống trong cảnh quan xã hội một thời còn đượm màu Nho giáo của Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả NHO SĨ ĐÔ VẬT, hy vọng rằng qua tập sách này, độc giả sẽ lại làm quen với các chàng đô vật dũng mãnh, các cụ Tiên chỉ đạo mạo, với các tập tục ngày xưa quyện trong không khí lễ hội, trong tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ XIX.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 3 năm 1995
TS Tôn Nữ Quỳnh Trân
(Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông
Nam Á, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh)
https://thuviensach.vn
I
TAY ĐÔ GIỮ GIẢI
Trên đường quốc lộ số 4, Hà Nội đi Tuyên Quang, Hà Giang, vượt khỏi thị trấn Vĩnh Yên chừng ba cây số, nhìn về bên trái, du khách có thể nhận thấy một cây tháp hơi nghiêng, dân chúng địa phương vẫn quen miệng gọi là Tháp Nghiêng, và đây là cây tháp của chùa Cói, chùa làng Hội Hợp, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Yên.
Vĩnh Yên xưa thuộc đất Văn Lang sau thuộc về Phong Châu. Bạch Hạc ngày nay là Phong Châu thuở xưa, nơi đế đô đời Hồng Bàng, quê hương của Hai Bà Trưng. Đây cũng chính là huyện Mê Linh, nơi Hai Bà đóng đô sau khi đuổi được quân Tô Định. Từ năm 262 đến năm 272, Bạch Hạc là huyện Tân Xương. Năm 548 vua Lý Nam Đế thua quân Tàu ở đây. Lý Phật Tử sau khi tranh giành đất đai với Triệu Quang Phục cũng đóng đô tại huyện này, nơi địa điểm mang tên Hương Nha.
Vĩnh Yên về đời Trần gọi là Tam Đái Lộ, về đời vua Minh Mệnh năm 1822, gọi là Vĩnh Tường Phủ, thuộc tỉnh Sơn Tây. Năm 1890 đổi là Vĩnh Yên đạo, rồi đến năm 1899, tỉnh Vĩnh Yên mới được thành lập, gồm tất cả phần đất của tỉnh Sơn Tây ở phía tả ngạn sông Hồng Hà.
Sau cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi chính quyền quốc gia1trở lại mới đây vào năm 1947, Vĩnh Yên được sáp nhập cùng với Phúc Yên thành một tỉnh gọi là tĩnh Vĩnh Phúc Yên. Sau tháng 7 năm 1954, chính quyền cách mạng trở về, hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên được hợp nhất với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú.
https://thuviensach.vn
Vĩnh Yên là một vùng đất lịch sử. Dân chúng vùng này luôn luôn có tinh thần bất khuất, nhiều anh hùng chống Pháp đã xuất thân ở tỉnh này như Đội Cấn, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính
Dân chúng đa số chuyên về nghề nông, chuộng văn nhưng vẫn yêu võ vì truyền thống trải qua từ thời đuổi quân Tô Định, đánh quân nhà Lương. Nghề võ được yêu trọng, nhưng dân chúng nhiều làng lại đặc biệt chú ý tới ngành đô vật, một ngành võ không dùng đến khí giới nhưng phải có sức lực và phải có chân tay nhanh nhẹn.
Làng Hội Hợp là một làng có nghề vật cũng như nhiều làng cùng tỉnh: các làng Vị Thanh, Vị Trù, Hội Hà, Địch Đồng, Hán Nữ, Thổ Tang, Hoàng Xá
Để trau dồi tài nghệ cho các đô vật trong làng, để khuyến khích họ cầu tiến, để bắt buộc họ phải luôn luôn luyện tập, để tạo cơ hội cho họ có dịp học hỏi thêm ở nơi các tay đô thiên hạ, và nhất là có dịp thử sức với những tay đô này, hàng năm làng Hội Hợp, nhân dịp hội làng mở vào thượng tuần tháng Giêng, có tổ chức giải vật để các tay đô vật trong làng ganh đua với thiên hạ. Với giải vật này các tay đô tứ xứ kéo nhau tới tranh giải không ít, không kể những lực sĩ các làng trong tỉnh, nhiều tay đô đã từ các làng xã tỉnh xa kéo tới, làng Chung Mầu tỉnh Bắc Ninh, làng Ngọc Lũ tỉnh Nam Định, làng Mai Động tỉnh Hà Đông.
Trong dịp này, bãi cỏ trước Tháp Nghiêng chùa làng được dọn dẹp sạch sẽ và trang trí để biến thành sân vật. Nơi đây khá rộng rãi, không những đủ rộng để các lực sĩ tranh hùng mà còn đủ rộng để dân chúng trong xã cũng như dân các nơi khác tới dự hội, đứng vây quanh, vòng trong vòng ngoài xem vật.
Năm Giáp Ngọ (1894), Đình nguyên Phan Đình Phùng sau khi đã vây bắt được tên Trương Quang Ngọc để trị tội về việc đã bắt vua Hàm Nghi, giết tướng Tôn Thất Thiệp đêm hôm 26 tháng 6 năm Mậu Tý (1888), lại hiệu triệu đồng bào đứng lên tiếp tục công cuộc chiến đấu chống Pháp giành lại chủ quyền đất nước. Lời hiệu triệu này đã được dân chúng chép lại truyền tay nhau đi từ vùng này qua vùng khác, và nhận được sự đáp ứng
https://thuviensach.vn
rất nồng nhiệt của mọi giới. Hào kiệt khắp nơi đều kéo về phục tùng dưới trướng.
Khi ấy Đình nguyên2đóng quân tại một nơi hiểm yếu ở núi Vụ Quang, tục gọi là Ngàn Trươi. Đây là một khu rừng núi bao la hiểm hóc, có thể tiến và lui, ở đây có thể trông thấy được tình hình khắp tỉnh Hà Tĩnh. Hơn nữa phía sau lại có đường bí mật dẫn sang đất Lào và đất Xiêm3
Trong khi quân của Phan Đình nguyên chống Pháp, anh hùng nhiều nơi khác vẫn nổi lên.
Dân chúng, tuy trong cảnh loạn lạc của đất nước nhưng vì sự đàn áp và che đậy của lũ tay sai, nên tại nhiều nơi cuộc sống cũng không gặp xáo trộn, và hàng năm khi mùa xuân tới để bảo vệ tục lệ cổ truyền các làng xã vẫn mở hội xuân, cơ hồ như không biết đất nước đang trong lúc nhiễu nhương và biết bao anh hùng hào kiệt đang cùng với những đám quân Cần Vương tại nhiều nơi, hăng hái chống Pháp giết giặc và giết cả lũ tay sai của giặc, hy sinh xương máu cho dân tộc.
Mùa xuân năm đó, làng Hội Hợp theo thường lệ cũng như mọi năm, mở hội để dân làng vui xuân cùng với khách thiên hạ tới xem hội. Trong hội xuân, vẫn có tổ chức giải vật tại bãi cỏ Tháp Nghiêng chùa làng. Giải vật đã kéo các tay đô trong vùng tới tham dự rất đông. Thực ra thì tới đầu năm, các làng vùng Tam Đái không mấy làng là không có hội, và làng nào mở hội mà không có giải vật. Đất Tam Đái xưa nay vẫn là nơi dụng võ, nơi xưa kia một trong thập nhị sứ quân đã xưng hùng, sứ quân Nguyễn Khoan tự tôn là Thái Bình Công. Cái truyền thống dụng võ vẫn còn trong huyết thống của người dân, nơi đây, ngoài nghề nghiệp làm ăn người ta trau dồi võ nghệ. Vả chăng, địa thế miền trung du của vùng này bó buộc con người phải mạnh để còn lấn áp thú rừng qua những cuộc săn bắn. Nhiều làng có hội vật, nhưng không vì thế mà giải vật ở làng Hội Hợp kém phần quan trọng, các lực sĩ tiếng tăm nhất hàng năm vẫn kéo nhau tới nơi đây trổ tài, và cũng là một dịp thử sức với các tay đô tứ xứ và tìm cách học hỏi qua những cuộc đấu, tiếp thu thêm các miếng hiểm hóc bằng cách
https://thuviensach.vn
dự kiến các cuộc vật cũng như bằng kinh nghiệm bản thân nếu bị đối phương có những tài nghệ mới áp đảo.
Cũng như mọi năm, năm Giáp Ngọ với hội vật, làng Hội Hợp vẫn đặt ba giải chính: nhất, nhì, ba và nhiều giải bàng. Giải bàng còn gọi là giải thờ, đặt ra để cho ai muốn khảo sức thi vật. Giải thờ vật trước, và mỗi ngày có nhiều giải thờ, đô vật chỉ được làng thưởng một chút quà kỷ niệm hoặc một món tiền nhỏ gọi là của làng phát cho. Những cuộc vật giải thờ này mở đầu mỗi ngày cho một cuộc vật giải chính. Đấu vật mỗi năm ít nhất ba ngày cho ba giải chính, nhưng quan trọng nhất là ngày cuối cùng, ngày vật giải nhất.
Khi vật giải thờ các tay đô không trổ hết tài nghệ và có nhiều khi cả hai bên cùng ngã, họ cùng là một bọn rủ nhau vào vật, trưng ra vài miếng cho tứ xứ trông vào! Họ vật không hăng hái gay go, nhưng mà đẹp. Lúc lên đài, những động tác lừa miếng nhau, đáng lẽ họ chú ý rình nhau, lừa nhau thì họ múa may cho thật dẻo, thật mềm. Kể nhìn cũng vui vui, hay hay!
Khi vật giải chính thì không vậy. Đôi bên đều gắng sức để đánh đổ đối phương. Lệ vật muốn thắng, một là phải đội bổng bên địch, hai là phải vật cho người ta ngã ngửa trắng bụng. Phải ngã ngửa mới được, ngã sấp không kể. Nhiều người vì lỡ miếng đành phải nằm bò sát đất để tùy cơ đánh lừa địch thủ, mặc cho địch thủ muốn bốc thế nào cũng cứ ôm sát lấy đất. Và nhiều khi vì địch thủ tìm cách bốc địch, thì bỗng chỉ thoắt một cái, địch đã đứng phắt dậy, và có khi cùng với động tác đứng lên, kẻ nằm bò với một miếng bí hiểm đã vật ngã được đối phương!
Ngay từ khi hội vật bắt đầu, người ta đã thấy sẽ có những cuộc vật hào hứng, vì những tay giữ giải đều là những lực sĩ trong vùng. Giải ba, đô Kế xã Dịch Đông giữ giải, giải nhì do một tay đô từ xã Mai Động, Hà Nội lên giữ, đó là đô Tống, người đã từng nhiều phen tung hoành vùng Tam Đái. Còn giải nhất, nói đến tên người giữ giải, các tay đô kém tài ba, thiếu kinh nghiệm đều lắc đầu tỏ vẻ ngán. Đó là đô Giang xã Vị Thanh, một trung tâm đô vật của vùng này, và đây là lò vật đã sản sinh ra không biết bao nhiêu lực sĩ từng gây sóng gió cho làng vật. Đô Giang đã có lần xuống tận Ngọc Lũ, một làng có nghề vật nổi tiếng của trấn Sơn Nam Hạ
https://thuviensach.vn
để thử tài, và đã đoạt giải mang về, khiến cho các tay đô làng Ngọc Lũ phải một phen hậm hực.
Và những người lăm le vào phá giải năm nay cũng không phải là những tay vừa. Không kể những lực sĩ chỉ nhằm vào giải nhì, giải ba, chỉ nhắc tới những lực sĩ sẽ vào phá giải nhất: đô Kim, một lực sĩ từ xã Chung Mầu, tỉnh Kinh Bắc tới, đô Thu từ Sơn Nam Thượng lên, đô Vân, tay đô vật tài danh của xã Ngọc Lũ, và những lực sĩ có hạng của Tam Đái như đô Linh, đô Điểu xã Hán Nữ, đô Trình, đô Xuyên xã Hoàng Xá V.V. Kể ra không hết. Lại còn những tay đô của chính xã Hội Hợp, vài ba người tài nghệ vào hạng đầy hứa hẹn!
Trước khi nói tới những cuộc vật để tranh hùng xưng bá giữa các lực sĩ, xin tả qua đấu trường, nơi các tay đô sẽ cùng nhau phân thắng bại. Một bàn thờ được dựng lên phía trước Tháp Nghiêng, và ở đây dân làng đã bắc rạp để lấy chỗ cho các nhân viên hàng xã, đứng đầu là cụ Tiên chỉ, rồi đến các Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần, cùng các vị khác trong ban điều hành công việc hàng xã. Một chiếc án thư kê trước bàn thờ, hai bên là hai chiếc tràng kỷ và nhiều ghế ngồi dành cho các vị cùng các quý khách của xã.
Thẳng theo hai bên đầu rạp, là hai hàng cờ ngũ hành, biểu hiện của đình đám mùa xuân. Ngay trước rạp, hai bên phía tả hữu có hai chiếc trống cái, một loại trống thật lớn, trong những khi rước xách thường phải hai người khiêng. Hai vị đàn anh trong dân được cử ra cầm trống. Trống đánh mỗi hồi ba tiếng, hồi trống của hội vật. Người bên nọ đánh ba tiếng vừa dứt, người bên kia lại đánh ba tiếng theo.
Sân vật nằm giữa hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành. Ngay ở sân vật, liền trước rạp có trải chiếc chiếu cạp điều để các đô vật lễ thần trước và sau mỗi cuộc. Trông các đô vật vào lễ cũng hay hay! Mình trần trùng trục, mỗi người chỉ mang một chiếc khố màu xanh, đỏ, trắng, nâu- nhưng không có màu vàng, màu riêng biệt của hoàng gia- mà cũng lên gối xuống gối lễ bái rất đứng đắn. Có điều họ chỉ chống lên gối có một tay trái, không lễ bằng cả hai tay như ta vẫn lễ.
https://thuviensach.vn
Ở giữa sân vật có ba tuần phiên. Hai người, cầm mỗi người một lá cờ đuôi nheo nhỏ để phất hiệu vật, người thứ ba cầm chiếc trống bưng còn gọi là trống khẩu, có cán cầm, mặt trống chỉ nhỏ vào khoảng gang tay đường kính. Trống này đánh lên lúc đang vật vừa để khuyến khích vừa để thúc giục các lực sĩ.
Khách xem vật đứng vòng trong vòng ngoài, lấy hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành làm giới hạn. Ai chen lấn tới sân vật, hai người tuần phiên cầm cờ, dùng ngay cán cờ để gạt ra.
Mỗi ngày cuộc vật bắt đầu bằng những giải bàng độ mươi lăm giải, thì làng cho vật giải chính. Đô vật giữ giải phải vật ngã hết những người vào phá giải nhưng để tránh sự thông đồng giữa các tay đô kém tế nhị, nhiều làng thay vì số keo thắng đã lấy thời gian mà kết thúc mỗi giải. Người giữ giải nếu đến quá Ngọ không có ai vật nổi mình sẽ ăn giải, và để tránh sự bất công vì người giữ giải phải vật nhiều người liên tiếp tổn sức, thường cứ sau ba keo vật gay go, người này lại nghỉ một khắc, để các tay đô khác cùng nhau vật những giải bàng, như vậy, các khán giả tuy chờ đợi xem kết quả cuộc vật chính thức vẫn được xem những keo vật ngoạn mục.
Năm ấy, giải ba do đô Kế xã Dịch Đồng giữ và đã chiếm giải vì những tay đô cừ khôi, chỉ nhắm vào giải nhất.
Giải nhì, do đô Tống xã Mai Động giữ, đã có những keo vật quyết liệt, vì các lực sĩ vùng Tam Đái không muốn để giải của đất mình lọt vào tay người khác. Tuy nói là quyết liệt, nhưng chỉ có sự quyết liệt đối với một số các đô vật, tuy tài ba, nhưng chưa phải là những lực sĩ tài ba nhất mỗi xã, những lực sĩ này họ chỉ chờ phá giải nhất.
Trong những keo vật, đô Tống đã gặp đô Trác xã Chung Mầu tỉnh Bắc Ninh. Hai bên đồng sức, cuộc vật kéo dài, mãi đến gần quá Ngọ, đô Tống mới đội nổi được đô Trác lên mà thắng cuộc, nhưng vật xong đô Trác chưa phải là hết, đô Tống còn gặp đô Ngọc xã Vị Trù, và trong keo vật này có lẽ vì đô Tống quá mỏi mệt, đô Ngọc đã thắng, và cho đến hết giờ Mùi, không gặp tay địch thủ nào vào bậc siêu quần, nên đô Ngọc đã ăn giải.
Quan trọng hơn hết là giải nhất. Đô Giang giữ giải này là một tay cự phách của làng vật, và danh tiếng đô Giang đã vang lừng khắp vùng Tam
https://thuviensach.vn
Đái, lan tới cả vùng Huy Tuyên về mạn ngược và truyền tới kinh và hai trấn Sơn Nam Thượng và Hạ ở vùng xuôi.
Hôm ấy trời hơi lấm tấm vài dây mưa bụi, mưa bụi mùa xuân tăng vẻ cổ kính cho ngày hội.
Ngay sau khi cuộc phá giải sắp bắt đầu, ông Tiên chỉ Hội Hợp tuyên bố: - Hôm nay là ngày chót của giải vật. Dân làng xin cám ơn đô vật tứ xứ đã tới dự giải làm tăng sự long trọng cho ngày hội. Toàn ban hương chức Hội Hợp mong rằng ngày hôm nay sẽ vui hơn hai ngày trước với những keo vật hào hứng và các anh em đô vật sẽ trổ hết tài cho bà con xem hội thưởng thức.
Cụ vào lễ thần, và sau đó một bánh pháo toàn hồng được đốt lên để mở đầu cho ngày vật.
Các anh em đô vật cũng kéo nhau vào lễ thần và đô Giang vào lễ sau cùng. Với chiếc khố điều tươi thắm, với những bắp thịt nổi lên, trông anh đô như một pho tượng đồng. Hai con mắt sáng quắc nói lên sự tinh anh, những bước đi thình thịch chứng tỏ sức mạnh kiêu hùng của tay đô vật hữu danh này.
Hai bên dọc thẳng theo đầu rạp vẫn là những tay đô vật mình trần trùng trục với mỗi người một chiếc khố. Ngoài những tay đô có mặt trong hai buổi trước, hôm nay xuất hiện thêm một số những tay đô có hạng, những tay đô sẽ vào phá giải của đô Giang.
Các khách dự khán hôm nay cũng đông hơn. Dân làng Hội Hợp bận gì thì bận, họ cũng phải có mặt ở nơi sân vật để chứng kiến những cuộc vật gay go. Sự hiện diện của nhiều tay đô xuất chúng sẽ hứa hẹn những keo vật kinh thiên động địa. Hôm nay sẽ có kẻ trẹo chân, sai khớp xương vì sự ra tay của các đô vật tranh giải. Nhiều tay đô có thể sẽ tiêu danh dự vì lỡ miếng sa cơ, nhưng chắc chắn sẽ có một tay đô trở nên anh hùng trong làng vật, và ít ra cũng là lực sĩ vô địch vùng Tam Đái trong một năm! Ai ở làng Hội Hợp mà không đi xem những trận vật hôm nay, là đã bỏ phí cơ hội hiếm có, một năm mới có một lần.
Hội Hợp giải vật vui xuân.
https://thuviensach.vn
Không đi bỏ phí dấn thân làm gì!
Câu ca dao địa phương trên chứng tỏ tầm quan trọng dân chúng vùng Tam Đái dành cho hội vật xã này.
Như thường lệ, các cụ cho vật mấy giải bàng để mở đầu cho ngày hội. Giải bàng ngày hôm nay cũng khác những giải bàng hai ngày trước, vì những tay đô danh tiếng đồng ý ra vật để biểu diễn tài nghệ trước linh thần, để mừng các cụ và hiến cho khách xem những pha thật đẹp của nghề vật. Những bước đi lên đài, những điệu khoe tay dẻo dai đã đủ khiến cho khách xem thấy thích thú.
Cụ Tiên chỉ đã phải bảo ông Thứ chỉ:
- Các đô vật đàn anh họ lên đài trông cũng khác, và tuy vật những giải thờ mà tài nghệ của họ đã thấy rõ ràng trội hơn tài nghệ những tay đô khác! Sau mấy giải thờ, cụ Tiên chỉ bắt đầu cho vật giải nhất, giải quan trọng nhất trong các giải của hội vật. Theo lệnh cụ, một tuần phiên bắc loa, loan báo cho các tay đô và khách xem hội rõ:
- Đã đến lúc phá giải nhất. Năm nay, giải này do đô Giang- Vị Thanh giữ. Bản hương chức mong các anh tài lực sĩ sẽ trổ nghệ để cùng đô Giang tranh hơn kém. Đến quá Ngọ sang Mùi không ai thắng thì làng sẽ tặng giải nhất cho đô Giang.
Theo lệ vật, giải nhất trong sáu ngoài năm, nghĩa là người giữ phải thắng sáu tay phá giải, trái lại đô vật phá giải sau khi thắng người giữ giải chỉ cần thắng thêm bốn tay đô khác là ăn giải. Cũng như vậy giải nhì trong năm ngoài bốn, và giải ba trong bốn ngoài ba. Làng Hội Hợp, như trên đã trình bày không theo thông lệ này, trước là để tránh sự thông đồng của những tay đô kém tư cách, sau là để những người giữ giải cũng như người phá giải được trổ hết tài nghệ, nên việc giữ giải hạn định theo giờ!
Cùng việc tiếng loa loan báo, đô Giang đã sừng sững đứng giữa sân vật, trông thật oai phong lẫm liệt. Bắp tay bắp chân rắn chắc, những thớ thịt nổi lên như những con chuột, anh dẫm những bước thình thịch trên sân vật nghe nặng chịch và như muốn làm rung động cả một khoảng đất dưới chân. Chiếc khố điều thấm mưa bụi trông càng tươi thêm. Anh từ từ bước tới rạp
https://thuviensach.vn
lễ thần, rồi vái chào các vị hương chức ngồi trên sạp. Sau đó anh lại đi ra chậm chạp với những bước chắc nịch cơ hồ như không ai lay chuyển nổi. Mặt anh đầy vẻ tự tin, vừa đi anh vừa mỉm cười nhìn hai hàng đô vật ngồi hai bên cái nhìn như thách thức, lại đượm vẻ coi thường mọi tay đô. Anh đi đi lại lại hai ba vòng chờ một địch thủ. Các đô vật ngồi hai bên chưa ra thử sức, họ muốn ra sau để còn ngồi quan sát những miếng vật của đô Giang hoặc của đối thủ của anh thi thố, để có thể tìm cách hạ họ qua những miếng vật đối phó.
Thấy chưa có tay đô nào ra sân, một mình đô Giang diệu võ dương oai, với nét mặt khinh khỉnh coi như mọi người đã khiếp sợ mình. Phía trong rạp, tiếng loa lại vang lên:
- Giờ phá giải đã bắt đầu, xin các lực sĩ đô vật tự xét ai có đủ tài hạ nổi đô Giang xin ra sân, kẻo mỗi phút đi qua là mỗi phần thắng của người giữ giải. Cũng chưa tay đô nào ra sân! Đô Giang liền tự cao tự đại lên tiếng: - Các anh hùng lực sĩ trong làng vật tứ xứ đã tới đây xin cho kẻ bất tài này được thừa tiếp, ngõ hầu học thêm mấy miếng hay của các vị! Chẳng lẽ các vị đến đây để ngắm kẻ bất tài này một mình lượn đi lượn lại trên sân vật cho đến giờ Mùi mà lĩnh giải chăng?
Câu nói đầy khiêu khích. Các tay đô vật ngồi hai bên đưa mắt nhìn nhau, rồi một người bận chiếc khố màu hoa lý đứng lên, từ từ đi ra cũng với những bước nện nặng trên sân vật, và cũng có dáng điệu hiên ngang chẳng khác gì đô Giang. Ra đến giữa sân vật, người này lên tiếng:
- Tôi, một người mới học võ vẽ vài miếng vật, là đô Kim, Chung Mầu, Kinh Bắc, nghe lời thách thức của đàn anh trong lò vật Vị Thanh, trung tâm đô vật vùng Tam Đái, không dám tự lượng sức, xin được hầu tiếp đàn anh một keo, trước là để học thêm những ngón đòn hay, sau là để khỏi phụ lòng các vị hương chức đã tổ chức giải vật, và cũng là để đền đáp sự hâm mộ của chư khách thập phương đã tới đây thưởng thức những cuộc tranh hùng.
Nói xong đô Kim tiến tới phía trước rạp lễ thần và vái chào các vị hương chức rồi anh đi ra chậm chạp, bước những bước rắn chắc và nặng trịch trên sân vật.
https://thuviensach.vn
Trong lúc đó có tiếng xì xào trong hàng ngũ đô vật và các khách xem hội. Có người bảo: Thôi đô Giang gặp địch thủ rồi!
Lò vật Chung Mầu, Kinh Bắc là một lò vật có danh! Lại có người khác nói: Chung Mầu ăn sao nổi Vị Thanh. Cuộc vật sẽ gay go, rút cuộc đô Giang sẽ thắng.
Đô Giang đã có địch thủ. Cuộc vật bắt đầu. Trống vật nổi lên ba tiếng một, và một anh tuần phiên cũng đánh tùng tùng chiếc trống khẩu, xen giữa những tiếng tùng! tùng! tùng to lớn của trống cái.
Trời vẫn mưa bụi, hai hàng cờ ngũ sắc đuôi nheo phất phới bay khiến quang cảnh sân vật thêm tưng bừng. Hai tay đô vật chào nhau, và keo vật bắt đầu. Họ lên đài với những bước chân thật nặng tuy trông họ bước nhẹ nhàng, hai tay họ múa nhịp nhàng theo bước chân đi. Có lúc hai tay đô vật đi song song, tay như vẫy vẫy đều đều, có lúc hai người đi ngược chiều quay lưng vào nhau! Bắp thịt chân tay họ nổi lên cuồn cuộn, gân guốc!
Lên đài cho dẻo chân tay, nhưng lên đài cũng để rình miếng địch thủ! Anh tuần phiên bưng chiếc trống khẩu tới sát bên họ, đánh trống như thúc giục để họ ra tay.
Họ đang lên đài, bỗng nhiên đô Giang đưa tay thật mạnh và thật bất thần để vồ lấy tay trái của đô Kim. Thoát một cái đô Kim lùi tay trái lại, tức khắc đưa hai tay vồ lấy vai đô Giang.
Đô Giang vội co tay lại, nhưng lại giấn mình về phía trước, vung hai tay choàng lấy cổ đô Kim. Hai tay đô đã ở trong cái thế ôm nhau, đô Giang ôm cổ đô Kim, và đô Kim trước định chộp lấy vai đô Giang, nhưng vì bị ôm cổ nên đã luồn hai tay cũng ôm lấy cổ đô Giang. Đôi bên đều cố gắng vít đầu nhau xuống, hai đầu như chụm vào nhau và hai thân trên hai cặp chân rắn chắc đều cong người tạo nên một vòng cung, nơi hai cái đầu chạm nhau là chỗ để lắp tên. Họ cứ ở cái thế cố sức ních nhau dìm đầu nhau xuống khá lâu, rồi bỗng nhiên đô Giang dùng sức mạnh kéo đô Kim về phía mình, đồng thời người hơi nghiêng sang một bên và đưa chân như muốn ngáng địch thủ.
Rồi hai người ôm lấy nhau vật lộn, đất sân vật bụi mù trên rạp. Hai tay cầm trống vẫn chuyền nhau đánh những hồi ba tiếng một, anh tuần phiên
https://thuviensach.vn
vác trống khẩu tiến sát tới các tay đô gõ đều những tiếng tung! tung! Trời vẫn mưa bụi, mưa như có vẻ nặng hạt hơn lúc trước, nước mưa chảy ròng trên lưng hai tay đô như đổ mỡ.
Những miếng kê, những miếng ngáng đôi bên đem sử dụng lừa nhau, nhưng kẻ kia tám lạng thì người này cũng nửa cân. Họ đang ôm chặt lấy nhau tưởng chừng như không ai có sức mạnh giằng nổi được hai người ra, bỗng đô Kim dùng miếng nhượng bào thoái kiếm nghĩa là nhường chiếc áo bào để xuống ngôi, nhân đang ôm ngang người địch thủ, và cũng bị địch thủ ôm trở lại, liền dùng hết sức mình vung hai tay hất mạnh hai tay địch thủ lùi trở ra, đô Giang không ngờ địch thủ lại gỡ mình theo thế hạ sách, nên hai tay anh đã bị đô Kim hất và gỡ được.
Lúc này, hai bên đều giang tay thành hình như vòng cung, nhưng hơi gấp lại nơi khuỷu tay. Hai bên rình miếng nhau, như hai con cọp dữ, mắt họ long sòng sọc, người họ ướt đẫm không biết mưa bụi nặng hạt hay vì mồ hôi. Đang ở cái thế ấy, bỗng đô Giang lại quay ra lên đài trở lại, vừa để nghỉ ngơi vừa để lừa miếng bên địch. Thấy đối phương lên đài trở lại, đô Kim cũng làm theo, trông họ lúc này như mới bắt đầu vào cuộc vật. Khán giả còn đang chú ý tới những bước chân, điệu múa tay lên đài của họ, bỗng chỉ thoáng chớp mắt đô Giang đã ôm người đô Kim vật ngã xuống đất theo thế thanh long đoạt ngọc. Bị vật xuống đất, đô Kim phải thi hành miếng nằm bò bám sát lấy đất, mặc cho bụi vung lên. Đô Kim nằm bò, đô Giang tìm cách bốc ngửa anh lên! Từ trên rạp đến khách xem vật vòng trong vòng ngoài sân ai nấy chăm chú nhìn từng động tác của mỗi tay đô, các đô vật ngồi ở hai bên sân vật càng chú ý hơn. Có người cho rằng đô Kim hay dùng hạ sách, nhưng có lẽ rồi ra trong một miếng bất thần sẽ hạ được đô Giang, có người lại cho rằng thế vật của đô Giang rất vững, đô Giang không thể nào thua được vì phong thái của đô Giang là phong thái của một tay vật đàn anh, không sử dụng hạ sách, chỉ vật qua những thế khoáng đạt.
Đô Kim cố nằm bám sát đất, đô Giang cố lật ngửa lên, đôi bên mỗi người đều có ý chí, khán giả không biết bao lâu đô Giang mới lật ngửa được đô Kim! Nhưng lại bỗng đánh thoắt chỉ trong một giây, đô Kim đã vùng dậy và hai tay đã ôm lấy cổ đô Giang vít xuống.
https://thuviensach.vn
Đôi bên lại quần thảo. Lâu và rất lâu, nhưng bỗng từ phía trước có tiếng reo giữa những tiếng trống cái và trống khẩu, và hai anh tuần phiên cầm cờ cũng phất cờ rối rít: đô Giang đã đội bổng được đô Kim lên và giữ anh này ở thế đó chừng vài ba giây mới từ từ hạ anh xuống theo phong độ của một lực sĩ quân tử, vì có những kẻ thắng đối phương, đội được đối phương lên đã quăng mạnh đối phương xuống đất khiến cho đối phương có thể bị gãy chân tay hoặc vỡ đầu nếu đối phương nhẹ cân bị quăng rất xa nơi sân vật.
Đứng xuống đất, đô Kim nghiêng mình trước đô Giang nói: Bái phục, tiểu đệ xin phục tài đại ca!
Đô Giang khiêm tốn nghiêng mình đáp lễ.
Trên rạp các cụ tuyên bố đô Giang thắng cuộc!
Đô Kim từ từ đi vào hàng các đô vật ngồi. Anh không thẹn vì thua! Khán giả đã chứng kiến tài nghệ của anh và đô Giang tuy thắng nhưng cũng chẳng dám coi thường đô Kim. Anh vốn vẫn biết đô Kim cũng là một tay kiệt hiệt trong làng vật và thắng được đô Kim anh đã thấy khó khăn! Anh thong thả vào lễ trước bàn thờ, nhận lời khen của các cụ, và chờ một đấu thủ khác.
Có lẽ anh mệt, nhưng thường thì sau một cuộc vật chỉ vài phút nghỉ ngơi, các đô vật đã lấy lại được sức để vật một keo khác.
Đô Giang lại chậm chậm bước từ phía rạp ra giữa sân vật. Tiếng loa vang lên:
- Đô Giang- Vị Thanh đã thắng đô Kim- Chung Mầu! Các cụ truyền xin mời các tay đô khác vào thi tài với đô Giang.
Lần này các cụ và khách xem hội không phải chờ lâu. Tiếng loa vừa dứt, trong hàng đô vật phía bên tay trái, một tay đô bận khố tam giang bước ra. Thiên hạ nhìn ra thì đây là đô Thu của miền Sơn Nam Thượng. Đây cũng là một tay vật cừ khôi và cũng đã từng tung hoành tại nhiều sân vật.
Đô Thu bước ra sân cùng với những bước chân chậm chạp và nặng trịch. Người đô Thu ngâm ngâm đen, thật hợp với chiếc khố màu tam giang tím tím. Đô Thu bước thẳng tới phía rạp lễ thần và vái chào các cụ rồi quay trở lại bước ra sân vật. Những hồi trống ba tiếng một vẫn nối nhau liên tiếp, và
https://thuviensach.vn
anh tuần phiên đánh trống khẩu tuy chưa có cuộc vật vẫn cứ gõ trống tùng! tùng!
Đô Thu vái chào đô Giang và nói:
- Tiểu đệ mong học mấy miếng của đại ca, tài nghệ của tiểu đệ còn kém lắm, nhưng đã trót mang chuông đi đấm xứ người, thì dù chẳng kêu cũng phải thử một hồi mà nghe!
Đô Giang đáp lại với giọng nói nửa như kiêu hãnh nửa như khiêm nhường:
- Đã ra sân vật chúng ta đều học hỏi lẫn nhau hết, còn nói đến tài nghệ, chắc đại ca cũng đã biết, đại ca từng tạo tiếng tăm thì tiểu đệ cũng đã đoạt nhiều giải. Mong đại ca ra tay, và tiểu đệ cũng quyết không nhân nhượng.
Họ chỉ trao đổi mấy lời như vậy, rồi cả hai đều quay về phía bàn thờ lễ thần. Sau đó cuộc lên đài bắt đầu, những bước chân dẫm xuống đất như muốn lay chuyển cả sân vật. Khách xem vật dự đoán một trận thư hùng hào hứng giữa đôi bên, còn các tay đô chăm chú nhìn vào những bước đi và những điệu tay giang ra, co vào của hai lực sĩ trong lúc lên đài, vì qua mỗi động tác, các tay đô kinh nghiệm có thể đoán được miếng vật mỗi lực sĩ sẽ thi thố.
Cuộc vật gay go, hai chiếc khố điều tươi và tam giang vẫn như quấn quít khi hai đô vật ở trong những giây phút quyết liệt. Trong lúc họ ôm nhau cố đấm, cố ngáng, cố kê để thắng đối phương thì anh tuần phiên vác trống khẩu kề ngay vào tai họ mà đánh như muốn xui nguyên giục bị, bảo anh này vật ngã anh kia, hò anh kia cố thắng lấy anh nọ.
Hai tay đô vật như không nghe thấy tiếng trống. Tâm trí họ còn đang bận về những miếng vật để hạ đối phương. Họ quần thảo với nhau lúc chiếc khố điều ở bên tả khi lại chuyển sang bên hữu, và chiếc khố tam giang cũng vậy.
Sau một hồi đấu sức, đô Thu thấy đô Giang quả danh bất hư truyền và là một đô vật ghê gớm đáng sợ và đô Giang cũng nhận thấy đô Thu có một tài nghệ khả kính. Cuộc vật gay go không ai chịu ai trong những phút đầu. Người xem vật ai cũng lắc đầu kính phục cả đôi bên, những ngón đòn đôi bên đưa ra đều là những ngón đòn siêu việt, và cả hai đều là những bậc lực
https://thuviensach.vn
sĩ siêu quần. Dần dần về sau, các tay đô bên ngoài nhận thấy đô Thu thủ nhiều hơn là công, thủ để lừa miếng, còn đô Giang mạnh về công hơn thủ, như muốn lấn át đối phương. Khách xem không am tường nghề vật không nhận thấy những công thủ này.
Cuộc vật thật gay go, nhưng rút cuộc trong một giây sơ hở, đô Thu đã để đô Giang lừa ngáng cho ngã và vật ngửa xuống đất: đô Thu đã thua! Trống vật kéo những hồi dài để khen mừng kẻ thắng, và khách xem hội cũng reo hò như hoan hô đô Giang, và các tay đô vật, người thì lắc đầu, người thì chép miệng tiếc cho đô Thu cũng đã vào bậc tài ba mà không thắng nổi đô Giang.
Hạ xong đô Thu, đô Giang lại hạ luôn đô Vân xã Ngọc Lũ, rồi đô Linh xã Hán Nữ. Em đô Linh là đô Điểu, thấy anh bị đo đất, xông vào muốn gỡ danh dự cho xã Hán Nữ nhưng rút cuộc đã bị đô Giang đội bổng lên và đặt nhẹ xuống đất.
Sau mấy keo vật trên, trời gần sang Ngọ. Các cụ trên rạp truyền tạm nghỉ ngơi một khắc để đô Giang lấy sức lại, có như thế mới công bằng, nếu không đô Giang bị mệt qua những trận vật liên tiếp tránh sao khỏi thiệt thòi khi phải đọ tài với một tay đô sức còn sung mãn. Và trong lúc này chính các cụ cũng cần tự bồi dưỡng bằng ít xôi oản, chuối hạ từ bàn thờ thần.
Sau một khắc nghỉ ngơi, đô Giang lại ra sân vật và lại thắng luôn mấy keo: anh đã hạ dễ dàng hai chú cháu đô Trinh và đô Xuyên xã Hoàng Xá, và tay vật cốt cán xã Hội Hợp là đô Vận và đô An cũng không thắng nổi anh. Lại còn hai tay đô trông thật lực lưỡng tự xưng là đô Như và đô Ý thuộc vùng Yên Lãng, Kim Anh cũng bị anh hạ dễ dàng.
https://thuviensach.vn
II
MỘT KEO VẬT VÀ BỮA RƯỢU LÀNG
Trời đã đúng ngọ, trong sân vật, đô Giang đi đi lại lại, sau những trận thắng oanh liệt có vẻ thách thức tất cả các tay đô khác. Lúc này trời đã hết mưa bụi, gió xuân nhẹ phây phẩy những lá cờ ngũ sắc như mừng những cuộc chiến thắng của anh đô. Không có cuộc vật, nên hai cụ cầm chầu cũng ngưng tiếng trống, và tiếng trống khẩu cũng không được gõ lên để làm rộn ai nữa.
Hai hàng đô vật ngồi hai bên lúc này tuy vẫn đủ số, nhưng không có ai là địch thủ với đô Giang. Tiếng loa vang:
- Nay đã đến Ngọ, chỉ còn nửa giờ nữa là sang Mùi! Các tay đô có mặt, ai muốn phá giải thì xin vào gấp, nếu để sang giờ Mùi, giải nhất sẽ về tay đô Giang!
Các đô vật nhìn nhau lắc đầu. Ai cũng thấy tài nghệ của đô Giang là siêu việt; họ tự lượng sức, những người khả dĩ đối địch nổi với đô Giang đều đã bị đô Giang hạ, còn những tay vật đã từng giữ nhiều giải nhì hoặc phá nhiều giải nhì ở các nơi hiểu nếu mình có vào giao đấu cũng chỉ sẽ nhận lấy thất bại thôi. Họ ngồi chờ để xem còn con cọp dữ nào trong làng vật dám vào đọ sức với đô Giang chăng?
Biết trong sân vật không còn ai là đối thủ với mình, đô Giang kiêu kiêu tự đắc! Anh đi đi lại lại, ngó ngạo nghễ vào đám đô vật ngồi hai bên, rồi anh lại nói:
- Sắp sang giờ Mùi, trong anh em, có ai muốn dạy cho tiểu đệ vài miếng, xin mời ra đây! Hoặc có ai muốn học thêm vài kinh nghiệm cũng xin mời
https://thuviensach.vn
ra đây!
Nói với đám đô vật xong, anh lại vênh mặt ngó vào đám khách xem hội, nói to:
- Và trong chư quý vị tới xem vật hôm nay, có vị nào tài ba muốn chỉ giáo cho kẻ bất tài này vài miếng vật, kẻ bất tài này cũng xin lĩnh giáo. Không thấy ai đáp lời, anh càng tỏ vẻ kiêu hãnh. Anh nói to: - Thế ra trong thiên hạ hết cả người tài chăng?
Câu nói thật là khiêu khích, cũng thật là hỗn xược. Câu nói đã làm một thư sinh khăn lượt áo the thấy nóng mặt, thư sinh này đứng trong đám khán giả. Chàng đã dự xem cuộc vật suốt từ sáng, và chàng đã chứng kiến tài nghệ của đô Giang, chàng phục tài, nhưng chàng không phục thái độ thắng sinh kiêu của đô Giang. Thấy đô Giang mỉa thiên hạ hết cả người tài, chàng liền rẽ đám đông đi vào giữa sân vật, tiến lên trước rạp, vái trước bàn thờ, vái các cụ, rồi nói:
- Kẻ thư sinh nhân đến đây xem hội được dự những cuộc đấu vật từ sáng, thấy anh đô Giang quả là xuất chúng. Giờ đây, kẻ thư sinh bụng đói muốn xin các cụ bữa rượu, nhưng trước khi xin các cụ ban rượu, thư sinh này xin các cụ cho phép thử sức với đô Giang mấy phút!
Cụ Tiên chỉ ngắm nhìn chàng thư sinh. Chàng mặt mũi khôi ngô, không trắng trẻo lắm, nước da có vẻ dạn nắng dạn gió. Hai con mắt sáng và lanh lẹn nói lên sự thông minh. Chàng, cử chỉ chậm rãi ôn hòa, nói năng từ tốn và lễ phép. Chàng đội chiếc khăn lượt, mặc áo cặp ba, trong áo dài trắng giữa áo kép lót màu thiên thanh và ngoài cùng là chiếc áo the đen, đè lên chiếc quần lụa mỡ gà đã hơi cũ và chân đi đôi giày Gia Định.
Ngắm kỹ chàng thư sinh, ông Tiên chỉ bảo:
- Ngày xuân, thầy Khóa có muốn bữa rượu dân làng xin đãi, chứ thầy Khóa đọ sức sao nổi với đô Giang!
Thư sinh đáp:
- Thưa, thư sinh này theo đạo Thánh Hiền, không dám làm nghề hành khất! Các cụ có thương mà cho cũng không dám nhận! Muốn uống rượu, ít nhất kẻ thư sinh phải có cái gì, mà ở đây, cái gì đó là một cuộc đọ sức với đô Giang!
https://thuviensach.vn
Ông Tiên chỉ gạt đi:
- Thầy Khóa không nên quá câu nệ! Đồ đệ Thánh Hiền không khất cái, nhưng đây là dân làng đãi thầy! Lão nhìn thầy mảnh khảnh thế này, cứ đứng cạnh đô Giang, đủ thấy thua rồi còn vật làm sao được anh đô!
Trong lúc hai bên đối thoại, đô Giang cũng đã tiến tới gần! Anh cũng lấy làm ngạc nhiên khi có một thư sinh lại muốn thử sức với mình. Anh nghĩ với thư sinh này anh chỉ dùng một phần mười sức là đủ thắng. Anh định bụng nếu các cụ chấp nhận cho thư sinh đấu với anh, anh sẽ nhấc bổng lên rồi ném qua vòng khách xem hội để nhắn nhủ những kẻ bất tài đừng có vuốt râu cọp.
Ông Tiên chỉ gạt đi, nhưng thư sinh nhất định đòi vật với đô Giang. Anh thưa:
- Các cụ thương, kẻ thư sinh này biết lắm, nhưng vì kẻ thư sinh này cũng biết võ vẽ vài ba miếng vật nên cũng muốn nhân dịp này học thêm anh đô Giang mấy miếng hay nữa!
Ông Thứ chỉ ngồi cạnh, từ nãy không nói gì, thấy thư sinh cứ khăng khăng đòi vật với đô Giang, cụ ghé tai bảo cụ Tiên chỉ:
- Thằng này điên! Nó muốn chết cho nó chết!
Rồi ông nói cùng một lúc với thư sinh và đô Giang:
- Ừ, thầy Khóa đã muốn thử sức với anh đô, dân làng đành bằng lòng, nhưng đây là tự ý thầy Khóa nhé! Còn anh đô, tài nghệ của anh ở đây ai cũng thấy, anh cũng nên nương tay với thầy Khóa, nghe!
Đô Giang dạ thật lớn.
Tin thư sinh nhất định đòi vật với đô Giang được loan ra. Các đô vật cũng như khách xem hội, ai nấy đều sửng sốt! Thật là châu chấu mà đòi đá xe!
Thư sinh ra nhà hậu rạp thay quần áo. Lúc chàng bước ra sân vật, người ta thấy chàng bận chiếc khố màu nước dưa! Thì đây chính là chiếc thắt lưng của chàng đang thắt, phải tạm thời biến nó thành chiếc khố vật!
Trống vật lại nổi lên từ hai bên phía đầu rạp, và anh tuần phiên lại gõ trống khẩu tung! tung!
https://thuviensach.vn
Đô Giang cùng thư sinh tới trước bàn thờ lễ thần, với các cụ rồi song song đi ra giữa sân vật!
Trông thư sinh không quá gầy gò, nhưng so với đô Giang anh thật không xứng chút nào. Đô Giang trông như một pho tượng đồng, anh nhìn như một con tò he nặn bằng bột của trẻ con chơi. Da đô Giang sạm đen với gân guốc và bắp thịt nổi lên, da anh thư sinh trắng mịn đúng da học trò, và người anh tuy cân đối nhưng người ta không thấy cái gì là sức mạnh của một đô vật. Chân tay anh đều đều, thịt không bệu, nhưng người ta đoán cũng không rắn chắc để đủ chịu đựng những cái nắm tay co giật của đô Giang!
Cuộc vật bắt đầu! Đôi bên lên đài. Bước chân của đô Giang nặng trịch dẫm trên đất, bước chân của thư sinh nhẹ như lướt trên cỏ, điệu vung tay của đô Giang dứt khoát, điệu múa tay của thư sinh từ từ như bút lông đưa trên giấy trắng. Nhìn thư sinh có vẻ thong thả lắm, nhưng những tay đô từng trải thì hiểu thư sinh cũng là một tay có nghệ, và đây có thể coi là nghệ thuật nữa!
Đô Giang vung tay vồ lấy tay trái của thư sinh, chàng này chỉ đánh thoắt đã né tránh, và đô Giang phải vội thu tay về. Đô Giang sấn tới để xốc đôi nách thư sinh, chàng này lùi và lại né tránh. Nhiều lần, rất nhiều lần đô Giang trổ tài mà không động nổi tới người thư sinh.
Ông Thứ chỉ trên rạp thấy thư sinh chỉ né tránh, chép miệng bảo cụ Tiên chỉ:
- Vật với vã gì mà chỉ tránh! Thế mà cũng cứ nhất định đòi đọ sức! Ông Tiên chỉ cười đáp:
- Cụ biết đâu! Đây là thế Trường lưu thủy kiệt đấy. Cụ thấy không, nước chảy ra thì nước kiệt. Anh đô Giang dùng quá sức rồi sẽ mệt, mà thầy Khóa này tôi trông nhanh nhẹn lắm! Chưa chắc mèo nào đã cắn mỉu nào! Ông Thứ chỉ ngồi im.
Đúng! Cụ Tiên chỉ nói đúng! Thư sinh đã dùng thế Trường lưu thủy kiệt, một phần để làm giảm sức mạnh của đô Giang, một phần nửa để khiêu khích đô Giang. Thấy mình vồ không được, chộp không xong, nắm không trúng, có thể đô Giang sẽ mất bình tĩnh để sơ hở miếng vật, thư sinh sẽ lợi dụng tấn công!
https://thuviensach.vn
Nhưng trăm bó đuốc cũng bắt được con ếch! Vồ mãi, chộp mãi, nắm mãi, sau đó đô Giang đã nắm được tay trái thư sinh!
Các tay đô ngồi xem mắt sáng lên! Đô Giang đã nắm được tay trái của thư sinh, đô Giang nắm chắc phần thắng, vì đấu vật kiêng nhất bị nắm cổ tay!
Bị nắm cổ tay thư sinh cố giằng ra! Đô Giang cố giữ chặt! Giằng một lần không thoát, thư sinh giằng lần thứ hai, và lần này tay chàng đã thoát khỏi tay đô Giang, nhưng sát cả da, phun cả máu! Sự kiện này mọi người đều trông thấy, từ trên rạp đến dưới sân vật! Ai nấy đều rùng mình khi thấy máu bàn tay thư sinh phun ra.
Một hồi trống đổ hồi nổi lên! Trống ngưng vật! Ông Tiên chỉ cho gọi cả hai người tới trước rạp, và bảo:
- Cuộc vật đến đây cũng đủ thấy tài của đôi bên rồi! Đôi bên không cần phải thi sức nữa! Dân làng lấy làm hân hoan mời thầy Khóa bữa rượu, và tặng giải nhất cho anh đô!
Đô Giang không nói gì, nhưng thư sinh gạt lời ông Tiên chỉ đi và nói: - Thưa các cụ, keo vật phải có được có thua! Nếu các cụ cho ngưng cuộc vật kẻ thư sinh này sẽ không dám nhận bữa rượu! Thư sinh này đang còn học những miếng hay của anh đô, lĩnh giáo chưa đủ, thật chưa dám vâng lời các cụ!
Ông Tiên chỉ cứ gạt đi, nhưng thư sinh cứ không chịu!
Còn đô Giang! Chính đô Giang cũng muốn ngưng cuộc vật lắm: một người đã bị anh nắm tay mà giằng nổi bàn tay ra không phải là một kẻ tầm thường! Hơn nữa, khi kẻ địch giằng bàn tay ra, anh cảm tưởng như đang giằng nhau một khúc gỗ lim, một tảng sắt với người sức lực nếu không hơn thì cũng không kém mình! Nếu thư sinh sát da tay phun máu thì đô Giang cũng tự thấy nhức thớ thịt bàn tay và tưng bức gân tay! Đô Giang muốn ngưng cuộc vật, nhưng vì tự ái, một lực sĩ kiệt hiệt vùng Tam Đái có đâu lại sợ ai mà xin ngưng cuộc đấu!
Trước sự khăng khăng của thư sinh muốn keo vật phải có được có thua, cuộc đấu lại tái diễn. Các tay đô vật thiên hạ thấy thư sinh đã bị nắm cổ tay còn giằng ra thoát khỏi tay đô Giang không khỏi khâm phục. Có người
https://thuviensach.vn
thầm nghĩ: Thư sinh không phải tay vừa, ắt cũng là một tay đô đã từng lăn lộn nhiều trong làng vật, và lại là một tay đô vật gan dạ, tuy bị sướt da tay đến phun máu, vẫn thản nhiên không lý gì đến sự đau đớn mà còn khăng khăng đòi đấu tiếp.
Đôi bên lại ra sân vật, lại lên đài, và thư sinh vẫn dùng thế Trường lưu thủy kiệt để tránh né những miếng đòn dữ dằn của đối phương. Rồi đến một lúc đôi bên ôm nhau quần thảo. Thư sinh nhỏ người mà sức lực không nhỏ, những miếng ghì, miếng bốc đã từng làm đô Giang thất thần và đổ mồ hôi hột mặc dầu trời lạnh của mùa xuân xứ Bắc!
Đôi bên còn đang ôm giữ lấy nhau, bỗng đô Giang dùng miếng Thượng công hạ kích, hai tay níu đẩy hai vai của thư sinh, và chân trái đưa ngáng ngược trở lại, những động tác này diễn ra cùng một lúc, người tài nghệ kém, đỡ trên thì hở dưới, tránh dưới thì mắc trên, nhưng với con mắt lanh lẹn đã nhìn rõ thâm ý của địch thủ, nên chàng thư sinh theo đà đẩy của đô Giang lùi xa trở lại khiến hai chân vượt khỏi tầm ngáng của đối phương, không những thế, vì dùng sức để đẩy thư sinh, đô Giang phải tiến lên nếu không muốn bị thư sinh dùng sức kéo tới! Vừa lúc đô Giang nhích người tiến lên thì ở phía bên trái hàng đô vật có tiếng kêu lên:
- Hỏng rồi!
Đó là tiếng đô Điểu xã Hán Nữ. Vốn là một tay đô vật lão luyện đã từng ba chìm bảy nổi trong giang hồ làng vật, đô Điểu thấy rõ đô Giang mắc lừa thư sinh: đô Giang tiến lên, chân vừa đưa ngáng chân địch thủ đứng chưa vững đã bị địch thủ phía trên ghì chặt lấy hai vai, còn phía dưới dùng miếng Thu phong tảo diệp đưa chân ngáng ngang chân đô Giang, bắt đô Giang phải ngã ngửa, và thư sinh sẽ đè lên trên bụng! Nhiều đô vật lành nghề khác cũng trông thấy chỗ hở của đô Giang, nhưng không thấy rõ chỗ dụng tâm của thư sinh như đô Điểu.
Bị miếng ngáng Thu phong tảo diệp, đô Giang tự thấy mình hở cơ đinh ninh sẽ bị ngã, vì dưới chân không còn điểm tựa! Nhưng không, thư sinh đã giữ vững người đô Giang ở nguyên thế đứng, rồi buông hai tay nhảy ra xa khỏi sàn vật, chắp tay vái đô Giang nói:
https://thuviensach.vn
- Kẻ bất tài xin bái phục đại huynh! Đại huynh quả danh bất hư truyền, và tiếng tăm của lò vật Vị Thanh, Tam Đái thật không phải hư danh! Thư sinh lại quay lên nói với các cụ và mọi người đang dự xem cuộc đấu:
- Chúng tôi xin chịu thua anh đô Giang, không dám tiếp tục cuộc vật, vì trước sau thế nào chúng tôi cũng bị anh đô hạ!
Thư sinh vừa dứt lời, một hồi trống dài nổi lên báo hiệu cái thắng của đô Giang, và anh tuần phiên cũng gõ tung! tung! một hồi trống khẩu cho đến thích tay.
Trời xuân lúc này hết mưa bụi! Gió xuân thổi bay mấy ngọn cờ ngũ hành, và những ngọn cờ đua nhau phất phới như cũng muốn mừng chiến thắng của đô Giang.
Nhưng mọi người đều ngạc nhiên! Khi hai hồi trống lớn và nhỏ vừa dứt thì đô Giang khoát tay nói lớn:
- Thưa các cụ, thưa các anh em đô vật tứ xứ và thưa chư quý khách thập phương, kẻ thua keo vật này không phải là thầy Khóa, mà chính là kẻ bất tài này! Thầy Khóa đã thắng!
Thì ra, sau một giây ngỡ ngàng, đô Giang biết thư sinh, lẽ ra phải vật mình ngã ngửa, nhưng vì danh dự của mình, đã giữ cho mình đứng vững rồi nhảy ra khỏi tầm vật, tự nhận là thua cuộc. Người ta đã vì danh dự của mình, thắng nhận là thua, mình lẽ đâu lại là con người không có danh dự, nhận cái thắng không phải ở mình. Con người có danh dự phải biết trọng danh dự, thua được một keo vật không đáng kể, nhưng để thư sinh, một lực sĩ hào kiệt sẽ có ý nghĩ xấu về mình, đâu có phải là biết tự trọng, biết coi nặng danh dự! Đô Giang đã trọng danh dự hơn keo vật, nên nhất định không để cho ai hiểu lầm, và không để cho thư sinh kia coi thường mình được.
Nghe đô Giang nói lớn, các tay đô vật nhiều người nhận đúng, còn chư khách thập phương xem vật đã không biết bao nhiêu người ngạc nhiên. Có tiếng ồn ào trong hàng ngũ những người này, người nói đô Giang thua, kẻ nói đô Giang được!
https://thuviensach.vn
Sự kiện xảy ra thật bất ngờ làm anh tuần phiên không biết có còn nên gõ chiếc trống khẩu nữa hay không, và hai cụ cầm chầu trên rạp cũng ngưng tiếng trống.
Cả thư sinh lẫn đô Giang đều tiến về phía rạp và phân trần nhất định mình thua! Ông Tiên chỉ xã Hội Hợp, đất có nghề vật, tất nhiên có nhiều hiểu biết về môn vật, khi nghe hai bên trình bày, gật gù và nói: - Thôi, bây giờ đã sang giờ Mùi, keo vật đến đây coi như kết thúc! Không ai được không ai thua, người giữ giải vẫn ở nguyên vị trí giữ giải, và như vậy anh đô Giang vẫn chiếm giải nhất, còn thầy Khóa..
Cụ vừa nói tới đấy, đô Giang đã ngắt lời:
- Thưa cụ, xin mạn phép cụ, con không dám chấp nhận, giải nhất về thầy Khóa!
Thư sinh cũng vội lên tiếng:
- Cụ Tiên chỉ phán rất đúng! Tiểu đệ không thua là may, cụ cho hòa là tiểu đệ phải chịu ơn cụ rồi! Vả lại tiểu đệ có xin vào phá giải đâu mà lấy giải, tiểu đệ chỉ xin được thừa tiếp đại ca một keo để học vài miếng lạ, và cũng để hiến các cụ và bà con một keo vật bất ngờ, thế thôi!
Chàng quay lên thưa với các cụ:
- Kẻ thư sinh này xin nhắc lại, chỉ xin làng bữa rượu!
Ông Tiên chỉ cười ha hả nói:
- Tất nhiên thầy Khóa phải có bữa rượu và chính lão sẽ tiếp rượu thầy Khóa hôm nay!
Thư sinh lại bảo đô Giang:
- Xin mời cả đại huynh cùng dự bữa rượu làng thết với đàn em! Chắc các cụ cũng rộng lượng cho đôi ta được tiếp nhau! Miếng Thượng công hạ kích của đại huynh tài ba lắm!
Đô Giang đáp:
- Nhưng vẫn thua miếng Thu phong tảo diệp của thầy Khóa! Rồi đô Giang nhất định cứ nhường giải cho thư sinh nhưng rút cuộc, anh vẫn phải nhận giải, vì thư sinh đã nói nhỏ với anh:
- Chúng ta đều là hào kiệt trong làng vật và cũng là trong thiên hạ nữa, đại ca nên bỏ qua cái khí tiết nhỏ không đáng kể để đàn em được vui lòng!
https://thuviensach.vn
III
CÂU CHUYỆN TRONG BỮA RUỢU
Trong khi thư sinh vào hậu rạp thay quần áo, thì ở sân vật, các tay đô vật vây quanh đô Giang để hỏi chuyện về cuộc vật. Đô Giang chỉ bảo mọi người;
- Anh em dự kiến đã thấy rõ! Riêng tôi, tôi thấy đây là một tay đô tài ba, và có sự luyện tập!
Các đô vật muốn hỏi rõ ai thắng keo vật, đô Giang chỉ trả lời: Tôi đã tuyên bố là tôi thua, nhưng các cụ cho đây là hòa, anh em cứ coi là keo vật hòa đi.
Giữa lúc có tiếng loa vang mời các tay đô được giải về đình lĩnh giải. Khách xem vật lúc đó cũng đang bu quanh đô Giang và các tay đô vật khác để hỏi thăm, nhưng cũng không ai rõ được hơn điều gì! Theo tiếng loa những tay đô được giải kéo nhau về đình dự lễ phát giải, và các anh em khác cũng đi theo để chứng kiến lễ này. Dân chúng xem hội tản mát dần.
Ta hãy bỏ qua buổi lễ phát giải, và đi theo thư sinh vào dự bữa rượu làng khoản đãi. Theo lời yêu cầu của thư sinh, đô Giang cũng được mời dự bữa rượu này, bữa rượu do chính cụ Tiên chỉ và cụ Thứ chỉ ngồi tiếp.
Mâm rượu thịnh soạn, vừa vì trọng khách vừa chứng tỏ dân xã sung túc. Thịt lợn, thịt gà đầy mâm, và rượu là thứ rượu cúc hảo hạng mua từ Hà Nội.
Ngồi vào mâm rượu, ông Tiên chỉ nói:
- Thật là hân hạnh cho lão hôm nay được hầu tiếp hai tay đô vật kình ngư! Thư sinh nói:
https://thuviensach.vn
- Lão bá quá khen, kẻ học trò nghèo này mới học võ vẽ được dăm ba miếng, may được anh đô rộng lượng nên nương tay!
Đô Giang nói:
- Thầy Khóa quá khiêm nhường! Chính kẻ bất tài đã nhờ sự nương tay của thầy Khóa mà bảo toàn được danh dự.
Rượu rót ra. Ông Tiên chỉ mời cụ Thứ chỉ và hai quý khách. Ông nói: - Ngày xưa, Tào Tháo uống rượu mơ xanh với Lưu Bị để luận anh hùng, hôm nay lão giàu hơn Tào Tháo có rượu thịt của làng để tiếp đãi anh hùng. Rồi cụ hỏi thư sinh:
- Chẳng hay thầy khóa ở đâu tá?
- Vãn sinh quê ở xã Mộ Trạch trấn Sơn Nam Thượng.
Nghe thư sinh nhắc đến xã Mộ Trạch, ông Tiên chỉ nói:
- Quê hương Trạng vật, chẳng trách thầy Khóa có tài vật. Lão chắc thầy Khóa văn chương hẳn cũng vào bậc xuất chúng. Chẳng hay quý danh là gì? - Vãn sinh họ Vũ tên Cảnh.
Ông Tiên chỉ lại nói:
- Con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch! Một họ đã từng có đến hai mươi vị tiến sĩ, thầy Khóa chắc rồi cũng danh chiếm bảng vàng!
Ông Tiên chỉ nói vậy, vì cụ học nhiều biết rộng, đã rõ Mộ Trạch là đất văn học, mà họ Vũ lại có mộ tổ đặt đúng vào ngôi đất mệnh danh Tiến sĩ sào, nghĩa là Ổ Tiến sĩ. Theo sách Lịch Đại danh hiền phổ thì trước kia dưới triều Lê họ Vũ làng Mộ Trạch đỗ đạt nhiều lắm, mỗi khoa thường hai người cùng đỗ, anh em chú cháu làm quan đầy triều. Khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ, một họ Vũ làng này đã có ba người đỗ Tiến sĩ liền nhau là anh em và chú cháu Vũ Cầu Hối, Vũ Bật Hài và Vũ Công Đạo.
Nghe ông Tiên chỉ nói đến ngày mình sẽ danh chiếm bảng vàng. Vũ Cảnh thưa:
- Thưa lão bá, vãn sinh sẽ không bao giờ danh chiếm bảng vàng, phần vì học dốt, phần vì cái khoa cử ngày nay không có nghĩa lý gì? - Thầy Khóa nói vậy là nghĩa thế nào? Vậy khoa Giáp Ngọ này, thầy Khóa không ứng thí?
https://thuviensach.vn
- Thưa lão bá, vâng! Lão bá Tiên chỉ nghĩ coi, triều đình bây giờ có phải là triều đình của dân mình đâu, triều đình là của giặc Pháp. Chúng nó đã bắt đức Vua, - ý Vũ Cảnh muốn nhắc tới vua Hàm Nghi-, đem đi đày ở xứ xa. Vua ngày nay do chúng dựng lên để bắt dân ta làm nô lệ. Những người trung dũng như Tôn Thất Thiệp đã bị chúng giết chết khi vây bắt đức Vua, Tôn Thất Đạm thì tự sát! Một hồi cụ Đình nguyên Phan Đình Phùng đã lui về Vụ Quang, huyện Hương Khê tới nay mới lại tiếp tục điều quân chống giặc. Nếu vãn sinh đi thi, chẳng hóa vãn sinh quên thù nước, cam tâm tìm cái vinh hoa ở tay giặc chăng? Làm quan với giặc còn chi là danh tiếng họ Vũ nữa!
Ông Thứ chỉ từ nãy vẫn ngồi yên, sau khi tớp một hớp rượu, chậm rãi nói:
- Thầy Khóa nghĩ thế cũng phải. Nghĩ tình cảnh đất nước lúc này thật đáng chán! Ở đất Bắc này tên kinh lược Hoàng Cao Khải theo Tây làm biết bao nhiêu việc tàn ác. Nó theo gương tên khâm sai lấy giết dân làm công trạng với Tây. Dân chúng bị bao nhiêu sự lầm than. Sĩ phu trong nước có phẫn nộ, nhưng Tây chúng nó có súng, mình chỉ gươm đao làm gì chống lại nổi chúng nó! Thầy Khóa đừng nghĩ rằng những người như lão đây không biết nghĩ đến non sông dân tộc! Lão cũng như cụ Tiên chỉ vẫn hằng cùng nhau bàn chuyện thời thế mà buồn! Cụ Tiên chỉ đây, trước cũng đã từng năm ba phen lao đao trường ốc, nhưng rồi vì chán nản với thời thế, nghĩ có thi đỗ cũng chỉ lại đến đi làm quan với Pháp, nên cụ đã ba bốn khoa thi gần đây không lều chõng tới trường thi nữa!
Ông Tiên chỉ nghe cụ Thứ chỉ nói gật gù rồi báo Vũ Cảnh: - Lão cũng lận đận về công danh, mấy khoa thi liền chỉ đậu được nhất, nhị trường rồi rớt ở kỳ tam trường! Trước kia lão buồn nhưng giờ đây lão lại tự an ủi, không đậu càng khỏi làm đầy tớ cho Pháp. Thầy Khóa đừng tưởng rằng làng lão mở hội thế này mà lão cũng như nhà cụ Thứ chỉ đây trong lòng vui sướng. Theo lệ làng thì mở hội, và lão nghĩ cũng cần mở hội để con em nó tập dượt về môn vật này. Phòng khi hữu dụng chúng còn có thể sử dụng nó để đối phó với thời thế.
Cụ hỏi Vũ Cảnh:
https://thuviensach.vn
- Lão nghe nói, sau khi nghỉ ngơi ít lâu ở Vụ Quang, cụ Phan chỉnh đốn lại lực lượng, đã mấy lần đụng độ với bọn lính tập của Pháp, và trước quân số sút kém cụ đã có lời hiệu triệu đồng bào đi kêu gọi người trẻ sung vào quân ngũ, người già thì khuyên nhủ con cái, không hiểu thầy có nghe nói tới bản hiệu triệu đó chăng?
Vũ Cảnh đáp:
-Dạ!
Việc cụ Phan Đình Phùng phò vua Hàm Nghi chống Pháp, mặc dù sự che đậy của Pháp cũng như của lũ tay sai, các bậc trí thức, các tay hào kiệt trong nước đều biết rõ. Nhiều người tìm hiểu cụ Phan, và thuật lại cho nhau nghe những câu chuyện về thân thế cụ, về lòng yêu nước và sự quyết tâm giúp Vua cứu nước của cụ. Tiểu sử và công việc cụ làm, các nhà có tâm với thời cuộc thường nhắc lại cho con cháu nghe và khuyến khích con cháu nêu gương cụ. Chính Vũ Cảnh cũng đã nghe lời khuyến dụ của ông chú, và hiện thời đang hoạt động để chiêu tập hào kiệt đáp lời kêu gọi trong hiệu triệu.
Ai đã lưu tâm tới sử nước nhà ắt cũng rõ ít nhiều về cụ Phan. Cụ người làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm Đinh Mùi (1847) và mất năm Ất Mùi (1895). Cụ đã từng là người đứng ra lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp, suốt mười năm liền từ 1886 đến 1895 ở Nghệ Tĩnh, giúp vua Hàm Nghi, và sau khi nhà vua bị bắt vì sự phản bội của tên Trương Quang Ngọc, cụ còn tiếp tục nhiệm vụ Cần Vương cho tới chết, nêu cao tinh thần bất khuất của một vị anh hùng dân tộc. Nhắc tới cụ người ta thường kể tới câu chuyện sau khi đậu Đình nguyên, đứng đầu hàng tiến sĩ, được bổ làm tri phủ Yên Khánh, Ninh Bình, cụ đã kình chống cố đạo Trần Lục tục gọi là cố Sáu, một cố đạo ỷ thế Tây đã làm nhiều điều tác tệ trong dân chúng. Vì phạm lỗi ỷ quyền cậy thế, cố đạo Lục đã bị cụ Phan truyền lệnh cho lính đè xuống đánh đòn. Việc làm của cụ đã được nhiều người ngợi khen, và dân chúng xưa nay vẫn bị cố đạo Trần Lục áp bức lấy làm khoái trá! Cụ là vị quan đầu tiên của Triều đình đã không kiêng nể sức mạnh của đạo, đang được Tây phù trợ để dễ bề thao túng trên giang sơn đất Việt.
https://thuviensach.vn
Vì có lỗi dám nọc cố đạo Trần Lục đánh đòn, cụ Phan bị triều đình trị tội! Ôi! Tội gì? Phải chăng tội không sợ Tây và không sợ lũ tay sai bán nước của chúng! Cụ Phan bị triệu về kinh, nhưng vua Tự Đức thương là người ngay thẳng, không trị tội nặng, chỉ quở phạt và cho sung chức Đô Sát Viện ngự sử vào năm Tự Đức thứ 31.
Cụ Phan quả là người ngay thẳng nào phải riêng ở việc trừng phạt Cố đạo Trần Lục mà còn ở nhiều việc khác nữa! Như việc sau đây chẳng hạn: Bấy giờ vua Tự Đức có lập một sân bắn ở cửa biển Thuận An, và truyền lệnh cho các quan văn võ đều phải ra đấy tập bắn. Nhà vua muốn khi lâm sự thì dù văn hay võ các quan đều phải biết bắn để có thể đối phó với tình thế. Lúc đó, nước ta đang gặp nhiều sự nhiễu nhương do giặc Pháp gây nên, và giặc Pháp lại hay dùng bọn lính tập để đánh phá làng mạc và uy hiếp vua quan Việt Nam.
Ra tập bắn, các quan thường bắn trật, nhưng viên quan chấp sự lại ghi là trúng nhiều. Trước sự gian dối này, cụ Phan đã dâng sớ tâu vua xin ngự ra tại nơi sân bắn để chứng kiến việc tập bắn. Vua Tự Đức đã nhận thấy đa số đều bắn trật, mười phần chỉ được hai ba phần. Nhà vua liền phê vào tờ sớ của cụ Phan câu: Thử sự cửu bất phát phùng Phùng nãi phát, nghĩa là việc này đã lâu không ai phát giác ra nay gặp Phùng mới phát giác được.
Người ta cũng nhắc tới việc cụ Phan tâu xin cách chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ là Nguyễn Chánh. Nguyên vua Tự Đức thấy cụ là người trung thực thanh liêm, liền hạ chỉ phong cụ làm Khâm mạng đại thần ra thanh tra việc quan lại tại Bắc Kỳ. Đi thanh tra về cụ đã dâng sớ tâu vua kể rõ việc Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Chánh, được vua ban tiết việt để làm đồ trưng bày cho đẹp mắt, thực sự Chánh không quan tâm tới dân tình, và việc cai trị thật đáng chê.
Nhà vua truyền lệnh cho cụ Phan thâu lấy tiết việt Kinh lược sứ của Chánh và cách chức ngay viên quan này.
Và việc mọi người nhắc lại lấy làm thống khoái nhất là việc cụ Phan ngang nhiên giữa triều đình chống lại Tôn Thất Thuyết, lúc Thuyết làm Phụ chánh đại thần với rất nhiều uy quyền trong tay. Nguyên sau khi vua Tự Đức băng hà, theo di chiếu, vua Dục Đức được lập lên nối ngôi, nhưng Tôn
https://thuviensach.vn
Thất Thuyết lại họp đình thần để truất phế vua Dục Đức rồi lập vua Hiệp Hòa vào ngày 30 tháng 7 năm 1883. Trước sự chuyên quyền của Thuyết, cụ Phan không dằn được sự tức giận đã lên tiếng nhục mạ Thuyết giữa triều đình là phản nghịch, dám trái di chiếu của Tiên vương. Việc này đã khiến cụ bị Thuyết hạ lệnh tống giam mười ngày, rồi lột hết chức tước đuổi về nguyên quán. Thuyết lại giam vua Dục Đức trong ngục và bỏ cho chết đói. Việc làm tàn ác của Thuyết đã khiến sau này gặp toàn điều không hay! Và Thuyết đã chết bỏ xác bên Trung Hoa!
Năm 1885, khi hay tin vua Hàm Nghi mưu chống Pháp không thành phải xuất bôn ra miền Quảng Bình, cụ Phan cùng các ông Phan Quang Cự, Phan Khắc Hòe, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều và Phan Trọng Mưu đến yết kiến. Vua Hàm Nghi phong cụ làm chức Tán tương quân vụ, lãnh đạo tất cả các đạo nghĩa quân kháng Pháp. Cụ Phan làm tờ hịch Cần Vương phát trong dân chúng để chiêu tập nghĩa quân cứu nước! Chỉ trong vòng có bảy, tám ngày mà có đến năm, sáu nghìn nghĩa sĩ tình nguyện thề theo cụ hy sinh vì đại cuộc nước nhà. Ngôi nhà của cụ đã được dùng làm nơi tuyên thệ của nghĩa quân. Sau đó, cụ chia quân lập đồn khắp tổng Việt Yên. Một xưởng công binh được lập tại ngay làng Đông Thái để đúc súng đạn và rèn gươm giáo.
Đáp lời chiêu tập của cụ, anh hùng chí sĩ các nơi về quy tụ rất đông. Ngoài những vị trong làng gồm tiến sĩ Phan Trọng Mưu, cử nhân Phan Cát Sự, Phan Quang Cự còn nhiều anh hùng văn võ các tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, Hoàng giáp Nguyễn Quý, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Văn Chất, cử nhân Nguyễn Hành, anh em của ông Ấm Lê Ninh và các phó bảng võ Nguyễn Hanh, Cao Đạt, hai anh em Cao Nữu. Thanh thế của binh đội cụ ngày càng mạnh thêm.
Sau nhiều trận đụng độ, quân Pháp và lũ lính tập tràn tới đồn lớn ở Đồng Thái đánh phá. Sợ thiệt hại nhiều tới dân chúng, sinh mạng và tài sản, vì bọn Pháp tới đâu là lũ lính tập giết người, đốt nhà, cướp của tới đó, cụ Phan phải lui quân tới đóng ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê. Với chiến thuật di chuyển bản doanh nay nơi này, mai nơi khác, cố tránh những trận giao tranh lớn để bảo toàn lực lượng, quân Pháp muốn đánh, nhưng không
https://thuviensach.vn
làm gì được. Thời đó dân chúng rất căm hờn những tín đồ làm tay sai cho Pháp, chúng chỉ là lũ giặc cướp giết người! Chúng bị coi là lũ bán nước cầu vinh, không biết quốc gia là gì, không biết dân tộc là gì! Giặc Pháp triệt để lợi dụng chúng để chinh phục Việt Nam qua các cố đạo.
Năm 1866, cụ Phan đóng quân tại làng Phụng Công, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, ủy ông anh là Phan Đình Thông giữ cánh quân ở huyện Thanh Chương, Nghệ An. Bất ngờ trong bọn thủ hạ của cụ Thông, có kẻ phản bội, làm nội ứng đem quân Pháp về bao vây, và cụ Thông đã bị chúng bắt giải về Nghệ An. Bấy giờ tổng đốc Nghệ An là Nguyễn Chánh trước kia đã bị cụ Phan cách chức ở Hà Nội, nhờ khéo luồn lọt nịnh bợ giặc Pháp, can tâm làm Việt gian bán dân hại nước nên được Pháp trọng dụng và được bổ vào chức vị này. Chánh truyền giam cụ Phan Đình Thông vào ngục, tìm cách trả mối thù cách chức năm xưa.
Tuần phủ xứ hồi đó, tại nơi đây là Lê Kinh Hạp, được lệnh truy nã cụ Phan. Kinh Hạp vốn là bạn thân cụ Phan, nên có viết thư khuyên cụ Phan về hàng để cứu lấy mạng sanh và mồ mả gia tiên.
Hiểu thấu lòng bạn có hảo ý với mình, nhưng nhà là nhà, nước là nước, nên cụ Phan đã cười lạt nói:
- Tôi chỉ có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, một ông anh rất to là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mả cả nước kia ai giữ? Về để cứu ông anh mình, thì anh em trong nước ai cứu.
Cụ không trả lời Lê Kinh Hạp chỉ nhắn người đem thư cảm tạ hảo ý của bạn.
Năm 1887, nhận thấy nếu cứ đóng quân mãi trong miền núi thì khó thành công được, cụ quyết định ra Bắc hiệu triệu đồng bào và các văn thân, để gây thêm uy thế cho phong trào Cần Vương. Trước khi ra đi, cụ hạ lệnh cho tướng sĩ tạm thời ngưng khai chiến với Pháp để đợi cụ về.
Trong khi cụ ra Bắc, nhiều tướng tự động giải tán. Trung kiên nhất là anh em ông Cao Thắng, Cao Nữu, Cao Đạt và ông Nguyễn Niên. Các ông thu góp quân lính về ẩn trong miền vùng núi làng Lệ Đông, quê nhà của Cao Thắng.
https://thuviensach.vn
Cao Thắng trí dũng kiêm toàn, lại có tài điều khiển đúc súng để kháng Pháp, ông là vị phụ tá rất đắc lực của cụ Phan. Chính nhờ tài trí của ông mà nghĩa quân có đầy đủ vũ khí như của Pháp. Trong một cuộc phục kích quân Pháp, quân của họ Cao đã tịch thu được mười bảy khẩu súng. Cao Thắng đã dựa theo khuôn mẫu chế tạo những khẩu súng không khác súng Pháp là bao nhiêu. Tài chế súng đạn và tài hành quân của Cao Thắng đã khiến kẻ thù phải khâm phục. Viên đại úy Gosschis đã từng dự trận đánh ở Nghệ An, sau này cũng đã công khai ngợi khen Cao Thắng, thuật lại sự khéo léo trong tổ chức rèn luyện quân sĩ theo Tây phương và việc đúc khí giới của Cao Thắng.
Cao Thắng sau khi chế tạo được 350 khẩu súng và chiêu mộ được thêm hơn một nghìn4quân đã viết thư ra Bắc báo cáo tình hình và mời cụ Phan về Trung để lo việc cử đại quân đánh Pháp.
Ra Bắc, cụ Phan đã gặp một nhà ái quốc có chí lớn là Hoàng Hoa Thám và đôi bên rất tâm đầu ý hợp trong mưu sự cứu đất nước.
Nhận được thư của Cao Thắng, cụ Phan vội vã dùng thuyền vượt biển về Trung, và được Cao Thắng đem quân nghênh đón tại bến làng Ngân Xá, gần chợ Chế thuộc huyện La Sơn, và rước cụ về tạm đóng quân ở mấy trái núi Trùng Khê, Tri Khê, huyện Hương Khê.
Được tin cụ trở về, các tướng sĩ lúc trước tự động giải tán quy tụ trở lại rất đông.
Sau đó là vụ bắt Trương Quang Ngọc đem ra chém đầu vì tội phản quốc. Lúc khám nhà tên Ngọc quân tướng cụ Phan đã lấy lại được cây bảo kiếm của vua Hàm Nghi.
Cùng với sự trừng phạt Trương Quang Ngọc, cụ Phan cũng kêu gọi anh hùng hào kiệt hãy về quy tụ để cùng chung lo việc nước. Hào kiệt khắp nơi kéo về rất đông. Và lúc này cụ đóng ở Ngàn Trươi, một nơi hiểm yếu tại núi Vụ Quang, với rừng núi bao la hiểm hóc.
Với thân thế và sự nghiệp của cụ Phan Đình Phùng sơ lược kể trên, Vũ Cảnh đã trình bày cùng hai cụ Tiên, Thứ chỉ rõ nhiều chi tiết khác. Hai cụ rất lấy làm thích, và đô Giang ngồi nghe cũng thấy tâm hồn bị kích động.
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh lại cho ba người biết, trong dịp cụ Phan ra Bắc vừa rồi, Cảnh đã được hân hạnh gặp cụ Phan và đã được cụ ủy nhiệm cho việc liên lạc với anh hùng hào kiệt xứ Bắc để thúc đẩy những cuộc nổi dậy chống Pháp và lũ vua quan tay sai. Vũ Cảnh nhắc lại những lời cụ Phan đã kêu gọi đồng bào, và nói rõ những hoạt động của mình từ Sơn Nam Thượng, qua Kinh Bắc lên vùng Tam Đái. Cảnh đã gặp gỡ nhiều bạn trẻ đồng chí hướng và một số những người này đã kéo nhau đi Nhã Nam để gia nhập đội quân của Hoàng Hoa Thám.
Vũ Cảnh nói: - Đất Tam Đái ta đây, xưa nay lắm anh hùng hào kiệt, và tại nhiều nơi lại có nghề vật, nghề võ, vãn sinh thấy mình có nhiệm vụ tìm gặp các vị anh hùng hào kiệt này. Không phải là các vị ấy không có tâm huyết nhưng phải cần một sự liên lạc để có thể tham gia các đạo nghĩa quân trong Trung, ngoài Bắc.
Qua đây, gặp hội vật làng ta, thật là một dịp may vì vãn sinh có cơ hội để gặp các tay đô vật kiệt hiệt, và những tay này gia nhập quân ngũ sẽ giúp đỡ các vị lãnh đạo trong việc chỉ huy quân sĩ.
Nghe Vũ Cảnh nói, ông Thứ chỉ gật gù hỏi:
- Lên đây thầy Khóa đã gặp nhiều anh em chưa? Và trong lúc hoạt động thầy ắt trải qua nhiều gay go có thể nguy hiểm đến tính mạng? - Thưa lão bá, vãn sinh vừa từ Kinh Bắc sang đây, chưa có dịp tiếp xúc với các nhân vật Tam Đái. Hai lão bá và đại ca đây là những người đầu tiên vãn sinh được gặp. Thật là may mắn và hân hạnh cho vãn sinh được chính hai lão bá thương cho ngồi hầu rượu mới được trình bày mọi hoài bão cũng như công việc đang theo đuổi. Đúng như lời lão bá nói, vãn sinh gặp nhiều gian lao, và nhiều phen đi sát bên cái chết, nhưng may nhờ sự phù trợ của anh linh tiên tổ giống nòi, nên đều thoát hiểm. Nhưng dù có phải chết đi chăng nữa, vãn sinh cũng chẳng dám nề hà. Ai cũng ham sống, sống là quý, nhưng lại có điều quý hơn sự sống, lựa chọn tất nhiên phải bỏ sự sống, cũng như cái chết ai cũng sợ, nhưng lại có điều đáng sợ hơn cái chết, lựa chọn tất nhiên phải lựa chọn cái chết. Thầy Mạnh Tử xưa đã nói: Sinh diệc ngã sở dục, sở dục hữu thậm ư sinh giả, cố bất vi cẩu đắc dã. Tử diệc ngã
https://thuviensach.vn
sở ố, sở ố hữu thậm ư tử giả, cố hoạn hữu bất tị dã 5. Là con cháu của ông cha đã từng lấy đạo thánh hiền làm căn bản, vãn sinh đâu dám không cố học lấy gương ông cha, tôn trọng đạo đức nhân nghĩa của Thánh Hiền. Trong thời buổi này, đáng quý hơn sinh mệnh là điều nhân nghĩa và đánh ghét hơn sự chết là điều bất nhân bạc nghĩa. Đất nước đang trong cảnh bị giặc Tây giày xéo, nhân nghĩa lúc này là phải nghe tiếng gọi của non sông đứng lên chống giặc, bằng cách này hoặc bằng cách khác, còn bất nhân bạc nghĩa là tự mình làm tay sai cho Tây bán rẻ nước nhà như lũ lính tập tín đồ đạo La Mã, như là lũ quan lại chỉ a dua nịnh bợ bọn Tây, chúng bảo sao nghe vậy, tự tay giết dân mình thì thằng Tây nó vừa hưởng lợi nó vừa cười cho!
Ông Tiên chỉ tợp hớp rượu, gật gù nói:
- Những lời của thầy Khóa thật là chí lý. Lão tuy già, nhưng nếu giúp ích được cho đất nước và quân Cần Vương các nơi, lão thật chẳng nề hà. Ông quay lại hỏi đô Giang:
- Thế nào anh đô, nghĩ sao về câu chuyện từ nãy tối giờ?
Đô Giang từ lúc ngồi vào mâm rượu vẫn chăm chú nghe ba người nói chuyện, chăm chú đến độ anh quên cả uống rượu, chén rượu đưa lên môi lại đặt xuống, nghe ông Tiên chỉ hỏi liền đáp:
- Thưa cụ, con quê mùa ít học, từ nhỏ cha con luyện cho nghề vật, con chỉ theo đuổi nghề vật. Thỉnh thoảng con cũng được nghe cha con nhắc tới việc Tây nó vào cướp nước, ép buộc vua quan ta phải theo nó, và nhiều nơi có các nghĩa sĩ nổi lên chống Tây. Cha con nói vậy, nhưng người không dạy con phải làm thế nào đối với tình trạng này, và chính con, chưa bao giờ con nghĩ tới đi tìm các đám nghĩa quân để xin đi theo giết giặc. Con cứ chăm chú luyện môn vật, và mỗi lần đi dự giải, được giải con đều kiêu hãnh lấy làm vinh dự, nhưng thưa hai cụ và thầy Khóa, ngồi nghe câu chuyện của hai cụ và thầy Khóa, con đã tự thấy thẹn vì đã từng chiếm được nhiều giải vật. Những giải vật này trước đây chính là những thuốc ngủ mê, để là đô vật chúng con chỉ nghĩ đến vật mà không nghĩ gì đến nước nhà, không nghĩ gì đến đồng loại đang chịu sự giày xéo dưới gót giày của Tây và của lũ đầy
https://thuviensach.vn
tớ chúng! Giờ đây con đã tỉnh ngộ, và con nguyện nghe lời chỉ giáo của hai cụ và của thầy Khóa.
Ông Tiên chỉ mời mọi người uống rượu, và chính tay cụ gắp tiếp đồ nhắm cho đô Giang cũng như Vũ Cảnh. Nghe đô Giang nói cụ vuốt râu, cười ha hả:
- Chí khí luôn ở trong huyết quản người có chí, chí khí này không được kích thích, không được nuôi dưỡng thì không bộc lộ ra và sẽ có thể bị tiêu diệt vì những điều tầm thường của cuộc sống. Con nhà võ có chí khí của võ sinh, con nhà văn có chí khí của văn nhân. Luyện tập nghề đô vật là nghề võ, anh đô quả không thẹn với danh tiếng đô vật tài nghệ! Chỉ mấy câu chuyện đủ làm lòng yêu nước thương nòi của anh nổi dậy, anh thấy từ trước mình quá thờ ơ với công cuộc của những người cứu nước. Lão tin rằng giờ đây máu ái quốc đang sôi sục trong huyết quản anh đô, và có lẽ đầu óc anh đô đã có một tính toán!
Anh đô sốt sắng nói: - Cụ dạy rất đúng. Hiện con đang nghĩ nếu con theo được bước của thầy Khóa ở đây chắc là con sung sướng và tự lấy làm hãnh diện lắm.!
Vũ Cảnh thong thả đặt chén rượu xuống mâm, gắp miếng thịt bỏ vào bát, chậm rãi nói:
- Chính tôi đang tìm gặp những người như đại ca đó, có tâm huyết, có tài năng lại cần đảm lược để vượt mọi khó khăn gian khổ, để biết chết khi cần chết, biết tự bảo tồn mình khi không cần chết.
Chàng quay lại nói với hai ông Tiên, Thứ chỉ:
- Thưa hai lão bá, vãn sinh đã có hân hạnh được họp mặt với cụ Phan cùng nhiều người ở làng Nam Ngạn vùng Kinh Bắc. Cụ Phan đã gặp ông Đề Thám và hai người đã bàn tính về công việc Cần Vương. Cụ Phan sẽ tiếp tục chiến đấu tại miền Trung, nhưng để giặc Pháp phải gặp nhiều khó khăn ông Đề sẽ hoạt động tại miền Bắc. Cả hai vị đều sẽ cho người liên lạc với các nhóm Cần Vương khác gây thanh thế và hậu thuẫn lẫn nhau. Sau buổi họp hôm đó, một số người lên ngay phía Nam để gia nhập vào đội nghĩa quân của ông Đề, một số người khác, trong đó có vãn sinh sẽ đi tìm những anh hùng hào kiệt khắp nơi, cổ võ để các vị này đứng lên triệu tập cho được
https://thuviensach.vn
nhiều nghĩa quân gửi tới giúp ông Đề, và luôn luôn liên lạc với các bộ chỉ huy của ông Đề và cụ Phan. Riêng vãn sinh được cụ Phan ủy cho nhiệm vụ tìm gặp gỡ những người có tâm huyết tại hai vùng Kinh Bắc và Tam Đái. Khi nào công việc có kết quả tốt đẹp, cụ dặn vãn sinh sẽ vào Ngàn Trươi gặp cụ.
Đô Giang hỏi:
- Vậy những người như chúng tôi sẽ cùng vào Ngàn Trươi? Vũ Cảnh đáp:
- Nếu đại ca muốn vào Ngàn Trươi cũng được, nhưng tiểu đệ định bàn với đại ca một chuyện quan trọng và muốn nhờ đại ca lĩnh gấp một nhiệm vụ khó khăn!
- Nếu thầy Khóa muốn giao cho nhiệm vụ gì, kẻ quê mùa này nguyện không từ nan và sẽ đem hết sức lo cho nhiệm vụ đó được thành công. Ông Tiên chỉ lại rót rượu và gắp đồ nhắm cho hai người. Cụ nói: - Lão đã già, nếu không lão quyết chia nhiệm vụ với thầy Khóa và anh đô! - Thưa hai cụ, nếu muốn, hai cụ còn có những công việc khó khăn hơn công việc của lũ vãn sinh nhiều!
Ông Thứ chỉ ngắt lời hỏi:
- Ít lâu nay, lão cũng nghe thấy nhiều người nhắc tới ông Đề Thám, rất tiếc lão không hiểu rõ ông Đề là người thế nào và hoạt động Cần Vương ra sao! Ông Tiên chỉ đỡ lời Vũ Cảnh:
- Ông Đề chí khí lắm. Tôi được nghe ông chiêu dụ hào kiệt từ mấy năm nay và người người theo về ông cũng khá đông, tuy tới nay ông chưa có thanh thế lắm. Một người đã được cụ Phan tìm gặp, đâu phải là hạng tầm thường...
Vũ Cảnh nói:
- Lão bá dạy rất đúng. Vãn sinh xin phép hai lão bá và đại ca nhắc sơ qua về sự nghiệp và thân thế ông Đề, trước là để các cụ hiểu, sau là mong các lão bá chú ý tới, mong có sự giúp đỡ gì được cho Cần Vương chăng?
Nói rồi, chàng đem tiểu sử ông Đề nhắc lại để ba người cùng nghe. Tên thật ông Đề là Trương Văn Nghĩa tục gọi là Hoàng Hoa Thám. Thân sinh ông là Trương Văn Thận. Thuở nhỏ, ông sống cùng ông chú ở làng
https://thuviensach.vn
Trũng, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Thân mẫu ông không rõ là gì, người ta chỉ biết cụ quê ở làng Ngọc Cục, kế bên làng Trũng. Ông Đề cưới vợ vào năm 18 tuổi, và đã có một con trai, tên là Cả Trọng. Ông tình nguyện nhập vào đoàn nghĩa quân cách mạng do lãnh binh Trần Xuân Soạn ở Bắc Ninh điều khiển từ năm mới 20 tuổi. Trong đoàn quân này, đã nhiều lần ông chứng tỏ mình là một chiến sĩ ưu tú trong kháng chiến chống Pháp, chẳng kém gì các nhà cách mạng kháng Pháp có tiếng tăm như cụ Tán Thuật, tức là Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật và Đề Kiều. Năm ông 25 tuổi, ông lại từng theo cụ Bá Phức, ông nhận làm nghĩa phụ, đi vận động nghĩa quân tại Vân Nam giúp cho Cai Kinh, nhờ có tài về quân sự lại có đảm lược hơn người nên ông được phong chức Đốc Binh, và do chức vụ này, ông được mọi người gọi là Đề Thám. Ngày 6 tháng 7 năm 1888, Cai Kinh bị giết chết ở Lạng Sơn thì ông đứng ra tự họp một số nghĩa quân để theo đuổi công việc kháng Pháp và đã có những cuộc hành quân tại các vùng Quế Dương, Võ Giàng, Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Dũng. Người Pháp rất lo ngại trước sự tấn công ác liệt của nghĩa quân do ông Đề lãnh đạo, đã cho họa hình ông dán khắp nơi, treo giải thưởng trọng hậu cho ai giết được ông. Tuy xuất thân từ một gia đình nông dân, nhưng trước nạn nước, ông có một hoài bão to tát với chí lớn hơn người. Ông cương quyết chiến đấu đến cùng để giành lại tự do cho dân tộc. Thế lực của ông từ năm 1889, ngày càng bành trướng. Năm đó, lực lượng kháng Pháp của ông có hơn 500 khẩu súng và một số nghĩa quân khá đông đảo, ai nấy đều hết lòng hy sinh cho đại nghĩa, ông tập trung tất cả nghĩa quân tại làng Đình Thảo, thuộc phủ Nhã Nam, tỉnh Bắc Giang để làm lễ tế cờ, khao quân và cùng nhau uống máu ăn thề sinh tử có nhau.
Mưu việc trường kỳ kháng Pháp, ông chia quân ra nhiều nơi, đặt đồn ải tại Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, vùng rừng núi Vĩnh Yên, Phúc Yên và Bắc Giang. Riêng vùng Yên Thế được ông chọn làm nơi đóng quân của Bộ
chỉ huy, nơi đây dưới con mắt ông, là hiểm địa, có thể lo kế lâu dài trong việc tổ chức chống Pháp được. Ông lại tìm cách liên lạc với các giới, quy nạp những người có lòng yêu nước chân thành, tạo nên một hậu thuẫn vững mạnh cho công cuộc.
https://thuviensach.vn
Anh hùng hào kiệt trong thiên hạ Bắc Kỳ kéo về với ông rất đông, đáng kể hơn hết là Lương Tam Kỳ, Đèo Văn Trí, Lục A Sung, Bộ Giáp, Cai Mão. Bọn Lương Tam Kỳ và Lục A Sung vốn là người Tàu, và là dư đảng quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Sau những cuộc mưu toan phá rối ở vùng Hoa Nam không thành lại bị Thanh triều truy nã gắt gao, họ vượt biên giới sang Bắc Kỳ, rồi chiếm cứ vùng Chợ Chu tỉnh Bắc Cạn, nhưng tự thấy không làm nên được gì và nếu bị quân Pháp tiến đánh sẽ nguy ngập nên kéo nhau về với ông Đề. Đèo Văn Trí là người Thái đứng đầu một nhóm thuộc dân tộc thiểu số ở miền Bắc. Lúc đó dân thiểu số cứ mỗi nhóm chiếm một vùng riêng biệt, đã từng được triều đình Huế sắc phong, nhưng dưới sự xâm chiếm Việt Nam giặc Pháp tìm cách ly gián, tìm cách tách họ khỏi quyền hành của chính phủ Nam triều và tìm cách làm cho họ chia rẽ với nhau để dễ bề cai trị. Đèo Văn Trí thấy rõ dã tâm ấy của bọn thực dân, nên cương quyết về hợp tác với ông Đề Thám. Các người khác, Bộ Giáp, Cai Mão đều là những người địa phương rất có lòng với sự tồn vong của dân tộc, nhất là lại có gan dạ anh hùng.
Trong đám tướng lĩnh của ông Đề có một phụ nữ rất hơn người, đó là bà vợ ba của ông tên Đặng Thị Nhu vẫn được quân sĩ và dân chúng gọi là Cô Ba. Bà là em nuôi ông Thân Văn Luận, một nhân vật có tiếng tăm ở Bắc Kỳ, thường được gọi là ông Thống Luận, một trong những cộng sự tay chân đắc lực của ông Đề. Lại còn những cộng sự viên thân cận đắc lực khác như Tổng Trực, Bá Phức nghĩa phụ của ông Đề. Hai con trai ông Đề là Cả Trọng và Cả Dinh đều là những con người gan dạ tài ba, có chiến lược, chiến thuật, thường nhiều phen vào sinh ra tử chia vui sẻ buồn cùng thủ lãnh, gặp gian nguy không sờn lòng. Chính nhờ những cộng sự viên thân cận và hai con trai mà cho tới năm 1890, ông Đề đã tạo được nhiều thành tích vẻ vang và đã gây thanh thế trong dân chúng cũng như đã làm cho giặc Pháp phải e dè.
Với thanh thế rộng lớn, với uy tín vững, ông Đề một mặt tích cực chống Pháp, một mặt chiêu mộ thêm một số thanh niên có lòng ái quốc nhiệt thành để sung vào hàng ngũ nghĩa quân cách mạng. Các cộng sự viên của ông Đề không những chịu sự điều khiển trực tiếp của ông, mà còn lựa
https://thuviensach.vn
những người thân tín tài năng của mình để đưa vào hàng ngũ cho ông Đề sử dụng, trong số đó có cả Lương Tam Kỳ6
Trước sự hùng hậu của lực lượng ông Đề, bọn Pháp ngày đêm mất ăn mất ngủ, chúng liền cho tổng hợp các lực lượng thiện chiến tiến vào chiến khu của ông Đề, nhưng ông Đề đã tiên liệu, cho quân sĩ tuần tự rút lui để bảo toàn lực lượng vì ông nhận thấy quân mình chưa luyện tập thành thục, chưa đầy đủ khí giới, nếu đường đường chống lại với quân Pháp, có huấn luyện kỹ càng lại có đầy đủ súng ống chỉ là một sự hy sinh vô ích, và sẽ hoàn toàn thất bại. Do đó khi quân Pháp tiến vào bản doanh của ông ở Yên Thế, nghĩa quân đã được phân tán vào rừng sâu, quân Pháp không thể tấn công được. Tuy vậy quân Pháp cũng đã phải chịu thiệt hại vì không quen phong thổ lại không hiểu địa hình địa vật. Một số lính tập đã bỏ mạng ở vùng sình lầy với những cuộc đánh lẻ tẻ của từng nhóm nhỏ của quân ông Đề.
Pháp rút quân, ông Đề lại trở lại Yên Thế và tiếp tục chiêu quân, rèn luyện quân sĩ và mua đạn chờ ngày hành động đại sự.
Năm 1892, quân đội Pháp lại đem bọn lính tập cùng với quân Pháp lên tấn công. Chúng cũng vào được bản doanh của ông Đề. Chúng rút kinh nghiệm của trận trước đã bố trí rất chặt chẽ. Ông Đề phải hết sức vất vả mới rút lui được hết nghĩa quân vào rừng qua nhiều cuộc giao tranh. Cả hai bên đều tổn thất nặng. Lính của ông Đề thẳng tay với quân Pháp, nhưng đối với lính tập thường có sự gượng nhẹ và ông Đề cũng sai quân bắc loa chiêu hàng bọn này. Nhiều lính khố đỏ và khố xanh đă bỏ hàng ngũ chạy sang phía nghĩa quân, trong số này không có một tín đồ La Mã giáo nào! Bọn này hết sức trung thành với quân Pháp và thường liều chết vì Pháp, vì họ đã nghe lời các vị cố đạo khuyên dạy là phải trung thành với Pháp mới là tín đồ ngoan đạo! Có thể bỏ nước, bỏ cha mẹ được nhưng không bỏ đạo.
Sau lần tấn công này của Pháp, qua những cuộc giáp chiến, ông Đề đã rút thêm được một số kinh nghiệm, ông tích cực hoạt động để chiêu mộ thêm binh sĩ, lại lo rèn luyện quân sĩ theo một chiến thuật mới: đánh du kích. Ông quyết tâm tổ chức một đạo quân thuần thục, ông sai đào thêm
https://thuviensach.vn
hầm hố, lập những phòng tuyến bao vây quanh vùng đồi núi Yên Thế. Và ông cũng cho người đi khắp nơi chiêu dụ hào kiệt và len lỏi tìm mua súng ống đạn dược tích trữ cho một cuộc chiến đấu bền bỉ. Ông mua rất nhiều súng lậu ở bên Tàu.
Bọn giặc Pháp nhận thấy không thể nào dùng võ lực mà tiêu diệt ngay được nghĩa quân của ông Đề, chúng dùng đến chính trị. Chúng đề nghị với triều đình Huế cử Tổng đốc Lê Hoan, làm khâm sai. Lê Hoan là một tên đại Việt gian giết hại đồng bào không biết gớm tay, càng giết được nhiều dân càng có công với giặc Pháp. Đã có lần Lê Hoan cho vây một nơi họp chợ, bắt hết những người đi chợ chém đầu rồi kể công với Pháp là đã giết được một đám giặc. Giặc Pháp rất ngợi khen thành tích dã man này của họ Lê.
Lê Hoan dùng đủ mọi cách để chia rẽ hàng ngũ nghĩa quân. Y khủng bố lương dân gây oán hận cho ông Đề, y thuê người ám sát các nghĩa quân. Thật là một tên táng tận lương tâm, mặt người dạ thú. Năm 1893 tên khốn nạn này mua chuộc được nghĩa phụ của ông Đề là Bá Phức rồi tổ chức mưu sát ông Đề nhưng thất bại, và ông Đề đã tương kế tựu kế mai phục nghĩa quân đánh úp một trận khiến cho quân Pháp và bọn lính tập vừa chết vừa bị thương rất nhiều. Sau trận này có nhiều cuộc tấn công khác theo lời khuyên của cụ Phan Đình Phùng, đánh giặc phải có công có thủ.
Lúc Vũ Cảnh lên vùng Tam Đái chính là lúc quân của ông Đề đang bố trí những cuộc tấn công giặc Pháp, và đây cũng là thời gian, nhiều người được phái đi các nơi để chiêu dụ hào kiệt7.
Nghe Vũ Cảnh thuật lại những thành tích của ông Đề và sự nhiệt liệt tham gia nghĩa quân của dân chúng Việt Nam, lòng đô Giang như bị kích thích. Anh nói:
- Thưa hai lão bá và thầy Khóa, kẻ quê mùa này tới nay mới biết mình là người hèn, không chia sẻ cùng hào kiệt trong thiên hạ công việc mỗi người đã gọi là có tâm huyết đều phải làm. Chúng ta phải tiêu diệt lo giặc Pháp và lũ tay sai của chúng. Xin thầy Khóa trao nhiệm vụ, kẻ quê mùa này quyết tâm làm cho bằng được!
Ông Tiên chỉ vuốt râu nói:
https://thuviensach.vn
- Anh đô cứ yên chí, lão tin rằng anh đô sẽ có một nhiệm vụ nặng nề với đất nước.
Ông Thứ chỉ rót rượu cho mọi người, ông Tiên chỉ tiếp thức ăn cho hai người.
Câu chuyện tiếp tục, và bữa tiệc kéo dài từ đầu giờ Mùi cho đến cuối giờ Thân. Hai già, hai trẻ thật là tâm đầu ý hợp. Máu trong huyết quản như cùng lưu thông theo một nhịp tim đập, và lòng già cũng như lòng trẻ đều giống nhau ở chỗ muốn mau cứu dân tộc khỏi gót giày của thực dân Pháp và ai cũng căm gan tím ruột đối với lũ tay sai của chúng, nhất là đối với sự chết chóc do tên bán nước Lê Hoan gây nên.
Vũ Cảnh đã cho đô Giang biết là chàng muốn nhờ đô Giang triệu tập những tay đô vật trong vùng kích thích họ để họ tham gia vào công cuộc chống Pháp, và chàng cũng yêu cầu đô Giang mượn cớ dạy vật để huấn luyện cho những thanh niên muốn gia nhập quân đội của ông Đề Thám. Đô Giang sẽ là vai cốt cán trong việc liên lạc với thanh niên ở vùng Tam Đái, lo huấn luyện họ cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất.
Đô Giang đã hăng hái nhận những nhiệm vụ kể trên và chàng đã hứa dùng ngay nhà mình làm nơi huấn luyện cho đám thanh niên sẽ gia nhập quân đội của ông Đề. Vũ Cảnh cho biết chàng sẽ gửi tới đô Giang vài người để lo việc huấn luyện về quân sự. Sẽ có một số ít súng ống để cho họ tập luyện. Và chàng cũng đề nghị thỉnh thoảng có những cuộc phục kích tại những con đường rừng núi đi từ vùng Tam Đái sang Thái Nguyên qua ngã ba Tam Đảo tới xã Quan Chu tỉnh Thái để tấn công những bọn tuần tiễu của Pháp thường là bọn lính tập để cướp súng.
Ông Tiên chỉ hỏi Vũ Cảnh:
- Thầy Khóa lên đây, đã có nơi nào tạm trú chưa?
Vũ Cảnh cho biết là chàng có một đồng chí tại VĩnhTường, chàng sẽ trú ngụ tại nhà người này. Cụ Tiên chỉ đề nghị với chàng tới ở nhà cụ, nơi rất rộng rãi và rất tiện cho sự liên lạc của chàng, cụ nói:
- Nhà lão rộng rãi, sẽ có ba gian nhà này để thầy tạm ở và tiếp khách, lại có vườn rộng để thầy Khóa có thể dạo chơi trong những lúc cần tĩnh trí. Nhà lão có đủ sách để thầy Khóa đọc, và có mọi loại binh khí để thầy Khóa lúc
https://thuviensach.vn
nào rảnh ôn văn hoặc luyện võ đều được. Và lão có thể nói thêm, lão sẽ lấy làm sung sướng để đón tiếp những đồng chí của thầy Khóa khi họ tìm gặp thầy Khóa.
Ông Thứ chỉ tiếp lời:
- Cụ Tiên nói đúng! Lão nghĩ nơi nhà cụ Tiên thật tiện cho những hoạt động của thầy Khóa. Làng lão là đất chuộng võ và nghề vật, thầy Khóa ở đây có thể vận động để một số thanh niên trong làng đi theo tiếng gọi của tổ quốc, và nếu tiện, có thể tạm thời làm nơi luyện tập những thanh niên. Vả lại lão nghĩ bên Vị Thanh anh đô huấn luyện một số người, ở đây ta huấn luyện thêm một số nữa càng tốt. Vả lại chia đôi ra như vậy, để tránh sự nghi ngờ của những con mắt tay sai. Thầy Khóa nên nhớ rằng, tại ngay tỉnh Vĩnh Yên này Pháp cũng nhiều tay sai lắm. Chúng có cả một họ đạo luôn luôn nghe lời cố đạo làm việc phản quốc. Thầy Khóa đã để ý tới ngôi nhà thờ chúng xây ở giữa Vĩnh Yên chăng?
Vũ Cảnh đáp:
- Thưa lão bá, vãn sinh chưa biết, nhưng vãn sinh tin rằng trong số những người đi đạo cũng có những người yêu nước, chứ không phải ai đi đạo cũng là kẻ phản quốc đâu.
Ông Thứ chỉ nói:
- Đành rằng vậy, nhưng ta cứ đề phòng vẫn hơn!
Bữa tiệc rượu đã kết thúc trong một bầu không khí đầy hứng khởi với tinh thần phấn khởi của bốn người dự tiệc.
Ngay chiều hôm đó, Vũ Cảnh tới tạm trú tại nhà ông Tiên chỉ, và ngay ngày hôm sau đô Giang đã đi vận động các tay đô vật vùng Tam Đái để họ tham gia vào phong trào chiến đấu chống giặc Pháp và lũ tay sai. Đô Giang cũng mời một số các tay đô vật cộng tác với mình để mở một lớp dạy vật và đồng thời cũng huấn luyện võ nghệ và quân sự cho các thanh niên tình nguyện sung vào những đoàn nghĩa quân.
https://thuviensach.vn
IV
THỬ VĂN
Ông Tiên chỉ sau bữa tiệc ở đình làng, ngay chiều hôm đó đã mời cả Vũ Cảnh lẫn đô Giang về nhà mình. Ông lại sai người nhà làm cơm để thết đãi quý khách, tuy ba người vừa mới dứt bữa tiệc làng chưa được mấy giờ.
Đêm hôm đó, đô Giang cũng ngủ lại nhà ông Tiên chỉ để cùng ông và Vũ Cảnh đàm luận hầu như gần suốt sáng về thời cuộc về những công việc mỗi người chia nhau sẽ làm để đáp ứng lời hiệu triệu Cần Vương của cụ Phan Đình nguyên, và cũng tạo một sức mạnh cho đội quân của ông Đề Thám ở vùng Yên Thế.
Một già, hai trẻ, câu chuyện sao mà tâm đầu ý hợp, và họ chỉ ngừng câu chuyện để thỉnh thoảng hút điếu thuốc lào hoặc chiêu ngụm nước. Ồng Tiên chỉ, một bậc túc nho, từ trước vẫn có tâm với đất nước, nhưng chung quanh chẳng có ai đồng chí, nên lòng yêu nước của ông chỉ âm thầm, không phát hiện, may được Vũ Cảnh nói rõ việc làm của mình, việc làm này lại được đô Giang hưởng ứng, ông tự thấy lòng phấn khởi và cũng tự có bổn phận phải tham gia vào công việc của hai bạn trẻ. Ông nhận sẽ đài thọ mọi chi phí cho nghĩa quân do đô Giang sẽ đứng lên triệu tập, và ông sẽ bỏ tiền để Vũ Cảnh và đô Giang tìm mua khí giới cho nghĩa quân. Chính nhà ông sẽ là nơi liên lạc của Vũ Cảnh với các thanh niên hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Phan. Ông vuốt râu bảo hai bạn trẻ:
- Lão già rồi, rất tiếc không đảm nhiệm được những công việc của anh em thanh niên, nhưng tài sản của lão đấy lão không tiếc, miễn làm sao đóng góp được ít nhiều vào việc lớn! Cần, lão sẽ bán trâu, bán ruộng và có thể bán cả nhà để lấy tiền cho anh em tiêu dùng vào việc phải làm.
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh và đô Giang rất thán phục thái độ của ông, và cả hai đều nguyện đem thân mình hy sinh. Một người trong công việc vận động thanh niên trong hai vùng Tam Đái và Kinh Bắc, còn một người liên lạc với các tay đô vật trong vùng để thực hiện lớp huấn luyện võ nghệ và quân sự cho những ai sẽ gia nhập đoàn nghĩa quân.
Sáng hôm sau, đô Giang về ngay Vị Thanh xúc tiến việc thành lập lớp huấn luyện, còn Vũ Cảnh thì lưu lại tạm trú nơi nhà ông Tiên chỉ. Ông Tiên chỉ dành cho họ Vũ một gian phòng riêng ở ngay đầu nhà ngang, trông ra một vườn hoa rất trang nhã. Ở đây, Vũ Cảnh có thể ở riêng biệt với sự tĩnh mịch và sự kín đáo cần thiết cho công việc. Hàng ngày hai bữa cơm, thường có rượu, ông Tiên chỉ mời Vũ Cảnh cùng dùng với mình, và trong những lúc này Vũ Cảnh trình bày cùng ông về những việc mình làm.
Nhà ông Tiên chỉ lại có nhiều sách, sách cổ và cả sách kim để Vũ Cảnh có thể đọc trong những lúc ở nhà.
Thường thường Vũ Cảnh sáng sớm đã ra đi, chiều tối mới về, có khi chàng đi vắng năm ba ngày liền, cũng có khi chàng ở nhà đôi ba ngày. Chiều nào ông Tiên chỉ cũng có ý chờ Vũ Cảnh về mới ăn cơm uống rượu. Vũ Cảnh không về ông ăn cơm rất muộn, và cơm nước xong, ông đọc sách hoặc có khi ông yên lặng trầm tư hàng giờ.
Những ngày Vũ Cảnh ở nhà thường hay có khách tới, và những khách này đều được ông Tiên chỉ đón tiếp như chính khách của mình với đủ cơm rượu thịnh soạn và có những khách chỉ mới gặp lần đầu, do lời giới thiệu của Vũ Cảnh, ông Tiên chỉ đã chuyện trò thân mật ngay với họ như với những bạn cố tri. Người nhà chỉ hầu hạ trong việc tiếp đãi khách, không biết khách là ai và cũng không hiểu câu chuyện thân mật giữa chủ khách là chuyện gì.
Những hôm nào không có khách, Vũ Cảnh thường đọc sách ngâm thơ. Những lúc này, chàng thật là một nho sĩ thuần túy với khăn lượt, áo the dài và quần lụa bạch và đôi giày Gia Định. Không ai dám bảo chàng là một tay đô vật tài ba đã khiến đô Giang phải phục và tự nhận là thua.
https://thuviensach.vn
Nói chuyện với ông Tiên chỉ, ngoài những câu chuyện về thời cuộc và những hoạt động của mình, nhiều lúc hai người lại bàn chuyện văn chương sách vở, chuyện đạo đức thánh hiền qua Tứ thư, Ngũ kinh.
Ông Tiên chỉ- một chân Nhị trường, lẽ tất nhiên phải biết nhiều hiểu rộng về tinh hoa đạo đức và nghĩa lý Đông phương, nhưng Vũ Cảnh cũng luôn tỏ ra mình là người học nhiều, đã tham bác đủ cổ kim. Có nhiều điều chàng biết mà ông Tiên chỉ không biết tới, những học thuyết Tây phương đã được dịch sang chữ Hán ông Tiên chỉ chưa có dịp đọc tới.
Giọng ngâm thơ chàng sang sảng, đúng giọng của những thầy Khóa bình văn đã từng quyến rũ biết bao nhiêu nhan sắc. Ngâm thơ, nhưng Vũ Cảnh ít ngâm những bài thơ về tình cảm, dù đó là những danh tác thời xưa, chàng thường hay ngâm những vần thơ xã hội của Đỗ Phủ hoặc những bài thơ hùng tráng của những danh sĩ Việt Nam. Chàng hay ngâm bài thơ của Đặng Dung và lòng chàng cũng rất kính phục Đặng Dung, người đã hết lòng phò Trần Quý Khoách, tức là vua Trùng Quang chống lại quân Trương Phụ nhà Minh sang xâm lấn nước Việt ta. Khi yếu thế, Đặng Dung đã bị bắt và tử tiết, ông cũng như cha ông là Đặng Tất, hết lòng với vua và nước, tuy không thành công, nhưng tiếng thơm còn lưu muôn thuở làm gương cho hậu thế.
Bài thơ của Đặng Dung rất được truyền tụng và Vũ Cảnh thường ngâm thơ, muốn nhắc nhở mình phải trông gương người xưa, không được thoái chí trước mọi khó khăn:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca!
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa!
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà!
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
https://thuviensach.vn
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Cũng đôi khi chàng ngâm một vài bài Đường thi có giá trị như bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu và cả bài Đăng Kim Lăng Phượng hoàng đài của Lý Bạch nữa. Chàng tưởng nhớ đến quê hương trong lúc gót mãi phong trần trên đất nước để lo nhiệm vụ của người dân trong lúc quốc gia gặp thời điên đảo. Chàng hay ngâm những bài thơ này vào lúc xế chiều, lúc lòng nhớ quê hương nổi dậy:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch Vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Dịch nghĩa:
Người xưa cưỡi hạc tếch đâu đâu
Mảnh đất trơ trơ chiếc Hạc lầu
Một tếch hạc vàng biền biệt mãi,
Ngàn năm mây trắng lững lờ trôi
Hán Dương cây thắm sông yên lặng
Anh Vũ cồn xanh cỏ dãi dầu
Quê quán nơi nào chiều bảng lảng
Mặt sông khói gợn ngắm thêm sầu
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh ngâm thơ, chịu cái hay của bài thơ. Trong lúc cao hứng đôi khi chàng nói cùng các bạn khen ngợi bài thơ.
Hoàng Hạc lâu ở gần Vũ Xương còn Phượng Hoàng đài nay ở trong Thành Kim Lăng. Tương truyền vào khoảng đời Nam Bắc Triều, người ta thấy giống chim ngũ sắc đậu ở gần Kim Lăng, bèn gọi chim là Phượng Hoàng, và dựng ở chỗ đó một cái đài gọi là Phượng Hoàng Đài.
Thôi Hiệu vịnh lầu Hoàng Hạc, bất tử với bài thơ. Sau này Lý Bạch có một lần lên Hoàng Hạc lâu, muốn đề thơ thấy Thôi Hiệu đã vịnh trước một bài, còn đề ở trên tường, khen là tuyệt, liệng bút không đề nữa. Sau tới Phượng Hoàng Đài ông làm bài thơ Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài có ý muốn ganh với Thôi Hiệu.
Ngâm bài thơ của Thôi Hiệu, Vũ Cảnh cũng thường ngâm luôn bài thơ của Lý Bạch:
Phượng Hoàng đài thượng Phượng hoàng du
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam san bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Tràng an bất kiến sử nhân sầu
Bản dịch của Nguyễn Văn Ba 8 9 10
Phụng Hoàng đến chơi đài Phụng Hoàng
Phụng đi, đài trống, sông tự trôi
Hoa thảo cung Ngô vùi lối vắng.
Y quan đời Tấn thành gò xưa
Tam sơn nửa lọt ngoài trời xanh.
Nhị thủy trong chia Bạch lộ châu
Những vì mây nổi che khuất nhật.
Không thấy Trường An, khiến người sầu.
https://thuviensach.vn
Là con người văn tự thì Vũ Cảnh ngâm thơ đọc phú, thật ra chàng cũng không chú ý nhiều lúc này tới văn thơ. Có thể đôi khi chàng dùng văn thơ để tiện việc liên lạc với anh hùng hào kiệt, rồi nhân đó chàng mới đề cập tới vấn đề hiện tại, và nhiệm vụ của mỗi người dân trước cái họa mất nước.
Cũng đôi khi, chàng dùng thơ phú để giải khuây, và trong lúc ngâm thơ, miệng ngâm nhưng đầu óc thường suy tính tới những việc chàng phải làm. Ở nhà ông Tiên chỉ xã Hội Hợp thỉnh thoảng chàng cùng ông Tiên chỉ bàn luận văn chương, nhưng bàn luận đấy rồi bỏ đấy, rất ít khi chàng lưu tâm tới những câu chuyện này.
Chàng không lưu ý tới, nhưng dường như ông Tiên chỉ hằng để tâm tới tài văn học của chàng và cũng xét chí khí chàng qua những câu chuyện vãn chương.
Ông Tiên chỉ có nói về thi cử để dưỡng thanh danh hiển phụ mẫu. Chàng vẫn nhắc lại quan niệm của chàng đối với thi cử lúc đó, như lời chàng đã trình bày trong bữa rượu làng, lần đầu tiên hội kiến với ông Tiên chỉ có cả sự hiện diện của ông Thứ chỉ và đô Giang. Tuy nhiên chàng cũng tỏ bày cùng ông Tiên chỉ là sau này chàng sẽ ứng thí nếu có sự thành công của những đạo quân Cần Vương, giặc Pháp sẽ phải rời bỏ đất nước và chủ quyền lại thực sự về tay người Việt qua triều đình. Chàng nói:
- Lúc đó vãn sinh mới ứng thí, và thiên tử cầu hiền mới thực sự tìm nhân tài giúp nước, chứ còn giờ đây, thi cử có đỗ đạt, thì lại đi làm tay sai cho lũ giặc ngoài, điều này thưa lão bá, vãn sinh không bao giờ làm!
Ông Tiên chỉ phục chàng là người có chí khí và đã từng luôn luôn khen chàng học rộng văn hay và kiến thức đáng kể.
Ông Tiên chỉ để ý đến tài học của chàng đã đành, mà hình như ngoài ông Tiên chỉ ra, ở đây còn có người khác cũng lưu ý tới văn chương và cũng từng nghe chàng ngâm thơ hoặc thầm theo dõi chàng đọc sách. Chàng chỉ đọc sách về đêm, còn ban ngày chàng luôn luôn đi vắng để theo đuổi công việc của mình.
Một hôm, chàng đi Bạch Hạc, tức là Phong Châu cũ. Buổi sáng trước khi ra đi, uống trà cùng Tiên chỉ, chàng nói rõ mình đi đâu và cho biết ngay chiều hôm đó chàng sẽ trở về.
https://thuviensach.vn
Cũng như mọi ngày ra đi chàng khép cửa phòng, vì sự tế nhị chàng không tiện khóa phòng, nhưng bao nhiêu giấy tờ cần giữ kín, chàng đã giấu vào một nơi kín trong phòng.
Chiều hôm ấy, khi từ Bạch Hạc trở về, chàng rất ngạc nhiên thấy dán trước cửa phòng một vế câu đối viết trên giấy hồng điều. Chữ viết bằng một thứ mực tốt đen lánh, và nét chữ trông tuy già giặn nhưng lại rất mềm mại, chứng tỏ đây là nét chữ đàn bà. Vế câu đối đề rằng:
Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ
Nghĩa:
Nhà Hán lúc mạt vận một thời không nghĩa sĩ.
Người viết câu đối có ý chê chàng không phải là một nghĩa sĩ, nhắc lại giai đoạn Hán mạt, giai đoạn tiền Tam quốc, đã không xuất hiện anh hùng nghĩa sĩ để phò vua cứu nước, đến nỗi hết loạn Khăn Vàng, họa Thập Thường thị lại đến họa Đổng Trác, và sau cùng là Tào Tháo uy hiếp nhà vua.
Có lẽ người ra vế câu đối muốn thử tài văn chương nhưng đồng thời cũng muốn hiểu biết chí khí của chàng. Có lẽ người này không rõ công việc chàng đang theo đuổi nên dùng vế câu đối để khích chàng!
Đọc xong vế câu đối, chàng gật gù mỉm cười. Vì trời còn sớm, chàng nhờ một người nhà ông Tiên chỉ ra ngôi hàng xén đầu làng mua giúp chàng một tờ giấy hồng điều.
Không hiểu sau bữa cơm chàng đã loay hoay thế nào với xấp giấy hồng điều, nhưng sáng hôm sau, người nhà ông Tiên chỉ đã thấy dán thêm hai vế câu đối nữa, một vế để đối vế ra. Vế đó như sau:
Nguyễn suy tam kỷ hữu anh hùng.
Nghĩa:
Nhà Nguyễn khi suy vi ba kỷ có anh hùng.
Mỗi kỷ là 12 năm, ba kỷ là 36 năm. Ý Vũ Cảnh muốn nói, nhà Nguyễn trong khi suy yếu, từ 36 năm nay vẫn có anh hùng với các đội quân Cần Vương, và giờ đây với những nghĩa quân của cụ Phan Đình Phùng và của ông Đề Thám. Và chàng cũng có ý tự nói về mình, trong lúc non sông
https://thuviensach.vn
nghiêng ngửa, chàng đâu có sợ nguy nan, chàng vẫn mạo hiểm đi chiêu dụ nghĩa quân cho đạo quan của ông Đề.
Ý trong vế đối trên lại được bổ túc qua một vế câu đối chàng ra cho người đã ra đối trước. Vế này như sau:
Điểu thê cát địa ngôn phi mậu.
Nghĩa:
Đất lành chim đậu, lời nói không sai.
Với vế câu đối này, Vũ Cảnh có ý bảo cho người ra câu đối biết, đây là đất lành, chàng ngừng chân lại để hoạt động. Dừng bước ở Hội Hợp, không phải để chàng hưởng thú an nhàn với ngâm thơ, đọc sách. Chàng dừng bước nơi đây, vì đây là đất lành, thuận tiện cho công việc của chàng. Đất Tam Đái lắm anh hùng hào kiệt, người Tam Đái vốn dũng cảm và nghĩa khí!
Chàng dán hai vế câu đối, vế đối song hàng với vế đã ra trước, còn vế ra, chàng dán riêng biệt, và dành chỗ cho người đối dán vế đối của mình. Sáng hôm ấy, chàng cũng được ông Tiên chỉ mời sang uống trà. Chén trà nóng làm chàng ấm lòng giữa trời xuân còn lạnh. Chàng yên trí thế nào trong lúc dùng trà, ông Tiên chỉ cũng đề cập tới vế câu đối dán trước cửa phòng chàng từ chiều hôm trước, nhưng suốt buổi trà, ông Tiên chỉ nói những chuyện đâu đâu và chỉ hỏi han về công việc của chàng, không hề đả động gì tới vế câu đối, ông không nhắc tới nên chàng cũng không tiện hỏi. Sau buổi trà sớm, chàng từ biệt ông Tiên chỉ để đi Vĩnh Tường gặp mấy người đã hẹn. Vĩnh Tường không xa Hội Hợp bao nhiêu, nên độ cuối giờ Mùi, chàng đã trở về. Lúc này, ba vế câu đối đỏ dán trước cửa phòng đã thành bốn, vì người ra cho chàng vế câu đối hôm trước đã đối lại vế câu đối chàng mới dán sáng nay. Đối rằng:
Nhân hữu đồng thanh chí bất cô 11
Nghĩa:
Người có bạn đồng thanh chí không cô quạnh
Vẫn nét chữ mềm mại, đẹp và già giặn với vẫn thứ mực đen lánh trên giấy hồng điều. Qua nét chữ mềm mại, Vũ Cảnh nhận thấy cái gì rất tâm
https://thuviensach.vn
tính của tác giả vế đối.
Chàng đọc kỹ lại cả hai câu đối gật gù bước vào, vừa đi vừa như có dáng suy nghĩ. Chàng chắc đây là một phụ nữ, không hiểu nhiều hay ít tuổi, mà rất có chí khí. Phụ nữ này biết rõ công việc chàng làm, và vế câu đối ra hôm trước chỉ là để thử tài chàng.
Đọc câu đối lại vế đối chàng mới dán ngoài cửa phòng buổi sáng, chàng thấy văn tài của người đối đọc thấy cả qua bẩy chữ, ý muốn của nàng là hưởng ứng công việc chàng đang làm.
Chàng rất cảm phục, và chàng cũng lại rất muốn gặp mặt để bày tỏ cảm tình.
Dù trong lòng nung nấu ý chí giết giặc ngoại xâm, nhưng chàng trẻ tuổi nhiều lúc cũng tự cảm thấy cô đơn trong bước giang hồ. Những buổi chiều mặt trời dần khuất, gió lạnh thổi lên, làn khói lam bốc từ một mái rạ xa xa, đó là những lúc chàng nhớ nhà, nhớ mẹ già và mấy em nhỏ. Những lúc này, chàng cảm thấy trơ trọi vô cùng. Giá có một giai nhân để đàm luận có lẽ cũng là một điều chàng muốn, nhưng dù muốn, chàng cũng chỉ gạt cái muốn sang một bên, đặt nhiệm vụ lên trước hết. Trong bước đường nguy hiểm gian lao chàng đang tự chuốc lấy, đã biết bao lần chàng bắt gặp những nụ cười, những khóe mắt, nhưng bắt gặp để mà qua đi, không chút gì lưu luyến.
Chàng nhớ lại, trước khi dấn thân trên đường khó khăn, cha chàng đã khuyên:
- Việc con định làm là việc lớn, và rất nguy hiểm. Cha chẳng biết bảo con nên là thế nào, con phải tùy hoàn cảnh mà ứng phó, nhưng có một điều cha căn dặn: con phải biết sợ những cái nhìn quyến rũ, những nụ cười tươi thắm của đàn bà con gái, nhất là của những người có nhan sắc. Đấy là cái bẫy và đấy cũng là vực thẳm nghe con!
Mẹ chàng không muốn con ra đi, muốn con ở nhà rồi bà cụ sẽ lo cưới vợ cho con để sớm có cháu bồng. Bà cụ bảo con:
- Con còn trẻ người non dạ, tài lực bao nhiêu sao dám lo việc triều đình! Thôi con ở nhà theo nghiệp nhà, cố học hành mà thi cử rồi mẹ lo tiểu đăng khoa cho con.
https://thuviensach.vn
Chàng không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng cha chàng đã bảo vợ: - Làm tài trai gặp lúc nước non nguy khốn, không tự dấn thân cứu nước, còn đợi ai! Thôi bà để con nó đi! Việc lớn, bà đừng gàn.
Chàng ra đi, lời cha dặn luôn luôn văng vẳng bên tai và hình bóng mẹ cũng luôn luôn hiện trong trí óc. Những lúc chàng mải mê với công việc, chàng không nghĩ đến gia đình, nhưng con người dù bận đến đâu, thỉnh thoảng cũng có đôi lúc rỗi rãi ngắn, và những lúc này chính là lúc chàng cảm thấy trong lòng trống rỗng.
Chiều hôm nay, ở Vĩnh Tường về, chàng đã giải quyết xong cùng các đồng chí vài công việc khó khăn đã gặp phải. Chàng vui sướng vì sự thành công trong hoạt động, nhưng sau phút vui vì nhiệm vụ ấy, lòng chàng lại thấy mang mang buồn nhớ thương trấn Sơn Nam Hạ, chàng nhớ quê nhà với những cánh đồng bát ngát, cha mẹ già chắc đang ngóng trông mình.
Về đến trước phòng, những nét chữ mềm mại trên hai vế câu đối, và nhất là ý xuất ra từ vế đối lại câu của chàng ra! Người phụ nữ nào mà chí khí nam nhi thế; với chí khí ấy, lại thêm văn tài ấy, chàng đoán đây chắc là một thiếu nữ, mà lại là một thiếu nữ xinh đẹp.
Chàng dừng chân trước cửa phòng ngắm những nét chữ mềm mại, màu mực đen càng tăng vẻ già giặn của nét chữ. Chàng lẩm nhẩm đọc cả đôi câu đối, vế của chàng và vế đối:
Điểu thê cát địa, ngôn phi mậu. Nhân hữu đồng thanh, chí bất cô
Và chàng tự dịch:
Đất lành chim đậu lời xưa đúng. Tương ứng đồng thanh chí chẳng riêng!
Chàng thấy vế đối thật hay và thật có ý nghĩa!
Ngắm chán những hàng chữ đen trên giấy hồng, chàng thong thả đẩy cửa, từ từ bước vào phòng.
Việc đầu tiên, chàng với chiếc điếu bát hút điếu thuốc lào cho ấm bụng. Tiếng điếu kêu ròn ròn làm chàng như cảm thấy có cái gì êm ái hài lòng, và tự nhiên chàng linh cảm như sẽ có cái gì tốt đẹp sắp tới với chàng.
https://thuviensach.vn
Chàng khe khẽ ngâm thơ, vừa ngâm thơ vừa thay bộ áo ngoài quá nặng, ra ngoài chống cái lạnh của trung du, chàng mặc áo ấm, thường là áo bông, thứ áo có lõi bông giữa hai làn vải trong và ngoài.
Chàng hút thêm điếu thuốc lào thứ hai, với chiếc ấm nhỏ, rót chén nước để chiêu hơi thuốc. Chỉ tiếc nước không được nóng lắm, để phù hợp với cái khí ấm tạo ra bởi điếu thuốc lào.
Vào lúc ấy, ông Tiên chỉ đẩy cửa bước vào, Vũ Cảnh nghiêng mình chào. Ông Tiên chỉ nói:
- Hôm nay thầy Khóa về sớm nhỉ!
- Thưa lão bá, hôm nay vãn sinh đi Vĩnh Tường gần đây, nên công việc xong về được sớm. Vãn sinh gặp mấy anh bạn đồng chí để bàn về việc đưa thêm nghĩa quân lên Yên Thế và cũng nghiên cứu vấn đề huấn luyện quân sự của những người này. Mọi việc đều tốt đẹp. Vãn sinh hy vọng có sự thành công.
Ông Tiên chỉ nói:
- Thế thì lão cũng mừng! Sự thành công của thầy Khóa là sự thành công của đất nước! Nếu thanh niên nước nhà ai cũng có tâm huyết như thầy Khóa, đất nước lo gì sự đô hộ của ngoại bang. Chợt ông nhìn đến chén nước đã nguội Vũ Cảnh đang uống dở. Ông bảo Vũ Cảnh:
- Lũ trẻ tệ thế, biết thầy Khóa về mà chúng không mang lên ấm nước nóng để thầy Khóa dùng.
- Thưa lão bá, nước chưa nguội hẳn, còn ấm ấm, ở ngoài lạnh vào, uống cũng thấy ấm bụng rồi! Xin lão bá chớ quan tâm, e phiền người nhà quá. - Có gì mà phiền! Thầy Khóa ở đây với lão là một điều hân hạnh cho lão, lão rất mến phục chí khí và tài năng của thầy Khóa.
Vũ Cảnh đoán ông Tiên chỉ sắp đề cập tới hai đôi câu đối nơi ngoài cửa, nhưng ông tuyệt nhiên không đả động gì tới, ông lại bảo chàng: - Hôm nay lão tới đây để muốn khoe với thầy Khóa một bài thơ và muốn nhờ thầy Khóa xem có chỗ nào thiếu sót thì phủ chính giùm. Vũ Cảnh nói:
- Lão bá chớ dạy quá lời! Vãn sinh học hành được bao nhiêu mà dám nói chuyện thơ văn với lão bá!
https://thuviensach.vn
Ồng Tiên chỉ cười và nói:
- Thầy Khóa khiêm tốn quá! Văn tài xã Mộ Trạch từng vang lừng khắp trong nước, nhất là văn tài họ Vũ! Mấy lại bài thơ này của lão là một bài thơ Nôm. Nôm na là cha mách qué, nhưng không làm thơ chữ Hán được lão làm thơ Nôm vậy.
- Thưa lão bá, thơ Nôm mới khó, và chữ Nôm mới chính là chữ của dân tộc. Vãn sinh thấy Hoàng đế Quang Trung quả thật là người sáng suốt muốn dùng chữ Nôm thay chữ Hán! Chỉ tiếc ngài mất quá sớm, con ngài lại là người bất tài, nếu không đất nước ta đâu đến nỗi như ngày nay.
Rồi chàng chép miệng. Ông Tiên chỉ, dáng chừng lạnh với cái điếu rít một hơi thuốc lào dài! Rít xong hơi thuốc, ông ngửa mặt, thở hơi khói dài, khói tỏa bay như con rồng vờn không khí.
Vũ Cảnh nói tiếp:
- Bài thơ của lão bá chắc phải hơn người và phải đầy ý nghĩa, xin lão bá đọc cho vãn sinh được thưởng thức!
Ông Tiên chỉ cười nói:
- Chẳng biết có hơn người và có ý nghĩa không, nhưng lão muốn diễn tả tâm tư của lão qua mấy vần thơ. Lão đọc thầy Khóa nghe nhe! Lão đặt tựa đề bài thơ là ĐÊM SÂU VẮNG:
Trằn trọc giường khuya nỗi nhớ nhà
Tủi chăn, hổ gối, thẹn lòng ta!
Trăng vào du12 ngủ, màn ngăn lại.
Sương đến chung buồn, gió hắt ra.
Ngoài muỗi than van chia cảnh vắng,
Trong tim thao thức đợi canh tà.
Đêm dài đêm hỡi sao dài quá
Cám cảnh non sông, hận tuổi già13
- Ấy, thơ lão nôm na, thầy Khóa đừng chê nghe!
- Vãn sinh đâu dám! Với lời thơ, lão bá đã nói lên được tâm sự mình. Đêm dài đây, đâu có phải lão bá có ý muốn nói đêm từ tối đến sáng, mà chính
https://thuviensach.vn
lão bá đang mong sự thành công của công cuộc cách mạng Cần Vương, sự thành công lâu tới, kéo dài sự thống trị của người Pháp qua lũ tay sai! Ông Tiên chỉ gật gù nói:
- Thầy Khóa thực đoán trúng tâm tư của lão!
Vừa lúc ấy, một tên người nhà xách lên siêu nước nóng, hắn thay trà pha ấm nước cho Vũ Cảnh, ông Tiên chỉ hỏi:
- Thế nào, cô mày sửa soạn mâm rượu xong chưa?
- Bẩm cụ, cô con sắp cho dọn lên, mời cụ và thầy về phòng! Ông Tiên chỉ quay lại bảo Vũ Cảnh:
- Người nhà nó vừa đánh bẫy được con gà rừng, lão bảo chúng làm mâm rượu để lão với thầy Khóa ta cùng nhắm! Trời hôm nay lạnh uống rượu cho nóng người, thầy Khóa ạ! Tửu năng dẫn huyết, uống rượu cho khí huyết lưu thông, kẻo lạnh quá, máu chảy không đều mình sinh mệt mỏi! Mời thầy Khóa sang phòng tôi.
https://thuviensach.vn
V
ƯỚM LỜI
Vũ Cảnh đứng lên bước theo ông Tiên chỉ. Từ nơi này tới phòng riêng của ông Tiên chỉ không xa. Ra khỏi phòng, ông liếc nhìn hai câu đối dán trên cánh cửa, ông mỉm cười. Người ra đối đã đưa ra tâm sự mình, người đối cũng hưởng ứng nỗi niềm riêng ấy. Ông lại nghĩ tới bài thơ vừa đọc cho Vũ Cảnh nghe. Vũ Cảnh đã hiểu tâm tư của ông, song ông nghĩ cũng cần nói rõ hơn những điều ông nghĩ. Ông bảo chàng:
- Thầy Khóa ạ! Đêm dài quá, mà những người trằn trọc vì nỗi nước nhà đã có bao người. Người có tâm thường thao thức, như những ai thao thức lúc đêm trường. Chia cảnh vắng của đêm dài nào có ai? Chỉ có đàn muỗi vo ve!
Vũ Cảnh đáp:
- Lão bá nghĩ cũng đúng, nhưng riêng vãn sinh, vãn sinh thấy không phải không có ai cùng chia cảnh vắng, có đấy, nhưng không nhiều. Không có những người như vậy, làm sao cụ Phan có đủ nghĩa quân chống giặc, và làm sao ông Đề ở Nhã Nam tạo được lực lượng để người Pháp phải kinh sợ!
Hai người đã tới phòng riêng của ông Tiên chỉ. Trên bàn nhỏ đặt giữa hai chiếc trường kỷ đã có một mâm rượu, với những bát đĩa trông sạch và thức ăn bày biện rất quyến rũ, một chai rượu thuốc đặt bên cạnh mâm. Ông Tiên chỉ mời Vũ Cảnh ngồi vào mâm rượu. Ông nói:
https://thuviensach.vn
- Thầy Khóa ạ, tửu năng dẫn huyết, ta phải uống rượu để huyết mạch lưu thông, giữ lấy sức khỏe, và có uống chút rượu vào tinh thần như sáng suốt hơn, ta nhìn thời thế biết rõ hay dở hơn!
- Lão bá dạy đúng. Ngày xưa Tào Tháo cùng Lưu Huyền Đức uống rượu luận anh hùng, giờ đây lão bá dùng rượu để nhìn thời thế, thật phải. Non sông đang hồi nghiêng ngửa, kẻ hay thì ít, kẻ dở thì nhiều, ta không tỉnh, không khỏi bị lầm.
- Thầy Khóa nói phải! Ta phải coi chừng những kẻ mồm luôn luôn nói đến ái quốc ái quần, đồng bào, đồng chủng, nhưng chính ra, chúng chính là một lũ bán nước, bán đồng bào.
Ông Tiên chỉ rót rượu vào chiếc chén nhỏ, ông giơ chén rượu cho Vũ Cảnh xem và nói:
- Rượu này lão ngâm thuốc đã lâu ngày, và ngâm toàn những vị bổ, uống vào dễ ngủ và tinh thần sáng suốt thêm. Rượu này, lão chỉ mời khách thân! Nào mời thày Khóa!
Vũ Cảnh mời lại rồi đưa chén rượu lên môi nhấm nháp. Rượu có mùi thơm của thuốc, và là một thứ rượu ngon nên vị thuốc càng dậy. Ông Tiên chỉ sau khi uống một hớp rượu, khà ra và nói:
- Chà! Lạnh quá, rượu lạnh như băng. Băng lãnh tửu!
- Vâng, thưa lão bá, rượu có lạnh, nhưng uống vào vẫn làm nóng người! Băng lãnh tửu nhi năng dẫn huyết!
Ông Tiên chỉ cười ha hả và bảo:
- Thầy Khóa cũng vào bậc hay chữ. Nhân ba chữ BĂNG LÃNH TỬU, lão vừa nghĩ ra vế câu đối, thử nhờ thầy Khóa đối giúp. Xuất đối dị, đối đối nan, ra câu đối dễ, đối câu đối khó, chính câu đối của lão nhưng lão chưa tìm ra vế đối!
- Lão bá cứ khiêm nhường! Vãn sinh dốt nát, đâu đã chắc đối được câu đối của lão bá.
- Chính thầy Khóa mới khiêm nhường. Lăo đã đọc đôi câu đối dán ở cửa phòng thầy Khóa rồi! Thầy Khóa đã hay chữ, lại là người có chí khí. Có chí khí lại là con người nhũn nhặn, thật đáng khen!Nào, lão đọc thầy Khóa nghe vế câu đối của lão nhé!
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh lắng nghe. Chàng biết trước vế ra sẽ khó đối, vì qua hai vế câu đối đã được dán trước cửa phòng, chàng hiểu gia đình ông Tiên chỉ là một gia đình văn tự, và đã như vậy lẽ dĩ nhiên ông Tiên chỉ là bậc hay chữ!
Ông Tiên chỉ đọc: Băng lãnh tửu, nhất điểm, nhị điểm, tam điểm! Vũ Cảnh nghe thấy ngay đây là một vế ra hiểm hóc, một vế đối chiết tự. Ba chữ Băng lãnh tửu, chữ băng có một chấm thủy, chữ lãnh có hai chấm, và chữ tửu có ba chấm. Nếu dịch nôm thì có nghĩa: rượu lạnh như băng, một điểm, hai điểm, ba điểm. Chàng thưa với ông Tiên chỉ: - Câu đố lão bá ra khó quá, xin phép cho vãn sinh nghĩ đôi ba ngày! Ông Tiên chỉ:
- Thầy Khóa thật khiêm tốn, thầy Khóa cứ nghĩ, ta vừa uống rượu vừa nghĩ. Cái việc văn chương nó phải từ tốn, hấp tấp đâu có được.
Ông nói thế, nhưng ông thừa biết, đối được vế câu đối hóc hiểm này không phải dễ. Vũ Cảnh là con người trung thực, nhận thấy khó đối thì nói ngay với ông! Thái độ của chàng thật hơn những kẻ khác khoác lác cứ muốn giấu dốt. Vũ Cảnh lại nói:
- Vãn sinh xin lão bá đôi ba ngày để nghĩ, nhưng vị tất vãn sinh đã đối xong, có lẽ rồi sẽ chính lão bá là người sẽ đối vế câu đối này. Ông Tiên chỉ nâng chén rượu uống và mời Vũ Cảnh. Ông gắp cho Vũ Cảnh một miếng thịt gà, rồi nói:
- Thôi ta hãy uống rượu đã, thầy Khóa chớ bận tậm quá về câu đối của lão! Làm sao Vũ Cảnh không bận tâm được! Tâm trí của chàng không để ý vào sự thưởng thức rượu ngon nữa mà đầu óc chàng bận về câu đối! Chàng cũng hơi thẹn thùng vì mang danh văn tự mà không đối nổi một vế đối. Chàng đưa rượu lên uống, nhưng chàng không còn cảm thấy cái ngon của rượu như hớp ban đầu.
Chàng băn khoăn, giữa lúc ấy, nhìn qua song cửa, thấp thoáng thấy có bóng một nữ lang đang đi lại trong vườn hoa.
Ngay trước phòng riêng của ông Tiên chỉ là một hoa viên, hoa viên nằm ngay sau căn nhà. Từ phòng Vũ Cảnh lúc đi lên phòng này, chàng đã để ý tới vườn hoa xinh đẹp này với các hoa xuân đang đua nở với đủ màu sắc: Cúc vàng, hồng nhung, thược dược trắng và đỏ, mẫu đơn đỏ thắm, trà đơn
https://thuviensach.vn
và kép màu hổng tươi hoặc trắng bạch. Lại có những chậu hoa sói, những bông hoa bám vào cành lấm tấm như những hạt gạo trắng và bên cạnh những chậu hoa sói là những chậu hoa mộc, hoa trắng nhỏ, nở kín đáo trong lá như e thẹn và nhiều loại hoa khác mà dân chúng vùng quê Việt Nam ưa chơi. Nếu chú ý, chàng còn thấy hai chậu hoa tướng quân bông nở màu đỏ thẫm, những bông hoa nhỏ nở thành chùm trồi lên trên đám lá xanh to trông thật đẹp. Cả chùm hoa góp lại chỉ là một đóa hoa như hiên ngang trong chậu cảnh!
Hoa tướng quân là một loài hoa quý và lạ, tượng trưng cho sự anh dũng và biểu lộ tinh thần bất khuất của anh hùng hào kiệt. Giữa các loài hoa, hoa tướng quân như một vị chỉ huy cả muôn hoa. Nhiều thi nhân đã ngâm vịnh về loài hoa này. Nhân đây chúng tôi xin phép được trích dẫn một phần bài thơ ca tụng hoa tướng quân của nữ thi sĩ Thư Linh rút trong tập NHỮNG DÒNG THƠ HOA:
Một buổi sớm nắng vàng gió mát,
Hồn thơ say hương ngát lá xanh
Bạn từ xa, quá chân thành
Chậu cây đem tặng công trình xiết bao.
***
Lá dài mướt thanh tao sắc lục
Gió hân hoan giao khúc mừng chào
Bên tai giọng bạn ngọt ngào:
Loài hoa lạ khác Hồng, Đào xứ ta
Biết tính chị yêu hoa say đắm.
Giống hiếm hoa dành tặng bạn hiền
Ánh hồng tỏa mộng thần tiên
Cây xanh tắm nắng phô duyên lạ kỳ
.........
Nụ hoa sắc lý dịu hiền
Nửa tuần trăng kết cánh tiên nở dần
Đài bích ngọc trên thân cẩm thạch
https://thuviensach.vn
Từng cọng xinh dần tách màng vương
Màu hồng chuyển đỏ dễ thương
Hơn trăm cánh mộng kết nguồn say sưa
Mấy bữa đầu hoa thưa nhỏ cánh
Đài ngọc ươm tám cạnh biếc hồng
Nhụy vàng như chấm phấn thông
Bán khai nắng ủ cánh hồng kiêu sang.
Khách thăm hoa ngỡ ngàng khen hiếm
Một vị ưa sưu kiếm kỳ hoa
Thuật rằng: Hoa xứ ngoài xa
Nhập vào nước Việt đặt là TƯỚNG QUÂN
Ví hoa như linh thần đáng quý
Nở một bông tuyệt mỹ thanh cao
Tượng trưng tráng sĩ anh hào
Mỗi kỳ trổ một đóa nào có hai.
Nữ lang đi đi lại lại trong vườn hoa, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt bỏ mấy lá sâu, hoặc vài bông hoa đã tàn. Bỗng nhiên nàng lên tiếng gọi ông Tiên chỉ:
- Thầy ơi! Hoa đinh lăng, hôm nay cũng nở đẹp lắm!
Ông Tiên chỉ đáp lại lời con:
- Ừ, nó nở thì nở, có gì mà con phải gọi thầy. Thầy đang tiếp rượu thầy Khóa, con không biết sao!
Rồi ông quay lại Vũ Cảnh nói:
- Xin lỗi thầy Khóa! Con cháu nhà tôi, nó tên là Giáng Thu, thật không có ý tứ!
Vũ Cảnh đang nghĩ về vế câu đối! Chàng đáp một cách như không nghĩ ngợi gì:
- Thưa lão bá, có gì đâu!
Rồi như trong một cơn mê choàng tỉnh, chàng nói:
- Thưa lão bá vãn sinh đã nghĩ ra được vế đối vế câu đối của lão bá rồi! - Thầy Khóa hay chữ thật! Thế mà thầy Khóa bảo phải nghĩ vài ba ngày! Xin thầy Khóa cho nghe vế đối! Chắc phải hay lắm!
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh như bẽn lẽn thưa:
- Thưa lão bá, thực ra không phải vãn sinh tự nghĩ ra! Chính tiểu thư Giáng Thu đã nhắc vãn sinh đó!
- Ủa! Sao lạ vậy! Thì thầy Khóa hãy đọc cho lão thưởng thức tài mẫn tiệp của thầy Khóa qua cái hay của vế đối.
Vũ Cảnh đọc:
Đinh hương hoa bách đầu, thiên đầu, vạn đầu.
Ông Tiên chỉ nghe qua vội khen:
- Tuyệt quá! Đối chiết tự mà đến như vậy thì thật giỏi! Lão không thể đối được chính câu đối của mình nên phải nhờ thầy Khóa đối giúp! Vế đối thật hay và chọi chan chát với vế ra.
Ba chữ ĐINH HƯƠNG HOA là hoa cây Đinh hương, ba nét đầu của ba chữ này lại là ba nét đầu của ba chữ bách, thiên và vạn.
Chúng tôi xin chép dưới đây nguyên cả đôi câu đối để bạn đọc cùng thưởng thức và để càng rõ cái khéo léo của người đối, đáp lại cái hiểm hóc của vế ra:
Băng lãnh tửu, nhất điểm, nhị điểm, tam điểm.
Đinh hương hoa, bách đầu, thiên đầu, vạn đầu.
Nghe ông Tiên chỉ khen. Vũ Cảnh đứng dậy, chắp tay nói: - Xin lão bá chớ quá khen! Vãn sinh xin nhắc lại, vế đối này không phải tự vãn sinh nghĩ ra! Chính tiểu thư Giáng Thu đã nhắc khéo vãn sinh đó!?
Ông Tiên chỉ đưa tay ra hiệu mời Vũ Cảnh ngồi xuống, rót một chén rượu đầy, đưa chàng uống và bảo rằng:
- Thầy Khóa thật là khiêm tốn. Cháu Giáng Thu nó có nhắc tới hoa đinh hương, cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên. Nghe ba tiếng hoa đinh hương mà nghĩ tới dùng làm vế đối, không phải người hay chữ làm sao mà nghĩ ra được sáu chữ sau: Bách đầu, thiên đầu, vạn đầu. Cái tài mẫn tiệp của thầy Khóa có thua gì Trạng Quỳnh khi được bà Thị Điểm nhắc cho để đối câu đối của ông anh bà là Đoàn Trác Luân!
Vũ Cảnh ngồi xuống, uống một hơi hết chén rượu đầy và đáp lại:
https://thuviensach.vn
- Lão bá quá thương nên nói vậy! Thật ra tiểu thư Giáng Thu mới là người mẫn tiệp!
Thực ra, trong lúc hai người ngồi uống rượu nói chuyện, Giáng Thu có đi qua phòng bên. Qua vách, nàng đã nghe rõ câu chuyện vế câu đối cha ra cho chàng nho sĩ. vế câu đối hiểm hóc, ra trong bữa rượu, thật khó đối, nhưng Giáng Thu từ nhỏ vốn được cha dạy dỗ nên cũng có khiếu về văn thơ, câu đối. Chính nàng đã viết và đã đối những vế câu đối dán trước cửa phòng Vũ Cảnh.
Ngay từ hôm đầu tiên cha đưa Vũ Cảnh về và thuật rõ cuộc đấu vật và những câu chuyện trong bữa tiệc làng, Giáng Thu đã khâm phục Vũ Cảnh là người có tài lại có chí khí, và một đôi lần nhìn qua song cửa, thấy rõ Vũ Cảnh là một con người khôi ngô với những cử chỉ điềm đạm, nàng có cảm tình với chàng. Thời ấy không phải như ngày nay, nam nữ tự do giao tiếp. Mà là thời quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân đang được tôn trọng.
Ồng Tiên chỉ là bậc nho học, tuy đầu óc phóng khoáng, nhưng ông cũng không chấp nhận điều gì quá ngược lại với thói tục. Chính ông, ông cũng mến Vũ Cảnh, và ông cũng có ý ướm hỏi Vũ Cảnh thay cho con gái, nhưng phải có cơ hội thuận tiện.
Giáng Thu biết mặt biết người, biết tài võ dụng, biết rõ chí khí anh hùng của họ Vũ, nhưng nàng mới chỉ nghe mà chưa hiểu, võ tài như vậy, văn tài của chàng có được như võ tài chăng. Rồi nàng không hỏi ý cha, đã tự nghĩ ra vế câu đối dán lên cửa phòng họ Vũ:
Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ
Vũ Cảnh đã đối lại như trên đã trình bày và chàng cũng lại đã ra luôn một vế đối để người đã thách đối chàng cũng phải đối!
Với vế đối, Vũ Cảnh đã khiến cho Giáng Thu vốn phục chàng về võ tài và về chí khí cũng phục chàng hơn về văn tài. Và nàng để ý đến chàng hơn, nhất là nàng hiểu rõ ý thân phụ cũng muốn chu toàn cho mình. Nghe lén thấy vế đối cha ra cho khách, nàng biết trong nhất thời, khách khó lòng đối được, nên nàng đã tìm cách nhắc khéo bằng cách gọi cha báo cho biết hoa Đinh Hương đang nở. Sự nhắc khéo của nàng quả đã gỡ bí cho Vũ Cảnh.
https://thuviensach.vn
Ông Tiên chỉ và Vũ Cảnh trong bữa rượu vừa nói chuyện về văn thơ lại bàn về thời thế. Vào lúc rượu họ Vũ đã hơi ngà ngà say, ông Tiên chỉ đột nhiên hỏi chàng:
- Thầy Khóa đọc văn thơ, kim cổ đã nhiều không biết thầy Khóa có biết bài thơ tứ tuyệt của Đỗ Thu Nương không?
- Dạ bẩm lão bá, vãn sinh có được đọc qua và vãn sinh vẫn mang máng nhớ.
Ông Tiên chỉ cười nói:
- Lão cũng đã đọc qua bài thơ ấy, nhưng trí nhớ của lão kém, không còn nhớ rõ. Thầy Khóa nếu còn nhớ hết, xin đọc cho lão nghe lại. - Vãn sinh tuy nhớ, cũng chỉ mang máng, vãn sinh đọc lại e có chỗ sai. - Thầy Khóa cứ đọc lão nghe, lão cũng còn hơi nhớ mà! Đôi ta cùng nhớ, có lẽ bài thơ sẽ không sai đâu!
Vũ Cảnh vâng lời đọc:
Khuyến quân mạc tích Kim lũ y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì!
Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết chi
Chàng đọc theo giọng ngâm nga, hơi rượu ngà ngà làm cho giọng chàng thêm sang sảng. Nghe chàng ngâm xong bài thơ, ông Tiên chỉ khen: - Thầy Khóa nhớ quá, đâu có sai chữ nào! Lão phải thưởng thầy Khóa chén rượu đầy mới được.
Vừa nói, ông vừa gắp thức nhắm vào bát chàng họ Vũ, và ông rót một chén rượu đầy!
Ông cũng tự rót cho mình một chén đầy không kém. Ông mời: - Nào thầy Khóa, lão mừng cái trí nhớ của thầy Khóa thật hơn người! Ông nâng chén rượu đưa lên miệng, Vũ Cảnh cũng lễ phép mời lại, và chàng lại uống chén rượu trong một hơi, trong khi ông Tiên chỉ cũng uống như vậy.
Tửu lượng của ông Tiên chỉ khá, nên uống dăm ba chén rượu ông chưa thấy hơi say, còn Vũ Cảnh cùng rượu ấy, tự thấy đã ngà ngà.
https://thuviensach.vn
Ông Tiên chỉ nói:
- Tửu lượng thầy Khóa tuy không cao, nhưng cũng đủ để thù tiếp trong những cuộc giao tế!
- Bẩm lão bá, vãn sinh thực ra không bao giờ dám uống nhiều rượu, e say rượu sẽ làm lỡ việc lớn!
- Thầy Khóa nghĩ phải! À, lão trở lại bài thơ của Đỗ Thu Nương. Bài này trước đây lão có dịch nôm, lão đọc thầy Khóa nghe, chỗ nào không được thầy Khóa sửa cho nhé:
Tiếc chi chiếc áo sợi vàng
Khuyên chàng tiếc lấy tuổi đang xuân thì
Hoa tươi hãy hái mau đi
Mai đây hoa rụng bẻ gì cành không 14
Đây lão chỉ lược dịch, lược lấy ý, không giữ hết lời. Dịch giả phản giả nên lão cũng thận trọng.
Vũ Cảnh kính cẩn nói:
- Lão bá dịch sát nghĩa lắm và vãn sinh thấy dịch như vậy là đạt lắm rồi Chàng ngừng lời một chút rồi nói tiếp:
- Thưa lão bá!
Ông Tiên chỉ như ngạc nhiên trước lời thưa, hỏi:
- Thầy Khóa định nói gì!
- Thưa lão bá, vãn sinh xin phép lão bá để được hỏi chẳng hay vì sao lão bá lại nhắc tới bài thơ của Đỗ Thu Nương.
Ông Tiên chỉ đưa tay lên vuốt chòm râu, cười khà khà nói: - Lão già hay lẩm cẩm. Bỗng nhiên nhớ tới bài thơ đó thì nhắc lại cùng thầy Khóa, chứ có gì đâu! Nào kìa thầy Khóa, nhắm đi chứ?
Ông lại tiếp thức nhắm cho Vũ Cảnh và rót thêm rượu cho hai người. Đoạn ông với chiếc điếu hút. Ông nói:
- Xin lỗi thầy Khóa nhé, lão có thói xấu là bữa ăn cứ phải hút thuốc lào. Hôm nào đi ăn cỗ hay đi việc làng, vì giữ lễ, không được hút thuốc trong bữa ăn, lão lấy làm khổ lắm!
Hút xong, ông chuyển chiếc điếu cho Vũ Cảnh và nói:
https://thuviensach.vn
- Thày Khóa cũng nên hút một điếu cho thơm miệng!
Vũ Cảnh đưa tay đỡ chiếc điếu, thông nõ điếu, vê mồi thuốc đặt vào nõ, dùng chiếc đóm châm lửa ở đĩa đèn dầu lạc đặt trên án thư rồi hơ lửa trên nõ điếu, vít chiếc xe điếu trúc đưa vào mồm rít một hơi dài có vẻ ngon lành, khoan khoái. Chàng quay mặt sang bên, hà hơi thuốc, khói bay là là trong gian phòng không sáng lắm, những ngọn đèn dầu không đủ làm sáng trưng được gian phòng.
Bữa rượu kéo dài khá lâu, cho dễ đến hơn một giờ mới xong. Mâm rượu được bưng đi, trầu nước được bày ra, ông Tiên chỉ đưa cơi trầu mời Vũ Cảnh. Chàng nhặt một miếng trầu gồm cau, trầu không và vỏ, giữa mùa xuân lạnh, không có cau tươi, chỉ có cau khô, nhưng cau khô đây là loại cau đậu, trắng và ngon. Cầm miếng cau khô, Vũ Cảnh ngắm nghía, nắn nắn khẽ hai đầu miếng cau bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ, thật là mềm và mặc sự nắn bóp như vậy, hạt cau cũng không long khỏi miếng bì cau. Vũ Cảnh khen:
- Cau đậu ngon quá chẳng hay đây là cau nhà phơi hay cau mua? Ông Tiên chỉ vừa nhặt xong miếng trầu, đã chú ý tới động tác nắn cau của chàng, ông gật gù nói:
- Cháu Giáng Thu nó phơi đó. Phơi cau may được nắng thì ngon! Thực ra phơi cau là cả một nghệ thuật, sở cậy ở nắng đã đành, nhưng cũng phải biết sấy cau nếu không được nắng; và khi đem phơi, phải xếp nhẹ từng miếng cau mới giữ được cau đậu. Ông Tiên chỉ nói may được nắng chỉ là một câu nói khiêm nhượng cũng có ý muốn khoe tài nữ công nội trợ của con gái.
Vũ Cảnh nhặt miếng trầu không, trầu tươi têm cánh phượng tăng vẻ ngon lành, và cả đến miếng vỏ cắt cũng khéo, miếng vỏ vun vút cheo chéo đầu dày đầu mỏng, lại là loại vỏ đỏ tươi trông thật nổi màu bên miếng trầu xanh.
Nhặt miếng trầu xanh lên, Vũ Cảnh cũng ngắm nghía rồi buột miệng khen: Chà! Trầu têm cánh phượng sao mà khéo quá!
Ông Tiên chỉ khẽ vuốt râu, thủng thẳng nói:
https://thuviensach.vn
- Ấy cũng cháu Giáng Thu nó têm trầu. Con gái nhà nền nếp, ít nhất cũng biết têm miếng trầu cho chỉnh! Và cũng cần phải biết làm bữa rượu cho bố tiếp khách, bữa rượu phải sang trọng, lịch sự mà không cần cầu kỳ!
Vũ Cảnh đưa miếng cau, miếng trầu không sau cùng vào miệng nhai. Trầu không têm thật vừa vôi, nhai miếng trầu chàng cảm thấy thơm ngon! Ông Tiên chỉ cũng đã bỏ miếng trầu vào miệng nhai. Trên án thư đã có một ống nhổ bạc nhỏ để đựng bã trầu, và để khách ăn trầu dùng, mặc dầu, dưới chân án thư ngay mặt đất đã có một chiếc ống nhổ đại thật lớn. Vũ Cảnh nhai miếng trầu khen ngon, và nhân đó cũng ca tụng bữa rượu là lịch sự. Chàng nói:
- Chắc mâm rượu cũng do tiểu thư Giáng Thu sửa soạn! Món ăn nấu thật khéo, thật vừa miệng, nhắm rượu tăng thêm vị rượu!
Ông Tiên chỉ cười khà khà, và nói:
- Thầy Khóa thật quá khen! Cháu nó được mẹ nó dạy bảo, nên công việc bếp núc cũng tạm được!
- Tiểu thư thật hơn người, nội trợ giỏi, lại văn thơ cũng đáng phục! Ông Tiên chỉ làm bộ sửng sốt.
- Cháu nó có làm văn thơ bao giờ!
Vũ Cảnh thưa:
- Thưa lão bá, việc tiểu thư nhắc vãn sinh đối vế câu đối của lão bá cũng đủ chứng thực văn tài của tiểu thư. Hơn nữa, chắc lão bá lúc chiều cũng để ý đến hai đôi câu đối dán trước cửa phòng vãn sinh.
- Có, lão có đọc! Cả hai đôi câu đối đều được lắm, người ra đã khéo, mà người đối cũng hay! Chí khí, tâm tư đều đã bộc lộ qua lời văn nét chữ! Nhưng lão không nghĩ là của cháu Giáng Thu!
- Thưa lão bá, theo vãn sinh nghĩ thì ở đây, ngoài lão bá và tiểu thư ra, ai là người có thể ra nổi vế câu đối và đối được vế của vãn sinh ra một cách hay và bao hàm tâm tư đáng phục như vậy!
Ông Tiên chỉ gật gù, chậm rãi vừa nhai trầu vừa nói:
- Thầy Khóa nói cũng có lý! Con bé thật múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm! Nó học hành đã được bao nhiêu, chẳng qua chỉ học mót do lão dạy mà thôi!
https://thuviensach.vn
- Thưa lão bá, người thông minh học ít mà biết nhiều. Chỉ tiếc giỏi giang và chí khí như tiểu thư lại là con gái. Tiểu thư ví là con trai, ắt đất nước cũng được nhờ nhiều lắm!
Nghe Vũ Cảnh nói, ông Tiên chỉ cho chàng biết, tuy là gái, nhưng Giáng Thu vẫn ao ước làm những công việc của những kẻ hào kiệt trong lúc nước nhà nghiêng ngửa. Chính vì vậy, mà cho tới ngày đó, nàng đã ngoài hai mươi vẫn chua chịu kết lứa đôi. Trong làng Hội Hợp và mấy xã chung quanh cũng đã có mấy người đánh tiếng, nàng đều không ưng vì những người đó nàng cho là hạng tầm thường, và theo lời nàng đấy chỉ là phường giá áo túi cơm, không biết nghĩ xa hơn ngưỡng cửa. Nàng ao ước được gặp một trang nghĩa sĩ, cùng với người nàng sẽ đi theo tiếng gọi của non sông. Dù cung kiếm nàng không giỏi, nhưng sống trên đất dụng võ, nàng cũng hiểu biết thế nào là võ lược, ông Tiên chỉ cũng không giấu diếm là ông đã nói chuyện với nàng về chí khí của Vũ Cảnh và nàng có lẽ phục chàng lắm!
Rồi như mượn hơi rượu, ông đã nói rõ với Vũ Cảnh ý muốn của ông, cũng giống như nàng:
- Con bé nó hư lắm! Nó cứ muốn được noi gương thầy Khóa! Lão thương con, lão thấy nó muốn làm việc lớn, đã giảng nghĩa cho nó hay những sự khó khăn, nhưng nó cứ khăng khăng muốn dấn thân theo bước đường nguy hiểm! Chẳng hay thầy Khóa có chịu cho nó theo gương chăng? Nó muốn trở thành một nữ tướng như cô Ba của ông Đề.
Vũ Cảnh chưa biết trả lời ra sao, ông lại nói:
- Giá thầy Khóa mà thương yêu nó, cho nó theo hầu hạ...
- Thưa lão bá, con đâu dám, tiểu thư hơn người như vậy.
- Lão nói theo hầu hạ là ý lão muốn thầy Khóa chấp nhận cùng nó thành đôi lứa!
Vũ Cảnh đứng lên vái ông Tiên chỉ:
- Lão bá thật quá thương, chỉ e vãn sinh không xứng đáng làm giai tế trong gia đình!
Ông Tiên chỉ cười, và câu chuyện đã đi thẳng đến chỗ phải đến. Vũ Cảnh rất sung sướng nếu chàng cùng Giáng Thu sánh đôi, nhưng vì trong bước đường luân lạc, chàng chưa kịp bẩm mệnh mẹ cha, nên chàng xin khất để
https://thuviensach.vn
đợi sự ung thuận của hai thân. Đó là một điều rất hợp lý, và người con hiếu phải như vậy. Tuy nhiên, để Giáng Thu yên tâm ông Tiên chỉ xin chàng trao cho một tín vật. Chàng rút chiếc trâm cài búi tóc đưa ra, và ông Tiên chỉ lúc này cũng gọi thẳng Giáng Thu tới và nàng đã trao cho chàng chiếc khăn hồng làm tin.
Lúc này, chàng mới hiểu ý tại sao ông Tiên chỉ lại nhắc tới bài thơ của Đỗ Thu Nương.
Tới đây có lẽ có bạn đọc thắc mắc cho là câu chuyện đi đã quá mau và đã có sự quá sỗ sàng không tự phía này cũng tự phía kia. Sự thật, trong câu chuyện đôi bên đã hết sức e dè với mọi sự đắn đo cần thiết. Vả lại, từ ngày Vũ Cảnh tới tạm trú nơi nhà ông Tiên chỉ, chàng đã có đôi ba lần thấy bóng dáng người đẹp, và trong thân tâm chàng cũng đã nghĩ đến bóng dáng yêu kiều này, lại thêm hai đôi câu đối đã khiến chàng phục tài nàng, thì như vậy, từ đó đi đến chỗ yêu đương chỉ một bước!
Sau hôm đó, Vũ Cảnh được mọi người trong nhà đều coi như giai tế chính thức của ông Tiên chỉ. Và chàng cũng đã viết thư về trình bố mẹ!
https://thuviensach.vn
VI
LUYỆN VÕ
Trên con đường từ Hội Hợp về Tích Sơn, hai bên cánh đồng xen lẫn nhiều khóm cây lớn. Nếu ngày nay nơi này đã là đồng ruộng hoàn toàn, thì trước đây tuy có ruộng nương, nhưng Vĩnh Yên đạo vốn nằm trên miền trung du, nên có ruộng mà cũng có rừng. Lỵ trấn của Vĩnh Yên đạo nằm trên khoảng đất giữa làng Tích Sơn, Đinh Trung và Khai Quang sau này đều thuộc huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Yên.
Vĩnh Yên đạo, nếu có cái gì đặc biệt hơn những đạo khác phải kể dãy núi Tam Đảo và Đầm Vạc.
Tam Đảo là dãy núi lớn nằm về phía Bắc tỉnh ngăn cách Vĩnh Yên và Thái Nguyên, sau này khi Vĩnh Yên được đổi thành tỉnh vào năm 1899, dãy núi cũng thuộc địa phận huyện Tam Dương. Tam Đảo có ba ngọn núi chon von là Phú Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị. Trên đỉnh Thạch Bàn có một ngôi chùa trong thờ một pho tượng bằng đồng gọi là Đồng Tự. Đừng ai tưởng tượng Đồng Tự là một chùa lớn, đây là một ngôi chùa rất nhỏ, có thể
https://thuviensach.vn
gọi là một ngôi chùa tý hon, dung tích cả chùa chỉ vào khoảng nửa thước khối. Tượng Phật nhỏ, bát hương cũng nhỏ, thỉnh thoảng lắm mới có người tới hành hương. Năm 1939, khi chúng tôi hành hương, ngôi chùa còn nguyên cả tượng Phật, tượng đồng dát vàng, nhưng nghe nói sau này có kẻ đã ăn cắp mất pho tượng.
Cững ở trên đỉnh núi Thạch Bàn này xưa Cao Biền có khắc bia để kỷ niệm chiến thắng quân Nam Chiếu và việc quân Tàu đánh chiếm Long Biên. Ở trên đỉnh Thạch Bàn đi xuống về phía Tây có làng Sơn Đình, ở đây có chùa Tây Thiên còn gọi là Địa Ngục tự, một ngôi chùa rất nổi tiếng. Cách Sơn Đình độ bốn cây số ở chân núi còn có một ngôi chùa gọi là chùa Thang.
Đỉnh Phú Nghĩa là đỉnh cao nhất, trên có hai ngọn núi gọi là Hội Hương và Quế Phụ. Lại có một dòng suối chảy xuống, nước trong lóng lánh rất đẹp gọi là Kim Tuyền hoặc Suối Vàng. Suối Vàng chảy thông vào một dòng suối nữa gọi là suối Giải Oan.
Sau này người Pháp thành lập ở Tam Đảo một nơi nghỉ mát. Trên đây là vài nét sơ qua về dãy núi Tam Đảo, dưới đây chúng tôi xin nói phác tới Đầm Vạc.
Ai đã có dịp đứng trên dãy núi Tam Đảo mà nhìn xuống Vĩnh Yên, ắt hẳn thấy sát ngay thị trấn Vĩnh Yên một làn nước trắng bao la, giống hình một chiếc vạc ba chân: đấy là Đầm Vạc. Đầm Vạc rộng lớn ăn vòng qua chín làng thuộc hai huyện Tam Dương và Bình Xuyên, trong đó có các xã Vị Thanh, Tích Sơn và Định Trung thuộc huyện Tam Dương. Đầm ăn thông với hai con sông Cà Lồ và Tiểu Đáy.
Đầm Vạc rộng và sâu, nước lên xuống tùy theo mùa mưa hay nắng. Sáng hôm đó, một buổi sáng mùa xuân năm Giáp Ngọ, trên con đường nhỏ từ Tích Sơn tới bờ Đầm Vạc có bóng ba người đi trong sương, hai đàn ông và một đàn bà. Trời lạnh, họ đều mặc quần áo ấm. Người đàn bà mặc áo bông cộc, bên trong là một chiếc áo dài nâu, đầu chít chiếc khăn mỏ quạ bịt kín hai tai. Trông ra là một thiếu nữ khoảng trên dưới hai mươi. Hai người đàn ông, một già, một trẻ, người già khoảng ngoại lục tuần, còn người trẻ mới độ trên hai mươi lăm.
https://thuviensach.vn
Tuy trời còn lạnh mà ngay từ sáng sớm trên mặt đầm đã có nhiều người đánh cá. Đây là dân làng Vị Thanh, Vị Trù, trai có, gái có, trẻ có, già có. Cảnh đánh cá trên mặt đầm rất hoạt động và vui vẻ. Ánh bình minh hé chiếu ở phương Đông đỏ lòm xuống mặt đồng. Gió sớm làm làn nước bạc rung rinh gây nên những con sóng nhỏ gợn hồng. Những con thuyền nhỏ đi ngang dọc trên mặt nước, bơi chèo khua nước bắn trong như bạc lên mạn thuyền. Thuyền từ từ đi, người thuyền chài tung chiếc lưới gai đen tỏa ra rơi xuống mặt nước trùm một bề mặt khá rộng lớn, rồi khép dần lại ở dưới nước theo sức nặng của những thỏi chì, khiến những đàn cá ở trong vòng lưới đành chịu mắc nghẽn để chờ lôi lên khỏi mặt nước. Có những chiếc thuyền to hơn, lưới không tung như vậy, lại do vài người thuyền chài lội dưới nước dăng ra quây hẳn lấy một vùng đầm. Trong khi đó thì có những thiếu nữ, những ông già chở những chiếc thuyền nan đi đuổi cá về phía lưới. Thuyền nan bơi nhè nhẹ, thiếu nữ hoặc ông già dùng hai miếng gỗ gõ mạnh vào nhau tạo nên những tiếng động, xua cá về cả một hướng. Chiếc lưới dăng dần dần khép lại. Đàn cá bị đuổi, bơi vào mắc lưới. Mỗi lần một chiếc lưới kéo lên, những con cá bạc quẫy như muốn trốn. Chiếc lưới kéo dần dần, đàn cá mắc lưới nhoi dần lên khỏi mặt nước, được các người trên thuyền gỡ dần ra ném vào khoang. Có cá to, có cá nhỏ đù loại.
Vừa đánh cá, dân chài vừa trò chuyện, nói cười với nhau. Mặt trời dần lên cao, cuộc đánh cá hàng ngày cũng xong dần.
Ba người bộ hành, đứng trên bờ đầm Vạc, nơi đối diện với xã Vị Thanh, ngắm dân chài làm ăn vất vả, chịu cực với lạnh để kiếm miếng sống. Chàng trai - đây chính là Vũ Cảnh, còn hai người kia là cha con ông Tiên chỉ - nói với hai người:
- Dân mình làm ăn khó khăn thế kia mới có miếng sống. Vậy mà bọn giặc Pháp chúng nghe theo lũ bán dân, hại nước thu thuế rất cao. Giáng Thu nói:
- Vì thế dân ta mới cần xiết chặt hàng ngũ để cùng nhau đánh đuổi bọn chúng, để thoát cái xiềng xích chúng đang quăng lên đầu lên cổ chúng ta!
https://thuviensach.vn
Ba người tới Đầm Vạc làm gì? Nguyên từ sau bữa rượu với đôi câu đối ĐINH HƯƠNG HOA, Vũ Cảnh đã có sự đính ước với Giáng Thu và chàng cũng đã báo cho cha mẹ biết. Cha mẹ chàng có thư lên Tam Đái, ngỏ ý không ngăn cản việc hôn nhân, và mẹ chàng hứa sẽ có ngày lên Hội Hợp để thưa chuyện với ông Tiên chỉ.
Ông Tiên chỉ vốn là con người phóng khoáng, tuy theo nho học, nhưng không nhất thiết giữ đúng những điều cố chấp của đạo nho, nên sau đó giữa Vũ Cảnh và Giáng Thu thường có những cuộc gặp gỡ, khi thì ở hoa viên, khi tại trước hiên nhà, và cũng có lần Vũ Cảnh mời Giáng Thu vào thư phòng. Đôi bên có nhiều dịp tìm hiểu nhau, và càng khâm phục nhau vì tài cũng như vì chí. Vũ Cảnh hoạt động cho đất nước nào có khác chi những nghĩa sĩ thời Trần mạt đã chống lại quân Minh, còn Giáng Thu nàng rất khâm phục cô Ba ông Đề Thám, và nàng nguyện cũng sẽ làm được những việc cô Ba làm. Nàng thường bảo Vũ Cảnh: Là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu ít ra cũng phải noi gương cô Ba của ông Đề. Đã từ mấy hôm nay, đô Giang ở Vị Thanh đã cho người sang Hội Hợp mời ông Tiên chỉ và Vũ Cảnh tới thăm nơi luyện võ của nghĩa quân, thiết lập tại xã Vị Thanh, trong một khu vườn thưa.
Ông Tiên chỉ bàn với Vũ Cảnh rất kỹ về việc này và hai người cũng muốn thấy tận mắt mọi sự tiến triển của lớp huấn luyện này. Kể từ ngày đô Giang theo lời Vũ Cảnh đảm nhiệm việc huấn luyện nghĩa quân, số người được tuyển lựa cũng khá đông, và cũng đã có những người, sau một thời gian luyện tập, được sự giới thiệu của Vũ Cảnh tới Nhã Nam nhập vào quân đội của ông Đề.
Khi được biết cha và Vũ Cảnh sang Vị Thanh để thăm lớp luyện võ của đô Giang, Giáng Thu xin đi theo. Sáng hôm đó ngay từ gà gáy, ba người đã từ Hội Hợp khởi hành ra đi, và khi tới bờ Đầm Vạc, nơi đối diện với Vị Thanh, trời vừa sáng, và vừa gặp lúc dân chài quanh đầm đang hoạt động đánh cá.
Nơi đây, vẫn có những chiếc thuyền nan chở khách từ bờ này qua bờ kia Đầm Vạc, nhưng vì có hẹn trước nên đô Giang đã phái một thủ hạ đợi sẵn
https://thuviensach.vn
tại nơi đây, để chở ba người qua, như vậy vừa mau chóng lại vừa tránh được sự chú ý tò mò của lái thuyền, cũng như của một số dân chài. Con thuyền nan cắm sào đợi, người nhà đô Giang vẫn để ý nhìn về phía Tích Sơn, trước đây muốn tới bến Đầm Vạc, dân xã Hội Hợp thường đi theo con đường nhỏ men bên lũy tre xã Tích Sơn. Ba người vừa tới bến còn đang muốn kiếm thuyền, thì người nhà đô Giang đã chèo thuyền tới trước mặt và hỏi:
- Cụ và cô, cậu muốn sang Vị Thanh? Xin mời cụ và cô cậu xuống đây con chở.
Ba người bước xuống thuyền nan, người lái cầm sào chống đứng thuyền xa rời khỏi bến, khi tới chỗ nước sâu, người đó mới bỏ sào lấy bơi chèo ra bơi.
Con thuyền từ từ đè nước lướt trên những làn sóng nhỏ lăn tăn. Ánh sáng sớm mai chiếu những tia nắng làm hồng hồng mặt nước. Gió sớm như tăng thêm cái lạnh lẽo của tiết trời.
Ngồi trên thuyền, ba người không nói chuyện gì, chỉ ngắm trời mây hoặc nhìn những người thuyền chài đang đánh cá trên mặt đầm. Khi thuyền gần tới bến Vị Thanh, người lái đò lên tiếng hỏi: - Thưa cụ và cô, cậu, có phải các vị sang thăm anh đô Giang? Cả ba người đều giật mình vì câu hỏi này. Tại sao người lái thuyền lại biết họ, và hơn nữa biết rõ họ sang thăm đô Giang. Chưa ai kịp hỏi lại, người này đã nói thêm:
- Anh Đô dặn con đón cụ ở đây. Anh đã tả hình dáng cụ và cậu cho con rõ. Khi cụ tới con đã biết, nhưng lại thấy có thêm cô nên con muốn hỏi vậy! Anh lái đò là người xã Vị Thanh và chân tay của đô Giang, đã được đô Giang cho biết về công cuộc chiêu tập hào kiệt của Vũ Cảnh và sự hỗ trợ của ông Tiên chỉ và anh cũng đã xin đô Giang được lên Nhã Nam sung vào đạo nghĩa quân của ông Đề Thám; hiện nay anh là một học viên theo lớp huấn luyện quân sự và học võ của đô Giang.
Thuyền cặp bến Vị Thanh. Xã Vị Thanh nằm bên bờ đầm, nhưng đây là đất đồi nên mới chỉ có một số ít là đất thổ canh, còn lại phần lớn là đất rừng thưa, và có khu là rừng rậm nữa. Đi đến đây, những ai đã từng sống ở đất
https://thuviensach.vn
Vĩnh Yên trước năm 1954, ắt phải ngạc nhiên, Vì chung quanh xã Vị Thanh không làm gì có rừng, có chăng chỉ ở mé bên kia đầm về phía thị xã Vĩnh Yên là có một khu rừng, và trong khu rừng này trước đây người Pháp đặt cơ sở hành chính thường được gọi là dinh ông Công sứ.
Không phải vì vậy mà trước đây quanh xã Vị Thanh không có rừng, rừng này từ ngày có tỉnh lỵ Vĩnh Yên, dân chúng đã khai phá dần, đốn cây, và đã biến thành vườn ruộng về sau này.
Người lái thuyền, sau khi cắm sào lên bộ, tự dẫn ông Tiên chỉ, Vũ Cảnh và Giáng Thu về nhà đô Giang. Đường đi quanh co, một lát tới một xóm nhỏ. Đô Giang đã đứng chờ cùng đám người khác, trong số đó có ba người từ Nhã Nam tới để huấn luyện quân sự nhưng thực ra đây chỉ là cách chỉ bảo cho anh em biết sử dụng súng. Còn vài người nữa là những tay đô vùng Tam Đái.
Đô Giang mời ba người vào trong nhà, và sau một tuần trầu nước, Vũ Cảnh đề nghị cho ba người đi xem nơi luyện võ để gặp gỡ anh em. Nơi luyện võ ở giữa khu rừng thưa, nơi ít ai đi lại, cách nhà đô Giang độ hai dặm. Đô Giang đã cho cất hai căn nhà lá cột tre để anh em tạm trú, ngoài ra chính anh em cũng tự sửa sang lấy nơi diễn võ của mình, chặt cây cối, lập hàng rào tre.
Vì đã có tin trước, khi ông Tiên chỉ, Vũ Cảnh và Giáng Thu được dẫn tới, anh em đã tề tựu đông đủ để nghênh đón. Cùng với anh em nghĩa quân, cũng có mấy chị phụ nữ, đây hoặc là chị em của các nghĩa quân cùng muốn theo gương nam nhi diệt thù trong cơn quốc nạn, và một vài chị là những người phụ trách bếp nước, trông nom sự ăn uống cho anh em để anh em rảnh tâm luyện tập, chóng thành công để sớm được tham gia vào việc kháng địch.
Đô Giang giới thiệu mọi người với ông Tiên chỉ, Vũ Cảnh và Giáng Thu, và cũng giới thiệu ba người này với tất cả các nghĩa quân nam nữ. Ông Tiên chỉ trước hết nói mấy lời khuyến khích, rồi Vũ Cảnh trình bày tình trạng đất nước đang bị giặc Pháp cai trị, triều đình thì vua quan chỉ là một lũ tay sai lớn nhỏ, trong dân gian thì bị lũ chó săn ức hiếp. Cụ Phan Đình Phùng và ông Đề Thám trước sự thể đau khổ không thể nhắm mắt làm ngơ,
https://thuviensach.vn
phải nêu cao cờ Cần Vương cứu nước, nhưng rất khó thắng giặc, vì giặc nhiều súng ống, lại sẵn bọn lính tập chúng mộ rất dễ dàng bằng cách trả lương cao. Còn nghĩa quân, đây chỉ là những người có lòng yêu nước, không chịu được sự đô hộ của giặc ngoài, không chấp nhận giang sơn của ông cha bị bọn quỷ dương dày xéo, và không chịu đựng nổi sự ức hiếp của chúng đối với dân ta, trên từ vua quan, dưới đến dân giả. Vua Hàm Nghi phất cờ khởi nghĩa đã thất bại, bao nhiêu anh hùng nghĩa sĩ khác đã nổi lên, chỉ biết theo mục đích đuổi giặc không kể chi thành bại.
Vũ Cảnh kết luận: Việc chúng ta làm không thành công thì thành danh. Chúng ta nêu một tấm gương cho con em sau này, chúng ta vì nền độc lập của nước nhà, vì sự sống còn của muôn dân, thân chúng ta chi xá kể, chúng ta cứ vững tiến không kể chi thành bại.
Lời Vũ Cảnh được tất cả các anh chị em nghĩa quân hò reo đón nhận. Thời đó chưa có tục vỗ tay, để tỏ nỗi vui mừng và sự hoan nghênh người ta chỉ reo hò nhảy nhót.
Đô Giang đứng lên thay lời mọi người cảm tạ những lời khuyến khích và trình bày của hai người, sau đó là những cuộc tập tành huấn luyện được biểu diễn. Số nghĩa quân được tụ tập không đông, chỉ vào khoảng trên ba chục người, cả nam nữ. Tuy không đông, nhưng ở một xã quê số người đó cũng đáng kể, và những biện pháp để ngăn cản sự tiết lộ cũng không dễ dàng, tuy nơi huấn luyện được thiết lập tại giữa rừng.
Ba huấn luyện viên quân sự, như đã trình bày, đã từ chiến khu Nhã Nam tới, theo lời xin của Vũ Cảnh với ban chỉ huy chiến khu ông Đề. Đây là những người không những thạo về cách sử dụng súng ống, cách tiến lui theo phương pháp mới, mà còn là những chiến sĩ đã có chiến công trong những cuộc phục kích quân Pháp và bọn lính tập.
Hơn ba mươi nghĩa quân nam nữ nhưng chỉ có sáu khẩu súng trường, ba khẩu do ban huấn luyện viên mang tới, còn hai khẩu vừa do đô Giang và một số đô vật có nghĩa khí vùng Tam Đái góp tiền mua lậu được của người Trung Hoa, còn khẩu thứ sáu do một nghĩa quân nguyên trước là lính khố xanh trong hàng ngũ quân đội Pháp đào ngũ mang tới. Số súng dùng để
https://thuviensach.vn
luyện tập cũng tạm gọi là đủ, và khi tập tiến quân, đô Giang đã cho đẽo những súng gỗ phân chia cho mọi người.
Như thường lệ, đô Giang đã cắt người canh gác cẩn mật trước cửa rừng để phòng bị mọi sự bất trắc. Việc canh phòng được tổ chức luân phiên giữa các anh em nghĩa quân.
Theo hiệu lệnh của ba huấn luyện viên, anh chị em nghĩa quân ra sân xếp thành hàng ba.
Bắt đầu cuộc biểu diễn là sự sử dụng các khẩu súng do năm nam và một nữ nghĩa quân thực hiện. Loại này là những loại súng thường dùng trong quân đội Pháp thời đó, trong sáu khẩu súng, có hai khẩu súng tiếng Pháp là mousqueton và bốn khẩu phú dinh, tiếng gọi của những khẩu súng chế tạo riêng cho quân lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội Pháp, chữ Pháp gọi là Fusil Indochinois. Ngoài sáu nghĩa quân có súng, các nghĩa quân khác đều vác súng gỗ. Trong khi tập trước đây, tuy với súng gỗ, nhưng họ vẫn làm theo những động tác như sử dụng súng thật, như lắp sác-giơ15như lên đạn, kéo quy-lát, bóp cò.
Sáu nghĩa quân tách riêng hàng ngũ sử dụng súng từ lắp đạn ngắm bắn, rồi bóp cò theo mọi động tác đã được chỉ dẫn, tuy không lắp đạn thật. Sau sáu nghĩa quân này tới sáu nghĩa quân khác cùng bước ra, nhận những cây súng và nhắc lại nguyên những động tác hàng ngày họ vẫn được chỉ dẫn, rồi lại sáu người khác cho đến hết số nghĩa quân.
Ông Tiên chỉ, Vũ Cảnh và Giáng Thu theo dõi rất chăm chú sự biểu diễn này. Giáng Thu nói với Vũ Cảnh:
- Rồi em cũng phải tập bắn súng, để có dịp giết quân thù.
Sau cuộc biểu diễn sử dụng súng, các huấn luyện viên cho anh chị em biểu diễn một cuộc tiến quân. Nghĩa quân vác súng đi hàng một, cách xa nhau, rồi đến những chỗ khúc khuỷu, nấp, bò, nhắm bắn địch như trong một cuộc hành quân thật. Cuộc biểu diễn kéo dài chừng một khắc, sau đó anh chị em nghĩa quân lại tụ tập đứng xếp hàng ba tại sân huấn luyện.
Vũ Cảnh tỏ lời khâm phục các huấn luyện viên, nhưng tỏ ý tiếc vì súng ống không đủ cho mọi người dùng. Đô Giang nói:
https://thuviensach.vn
- Súng dùng để bắn khi địch ở xa. Gần địch thì ta dùng võ cổ truyền, như vậy, nếu xung trận sáp lá cà quân ta sẽ hơn hẳn quân địch. Và để chứng tỏ cho ông Tiên chỉ và Vũ Cảnh thấy sự luyện tập võ nghệ của nghĩa quân, đô Giang yêu cầu một nữ nghĩa quân ra sử dụng một bài quyền, bài Mai hoa quyền trong môn Võ Thiếu Lâm, bắt đầu từ miếng Đồng tử bái Quan âm.
Người nữ nghĩa quân, bận quần áo gọn gàng, đi hết bài Mai hoa quyền một cách đẹp mắt, từ ngón đá, ngón đấm, ngón tiến, ngón lui. Giáng Thu nhìn nàng không chớp mắt. Và khi bài quyền biểu diễn xong, nàng được reo hò ngợi khen nhiệt liệt.
Sau đó, một nghĩa quân khác ra múa gươm, thanh gươm lại sắc, sáng loáng lấp lánh dưới ánh mặt trời được múa vù vù tạo nên một hơi gió khá mạnh.
Kế đó là một cuộc đấu vật của hai nghĩa quân đô vật. Hai người đều tỏ tài, keo vật thật là hấp dẫn chẳng kém chi keo vật giữ giải của đô Giang tại xã Hội Hợp.
Đô Giang trình bày cùng ông Tiên chỉ và Vũ Cảnh rõ, tất cả các nghĩa quân nam nữ đều biết sử dụng một vật để phòng khi lâm trận có thể dùng đến.
Giữa lúc ấy, Giáng Thu vẫy một nữ nghĩa quân và xin ba huấn luyện viên để người này đi cùng với nàng, vào trong nhà. Một lúc sau, hai người đi ra thì Giáng Thu đã thay bộ quần áo buổi sáng bằng bộ quần áo nữ võ sinh với quần ống chẽn và hai tay cũng chẽn tay.
Nàng nhìn cha và Vũ Cảnh mỉm cười. Nàng nói cùng với mọi người: - Các anh chị em đã biểu diễn quân sự và võ nghệ, để mọi người mua vui hôm nay tôi cũng xin đem tài mọn múa rìu qua mắt thợ, với một vài đường quyền.
Nàng được mọi người hò reo hoan nghênh. Trông nàng trong y phục nữ võ sinh thật xinh đẹp, một vẻ xinh đẹp rắn rỏi nhưng rất dễ thương. Nàng vẫn chít chiếc khăn mỏ quạ che kín bên đôi thái dương đến mái tóc mai, chỉ lộ đôi gò má hồng hồng vì trời lạnh. Môi nàng thắm đỏ, một phần vì ăn trầu, nhưng nhiều hơn chính vì vẻ đẹp tự nhiên.
https://thuviensach.vn
Vũ Cảnh nhìn người yêu một cách trìu mến. Chàng từng nghe nói nàng biết võ, vậy mà bữa nay, nàng đã dành cho chàng một sự ngạc nhiên. Thấy người yêu nhìn mình không rời mắt, Giáng Thu cũng nhìn chàng mỉm cười với một nụ cười đầy âu yếm.
Nguyên nàng là con gái duy nhất của ông Tiên chỉ nên rất được chiều chuộng. Gia dĩ nàng lại thông minh, ngoan ngoãn. Nàng đã được cha dạy Hán tự, nhưng nhiều lần nàng ngỏ ý với cha mẹ nói rằng trong thời loạn, gái trai gì cũng cần biết đôi chút võ nghệ để giữ mình và nếu cần thì cứu nước hoặc ra tay giúp đỡ người khác trong trường hợp bất bình. Ông Tiên chỉ ý không muốn nàng luyện tập võ nghệ, nhưng bà Tiên chỉ chiều con hơn, đã bảo chồng:
- Làng mình là đất vật, đất Tam Đái lại là đất xưa nay chuộng võ, con nó muốn luyện võ, ông cũng chẳng nên ngăn.
Thế là ông Tiên chỉ nghe theo và mượn võ sư danh tiếng về để Giáng Thu học cùng với mấy anh em trai.
Bước ra sân biểu diễn, nàng đã được tất cả mọi người chú ý. Trông nàng thật mặn mà dễ thương, và nụ cười luôn luôn nở như hoa tươi giữa cặp môi hồng.
Nàng xin đi bài Bát bộ liên hoa quyền. Những đường quyền của nàng vừa nhanh nhẹn lại vừa kín đáo, những cái đá thật gọn, những chiếc đấm thật mau và cũng thật mạnh. Người nàng xoay theo đường quyền có lúc tạo nên những luồng gió, và khán giả, các anh chị em nghĩa quân như có cảm tưởng thấy quanh người nàng có một lớp hơi mờ mờ bao phủ.
Bài quyền dứt, mọi người khen ngợi, và yêu cầu nàng biểu diễn lại lần nữa để được thưởng thức kỹ lưỡng hơn tài nghệ hơn người của nàng. Nàng cúi chào cảm tạ mọi người, và xin phép thay vì đi lại bài Bát bộ liên hoa quyền, đi mấy đường Hầu quyền. Đề nghị của nàng được mọi người tán thưởng và đường Hầu quyền của nàng cũng tuyệt mỹ như những đường Bát bộ liên hoa lúc trước.
Bài quyền đi xong, má nàng như rực hồng hơn, mắt nàng trông như giếng sâu, và môi nàng càng thắm hơn son đỏ.
https://thuviensach.vn
Nàng vái chào mọi người, toan đi vào đứng cạnh cha thì ông Tiên chỉ đã nói:
- Giáng Thu! Con nên múa một bài kiếm để các vị xem, nếu có chỗ nào sơ xuất, nhờ các vị chỉ bảo thêm cho.
Vâng lời cha, Giáng Thu nhờ một nữ nghĩa quân cho mượn thanh kiếm. Nàng lại vào sân, vờn đường kiếm loang loáng như mưa sa, ào ào như gió thổi, càng khiến cho mọi người kính phục tài nghệ của nàng.
https://thuviensach.vn