🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhiều Cách Sống
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Mở đầu
1
2
3
4
5
6
Cuốn tiểu thuyết không chương và sa mạc còn lại
“Có nhiều cách sống, và nhiều cách chết. Nhưng quan trọng gì đâu. Điều duy nhất còn lại là sa mạc.”
(Haruki Murakami)
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Tặng chồng và con tôi
Cuộc sống mãi chỉ là một và nhiều cuốn tiểu thuyết ngắn, dài bất tận.
Cô nói, cô là một cô gái. Đơn thuần là một cô gái. Cô gái này có đôi mắt trong, ai nhìn cũng có thiện cảm. Nhưng ánh nhìn thì nhiều nỗi nghi ngại. Chẳng dễ tin người.
Cô như con bướm lang thang tìm đêm. Lang thang nhiều đến rã rời cánh mỏi. Lang thang trong góc tối chật hẹp, khoảng không thì mịt mờ, không thể đậu lại ở đâu, cũng không biết tựa nương chốn nào. Cả tuổi trẻ là tháng ngày tìm đêm, tìm người, tìm bản ngã… Tìm để không thể thấy. Tìm rồi thất vọng. Tìm và đau.
Giữa thiên hà bất tận nở ra một nỗi buồn truyền kiếp. Nỗi buồn chứa mọi sinh linh đang cần hít thở. Cô nằm bình yên trong vạn sinh linh ấy.
Tên cô là Lâm Lâm.
Lâm Lâm là người Việt Nam. Sinh ra, lớn lên, trưởng thành ở Việt Nam. Tên Lâm Lâm do cha mẹ đặt. Họ có cô trong một lần đi cùng nhau du hành chốn rừng sâu. Cô được tượng hình từ sự non nớt của mẹ và nỗi thiếu kinh nghiệm của cha. Khi mẹ cô có cô được sáu tháng, hai người mới hối hả làm đám cưới. Cưới chạy.
Cũng thật may là cô sinh ra có mẹ, có cha, có ông bà hai bên nội ngoại. Có cả một đại gia đình.
Cô là một đứa trẻ được thừa nhận. Cứ cho là bố mẹ không có tình yêu với nhau, thì họ có cô làm sợi xích giằng nối.
Cô là sợi xích.
Đơn giản thế thôi.
Lâm Lâm rất hay cười. Bởi có muốn khóc thì cũng chẳng thể nào khóc được. Nước mắt cùng lắm thì ư ứ ở hai khóe mắt. Rồi tan biến đi như sương mờ. Vì cười nhiều, nên có hai nếp nhăn hằn ở đuôi mắt. Mắt của Lâm Lâm cũng là đôi mắt biết cười.
Cảm xúc thay đổi bất ngờ. Dễ giận hờn vô cớ. Đây là vui. Đây là buồn. Vui buồn buồn vui hết sức phức tạp. Cô còn không biết được chính mình là ai.
*
Như một trường ca vô thanh. Đêm kéo dài và âm ỉ. Phủ lấp mọi đớn đau chẳng bao giờ cấu thành nên một cái tên. Trời đột ngột trở
lạnh. Cái lạnh ngọt ngào nhưng buộc người ta phải buốt nhói nơi ngực. Lạnh một cách đoạn tuyệt. Đêm của phố là đêm không trăng, không đèn, không ánh sáng. Đêm rất đêm. Âm hưởng tan vào đêm là tiếng còi các loại xe gắn máy. Có vẻ bất tuân luật. Từng tiếng còi xe tan loãng vào đêm như một niềm cô đơn bí ẩn muốn kêu gào mà chợt tắc ngang chừng vòm họng. Tiếng còi phá tan thinh lặng đêm, vọng từ đường phố này sang đường phố khác. Xé rách đêm chờ tia sáng đầu ngày.
*
Cô hay nói đến từ đau. Lúc này cô mười hai tuổi.
Hình như cô vừa bỏ nhà đi. Cô không nhớ rõ lắm. Trên tay cô là mấy bộ quần áo và một ít tiền lấy cắp của mẹ. Cũng chẳng biết là có phải ăn cắp hay không. Điều này chưa thể khẳng định rõ được. Tiền mẹ để ngay trên thành lavabo. Chắc mẹ vào đó tắm rồi để quên. Vẫn còn âm ẩm hơi nước. Tắm rồi vào phòng ngủ. Rồi bố và mẹ mải cãi nhau gì gì đó. Thấy mẹ hầm hầm đi ra, chẳng nói chẳng rằng, đẩy cô ngã dúi vào tường. Bảo: Mày là cái nợ đời của tao… Rồi ra ngoài, lấy xe, lao đi mất dạng. Cô vẫn giữ đúng tư thế như khi mẹ đẩy cô. Nước mắt chẳng có, cũng không thấy cảm nhận gì đặc biệt hơn lúc trước khi chuyện gì đó xảy ra. Cô ngồi rất lâu. Rồi đứng dậy, phủi quần áo cho sạch, vuốt cho thẳng. Không nhớ lắm. Có lẽ cô đã vào phòng, nhẩn nha mở tủ quần áo, chọn vài bộ cô vẫn thích. Mà cũng không biết mình sẽ dùng chúng như thế nào. Chút xíu nữa thì quên bẵng đống đồ lót. Nhét hết vào một cái túi bóng màu hồng. Đang chuẩn bị bước chân ra ngoài cửa thì thấy buồn tiểu tiện. Thấy mớ tiền trên thành lavabo. Sau khi xả nước xong thì nhét vào túi quần bò.
Cô không nhớ rõ lắm. Hình như cô vừa bỏ nhà đi.
Cô mười hai tuổi. Chưa thể có cho mình nổi một cái gì để quyết định cho chính đời mình. Chẳng thể làm chủ.
Mãi mãi không làm chủ. Cô cầm đống quần áo lẫn đồ lót mà cô ưa thích. Đi từng bước chậm chạp… rất chậm… trên lề đường. Đi và chỉ nghĩ, nếu đi hết dãy phố này, thì mình buộc lòng lại phải quẹo vào một dãy phố khác. Đến một ngã tư, phải chọn đi thẳng. Rẽ trái. Rẽ phải. Hay lui đầu quay về. Điều đó làm cô rất bực mình. Cũng không hiểu vì sao lại thấy có thể bực đến như thế.
*
Cô nhớ về buổi tối hôm ấy.
Ngày cô bước sang tuổi mười hai. Sinh nhật cô. Ừ. Ngày sinh nhật. Thì cứ cho rằng đó là ngày sinh nhật. Thì có sao.
Trời đất tĩnh mịch. Đèn đường rũ bóng đen thẫm. Những chiếc đèn luôn có thể ném vỡ dễ dàng. Cầm một viên gạch, nhắm thẳng vào chấm tròn tù mù treo lủng lẳng trên một thân cây già cỗi. Đó cũng là một trò vui vui.
Dừng lại ở một gốc cây, cô nghĩ, ngày hôm nay, cớ gì mình không mặc thật đẹp. Cô lục trong túi bóng màu hồng lấy ra một chiếc váy mỏng màu hồng. Cô xỏ cả giày, cả hai chân vào. Kéo ngang lên thắt lưng. Rồi nhanh nhẹn tụt quần. Cẩn thận vuốt quần cho thật phẳng rồi cuộn tròn cất vào túi bóng. Tháo hai bím tóc ra, thả lõa xõa. Như đám mây đen nhỏ bay lượn trên đỉnh đầu. Cô nghĩ hẳn là mình đang đẹp lên rất nhiều.
Lâm Lâm bước đi. Bước chân bắt đầu có độ nhún nhảy. Và cô huýt sáo. Cô hát. Vạt váy loạt soạt quấn vào cặp đùi dài mảnh, nghe hay hay. Cũng là một thanh âm cho đêm. Không còn tiếng xe chạy. Tiếng người lao xao trên từng dãy phố. Chỉ có hoặc tiếng huýt sáo. Hoặc tiếng hát. Và tiếng váy loạt soạt, loạt soạt.
Lâm Lâm thấy mình đứng trước lối vào một công viên. Ngoài cổng có hai trụ đèn lan tỏa thứ ánh sáng vàng ệch, hiu hắt. Cô móc túi, lấy một nghìn đồng, mua vé vào cửa. Nhiều buổi sáng cô từng vào đây. Lao nhao với đám bạn học. Có thể mua kem, hay mua vài con mực nhỏ bằng ba ngón tay chụm lại giá năm trăm đồng. Buổi sáng chỉ có ba trăm đồng một người. Sao buổi tối giá tính gấp ba. Cô hơi thắc mắc, nhưng nghĩ mình đang có tiền. Chưa khi nào thấy mình có tiền nhiều như thế này. Rất dễ. Chứ không khó khăn như mỗi lần xin tiền ăn sáng, tiền đóng học phí, đóng xây dựng trường, đóng kế hoạch nhỏ, đóng quỹ lớp, đóng đi thầy cô ngày lễ tết… Mẹ bảo sang bố mà xin. Tiền cũng chỉ dùng bao gái. Bố bảo mẹ mày lúc nào mà chẳng nhiều tiền. Tiền làm gì nếu không dùng để bao trai. Bao trai? Bao gái? Cô không hiểu! Chỉ biết rất tù mù. Rằng cả bố và mẹ đều mặc đẹp. Rằng người lúc nào cũng thơm tho mùi nước hoa. Rằng họ hay đi nhà hàng, hay đi mua sắm, hay đi nhảy đêm… Cùng bước chân ra ngoài
nhưng lại mỗi người một ngả. Để khi xin tiền cả bố lẫn mẹ đều khó khăn. Cuối cùng là viết giấy tường trình, cần những khoản gì, cụ thể vào, rồi xin chữ ký cô giáo chủ nhiệm. Mỗi lần xin chữ ký cô giáo Lâm Lâm thấy xấu hổ. Mỗi lần cầm tiền của bố mẹ đưa cho cũng có cảm giác xấu hổ. Lâm Lâm nghĩ cô là đứa tương đối nhạy cảm. Mọi điều đều lẫn vào trong cảm giác, không dùng lý trí định đoán được.
Giờ có tiền rất dễ. Không phải mở miệng xin. Hay làm giấy tường trình. Thấy và nhét vào túi và bỏ ra ngoài. Chẳng buồn đếm là bao nhiêu. Cũng không biết rõ có phải mình ăn cắp hay không. Chỉ biết lúc ấy thấy cần phải làm thế. Cần làm, rồi làm. Thế thôi. Nhiều chuyện cứ tưởng khó khăn, khi đến thì thấy rất đơn giản. Đơn giản đến phì cười.
Lâm Lâm đi vào trong công viên. Tay cầm túi bóng màu hồng. Túi quần thì đầy tiền. Chậm rãi đi dọc bên hồ. Rất nhẩn nha. Vì chưa khi nào cô thấy mình tự do đến thế. Chẳng phải quan tâm đến giờ về. Thời gian giờ là của cô. Riêng cô. Lâm Lâm lại nhún nhảy, lại hát. Ngang qua nhiều gốc cây, những bóng đen cặp đôi cũng nhún, cũng nhảy, không hát, chỉ thì thào, thì thào, rên lên khe khẽ, khe khẽ, rồi nín lặng, câm bặt. Hơi người nồng nàn. Hơi người lan tỏa. Hơi người lễnh loãng. Bản nhạc tái sinh buông buông trên mặt cỏ xanh cao đến đầu gối ướt hơi sương. Một vài thân người trườn trên mặt cỏ. Dướn người lên nghe động tĩnh bản nhạc yêu đang đến đoạn cao trào. Rồi lặng lẽ bò lui. Có ai đó kêu thảng thốt lên mất ví. Vội vã chỉnh trang lại áo quần. Nhìn quẩn nhìn quanh. Nhìn vô định. Một cặp nào đó bị mất ví, mất đồ nghĩa là cặp đó sẽ lập tức đưa nhau rời khỏi gốc cây, rời khỏi bãi cỏ, hấp tấp ra phía ngoài cổng. Chỗ đó có ánh sáng. Dù là thứ ánh sáng yếu ớt chẳng đủ soi mờ mờ dung nhan người.
Lâm Lâm đi trên đường bê tông xây sát mé nước, chạy một vòng quanh hồ. Nơi người ta lắp những cột đèn mà ánh sáng không thể phủ đường kính rộng hơn một mét. Đếm xem có khoảng bao nhiêu tiếng kêu rên khác nhau. Bao nhiêu đôi vội vã rời chỗ ẩn náu. Bao nhiêu dạng hình lưu manh giống người bò lê trên cỏ hành nghề móc túi.
Đi hết nửa vòng hồ thì Lâm Lâm thấy chán. Cô rẽ vào một lối mòn để đi ra cổng phụ. Hai bên đường thảng hoặc vài bóng đàn bà quần áo phô da thịt đi lại vật vờ. Một người đàn ông chừng sáu mươi tuổi, đi thẳng đến Lâm Lâm hỏi: “Tàu nhanh không cưng?” Lâm Lâm bĩu môi
trong bóng tối. Rồi đi thẳng. Trong đầu chẳng nghĩ gì như khi bước chân vào. Cổng phụ không có đèn. Tối om. Bảo vệ phải dùng đèn pin để soi mặt khách khi họ đến gửi xe và lấy xe. Lâm Lâm đi bộ. Cô lách người qua mớ xe để thiếu ngay hàng thẳng lối. Đi sau lưng ông bảo vệ già cỗi. Bước qua cổng. Để lại phía sau mình một xã hội nho nhỏ mà sống động. Sống động như ban ngày ngoài phố. Nhưng có chiều sâu hơn. Lâm Lâm gọi, đó là xã hội công viên. Xã hội công viên. Cái tên, cũng hay hay, cũng ngồ ngộ.
*
Trí nhớ… thất thường… thời tiết… đảo lộn… Khi Lâm Lâm về đến nhà, chẳng biết làm thế nào mà cô vào được phòng ngủ. Hình như cô đã bám chặt ống thoát nước bằng sắt cố sức đu người lên. Chân quờ mấy lỗ thông hơi hoặc bậu cửa hoặc thanh kim loại vít ống dẫn nước bám chặt vào tường làm điểm tựa. Cửa sổ phòng cô vẫn mở, người cô thì nhỏ, có thể chui qua chấn song sắt để trèo vào. Để lại số tiền mới tiêu được một ngàn đồng vào vị trí cũ. Trước khi nó bị người ta lấy mất. (Rất may hay không may, nạn nhân chưa kịp biết.) Cô mang máng rằng, từ giờ đi đâu phải đóng chặt cửa sổ lại, đề phòng kẻ lạ lặp lại cái việc như cô từng làm. Hoặc khép hờ, nếu cô muốn ra ngoài lang thang.
Sau khi tìm ra cho mình một lối đi cứ cho là bí mật, Lâm Lâm bắt đầu trốn ra khỏi nhà. Cứ trốn ra đã, còn làm gì thì chưa biết. Mọi việc không còn định sẵn. Cứ hồn nhiên theo cảm giác. Cảm giác bất tận và cũng rất phù du.
*
Tôi bảo. Tôi chỉ ở Sài Gòn được vài ngày như thế, là thế thôi. Nếu ở lâu hơn, tôi sẽ vỡ tung người ra mất.
Tôi đang đứng giữa nhiều người. Tiếng nhạc loạn cuồng. Dòng sáng xoay tròn đảo lộn từng mảng không gian. Ánh đèn neon phủ lấp phía bên trong những dáng hình ma mị. Trên tường là những bức graffi ti dị dạng… méo mó… vơn vao ánh sáng lân tinh. Chính giữa sàn nhảy, người ta treo lơ lửng một nam thần có cánh, đan từ những dây sắt gai. Một nam thần tình yêu bằng sắt!
Nhóm nghệ sĩ nhảy. Họ có vẻ say. Sau khi đốt phổi bằng thuốc lá.
Đốt não bộ, dạ dày và gan bằng vang anh đào, lẫn bia Ken và whisky. Nhiều cái đầu lắc lắc theo nhạc. Tay DJ đội nón nỉ, tai chụp head phone to sụ, xỏ khuyên ngang mũi, tay đeo nhiều vòng xích trộn nhạc rất khéo. Hắn làm việc tập trung. Mặt hầu như không biểu lộ gì.
Tôi cũng uống. Uống nhiều. Cụ thể là bao nhiêu thì không nhớ nổi. Khật khừ lao vào trung tâm người và người. Rồi tự hỏi mình. Đang làm gì thế này? Đây là đâu? Với đám đông này có mối tương giao nào không?… Muốn thả trôi thân thể vào cõi không thế giới… Một sợi dây vô hình giữ chặt sự thăng bằng nơi tâm não trong khoảnh khắc say. Tôi lại bực tức, bực tức mà không thể lý giải vì sao.
Trước đó, chúng tôi đến triển lãm của một nhóm trẻ chuyên về nghệ thuật đương đại. Họ gồm mười hai người. Hai người đến từ New York thuộc Mỹ. Ba người đến từ Lyon thuộc Pháp. Còn lại bảy người là con dân của thành phố. Một trong số bảy người kia là bạn của tôi. Anh chàng đầu trọc nhưng lại để mớ râu quai nón lờm xờm. Tên là Huy. Huy hơn tôi hai tuổi, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật. Lần triển lãm này, Huy không vẽ mà làm tranh khắc gỗ với tông nền đen trắng. Khi tôi đang cố sức đẩy tấm cửa kính nặng trịch, đã thấy Huy chạy lại. Vẻ mặt vui mừng. Mấy hôm trước, khi tôi gọi điện báo sẽ đến Sài Gòn, Huy còn không tin là tôi chịu bỏ ra hơn hai triệu để mua cặp vé máy bay khứ hồi giảm giá đến ba mươi phần trăm để vào đây chung vui với Huy. Huy bế tôi lên quay một vòng, rồi cọ mớ râu ram ráp vào má tôi. Anh hớn hở nhấc bổng tôi qua khỏi bậc cửa, thả tôi xuống, đẩy vào giữa gallery.
Gallery chật chội vì nhiều người đứng chen nhau. Trên bục gỗ cách chừng mười phân so với sàn nhà, một người đàn ông ngoài bốn mươi tuổi, cao mét bảy hai, mặc bộ đồ vest màu xám kiểu cách đang đứng trịnh trọng phát biểu. Không cần micro.
- Ông ấy là chủ gallery này.
Huy thì thào vào tai tôi. Tôi gật đầu. Nhớ mang máng ông ấy nói gì đó về những trật tự trong sáng tạo. “Đề nghị các bạn trẻ, xin hãy mất trật tự, cứ làm tất cả những gì có thể chuyển tải được ý tưởng của các bạn tốt nhất. Tôi ủng hộ sự mất trật tự đó…” Sau mấy câu diễn thuyết của người đàn ông mặc vest xám, tôi vỗ tay. Vỗ tay hết sức nhiệt tình.
Một cô gái lướt qua, chiếc váy thiên thanh bó sát người thật khêu gợi. Cô cười, nụ cười chứa nắng.
- Lâm Lâm… là bạn phải không?
Tôi chưa kịp ừ hử, cô nói tiếp:
- Cái tên rất lạ… Huy có kể với tớ về bạn…
Cô nháy mắt với Huy. Sau đó. Quay sang. Nói khẽ vào tai tôi. Phả ra hơi thở nhè nhẹ:
- Nghe làm gì, trò chơi ấy mà. Bọn tớ cứ việc bày bừa mọi thứ ở đây. Sau hôm nay, cứ yên tâm là chẳng có ma nào buồn ngó tới chả nói gì đến rút ví moi tiền ra mua. Làm quen nhé? Tớ là Hiên.
Tôi chìa tay ra. Cô nắm tay tôi, cánh tay mát lạnh như bạc hà. Khi ấy, giọng người đàn ông mặc vest xám vẫn lanh lảnh:
- Tôi làm một việc lạ mà thực ra không mới, việc này người ta đã làm cách đây hơn bốn chục năm rồi. Đó là việc các bạn mang tranh của mình đến đây, treo lên, tự ra giá, tự thu tiền… tôi không liên quan gì cả. Tôi chỉ làm một việc duy nhất là mời các bạn đến. Thế thôi…
Tiếng vỗ tay nổi lên rào rào. Đèn fl ash lấp lóa. Tôi. Một tay nắm lấy tay Hiên. Tay kia giơ tấm giấy mời che mặt. Tôi không thích mình có trong bất cứ khuôn hình nào.
Hiên đứng với tôi một lúc rồi bỏ đi đâu mất. Huy đưa tôi đi một vòng gallery để xem các tác phẩm của nhóm. Mỗi người có chừng năm tác phẩm trưng bày ở đây. Đủ thể loại. Tranh sơn dầu theo trường phái lập thể hay trừu tượng hay ngây thơ. Graffi ti. Tranh khắc gỗ. Sắp đặt. Điêu khắc. Tôi đứng rất lâu trước bức tượng đổ đồng của họa sĩ N. Tạo dáng một người đàn ông cởi trần, tụt quần xuống đùi, quay cặp mông sần sùi bành bạch chông chổng vào mặt người đang xem. Khuôn mặt nhẹ nhõm với cái môi chu lên như thể vừa thở phào. Rất sinh động. Bức tượng người đàn ông đang làm cái việc rất bản năng người ấy có tên “Relax”. Với vẻ tò mò thích thú không giấu giếm, tôi xoay xoay cái tượng theo vòng tròn để ngắm nhìn. Huy bảo:
- Cậu ta giỏi nhất ở đây. N. rất giỏi. Bọn anh chỉ là lũ ăn theo… Nói xong, Huy cười, nụ cười chân thật, ngô ngố. Kiểu naif.
Tôi có ý định muốn biết mặt N. Huy lắc đầu, N. bận nên không có mặt ở đây. Lấy làm lạ vì ngày triển lãm mà vắng tác giả. Huy thầm thì, hắn vẫn thế. Tính nết khá lạ lùng. Một người yêu công việc, đã làm là hết mình. Tranh anh ta vẽ nhiều vô số. Vẽ như thể không cần nghĩ. Thích vẽ mặt người hoặc nữ khỏa thân, cũng thú vị với các bức tranh gợi tính dục. Mê đắm yêu đương. Hễ yêu và được yêu thì tinh thần thăng hoa, chắc chắn sáng tác như điên loạn. Nhìn chung là người thâm trầm, không ưa giao tiếp, đám đông. Muốn làm triển lãm cá nhân hơn là nhóm. Nhưng vì nể bạn và người yêu mà tham gia. Người yêu của N. là Hiên đấy.
Tôi hơi tiếc vì không gặp N. Nhưng nếu N. có mặt, tôi cũng sẽ từ xa mà quan sát khuôn mặt, dáng vẻ. Chắc chắn là không đến gần hỏi han. Tôi là vậy.
Khi chúng tôi, những người cuối cùng ở lại gallery, uống hết mấy bình rượu, mỗi bình chứa khoảng năm lít chất men, thấy vẫn chưa thỏa… thì rủ nhau tìm một quán bar.
Tôi thấy mình đứng đây. Giữa nhiều người. Những cánh tay vung lên. Những tiếng hò reo. Tiếng chửi ậm ào… Những cái đầu giật giật lắc lắc. Hiên nhảy cùng tay họa sĩ người Pháp. Hai người đứng áp sát vào nhau cùng đẩy hông chạm ngực. Thi thoảng, thấy tôi, Hiên tiến lại, hét lên câu gì đó. Có gã thanh niên lạ mặt ôm chặt hông tôi từ phía sau rồi vòng ra phía trước. Miệng hắn chạm mặt tôi. Tôi giáng cho gã hai cái cùi chỏ vào ngực. Mặt hắn đần ra, trông rất thộn. Một cô gái có thân hình bé nhỏ của lứa tuổi mười bốn chưa kịp phát triển hết, cởi chiếc áo dây, phơi ra tấm lưng trần. Cô mặc váy xòe kiểu digan dài chấm gót chân. Giật tung người như viên đạn thoát ra khỏi nòng súng. Rất nóng bỏng nhưng bay lạc. Một cậu trai đứng gần bế bổng cô gái lên, để cặp chân trần của cô quấn lấy hông, giật giật thúc thúc từng nhịp. Tiếng hét khản giọng của người đàn bà tuổi mười bốn làm tôi thấy mọi cảm giác đột nhiên tụt thấp xuống phía dưới hai gót giày, rồi lặn xuống nền nhà lát gỗ. Tôi lảo đảo gạt đám đông tìm lối trở về chỗ ngồi.
Sát chiếc bàn kính dài và bộ ghế xô pha màu vàng xám, mấy tay
nhân viên nở nụ cười đúng kiểu đang cần mẫn gắp từng viên đá, thả thêm lát chanh vào mỗi cốc rượu. Tôi cầm cốc, uống một hơi dài. Ngả mình lên ghế. Kề đầu sát vai Huy. Huy đang ngồi uốn lưng, vung tay theo điệu nhạc. Cười ngơ ngẩn vì say. Tôi bảo. Tôi chỉ ở Sài Gòn được vài ngày như thế, là thế thôi. Nếu ở lâu hơn, tôi sẽ vỡ tung người ra mất.
*
Một tuần sau khi về Hà Nội. Tôi gọi điện cho Huy. Huy bảo, đang ở Vũng Tàu.
- Vì sao?
- Đám ma cô bạn thân…
- Chuyện gì cơ?
- Nhớ Hiên không, hôm triển lãm… gallery Kao ấy. Hiên bị thằng N. đâm chết. Mất một lúc hai đứa bạn. Một chết. Một chắc bị tử hình… Anh đến quỵ mất thôi.
- Sao lại thế?
- Alo… Alo… anh Huy… Huy…!!!
Tít tít tít tít…
*
Tôi nhớ lần tôi và Hiên đi chung một taxi ra sân bay. Tôi bảo. Tớ sẽ đưa đằng ấy vào tiểu thuyết của tớ. Hiên nói, thật á. Và cười ngặt nghẽo có vẻ rất thú. Tôi cũng cười theo.
Bây giờ thì Hiên chết rồi. Cái chết nhanh quá và cũng thiếu thanh thản - điều cô hằng mong muốn. Rất lạ là tôi chẳng lấy làm lo lắng. Cũng không đau buồn. Đầu óc trống trơn khái niệm. Thử giả đò gọi điện cho Huy với giọng buồn thương an ủi xem sao. Nhưng chịu. Cái khoản kịch cọt nói những gì mình không hề cảm thấy đâu phải là điểm mạnh của tôi. Hiên chết, N. - bạn trai của Hiên, kẻ giết người - chết, rồi tôi chết, Huy cũng chết. Ai mà chẳng chết. Nên có khóc lóc
đau buồn thì có để làm gì. Rồi người ta cũng quên. Trí nhớ luôn làm đúng phận sự của nó. Quên cứ như Hiên - N. - tôi - Huy và muôn người khác chưa bao giờ tồn tại trong cõi đời này.
∗
Hiên nói:
- Đằng ấy muốn qua studio của tớ không? Thú lắm đấy! Tôi bảo:
- Ừ, đi thì đi.
Tôi không đến studio của Hiên một mình. Hai đứa con gái mò mẫm đến chỗ đó thì chẳng có gì là vui. Chúng tôi hò hét kéo thêm khoảng hơn hai mươi người, chất đủ lên mười cái xe máy. Vừa gầm vừa rú vừa gào vừa thét vừa cười vừa đi nhanh vừa đi chậm vừa phóng qua vừa chờ nhau. Hôm ấy cũng vừa xong buổi tối khai trương triển lãm của hai chàng họa sĩ bảnh trai. Một chàng vẽ bản năng, một chàng vẽ bằng lý tính. Sự tỉnh táo của anh chàng lý tính mang đến một loạt những bức tranh cứng ngắc, màu dùng đại khái, bố cục hời hợt, ý tưởng lộ liễu, nói tóm lại chẳng-ra-gì. Còn anh chàng bản năng thì mỗi bức tranh là một tâm trạng trái ngược. Các gam màu mạnh và gợi cảm, nội dung tràn trề, nhưng anh ta chẳng nắm bắt được thực ra mình đang vẽ gì. Cứ đỏ mặt lúng túng khi người khác hỏi. Tôi xui, tốt nhất là đừng phát biểu, nói với họ, cảm nhận thế nào là tùy đằng ấy. Anh ta cho rằng đúng, nghe theo lời tôi. Khi chúng tôi kéo nhau đi, anh-bản-năng bỏ luôn phòng tranh còn sót lại vài người kề cà bàn ngắm, dắt cái xe Dream Tàu cũ rích (yên nát bét, trơ cả bộ máy han gỉ, khởi động đến hơn ba mươi phút không thèm nổ) đòi đi theo. Tôi nhìn rồi đoán:
- Chắc cái xe này vứt ngoài đường chẳng ai dám nhặt. Anh-bản-năng (cứ như) ngô nghê hỏi:
- Ủa! Sao cậu biết?
(Để tôi được khoái chí ít nhất ba mươi giây vì tài quan sát của mình.)
Không hiểu sao tôi chọn ngồi sau xe anh-bảnnăng. (Có thể vì vẻ thật thà hồn nhiên của anh ta.) Để rồi cố không ngáp vặt khi nghe anh chàng than phiền về việc phải triển lãm chung với gã-lý-tính kia.
- Đúng ra là người khác hợp gu với tớ hơn. Nhưng chỉ vì tên láu cá đó là bạn thân với bà chủ gallery. Nên tớ chịu!
- Ừ!
- Tháng Ba tới, tớ sẽ làm triển lãm một mình, hát solo cho sướng! - Ừ!…
- Tớ vẽ rất nhanh. Một tuần là xong hai bức tranh! Một… tuầ…n… l…à… x…o… n…g…
- …
- M…ộ…t… t…u…ầ…n… l…à… x…o…n…g…
- …
(Lúc này thì tôi đã ngủ gật.)
Đến một ngõ nhỏ héo hắt ánh đèn vàng, chúng tôi dừng xe lại đợi tốp đi trước - đã biết nhà - quay lại đón và chờ tốp sau - chậm như sên - đang lừ đừ í ới mobile. Chúng tôi đứng ở đúng ngã ba đường. Bên phải, bên trái, đằng sau. Còn trước mặt là một cổng chùa u tịch. Trời tối quá nên tôi không thể biết chùa to hay nhỏ. Cái cổng nặng trịch mùi gỗ đóng im ỉm. Bên trong thiếu le lói ánh đèn. Lờn vờn phía bên kia bức tường loang màu gạch chực nghiêng đổ là những cành cây sứ giống hệt cẳng tay người mất trọn bàn tay.
Nhận ra phía bên tay phải là một vườn hoa. Hoa cúc chi màu vàng. Tôi đứng bần thần sát bờ rào, rất muốn thò tay để ngắt trộm một bông. Huy đứng cạnh bên từ khi nào. Khẽ cài một bông hoa lên tóc tôi.
Tiếng còi xe ríu rít kéo chúng tôi quay trở lại. Cả hội đã tề tựu gần như đông đủ. Chỉ thiếu Hiên.
Hiên đón cả lũ bằng những ngọn nến sáng lung linh từ cổng vào đến cửa studio. Gọi đúng hơn là một nhà kho rộng chừng bốn mươi mét vuông. Mái lợp tôn nẹp sắt. Tranh treo trên tường hoặc để dưới đất. Tượng đắp thạch cao đủ loại bừa bãi trên những chiếc kệ sắt ôxy
hóa. Có một cái bàn to đặt đủ bộ vi tính kềnh càng. Một cái đệm mét hai kê trên chiếc phản đóng bằng gỗ tạp ngổn ngang chăn màn. Hai cái quạt sắt cổ sơn đen giờ này lẽ ra phải chạy hết công suất nhưng đã tạm thời đứng im vì sợ làm tắt hết những ngọn nến rải rác quanh nhà. Chiếc Vespa màu đồng trang trí nhiều đường nét kỳ quái chẳng rõ hình thù dựng một góc, dầu loang từng vệt đen thẫm trên mặt sàn không lát bằng bất cứ thứ gì. Hiên đang lúi húi bật nhạc. Thấy tôi, cô lẩm bẩm, sẽ là bữa tiệc ra trò đấy! Tôi nhìn quanh quất, đồ ăn đồ uống chưa thấy, chỉ có nến và nhạc. Không rõ tiệc mà Hiên nói đến là gì.
Phía ngoài sân, ai đó đã chất lên một đống lửa. Củi là những thanh gỗ tạp nhưng cháy rất đượm.
Hóa ra hôm đó là sinh nhật Hiên. Cô làm vẻ vô tình kéo mọi người đến, rồi đẩy họ vào cuộc vui không báo trước. Đồ ăn nguội không rõ lấy từ đâu ra bày lên chiếc bàn gỗ mộc kê ngoài trời. Rượu cũng được chuẩn bị chu đáo. Chúng tôi ăn uống tùy ý, nói năng tùy thích, nhảy nhót nếu cần. Cuộc sống lúc này sao mà rợn ngợp nhiều niềm vui tươi trẻ.
Tôi nhớ trong lúc say say tôi đã đi tìm Huy. Huy ngồi một mình. Lấy một nắm (giống như những nụ hoa xinh nhỏ xíu lẫn cọng lá phơi khô màu nâu) trong chiếc hộp sắt nhỏ trổ hoa văn rất đẹp cho vào mảnh giấy trắng mỏng. Mê mải quấn một điếu B. Cách nửa mét, hai nam họa sĩ đang nằm gối đầu lên chân nhau trên băng ghế rộng với dáng điệu kỳ quặc. Nước bọt nhểu ra từ miệng họ cùng tiếng ngáy khều khào. Hai người vừa hút thuốc xong.
Tôi ngồi ghé xuống cạnh Huy. Sau khi nhồi kỹ điếu thuốc và lấy nước bọt giữ cho chặt vòng giấy, Huy cho tôi kéo hai hơi. Nói, lần đầu cho biết, lần sau thì cấm. Tôi rít sâu hơi thuốc rồi nhanh chóng thổi hết khói ra. Huy kêu lên, phải nuốt khói vào, nuốt vào. Tôi lại cầm điếu thuốc. Ngay sau khi khói ém vào phổi, tôi ngồi thụp xuống đất, ho sặc sụa, ngực như bị ai đó bóp chặt. Ba hơi sau có vẻ đỡ hơn. Tôi thấy mọi cử động của mình đột nhiên chậm lại, tất cả mọi vật xung quanh mờ mờ ảo ảo. Tôi thấy mình chìm ngập trong cảm giác rất lạ
mà cũng rất quen. Tôi thấy dường như nỗi cô đơn của tôi có thể chạm vào khối tròn đen đặc ấy. Tôi ngồi im lặng một lúc, mắt đăm đăm nhìn Huy. Rồi không hiểu vì sao, tôi gượng đứng lên, vứt điếu B đang cháy dở xuống đất, lấy chân di lên. Huy nhìn, cũng chẳng nói gì, dửng dưng bỏ đi.
Trong ngày sinh nhật của Hiên, Hiên chẳng để lại trong đầu tôi bất kỳ điều gì rõ ràng. Hình như Hiên có đi đi lại lại nói nói cười cười. Thi thoảng ôm một vài người bạn nào đó. Ngôn từ là những lời hay ho mà nhạt tuếch. Có lúc Hiên quấn chặt tay, thân, chân để hôn riết một cậu chàng người Mỹ mà tôi nhớ mang máng có tên Mitchell. Hôm đó N. - bạn trai chính thức của Hiên - không có mặt.
*
Mấy ngày sau, Huy điện thoại lại cho tôi. Giọng anh run rẩy, hơi mơ màng, bấn loạn. Anh say. Từ bên trong điện thoại, tiếng nhạc dữ dội, tiếng người hét, tiếng thủy tinh vỡ. Tôi gào lên, em không nghe thấy anh nói gì. Điện thoại tắt. Khoảng năm phút sau, máy tôi rung lên. Anh hỏi, đã nghe 30 Nguyễn Quỳnh Trang thấy gì chưa, tôi nói, rồi. Phía đầu bên kia im lặng. Rồi, tôi nghe thấy tiếng thổn thức. Huy khóc.
Tôi không nói gì, cầm máy áp chặt vào tai. Có lẽ Huy khóc khá lâu, đủ để tai tôi tấy nhức và tay tôi mỏi nhừ. Trấn tĩnh lại, Huy bảo, thông cảm, anh đang thất tình.
Tôi không rõ lắm về chuyện yêu đương, để hỏi rằng khi thất tình thì đàn ông có bật khóc nức nở như thế kia không. Tôi nhớ năm thứ ba đại học, một lần chứng kiến cô bạn của tôi khóc, cũng do thất tình. Tôi và cô này vốn ít khi có dịp nói chuyện cùng nhau, nhưng tôi lại chơi khá thân với bạn trai của cô ấy. Lý do hai người chia tay thật đơn giản, đơn giản đến nỗi tôi không nhớ nổi vì sao họ chia tay. Tối đó, tôi lôi cô bạn đi uống rượu. Cô này bị say. Chưa đưa cô ấy về nhà ngay được, vì bố mẹ cô ấy hình như khá nghiêm khắc, tôi chở cô lòng vòng Bờ Hồ. Cô cứ tì mặt vào lưng tôi khóc, ướt hết cả vạt áo. Tôi chưa từng thấy ai khóc lẫn rên rỉ nhiều như thế, nhưng lúc ấy tôi rất thương cô. Về sau, ra trường được một tháng, thấy cô gửi thiếp cho tôi mời dự cưới. Cô lấy một anh chàng nào đó không rõ tên tuổi mặt mũi. Nên tôi nghĩ, thất tình là chuyện hàng ngày. Đến với nhau rồi chia tay. Chia tay để tiếp tục một chuyến tình ái khác. Không có gì
thực sự quan trọng. Không có gì đau đớn đến có thể chết đi được.
Lần này không phải một cô gái khóc mà là Huy, người con trai mà tôi thương quý. Nhưng tôi không cảm động lắm, tôi nghĩ, lúc này Huy cần có người để chia sẻ cùng anh những giọt nước mắt, chứng kiến anh cũng biết đau tình. Ngày mai, khoảnh khắc yếu đuối lúc này đây vụt biến mất, Huy sẽ có khởi đầu mới.
Chờ Huy khóc xong, tôi nói với anh vài câu trấn an. Huy nghẹn lời cho một tiếng cảm ơn.
Kết thúc cuộc điện đàm, tôi quẳng điện thoại lên bàn, trong đầu không nghĩ gì cả.
∗
Từ sau đêm Huy khóc, cứ vào lúc hai mươi ba giờ, điện thoại của tôi lại đổ chuông và rung lên bần bật. Huy gọi. Thường là nói chuyện bâng quơ. Bâng quơ mà cũng hết gần hai tiếng đồng hồ. Có khi Huy lạc sang chuyện của Hiên. Huy kể, Hiên là bạn học cùng trường của Huy, còn N. thì cùng lớp. Huy, Hiên, N. chơi thân cùng một nhóm. Một năm vài lần rủ nhau làm hồ sơ cùng tham gia triển lãm. Hai tác phẩm sắp đặt của Hiên và N. ở gallery Kao hôm ấy cũng là tác phẩm cuối cùng trong đời họ. Tôi bảo, những điều ấy em biết rồi, anh không nhớ em có chơi với Hiên trong thời gian ở Sài Gòn à. Huy gật gù, anh quên mất. Anh thèm có người nghe anh nói biết chừng nào. Thế còn chuyện này em biết không…
… Huy kể tiếp sang chuyện Hiên.
N. giết Hiên bằng con dao nhọn. Chiều hôm sau, trước khi đi đầu thú, N. có gọi điện cho Huy. Huy là người đầu tiên chạy đến nhà xác. Cũng là người duy nhất thấy được mặt Hiên lần cuối. Hình ảnh của Hiên lạnh ngắt nằm dưới tấm chăn trắng cứ ám ảnh Huy mãi. Đó cũng là điềm xấu linh ứng cho những lận đận về sau của Huy. Tôi nói, anh đừng thổi phồng nỗi buồn lên thế. Cứ mặc kệ, rồi tất cả sẽ qua. Huy cười, tiếng cười nhẹ tênh, ừ, anh cũng mong là thế.
*
Hiên bị giết trên chiếc đệm mét hai. Không rõ khi đó hai chiếc
quạt sắt cổ có bật hết công suất không. Báo chí đăng rầm rĩ về vụ việc của Hiên nhưng tôi chẳng buồn đọc. Chỉ ghé nửa mắt nhìn bức ảnh hiện trường vụ án mạng. Khó có thể giải thích vì sao trí nhớ tôi không ghi tạc cảnh tượng Hiên đang nằm trên vũng máu thắm đỏ, chỉ hiển hiện hình ảnh cái giường. Nát nhàu. Ngổn ngang gối chăn. Giấy khăn vương vãi.
Hiên chết ngay sau khi vừa hưởng sung sướng tột đỉnh của kiếp đàn bà…
Ai là người đàn ông sau cùng trong đời Hiên?
Giọng nói của Hiên văng vẳng trong trí não tôi:
- Đằng ấy muốn qua studio của tớ không? Thú lắm đấy! ∗
Bảy ngày ở Sài Gòn, Huy bận liên miên, Hiên ngẫu nhiên là người đưa tôi đi chơi đó đây. Hiên là cô gái khá hồn nhiên, tính tình lanh chanh, hay cười. Ở bên Hiên, chưa khi nào tôi thấy cô buồn. Lúc nào cũng có việc gì đó để làm, để nói, để giễu cợt, để vui. Sau triển lãm ở gallery Kao, Hiên - ngay lập tức - trở lại công việc còn dang dở của mình. Khi ấy, cô đang làm một tác phẩm, cũng là sắp đặt, cho một triển lãm lớn hơn ở Pháp. Tác phẩm này tôi không rõ là gì, vì khi ấy, nó chưa hoàn thành, chỉ biết khá cồng kềnh, phức tạp và nhiều nguyên liệu, lại không chứa được trong studio, phải thuê mảnh đất chưa sử dụng của một gia đình ở ngoại thành, dựng rạp, làm ngoài trời. N. giúp Hiên làm
∗
Bảy ngày ở Sài Gòn, Huy bận liên miên, Hiên ngẫu nhiên là người đưa tôi đi chơi đó đây. Hiên là cô gái khá hồn nhiên, tính tình lanh chanh, hay cười. Ở bên Hiên, chưa khi nào tôi thấy cô buồn. Lúc nào cũng có việc gì đó để làm, để nói, để giễu cợt, để vui. Sau triển lãm ở gallery Kao, Hiên - ngay lập tức - trở lại công việc còn dang dở của mình. Khi ấy, cô đang làm một tác phẩm, cũng là sắp đặt, cho một triển lãm lớn hơn ở Pháp. Tác phẩm này tôi không rõ là gì, vì khi ấy, nó chưa hoàn thành, chỉ biết khá cồng kềnh, phức tạp và nhiều nguyên liệu, lại không chứa được trong studio, phải thuê mảnh đất
chưa sử dụng của một gia đình ở ngoại thành, dựng rạp, làm ngoài trời. N. giúp Hiên làm tác phẩm này. Rõ ràng, anh là phụ tá đắc lực của cô. Ngày làm, đêm ngủ lại trông coi tác phẩm. Trước khi đến với Hiên, N. từng có một mối tình. Mọi người bảo, N. có một ít tính điên trong người. Hôm nghe cô người yêu (cũ) nói chuyện chia tay, N. đã mang trong người con dao quyết đi tìm cô gái đó. Cô người yêu trốn được nên không có gì nghiêm trọng xảy ra. Vì chuyện ấy mà N. trở nên nổi tiếng. Mọi người trong trường bảo, nên thận trọng, nếu muốn đặt quan hệ tình cảm với anh ta. N. không phải là người đẹp trai hay hấp dẫn. Vóc dáng nhỏ đanh cùng gương mặt lạnh ít biểu cảm làm người khác ngần ngại khi gần. Rồi Hiên xuất hiện. Hai người yêu nhau rất nhanh. Hiên nói với bạn bè rằng cô đến với N. là vì tính điên lẫn cái tài của N. Thực ra N. là một gã trai nhiều nam tính, thật thà, chu đáo và chơi rất được. Mấy năm yêu nhau, lúc giận hờn, Hiên thế nào cũng đòi chia tay. Có thời gian không gặp lại nhau đến vài tháng. Những khi ấy, N. bỏ học, đi xa, để cho quên Hiên đi. Rồi mỗi lần trở về, hai người gặp lại, yêu lại, quấn quýt như chưa từng có chuyện gì. Bạn bè ban đầu cũng quan tâm, khuyên can hoặc góp ý. Sau thì chán, mặc kệ họ muốn làm gì thì làm, thế nào thì thế.
Thời gian ở Sài Gòn, tôi chưa từng gặp N. Hoàn toàn biết qua lời kể của Hiên. Nên N. xuất hiện trong tôi là một người không hình hài. Như một cái bóng mơ hồ mà thôi.
*
Đêm hôm tôi quay về Hà Nội, tôi và Hiên ngồi chung taxi. Lý do khá đơn giản. Hiên tiễn anh bạn người Mỹ ra sân bay. Mitchell đi cùng chuyến với tôi. Tôi đồng ý ngay, tiền sẽ chia đều cho ba người. Tôi chỉ mất một phần ba số tiền cho một lần chơi sang bằng taxi. Tôi ngồi trên ghế trước, phía bên phải của anh tài xế. Hiên và Mitchell ngồi sau. Qua gương chiếu hậu, tôi thi thoảng thấy hai người ấy ôm riết lấy nhau hôn cuồng say. Khi hôn, Hiên có gì đó rất hoang dại. Còn cặp môi dày của cậu thanh niên người Mỹ thì gợi tình và quyến rũ. Họ hôn. Hôn nồng nàn với hai cặp môi sinh ra để cho nhau. Một đôi trời sắp đặt. Suốt hai mươi lăm phút cùng Hiên ra sân bay, tôi chỉ nói được một câu, cũng như lời chào từ biệt, tớ sẽ đưa đằng ấy vào tiểu thuyết của tớ! Câu nói định mệnh ấy thốt ra giữa chừng hai đợt hôn của họ. Hiên cười ngặt nghẽo, trả lời vài tiếng chẳng đâu vào đâu. Tâm trí của cô lúc ấy đang bị cậu chàng Mỹ hút chặt. Họ bên nhau như thể sau khi chàng trai bước lên máy bay, vút lên đỉnh trời sẫm
tối, là không còn một chút liên quan gì. Nếu có quay lại, thì dĩ nhiên, gặp - chào hỏi - nói những câu chuyện của người quen sơ sơ. Là người quen sơ sơ của nhau! Lúc nào cũng có thể biết trước điểm kết thúc.
*
Thật lạ là chẳng có gì về cuộc đời của Lâm Lâm. Cô quá mờ nhạt trong những chuyển động rõ nét của vạn kiếp sống xung quanh. Cô đi sâu vào trong cuộc đời của từng người với những ảo giác khác nhau chẳng khi nào lặp lại. Cô không hiện hình thành một thể vật chất, cô đã tan vào tất cả những ai cô bắt gặp. Cô lẻn vào tâm trí họ qua những đôi mắt, đào tung, xới trộn, dạo chơi nhiều ngóc ngách khuất nẻo. Rồi lại điềm nhiên bước ra.
Lúc này bố cô còn đó, mẹ cô vẫn thế. Một tuần theo quy định ba người tự đặt, cô đến nhà của mẹ ăn một bữa với dượng và đứa em gái cùng mẹ khác cha, lại đến nhà của bố ăn một bữa với dì và đứa em trai cùng cha khác mẹ. Hai người đã đứng phía sau cuộc đời cô. Không điều khiển. Không thể kiểm soát. Cô trượt đi trong cái gọi là định kiếp. Cô chẳng còn là cô, ngoài cái tên. Tên dù là lạ, nhưng vẫn dễ lẫn. Thi thoảng có ai đó hỏi cô, Lâm Lâm à, cậu có phải cô nhà văn này, nhà văn khác không? (Người có cái tên giông giống đã cho ra một đống tiểu thuyết diễm tình lãng nhách hoặc kiếm hiệp nửa mùa…). Không! Tớ chẳng phải là ai, tớ chưa có bất cứ cuốn sách nào của riêng tớ. Chỉ là những cuốn chọn lọc với list tên dài thườn thượt của muôn người nổi tiếng - trừ tớ. (Có ai đọc truyện của tớ khi thấy cái tên đâu???)
Trượt trượt và trượt!!!…
*
Tôi nói, cậu đã ngủ với rất nhiều đàn bà trước đó. Tớ có thể cảm nhận thấy. Tớ biết!… Người Mỹ cố nhiên rất tự do. Họ tự do trong đời sống cá nhân và thoải mái những vấn đề thuộc về tính dục. Rất cẩn trọng để sau mỗi lần thỏa mãn không thể để lại hậu quả. Chuyện hôn nhân con cái nằm ngoài ý thức nghiêm túc…
Những câu đó làm mặt Mitchell nhăn nhúm vì đau khổ.
Mitchell bảo: “Người Việt Nam bọn cậu sao có cái nhìn hạn hẹp, hay phân biệt rõ ràng giữa người Việt Nam với người nước ngoài. Cũng không biết nhiều về nước Mỹ. Sao lại nghĩ ở Mỹ ai cũng giàu, rất mực tự do và không có thử thách? Cậu và Hiên giống bọn họ, hay nhìn tôi với sự phán xét và đặt ra khoảng cách. Tôi có cá tính của riêng tôi, đừng nhìn tôi với con mắt như thế!”
Sao đến giây phút này cậu vẫn nhắc đến tên Hiên? Cô ấy chết rồi! ∗
Căn phòng của Mitchell nằm trên tầng áp mái của ngôi biệt thự Pháp cổ. Có năm người cùng quốc tịch Mỹ chung nhau thuê cả ngôi nhà. Một người Mỹ gốc Việt. Một người Mỹ gốc Trung Quốc. Một người Mỹ gốc Do Thái. Một người Mỹ gốc Tây Ban Nha. Mitchell là người Mỹ gốc Phi. Mỗi người một phòng riêng.
Mitchell sùng bái nghệ thuật và nhạy cảm với sự phân biệt chủng tộc. Là một nghệ sĩ chuyên làm Installation và Performance art(1)về vấn nạn dai dẳng đó ở Mỹ. Đến Việt Nam chỉ vì tò mò sau khi đọc những thông tin về nghệ thuật ngắn ngủn mà hết sức hấp dẫn trên mạng. Hắn sinh ra và sống ở khu Harlem thuộc New York. Harlem là một khu đặc biệt cách biệt, có bản sắc. Đó là nơi phát triển mạnh nhạc jazz, hip hop, hay graffi ti. Cư dân chủ yếu là người da màu và dĩ nhiên họ nghèo. So với bốn người bạn chung nhà, Mitchell khá chật vật trong việc trả tiền thuê nhà, tiền ăn uống, tiền đi lại, và nhiều chi phí không tên khác. Tôi là một đứa kiết xác, nhưng rõ ràng còn nhỉnh hơn Mitchell. (Cụ thể còn có thể mời hắn ăn này uống nọ, còn hắn thì thiếu khả năng để gửi cho tôi thậm chí là một cái tin nhắn.)
Hắn quyết định kết bạn với tôi sau cuộc hành trình một tiếng bốn mươi lăm phút ngồi cạnh nhau trên máy bay và năm mươi phút cùng taxi từ Nội Bài về Hà Nội. Đêm lạnh phương Bắc vô tình gắn kết con người lại với nhau. Tôi không đồng ý chia nửa số tiền mà trả luôn hộ hắn. Tất cả hết một trăm năm mươi lăm ngàn đồng chẵn. (Gã lái xe đã xin thêm mười lăm ngàn theo kiểu hồn nhiên vẫn thường thấy, gọi là tiền boa.) Mitchell vừa ngạc nhiên, vừa phấn khởi vì lần đầu có người trả tiền hộ cho phần của mình. Thế là chúng tôi trao đổi số điện thoại và địa chỉ e-mail. Rõ ràng khi đặt chân xuống sân bay, Mitchell đã quên luôn Hiên, chỉ còn nhớ đến tôi. (Quên hay nhớ là do tôi cảm thấy thế.)
Hôm biết tin Hiên chết, tôi đang cuộn tròn như con kén trong chiếc chăn bông trên giường của Mitchell. Thi thoảng trên đường làm việc mệt mỏi, tôi lại ghé vào khu biệt thự yên tĩnh này để xin… ngủ nhờ. Với cá nhân tôi, Mitchell trong sáng, đừng nghĩ oan cho hắn. Khi tôi ở trên phòng, hắn đang lúi húi làm việc ở tầng một. Hắn tỏ rõ yêu công việc của mình hơn cả tấm thân một nhà văn nữ gợi cảm. Cố nhiên! Vì thế, chúng tôi là bạn của nhau, không nhân tình nhân ngãi, thường nói nhiều chuyện phiếm (có thể nghiêm túc, rất nghiêm túc, có thể vớ vẩn, rất vớ vẩn).
Tôi nghe điện thoại xong, chẳng gọi lại cho Huy để an ủi, càng không có ý định nói với Mitchell. Đằng nào thì Mitchell cũng sẽ biết. Trong khi tôi đâu biết diễn đạt thế nào với Mitchell. Với hắn, Hiên là một mối tình thoáng qua trong mấy ngày làm việc ở Sài Gòn. Nỗi đau buồn của Mitchell hẳn chỉ dừng ở sự đãi bôi xã giao. Với Hiên, nếu có nghe tin Mitchell chết chắc cũng thế. Họ không có gì gắn kết với nhau ngoài những nụ hôn róng riết và vài trận cuồng hoan xác thịt. Mitchell không biết gì về Hiên. Hiên không biết gì về Mitchell. Tôi thì đứng giữa hai người với bộ não khi cần tư duy thì lại tỏ ra lười biếng. Nên cứ lầm lũi mà cất việc chết của Hiên vào một góc của sự quên. Tôi không muốn mình trở thành người chuyên thông báo những tin buồn.
*
Đã có thời gian dài, sau chuyến đi Sài Gòn, Mitchell vô tình là người bạn thân luôn bên cạnh tôi.
Tôi không phải là người quá khó tính để kết bạn. Kiểu cách ăn nói tự nhiên, những câu đùa có chút duyên thường gây ấn tượng với những người gặp. Trước khi chuyển sang kiếm tiền bằng nghề báo, tôi viết văn. Việc cho ra vài truyện ngắn in chung trong một số tuyển tập được tiếp thị khéo đã giúp tôi hòa nhập với giới nghệ sĩ dễ dàng hơn. Họa sĩ trẻ ít người thích đọc sách văn học, nhưng họ tỏ ra nể trọng những người viết văn, dù có tiếng hay không, dù tác phẩm tầm thường hoặc xuất sắc. Trong quá trình làm báo về văn hóa, muốn hay không, tôi luôn cần tiếp xúc với các nghệ sĩ. Họ là đối tượng cho từng bài viết của tôi, đặc biệt là họa sĩ trẻ. Nhưng có lẽ, tôi là người tự biết mình không có gì nổi bật, cũng chẳng là người thông minh, tư duy thường chậm chạp, nên ngoài những cuộc vui đông người như triển
lãm, hội thảo, tiệc tùng trong giới, tôi lại lui về góc tối của riêng tôi - một mình lầm lụi. Tôi thường xuyên xuất hiện ở đám đông, và mọi người cũng chỉ gặp tôi ở đám đông với nụ cười thường trực và sự nhí nhảnh dễ gần. Nhưng nếu ai đó muốn tìm kiếm cơ hội gần tôi hơn bằng cách tìm hiểu đời sống riêng, thì sự đáp trả chỉ là một mơ hồ không thật. Tôi nghĩ, chính bản thân tôi, sau khi rời bỏ đám đông, tôi lặng lẽ khoác lên một tấm áo đen chìm khuất. Đến tôi cũng còn không hiểu nổi, mình là ai, bản chất con người tôi thực sự như thế nào…
Mitchell gọi tôi là bạn thân, là sự ngọt ngào trong cuộc đời mà hắn may mắn có được. Tuy vậy, chưa một lần nào Mitchell biết chỗ tôi ở, tòa soạn nơi tôi làm việc, về gia đình của tôi… và tất cả những vấn đề cá nhân liên quan đến. Tôi chắc Mitchell thường xuyên tò mò muốn biết trong khi tôi luôn cố tạo ra những khoảng cách, rào cản để không một ai, kể cả hắn, xâm phạm được. Tôi và Mitchell hầu như chỉ gặp nhau tại biệt thự nơi hắn ở, thi thoảng thì đến một quán nhỏ nằm trong dãy phố cổ ngay sát đó. Trước khi đến, tôi gọi điện cho Mitchell, hỏi hắn ta có nhà hay không, nếu có thì phóng xe tới. Có đôi khi, Mitchell bận công việc, thường là đi gặp một nghệ sĩ, đến một nơi triển lãm, hay thăm một studio nào đó, giản dị hơn là cùng một người bạn tên Ngọc chơi pool - trò này Mitchell rất thích - uống bia hơi rẻ tiền ngoài đường, hắn sẽ nhắn tin cho tôi địa chỉ. Vốn tiếng Việt của Mitchell rất hạn hẹp, tiếng Anh của tôi lại quá tồi, thành ra thường có một ai đó đứng giữa phiên dịch hộ. Nếu không có người giúp phiên dịch, chúng tôi sẽ phát cáu với nhau vì Mitchell luôn ghi sai tên đường phố. Về sau, để giảm nguy cơ tranh cãi, bực bội, Mitchell học cách đánh vần tiếng Việt. Hắn đánh vần khá tốt, mặc dù không hiểu nghĩa. Chỉ đơn giản là có thể viết được tên đường chuẩn xác. Nếu tên đường nhiều ký tự khó, Mitchell chạy ra nhìn các biển hiệu và copy lại. Những việc đó làm mất của Mitchell không ít thời gian, nhưng nếu cuộc vui thiếu tôi thì chẳng có gì thú vị. Hắn bảo với tôi vậy.
- Lần đầu tiên nhìn thấy cậu, tớ đã ấn tượng lắm rồi. Khi cậu nói về công việc sáng tác, trong mắt cậu như có lửa ấy. Rất may là chúng mình lại kết bạn được với nhau…
Nghe Mitchell nói thế, tôi thường nheo mắt cười đáp trả, vẻ thờ ơ nhưng không giấu nổi nỗi cảm động. Giọng Mitchell rất ngọt ngào, khuôn mặt thông minh, lém lỉnh còn ánh mắt thì hiền. Nhìn toàn diện về hình thức, hắn ta giống một diễn viên Mỹ da màu chuyên đóng các vai chính trong phim hành động. Cao lớn, đẹp trai, đàn ông, bụi phủi.
Các họa sĩ khác thường bảo, hẳn tôi có gì đó rất hay, nên Mitchell mới thích đến thế.
- Cậu ta chẳng thực sự thích một ai cả, nhất là con gái Hà Nội. Cậu ta có vẻ không ưa con gái Hà Nội. Bảo họ kiêu kỳ, hay phân biệt đối xử về chủng tộc giống hệt tụi con gái da trắng ở New York. Con gái Hà Nội cũng không thích người gốc Phi. Con gái Hà Nội là đồ nông cạn, hời hợt.
- Là do Mitchell quá nhạy cảm thôi.
Tôi thường trả lời như thế. Mà quả thực, tôi đâu có gì đặc biệt. Chưa khi nào tôi thấy mình có gì đặc biệt cả.
∗
Những khi rảnh rỗi, chúng tôi đi bộ cùng nhau quanh các hồ lớn của Hà Nội. Mitchell bảo, thật buồn cười, khi xa quê hương, đến một nơi xa lạ, dường như cách biệt trong một thế giới khác, vậy mà con người ta có thể dễ dàng chấp nhận, rồi sống thoải mái. Cũng như một số việc diễn tiến trong đời ta, tưởng là không vượt qua được, thế mà khi kết thúc, nhìn lại hóa ra đơn giản đến bất ngờ. Quan trọng là cách đánh giá của ta với từng vấn đề. Tốt hơn hết đừng cho nó là phức tạp, mặc dù, nó cực kỳ phức tạp. Nghe cậu ta nói, tôi cũng chỉ biết thế. Một cách dễ hiểu hơn, Mitchell đang tự động viên mình. Điều này đi bên cạnh Mitchell có thể thấy rõ. Bạn không cần trí tưởng tượng phong phú lắm đâu, chỉ nghĩ đến một cô gái người Việt, ăn mặc tương đối lạ kiểu, tóc rối, mặt mộc không buồn trang điểm, nụ cười u ám… đi sát cạnh một gã thanh niên người Mỹ gốc Phi, áo phông lấm chấm màu sơn dài gần đến đầu gối bên trong một áo khoác màu lông chuột đã bạc ngắn ngủn đến thắt lưng, kèm theo cái quần kaki sờn rách và đôi bốt cũ cùng cái đầu trọc thì khó ai từ chối ngoái nhìn. Thậm chí, nhiều tiếng xì xào khinh bỉ luôn bám riết sau lưng hai đứa. Họ nói với nhau, tôi là một gái điếm rẻ tiền cặp kè với một gã da đen nghèo rớt. Mitchell không hỏi tôi là những người kia đang nói gì, nhưng dường như hắn tự hiểu. Đi xa xa đám người một quãng, thế nào Mitchell cũng nhổ nước bọt xuống đường rồi chửi thề. Khi cáu, trông hắn ngồ ngộ, hay hay. Mỗi lần thế, tôi lại cười rúc rích.
*
Tôi không thể tin được rằng, sau khi chia tay, tôi lại nhớ về Mitchell nhiều đến thế. Tôi biết, Mitchell khi đã rời Việt Nam, sẽ không còn quay trở lại. Hắn cũng chắc chắn về điều đó. Mọi thứ gắn kết với nơi này hoàn toàn đóng lại như một cái kho rỗng cũ kỹ bị chôn vùi trong lòng núi sâu.
Hình ảnh của bộ bàn ghế cỡ lớn kiểu Mỹ: cái bàn rộng sơn trắng, hai phía kê ghế băng dài sơn đỏ có đặt nhiều gối dựa mềm màu đen - nơi Mitchell thường làm việc - luôn hiển hiện trong tâm trí tôi. Sau hồi chuông ting tang, Mitchell chầm chậm đi ra, mở hai lần cửa, đưa tôi vào nhà. Tôi đặt cái túi xách to nặng trịch của mình xuống nền gạch, ngồi thoải mái lên băng ghế. Nhiều lúc, nằm ngủ luôn trên đó, kê dưới lưng một đống đệm. Khi tỉnh dậy, thấy áo của Mitchell đắp trên ngực, còn Mitchell vẫn ngồi làm việc rất tập trung, quên luôn cả tôi đang bên cạnh.
Việc tôi và Mitchell - một gái, một trai - ở bên nhau hàng tiếng đồng hồ trong một căn phòng luôn đóng kín cửa luôn là câu hỏi tò mò cho những cô cậu họa sĩ khác. Khi đến tìm Mitchell, dù cố dò kiếm, họ sẽ không thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ chúng tôi vừa có… gì đó với
nhau. Nhưng tất nhiên họ sẽ thắc mắc. Người quan tâm nhất đến chúng tôi là Ngọc.
- Hôm trước Mitchell hỏi anh mua bao cao su ở đâu.
Ngọc nói, ánh mắt hướng về tôi đầy dò xét.
- Anh đưa cho nó một nắm. Có phải là dùng với em không? Tôi không thích trả lời câu hỏi này, chỉ cười.
- Chuyện đó bình thường thôi, đúng chứ. Anh chỉ muốn hỏi là cậu ta làm tình tuyệt không? Trông thế kia, hẳn là một con thú dữ trên giường. Như thế này này…
Ngọc chồm người lên tôi, bấu chặt vào hai bầu má tôi, và cười to.
- Trông em ngơ ngơ thế kia, không rõ hiểu biết về chuyện đó thế nào. Nếu chưa có kinh nghiệm, để anh giúp.
Tôi quay sang Mitchell, nháy mắt. Hắn ta không hiểu chuyện gì,
cũng nháy mắt lại với tôi.
- Anh chán ngấy bọn gái Việt, Ngọc nói tiếp, mỗi lần xong chuyện đó, chúng cứ bám lấy mình đòi trách nhiệm. Mà cơ thể chúng, có phải duy nhất mình hưởng đâu. Anh chỉ thích những cô gái tóc vàng, mắt xanh, da trắng, người lẳn. Họ rất tuyệt. Sau một trận xả láng là xong, ai đi đường nấy…
- … Mitchell khoái em đến phát hâm, mà em thì có gì nhỉ?
Thực ra, tôi khá thích tính của Ngọc. Hơi man dại, buông tuồng, suồng sã nhưng lại thẳng thắn. Cao chừng mét bảy. Dáng đậm. Mắt hơi xếch. Đồng tử màu nâu. Da rám nắng. Mặt thường nổi mụn. Ăn vận khá giản dị. Nhiệt độ cao thì áo sơ mi kẻ, quần kaki hộp màu cỏ úa. Nhiệt độ thấp thì áo len đen, vẫn quần kaki hộp màu cỏ úa. Ngọc là một họa sĩ Việt kiều. Anh sinh ra ở Anh, sinh sống tại Anh và lấy một người vợ cùng nghề người Anh. Vợ của Ngọc tôi cũng đã có dịp gặp. Tôi và Mitchell đôi khi có đi chơi cùng vợ chồng Ngọc. Chị tỏ ra thích tôi, mỗi lần gặp, lại mang máy ảnh ra để chụp. Để làm kỷ niệm, để không quên nhau. Chị giải thích vậy. Chị có khuôn mặt xinh xắn, dáng đẹp nhưng thuộc dạng phụ nữ hay ghen. Đi đến đâu cũng thấy vợ chồng Ngọc cãi nhau um sùm, có khi chỉ là chuyện một cô gái lạ nhìn Ngọc và Ngọc liếc mắt với cô ta. Mỗi lần giận dỗi xong, lại thấy vợ chồng họ ôm nhau khóc. Điều đó làm tôi buồn cười mà chẳng dám cười. Mitchell thì chỉ biết nhún vai rồi lảng đi chỗ khác. Tuy nhiên, chuyện vợ chồng Ngọc rất yêu nhau hoặc Ngọc có một bà vợ ghen tuông đến thế vẫn không cản việc Ngọc ngoại tình. Tìm kiếm tình nhân mới thay thế tình nhân chưa kịp cũ là vấn đề quan tâm hàng đầu của anh. Ngọc thường kể cho tôi với giọng say sưa về chuyện chăn gối. Ban đầu tôi thấy ngượng, dần cũng quen, sau tỏ ra thích thú. Ngọc ngạc nhiên vì bên tôi nhiều thế mà chưa bao giờ trong đầu anh dấy lên ham muốn tình dục.
- Lâm Lâm như một đứa em gái nhỏ đáng thương của anh, anh thấy thương nhiều hơn là thích.
Ngọc vuốt tóc tôi bảo thế.
Lần này, Ngọc về nước để chuẩn bị cho triển lãm cá nhân của mình. Anh thường xuyên đi đi về về giữa hai nước.
- Nghe từ “đi đi về về” thật hay. Nó giống sở thích của anh, mà cũng giống như tiếng nhạc vậy.
Vào ban ngày, ngôi biệt thự chìm giữa tĩnh lặng. Bốn anh bạn Mỹ của Mitchell luôn bận rộn với các hoạt động liên quan đến nghệ thuật mà khoảng thời gian lưu trú ở Việt Nam quá ngắn không cho phép họ chểnh mảng. Trong căn phòng tầng một thênh thang, tôi và Mitchell
có thể nói chuyện thoải mái hầu như không có ai làm phiền. Nếu không quá bận với việc ngồi cặm cụi trước laptop tải các chương trình về nghệ thuật trên khắp thế giới dành cho các buổi thảo luận giữa các nghệ sĩ Việt Nam và nước ngoài diễn ra mỗi tuần một lần do Mitchell tự tổ chức, hắn thường tìm kiếm nhiều bản nhạc Mỹ La tinh giới thiệu cho tôi. Khi nghe nhạc, Mitchell tỏ ra rất hưng phấn. Hắn đứng lên nhảy xung quanh bàn với dáng hình uyển chuyển, mềm mại đến không ngờ, hoặc huyên thuyên về các ca sĩ mà tôi chưa từng biết mà cũng không muốn biết. Có lần, Mitchell cho tôi xem hàng trăm bức hình chụp quê hương và người thân của hắn. Năm trăm năm trước, tổ tiên hắn đã đến Mỹ với thân phận của những người nô lệ. Năm trăm năm sau, đến thời hắn vẫn không bao giờ quên. Có dịp, Mitchell lại kể chuyện này cho tôi nghe. Lo tôi không hiểu, hắn làm động tác của một người đang di chuyển hết sức khó khăn, hai tay nắm chặt trước ngực, chân lê từng bước chậm chạp như thể bị cuốn nhiều vòng xích sắt nặng.
- Tớ không hiểu vì sao cha ông tớ lại quên gốc tích của mình mà đi gây chiến ở Việt Nam? Tớ rất tiếc về điều đó.
Tôi giải thích cho Mitchell hiểu rằng, thực ra những người trẻ như tôi đây chẳng ai bị những chuyện như thế ám ảnh. Chiến tranh chỉ còn đọng lại trong trí nhớ của các cựu chiến binh thôi. Và tất nhiên, bọn tôi chẳng có lý do gì để mang nặng hối tiếc quá khứ mà người đi trước để lại cả. Nghe xong, Mitchell có vẻ yên tâm hơn. Hắn không muốn có bất cứ điều gì ngăn trở để có thể được hoạt động nghệ thuật thoải mái ở Việt Nam.
Đêm Noel năm 2006.
Tôi đưa Mitchell đến nhà sàn của một họa sĩ có tiếng trong giới. Rất cẩn thận, Mitchell đã chuẩn bị sẵn nhạc dành cho bữa tiệc trong laptop.
Mặc dầu ở Hà Nội chưa đầy nửa năm, hắn đã có mối quan hệ thân thiết với nhiều nghệ sĩ Việt Nam hoặc các nghệ sĩ lưu trú đến từ nhiều nước. Sở thích của Mitchell là đi dự tất tật các triển lãm nhóm, cá nhân ở Hà Nội nếu có thể. (Tính trung bình mỗi tuần có một triển
lãm lớn và hai hoặc ba triển lãm nhỏ. Có ngày thì đến bốn triển lãm nối nhau cùng một buổi chiều.) Rảnh nữa thì theo chân các cậu bạn cô bạn đến thăm mọi studio. Ngoài ra là ngày ngày cà phê vỉa hè và ăn cùng họ những đồ ngon - bổ - rẻ. Vốn kiến thức về nghệ thuật đương đại hắn mang đến từ Mỹ làm nhiều người thích thú. Đầu óc thông minh. Tính tình tốt, ưa giúp đỡ người khác. Giọng Mitchell trầm trầm ngòn ngọt như sóng ngầm đáy biển. Khuôn mặt rắn rỏi đàn ông. Thân hình lại nở nang cân đối nhờ tập luyện thể thao thường xuyên. Nhờ thế, hắn có bạn trong giới với số lượng gấp mười lần tôi.
Vác máy trên vai, hắn huyên thuyên đủ thứ chuyện. Mitchell không tin khi tôi nói đây là lần đầu tiên tôi lái xe qua cầu Long Biên. Đến tôi, tôi cũng không tin nổi. Bên kia đường ray, dòng người đổ về
phía trung tâm thành phố như thác cuốn. Chúng tôi đi bên này cầu khó thể không cảm thấy có chút đìu hiu.
Tại sao tôi lại đến nhớ đến đêm Noel đó? Hay là do bữa tiệc hao hao như ở Sài Gòn, buổi tối sinh nhật Hiên. Cũng lửa đốt giữa sân rừng rực. Mọi người đứng xung quanh ăn uống trò chuyện, mặt ngời ngời ánh sáng. Tôi nhảy nhót rất mực phấn khích với một anh chàng đồng tính nam. Tôi và anh ta cầm chặt tay nhau, chân nhún những điệu nhảy tự nghĩ ra, xoay vòng tròn bên ngọn lửa. Mitchell thi thoảng chạy ra cùng vui với tôi, hoặc loay hoay bên dàn âm thanh. Hắn nói với tôi nhiều, thật nhiều. Toàn niềm vui đã qua của hắn khi đón Noel ở Mỹ. Hoặc hạnh phúc vì lần đầu chào Noel ở Việt Nam. Không gian rất hay, nhà sàn quá đẹp, nhiều người bạn nghệ sĩ sao thân thiện… Nhưng không còn động đến tên Hiên. Chẳng còn ai nhắc đến Hiên nữa. Hiên đã tan rữa trong trí nhớ bạn bè rồi. Vậy sao còn lại tôi?
Hôm ấy, tôi bỏ về trước.
∗
Huy ra Hà Nội. Hưởng cái nắng mùa đông những ngày đầu năm. Tiện thể giúp mấy người bạn mở gallery. Huy gặp lại Mitchell ở một triển lãm. Hai người nhìn nhau lạnh lẽo. Nghĩ cả hai đều quên, tôi buộc lòng giới thiệu lại tên. Gợi lại nơi đã từng biết nhau lúc trước. Nhờ thế mà nhắc đến Hiên. (Họ đã mang vẻ mặt buồn đúng ba mươi giây.) Sau cái bắt tay lỏng lẻo, Mitchell nói nhỏ vào tai tôi, hắn không thích Huy. Khi tiễn Huy ra ngoài bắt xe ôm, Huy bảo, anh không có cảm tình với Mitchell. Tôi nghe mà chẳng nghĩ gì cả. Đó là chuyện của hai người. Nó đâu có liên quan đến tôi?
Huy ở Hà Nội. Cuộc sống của tôi bị xáo trộn lên ít nhiều. Ban đầu anh đề nghị về ở cùng chỗ với tôi, nhưng vì địa điểm khuất nẻo, chẳng gần trung tâm, càng xa nơi mấy ông bạn của anh nên anh ngần ngại. Cuối cùng Huy mang ba lô đến nhà một người bạn có cổ phần trong gallery sắp thành hình đó tá túc. Do Huy không có xe máy, dùng xe ôm mãi thì quá chừng phung phí, mấy người bạn kia lại chung nhau một chiếc đang chuẩn bị gia nhập bãi phế thải thành phố, nên khi cần đi đâu, Huy nháy máy gọi tôi đến đón. Còn mang trong lòng chút ít cảm kích vì sự đón tiếp ân cần của Huy khi tôi đến Sài Gòn, tôi giúp Huy với nụ cười cởi mở.
Lúc này, mùa đông Hà Nội đang trôi vào khoảng thời gian đẹp nhất. Lạnh se se và nắng ươm ươm vàng.
*
Mitchell nhắn tin hỏi: “Có biết Coetzee không?” Tôi trả lời: “Không biết!” Hắn nói: “Đó là một nhà văn người Nam Phi. Tôi định mua cho cậu vài cuốn sách của ông ta, đã được dịch sang tiếng Việt. Đảm bảo cậu sẽ rất thích, thích hơn cả Milan Kundera…”
Đây là dấu hiệu lạ. Lần đầu tiên Mitchell có ý định tặng tôi cái gì đó. Tôi thấy thú. Tặng sách thì có thể giữ lâu, mà biết đâu, nó sẽ đẩy tôi đến vùng trời nào khác. Nhưng sao Mitchell lại ví Coetzee với Kundera…
*
Muốn gặp Huy, tôi gọi điện hỏi:
- Anh đang ở đâu?
Huy nói vắn tắt địa chỉ, thế là tôi giong xe đến. Huy là tay tháo vát. Ví dụ khi ở Sài Gòn, tôi được anh đưa đến một quán khá đẹp, khá độc. Đẹp và độc từ đồ trang trí và đặc biệt là những bộ bàn ghế. Huy thiết kế và tự tay làm ra chúng. Giúp không công cho cô bạn chủ quán dễ thương, cũng là dân họa sĩ. Có thể, anh đã phải lòng cô ấy.
Hôm tôi đến quán chơi. Nhìn cô bạn của anh bằng cặp mắt lạnh như ngày đại hàn xứ Bắc, rồi chẳng chào hỏi một câu. Điều đó quá mất lịch sự. Hiển nhiên khỏi bàn cãi. Sau hôm về, cũng có lời qua tiếng lại đồn đãi, là cô ấy không ưa tôi. Huy cứ đứng giữa lăng xăng như thằng con, gã chồng với mẹ đẻ, nàng dâu. Tôi bảo, khỏi phải giải thích, em chơi với anh, chứ có ý định kết bạn với cô nàng của anh đâu. Huy cười cười, rồi cũng thôi, chẳng nói thêm câu gì. Cứ lớ lơ đi là xong. Chuyện đàn bà, cứ để bọn đàn bà tự giải quyết.
Mấy lần qua gallery của bạn Huy, đều thấy anh đứng ngất ngưởng trên cái thang cao chót vót, lắp đèn mắt cua, ròng dây treo tranh. Lúc thì đẽo đục cưa bào vài cột gỗ trang trí góc nhà. Có khi hí hoáy làm dăm cái lọ hoa ghép bằng thủy tinh, đẹp khỏi nói. Tôi không quên ý định nhờ vả anh tặng tôi mấy lọ hoa như thế, anh gật gật ừ ừ qua quýt, nhưng thế nào cũng nhớ. Huy trả công “xe ôm” cho tôi bằng cách mời tôi đi ăn sáng hay uống cà phê, thi thoảng được thêm bữa trưa. Tiền mời ăn quá tiền xăng xe. Hết tiền, lại thấy Huy đi rút ở ngân hàng. Rút rất nhanh, tiêu cũng chóng vánh. Tiền bán tranh chẳng rõ được bao nhiêu mà tỏ ra khá hào phóng với tôi. Hầu như không tiếc tôi thứ gì, chỉ miễn là tôi thích.
Chúng tôi quen nhau vào cuối tháng Mười năm 2004. Có thể nhớ rõ vì hôm đó thành phố tổ chức một chương trình lớn về “Nghệ thuật trình diễn”. Với sự góp mặt của mười tám nghệ sĩ quốc tế đến từ Nhật, Anh, Singapore, Đức. Mười hai nghệ sĩ Việt Nam. Chia đều cho ba miền. Bốn người từ Sài Gòn, bốn người dân Huế, bốn người Hà Nội. Cái-sự-cố-chia-cho-đều này về sau vẫn bị báo chí lèo xèo chê trách.
Tôi quen Huy trong buổi tối đó. Huy là một trong bốn người Sài Gòn đang mệt bã bời sau chuyến đi lắc lư hơn hai ngày trên ô tô khách mà không có thời gian nghỉ lấy lại ít hơi sức. Tác phẩm trình diễn của anh vào ngày hôm ấy đơn giản quá mức tưởng tượng. Hầu
như không cần phải làm gì, ngoài việc ban tổ chức kiếm cho anh một can rượu 65 độ ba lít. Cứ thế, anh ngồi giữa sân uống rượu một mình. Nếu cuối buổi, một curator không nói, sẽ chẳng ai biết được người ngồi ngật ngưỡng say ngoài kia đang làm performance.
Tôi rời phòng chính để ra sân, anh vẫn ngồi đó với mấy người bạn. Uống như thể chờ ngày mai chết. Trời đang chuyển mùa. Thời tiết dở ương này dễ hại người như chơi. Nhất là dân Sài Gòn không quen khí hậu Hà Nội.
- Anh đừng ngồi đây, gió máy nguy hiểm lắm!
Khi ấy, Huy không còn tỉnh táo nữa. Anh đưa cho tôi chiếc chén đầy rượu. Nhìn tôi chòng chọc:
- Uống với tôi nhé.
- Tôi sẽ uống. Có điều, anh nên vào trong nhà thì tốt hơn. Huy gật đầu. Chúng tôi cầm chén, nhìn nhau, và uống. Sau chén rượu đó, chúng tôi trở thành bạn của nhau.
Huy là một họa sĩ bên ngoài tưởng có sự hòa hợp với đám đông, nhưng thực ra lại ưa một mình. Hành trang là một cái ba-lô to đùng trên lưng, anh di chuyển khắp mọi nơi, từ trong nước đến các nước bạn như Mỹ, Nhật, Úc, Đài Loan, Thái Lan… Đeo ba lô nhiều đến nỗi gù cả lưng, dáng đi lúc nào cũng đổ xiên về phía trước. Với máy ảnh trên tay, anh đi đến đâu cũng chụp rất nhiều hình ở đấy. Các chuyến đi của anh thường là do được mời và hoàn toàn liên quan đến các hoạt động nghệ thuật. Huy thích làm việc hơn là nghỉ ngơi, vui chơi. Mỗi lần đi, anh luôn có sự so sánh về văn hóa giữa Việt Nam và các nước khác. Với anh, đời sống không giống nhau của từng nước sẽ cho ra những cách nghĩ cũng không giống nhau.
Huy tự cho mình là một người theo “chủ nghĩa cá nhân”. Nếu sống với tập thể, anh luôn phải cố gắng tự điều tiết. Huy không thích làm việc theo nhóm, anh thích tự thân vận động. Thường thấy anh hay đi một mình. Đến quán nước một mình, lặng lẽ đi dự tất cả triển lãm của các đồng nghiệp một mình. Anh thường chọn chỗ đứng của mình một góc nào đấy. Không ồn ào như thường thấy ở các họa sĩ
khác. Nụ cười hiền thường trực trên môi anh.
Với Huy, tình yêu luôn chứa đựng sự tồn tại của tự do cá nhân. Sự tự do ấy là sự thỏa thuận giữa hai người. Đừng để tự do của mình làm phiền đến người khác là được. Nếu một trong hai bên va vào tự do của nhau thì tự tình yêu sẽ hỏng chứ không phải vì mình đặt ra những “luật lệ” gò ép tình yêu.
Khi buồn, Huy thường giấu nỗi buồn vào trong. Không bao giờ anh thể hiện ra bên ngoài. Lúc nào cũng thấy anh tỏ ra bình thản, cũng chỉ vì suy nghĩ sẽ rất phiền khi người khác quan tâm đến mình.
Có những lúc chán chường hay cô đơn, anh gắng làm việc bình thường, làm sao cho có việc để làm. Huy thường dùng công việc để lấp chỗ trống dù biết kết quả của quá trình làm việc trong tâm trạng đó thường không đạt hiệu quả cao.
Huy hay làm việc về đêm. Thời gian đi ngủ thường là hai giờ sáng. Nhiều khi, anh thức qua đêm để làm việc vì lúc đó anh thấy mình làm việc tỉnh táo và hiệu quả nhất. Một ngày của anh bắt đầu vào buổi chiều chứ không phải là buổi sáng. Niềm vui của anh là rời ngôi nhà trọ tối tăm, ẩm ướt ngoại ô thành phố để trở về nhà dùng bữa với gia đình và nằm dài nghỉ ngơi.
Mất năm năm, Huy mới trở thành sinh viên của trường Đại học Mỹ thuật. Lần thi thứ tư, bố mẹ bắt đầu sốt ruột, anh cũng thấy nản nhưng vẫn cố gắng vì anh nghĩ: “Mình không làm nghệ sĩ thì chẳng biết làm gì…”. Vào học trong trường mới biết chương trình đào tạo
của nhà trường có gì hay và không hay. Cách dạy của nhà trường không phải tạo ra một nghệ sĩ mà chỉ tạo ra một người biết vẽ. Giáo viên không có khả năng gợi cho sinh viên có ý tưởng sáng tạo mà chỉ giúp về kỹ thuật và ít thông tin về lịch sử mỹ thuật. Mất năm năm học như thế, anh cho rằng lãng phí và thấy cần làm thêm những công việc khác. Trong quá trình học ở trường, Huy gặp một giáo viên người Đức. Hàng tuần, cô giáo đến trường chiếu cho sinh viên Mỹ thuật xem băng hình về các nghệ sĩ đương đại trên thế giới. Bản thân cô giáo cũng là nghệ sĩ nên cô có thể phân tích được cái hay, cái dở của nghệ sĩ đương đại. Biết đây là cơ hội tốt để trau dồi kiến thức về nghệ thuật của mình, Huy rất chăm chỉ đi xem, hoặc đến nhà cô tìm đọc thêm tài liệu, tích cực trao đổi suy nghĩ của mình với cô giáo, và anh học được nhiều điều. Sau khi được xem, đọc, học hỏi, Huy nảy ra trong đầu
những ý tưởng cho tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của mình.
Để ra được một tác phẩm, Huy chắt lọc từ kinh nghiệm sống và suy nghĩ của mình để có một ý tưởng tối ưu nhất. Cái khó nhất trong nghệ thuật là làm sao tác phẩm mặc dù đơn giản nhưng lại thể hiện đầy đủ ý tưởng của mình. Là người làm việc ngẫu hứng. Chỉ hoạch định về kỹ thuật hoặc phác thảo ý tưởng, còn lại là cảm xúc dẫn dắt. Có nhiều lời mời tham gia các chương trình về nghệ thuật, anh thường từ chối khi chưa có ý tưởng và tác phẩm chưa đủ hay như đúng ý của anh. Huy chủ động và cầu toàn trong chính tác phẩm của mình. Bản thân anh cảm thấy ưng ý thì mới đưa tác phẩm ra. Thông qua các tác phẩm của mình, Huy đưa ra một loạt thông tin. Người xem sẽ chủ động tự mình quyết định có đi tiếp hay không. Anh ví công việc nghệ thuật của anh như là đi chợ mua nguyên liệu để nấu ăn. Bằng kinh nghiệm, người xem có thể đoán ra anh định nấu món gì. Càng nhiều kinh nghiệm thì càng đoán được nhiều món. Tác phẩm của anh thành công hay không phục thuộc vào kinh nghiệm sống của người xem. Anh sẽ không nói thẳng ra ý tưởng trong tác phẩm của mình. Đó là những ẩn dụ mà người xem phải tự rút ra.
Huy thích để mọi chuyện mặc theo tự nhiên. Trong tác phẩm của mình, anh luôn thể hiện bản chất của sự việc. Anh quan tâm đến những gì nằm bên trong sự việc chứ không phải là bên ngoài. Với một sự việc được coi là thật thì mọi thứ nằm bên trong. Nhưng để nói ra được cái bên trong thì lại cần vẻ bề ngoài làm phương tiện. Huy thường làm những gì mà tự anh cho là đúng. Nhưng cái đúng cái sai thì lại phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, quá trình học hỏi, giao lưu với xã hội hay sự va chạm với các nền văn hóa khác nhau.
∗
Không nhớ rõ là ngày nào, gọi là một ngày mệt cũng được. Tôi đến, ngồi bệt xuống sàn nhà. Huy đang miết lại keo cho bình hoa thủy tinh thêm chắc. Chúng tôi không nói gì với nhau. Một ngọn nắng vàng
lọt qua khe cửa gỗ của gallery chiếu chênh chếch lên mặt Huy một màu buồn. Trong một góc tường ẩm tối, khói bay bay từ ba que hương trên bàn thờ ông địa làm nhòa nét mắt nét môi Huy. Tự dưng tôi choàng tay ôm lấy Huy từ phía sau. Ôm không hiểu vì sao. Cũng có lúc con người ta cần một cái ôm đâu cần giải nghĩa. Bình hoa trên tay Huy rơi xuống nền nhà. Vỡ òa thành đúng sáu mảnh ghép.
∗
Bảy ngày liên tiếp chúng tôi cùng tránh gặp mặt. Chỉ nói chuyện phiếm qua điện thoại, như thể vẫn kẻ Bắc người Nam. Cho đến ngày Huy lên tàu về Sài Gòn. Huy gọi điện cho tôi, buông một câu chào nhẹ như cánh hồng.
Một cái ôm làm con người gần nhau.
Cũng có thể làm xa nhau.
∗
Khi đi dạo trên bãi giữa sông Hồng, Lâm Lâm chỉ tay vào dãy cột bê tông cao trên năm mét xây dọc một đoạn triền sông, đếm chừng được bốn mươi cái cột, hẳn có thời người ta xây lên dùng đỡ đất lở, bảo với Mitchell, tớ sẽ cho nhân vật chính đứng trên đỉnh cột kia, ngã xuống cát. Nhưng liệu có chết được không nhỉ? Mitchell nói, quan trọng là, làm thế nào mà nhân vật ấy trèo lên được đó chứ?
Thì đơn giản vẫn là chết. Nhưng chọn một cái chết như ý đâu phải là dễ.
Một buổi sáng lất phất mưa phùn đầu xuân. Cây cầu sắt dựng từ năm 1903 đang thả bóng trôi trôi trên dòng sông lờ đờ rác thải. Ngay chính giữa cầu, có một lối đi làm từ sắt (đã han gỉ lắm rồi) và bê tông (cũng lở loét như mảnh da rách hở thịt) dẫn xuống bãi cát. Phía dưới bậc thang cuối cùng, có thể nhìn thấy hàng trăm kim tiêm và vỏ bao đựng vun thành đống. Men theo đường mòn nhỏ giữa bãi dâu đã tàn, còn trơ lại vài ba gốc rễ và những chiếc lá thẫm xanh, Lâm Lâm cố đi chậm rãi. Là do cẩn thận, tránh không để chiếc kim tiêm nào vô tình đâm vào chân.
Đi hết bãi dâu, hết bãi ngô, hết bãi lau là đến dãy cột chắn đất lở. Ngay phía chân cột có ba ngôi nhà xập xệ đang chảy nhão những vụn gỗ quá khứ đặt trên dăm chiếc thùng phuy cũ nát.
Quang cảnh hết sức nghèo nàn, bẩn thỉu. Hai người đàn bà một già một trẻ đứng giữa lòng sông lúc này đang cạn nước giặt giũ nói cười. Gà chạy tao tác trên bãi cát. Dăm con vịt xiêm nằm ườn há mỏ. Một con chó mực nhún nhảy, gầm gào vu vơ. Trong căn nhà nhỏ
(Lâm Lâm cố tình đi thật chậm để nhìn cho kỹ), một người đàn ông đang uống rượu suông với dáng vẻ rất lười biếng trên chiếc chiếu sờn rách. Đồ đạc không có gì, chỉ có một cái đàn ghi ta rẻ tiền cũng đã cũ lắm rồi treo hững hờ trên vách. Lâm Lâm bảo, sẽ cho nhân vật thử sống một lần ở đây xem. Mà cụ thể thế nào nữa thì chưa nghĩ được.
Hai phía đầu cầu, những tòa nhà cao chọc trời treo giữa thinh không những khung cửa kính lấp lánh sắc màu, dòng người vẫn hối hả trôi trên nhiều chiếc xe máy đắt tiền. Ba ngôi nhà rõ ràng nổi bật lên thành một bức tranh trái chiều, phản cảm.
Lâm Lâm chọn một vạt cỏ, ném túi xách ra xa, buông người nằm xuống. Mitchell vẫn đi tiến sâu hơn vào bãi, cái bóng nhỏ chênh chếch ven rặng lau lơ thơ dăm bông hoa bạc.
Lấy từ túi quần máy nghe nhạc Ipod, Lâm Lâm chọn chọn, xoay xoay, mở đóng, được mớ nhạc ABBA. Đến bài That’s me thì đứng hẳn dậy từ bao giờ, nhảy cuồng điên trên cát.
Gió thổi. Cỏ rạp. Hoa lau bay. Sông ngập sóng. Một buổi sáng mưa như những hạt bụi đậu trên đỉnh đầu.
Lâm Lâm cứ thế nhảy. Nửa mơ. Nửa tỉnh. Mọi giác quan đã bị đóng kín. Chỉ còn tiếng nhạc ngân nga chảy xuống từ mây trời. Cơn hoan lạc của cô có lẽ sẽ kéo dài bất tận nếu không có hơn chục người đàn ông trung niên đi đến. Điềm nhiên cởi hết quần hết áo, thậm chí tụt cả chiếc quần lót quá bé so với những cặp mông và nhiều chiếc bụng độn mỡ ngay trước mắt cô. Cứ như Lâm Lâm chẳng hiện hữu ở đó. Chỉ là một lùm cây bụi mọc hoang. Đám đàn ông lựa bãi cát phẳng, chạy nhảy hò hét với nhau trên sóng nước như lũ con trai thò lò mũi xanh chưa kịp lớn. Lâm Lâm tự dưng muốn giống họ. Trở về thời nguyên thủy sơ khai của thuở hồn nhiên. Nhưng chút lề thói đạo đức về tính nam tính nữ được dạy kỹ từ lớp vỡ lòng trì níu sự ham muốn ấy lại. Không lẽ đứng ngẩn người ra nhìn đám đàn ông không quần áo? Kể cả không hề có chút gợi tính dục nào phảng phất trong suy nghĩ. Lâm Lâm đành thu máy nghe nhạc cất đi. Vớ lấy túi, bấm điện thoại gọi Mitchell quay lại. Mitchell không giấu vẻ thích thú khi nhìn thấy đám đàn ông lúc này đã ngừng bơi lội, chuyển sang tồng ngồng đá bóng trên bãi cỏ tương đối phẳng phiu ven sông. Hắn hồ hởi nói nói cười cười, kể chuyện gì đó về một bãi tắm tiên ở California. Và ước có chiếc máy ảnh ngay lúc ấy.
Khi trở về, Lâm Lâm nhìn lại, mới hay mình đứng trên một mỏm đất, phía dưới từng tảng đất to đang lở, hở ra một góc cắt sâu. Thêm khoảng thời gian nữa, rất có thể cô sẽ rơi thẳng xuống lòng sông với độ sâu sáu mét. Phù sa, cát chảy sẽ lấp cô đi.
Thì đơn giản vẫn là một cách để chết!
Trên đường về, Lâm Lâm trượt chân, ngã nhào vào một mảng đất trám xi măng. Rất may, tay chân người không việc gì, chỉ xây xát chút ít ở cườm tay. Khi được Mitchell kéo lên, phủi bụi đất bám xung quanh, Lâm Lâm mới biết mảng đất ấy là ngôi mộ của một phụ nữ trẻ. Chết trôi sông. Bốn ngày sau người ta mới tìm được xác. Bia mộ ghi:
Cô Hai
Chừng hai lăm tuổi
An táng tại: Sông Hồng
Lâm Lâm nhớ Hiên. Hiên cũng đã chết rồi!
*
Mồng một Tết, rủ Mitchell đi chùa Tảo Sách. Chẳng khấn khứa gì ngoài câu: Lạy Trời lạy Phật sao cho Hiên đừng ám ảnh vào cuộc sống của tôi nữa.
Tiếng chuông chùa binh boong như gọi hồn. Bài tụng kinh của chú tiểu bỗng nhiên ngừng nửa chừng. Không khí quấn lại thành tấm màn nhung đen. Láng váng nhiều bóng oan hồn đang bay về nấp nom
phía ngoài hàng rào, nơi có thể nhìn khoảng Hồ Tây xanh xao sóng gợn.
Khi nhìn thấy những nấm mồ nhấp nhô bên một góc chùa, phía sau hàng mai vàng và hoa đào đang đua nhau nhú những nụ hoa ứa nhựa, không biết vì can cớ gì Mitchell bảo tôi:
- Cậu có biết câu nói này không? Đại loại, cái chết là sự cải chính mà bản thể của mỗi người nhận được khi đòi được hiện hữu, là biểu thị của một sự mâu thuẫn được thấy trong mọi kiếp sống cá nhân.
- Rồi câu sau là: Vì mọi cái sinh ra đều đáng chết!?
Tôi trả lời. Và nặng nề bước đi.
∗
Cuộc sống của tôi trôi trôi theo vòng vô định.
Sau mỗi giây phút này, không còn biết điều gì có thể xảy ra. Huy gọi điện bảo:
- Này em! Sao cứ khoác lên mình tấm áo choàng đen của một nữ tu như thế?
*
Ba ngày tết làm con người ta đờ đẫn trong những giấc ngủ muộn màng bởi những cuộc chơi bất tận thâu đêm.
Mitchell nhắn tin liên tục cho tôi chỉ để than phiền không khí lặng lẽ và tẻ nhạt của những ngày nghỉ tết. “Mọi thứ đều đóng kín. Người người thì đi khỏi Hà Nội hoặc ngủ như chết”, hay “Một ngày cực kỳ buồn chán vừa trôi qua. Sao mình không gặp nhau nhỉ?”. Sau câu “Sao mình không gặp nhau nhỉ?”, tôi hấp tấp chạy đến ngôi biệt thự Pháp. Kể cả lúc ấy tôi vừa rời Hà Nội, làm một cuộc hành trình bé xinh vào rừng ngắm đào. Không nói không rằng, tôi quặt xe quay trở lại. Cứ như, tôi có nợ nần tình cảm gì gì đó với Mitchell từ kiếp trước.
Cuối cùng không phải trong một căn phòng nào đó, ấm cúng nào đó giữa bốn bức tường nghiêm cẩn đạo mạo giả tạo của ngôi biệt thự cố tìm kiếm lại chút vàng son đang thoái hóa giữa thời gian, chúng tôi gặp nhau tại một quán nước ven Hồ Gươm. Hôm ấy tôi đã nói nhiều điều ngu ngốc với bạn của cậu ta. Đại loại cái kiểu chê bai sự chậm trễ của Mitchell khi học tiếng Việt (mặc dầu tôi đâu học tiếng Mỹ chăm chỉ cho cam). Làm Mitchell hết sức xấu hổ. Chúng tôi phải lôi nhau ra khỏi quán. Cãi nhau dữ dội. Nói với nhau những câu gây tổn thương. Đến khi Mitchell không biết nói gì hơn là ghì lấy tôi để hôn, thì tôi im bặt. Đó là kiểu bắt người ta phải câm miệng một cách bản năng dễ chịu nhất. Sau nụ hôn, tôi và cậu ta trở nên bình tĩnh. Và chúng tôi đi đến kết luận chung là, hai đứa tự dưng thấy ngượng ngùng khi gặp
nhau. Vì thế nên mới gây sự. Chẳng qua là trấn áp một thứ tình cảm không tên gọi đang nhen lên trong lòng.
∗
Nhiều khi, Lâm Lâm căm ghét bản thân mình, tại sao cô lại chọn nghề văn? Không những thế, còn yêu nó đến mụ mị?
Sau tết, công việc cuốn cô đi như lốc xoáy. Cô đến với thế giới của họa sĩ thảng hoặc. Cô gọi Mitchell: “Đang ở đâu?” Nếu Mitchell bận thì thôi, còn nếu rảnh thì chạy đi uống nước một chút trong một quán nhỏ ở góc phố, gần nơi Mitchell ở. Quán không có gì đặc biệt, phía bên ngoài người ta trang trí một chiếc bánh xe bò rất to, ghim chặt trên tường, phía trên cửa quán. Ngay sát lối đi vào là một vũng nước luôn tù đọng trộn lẫn bùn ứ và rác thải từ cái bếp (xây trổ ra ngoài lề đường, vừa mất vệ sinh, vừa hỏng cả cảnh quan phố cổ). Tầng một của quán chỉ có thể kê hai cái bàn. Một cầu thang gỗ hẹp dẫn lên tầng hai. Tầng hai tổng cộng kê được bốn bàn. Hai bàn có thể nhìn ra ngoài đường, từ ô cửa sổ che mành rèm rộng một mét, dài mét hai. Chỗ ngồi đẹp nhất trong quán, phía sau ô cửa sổ là tầng lá bằng lăng đang túa ra những lộc non thì lại kế sát toilet vốn không được thơm tho gì cho cam. Không hiểu sao Mitchell cứ chọn quán này để ngồi. Mãi sau cô mới biết là do hắn có cảm tình với một cậu bồi bàn mười hai tuổi. Cậu ta dĩ nhiên là biết đồ uống của hắn có tên gọi là gì. Thường mang ra một ly trà đá, một nụ cười hiền khuyến mại. Tiền thu thì chưa bao giờ bị chênh lệch so với giá người Việt phải trả. Nói chung là tránh nhìn hắn tò mò, e ngại hay bàn tán như rất nhiều gã đàn ông khác lúc nào cũng rảnh việc ngồi chuyện vớ chuyện vẩn ở những quán cóc ven đường.
Hai người nói nhiều chuyện với nhau, nhưng quá một phần ba câu chuyện Lâm Lâm không thể hiểu. Vẫn là vấn đề ngoại ngữ. Mitchell chán. Nhưng vẫn không phàn nàn gì. Cười thôi, và giơ hai tay lên trời. Mà có phàn nàn thì Lâm Lâm cũng không hiểu (hay cố tình tỏ ra không hiểu). Vốn tiếng Mỹ thường giúp cô đón nhận những câu ngọt ngào như: “Cậu thật tốt bụng”, “Cậu thật đặc biệt”, “Hôm nay cậu xinh quá”, “Trông cậu rất phong cách”, “Cậu thông minh lắm”… Nói chung điều này hoàn toàn dễ chấp nhận. Vì cô mang tính nữ đậm đặc.
Với những người khác, Mitchell là một chàng trai người Mỹ điển
hình của dễ thương. (Về vốn kiến thức về nghệ thuật đương đại. Đầu óc thông minh. Tính tình tốt. Giọng trầm trầm ngòn ngọt. Khuôn mặt đàn ông. Thân hình lại nở nang…) Ai cũng thích Mitchell sau lần đầu
gặp. Cũng nhiều phóng viên tìm đến, trò chuyện, nhờ Mitchell kiểm tra mấy thông tin về nghệ thuật… để lúc viết bài, họ không quên nhắc đến Mitchell như là sự tình cờ. Khi đã xuất hiện trên mặt báo, đôi khi có cả hình chụp, Mitchell càng được nhiều người trong giới nghệ sĩ và cả người ngoại giới biết. Họ tìm Mitchell với nhiều mục đích khác nhau. Những lúc có khách đến chơi, Mitchell thành người hoạt bát, nhanh nhẹn. Hắn chạy lăng xăng pha trà, (nói chung chẳng biết làm việc nhà, ngoài việc pha trà, nghĩa là bỏ một túi chè lọc vào cốc, rót nước sôi, là xong). Bật nhạc. (Dòng nhạc La tinh là sở thích thường trực, giờ thêm ít nhạc Việt trẻ.) Bật máy vi tính. Trao đổi hăng say. Mọi người về hết, còn lại Lâm Lâm, Mitchell thành người khác. Lúc thì cáu kỉnh rất vô cớ. Lúc thì buồn bã vô cớ. Lúc lại vui quá mức. Cái gì cũng thiếu điềm đạm, bất bình thường.
Trong quán, vì cũng có mấy người khách ngồi bên, nên Mitchell tỏ ra lịch sự, có than phiền gì thì gắng nói rất khẽ. Mitchell thường kể với cô đại loại về cuộc sống ở Việt Nam gặp những khó khăn gì, bạn bè ra sao, thời tiết ngày hôm đó tác động đến thần kinh của hắn thế nào… Cứ ngồi ở quán đó, Mitchell nói rất nhiều, nói không dứt làm cô mệt mỏi, chán chán. Nên cứ rảnh ra một tí lại lôi di động trong túi ra xem giờ. Cô không muốn gặp Mitchell ở cái quán đó. Nhưng Mitchell lại thích. Nên về sau nếu hẹn ra quán thì cô tìm cách tránh.
Sau khi nhét vào đầu lõm bõm nhưng câu chuyện không rõ đầu rõ cuối của Mitchell, cô sẽ hớt hải nói lời tạm biệt, lời chúc, một cái ôm, nhận một cái hôn vào má và cho đi cũng một cái hôn. Tiếp đó là chạy ra khỏi quán. Do một cú điện thoại công việc gấp. Lúc ấy, trong tâm trí của cô, không còn nhớ tới Mitchell, Huy, cả những họa sĩ từng quen tên quen mặt. Tất cả đã tiêu tao ở một góc chết nào đó không định hình được. Đến lượt cô cũng thành một khoảng không hình không mùi không gọi tên trong lòng của chính những người đó (khi họ làm việc, mà có bao giờ họ ngừng làm việc đâu cơ chứ).
Cuối cùng thì điều gì là tồn tại thật trong đời?
∗
Thời gian này, giới họa sĩ hào hứng cho một festival. Mitchell
không giấu nổi sự vui sướng. Hắn nói, mỗi họa sĩ của Việt Nam quả là một tài năng. Nền nghệ thuật Việt Nam lại đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều nền. Tha hồ mà tìm tòi khai thác. Mitchell thực sự có ấn tượng với các tác phẩm điêu khắc của Ngọc. Công việc kiếm tiền của Ngọc khi sống ở Việt Nam là thực hiện các hợp đồng kinh tế về dựng tượng đài ở những nơi công cộng. Đó là những khối nặng và mang tính hình học nhiều. Nhưng khi trở về là một nghệ sĩ, những sáng tác của Ngọc lại khác hẳn. Chúng mềm mại, uyển chuyển không chỉ ở hình khối, không gian mà còn có vỏ bọc, da thịt. Ý tưởng và chất liệu đi liền với nhau rất tập trung. Ngọc khác với nhiều nghệ sĩ ở Việt Nam mà Mitchell đã gặp. Họ thích thử nghiệm mọi ý tưởng trên nhiều loại chất liệu. Nhưng vì quá nhiều, quá rộng nên khó có độ tập trung. Các nghệ sĩ đó rất lúng túng khi thể hiện tác phẩm hoặc nói về tác phẩm của mình và của người khác. Còn một điều mà Mitchell cho rằng quan trọng là Ngọc có công việc kiếm tiền riêng để nuôi nghệ thuật. Vì thế, Ngọc có thể hoàn toàn làm những gì anh ta muốn trong sáng tác. Các họa sĩ trẻ thì khác. Vừa sáng tác, vừa kiếm tiền cùng một lúc nên bộ tác phẩm của họ thường tản mạn, lúc hướng theo phong cách này, lúc phong cách kia vì cốt sao có thể bán được dễ dàng.
Trong festival này, Ngọc cũng đóng góp một tác phẩm. Sáng thứ Bảy, vừa rời khỏi chăn, Mitchell đã nhắn tin rủ tôi đến studio của Ngọc để xem tác phẩm dần tượng hình, cũng là có thể giúp việc gì được cho Ngọc thì giúp.
Khi chúng tôi đến, Ngọc đang hì hụi gò giũa thanh sắt nung đỏ bên bễ lò rèn. Quần áo bảo hộ nát nhàu, lấm láp. Mồ hôi ướt đẫm thái dương, cổ và lưng áo. Hai cánh tay săn lại, nổi rõ những đường gân căng. Thấy chúng tôi, Ngọc khẽ gật đầu, chỉ tay ra phía bộ chõng tre đã cũ. Trên mặt có một ấm nước và mấy cái chén sứt miệng, sứt quai chỏng chơ.
Mitchell và tôi ngồi xuống. Cái chõng hơi chao nghiêng, mặt chõng lún xuống dưới sức nặng quá tải. Mitchell đứng bật dậy. Bảo tôi cũng đứng lên. Hắn đi xung quanh ngó chiếc chõng thật kỹ, rung
rung, lắc lắc, ấn ấn. Cảm thấy yên tâm mới gật đầu ý chừng bảo tôi có thể ngồi được. Mitchell cầm ấm rót vào ba chén. Một chén đặt ra phía Ngọc. Một chén đưa tôi. Còn lại thì hắn cầm lên, uống một hơi. Bật ngón tay cái lên, bảo chè ngon. Lại rót thêm một chén, uống tiếp. Lần này uống chậm hơn một chút.
Tôi ngó quanh quất, nhìn một quyển catalô để trên chõng, hỏi Ngọc có thể đọc được không. Ngọc nói vọng ra: “Cứ tự nhiên!”. Thế rồi tôi cắm cúi xem. Quyển catalô chụp những tác phẩm sắp triển lãm của Ngọc. Hóa ra ngoài làm điêu khắc Ngọc còn vẽ tranh sơn dầu. Có khoảng ba mươi bức tranh đủ kích cỡ. Chung một chủ đề. Đó là những góc khuất của các khu chung cư cũ trong thành phố. Được xây vào những năm 70 của thế kỷ XX. Cùng màu vôi vàng. Những đường nứt có thể trông thấy chạy từ chân móng lên các tầng thứ tư hoặc thứ năm. Nhiều “chuồng cọp” lắp, lấn lộn xộn. Quần áo giăng mắc trên các thành ban công. Các hình ảnh như gầm cầu thang, góc nhà vệ sinh cũ, đằng sau cánh cửa gỗ… thật tối tăm, nhếch nhác. Chẳng có gì để bàn. Vậy mà vào tranh của Ngọc lại gợi cảm kỳ lạ. Ánh sáng của các bức tranh bị không khí tác động lên màu sắc. Màu lá của mấy cây cảnh thiếu dưỡng khí trồng lay lắt trên những bậu cửa là xanh xêrulêum. Màu này làm lợt đi những phần bóng và phần đậm giữa các khoảng cách. Ngọc đã diễn tả được sự long lanh của giọt sương mai đậu trên đóa quỳnh tưởng như vừa tàn từ đêm trước. Sự han gỉ của chậu, xô - sản phẩm còn lại từ thời bao cấp được dùng làm bồn trồng cây. Mưa lất phất bay phía ngoài cánh cửa gỗ mục. Bóng người là khoảng đen rỗng phía sau cửa sổ héo úa ánh đèn vàng. Mọi sự vật Ngọc vẽ như có thể rờ thấy được. Nhận thức tác động lên thị giác. Người xem sau khi xem tranh, vẫn có thể vẽ lại bằng trí nhớ.
Tôi xúc động khi xem xong ba mươi bức tranh. Tranh của Ngọc khác những gì anh đang làm hí húi ngoài kia. Những mảnh sắt đang được ghép vào nhau tạo thành một khối khó định dạng, rất trừu tượng. Mitchell bảo, có lẽ Ngọc sẽ cho một cái đèn hắt sáng vào trung tâm khối nan sắt. Một kiểu diễn giải tư tưởng mà mỗi người xem sẽ tự rút ra cho mình. Một cách ý thức. Hoặc vô ý thức.
Có lẽ đã thấm mệt, Ngọc dừng công việc. Lặng lẽ đi đến chỗ chúng tôi. Cái chõng quá bé cho ba người. Anh kéo một chiếc ghế sắt chằng vải bạt trông rất lạ, ngồi lên. Dáng điệu thư giãn. Anh nhắm mắt lại. Điếu thuốc cháy dở trên tay vẽ vào không khí một màu ghi xám bảng lảng.
Ngọc nói, trong khi mắt vẫn nhắm:
- Quyển catalô đó ảnh chụp hỏng hết. Màu sắc thực bị mất. Tay chụp ảnh là kẻ dốt nát, vô trách nhiệm. Còn tay làm sách cũng chẳng hơn gì. In ra một đống. Để thành mớ giấy lộn âm giá trị.
Tôi mấp máy môi:
- Em vẫn thấy đẹp.
Ngọc nhếch mép. Chẳng ra một kiểu cười. Chẳng ra phản đối. Có vẻ hợp lý hơn nếu nói đó là cử chỉ bày tỏ thông cảm. Hình như anh nghĩ tôi đúng là kẻ ấu trĩ về hội họa thực thụ.
Máy của Mitchell rung lên từng nhịp ngắn. Đó là một chiếc Nokia cũ kỹ. Hắn mua ở một tiệm bán điện thoại đã dùng. Nếu tôi mua thì chừng hai trăm ngàn là cùng. Hắn mua sẽ đắt hơn. Nhưng tôi biết hắn chẳng dại dột làm thế. Chắc chắn một anh bạn họa sĩ đã chọn lựa, mặc cả. Hắn chỉ việc móc ví mà trả tiền. Thế thôi. Mitchell là người cẩn thận trong việc chi tiêu. Hắn thường hỏi tôi về giá từng đồ mà tôi mua về. Vẫn thái độ khó chịu nếu chẳng may hắn cũng đã mua đúng thứ đó mà giá lại cao hơn. Tôi phải giải thích rằng ở Việt Nam này, trừ những hàng có giá mác ở các siêu thị, thì mua gì cũng cần mặc cả. Người Việt Nam cũng thế, người nước ngoài cũng thế. Nam cũng thế. Nữ cũng thế. Già cũng thế. Trẻ cũng thế. Nên cần nhất là nắm được giá trước khi mua.
Mitchell nghe điện thoại. Giọng nói trầm ấm, ngọt ngào. Tôi đoán chắc hắn đang nói chuyện với một phụ nữ trẻ. Rồi hắn đứng dậy. Đi thẳng ra khỏi studio mà không nói với tôi lời nào. Hôm nay, câu chuyện giữa tôi và Ngọc gây ra cảm giác không thoải mái. Tôi muốn về cùng Mitchell. Hắn bảo:
- Về sau đi. Tớ bận rồi. Cậu không thể cứ nhằng nhẵng theo tớ được.
Tôi đứng lại, chưa hiểu rõ lắm câu chuyện của Mitchell. Đầu óc tôi quen phản ứng chậm. Rồi Mitchell chạy ra ngoài, ngoắc một người lái xe ôm. Mặc cả cẩn thận giá cả. Sau đó thì lên xe. Hai tay bám cứng vào yên. Chẳng buồn ngoái lại nhìn tôi một cái.
Khi tôi quay lại. Ngọc vẫn đang nhắm mắt. Mọi biến động diễn ra khách quan xung quanh cứ như chẳng tác động mảy may vào anh chàng. Điếu thuốc trên tay Ngọc đã cháy hết. Mải nghĩ, anh quên không hút. Tàn thuốc đọng lại thành mẩu dài. Nhìn loang lổ, khô khốc, trống rỗng, lỗ chỗ như xương cẳng tay người chết lâu năm vừa được cải táng. Tôi tránh nhìn vào tàn thuốc để chấm dứt ý nghĩ không
hay. Muốn chào Ngọc để về, thấy thái độ của anh thế, đành thôi. Đang lúi húi thu xếp lại chỗ chén, ấm cho ngay ngắn, thì Ngọc mở mắt. Anh nói, giọng trống không:
- Mitchell yêu em đấy.
Tôi đáp lại, chưa kịp nghĩ:
- Bọn em là bạn thôi.
- Bạn là sao? Rõ ràng Mitchell yêu em. Em thì tìm mọi cách gạt nó ra. Cớ gì em làm khổ nó thế?
Thấy không cần trả lời câu hỏi. Tôi cầm túi xách đứng dậy: - Anh làm đi. Em về đây.
Ngọc - vẫn nửa nằm nửa ngồi trên ghế, điếu thuốc đã bị ném xuống sàn nhà, hai tay quàng sau gáy:
- Hỏi thật đấy! Nếu chưa có tình cảm với Mitchell như em cảm thấy thì sao không nói thẳng cho nó biết?
Tôi đứng tần ngần. Đầu óc một lần nữa lại hoạt động rất chậm. Cố hiểu xem Ngọc đang nói cái gì, rốt cuộc là thế nào. Tôi lặp lại:
- Em về!
Ngọc cũng lặp lại lời tôi, lần này thành một lời chào:
- Em về!
Rồi đứng lên, tiễn tôi ra cửa. Chưa kịp quay đầu xe, đã thấy anh đóng cửa lại. Tiếng khóa lách cách từ phía trong nghe rất rõ.
∗
Buổi chiều, chưa nghĩ ra việc gì làm. Tôi lên mạng. Nick Huy đang sáng. Thấy tôi, anh nhào vào chat. Nhanh như gió.
- Sắp tới ra Hà Nội. Đã đăng ký một chỗ trong festival. Nhưng giờ
chưa biết làm gì đây.
- Anh định làm loại hình gì?
- Performance.
- Mitchell rành về cái này. Em có thể hỏi giúp.
- Em biết gì mà hỏi?
- …
- Anh không cần gã người Mỹ đó.
- Thế, em giúp gì được không?
- Có chứ!
- Anh có ý tưởng này… Em xem giúp anh…
Huy diễn đạt ý tưởng, gắng để tôi có thể hiểu rõ. Đến lượt tôi nghĩ nhanh những chi tiết, hành động cụ thể. Sau khi ngồi với nhau bốn tiếng, Huy kết luận:
- Tốt đấy. Cảm ơn em!
Thế rồi out.
Ba ngày sau, Huy trình diễn tác phẩm của mình trong ngày tổng duyệt chương trình của đoàn nghệ sĩ phía Nam. Tôi không rõ chương trình của bọn Huy diễn ra thế nào. Và cũng rất hồi hộp xem kết quả của việc chat chit mấy ngày trước có giúp gì được Huy không.
*
Tôi vào blog của Huy. Với sự cảm động. Vậy là anh đã thực hiện đúng những gì mà chúng tôi cùng bàn bạc. Có thể nói là thành công. Anh diễn tả về những khuôn mặt khác nhau của cùng một con người. Bao toan tính, lừa mị, giả dối, chà đạp… để đổi lại những điều không là-gì cả. Tác phẩm đã gây nên những xung động lan truyền như mong muốn. Sau trình diễn, dăm phóng viên nhờ Huy giải thích về tên tác
phẩm. Vì sao là Performance? Bởi lẽ chính những gì anh làm đã là trình diễn rồi cơ mà… Huy trả lời, cuộc sống này quá bon chen, ai cũng muốn vượt lên trên người khác, bằng tất cả mọi cách. Trình
diễn! Anh lấy tên ấy nhằm mục đích không muốn giải thích nhiều về việc vừa rồi.
Tôi đóng cửa sổ blog của Huy lại. Tự hỏi, phía bên trong anh, phía trong tôi… thực sự là như thế nào - Anh có thể trả lời tôi? Đằng sau những mặt nạ hai ta vẫn ngày ngày vẽ ra đó?
∗
Tôi muốn viết. Thậm chí là thèm khát viết. Vì tôi rất cô đơn. Viết có thể làm tôi phải suy nghĩ. Nhưng suy nghĩ theo kiểu làm việc. Hơn là ủ ê linh tinh liên tưởng chuyện này chuyện kia. Toàn là những bi kịch cả.
Trước ngày khai mạc festival một tuần. Mitchell bảo tôi, không rõ lắm tình cảm của hai đứa, tự dưng hắn thấy mệt mỏi, nên muốn chấm dứt.
Tôi không hiểu việc ấy thực sự là thế nào. Tối hôm ấy, tôi đưa Mitchell đi chơi ở Quốc Tử Giám. Có một triển lãm tân thư pháp rất hay ở đó. Mấy người bạn học cũ của tôi làm. Mitchell từng nghe nói đến thư pháp nhưng chưa được thưởng thức tận mắt, trong khi đây lại là tân thư pháp - một kiểu thư pháp rất Việt Nam vừa mới được sáng tạo. Rất Việt Nam vì viết thể chữ Nôm. Còn sáng tạo ở chỗ, phá bỏ lối viết và những quan niệm truyền thống về tính chuẩn mực, đường nét bố cục, nội dung chữ nghĩa. Tân thư pháp là sự kết hợp hài hòa giữa nội dung, hình thức. Hình thức thể hiện được hồn vía, nội dung ngữ nghĩa. Để Mitchell hiểu ý nghĩa của tân thư pháp, tôi phải nhờ một người bạn đọc thông viết thạo Anh ngữ, dịch hộ ra giấy, rồi đưa cho Mitchell. Hắn đọc chăm chú. Ánh mắt lấp lánh sáng. Môi cười rạng rỡ. Rồi hắn huyên thuyên đủ thứ về mớ kiến thức mới vừa có. Mong mỏi được đi xem càng sớm càng tốt. Ngoài ra hắn lại chưa đến Quốc Tử Giám bao giờ. Tôi sung sướng đưa Mitchell đi. Vì nghĩ chắc chắn hắn thích.
Tôi không nói được nhiều với Mitchell nhưng tôi tin mình hiểu hắn. Tôi có thể đi vào phía bên trong tư tưởng của hắn. Dạo chơi. Ngắm nghía. Khi Mitchell buồn tôi làm hắn vui. Biết bằng cách nào
thì Mitchell sẽ cảm ơn tôi trong phấn chấn hạnh phúc. Trừ những lúc tâm trạng bất ổn, tôi không để ý đến gì hết. Chỉ đắm chìm trong con người cá nhân mình. Làm người khác (cụ thể hơn là Mitchell) rất khó chịu. (Mà tôi lại thường xuyên bất ổn.)
Hôm ấy, Quốc Tử Giám thật đẹp. Đèn lồng đỏ và ruy băng kết nơ treo dọc lối đi. Từ ngoài vào trong. Những hàng bia tiến sĩ trở nên ảo diệu trong ánh sáng vàng thanh cao hắt ra từ những chiếc đèn lồng dăng dăng thả xuống từ mái ngói. Mitchell không ngớt lời cảm ơn tôi. Hắn bần thần trước hàng cây xanh tượng hình rồng, những chạm khắc trên bàn thờ, kèo, cột… các bức tượng uy nghiêm. Khi đứng trước các bức tân thư pháp thì Mitchell cảm thấy choáng váng. Những đường vung bút cả quyết, những nét đậm nhạt, kiểu giấy… Mitchell không đọc được chữ, tôi càng không thể dịch nổi cho hắn từ chữ Nôm của ta sang chữ Mỹ nhà hắn, nhưng hắn hiểu. Hắn dùng linh cảm để hiểu. Mitchell là một người am hiểu nghệ thuật bẩm sinh. Tôi gặp được mấy người bạn của tôi, nhưng không thể xin chữ cho Mitchell vì họ đang bận trả lời phỏng vấn, quay phim, chụp ảnh. Tôi hẹn với Mitchell vào dịp khác. Lúc ấy, tôi chưa nghĩ là cái dịp khác ấy sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Trước khi về, Mitchell đề nghị ôm tôi. Hắn ôm tôi thật lâu. Ngay ở vườn hoa Quốc Tử Giám. Rồi hắn cúi xuống hôn tôi. Khi hai bờ môi chạm vào nhau, một niềm rộn ràng nhỏ len cả vào tim hai đứa. Chúng tôi nhìn nhau, cùng cười, cùng bối rối. Tôi chỉ đường để Mitchell có thể tự về. Chúng tôi chia tay nhau ở ngã tư đường Nguyễn Thái Học. Mitchell đi rồi, tôi thấy tim mình vẫn còn đập nhanh.
Vậy mà trước thời điểm chuyển sang ngày mới, Mitchell nhắn cái tin đó cho tôi. Bảo chúng tôi phải chia tay nhau thôi. Hỏi tôi có là thánh nhân đâu mà không bàng hoàng sao được. Mà thánh nhân thì nào có vướng vào mấy chuyện rắc rối ấy để mà bàng hoàng.
Chúng tôi chia tay nhau. Nhẹ như gió vờn. Mà thật hơn gió. Vì còn cảm giác đau ở lại. Tôi thấy đau khổ. Thực sự. Cứ như là mình vừa mất một cái gì đó rất to lớn. Vết đau mỗi ngày một loang rộng. Tôi khóc mất ba ngày. Khóc mà vẫn chưa hiểu rõ chuyện gì.
∗
Rất nhiều khi, ai đang tồn tại trên đời này, ít nhiều đều bị tình
phụ. Khi bị tình phụ thì tôi nên làm gì? Nhắn tin vào mấy số điện thoại quen quen. Hỏi. Nhưng không ai trả lời được. Hoặc là chung chung, hoặc những câu trả lời cho xong… Rốt cuộc là không có gì. Vì thực tế, chẳng ai có câu trả lời hợp lý. Bối rối. Người nào cũng bối rối.
Khi bị tình phụ, cái thân tôi ơi, nên làm gì?
Tốt nhất là chẳng làm gì! Ngoài việc cố mà quên. Trong mỗi chúng ta, ai mà không có một góc lớn cho sự quên cơ chứ. Đẩy nó vào đấy. Tiếp tục rong chơi trong cõi đời bất tận của sự phù phiếm này.
Một người bạn gọi điện bảo, thấy Mitchell lang thang giữa ngã tư. Một mình. Đi bộ. Mưa ướt đẫm áo. Mặt mày ngơ ngác. Trông tội lắm!
Trông tội lắm! Câu sau cuối làm tôi chỉ muốn mở cửa lao ra khỏi nhà, đi tìm Mitchell… Rồi cũng bình tĩnh lại, cố bấm tìm số máy, thử nghe giọng cậu ta qua gián tiếp điện thoại xem sao. Không thể liên lạc được. Mọi thứ đã đứt gãy rồi.
Tôi biết. Đúng là Mitchell đang một mình. Điều ấy rõ ràng sự thật. Không còn ai có thể bên cạnh. Chui vào mọi xao động trong tâm trí để hiểu rõ cậu ấy. Cũng chẳng thể ngồi bên. Cùng nói những chuyện dở hơi. Cùng cười những chuyện dở hơi. Cùng đi với nhau nhiều buổi chiều không nắng. Cùng uống cà phê khi trời còn rét. Khi có thì cho là thừa. Khi đã mất đi… Cũng là mất mãi mãi.
Mitchell của tôi! Tôi biết đã mất cậu ta vĩnh viễn rồi. Dù rất muốn gặp lại Mitchell thêm một lần. Chẳng thể nữa… Vì tôi đã đẩy tất cả vào sự quên. Quên là quên… nghĩa là không bao giờ muốn nhớ.
∗
Cuối cùng thì ngày festival cũng đến. Trước một hôm, Huy đến Hà Nội. Huy bận. Suốt ngày nhong nhóng ngoài đường. Tôi không thể đặt được một cái hẹn với Huy. Tôi muốn gặp anh. Cũng có thể nói chuyện. Cười vu vơ. Tán gẫu. Khóc sụt sùi trên vai anh. Mà thôi, chẳng cần làm bất cứ chuyện gì. Miễn sao nhìn được anh. Để tôi thấy bớt đau. Để tôi nghĩ ít ra mình có ai đó bên cạnh. Là Huy thì chẳng tốt hơn rất nhiều so với những người khác sao.
Đúng buổi khai mạc, tôi mới gặp được anh. Huy gầy đi nhiều.
Mắt to ra còn má thì sâu lại. Đầu vẫn trọc. Râu để dài. Trông nhàu nhĩ. Bợt bạt. Anh không thể nhấc bổng tôi lên như trước được nữa. Anh trông yếu lắm. Như thể vừa trải qua một trận ốm nặng lâu ngày. Đôi mắt cũng mất hết thần khí.
Tôi không nói chuyện gì với Huy. Chỉ chăm chắm chạy theo anh. Anh di chuyển địa điểm liên tục. Lúc ra cổng, lúc vào sân, lúc lên tầng ba, lúc xuống tầng một. Người đi lại đông. Mà cũng quen mặt. Nên hai đứa thường xuyên phải dừng lại để chào hỏi, bắt tay. Sau mấy lần như thế thì tôi không theo kịp Huy. Đành đứng một mình ở góc sân.
Ngọc đi qua. Kéo tôi ra chỗ tác phẩm của anh. Những khung sắt vặn xoáy vào nhau như một cơn lốc. Nhiều găng tay vải nhuộm đỏ gắn xen giữa điểm ráp nối. Ngọc không dùng đèn chiếu từ tâm vòng tròn như Mitchell đoán. Anh dùng đèn chiếu hắt vào. Tạo ra những mảng khối sáng tối đậm nét. Đứng cạnh, ngỡ như chính tôi đang bị xoáy vào cơn lốc đó. Hóa ra những gì Ngọc làm mà tôi từng nhìn ở studio tưởng trừu tượng mà lại rất cụ thể. Nó va đập vào thị giác của người xem. Rồi lan nhanh qua các thành mạch máu. Chui vào trí não. Xao động trong ấy.
Nắm tay tôi, Ngọc đề nghị cùng chụp ảnh kỷ niệm với anh. Trên nền gạch, gần phía tác phẩm, rất nhiều bó hoa của bạn bè tặng xếp tăm tắp bên nhau. Tất cả những họa sĩ tham gia vào festival đều làm thế. Họ đặt hoa bên tác phẩm của mình, vừa như một cách cảm ơn, vừa thành niềm tự hào riêng. Tôi không có hoa tặng Huy, nên tôi cũng không có hoa tặng Ngọc. Tôi cầm lấy tay anh, nói vài câu chúc mừng. Ngọc cười:
- Sao em khách sáo thế? Hôm nay trông em xinh lắm. Mà hơi gầy đấy! Anh nghĩ, nếu em không mặc gì chắc sẽ đẹp hơn. Thôi em đi đi, cứ đứng đây anh lại nảy ra mấy ý nghĩ không lành mạnh gì.
Đã quen quen với kiểu ăn nói thẳng thừng của Ngọc, tôi đỡ bối rối hơn. Nắm lấy tay anh lần nữa. Rồi đi.
Trong đám đông, tôi có gặp lại Mitchell. Hắn ta cầm một quyển sổ bìa đen. Ghi chép cẩn thận và chụp hình từng tác phẩm. Nhìn thấy tôi, Mitchell vòng tay ra ôm. Thơm một cái vào má. Đó là một lời chào như mọi lời chào thân ái mà hắn dành cho tất cả mọi người. Sau đó Mitchell nhanh chóng lẫn vào muôn người qua lại. Từ lúc đó, tôi
không còn gặp lại hắn. Tự dưng muốn nói lời tạm biệt. Tạm biệt hay vĩnh biệt? Đâu cần gì cụ thể. Tôi chỉ muốn nói với Mitchell một vài câu. Rồi không bao giờ gặp lại cũng được. Nói trực tiếp còn hơn qua tin nhắn. Mà cơ hội đó cũng chẳng có nốt. Mitchell tan biến đi như sương. Chuyện gặp hắn vừa rồi, cái siết tay nhẹ nhàng đọng trên lưng, nụ hôn ẩm ướt trên má, thành một ảo giác. Vừa ngọt ngào, vừa tái tê. Tôi lấy máy gọi cho Mitchell. Điện thoại đổ chuông dài năm lần. Và ngưng bặt. Vì Mitchell đã tắt máy. Hắn không muốn trả lời tôi.
Cố tìm một chỗ nào có thể quan sát xung quanh buổi lễ, tôi muốn thấy lại Huy. Chờ mãi, sốt ruột. Tôi chạy mấy vòng quanh khu triển lãm rộng lớn. Lại chen giữa cơ man người. Đến khi thấy chân đã rộp nước vì bị ép trong đôi giày đế cao. Tôi thở dài, dừng lại. Tìm đến vị trí cũ để tiếp tục chơi trò quan sát.
Huy trình diễn xong từ bao giờ, tôi không biết. Chỉ kịp nhìn thấy Huy từ phía xa. Huy mặc chiếc áo vest nát nhàu lem nhem màu sơn. Mặt bợt bạt bẩn vì băng keo và màu tô. Một góc má bị trờn da. Đang sưng tấy lên. Có thể vì băng dính dán vào mặt quá chắc. Đang định
chạy về phía anh. Đã thấy anh đang nắm tay một người con gái khác. Anh đi qua tôi. Gật đầu chào rất nhẹ. Cứ như tôi là một ai đó. Cô gái cũng nhìn tôi. Nhưng ánh mắt lạnh câm. Không gợn lên chút xao xác rằng tôi và cô đồng chủng loại.
Sau buổi trình diễn, Huy đã chọn cho mình một hướng để đi. Tất nhiên tôi nào được đi cùng, càng chẳng phải là cái đích. Nơi nào đó không tôi.
∗
Trong một tuần, tôi mất đi hai người bạn thân. Từng là rất thân. Mà không có lời giải thích nào hợp lý. Cuối cùng thì tôi là ai? Huy là ai? Mitchell là ai? Tôi cần ai? Ai cần tôi?
∗
Cuối cùng thì cần gì chứ? Trong khi rất-muốntin thì lại chẳng tin vào cái quái gì cả. Con người thì dễ dàng đoạt mất niềm tin gì đó còn sót lại (loài người vốn đã vô tình).
Trải qua một ngày, từ mười sáu giờ đến hai ba giờ ba mươi, sự
say lan tỏa váng vất. Rất nhiều khi không còn nhớ nổi mình là ai. Giờ lại bấm phím gõ gõ này nọ. Nghĩ này nghĩ nọ. Không thể nào ngủ được. Hoặc rất muốn ngủ. Đã là một giờ sáng của ngày hôm sau. Ngày hôm sau là ngày thứ hai mươi của tháng Ba cơ đấy!
Lúc nào cũng đếm thời gian. Hai mươi sáu tuổi? Cứ như đã quá nhiều năm để sống. Cứ như không còn thời gian. Nên làm việc nhiều không muốn nghĩ! Ham chơi nhiều không muốn nghĩ! Thèm yêu nhiều đến không muốn nghĩ!
Một kẻ tham lam đến kiệt cùng. Có những lúc, tự chán mình đến không chịu đựng nổi!
Huy từng bảo: “Cố mà yêu lấy mình! Cố mà tin lấy mình! Lâm à! Lâm ơi!” Đó là người mà mình nghĩ thực-sự-hiểu-mình. Nhưng lại là ngộ nhận. Hoặc có thể đúng, trong tích tắc nói ra câu đó.
Dự một đêm tiệc muộn. Cô đơn. Lâu lắm mới có những phút ấm như thế. Ấm từ men bia. Ấm từ ánh mắt. Ấm cả nụ cười (hưởng nhờ từ những người bàn bên dành cho nhau). Ngọn nến trắng dập dềnh trên mặt nước thả vài cánh hồng lễnh loãng. Cũng ấm. Tôi cứ tự cảm ơn tôi trong đêm. Những lời cảm ơn cũng ấm!
Từ khi rời quán. Thấy sao lạnh quá. Dẫu có một mình vẫn cố mà sưởi ấm cho mình. Bắt đầu thấy tự yêu sự một mình.
Hay nói từ ghét. Vì vốn ghét người dễ, ghét mình dễ, mà người ghét mình cũng dễ. Nên khi nói yêu, là cả sự khó khăn đến nặng nề. Đã từng muốn nói đấy. Có thể là với Mitchell, có thể với Huy. Nhưng đã ngậm miệng lại. Rồi ngắc ngứ mãi. Vì sợ. Lúc ấy nói thật. Để một quãng thời gian nữa, thì không còn chính xác.
Thật đấy! Nếu dám cạo trọc đầu, tôi thề sẽ thoát ra khỏi cái chằng néo bản ngã, để làm những điều kinh thiên động địa… (Nhưng tôi vẫn là một đứa hèn nhát đến thảm hại. Mà vẫn thương cái hèn nhát ấy. Nó là sợi dây mảnh cố giữ sự sống cho mình khi cả cơ thể đã lao xuống miệng vực…) (Nói cứ như ta đây là người phức tạp. Thực ra đơn giản đến rùng mình…)
Lúc này vẫn say!
∗
Một ngày chẳng có gì dĩ nhiên là một ngày đơn điệu. Một ngày đơn điệu nghĩa là chẳng có gì. Tự dưng vào một sáng trời không đẹp lắm, tôi lẩm bẩm câu nói lặp lại như-thể-ngu-ngốc đó trên dưới năm chục lần.
Lại lên mạng chơi. Không phải là một trò giết thời gian. Mà để biết hình như vẫn còn có người nào đó không cụ thể quan tâm đến tôi. Mà tôi cụ thể là ai nhiều người không biết. Đến tôi chẳng còn biết tôi là ai.
Thời gian này… Lại cũng thời gian này… Có rất nhiều chuyện liên tiếp xảy ra. Vì quá nhiều chuyện xảy ra nên thành bình thường… thành không có gì, thành đơn điệu. Một thời gian nữa, vòng quay đơn điệu này lại chấm dứt. Để chuyển sang vòng quay đơn điệu khác.
Có ai nghĩ đến chuyện gặp lại quá khứ chưa (một kiểu ăn cắp đơn điệu theo cách thức khác). Mà quá khứ có gì đâu sao cứ tiếc mãi thế, cứ đè nặng tâm trí đến thế, cứ khơi gợi nhiều vết thương tấy đỏ đến thế. Trí nhớ cần làm đúng phận sự của nó. Đẩy quá khứ đi. Mà quá khứ là gì? Đã ngắt với hiện tại bằng một dấu chấm xuống dòng.
Vậy cần xuống dòng đi thôi.
∗
Tôi quyết định chuyển nhà. Đến một nơi biết chắc không ai có thể biết và tìm thấy mình. Mặc dù ngôi nhà trước đó tôi ở cũng chưa từng có người ghé thăm, ngoài một vài người bạn biết qua loa địa chỉ. Vậy mà tôi vẫn ra đi. Cũng có thể muốn chạy trốn cái gì đó. Như váng vất một nỗi nhớ mơ hồ chẳng hạn. Số di động thì vẫn giữ. Hy vọng một ngày nào xa xa có người nào xa xa - cụ thể hơn trong tận cùng tâm thức là Mitchell hoặc Huy - sẽ gọi điện liên lạc lại. Biết đâu đấy. Phụ nữ thường muốn dứt khoát nhưng lại thiếu cương quyết.
Tránh không đến những triển lãm hay những lớp hội thảo về mỹ thuật. Tôi không muốn tự làm đau mình thêm nữa.
Ngôi nhà tôi mới thuê là căn gác nằm trong ngõ nhỏ, cạnh một khúc phố vắng vẻ. Việc chuyển đồ đạc cũng tương đối đơn giản. Gia
tài tôi vỏn vẹn một cái tủ kính căng sách và một chiếc máy vi tính cũ mèm. Ngoài ra là ít đồ dùng cá nhân như áo quần, bít tất, váy, chăn ga gối đệm, bàn chải đánh răng… hoặc giản dị hơn là một chiếc dây buộc tóc. Gắng quên hết những mối quan hệ cũ của một thuở nào đó không thiết nhớ, tôi bắt đầu cuộc sống mới với những mối quan hệ bạn bè mới của mình.
Thời tiết đang dần chuyển dịch từ xuân sang hè. Mưa phùn ẩm ướt cùng chút lạnh tàn cuối xuân giăng mắc giữa bầu trời thành phố. Nhiều con đường bấy nhầy bùn. Rác thải ngập ứ trên rãnh. Muỗi, ruồi thả sức bay lượn vi vo khắp các góc tối. Chuột chạy lờn vờn dưới chân tường. Mèo động đực ngao ngoắc trên mái nhà. Vài thanh niên tuổi mười sáu mười bảy của thành phố mắc chứng trầm cảm. Rủ nhau treo cổ tự tử. Thông tin trên báo chí chẳng có gì, ngoài nhai đi nhai lại đoạn khúc về mấy câu chuyện lãng nhách đó.
Đêm. Rất nhiều đêm nối tiếp nhau. Tôi tỉnh dậy giữa giấc ngủ. Chăm chắm nhìn khoảng đen của một cái trần nhà không rõ giới hạn về độ cao. Mồ hôi toát ra đầm đìa từ hai bên thái dương. Không còn rõ đang nằm ở đâu. Linh hồn váng vất ở chỗ nào. Còn mối quan hệ với bất-cứ-một-con-người-nào không. Tựa hồ mất đứt liên lạc với thế giới đang hiện hữu. Có khi tôi đã ôm gối khóc. Khóc nhiều lắm. Nước mắt chảy thẫm chiếc gối. Hai bàn tay co quắp trước thành ngực. Thân thể cong và nhợt nhạt như con tôm nhúng qua nước sôi. Mồ hôi nhỏ giọt nhưng gan bàn chân lại lạnh ngắt. Cái lạnh xuyên thấu mỗi mao mạch. Và còn khóc cả trong mơ.
Mỗi lần chìm trong trạng thái chạm đỉnh tuyệt vọng như thế, tôi lập cập cố đẩy mình rời khỏi chăn đệm. Quờ quạng tìm chai vodka để sẵn trên đầu giường. Dốc ngược chai lên, tôi vừa thở dốc, vừa uống từng ngụm lớn. Chất men xộc thẳng vào cổ họng, bầu mắt căng cứng trong đêm tê dại. Uống nhanh đến chưa kịp tư duy. Cảm thấy đầu óc bồng bềnh bay lên, mọi giác quan nhũn mềm. Ngừng lại. Chui sâu vào chăn. Tiếng nấc tắc nghẹn trong thanh quản.
Sáng. Ngay khi mở mắt tỉnh dậy. Tôi gắng nghĩ, ngày hôm nay mình cần làm gì. Học được cách là quần áo như Toru - nhân vật chính trong tiểu thuyết Biên niên ký chim vặn dây cót của Haruki Murakami. Mặc dù khi là chẳng có thứ tự gì cả, nhưng ít ra tránh được việc nghĩ linh tinh. Vì mỗi chiếc quần, chiếc áo tôi đều rất quý. Tốn khá tiền và nhiều công sức mới có thể sắm được. Hơi lơ đãng
một chút rất có thể làm hỏng chúng. Việc là quần áo giúp tôi thư thái tinh thần trong một khoảng thời gian ngắn.
Sau quần áo đến lượt chăm sóc mấy cái cây đang héo rã rượi ở ban công. Một cây ớt chỉ thiên. Một cây rau tía tô. Một cây chanh lá quắt queo. Một cây ngô non. Toàn những thứ khá kỳ quặc khi trồng thay cây cảnh. Việc tưới cây tôi làm như quán tính. Nên nước thường xuyên chảy nhỏ giọt hoặc ồ ồ xuống phía dưới sân. Thế nào một vài người đi qua cũng bị ướt. Thế nào họ cũng ngóng cổ lên phía tôi để mắng mỏ hay chửi thề. Lúc ấy tôi thụt ngay đầu vào. Nấp sau gờ tường. Không thấy tức giận mà chỉ buồn cười. Đó có thể là một đường link mỏng mảnh nối tôi với con-người-không-quen! Sau khi làm “màn” tưới nước, không dám xuống dưới đường ăn sáng nữa. Đành ngồi gặm xúc xích và uống sữa cacao tiệt trùng mua sẵn chất một đống trên bàn, ngay sát chiếc vi tính. Rồi bật nhạc nghe. Ví dụ như bản nhạc cũ ai-cũng-biết nhưng nghe mãi không chán: The Four Seasons của Vivaldi hay Turkish March của Mozart. Tôi nghe hai bản đó vì thấy thích. Chẳng thể giải nghĩa được gì. Cảm giác phủ xuống trước mặt hai tấm màn nhung mềm nhưng ẩm tối. Bị âm nhạc dẫn dụ đi, cũng muốn cưỡng lại. Mê mê tỉnh tỉnh. Hai bản du lãng đó luân phiên nhau. Hết bài nọ chuyển sang bài kia. Hết bài kia chuyển sang bài nọ. Chẳng còn biết khái niệm không gian, thời gian.
Buổi trưa. Uể oải xuống dưới nhà lấy xe. Lạng một cung đường ra tòa soạn. Đó là một tòa nhà ốp kính mười một tầng quét sơn xanh lá mạ. Hai mặt giáp hai trục đường lớn. Giống như một gã trai ưa làm đỏm nhưng mù mờ về mỹ cảm sắc màu. Hai cánh cửa kính tự động mở. Nuốt gọn tôi (cũng như hơn một ngàn nhân viên ở tất cả các lĩnh vực khác nhau) vào trong bụng của nó.
Tầng một không thể dùng thang máy. Tôi lê từng nhịp guốc lên tầng hai. Bấm mũi tên chỉ lên. Vào phía trong, bấm vào nút số chín. Quen đến nỗi không cần nhìn. Cứ quờ tay thế nào cũng bấm đúng số. Dựa cả người vào bức tường kính trong phòng thang máy rộng một mét hai, dài một mét hai. Bắt đầu đếm số tầng nháy đỏ. Tầng ba. Tầng bốn. Tầng năm… Tầng chín. Thi thoảng hơi bực. Đúng là bị quấy rầy khi có ai lên cùng, hoặc đứng ở một tầng nào đó, nhảy vào. Thang máy có phải của cá nhân tôi đâu. Nhưng việc đứng cùng một người khác trong thang máy làm tôi bị rơi vào trạng thái ức chế. Biết chắc họ sẽ nhìn mình soi mói. Không phải vì mặt mình đẹp đẽ đáng nhìn, mà là kiểu ăn mặc lập lòe như cánh bướm màu sắc rực rỡ nửa kín
nửa hở không giống ai. Hầu hết nhân viên ở đây đều mặc đồng phục. Trời nóng - nữ áo sơ mi vàng chanh, váy ngắn màu nâu đen, nam áo sơ mi vàng chanh, quần âu màu nâu đen. Trời lạnh - nữ, nam thêm chiếc áo vest màu nâu đen. Nhìn ai cũng gần giống như ai. Nhờ nhờ màu sắc. Nhờ nhờ những khuôn mặt. Nhờ nhờ dáng hình. Sau hai năm làm ở đó, tôi chưa kịp lưu giữ cho mình một gương mặt - hay một cái tên - quen nào. Cũng hơn mười bảy lần vô tình đi chung thang máy với một phụ nữ. Cô này thường dừng lại ở tầng tám. Vẫn không nhớ mặt, nhớ dáng, càng không nhớ tên, nhưng cô ta có mùi nước hoa tương đối đặc biệt. Và tạo cho tôi một sự khó-chịu-đặc-biệt. Cô ta luôn chọn vị trí đứng sau lưng hoặc sát cạnh tôi. Ánh mắt cô ta khoan thẳng vào tôi bỏng rát. Có lần quay ra. Thấy hai tia lửa từ mắt vẫn nhắm vào tôi. Nhìn không chớp. Không nụ cười. Khuôn mặt cũng không có sự biểu cảm nào. Cái kiểu nhìn của cô ta làm tôi buốt ngực. Về sau, cố đến chỗ làm vào cái giờ chẳng giống ai. Lúc sớm, sớm hẳn. Lúc muộn, muộn hẳn. Vừa có cơ hội đứng trong thang máy một mình nhiều hơn. Vừa thoát khỏi cái nhìn bám đuổi dai dẳng của cô-gái mùi-nước-hoa-lạ kia.
Tòa báo mà tôi đang trú ngụ nằm tràn khắp tầng chín. Gồm hai phòng lớn rộng thênh thang dành cho phóng viên và biên tập viên. Một phòng nhỏ hơn dành cho việc hành chính. Một phòng nhỏ nữa dành cho tổng biên tập. Một phòng nhỏ hơn chút xíu là của phó tổng biên tập. Còn lại là hai toilet khá sạch sẽ. Tất nhiên một dành cho nam. Một dành cho nữ.
Cánh phóng viên bọn tôi có hơn hai chục người. Thêm bốn biên tập viên già nữa. Hai mươi hai trong số hai mươi tư người ăn mặc khá tề chỉnh, quần áo gọn gàng kiểu công sở. Cố làm sao được dáng vẻ lịch sự nhất. Mặc dù riêng hệ thống tòa soạn của bọn tôi - dù vẫn nằm trong biên chế của tập đoàn viễn thông do một tay chủ người Pháp gốc Việt cầm lái - thoát được khoản mặc đồng phục. Chủ trương tờ báo mà tôi đang làm chủ yếu là phục vụ giới quan chức chính trị và giới doanh nhân. Nên mảng chính trị xã hội và kinh tế được đẩy cao nhất. Vì thế, các phóng viên đảm đương hai mảng đó ăn mặc cẩn thận là việc tự nhiên. Vốn gốc là một người viết văn, tôi trở thành phóng viên về văn hóa làm chung với một anh chàng hơn tôi năm tuổi tên là Hoài. Hai đứa tôi một tháng làm sao chỉ cần có hai bài viết hoặc phỏng vấn là được. Mặc dầu vẫn phải gặp các quan chức, nhưng lại ở giới văn nghệ, nên kiểu ăn mặc cũng tùy nghi thích ứng. Hoài bốn mùa quần hộp kaki vằn vện hai màu xanh rêu và trắng. Tôi lập lòe đủ
kiểu đủ màu. Chẳng phải phục trang thế để nhằm nổi bật. Chúng tôi chỉ muốn thoát khỏi nỗi chịu đựng dai dẳng kiểu ăn mặc đóng kín cá nhân mình của tất cả những nhân viên trong tòa nhà này. Cũng không ai có ý kiến cụ thể về cách ăn mặc của chúng tôi. Nên tôi và Hoài cứ tha hồ chạy nhảy trong niềm vui nhỏ nhoi - khác-biệt-vẻ-bề-ngoài của chính mình.
Cuối tháng Ba.
Những cơn mưa vẫn còn bám đuổi dai dẳng từ sáng đến trưa, từ trưa sang chiều, từ chiều trộn lẫn vào đêm.
Một phần nào đó của thành phố đang mục rữa.
Thêm một thông tin về hai cô cậu học sinh lớp mười ôm nhau nhảy xuống sông Hồng tự tử. Tôi đọc mẩu tin đó rất ơ hờ. Không gợn lên dù là thoáng qua một thứ xúc cảm nào. Ra đường, đến vài bà cô chăm chỉ đọc dăm tờ báo lá cải để có chuyện ngồi tán gẫu giết thời gian cũng không thấy đả động đến vụ tự tử đó.
Tất cả trở nên đơn điệu khi mọi thứ bất bình thường nhất đã được chấp nhận hết sức giản đơn.
Mà nói chung, khi ai đó đã tự chọn cho mình cái chết, cũng là chấp nhận việc thôi-tồn-tại nữa trong thế giới vốn rất cặn bạc này.
*
Tháng ngày tháng ngày trôi trôi thật nhiều sự chán chường lặp lại. Đôi khi một vài người quen trong nhóm họa sĩ cũ gọi tôi đi chơi. Câu thường xuyên nhất vẫn là: “Uống cà phê đi!”. Mặc dù đó chỉ là lý do để ngồi quán. Có lúc chán quá, chẳng biết làm gì thì cũng ghé qua. Ngồi dăm ba câu chuyện thì về. Mà thế nào cũng chạm tới cái tên Mitchell. Họ hỏi, hai đứa chia tay nhau rồi hả? Đành ừ ừ. Rồi tìm cớ đứng dậy cho nhanh. Về sau thì không nhận lời đi gặp người cũ nữa. Mặc kệ lý do gì.
Thi thoảng, tôi dành một ngày ra để chờ đợi. Chờ đợi điều gì thì không rõ. Chỉ ngồi im trên chiếc ghế dựa sờn bạt. Mắt nhìn qua ô cửa sổ bao giờ cũng thiếu sáng. Cảnh vật bên ngoài lạnh lẽo những quạnh hiu. Trí óc ngừng hoạt động. Tĩnh tại như không cảm giác. Chờ đợi. Tôi là người ghét chờ đợi! Trước thời điểm này ba tuần, nếu phải chờ (ai đó, cái gì đó), tôi đã rất cáu kỉnh. Có thể gạt phăng tất cả. Vứt bỏ đi ngay lập tức. Rồi cũng biết rằng, đôi khi cũng phải biết nhẫn nại để chờ. Kết quả của chờ đợi lắm khi là số không, nhưng nếu chệch đi, thì có lẽ sẽ được hạnh phúc.
Trong thời khắc của sự chờ đợi!
Tranh thủ lên mạng làm cái gì đó. Gửi đi một vài cái gì đó. Nhận lại một vài cái gì đó. Hình như cuộc sống luôn tiếp diễn. Trôi chảy bất tận. Cuối cùng, sự chờ đợi cũng chỉ là một dấu hỏi nhỏ nhoi trong biển đời. Thì cứ là hôm nay, sự chờ đợi cho tôi niềm ham sống.
Cảm nhận rõ mỗi ngày qua, tôi lại chìm vào những cơn mộng mị bất thường. Khi tỉnh dậy, thấy mình còn tay không!
Đang trải qua nhịp đập của chờ đợi trong bình tĩnh nghẹn thở. Thời gian là của ai?
Điều gì là thật trong đời này?
∗
Trong một lần lên lên xuống xuống vòng tuần hoàn thang máy đơn điệu giữa tầng hai và tầng chín của khu nhà, tôi gặp Du.
Trước đó, chúng tôi từng biết nhau trong một cuộc nhậu chắp vá. Đường nối duy nhất của mọi người với nhau là Mitchell. Tôi là bạn của Mitchell. Du là bạn của Mitchell. Những người còn lại cũng là bạn của Mitchell. Đều không biết nhau từ trước. Mitchell có nhiều mối quan hệ. Tôi không thể nắm hết được. Hôm ấy là sinh nhật Mitchell. Khi Mitchell gọi cho tôi, cuộc nhậu đã bắt đầu được một giờ đồng hồ. Nào có đặt vấn đề về tự ái. Được gọi thì tôi đi. Cũng đang rảnh rỗi, chưa nghĩ được sẽ tiêu thời gian lúc nào cũng thừa thãi vào việc gì.
Ngay sau lời giới thiệu của Mitchell giữa tôi và Du, tôi biết chắc mình không có chút gì cảm tình với người này khi thấy sự nhạo báng dâng lên trong mắt Du lúc nhìn tôi. Nét mặt Du không có gì đặc biệt để tôi phải nhớ. Cái tên cũng không gây ấn tượng để cho tôi phải nhớ. Hai đứa nhìn nhau và ngay lập tức quay đầu sang hai phía. Chẳng hề cất nổi lời chào gọi là có chút xã giao. Chúng tôi tránh nhìn nhau suốt cả ba tiếng còn lại của cuộc vui. Nói chuyện với nhiều người, cười đùa hoặc kể những câu chuyện hài hước. Tuyệt nhiên, không dành cho nhau bất cứ một cử chỉ thái độ nào thể hiện người kia đang tồn tại. Kể cả chỗ ngồi của tôi đối diện với chỗ ngồi của Du.
Khi chia tay, mọi người chào nhau thân mật và xin số điện thoại liên lạc. Tôi và Du vẫn không nói với nhau câu nào, thậm chí cuối cùng cho một lời từ biệt.
Lúc này, cả hai bước vào thang máy. Cùng đưa tay bấm số chín. Cùng bấm phím có hai mũi tên quay đầu vào nhau (để cửa thang máy đóng thật nhanh, ý chừng không hề muốn có thêm người nào bước vào). Chúng tôi đứng lặng im. Cùng ngước mắt nhìn số tầng đang nhảy lên số ba… bốn… năm… Đến số chín, chờ cửa mở, cùng bước ra.
Tôi chạm mặt Du trong phòng họp phóng viên chiều thứ Hai hàng tuần. Vẫn chưa nhớ ra anh là ai. Giữa không khí đơn điệu, tẻ ngắt, vài người lấy tay che cái ngáp dài, phó tổng biên tập giới thiệu, đây là biên tập viên mới. Tôi nhìn lướt qua anh. Thấy hình như đã gặp đâu đó trước kia rồi. Cũng chỉ có vậy.
Cuối giờ chiều, tôi cố tình nán lại để được vào thang máy một mình. Du có vẻ cũng không vội vã gì. Anh rút một cuốn sách dày cộp trong cái cặp đen luôn mang theo bên mình. Điềm nhiên đọc. Cứ như, chẳng có nơi nào về ngoài cái phòng làm việc rộng và lạnh lẽo này.
Tôi nheo mắt nhìn trộm anh. Cố nhớ xem cái gì quen quen trên khuôn mặt đó.
Du bỏ quyển sách xuống. Đôi mắt anh u uẩn màu chiều tàn. Anh bảo:
- Nhớ Mitchell không?
Đó là cái tên mà tôi không còn muốn nhắc đến.
- Có? Anh là…?
- Du.
- Tôi biết tên anh rồi. Phó tổng đã giới thiệu. Tôi muốn nói anh là…?
- Mitchell đã giới thiệu chúng ta với nhau trong lần sinh nhật cậu ấy. Cô viết văn phải không?
Mắt anh ta nhìn tôi chăm chăm. Từ trong sâu thẳm ánh nhìn mênh mang, đôi mắt Du dâng lên sự nhạo báng không giấu giếm. Tôi đã nhớ anh ta là ai.
- Phải. Hóa ra anh vẫn nhớ tôi.
- Mitchell bây giờ thế nào rồi?
Thu lại đống giấy tờ, tôi cố nhét nhanh vào túi. Tự dưng muốn ra khỏi đây ngay lập tức. Giọng nói của tôi tan biến vào khoảng rỗng nào đó:
- Tôi không biết.
- Cô là bạn của cậu ấy cơ mà.
- Anh không phải cũng là bạn của cậu ta chắc?
Du cười, giọng chuyển sang châm chọc:
- Cái tính nóng vội rất dễ để nhận ra.
Tôi kéo khóa túi. Bước nhanh ra cửa. Trước khi kịp bước vào thang máy, đã thấy Du đi ngay sát bên. Du nói:
- Cà phê nhé?
Vậy là chúng tôi im lặng phóng xe bên nhau để tìm một quán nước.
Du vặn tay ga, đi thật nhanh. Khó khăn lắm tôi mới có thể theo kịp. Dừng xe gần một hồ nước, chỉ vào một quán cà phê vỉa hè, Du bảo mà như ra lệnh:
- Ngồi đây!
Tôi không nói gì. Tắt máy. Rút chìa khóa. Đưa xe cho nhân viên của quán. Trong đầu rỗng không. Chậm chạp từng bước theo anh.
Sau khi đặt túi vào chiếc ghế bên cạnh. Tôi nhìn Du. Du rút cuốn sách đang đọc dở khi còn ở tòa soạn ra. Đặt lên đùi. Lật từng trang. Chăm chú vào mớ chữ nghĩa. Sau đó, Du lấy bao thuốc từ túi quần ra. Không quên mời tôi một điếu. Tôi chưa động vào thuốc lá bao giờ. Thậm chí mùi thuốc lá luôn gây sự khó chịu đặc biệt cho tôi. Vậy mà, không rõ vì sao tôi lại cầm lấy. Du châm lửa cho tôi. Châm lửa cho
mình. Chúng tôi cùng rít một hơi dài. Lần đầu tiên nuốt khói vào phổi, tôi bị sặc. Rũ người xuống để ho. Du nhìn, nhìn mà như không nhìn. Ánh mắt xuyên qua tôi, mơ màng ở nơi nào đó, khó có thể nắm bắt được. Làn khói bay bay trên khuôn mặt Du như ảo ảnh.
Lúc đó, tôi chợt nhận ra.
Bên trong anh, ở một góc khuất nào đó, có điều gì đang mục nát. *
Nơi Du ở cách chỗ tôi tạm trú một trăm mét. Chúng tôi là hàng xóm của nhau. Hiểu theo nghĩa nào đó. Sau lần ngồi cà phê vỉa hè. Chúng tôi bắt đầu những lần hẹn hò. Cũng hiểu theo nghĩa nào đó.
Nhiều buổi chiều trôi qua như buổi chiều này đây. Chúng tôi tiếp tục ngồi yên lặng bên nhau. Lần này tôi đọc sách. Còn Du viết gì đó trên laptop của anh. Bàn tay đan phím nhịp nhàng như nhạc sĩ chơi đàn. Đôi mắt sáng sau cặp kính. Khuôn mặt đậm đầy chất thông minh. Mái tóc cắt ngắn và vầng trán bướng bỉnh. Đôi môi mỏng mím chặt vẻ cương nghị. Từ anh, toát lên sự tập trung cao độ.
Tôi lấy thuốc, lơ đãng hút. Cuốn sách tôi đang đọc là một tác phẩm của Banana Yoshimoto. Nói về tình yêu đồng tính và đồng huyết. Nhân vật nữ chính tên Sui, từng làm tình với bố đẻ, có thai với anh trai ruột, yêu người bạn gái thân. Sui mang vẻ nào đó của nỗi hoang tưởng của người mắc chứng thần kinh. Sự bế tắc và cái chết treo lơ lửng trên từng trang truyện. Tôi đọc kỹ lưỡng từng từ như ma ám. Vừa cố để hiểu theo mạch truyện. Vừa để cưỡng lại ý tưởng của tác giả như xúc tu bạch tuộc, cuốn chặt mọi giác quan trong tôi. Có những lúc, cảm thấy khó thở, tôi dừng đọc. Kể vài câu chuyện không đầu không cuối với Du. Du ngừng viết. Nghe tất cả những gì tôi nói bằng thái độ tập trung. Mà không hề cất một lời nào. Chờ tôi kết thúc câu chuyện lãng đãng của mình, Du tiếp tục trở lại với công việc.
Hàng tiếng đồng hồ trôi trôi như thế.
Tôi và Du chưa bao giờ hỏi về đời tư của nhau. Đúng ra không quan tâm đến vấn đề đó. Phút giây chúng tôi ngồi lặng yên bên ly cà phê loãng đã tan hết đá, bên khói thuốc bảng lảng xám, bên những bản nhạc buồn bất tận trên nóc thượng của tòa nhà hai mươi ba tầng
giữa trung tâm thành phố thế này mới là thực. Những gì còn lại, khi không liên quan đến nhau, chỉ như những giấc mơ vụn vặt không thật mà thôi.
∗
Đầu tháng Tư, tiếp tục đợt gió lạnh cuối mùa. Phía ngoài khung cửa kính mỏng của tòa soạn, dưới con đường các loại xe ồn ã qua lại không ngừng, nắng vàng rực tràn loang, mặc gió xoay chuyển vầy vò những ngọn cây xà cừ cổ thụ.
Du ngồi bên máy tính như thể cả kiếp người của anh luôn lặng lẽ như thế. Khuôn mặt bất động. Toàn thân bất động. Chỉ có bàn tay phải dịch chuyển con chuột và đôi mắt u uẩn màu buồn là còn sống. Một bức tượng chứa đầy bên trong sự đổ vỡ tạc lên từ thân hình Du.
Ở tòa soạn, tôi và Du hiếm khi nói chuyện riêng, nhất là không tỏ ra chút niềm thân mật với nhau. Du thường đến làm việc đúng giờ. Im lìm trong góc tối của riêng anh. Là người có vẻ gần gũi với đồng nghiệp, nhưng kỳ thực, không ai có thể chạm tay vào thế giới Du. Một thế giới không hình thù, không sắc màu, không niềm vui, không hy vọng, không tương lai… Một thế giới phẳng lặng của nỗi cô đơn và sự cự tuyệt.
Nếu không phải chạy ra ngoài để đi phỏng vấn người này người nọ. Tìm tin để viết bài này bài nọ. Niềm vui nho nhỏ của tôi là đứng một nơi nào đó trong phòng, kín đáo ngắm nhìn anh làm việc.
Tầng chín của tòa nhà màu xanh lá mạ trở thành nơi chốn tôi thực sự mong muốn trở về.
∗
Một buổi sáng, tôi bước vào phòng làm việc. Thấy một bình loa kèn trắng muốt trên bàn của mình.
Tôi nhìn sang Du. Du đang tập trung đọc chồng bản thảo và suy nghĩ. Không tỏ ra một thái độ khác thường nào cả.
Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, Hoài từ bàn bên ngó sang, bảo:
- Một cô gái đã mang đến đây.
Vô cùng ngạc nhiên, tôi nhìn Hoài, đầu óc xáo trộn. Đó là ai chứ? Tôi buột mồm thốt lên ý nghĩ ấy.
Hoài nhún vai:
- Anh cũng không rõ. Cô ta có nét mặt quen quen. Nhưng rõ ràng là người lạ.
Tôi nhìn từng bông hoa được cắm cẩn thận trong chiếc bình gốm màu nâu đất. Hương thơm dìu dịu buông khắp phòng.
- Tại sao lại tặng hoa cho em?
Hoài giở một tờ báo ra, để ngay ngắn trước mặt:
- Làm sao mà biết được. Cô ta mở cửa, bước vào rất tự nhiên. Ôm bình hoa đặt đúng vào bàn làm việc của em, và nói với anh, hoa của Lâm Lâm. Thế rồi đi. Lúc ấy còn sớm, chưa ai đến cả. Chỉ có mình anh ở đây thôi.
Hoài nói xong, cắm cúi vào trang báo. Đó là cách để ngừng câu chuyện một cách tế nhị của Hoài. Mặc kệ những nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau mà chúng tôi từng thực hiện khá nghiêm túc. Tôi rướn người sang phía Hoài:
- Cô ấy trông thế nào hả anh?
- Khá đẹp. Khuôn mặt thì lạnh.
Hoài trả lời ngắn gọn. Giọng bắt đầu nhấm nhẳng. Mặt hơi cau lại. Tôi biết anh bực mình. Thì đành thôi vậy.
Không làm phiền Hoài nữa, tôi chống tay mơ màng nhìn những cánh hoa căng mướt mùi nhựa sống. Tự dưng trong đầu loãng tan hết mọi thắc mắc… Có là ai thì đâu quan trọng. Lý do gì thì đâu quan trọng. Bình hoa thơm tho nằm trên bàn đây mới là quan trọng. Nó làm bừng sáng cả căn phòng. Tôi biết, nụ cười của tôi lúc này cũng bừng sáng như thế.
Du vẫn làm việc chăm chú trước chiếc máy tính và chồng bản thảo.
Chẳng có gì chạm được đến thế giới của anh!
∗
Đêm. Tôi nằm mơ. Mơ Hiên. Hiên của buổi tối trong gallery Kao. Chiếc váy thiên thanh bó sát người thật khêu gợi. Nụ cười chứa nắng. Cánh tay mát lạnh như bạc hà.
Giọng cô chập chờn như bóng đen hoang lạnh… Đằng ấy muốn qua studio của tớ không? Thú lắm đấy!
Tôi bồng bềnh đi theo Hiên. Studio vẹn nguyên như lần đầu tiên tôi bước chân vào. Vẫn lớp mái lợp tôn nẹp sắt. Tranh treo trên tường hoặc để dưới đất. Tượng đắp thạch cao đủ loại bừa bãi trên những chiếc kệ sắt ôxy hóa. Một cái bàn to kê đủ bộ vi tính kềnh càng. Hai cái quạt sắt cổ sơn đen. Chiếc Vespa vẫn dựng ở góc cũ, dầu loang từng vệt đen thẫm trên mặt sàn không lát bằng bất cứ thứ gì.
Không khí lãng đãng sự quạnh hiu. Và nồng nồng mùi máu. Trên chiếc đệm mét hai, Hiên đang nằm trên vũng máu thắm đỏ. Đôi mắt vương vấn nỗi hoan lạc mơ màng…
… Từ bên trong bầu ngực, một nỗi đau đớn trào ra, phủ chụp lên trí não tôi nghẹn đặc… Tôi biết mình đang chảy nước mắt…
… Khung cảnh chuyển động. Lại thấy mình đang ở trong hộp vuông thang máy. Cô gái mùinước- hoa-lạ đang đứng sát cạnh. Ánh mắt cô ta khoan thẳng vào tôi bỏng rát. Hai tia lửa từ mắt vẫn nhắm vào tôi. Không chớp mắt. Không nụ cười. Khuôn mặt cũng không có sự biểu cảm nào… Khuôn mặt ấy thật đáng sợ. Là một khuôn mặt của người đã chết.
Có phải cô ấy không? Người đã mang loa kèn đến cho tôi? Làm thế quái nào mà cô ta biết đó là loài hoa tôi yêu thích từ nhỏ? Làm thế quái nào cô ta biết đích xác bàn làm việc của tôi? Làm thế quái nào cô ta biết tên tôi?
Khi mở mắt tỉnh dậy, tôi tự nhủ, phải tìm gặp bằng được cô gái
ấy.
∗
Giữa tháng Tư. Tôi có một cuộc gọi. Cứ cho là kỳ lạ. Vì đó là việc tôi đã hết chờ mong có thể xảy ra. Đó là cuộc gọi của Huy.
Huy ra Hà Nội từ bao giờ, để làm gì, trong thời gian bao lâu, tôi không biết. Một điều rõ ràng có thể cảm giác được là anh đang ngồi đây, ngay sát tôi. Quán nước ở ngã tư Phan Bội Châu - Hai Bà Trưng rất đông người. Một cô gái cao mét bảy. Mặc đồ đầm trắng. Tóc vấn cao. Làn da tái xanh mà lạnh lẽo như sáp nhuộm. Cầm trên tay một bộ gồm ba bao thuốc lá Mild Seven. Đứng im lìm hệt pho tượng gỗ sát cây đàn piano. Cây đàn đang đóng nắp. Chưa đến giờ nhạc sĩ chơi đàn.
Huy cầm thìa, ngoáy ly cà phê nâu đá. Hất đầu nói:
- Trông xinh đấy chứ!
Tôi không bình phẩm gì. Cứ cúi gằm mặt vào cốc sinh tố bơ. - Em trở nên ít nói từ khi nào thế?
Huy huých nhẹ vào vai tôi. Tôi ngẩng lên nhìn anh. Anh mặc một chiếc áo sơ mi kẻ và quần nhung màu rêu thẫm. Trông hình dạng Huy đã khá hơn so với hồi festival. Khuôn mặt đang dần hồng hào, bắt đầu có da có thịt. Chỉ có đôi mắt vẫn mất hết sắc khí.
Tôi hỏi vu vơ:
- Anh khỏe chứ?
Huy cười:
- Anh khỏe. Có thể làm tình điên cuồng. Với khoảng năm cô cùng một lúc…
- Thật ư?
- Thật!
- Sao anh ăn nói lạ thế, chưa thấy anh phát ngôn kiểu đấy bao giờ.
Huy dí điếu thuốc đang cháy dở vào gạt tàn. Đổ ít nước cà phê lên:
- Thế chính em không lạ sao? Cứ như Lâm Lâm của ngày xưa biến mất đâu rồi ấy.
- Thật ư?
- Thật!
Chúng tôi chìm trong im lặng. Sau bao ngày không liên lạc, tôi nghĩ, tôi và Huy có rất nhiều chuyện để nói. Tôi muốn biết cuộc sống của anh thực sự thế nào, anh đang nghĩ gì đấy, anh định làm gì. Niềm mong muốn biết một cái gì đó về Huy mỗi lúc một dâng tràn. Vậy mà tất cả chỉ nằm trong đầu của tôi thôi.
Đúng tám giờ, một cô gái hình dáng nhỏ bé, mặc bộ váy đỏ, đi tất quần da chân màu đen, xỏ một đôi giày búp bê cùng tông màu váy, ngồi trước cây đàn piano, thong thả mở nắp, dạo trên phím một vài nốt nhạc. Chúng tôi nhìn từng cử động của cô gái. Một kiểu nhìn vô thức. Cô gái bắt đầu đánh bản nhạc đầu tiên. Nghe được một đoạn, Huy mở lời, phá vỡ sự im ắng nặng nề bảng lảng quanh hai đứa:
- Biết bản nhạc này không?
Tôi nghiêng người cố tập trung nghe.
- Quen lắm, quen vô cùng, mà em không nhớ tên.
- Bản nhạc này hai đứa mình từng cùng thích mà. Lẽ nào em không nhớ. Tệ thế!
Tôi ngượng nghịu:
- Rất nhiều điều em đã quên rồi anh ạ. Trí nhớ của em luôn làm đúng bổn phận của nó.
- Câu này em từng nói rồi. Trên blog của em!
- Anh cũng vào blog của em sao?
- Tại sao không? Đó là cách duy nhất để anh có thể gần với em. - Có nhiều cách khác mà…
Huy tránh câu chuyện tôi bắt đầu khơi gợi. Anh đốt một điếu thuốc khác. Đưa cho tôi:
- Em bắt đầu hút thuốc từ bao giờ thế? Anh đã bảo không nên cơ mà.
Tôi cầm lấy thuốc, rít một hơi thật sâu vào phổi:
- Thế sao còn đưa cho em?
Huy xoa đầu tôi. Cử chỉ thật thân tình:
- Anh không có gì cho em cả, ngoài sự thoải mái. Em có thể làm những gì em muốn khi bên cạnh anh. Thật đấy!
- Anh rất hay mâu thuẫn với chính mình.
Tôi vừa nói, vừa ôm ngang người Huy, thật tự nhiên. Như thể, ngày nào cũng gặp anh, để ngồi bên, uống nước, hút thuốc, tán gẫu và ôm anh. Quãng thời gian vừa qua, như đã chết ở nơi nào rồi. Tôi không còn khái niệm đã có lúc hai đứa xa nhau.
Cô gái vẫn chơi bản nhạc đó. Đã qua nửa bài.
- Em nhớ ra chưa?
- Chưa!
- Bài If we hold on together mà Diana Cross vẫn hát ý. - À!… Nếu chúng ta tiếp tục cùng nhau…
- Cái này thì đúng là em. Luôn luôn tư duy chậm và hay quên! Tôi dựa đầu vào vai Huy. Dòng nhạc từ đôi tay cô gái váy đỏ vẫn
miên man chảy.
- Giá như… chúng ta tiếp tục cùng nhau…
Huy vuốt tóc tôi, âu yếm:
- Ngốc ạ. Lẽ nào không…?!
Chẳng hiểu vì điều gì, tôi vít cổ Huy xuống. Hôn anh. Nụ hôn ướt và sâu. Từ phía ngực mình, tôi có thể cảm thấy tim anh đang đập nhanh. Tim tôi cũng thế. Không còn nhớ được khung cảnh xung quanh: nhiều bàn chật căng khách khứa, cô gái mặc váy trắng, hai cốc nước uống gần hết, gạt tàn đầy đầu mẩu thuốc lá… Chỉ có tiếng piano xa xăm và nụ hôn dài ngọt đặc.
Trong óc tôi thầm nhói lên niềm mong ước, chỉ có hai đứa tôi ở đây trong khi thời gian ngừng lại.
Cảm nhận Huy bắt đầu có gì đó bất an. Lưỡi anh thu lại, hàm răng khép dần. Huy khéo léo đẩy tôi ra. Cố chấm dứt cử chỉ thân ái quá mức độ ấy. Bỗng nhiên thấy mình bị trượt chân vào một cái hố sâu, đen lạnh, mắt tôi nhòe đi, mũi nóng ửng, tắc nghẹn.
Lần này không cần Huy châm thuốc hộ, tôi lập cập rút ra một điếu. Bật mấy lần thì lửa cũng lên. Điếu thuốc run bắn trong tay tôi.
- Em đọc tuyển tập truyện ngắn Ngõ hẻm dưới ánh trăng của Stefan Zweig chưa?
Huy mở lời. Mặc dầu giọng anh khàn nhưng tôi biết anh đang cố nối lại nhịp điệu tự nhiên.
- Chưa.
Tôi trả lời cộc lốc.
- Em thì bao giờ chẳng lười đọc. Mang tiếng viết văn cơ đấy!
Tôi dụi mặt vào tấm kính trên mặt bàn. Cho hơi lạnh chạm vào hai bên má. Huy tiếp tục. Có vẻ chẳng muốn quan tâm đến thái độ dỗi hờn của tôi.
- Trong đó có câu chuyện về một căn bệnh điên.
- Bệnh điên ư? - Tôi thì thào. Cảm thấy có điều gì đó mệt mỏi, lễnh loãng dâng lên từ phía trong tôi.
- Phải. Nó tên là Amok.
- Nghe tên lạ thật.
Tôi trả lời. Bắt đầu mong muốn có thể tiếp tục trò chuyện với Huy.
- Lạ chứ. Anh cũng thấy thế. Amok hay là bệnh điên xứ Malaixia. - ...
- Đấy là nhan đề truyện ngắn.
- Nó thế nào hả anh?
Tôi ngẩng mặt lên. Lơ đễnh nhìn anh.
- Truyện ngắn đó thì anh thấy không có gì lắm. Ấn tượng mỗi cái bệnh điên. Zweig cho rằng, nguyên nhân chứng bệnh Amok bắt nguồn từ khí hậu của Malaixia. Bầu không khí ở nơi ấy lắm khi trở nên dày đặc và ngột ngạt. Nó đè nặng lên thần kinh con người như một cơn giông tố. Cho đến khi thần kinh buộc phải bùng nổ.
- Em chẳng hiểu? - Tôi ngắt lời anh.
- Thì em cứ tưởng tượng đơn giản thế này. Một người đàn ông Malaixia hiền hậu, như bất cứ người đàn ông tử tế nào, đang yên lành ngồi nhâm nhi một thứ đồ uống. Anh ta ngồi đó thản nhiên, uể oải. Phút này qua phút khác, giờ này qua ngày khác… Đến một lúc nào đó, anh ta bỗng nhiên nhảy chồm lên, cầm lấy con dao găm và lao ra ngoài phố. Gặp bất cứ người hay con vật nào ngang đường đi, anh ta đều cầm dao đâm chết. Máu càng làm cho anh ta trở nên hung dữ hơn. Trong khi chạy, bọt mép sùi ra, anh ta rú lên như là quỷ ám. Anh ta chạy, chạy miết, không trông thấy những gì xung quanh. Bên phải. Bên trái. Cứ chạy mãi, vừa chạy vừa kêu những tiếng xé tai. Trong cuộc chạy miết đáng sợ ấy, tay anh ta vẫn lăm lăm con dao đẫm máu.
Mọi người đều biết không sức mạnh nào trên đời có thể chặn lại con người đang bị giày vò bởi cơn điên khát máu đó. Khi thấy anh ta, mọi người hét lên: Amok! Amok!… Để rồi tất cả đều tìm mọi cách để trốn
chạy hòng cứu thân. Còn anh ta không nghe thấy gì. Tiếp tục chạy. Tiếp tục đâm chém mọi thứ nhìn thấy trên đường. Cho đến khi anh ta bị đồng loại giết như một con chó dại. Hoặc ngã gục xuống đường chết, kiệt sức, miệng đầy bọt.
- Câu chuyện đó ghê quá!
- Anh cũng thấy thế.
Huy ngả cả người trên ghế. Hai tay khoanh tròn trước ngực. Mắt nhìn lên trần nhà. Cả không gian đột nhiên im lặng đến gai người.
Ngồi như thế chừng nửa tiếng, Huy đột ngột nhỏm dậy: - Anh nhớ ra có cái hẹn. Phải đi ngay. Em về hay ngồi lại? Tôi trả lời nhanh đến nỗi không còn nhận ra giọng nói của mình: - Em ngồi lại…
Huy đứng lên, gọi nhân viên, thanh toán. Rồi bước ra cửa vội vàng. Quên cả chào tôi.
Tôi nằm ngả người trên ghế, lặng im. Thấy mình đang lạc trong một câu chuyện liêu trai không có kết thúc. Tôi chạm tay vào chỗ Huy vừa ngồi. Mặt gỗ lạnh ngắt. Như chưa từng có hơi ấm da thịt người trên đó. Mọi điều đã tan biến hết rồi.
Chẳng có gì trên đời là thật cả!
∗
Trời bắt đầu đổ mưa. Những cơn mưa kéo theo sấm chớp. Có phải chạm mặt mùa hè rồi không?
Tôi tiếp tục thực hiện lời hứa ngày nào với Hiên. Đưa Hiên vào cuốn tiểu thuyết chưa biết khi nào kết thúc của mình. Hiên không còn nữa, còn tôi thì vẫn phải sống với món nợ giờ giờ phút phút ám ảnh
không ngừng.
Mỗi lần bước đến bên bàn làm việc tầng chín, biết sẽ ngượng ngập trước bình hoa loa kèn. Khi hoa chưa kịp tàn có ngay một bình mới thay thế. Vẫn chưa tìm được người con gái lạ ấy. Đôi khi, hương thơm của loa kèn làm tôi nghẹn thở. Mỗi lần ngắm nhìn Du, Du cũng làm tôi nghẹn thở.
*
Có một lần, tôi gặp lại cô ta, khi đi cùng thang máy. Cô gái ấy. Không thể nhầm lẫn được. Cô-gái-có-mùi-nước-hoa-lạ.
Từ khi nhìn cô ấy bước vào thang máy, từ tầng ba, toàn thân tôi bỗng nhiên trở nên cứng đờ. Lưỡi thu hẹp vào trong khoang miệng. Mắt mở to. Đồng tử giãn căng hết mức có thể. Tim không dưng đập loạn cả lên. Tôi có thể nghe thấy tiếng thình thịch thình thịch quặn
tức nơi lồng ngực mình. Cô ta. Đúng là cô ta đấy.
Lúc ấy, cô ta khoác trên dáng hình thanh mảnh cao nhưng đầy đặn của mình một bộ vest văn phòng vẫn màu nâu đen. Bít tất đen. Giày cao gót đen. Chiếc túi khoác vai cũng đen. Mái tóc đen búi gọn sau gáy. Cô ta có một khuôn mặt không phải thiếu ưa nhìn. Quyến rũ là đằng khác. Đôi mắt nâu sâu thăm thẳm. Lông mi dài. Làn môi cong cong thoa nhẹ lớp son hồng. Da trắng. Hai bầu má có vài nốt tàn nhang nhưng không làm giảm những đường nét hấp dẫn trên khuôn mặt trái xoan ấy. Có điều, nó như có gì không thật, không sống, không thuộc về cô ta. Tựa thể, cô ta đang đeo một lớp mặt nạ mỏng được ngụy trang thật khéo. Cô ta nhìn thấy tôi, tôi nhìn thấy cô ta, vào thời điểm cửa thang máy mở ra, cùng lúc. Chúng tôi không ngừng nhìn thẳng vào nhau cho đến khi cửa thang máy đóng lại. Cô ta tiếp tục chọn chỗ sát tôi. Không hiểu sao khi đó thang máy lại đông đến thế người.
Tôi rất bực mình vì lúc ấy tại sao mất hết tự chủ đến như vậy. Lẽ ra phải mở lời hỏi cô ta những điều thắc mắc, nói với cô ta vài điều cần nói. Những thứ mà tôi thường nghĩ, nghĩ đến nát cả óc, cố nhẩm cho thuộc, nhẩm đến mỏi cả miệng. Định tâm gặp là phải nói ngay, hỏi ngay. Ngôn từ cứ thế mà tuôn tuôn. Ngôn từ nhiều khi cần làm đúng bổn phận của nó. Nhưng khi rơi hẫng vào một hoàn cảnh nào đó khang khác bình thường, như thế này đây, thì không hề. Tôi chẳng
điều khiển nổi bất cứ thứ gì thuộc về mình. Ví dụ như hai bàn tay. Một bàn tay nắm chặt quai túi. Một bàn tay thì xỏ vào túi quần. Chúng đang rung lên bần bật. Hai cái chân run run thì cố trụ vững trên một mặt phẳng kim loại đang ì ì tiến lên chậm chạp. Hơi thở gấp gáp, không làm cách nào điều hòa được. Nhịp tim cũng thế nốt. Quan trọng nhất là cái đầu. Tôi ghét bộ não của mình chứa trong đó. Đúng là lúc nào cần tư duy thì lại tỏ ra chậm chạp kinh khủng.
Cô gái im lặng bên tôi. Và không quên, giống hệt những lần trước, nhìn tôi chăm chăm. Mùi nước hoa của cô bảng lảng trong cái hộp thang máy. Khi đó, điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ được là, giả như bỗng nhiên dây cáp thang máy đứt phựt, bằng ấy con người trong này sẽ có kết cục thế nào.
Đến tầng tám, cô ấy gạt mọi người, đi ra. Quá nhanh để tôi có thể nắm bắt được chuyện gì. Thang máy dừng lại ở tầng chín. Không, đó đâu phải nơi tôi muốn vào lúc này. Tôi nghĩ, tầng tám, tầng tám kia. Thế là tôi bấm tầng tám. Nhưng cái thang máy chết tiệt cần làm đúng phận sự của một cái máy. Nghĩa là rờ rẫm chạy hết một loạt các tầng phía trên theo đúng chỉ định của những người đang chen chúc trong nó. Và lại đón người ở một tầng nào đó vào. Khốn kiếp! Người đâu mà đông thế?! Đúng vào lúc này đây… Tôi quyết định khi thang máy dừng lại ở tầng nào đó. Bất kể tầng nào, sẽ nhào ra, và sử dụng cầu thang bộ.
Đến khi tôi ra được hành lang tầng tám, ngơ ngác đứng giữa mười hai cửa phòng gỗ dày đóng im ỉm, tôi biết chắc là muộn mất rồi. Không thể gõ cửa từng phòng hỏi thăm, tìm kiếm một người đến cái tên còn không biết, tôi lê từng bước chân chầm chậm lên từng bậc cầu thang, trở về tầng chín quen thuộc đến từng vệt bẩn trên những bức tường, rèm buông, dưới những tấm thảm trải sàn của tòa soạn mình.
Cô gái có mùi-nước-hoa-lạ đã biến mất. Mờ mờ như sương ảnh. Ảm đạm đúng như một cơn mơ hoang giữa nát vụn chiều tàn.
*
Những ngày giữa tháng Tư, trời đang nắng đột ngột mưa. Nhiệt độ tăng cao, rồi nhanh chóng hạ thấp. Cái lạnh trở về làm con người gần nhau hơn.
∗
Chúng tôi đang ngồi nghe một nhà thơ Pháp đọc thơ ở hội trường của trung tâm L’Espace. Trong tờ giấy khổ A4 ai cũng có thể lấy tùy ý trên chiếc bàn dài kê ngay lối ra vào, người ta chú thích rõ, ông ta là tác giả của hơn hai chục tác phẩm thơ, một số nghiên cứu phê bình, chuyên luận tổng hợp về thơ. Ngoài ra còn giữ vai trò chỉ đạo một tạp chí văn học của Pháp ra hàng quý và làm chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Paris. Về chức vụ thì có vẻ mới đảm nhận. Còn về thơ thì rõ ràng là một nhà thơ già. Già do tuổi. Tính đến năm nay, ông ta bước sang tuổi năm mươi lăm. Tôi không thích những người làm thơ mà độ tuổi vượt quá ba mươi lăm. Từ ba mươi lăm tuổi trở lên, tôi gọi, họ là những nhà thơ già.
Dưới ánh đèn sân khấu lập lòe khi vàng chóe khi đỏ lợt khi xanh da trời khi xanh lá cây…, nhà thơ Pháp với sự hỗ trợ tích cực của năm nhà thơ nữ Việt Nam vận áo dài hở ngực đi đi lại lại trên mặt sàn ốp gỗ vẩn bụi. Có cả một nhạc công Pháp chơi violin và một nhạc công Việt Nam chơi đàn đáy hỗ trợ. Các nhà thơ cầm giấy trên tay. Chăm chăm nhìn chữ để đọc. Giọng cố sức làm sao thật tê tái buồn. Đọc xong một bài, gồm một hoặc hai tờ giấy, họ thay nhau thả xuống sàn. Những tờ giấy lấp lóa như đàn bươm bướm trắng khổng lồ dị dạng mất cánh xập xòa xập xòa dưới sáu cặp chân trần.
Du bảo với tôi:
- Thơ ca có vẻ đã mất hết sức mạnh bên trong nên đến lúc cần hỗ trợ của trình diễn may chăng mới có thể thoi thóp hồi tỉnh lại hay sao ấy.
Anh nói khe khẽ vì chúng tôi ngồi ngay hàng ghế đầu. Khán phòng lại đang im phăng phắc. Chỉ có âm thanh trên sân khấu là vọng vang. Tôi đến được đây là nhờ chiếc vé mời của Du. Trước đó tôi cũng có vé. Nhưng nó đã biến mất đâu đó trong đống giấy tờ lộn xộn trên mặt bàn. Khi thấy tôi nhăn nhó lo lắng cho bài báo mà phó tổng biên tập đã trịnh trọng giao phó, Du nói, anh có đây. Vậy là chúng tôi đi cùng nhau.
Biết tôi không biết một chút gì tiếng Pháp, thỉnh thoảng, anh lại dịch giúp tôi một số câu mà anh cho là tạm được. Lúc đó, tôi mới biết anh rành thứ ngoại ngữ dịu ngọt mà không kém phần rắc rối này. Khi
tôi yêu cầu dịch thêm, anh bảo, chẳng có gì đâu, chán chết!… Rồi loay hoay với cái máy ảnh, chụp hộ vài tấm hình cho bài báo phải có sau chương trình này của tôi.
Cuối cùng thì buổi trình diễn thơ cũng kết thúc. Tiếng vỗ tay lốp bốp nổi lên. Một số người nhanh nhẹn ôm hoa tươi lên sân khấu tặng các nghệ sĩ. Những người tặng hoa và những người đọc thơ vốn là bạn hoặc người nhà của nhau.
Du đứng lên, cất máy ảnh giúp tôi và không quên cầm cho tôi chiếc áo khoác mỏng bị tôi vô tâm bỏ lại trên thành ghế. Với tôi, Du thường tỏ ra chu đáo như một người anh.
Chúng tôi nhanh chóng rời khỏi sảnh của tòa nhà, đẩy tấm cửa kính nặng nề và bước ra ngoài đường. Không khí mát lạnh ùa vào các giác quan. Tôi ngửa cổ lên trời, nhắm mắt, dang một vòng tay rộng hít thật sâu sự thoáng đãng của trời đêm. Du cũng đứng lại, nhìn lên bầu trời đen không một vì sao. Tôi xoay người lại, ngắm trộm anh.
Dường như trên môi anh thoáng qua một nụ cười.
Trong lành, hiền hòa và rất đỗi dịu dàng.
Nó khác biệt lắm. Không hề giống những nụ cười chua xót, đắng chát, đầy mai mỉa hiện thân từ anh.
Nụ cười lạ lùng đó làm khuôn mặt của Du hắt lên một quầng sáng ảo diệu. Như thể một gam màu tươi lướt qua trên bông hoa cúc sắp tàn. Bông cúc đang được một phép màu huyễn hoặc từ cõi xa xăm nào đó ban cho sự hồi sinh khoảnh khắc.
Chúng tôi đứng cùng nhau một khoảng thời gian ngắn. Khi tất cả khán giả đã kịp lấy xe xong đang thi nhau nổ máy, vặn ga, cười đùa ồn ã bên cạnh, Du nhanh chóng lôi di động trong túi ra, gọi cho chúng tôi một chiếc taxi.
Tôi ấn mình vào lớp đệm của băng ghế sau. Nhắm mắt lại. Du nói với người tài xế đến một hàng ăn nào đó. Rồi ngồi yên lặng sát bên tôi. Qua hai lớp áo mỏng, tôi có thể cảm nhận sự mềm mại từ làn da cánh tay Du đang chạm vào làn da cánh tay tôi ấm áp.
Chiếc xe chạy với tốc độ chậm. Vạn vật luân chuyển với nhiều sắc màu sáng tối đan xen phía bên ngoài cửa kính trắng. Thành phố rung lên nhè nhẹ từng nhịp thở của một người trẻ tuổi đang thèm ngủ. Hơi thở của Du cũng rung nhè nhẹ, như thành phố, như đêm. Một đêm trời thành phố thiếu vắng những vì sao.
Trong một thoáng nào đó. Tôi nghĩ đến một ngày. Có thể ngày ấy gần ngay đây thôi. Du sẽ tan loãng ra. Giữa vũ trụ mênh mang này. Thân thể Du trong suốt như nước. Mềm như mây. Bồng bềnh như gió. Chỉ còn lại một khối chứa đầy nỗi buồn đậm đặc màu đen tuyền, không có một lỗ hổng nào để chúng có thể thoát ra. Khối buồn ấy không bao giờ tan chảy ra được. Mãi mãi là thế…
Chúng tôi đến một nhà hàng mở vào ban đêm khá lịch sự nằm trong một ngõ nhỏ gần Hồ Tây. Thực khách chủ yếu là người nước ngoài. Họ ăn uống tự nhiên giữa lanh canh dao dĩa và trò chuyện lào xào nhiều thứ tiếng khác nhau.
Du đi tới một cái bàn tận trong cùng góc tối của nhà hàng. Kéo ghế cho tôi trước khi gieo mình mệt mỏi xuống một chiếc ghế khác. Trên bệ cửa sổ, những đóa hồng đỏ thắm được cắm lơi lả trong chiếc bình sứ màu đen đang run lên trong gió. Du với tay, rút ra một bông, nhẹ nhàng để trước mặt tôi. Anh nhìn tôi chăm chú. Lần đầu tiên, ánh mắt anh không còn lảng tránh. Chúng chiếu thẳng vào mắt tôi, vào gương mặt của tôi. Kiểu nhìn lạ lùng mà tôi chưa từng thấy ở bất cứ người con trai nào. Một chút cho việc ngắm nghía điều gì đó khác lạ mà thường thường vẫn rất quen. Một chút cho vấn xét, dò hỏi. Một chút gì của nỗi niềm yêu thương. Một chút là day dứt.
Mặc kệ tôi bối rối, bắt đầu lảng tránh cái nhìn của anh. Anh ngồi im, cả người dựa hẳn vào chiếc ghế. Đôi mắt sáng rực trên thân người đang dần mất hết sức sống. Đôi mắt ấy chiếu thẳng vào tôi. Rõ ràng không chỉ khuôn mặt, mà cả ngực, bụng, hai cánh tay và bắp chân của tôi, đều nóng ran cả lên dưới cái nhìn ma mị của anh.
Một cô gái xinh xắn mặc bộ váy màu xanh dương đi tới. Cô chìa thực đơn và hỏi chúng tôi muốn ăn gì. Anh thu lại cái nhìn, chuyển sang phía quyển thực đơn. Rõ ràng vừa nãy, Du thật khác lạ. Có gì đó không giống với Du của mọi lần tôi từng quen biết. Sau khi gọi hai đĩa cơm với đồ ăn kèm khác nhau, trong lúc chờ đợi người phục vụ mang đến, Du bảo: “Không nghĩ em lại là một cô gái xinh cơ đấy!”.
Đó cũng là câu duy nhất Du nói với tôi trong suốt cả bữa ăn.
Chúng tôi lại kiếm một chiếc taxi để trở về nhà. Đã gần mười một giờ đêm. Người và xe thưa thớt trên đường. Có thể nghe rõ tiếng động cơ của chiếc taxi chúng tôi đang ngồi. Người lái xe thi thoảng liếc nhìn chúng tôi qua gương chiếu hậu. Mấy lần anh ta định mở lời nói gì đó, nhưng thấy chúng tôi im lặng nên đành thôi.
- Anh định nói gì phải không? - Tôi hỏi anh ta.
Anh lái xe khẽ nghiêng đầu ra phía sau.
- Tôi chỉ muốn bảo trông anh chị đẹp đôi lắm, thật đấy! Câu nói ấy làm tôi và Du nhoẻn miệng cười.
Chiếc xe rẽ vào một con đường nhiều cây xanh nhiều bóng tối và nhiều vắng lặng. Sắp đến nơi chúng tôi ở. Du kéo kính xuống, nhìn ra phía ngoài. Tôi nhìn theo và nghĩ, anh cùng con đường ấy có gì khác nhau đâu.
Trước khi xe kịp dừng bánh trước ngõ của căn nhà tôi đang thuê, Du nhìn tôi, nói khẽ:
- Muốn biết nhà anh không?
Tôi không trả lời. Anh nói thêm có vẻ muốn giải thích hoặc giảm bớt những lúng túng đang làm cả cơ thể anh và tôi run rẩy.
- Em chưa biết nhà anh mà…
Thấy tôi ngồi yên, không có ý định bảo người tài xế cho xe dừng lại, anh biết là tôi chẳng có ý phản đối.
∗
Đó là một ngôi nhà ba tầng nằm trong ngõ sâu. Tường sơn trắng với những căn phòng rộng. Và hầu như không hề có đồ đạc gì. Phía dưới ô cửa sổ có vẻ thường xuyên đóng chặt của một phòng trên tầng hai, có thể tạm gọi đó là phòng ngủ, Du đặt một tấm đệm xộc xệch ga trải, cùng hai chiếc gối, hai chiếc chăn, một chăn bông, một chăn
mỏng. Không có bất cứ cái tủ nào. Quần áo đang dùng dở chất đống trên một cái mắc sơn đen. Quần áo sạch thì nhồi nhét trong vài chiếc túi bóng to vứt ngay phía cửa ra vào. Giá trị nhất trong ngôi nhà của
anh có lẽ là sách. Rất nhiều sách. Để bừa bãi lộn xộn trên sàn nhà. Phòng nào cũng thấy sách. Nơi anh ở giống một cái kho sách khổng lồ vừa bị những thủ thư ở đó lật tung lên mà không có ý định sắp xếp cho ngăn nắp lại. Trong một góc của phòng trên tầng ba, nơi chứa nhiều sách nhất, tôi nhìn thấy một chiếc ghế dựa màu xanh nước biển. Phải hết sức cẩn thận để tìm chỗ đặt chân, làm sao cố đừng giẫm lên sách của anh, tôi mới tới được chiếc ghế đó. Du chạy đi, lúc sau trở lại với một cốc nước lọc trên tay. Anh đưa cho tôi. Rồi dựa lưng vào tường, nói gọn một câu trong tiếng thở dài:
- Nhà của anh là thế đấy!
Tôi uống nước, nước mát lạnh thấm qua cổ họng.
- Bây giờ thì em hiểu rồi…
Du nheo mắt nhìn tôi:
- Hiểu gì chứ?!
- Hiểu là cuộc sống của anh cũng chỉ cần có bằng đấy thứ. Cái laptop này, một cái cặp chứa sách lẫn quần áo này, cái xe máy này, ít tiền trong ví này. Rồi di chuyển hết quán kia sang quán nọ để uống cà phê, để ăn bữa sáng, tìm bữa trưa và kiếm bữa tối. Để suy nghĩ và làm việc khi không phải đến tòa soạn. Chẳng ai có thể tìm được anh nếu anh không muốn cho họ biết là anh ở đâu. Đường kết nối duy nhất của anh với thế giới loài người là cái di động hơi tí thì hết pin và thường xuyên quên nạp tiền. Cuộc sống của anh là thế. Trên xe và di chuyển. Đây không phải là nhà! Mà là nơi anh chạy trốn điều gì đó. Một góc ẩn náu của anh thôi.
Du lấy cốc nước từ tay tôi, uống một hơi, hết sạch.
- Thế em không đang chạy trốn chắc! Em khác gì anh nào?
Tôi không biết trả lời ra sao cho đúng. Chúng tôi chìm trong khoảng không tắc nghẹn, hết sức khó chịu và tránh nhìn nhau.
∗
Vừa nằm xuống giường, tôi nhận được tin nhắn của Du: “Em thừa hiểu không tự dưng anh rủ em đến nhà. Anh thực sự muốn em…”
Tôi bấm phím trả lời: “Em biết!”
Rồi quẳng máy xuống sàn. Quấn tròn người trong chăn như con côn trùng non.
Đêm đã chìm vào hơi thở sâu. Giống như đêm nào đó trong mơ hồ xa xăm. Như một trường ca vô thanh. Phủ lấp mọi đau đớn. Và lạnh. Lạnh một cách đoạn tuyệt!
∗
Entry for Arp…, 2007
Không cần sám hối!
Vì từ nhỏ chưa làm điều gì sai. Chẳng hề cưỡng bức số phận. Ai bảo gì làm nấy, ai nói gì nghe nấy. Đi đúng giờ, về đúng giờ, học đúng giờ, làm đúng giờ, ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ… Mọi thứ thực hiện như cái máy được lập trình. Lâm Lâm ơi, có đáng thương không? Thà làm cái máy để không ai phải lo lắng cho mình. Thà làm cái máy để đừng ai buồn vì mình. Rồi đến lúc cái máy cạn kiệt năng lượng, thành một đống phế thải, chết gục giữa lạnh lẽo và hoen gỉ, có ai khóc đưa tang cái máy ấy không?
Không! Không ai hết!
Mọi người lại đi kiếm tìm cái máy mới. Một cái máy khá hiện đại. Vẫn biết yêu thương và tất nhiên cực kỳ nghe lời. Và cái máy cũ kia, câm lặng trong bãi rác thải. Lẫn lộn giữa trăm nghìn thứ rác phần nhiều bẩn thỉu và hôi thối khác.
Một cái máy! Người ta đổ năng lượng thì được sống. Cả cuộc đời lúc nào cũng lo trách nhiệm và phận sự. Cái máy tất nhiên chẳng biết đến tình yêu. Cũng thử đi tìm… nhưng vì nó không biết tư duy trong khi tâm lý thì hèn nhát nên cứ quanh quẩn trong vỏ bọc và
tưởng tượng.
Là do em tưởng tượng đấy! Trong những truyện ngắn em viết ra. Làm gì dũng cảm đến nỗi lao vào vòng xoáy của nó, đi đến tận cùng tâm điểm của nó đâu!
Tình yêu trong em lờ nhờ sắc màu của tang thương và huyệt mộ.
Cùng những con “kền kền hói đầu” thích ăn niềm hy vọng sống còn thoi thóp của linh hồn.
Em bảo: Còn chúng ta là hai con côn trùng vỏ cứng, thích ăn khoảng rỗng trong nhau.
*
Bông hồng đỏ Du tặng tôi đêm hôm trước, tàn xác xơ trong lọ pha lê nhỏ từ khi nào, tôi không biết nữa.
Đã ốm mất hai ngày. Tám giờ sáng, nằm trên giường rên hừ hừ như con mèo hoang. Cơn đau tức nghẹn trong ngực. Những ngón tay, ngón chân gắng gượng co duỗi. Cảm giác mệt len qua từng thớ thịt, tan vào mỗi khớp xương. Miệng thật khô, và tim thì suy kiệt.
Du nhắn tin bảo, ăn sáng nhé, anh chở em đi ăn. Tôi trả lời, anh làm việc của anh đi, em chẳng cần đâu. Thế là Du gọi điện, mắng cho tôi một trận vì cái tính ương bướng ngu ngốc. Sau đó thì nói, ra nhanh lên, anh đang chờ ở đầu ngõ. Chẳng biết làm thế nào, tôi đành lần lần trở dậy. Mặc lên người bộ quần áo vơ vội trong tủ. Đánh răng rửa mặt quáng quàng. Ra khỏi nhà. Chân lảo đảo. Người cũng lảo đảo.
Du gọi. Tôi đến. Chẳng phải vì đói quá thèm ăn. Mà đơn giản lắm. Lần đầu tiên tôi ốm, có ai đó ngó ngàng tới. Tôi giờ chẳng bạn chẳng bè. Không người thân bên cạnh. Bố đó. Mẹ đó. Nhưng họ đã quên tôi ở một quãng chẳng cần nhớ nào rồi. Tôi là kẻ cô đơn nhất trần đời. Cảm giác ấy trỗi dậy mạnh mẽ đặc biệt khi ốm. Cần ai đó nói chuyện. Kể cả lúc này đi giữa đường có ngất ra thì tôi cũng kệ. Khi biết chắc lúc đó tôi không phải một mình.
Du đứng chờ tôi bên cột đèn xanh đỏ. Dựa người vào chiếc xe đang dựng chân chống. Một tay cầm điếu thuốc đang cháy dở. Một tay bấm điện thoại. Dáng người cao cao đổ bóng xuống mặt đường. Thấy tôi, anh cất điện thoại vào túi quần, cùng lúc điện thoại trên tay tôi rung lên hiện ra số máy Du. Anh nhanh chóng lên xe, chạy về phía tôi. Nắng lên rực rỡ một màu trong văn vắt. Bầu trời xanh và hàng cây lá non xanh. Hôm nay đúng là ngày đẹp trời. Không ra đường thật là uổng phí.
Du hỏi:
- Đi ăn ở đâu đây?
Tôi nói:
- Đâu mà chẳng được.
Quả tình tôi chẳng thấy cần thiết nhét vào dạ dày đã rỗng không hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ cái gì đó. Thân thể tôi nhẹ bẫng như muốn bay lên trong cơn ngây ngấy sốt.
- Phải ăn gì đó chứ! - Du nói thật nhẹ nhàng.
- Thì anh cho đi ăn đâu mà chẳng được.
Tôi lặp lại câu nói trước của mình. Rồi ngả đầu vào lưng Du. Từ người anh toát ra hương vị của những ngày chớm hè.
Đang lúc sốt và mệt thế này, được dựa vào ai đó, thật dễ chịu.
Anh chở tôi đến quán phở bò gần nhà. Gọi cho tôi một bát. Tôi hỏi:
- Anh không ăn gì à?
- Anh ăn từ sáng rồi! - Du mỉm cười.
- Thế sao còn gọi em đi ăn? - Tôi nói, giọng có vẻ giận dỗi. Du lấy giấy lau đũa cho tôi, anh nói: