🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhị Độ Mai
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Nhị Độ Mai
Vô Danh
Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net
Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ.
https://thuviensach.vn
Mục lục
Giới thiệu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang kết
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Giới thiệu
Tôi (VansonNguyen) dùng quyển "Nhị Độ Mai" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 20 Nguyễn An Ninh Sai gon (quyển này in theo giấy phép số 514/T.X.B. của bộ Thông-Tin Nam Việt. Có lẽ vì vậy mà điạ chỉ khác với quyển "Lục-Vân-Tiên", in năm 1973)
Toát-Yếu
Truyện này do một tác-giả vô-danh Việt-nam dựa theo cốt truyện "Trung hiếu tiết-nghĩa Nhị Độ Mai", một cuốn luân-lý tiểu-thuyết của người Tầu, diễn theo thể văn lục-bát của ta, cũng lấy nhan đề là "Nhị Độ Mai", vì trong truyện có đoạn hoa mai nở hai lần, được truyền làm giai thoại.
Truyện gồm có 2816 câu - không kể thơ - có thể tóm-tắt chia ra làm 7 hồi : Mai-Công Thăng Quan
Đời Đường Đức-tông ( 780-805 ) có Mai Bá Cao, tri-huyện Lịch-thành, vốn người thanh-liêm trung-trực. Bấy giờ trong triều có hai gian-thần là Lư Kỷ, Hoàng Tung, ông vốn căm-ghét, chỉ mong có dịp sẽ ra tay trừ khử. Thì bỗng có chiếu-chỉ được thăng chức Lại-khoa cấp-sự, ông bèn nhất định cùng bọn Lư, Hoàng một còn một mất; cho vợ con về quê-quán, chỉ đem
https://thuviensach.vn
một gia-đinh là Mai-Bạch đi theo .Khi sắp lai kinh, ông dặn dò phu-nhân, công-tử, các nha-lại và yên-ủi dân hạt Lịch-thành rất là cảm-động.
Mai-Công Ngộ Hai
Về đến Kinh, sau khi bệ kiến, ông qua Tướng-phủ định vào chào, nhưng quan hầu đòi lễ trình, ông giận mắng, trở về, không vào nữa. Cách mấy bữa Lư-Kỷ mở tiệc thọ sáu mươi, bất đắc dĩ ông phải đến mừng, nhưng lễ mừng chỉ có vài cân miến, mấy cây sáp; lúc tiếp chuyện, ông có ý chỉ-trích mạt sát, Lư Kỷ căm-tức, lập tâm hãm hại. Nhân có giặc Thát phạm cõi, Lư Kỷ mật tâu vu cho Mai-công giao-thông với giặc. Vua Đường truyền đem chém, Lư Kỷ xin đợi cho rõ tang chứng. Rồi một buổi triều, Lư tâu xin cử Phùng Lạc Thiên và Trần Đông Sơ là hai bạn của Mai Công đi đánh giặc Thát. Ông khải tâu hai văn-thần không quen việc binh, vả giặc Thát không cần phải đánh, chỉ đem thóc kho phát cho dân đói và chém đầu hai gã Lư, Hoàng, để trừ kẻ gian thần làm lầm việc nước, khắc là giặc Thát qui hàng. Vì đã tin lời Lư Kỷ tâu lót trước vua Đường nổi giận, cho là Mai-công vì giặc hoãn binh, bèn truyền đem hành hình và cách chức họ Trần, họ Phùng; lại ra mật lệnh truy nã cả nhà họ Mai, đều là do thủ-đoạn thâm độc của Lư Kỷ.
Mai Phu Nhân cùng Công-Tử lánh nạn
Sau khi Mai-công đã bị hành hình, gia đinh là Mai Bạch trốn về báo tin, chẳng may giữa đường mắc bệnh chết. Nhờ có Đồ Thân phi báo, Mai phu nhân cùng công tử trốn thoát. Phu-nhân có em ruột làm quan ở Sơn-đông, liền đến nương náu. Còn công-tử Mai Lương Ngọc thì cùng đầy-tớ là Vương Hỉ Đồng định đến lánh nạn ở nhà bố vợ chưa cưới là Hầu Loan, đương làm tri-huyện Nghi-trưng. Muốn thử bụng họ Hầu, Hỉ Đồng mặc giả làm Mai-sinh, vào kể tình đầu. Hầu Loan trở mặt sai bắt, đợi giải nộp để lấy công. Đã bọc sẵn gói thuốc độc, Hỉ Đồng tự tử thay Mai-sinh; chàng lẻn đắp mả Hỉ Đồng rồi lánh đi, vơ-vẩn đến một cảnh chùa, nghĩ thấy cực thân,
https://thuviensach.vn
liền tự-ải trên cành cây; may có nhà sư cứu sống, nuôi cho ở chùa, giúp việc trồng cảnh vun hoa.
Hoa mai nở hai lần
Trong khi ở chùa Mai-sinh nhận tên là Hỉ Đồng. Một hôm Trần Đông Sơ, chính là em nhà sư, sang chơi chùa, thấy vườn cảnh của nhà chùa tươi đẹp, bèn xin nhà sư đem Mai-sinh về làm vườn. Hôm giỗ đầu Mai-công, Trần công nhớ thương bạn cũ, sửa lễ cúng ở ngoài vườn, khấn thầm: nếu họ Mai còn có dòng-dõi nên người thì hoa mai nở bội thường. Không ngờ đêm ấy mưa to gió lớn, hoa mai rụng hết. Trần-công chán-nản cuộc đời, định theo anh xuất gia đầu phật. Con gái là Hạnh Nguyên can không được, nàng xin cầu-khấn cho hoa mai nở hai lần. Ba hôm sau, hoa mai lại nở, so với lần trước có phần mỹ-mãn hơn. Trần-công mừng, truyền làm tiệc thưởng mai vịnh thơ. Bỗng thấy trên vách hoa-đình đã có thơ đề, hỏi ra thì là của Hỉ Đồng, mọi người cứ theo đó họa vần; từ đấy Hỉ Đồng được biệt đãi. Sau vì có sự tò mò của một đứa ở gái, mới rõ Hỉ Đồng chính là Mai công-tử. Ông bà Trần Đông Sơ bàn nhau gả Hạnh Nguyên cho Mai Lương Ngọc, nhưng còn giữ kín, " bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày ".
Nhà họ Trần tan nát
Trần công tuy đã bị cách quan, Lư Kỷ vẫn còn căm ghét, vì là phe trung trực. Bấy giờ có nước Sa-đà động binh, Lư tâu bắt con gái Trần-công là Hạnh Nguyên đi cống. Đi đến Lạc-nhạn-đài, Hạnh Nguyên gieo mình tự tận, trôi giạt vào nhà Châu Bá Phù, được nhận làm con gái nuôi, cùng ở với Châu tiểu-thư làVân Anh. Về phần Trần-công, sau khi Hạnh Nguyên đi cống Hồ, thì ông bị bắt giam, lại bị truy-nã cả gia-quyến. Mai-sinh cùng Xuân-sinh, con trai Trần-công, đi tiễn Hạnh Nguyên, được tin chạy trốn, giữa đường gặp cướp, hai người lạc nhau.
Cuộc gặp gỡ của Mai-Sinh, Xuân-Sinh
Mai-sinh bị cướp bóc lột, ngồi ở bờ sông, bỗng có quan thuyền trẩy qua bị bắt xuống xét hỏi. Thì ra là Phục Lạc Thiên về Kinh phục chức. Mai-sinh
https://thuviensach.vn
không dám nói thực, liền khai tên là Mục Vinh. Sau được Phùng-công đề cử theo giúp việc quan Tuần-án Hà-nam là Châu Bá Phù. Châu thấy Mục Vinh có tài văn-chương, mới cho chàng về quê học-tập để đi thi, viết thư kín cho phu-nhân, định sẽ gả Vân-Anh cho chàng. Nhân thế Mai-sinh được gặp Hạnh Nguyên ở nhà họ Châu, mới xảy ra những chuyện mất thoa và ốm tương-tư rắc-rối buồn cười. Còn Xuân-sinh, sau khi bị cướp, lạc bạn lẻ loi, đã liều đâm đầu xuống sông tự tận. Nhờ được Ngư-bà cứu đem về nuôi và hứa gả con gái là Ngọc Thư. Sau bỗng vì sự kiện-cáo, tình-cờ gặp Khâu Đề-đốc - mới mạo tên là Khâu Khôi - lại đính hôn với Khâu tiểu-thư Vân Tiên.
Lư, Hoàng phải tội; Mai, Trần hiển vinh
Hai người đi thi, Mục Vinh tức Mai sinh đỗ Trạng-nguyên, Khâu Khôi tức Xuân-sinh đỗ Bảng-nhãn. Lư Kỷ ép gả con gái cho Khâu Khôi, chàng từ chối đã có vợ không chịu lấy; Lư Kỷ giận bắt bỏ ngục, định sẽ vu tấu để tội. Tin ấy làm cho các cống-sỹ khích-phẫn, họp nhau cứu Bảng-nhãn. Nhân buổi sáng sớm, Lư Kỷ, Hoàng Tung vào chầu, chúng đón ngang đường đánh xé. Khi được triệu vào đối chất, bọn cống sỹ tâu rõ sự lộng quyền ức-hiếp của Lư, Hoàng. Vua Đường giao tòa Tam-pháp xét xử. Kết cuộc hai gian-thần bị xử chém, Trần Đông Sơ được tha ra khỏi ngục và được thăng trật. Mục Vinh, Khâu Khôi được phục họ tên và ban chức.
Mai-sinh được đi tuần thú thay vua, nhân tiện rước linh-cữu, đón mẫu-thân, viếng mả Hỉ Đồng, cất Đồ Thân lên chức Huyện-quan, trị tội Hầu Loan, cách chức Sử-công là phe đảng gian-thần. Báo ân báo oán xong, mới làm lễ thành hôn với Hạnh Nguyên và Vân Anh. Xuân-sinh cũng làm lễ thành-hôn cùng Vân Tiên và Ngọc Thư, hai nhà sum-họp trúc mai, càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông!
Trong 7 hồi trên này, có thể chia làm 64 đoạn:
1/- Mở đầu.
2/- Mai bá Cao cùng con: Lương Ngọc.
3/- Thăng quan lai Kinh, Mai-công dặn vợ con.
4/- Mai-công dặn nha-lại.
https://thuviensach.vn
5/- Tình-cảnh nhà họ Mai trước khi tương-biệt. 6/- Dân Lịch-thành ái-mộ Mai-công.
7/- Kẻ ở người đi.
8/- Phong-cảnh dọc đường, từ Lịch-thành đến Kinh-sư. 9/- Quang cảnh nơi kinh-đô.
10/- Mai-công vào chầu và qua tướng-phủ.
11/- Mai-công đến thăm Phùng Đô-sát.
12/- Mai-công đến mừng tiệc thọ Lư Kỷ.
13/- Lư Kỷ hãm-hại Mai-công.
14/- Gia-quyến nhà họ Mai lánh nạn.
15/- Nông-nỗi Mai-sinh trong khi lánh nạn.
16/- Mai-sinh tự ải, được nhà sư cứu sống.
17/- Cuộc gặp-gỡ giữa Mai-sinh với họ Trần. 18/- Cảm tưởng của Mai-sinh trong khi ở Trần-phủ. 19/- Mối tình của Mai-sinh khi trông thấy Hạnh-nguyên. 20/- Thăm vườn mai, Trần-công nhớ bạn.
21/- Mai hai độ nở.
22/- Bị lộ chân-tướng, Mai-sinh thú thực.
23/- Trần-công bàn gả Hạnh Nguyên cho Mai-sinh. 24/- Trước khi đi cống Hồ, Hạnh Nguyên từ-giã gia-quyến. 25/- Mai-sinh và Xuân-sinh đi tiễn Hạnh Nguyên. 26/- Hạnh Nguyên cùng Mai-sinh tự tình trên trùng đài. 27/- Hạnh Nguyên cải trang.
28/- Lúc chia rẽ mỗi người mỗi ngả.
29/- Hạnh Nguyên yết đền Tô Vũ.
30/- Hạnh Nguyên yết miếu Chiêu Quân.
31/- Đến Lạc-nhạn-đài, Hạnh Nguyên gieo mình. 32/- Hạnh Nguyên được đưa về nhà Châu Bá Phù. 33/- Hạnh Nguyên trần tình với Châu phu-nhân. 34/- Cùng đi lánh nạn, Mai-sinh và Xuân-sinh lạc nhau. 35/- Mai-sinh gặp Phùng-Lạc-Thiên.
36/- Mang tên Mục-Vinh, Mai-sinh về giúp Châu Bá Phù.
https://thuviensach.vn
37/- Tình cảnh Xuân-sinh sau khi lạc bạn.
38/- Xuân-sinh được ngư-bà cứu sống.
39/- Ngư-bà hứa gả con gái nuôi cho Xuân-sinh. 40/- Cướp gái đẹp, Giang-Khôi bị phạt.
41/- Xuân-sinh gặp-gỡ Khâu Đề-đốc,
42/- Tình cảnh Mục-Vinh khi về ở Châu-phủ.
43/- Mai-sinh tưởng nhớ Hạnh-Nguyên.
44/- Hạnh-Nguyên tưởng nhớ Mai-sinh.
45/- Trong khi ốm nặng, hai người cùng dặn Châu phu-nhân. 46/- Sau khi rõ tình, hai người cùng khỏi bệnh. 47/- Mai-sinh và Hạnh-Nguyên nhận nhau ở Châu-phủ. 48/- Châu-công về thăm nhà, bàn gả Vân-Anh cho Mai-sinh. 49/- Mai-sinh đi thi đội tên Mục-Vinh.
50/- Xuân-sinh đi thi đội tên Khâu-Khôi.
51/- Mục-Vinh đõ Trạng-nguyên, Khâu-Khôi đỗ Bảng-nhãn. 52/- Bảng-nhãn Khâu-Khôi bị Lư Kỷ ép gả con gái. 53/- Khâu-Khôi từ hôn bị bắt giam.
54/-Các cống-sỹ mưu cứu Khâu-Khôi.
55/- Lư Kỷ, Hoàng Tung bị đón đánh.
56/- Lư, Hoàng bị giao Tam-pháp xét.
57/- Lư, Hoàng bị chính-pháp bêu đầu.
58/- Trần Đông Sơ được tha ra khỏi Thiên-lao. 59/- Mai Trạng-nguyên được ân ban.
60/- Mai Trạng-nguyên báo ân báo oán.
61/- Sau khi đi tuần thú, Trạng-nguyên trở về Kinh. 62/- Hai đám cưới long-trọng.
63/- Hạnh-phúc gia-đình của họ Mai, họ Trần. 64/- Tổng-kết.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 1
1.- Mở đầu (câu 1 - câu 16)
Hóa-nhi thăm-thẳm nghìn trùng,
Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây.
Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,
Xem cơ báo-ứng biết tay trời già.
Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa,
Chớ đem nông-nỗi mà ngờ cao xanh.
Trời nào phụ kẻ trung-trinh,
Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
10.- Để gương trong sách, tạc bia dưới đời.
Gian-tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn giấulưới trời khôn dung.
Uy-quyền một chút như không,
Xem bằng lửa đá ví cùng đám mây.
Thanh-nhàn khi tựa hiên tây,
Vui lòng đèn sách, nghỉ tay văn bài.
2.- Mai Bá Cao cùng con: Lương-Ngọc (câu 17 - câu 56)
https://thuviensach.vn
Truyện ngoài xem "Nhị Độ Mai ",
Nhà Đường truyền vị đến đời Đức-tông. Thường-châu có kẻ thanh-trung,
20.- Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai. Nền trung-trực dạ trang-đài.
Trời cho văn-tử đáng tài trạng-nguyên. Đặt tên Lương-Ngọc dõi truyền,
Thông-minh rất mực, phượng tiên trong đời. Nhân-duyên số sẵn tự trời,
Hôn-nhân đã định vào nơi họ Hầu.
Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,
Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh. Mai công tri-huyện Lịch-thành,
30.- Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng. Cầm-đường ngày tháng thung-dung,
Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.
Bấy lâu Lư Kỷ tướng-công,
Tuy quyền-tước lớn, mà phong độ hèn. Túi tham của đút chật lèn,
Dung bên gian-đảng, ghét bên hiền tài. Mai-công mấy độ quan ngoài,
Bạn-bè nhờ có mấy người đồng niên.
Trong triều hết sức giữ-gìn,
40.- Kẻ ngôi Thiêm-sự, người quyền Thượng-thư. Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,
Kẻ toà Đô-sát, người toà Hàn-lâm.
Chu toàn đã ngoại mười năm,
Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng.
https://thuviensach.vn
Một ngày huyện vụ vừa xong,
Vào trong ông mới ngỏ cùng phu-nhân.
Rằng : "Ta vốn kẻ trung-thần,
"Trên vì nước, dưới vì dân mới là!
"Ví dù theo thói người ta,
50.- "Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời.
"Lọ là cầu-cạnh chi ai,
"Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền-viên.
"Con ta trạc tuổi thanh niên,
"Có gương khoa giáp, có nền đỉnh-chung.
"Sao cho giữ được chữ trung,
"Mới là hiếu-tử nối dòng thư-hương."
3.- Thăng quan lai kinh; Mai Công dặn vợ con (câu 57 - câu 108)
Những là vui chuyện nội đường,
Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin:
Mai-công phụng chỉ thăng thuyên.
60.- Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần.
Triều ban dự bậc quan thân,
Lại khoa cấp-sự giữ phần gián quan.
Tin đâu khêu tấm trung-can.
Một hai quyết phải trừ gian phen này.
Truyền làm tiệc rượu vui-vầy,
Dặn-dò gia sự đinh ngày khởi thân.
Tàng tàng chén cúc vài tuần,
Đòi công-tử với phu-nhân dạy lời:
https://thuviensach.vn
Rằng: " Bấy lâu những ở ngoài,
70.- "Dạ này tấm-tức với người quyền gian. "Rày vâng Đài-gián thăng quan,
"Phen này ta quyết cả gan phen này. "Bấy giờ một giở, một hay,
"Họp nhau nào biết có ngày nữa thôi? "Cũng đừng bịn rịn lôi-thôi,
"Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà. "Điền-viên vui thú nông gia,
"Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!
"Ví dù giải kết có tin,
80.- "Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân. "Chờ cho thiên-địa xoay vần,
"Sẽ toan-tính với thù-nhân sau này. "May mà vua chứng lòng ngay,
"Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh. "Bấy giờ phu quý, phụ vinh,
"Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa." Tân bằng mừng rỡ chật nhà,
Tiếp thù ông bận những là hàn-ôn. Phu-nhân nửa lệ nửa buồn,
90.- Đòi công-tử đến, mẹ con bàng-hoàn. Rằng: "Nghe bố con bàn,
"Phen này quyết với quyền gian đối đầu. "Sẻ đàn, phượng một, chắc đâu,
"Cái lo này để về sau tày trời."
Nghe rồi công-tử thưa lời:
"Thế rằng cái đạo làm tôi mới là.
"Nhà huyên xin chớ lo xa,
"Hễ trời có mắt thì ta lệ gì ?
"Hãy cho vẹn tấm trung-nghì,
100.- "Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời."
https://thuviensach.vn
Ông vừa xong việc khách ngoài,
Bưóc vào trong, bông nghe lời con thưa. Vuốt râu cười nói lui ra,
Khen rằng: " Ấy thực đại-gia con nòi! "Trẻ thơ biết đạo làm tôi,
"Gương trung-hiếu, lấy một lời mà suy. "Mới hay hổ phụ, lân nhi,
"Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.
4.- Mai-Công dặn nha lại (câu 109 - câu 126)
Nói rồi truyền gọi lại nha,
110.- Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần: "Làm người biết đạo tu thân,
"Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu. "Tiếng thanh bạch để về sau,
"Dẫu rằng uống nước, ăn rau chớ nài. "Việc văn án phải quan-hoài,
"Một câu nặng nhẹ, mấy người oan-khiên. "Khuyên đừng đổi trắng thay đen,
"Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng. "Giữ-gìn đôi chữ hiếu-trung.
120.- "Sao cho không hổ với trong cao dày. "Ta đây vả tiếng quan thầy,
"Giã nhau một chút niềm tây gọi là. "Rồi đây một bước một xa,
"Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!"
https://thuviensach.vn
Dạy rồi ai nấy gật đầu,
Rằng: "Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng."
5.- Tình cảnh nhà họ Mai trước khi tương biệt (câu 127 - câu 194)
Trù-phòng dọn dẹp vừa xong,
Một công-tử với hai ông bà ngồi.
Dặt-dìu sẽ rót chén mồi,
130.- Nghìn câu trân-trọng trăm lời biệt ly.
Người trằn-trọc nỗi về quê,
Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ-gìn.
Người khuyên cẩn-thận sớ tiên,
Kẻ răn nhắc nhỏm sách-đèn sớm khuya.
Lôi thôi giở nỗi lâm-kỳ,
Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình.
Phu-nhân hỏi: "Buôi đăng Kinh,
"Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông ?"
Mai-công rằng: " Lọ chi đông,
140.- "Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà.
"Gọi là làm bạn đường xa,
"Gọi là ngày gió ngày mưa theo hầu."Chú thích:
Hóa-nhi: hóa;tạo-hóa, nhi: trẻ-con. Tạo-hóa oái-oăm nên gọi-trẻ tạo- cũng như tạo-hóa khôn-khéo nên gọi hóa công- thợ tạo.
Tuần-hoàn: quanh-quẩn lẽ tự-nhiên của tạo-hóa.
cao xanh: trỏ vào trời, do chữ hạo thiên và thượng thiên.
https://thuviensach.vn
Mắt thần khôn giấu: cũng như nói thiên nhỡn phi giao- mắt trời chẳng xa. lưới trời khôn dung.:bởi câu: "thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu" . Lưới trời lồng-lộng thưa đấy nhưng chẳng để lọt.
Đức-tông: vua thứ 9 đời nhà Đường, khoảng năm 780-805. Thường-châu: nay là huyện Vũ-tiến thuộc tỉnh Giang-tô bên Tàu. họ Mai: Mai Bá Cao : vai chính trong truyện này.
văn-tử: bởi chữ văn-tử văn-tôn, nói về con cháu vua Văn-Vương, con cháu giỏi. Có bản chép "văn-tướng".
Lương-Ngọc: tên tự của Mai Bích, con trai Mai Bá cao.Trong khi lánh nạn, khi đội tên Vương Hỉ Đồng, khi mạo tên Mục vinh . Trong truyện chỗ chép Mai công-tử, chỗ chép Mai-sinh, đều là Mai Lương Ngọc. [Back to the top]
họ Hầu: một họ ở bên Tàu
ngoại lỵ: làm quan ở ngoài
lễ nhạn: do chữ nhạn tệ lễ cưới (sinh lễ)
thiếp canh: do chữ canh thiếp, cái thiếp biên tên tuổi người con gái, của nhà gái trao cho nhà trai để đính hôn.
Lịch-thành: một huyện thuộc phủ Tế-nam tỉnh Sơn-đông bên Tàu. Cầm-đường: nhà gảy đàn Bật Tử Tiện làm quan Huyện-lệnh huyện Đan phủ, chỉ ngồi gảy đàn mà công việc vẫn đâu ra đấy, nhân thế người ta gọi dinh quan Huyện là Cầm-đường
đồng niên: bạn cùng đỗ một khoa.
Thiêm-sự, Thượng-thư: đều là chức quan văn
Đảng Tiến, Đông Sơ: hai bạn của Mai-công
Đô-sát, Hàn-lâm: đô-sát coi việc xét xử ngục tụng. Hàn-lâm coi việc văn từ.
[Back to the top]
huyện vụ: công việc quan trong huyện.
lăng miếu, điền-viên: Lăng-miếu: nơi triều-đình, trỏ lúc làm quan tại triều . Điền viên : nơi ruộng vườn, trỏ lúc lui về thôn quê.
https://thuviensach.vn
thanh niên:t uổi xanh lúc trai trẻ.
khoa giáp, đỉnh-chung:Khoa : khoa mục; giáp : giáp đệ trỏ về sự thi đỗ. Đỉnh : cái vạc ; chung : cái chuông, nấu ăn bằng vạc và gọi kẻ hầu tiệc bằng chuông, trỏ về nhà quan quí, do câu : chung minh đỉnh thực chi gia. thư-hương: mùi thơm của sách vở, trỏ về con nhà nho.
nội đường: nhà trong , tư thất.
phụng chỉ thăng thuyên: vâng chiếu-chỉ cho thăng chức và chuyển bổ đi nơi khác.
Triều ban: hàng bậc trong triều.
Lại khoa cấp-sự:l à một chức gián quan, coi việc can-ngăn vua, nếu làm sự gì không phải.
trung-can: gan người trung-trực.
[Back to the top]
gia sự: việc riêng trong gia-đình.
khởi thân: cất mình ra đi.
Đài-gián: tức là chức quan.
giải kết: chữ nhà Phật "giải-kếi, giải-kết, giải oan kết", ý nói oan-gia nên giải không nên kết. Chữ giải kết trong này ám-chỉ về sự chẳng may. thù-nhân: kẻ thù.
Tân bằng: khách và bạn
hàn-ôn: rét, ấm, nói bóng về sự chuyện-trò của câu sốt câu nguội Nhà huyên: huyên :một thứ cỏ, tục quen dùng để ví với người mẹ, cũng như xuân hay thung, một thứ cây quen dùng ví với người cha. Vinh, khô, đắc, táng: vinh: tươi; khô:héo; đắc:được; táng:mất, ý nói tươi hay khô héo, được hay mất, chỉ là sự ngẫu-nhiên chứ không quan hệ đến cuộc đời.
hổ phụ, lân nhi: cha như con hổ, con như con lân, ý nói nòi nào giống ấy cũng như câu tục-ngữ "cha nào con ấy".
[Back to the top]
thanh bạch: trong-sạch.
https://thuviensach.vn
uống nước, ăn rau:do chữ: phạn xơ tự ẩm thủy, ăn cơm rau, uống nước lã, ý nói cam phận nghèo.
cao dày:t rỏ trời đất, bởi chữ: thiên cao địa hậu : trời cao đất dày. Trù-phòng: nhà bếp.
sớ tiên: sớ tâu vua.
lâm-kỳ: sắp đến chỗ rẽ (ngã ba đường)
đăng Kinh: lên kinh đô.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 2
6.- Dân Lịch-thành ái-mộ Mai-Công (câu 143 - câu 194)
Còn đương trò-chuyện trước sau,
Xôn-xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.
Gót giày ông mới động chân,
Trông ra đã chật một sân những người.
Bẩm rằng: " Dân sự chúng tôi,
"Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa.
"Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
150.- "Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh. "Bao nhiêu lại tệ dân tình,
"Đuốc soi chẳng chút đỉnh-đinh dám lòa.
"Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
"Đọc ca mạch-tuệ ngâm thơ cam-đường.
"Bấm tay mười mấy năm trường,
"Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành. "Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
"Thỏa lòng hồ-thỉ phỉ tình đai cân.
"Thênh-thênh nhẹ bước thanh vân,
160.- "Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng. "Nghĩ cho chút phận tầm thường,
"Đạo con cái được tựa-nương bấy chầy.
"Chỉn e tiếp lỵ sau này,
https://thuviensach.vn
"Lòng thương cân được như rày mấy phân ? "Bấy giờ lễ cách quan dân,
"Tưởng công-đức trước, lại năn nỉ nhiều. "Lòng thành nay quyết xin theo,
"Làm đơn ái-mộ dâng liều một chương. "Hoạ là vua nặng lòng thương,
170.- "Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân." Ông rằng : "Vẫn biết lòng dân,
"Lời trung-hậu ấy, tình thân-ái này.
"Ta làm Huyện-tể bấy nay,
"Có chi công-đức đáng rày truy-tư?
"Phương chi thế-sự bây giờ,
"Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian.
"Họ Lư cưu dạ tham tàn,
"Rình như miếng mộc, những toan hại người. "Phỏng mà nghe đặng như lời,
180.-Hẳn là mua chuộc lòng người tại ta. "Miệng sàm dệt gấm thêu hoa,
"Công nào chưa thấy tội đà đến ngay.
"Lại càng mang tiếng chẳng hay,
"Yêu đây để xấu cho đây ích gì?"
Dân nghe biết ý quyết đi,
Lui ra, còn dám nằn-nì nữa đâu?
Một đoàn kẻ trước, người sau,
Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.
Lễ đâu đưa đến tức thì,
190.- Vạn dân-tản, vạn dân-y sãn sàng.
Thưa rằng: "Gọi chút lễ thường,
"Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài"
Ông xem thấy ý vật nài,
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.
https://thuviensach.vn
7.- Kẻ ở người đi (câu 195 - câu 254)
Phu-nhân công-tử xuống thoàn,
Mai-công ở lại đợi còn bàn giao.
Ngại-ngùng thay, lúc phân-bào !
Kẻ về tụ-lý người vào ngọc-kinh.
Cho hay là kẻ trung-trinh,
200.- Nặng lòng vương-sự, nhẹ tình gia-mang.
Mặc ai châu lệ hai hàng,
Gác tình nhi nữ xem thường như không.
Vài ngày huyện-vụ giao xong,
Ra thành lên kiệu thẳng giong nhật trình.
Huyện dân chực sẵn tiễn-hành.
Hương-đăng bày án, tràng đình dọn nơi.
Đón đưa khắp mặt thiếu ai,
Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.
Người dường ra ý ân-cần.
210.- Ông thì thủng-thẳng có phần xem khinh.
8.- Phong-cảnh dọc đường, từ Lịch-thành đến Kinh-sư (câu 57 - câu 108)
https://thuviensach.vn
Giã nhau mười dặm tràng-đình.
Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng. Nước non đưa đón người trung,
Suối tuôn giòng chảy, núi chồng lớp cao. Nhởn-nhơ cỏ đón hoa chào,
Hang men móc vượn, cây xào-xạc chim. Tấc gang kinh-quốc chờ xem,
Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đổ cờ. Kià chài sớm, nọ cày trưa,
Gió gần giọng địch (mục), mây xa tiếng tiều. Quê người phong cảnh đìu hiu.
Trăng thanh gió mát dường chiều chuông ai ! Những màng giong-ruổi dặm dài,
Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa. Hỏi ra mới biết rằng là:
Trong kinh, Lại-bộ sai nha đón mình. Hoàng hôn gác bóng chênh-chênh, Truyền tìm quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi. Bốn người tức khắc vâng lời,
230.- Trước đi tìm chốn thảnh-thơi đón mời. Tuy rằng quán khách hẹp-hòi,
Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh. Thung-dung hỏi chuyện trong Kinh: Lư, Hoàng lũ ấy tung-hoành ra sao ?" Thưa rằng: "Chức trọng quyền cao, "Triều-quan quá nửa ra vào làm tôi. "Ai ai khóa miệng bịt hơi,
"Ngang vua phú-qúi, nghiêng trời uy-linh. "Đại-gia rày ở quan Kinh,
240.- "Theo đòi nhiều ít, thế tình là xong." Mai-công nổi giận đùng đùng,
https://thuviensach.vn
Rằng: "Phen này quyết chẳng dung loài hồ. Vào đây ta sẽ hay cho,
"Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng ! "Mặt nào bắt-chước thế thường,
"Thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày." Gan càng tức, ruột càng đầy,
Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình. Sáng mai thức dậy trông quanh,
250.- Treo trên thấy có bực tranh Di, Tề. Như khêu tấm dạ trung-nghì,
Dạy đem nghiên-bút thơ đề mấy câu.
Than rằng: "Thanh ứng khí cầu.
"Người kim cổ, bụng trước sau một đường." 9.- Quang cảnh nơi kinh-đô (câu 255 - câu 264)
Lại truyền giục kiệu lên đường,
Trông kinh-quốc đã tấc gang đó rồi.
Một vùng riêng đặt phỵ trời,
Hoàng-thành trăm trắm, kỉ-đài cao cao. Cõi người nước nhượcnguồn đào,
260.- Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa. Chập-chồng vách gấm tường hoa,
Cửa lầu ngũ-phượng, thềm nhà lượng long. Bách quan đóng chặt sân phong.
https://thuviensach.vn
Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai,
10.- Mai-công vào chầu và qua tướng-phủ (câu 265 - câu 300)
Tìm vào Lại-bộ tới nơi,
Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.
Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,
Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.
Lạy rồi ren-rén tâu lên,
270.- Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.
Tiếng trời đưa lại bệ rồng:
"Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung.
"Sau cho sắt đá một lòng,
"Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê."
Tâu rằng: "Hổ phận ngu-si,
"Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông."
Tan triều lệnh ngự vào trong,
Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.
Mai-công toan trở lại nhà,
280.- Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.
Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,
Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.
Ông bèn giả cách vô tri,
Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.
Môn quan trông thấy thét dồn,
https://thuviensach.vn
Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.
Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,
"Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày.
"Buổi chầu nhân tiện sang đây,
290.- Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường."
Môn-quan rằng lệ phủ-đường,
"Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.
"Có thì sẽ bẩm cho vào,
"Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa."
Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,
"ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui ?
"Ta đây vốn chẳng cần chi,
"Vào thì cũng được, ra thì cũng nên !"
Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,
300.- Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
Chú thích:
trọng lỵ: tiếng nói tôn cũng như trọng nhâm
phật sinh: bởi chữ: Nhất lộ phúc tinh và vạn gia sinh Phật. lại tệ dân tình: Tình tệ nha lại và dân chúng
mạch tuệ: Đời Hán, Trương Kham làm Thái-thú quận Ngư-dương, khuyên dân chăm-chỉ cấy lúa trồng dâu, dân được no ấm, có câu ca tụng rằng: "tang vô phụ chi, mạch-tuệ lưỡng kỳ", nghĩa là cây dâu không có cành phụ, bông lúa mạch có hai chẽ, ý nói dâu tươi lúa tốt.
cam đường: Đời Chu, Thiệu Bá đi tuần thú thay vua, thường nghỉ dưới gốc cây cam-đường xử kiện, dân có thơ khen rằng: "tế phế cam-đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt" nghĩa là rườm-rà cây cam-đường (phải chăng cây bàng) chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ-ngơi.
lai Kinh: lại kinh cũng như đăng kinh đã nói trên.
hồ thỉ: Hồ thỉ do chữ: tang hồ bồng thỉ, cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ
https://thuviensach.vn
bồng : ngày xưa nhà vua sinh con trai thì dùng hai thứ ấy treo ra cửa cung, nhân thế người ta mượn làm biểu-hiệu phái con trai chí ở bốn phương, như cung tên bắn tung khắp bốn phương trời.
đai cân: bởi chữ cân đới, trỏ về phái quan chức mũ cao áo dài. thanh vân: mây xanh, bước thanh-vân nói về công-danh bay nhảy. loan hoàng: câu này đại ý như câu chữ nho : "Chỉ cức phi loan phượng sở thê" nghĩa là khóm cây gai không phải chỗ đậu của loài chim loan-phụng, Nguyên Cừu Hương đời Hán, mới bổ chức Đình trưởng, có người đàn bà góa đến kiện đứa con ngỗ-nghịch là Trần Nguyên, Hương khuyên-bảo trở về, rồi thân đến nhà, đem nghĩa lý hiểu bảo, Trần Nguyên cảm-đông nghe theo, trở nên người con chí hiếu. Quan Huyện-lệnh là Vương Hoán khen ngợi cất lên làm Chủ-bạ và hỏi: " Nhà ngươi không trị tội Trần Nguyên, lại chịu khó đến khuyên bảo, chả cũng kém mất sự lập oai như giống chim cắt với đàn chim nhỏ hay sao ? Hương thưa: "Giữ kỳ làm chim cắt, sao bằng làm chim loan-phụng !" Vương Hán cười nói: "Vậy thì khóm cây gai (trỏ vào chức chủ bạ) không phải chỗ đậu của chim loan-phụng !" Bèn đem tiền lương tháng giúp cho Hương vào nhà Thái học, sau trở nên bậc đại tài. [Back to the top]
tiếp lỵ: người thay chân, kế tiếp nhận chức.
lễ cách quan dân: bởi câu tục ngữ : quan dân lễ cách.
ái mộ: yêu-mến
Khấu quân: Câu này do tích Khấu Tuân đời Đông Hán làm quan Thái-thú quận Dĩnh-xuyên, dựng nhà học-hiệu, đem văn-hóa dạy dân, sau Dĩnh xuyên có giặc, khấu Tuân đi tòng-chinh, lúc khải hoàn, Trăm họ đón đường kêu xin để Khấu lưu nhậm một năm nữa. Vua Quang Vũ thấy dân tình Trường xã, Dĩnh-xuyên như thế cũng ưng cho Khấu ở lại.
Huyện-tể: Chức chủ-tể trong một huyện, tức là Tri-huyện. Miệng sàm dệt gấm thêu hoa: Câu này bởi câu trong Kinh Thi: Thê hề phỉ hề,
thành thị bối cẩm,
bỉ trấm nhân giả,
https://thuviensach.vn
diệc dĩ thái thậm"
nghĩa là những thứ rau cỏ tạp nhạp có thể họp thành gấm vóc, những kẻ hay gièm-pha cũng đã quá lắm.
vạn dân tản, vạn dân y: Tản và áo của muôn dân- cũng như câu nói " bách gia chi sản", nghĩa là của chung mọi nhà- Đây là một lễ chung của dân huyện Lịch-thành đem tiễn Mai-công.
tạc dạ ghi xương: bởi chữ "minh tâm khắc cốt"
phân bào: chia vạt áo, nói về khi giã nhau mỗi người mỗi nơi. tử-lý: tử : cây tử (cây lộc vừng), lý: làng . Kinh Thi có câu "duy tang giữ tử, tất cung kính chỉ," : ví cây dâu với cây tử tự cha mẹ trồng, nên phải cung kính. Người ta nhân đó mới mượn chữ tang tử để trỏ về quê-hương. [Back to the top]
ngọc kinh: Kinh-đô nhà vua.
vương-sự: việc nhà vua, việc công.
gia mang: việc riêng bận rộn của tư gia, việc tư.
tràng đình: Mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, nghĩa là dừng chân . Cung ngắn (5 dặm) gọi là đoản-đình, cung dài (10 dặm) gọi là trường-đình.
hương thân: Người văn học trong làng, bậc văn thân địa-phương. kinh quốc: tức kinh-đô, kinh-sư nhà vua.
kià chài sớm nọ cày trưa , gió gần giọng địch, mây xa tiếng tiều.: câu này tả đủ bốn cảnh : Ngư (chài), canh (cày), mục ( giọng địch), tiều (tiếng tiều)
hoàng hôn: Hoàng là vàng, hôn là tối, lúc chiều hôm gần tối, mặt trời lặn còn sót một ánh vàng vàng, nên gọi là hoàng-hôn.
Lư, Hoàng: tức Lư-Kỷ, Hoàng Tung : hai tên gian-thần đối đầu với Mai công.
đại-gia: nghĩa đen là cha, tiếng gọi tôn những bậc quan-trưởng cũng như chữ tướng công hay đại nhân.
[Back to the top]
https://thuviensach.vn
thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày: Câu này đại ý cũng như câu chữ nho: " Hôn dạ khất ái nhi, kiêu nhân bạch nhật"
trong bình: là tên bức bình phong, nơi ngăn phòng ngoài với phòng ngủ. Di, Tề: Bá Di, Thúc Tề là hai nghĩa-sĩ đời nhà Thương, Chu Vũ-Vương đánh vua Trụ - Vua nhà Thương- hai ông can không được, sau khi nhà Chu đã được nước, hai ông liền lên ẩn cư trên đỉnh núi Thú-dương, hái rau vi ăn thay cơm, dù đói chết cũng không ăn thóc của nhà Chu.
mấy câu: Thơ đề tranh Di, Tề nguyên văn chữ Hán:
"Côn trọng đương niên ngã Thú-dương,
Chí Kim lưu đắc tính danh hương,
Nhược giao liệt-sĩ như kim tại,
khởi nhẫn quần gian lập miếu đường,"
Ý nói bấy giờ hai anh em ông chết đói trên núi Thú-dương, mà vẫn còn để họ tên thơm tho đến bây giờ. Nếu ngày nay còn có liệt-sĩ như thế, há chịu để cho lũ gian thần đứng ở triều-đình.
Có người đã dịch:
Thủa xưa ở núi Thái hái rau Vi,
Muôn kiếp danh thơm, miệng ấy bi,
Ví khiến đời nay còn kẻ ấy,
Miếu-đường chi để lũ gian-phi.
thanh ứng khí cầu: nghĩa là cùng tiếng thì hưởng-ứng với nhau, cùng chí khí thì tìm nhau.
phủ trời: do chữ thiên-phủ, ý nói vững vàng như kho nhà trời. hoàng-thành: thành nhà vua.
kỳ-đài: cột cờ
nước nhược: bởi chữ nhược-thủy, nơi tiên ở.
nguồn đào: bởi chữ đào-nguyên : cõi tiên
ngũ phượng: lầu đắp năm chim phượng.
lưỡng long: thềm xây hình hai con rồng.
[Back to the top]
https://thuviensach.vn
sân phong: sân nhà vua. Cung-điện đời Hán hay trồng cây phong- một thứ cây có lá xanh- nên người ta quen gọi sân nhà vua là phong đình. Lại bộ: bộ coi việc tuyển bổ quan-lại, một bộ đứng đầu 6 bộ trong quan chức của một Triều-đình.
cửu trùng: Vạn tuế : muôn năm, lời chúc vua. Cửu-trùng : chín tầng, quan tước triều-đình chia làm 9 bậc (phẩm cấp), trên chín bậc tức là vua, nên quan gọi vua là cửu-trùng.
tiếng trời, bệ rồng: tiếng trời do chữ thiên ngữ, bệ rồng do chữ long bệ đều là những tiếng tôn nhà vua.
gián viện: dinh của ông quan coi việc can vua.
vảy rồng: bởi chữ phê nghịch lân, nghĩa là vuốt ngược vảy rồng . Hàn Phi truyện : Rồng là vật có thể vuốt-ve cho quen mà cỡi được, nhưng dưới cổ có cái vảy ngược, nếu động chạm phải sẽ chết với nó. Ông vua cũng có cái vảy ngược như thế, mấy người đã dám vuốt. Nên ai can vua thì gọi là vuốt ngược vảy rồng.
khuyển mã: chó, ngựa : hai giống vật có nghĩa, mến chủ. bể sông: do chữ hải hà . Nói bóng về sự rộng lượng.
hạ mã: xuống ngựa . Nơi đình-miếu hay dinh-thự nào tôn-nghiêm, thường có bia đá khắc chữ " hạ mã" dựng ở ngoài, để cho khách đi ngựa hay xe biết mà xuống, cho được tỏ lòng cung-kính.
Môn quan: quan coi cửa.
quốc-pháp, phủ qui: quốc-pháp : Phép của nước . Phủ-qui : lệ riêng của tướng-phủ.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 3
11.- Mai-công đến thăm Phùng Đô-sát (câu 301 - câu 336)
Kíp truyền quân kiệu tháo lui,
Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.
Phùng công ra đón rước liền,
Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.
Sự tình kể-lể lôi thôi,
Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.
Xiết bao trò-chuyện tri âm,
Khói hương cao thấp, chén chầm đầy vơi.
Mai-công rằng lúc mới rồi,
310.- "Tức gan mà lại nực cười lắm sao."
Kể từ tướng-phủ mới vào,
Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,
Miệng đường lại, mặt môn-quan,
Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.
Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,
Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.
Chư công rằng: " Hãy kín hơi,
"Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ.
"Rồi đây trời cũng có ta,
320.- "Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."
Ông rằng: "Như thế thảo nào,
https://thuviensach.vn
"Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru !
"Như bây giờ việc nên lo,
"Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu.
"Tôi đà tính trước nghĩ sau,
"Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư ?
"Thôi đừng sợ oán sợ thù,
"Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi.
"Việc này giao một mình tôi,
330.- "Để mà xem Kỷ với Mai thế nào !
Ví bằng giải kết làm sao,
"Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh.
"Già này dù thác cũng vinh,
"Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười."
Thoắt thôi từ tạ mấy người,
Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
12.- Mai-công dến mừng tiệc thọ Lư Kỷ (câu 337 - câu 410)
Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,
Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.
Định ngày vui mở tiệc xuân,
340.- Vua cho lễ-vật nội thầnđem ban.
Lại truyền văn võ bá quan,
Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.
Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,
Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.
Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
https://thuviensach.vn
Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa, Dập-dìu chốn vũ nơi ca,
Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.
Chong giá nến, quạt lò trầm,
358.- Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng. Võng đầy cửa ngựa chen đàng,
Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra. Bày phô chén ngọc đũa ngà,
Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.
Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,
Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng. Mai-công lễ vật tầm thường,
Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi. Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,
360.- Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình. Tướng công ngồi trước thọ bình,
Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào. Tứ bề trướng gấm màn đào,
Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung. Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,
Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời: "Ít nhiều có lễ thì thôi,
"Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi. "Tay này là bậc đại tài,
370.- Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà." Cứ lời Tung mới bước ra,
Chào rằng: "Vâng mệnh ân-gia mời ngồi. "Lễ đơn đây đã thu rồi,
"Dám xin vài chén tiệc vui gọi là !"
Mai-công rằng: "Những ở xa,
"Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu ?" Tung rằng tuổi cũng chưa nhiều,
https://thuviensach.vn
"Năm mươi-tư tuổi gần theo cõi già." Ông rằng: "Thực cũng khéo là,
380.- "Thế mà nghĩa-phụ thế mà ân-nhi. "Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,
"Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn ? "Mới hay vượng-khí tướng-môn , "Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng." Tung nghe ra giọng đâm hông,
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông. Các quan biết ý Hoàng Tung,
Giả điều mời rượu Mai-công ép nài. Ông rằng: " Lượng rượu kém ai,
390.- "Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say. "Nghe hơi tử-khí đâu đây,
"Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng. "Đến đây vâng mệnh Thánh-hoàng, "Sá vui kèo rót với tuồng quyền-gian." Hoàng Tung đỏ mặt sốt gan,
Bất thình-lình bỗng trong bàn mất vui. Như mèo tiu-nguỷu mất tai,
Chẳng thu một lễ chẳng mời một ai. Vào trong tức tối một hơi,
400.-Bên màn Lư Kỷ, kê ngồi nỉ-non. Nhỏ to chua cái chua con:
"Hôm xưa kiệu đến nghi-môn còn ngồi. "Mới rồi đưa lễ giễu chơi,
"Đã câu rủa mát, lại lời đưa chênh. "Gần chùa gọi bụt là anh,
"Không văn-pháp nữa, còn danh-giá gì" Lư rằng: "Con chớ lo chi,
"Ra tay, rồi sẽ liệu bề bẻ mai.
"Cho vào bạn đảngthì thôi,
https://thuviensach.vn
410.- "Bấy giờ dẫu nghĩ kêu trời cũng xa !" 13.- Lư Kỷ hãm-hại Mai-công (câu 411 - câu 474)
Bè gian đang sắp mưu lừa,
Bỗng đâu nội-giám đã ra truyền đòi.
Liền tay thảo sớ một bài,
Theo chân nội-giám vào nơi đền vàng.
Vua Đường rằng: "Buổi thong-dong,
"Hứng vui nên triệu tướng-công hầu cờ." Bàn son bày sẵn quân ngà,
Lư-công có ý chịu thua hai bàn.
Đứng tâu trước mặt long-nhan,
420.- "Lòng lo việc nước, nào toan việc cờ. "Ai hay những việc chẳng ngờ,
Lời biên-quan báo, thực là không sai.
Ong trong tay áo có người,
"Giao-thông giặc Thát toan bày nọ kia.
"Tâu lời nghe những ngô nghê..."
Một tờ đoản biểu tức thì giở ra.
Vua Đường cất lấy xem qua,
Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.
Truyền đem chính-pháp thị-tào,
430.- Lư-công xin để buộc vào có tang. Ghé tai tâu mật mọi đường:
"Xin làm như thế mới tường đầu đuôi." Buổi chầu vừa rạng ngày mai,
https://thuviensach.vn
Đường-hoàng rằng: "Mới tin ngoài lại tâu "Ải quan rợ Thát quấy rầy,
"Định ngày tiến-thảo ngõ hầu an biên. "Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,
"Kẻ quyền tham tán, người quyền Đổng binh , "Văn-thần ra sức đãng bình.
440.- "Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ." Hai người nghe nói căn-do,
Trước thềm phủ phục, mướt bồ hôi lưng. Mai-công ra trước tâu rằng:
"Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng. "Phen này động việc binh-nhung,
"Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người. "Khéo là bày việc trêu ngươi,
"Cầm cơ chẩn-mễ, cướp mồi tiểu-di . "Thóc kho, của nước thiếu chi,
450.- "Xin cho chẩn-thải theo y lệ thường. "Lấy đầu hai gã Lư, Hoàng,
"Ắt là Thát trở về hàng không sai.
"Can chi gây việc cõi ngoài,
"Đem tài qua-giáp, ép người văn-chương. Đường-hoàng nổi giận vội-vàng,
Rằng: "Vì giặc Thát tìm đường hoãn binh. " Kíp truyền đao-phủ chỉnh hình,
Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường. Hãy còn ngảnh lại triều-đường,
460.- Miệng còn sỉ-nhục Lư, Hoàng chưa thôi. Thương thay trung nghĩa như ai,
Sa cơ một phút ra người cửu-nguyên . Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,
Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân. Hai người thương kẻ trung-thần,
https://thuviensach.vn
Nghĩ tình bạn-hữu ân-cần thở-than.
Cùng Mai Bạch mới lo toan,
Vào chùa Tướng-quốc bàn-hoàn với sư.
Xin đem linh-cữu để nhờ,
470.- Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.
Mới hay tục-ngữ thế truyền,
Lời rằng: "Họa chí vô đơn "cũng thường."
Lòng chua xót, bước phong sương,
Nửa đường Bạch cũng suối vàng chơi xa.
14.- Gia-quyến nhà họ Mai lánh nạn (câu 475 - câu 504)
Lư-công mạo chỉ truyền ra,
Đến Thường-châu nã một nhà họ Mai.
Ruổi mau lệnh-tiễn hỏa-bài,
Mấy ngày thoắt đã tới nơi châu Tường.
Còn đương trách cứ phủ-đường,
480.- Mỏng tai may có một chàng Đồ Thân.
Đêm khuya kíp vội dời chân,
Mách công-tử với phu-nhân liệu đường.
Mẹ con xiết nỗi kinh-hoàng,
Cùng xuôi nỗi thảm, vội-vàng trốn đi.
Chia đường tìm chốn trợ thì,
Đỡ khi gấp rút, đỡ khi vận cùng.
Phu-nhân sang đất Sơn-đông,
Có em lỵ đó cũng trong đồng-bào.
Đồ Thân lòng tiết nghĩa sao,
https://thuviensach.vn
490.- Tưởng ân-nghĩa trước xin theo đi cùng.
Sửa-sang hành-lý vừa xong,
Một công-tử với Hỉ Đồng đi ra.
Nghi-trưng huyện ấy chẳng xa.
Nhạc-thân lỵ đó tên là Hầu Loan.
Ngại-ngần gặp bước gian-nan,
Người bâng-khuâng mẹ, kẻ bàn-hoàn con.
Trời đà mở lối sinh môn,
Rồng về biển, cọp về non bao giờ ?
Phủ-binh khen khéo hững-hờ,
500.- Canh năm vừa kéo đến nhà họ Mai.
Trước sau nào có một ai,
Khói nhà lạnh ngắt, tiếng người vắng tanh.
Sai-nha thấy thế nghi tình,
Bảo nhau tầm-nã chung quanh trong làng.
15.- Nông-nỗi Mai-sinh trong khi lánh nạn (câu 505 - câu 572)
Phu-nhân phận ấy đã cam,
Cũng may được chốn nhà em nương mình.
Thương thay công-tử tuổi xanh,
Long-đong mấy hội, gập ghềnh mấy phen.
Từ khi thầy tớ xuống thuyền,
510.- Thuận giòng thủy-đạo tới miền Nghi-trưng.
Tới nơi lên bộ dùng-dằng.
Vào nơi phạn-điếmhỏi chừng trước sau.
"Lạ-lùng xin tỏ cho nhau,
https://thuviensach.vn
"Huyện-quan có phải họ Hầu tên Loan ?" Nhà hàng thấy nói hỏi-han,
Trình rằng: "Thôi chớ hỏi bàn làm chi. "Lòng người ăn xổi ở thì,
"Nặng bên danh-lợi, nhẹ bề thân-hơi. "Cho hay giàu điếc sang đui,
520.- "Tìm vào trước đã lắm người ra không." Nghe thôi công-tử ngại-ngùng,
Ngồi bên, khen gã Hỉ Đồng mỏng tai. Đêm khuya ghé lại rỉ lời:
"Lòng người nham hiểm, thói đời viêm-lương. "Mời rồi nghe chuyện nhà hàng,
"Họ Hầu đây cũng là phường lăng-nhăng. "Mà ta lánh nạn băng chừng,
"Chúng tôi dại dạ, nghĩ đừng vội tin. "Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,
536.- "Sợ chi muôn một chu-tuyền làm sao ? "Tôi xin thay mặt trước vào,
"Nghe tình-hình ở thế nào thử xem. "Bằng ra lòng cá dạ chim,
"Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa." Túi hành-lý gửi vào nhà,
Tớ thầy đổi áo bước ra lên đường.
Lạ-lùng lẫn-lộn hèn sang,
Hỉ Đồng đi trước, để chàng theo sau. Đồng đà liệu trước mưu sau,
540.- Mua tì-sương đã buộc đầu đai lưng. Bước vào cửa huyện Nghi-trưng.
Để công-tử chực nghe chừng một nơi. Cậy người môn lại thưa lời,
Đưa tin bán-tử họ Mai sang hầu.
Truyền cho vào tận trong lầu,
https://thuviensach.vn
Hầu Loan hỏi hết gót đầu vân vân.
Hỉ Đồng thưa chuyện xa gần,
Nỗi nhà oan khốc, nỗi thân lạc-loài.
Thoắt thôi gỉa cách sụt-sùi,
550.- Nào hay Hầu-thị là người bạc đen.
Dứt lời trở mặt quở liền:
"Tội-nhân ai dễ cò quyền dám dong ?
"Con ta yểu-điệu khuê-phòng,
"Có Tây-tử đó, thiếu đông-sàng nào !
"Ở đây mười mắt trông vào,
"Rõ-ràng án ấy, tha sao cho đành."
"Kíp truyền ngục tốt giao canh,
"Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi !"
Bấy giờ công- tử đứng ngoài,
560.- Trông vào đã thấy tơi-bời điệu ra.
Quá thương dường muốn hỏi qua.
Hỉ Đồng liếc mắt xa đưa ý chàng.
Trong mình sẵn gói tì-sương,
Giở ra nuốt ực quyết đường quyên-sinh.
Nghĩ người con trẻ thương tình,
Nghĩa thầy-tớ nặng xem thân mình không.
Tưởng là Mai-thị thân vong,
Giả hình ai biết Hỉ Đồng là ai ?
Một đoàn ngục tốt tơi-bời,
570.- Khiêng ra cửa bắc, táng ngoài đồng không.
Mai-sinh theo hút xa trông,
Viếng thăm làm dấu, mới phong nên phần.Chú thích:
Phùng công: tức Phùng Lạc Thiên, bạn của Mai-công.
Chủ tân: Chủ với khách.
hàn-huyên: Hàn : lạnh; huyên : ấm . Xa cách nhau lâu ngày trải qua mùa
https://thuviensach.vn
lạnh sang mùa ấm, khi gặp, chuyện-trò hỏi thăm nhau, gọi là hàn-huyên. Chư công: Các ông, các ông bạn của Mai-công họp mặt ở nhà Phùng công hôm ấy.
tri cơ: Biết việc sẽ xảy ra.
Trào-châu : là một địa-phương thuộc tỉnh Quảng-đông, nơi Hàn Du bị biếm, nhưng việc đó ở về đời Đường Hiếu-tông. Không hiểu câu này ý nghĩa ra sao ?
Kỷ với Mai: Kỷ là Lư Kỷ, Mai là Mai Bá Cao (Mai-công) còn có nghĩa Kỷ là cây kỷ, mai là cây mai nữa. Câu này có ý đem "mai" chọi với "kỷ" cùng là hai loài cây, lối chơi chữ của tác-giả, cũng như câu "thì vin cành quít cho cam sự đời" của Nguyễn Du !
thề chẳng đội trời: do chữ "thệ bất cộng đới thiên".
thấm-thoắt đưa thoi: do chữ "tuế nguyệt như thoa".
[Back to the top]
nội thần: quan trong, tức nội giám, hoạn quan.
kết thái trương đăng: kết hoa trưng đèn.
Thiên-bảo: Một chương trong Kinh Thi (Nhã phong), có 9 chữ như chúc tụng nhà vua :
Như sơn như phụ,
như cương như lăng,
như xuyên như phương chí dĩ mặc bất tăng,
như nguyệt chi hằng,
như nhật chi thăng,
như nam sơn chi thọ, bất khiên bất băng,
như tùng bách chi mậu, vô bất nhĩ hoặc thừng.
Người ta gọi "Thiên bảo cửu như" là thế.
Nghiêu-hoa: Vua Nghiêu đi tuần thú đến đất Hoa, có Phong-nhân (người coi ấp) chúc vua giàu có, sống lâu và nhiều con trai, nên có câu : "Hoa phong tam chúc" . Nghĩa là 3 điều chúc của Phong-nhân ấp Hoa. bách hí: Trăm trò chơi.
bát âm: tám thứ âm-nhạc.
https://thuviensach.vn
triều quan: Quan trong triều.
hoàng thân: Họ nhà vua.
Gia-hào: đồ nhắm ngon.
trân-la: rau thơm, rau quí.
[Back to the top]
lạp-hoàng: tức hoàng lạp, sáp vàng.
thiều nhạc: bản nhạc đời vua Thuấn bên Tàu. Đây chỉ nói về âm-nhạc. ân-gia: nghĩa là cha nuôi, Lư Kỷ là bố nuôi của Hoàng Tung. Lễ đơn : tờ kê lễ-vật.
nghĩa-phụ: cha nuôi.
ân-nhi: con nuôi.
vượng-khí tướng-môn: bởi chữ : tướng môn vượng khí , khí thịnh vượng trước cửa nhà quan Tướng.
nghi-môn: cửa chính ở các dinh-thự hay lâu đài nào, nhà lớn. bạn đảng: đảng làm phản, bọn phản đối.
long-nhan: mặt rồng, mặt vua.
[Back to the top]
biên-quan: quan coi ngoài biên-giới.
giặc Thát: tức rợ Thát-đát nguyên là biệt bộ nước di dịch về hạng Hung nô , Đột-quyết, về sau là Mông-cổ, một dân tộc thượng võ đã có phen làn rung-động hoàn cầu.
đoản biểu : tờ biểu ngắn.
chính-pháp thị-tào: xử theo phép chính, nghĩa là đem chém. Thị tào : nơi chém người, cũng như nói "pháp trường".
Đường-hoàng: vua nhà Đường
tham tán, người quyền Đổng binh: Tham-tán, Đổng-binh : hai chức coi việc hành quân đánh giặc.
lòng kiến : do chữ nghĩ khốn.
chẩn-mễ, tiểu-di: chẩn-mễ : gạo phát chẩn , Tiểu-di : quân mọi-rợ nhỏ. chẩn-thải: phát chẩ và cho vay.
https://thuviensach.vn
qua-giáp: qua : ngọn giáo; giáp : áo giáp che tên đạn. Qua-giáp là nói về quan võ.
[Back to the top]
văn-chương: nói về quan văn.
hoãn binh: làm chậm việc binh lại, có ý để chờ dịp gì đáng ngờ. đao-phủ: đao búa, thứ khí-giới để hành-hình kẻ bị phạm tội chết. cửu-nguyên: cũng như cửu tuyền : chín suối, đường âm. cách quyền hồi dân: bị cách chức về làm thường dân
Mai Bạch : người gia-đinh theo hầu Mai công.
Tướng-quốc: nghĩa đen là giúp nước, cũng như hộ quốc, tên một ngôi chùa ở kinh-đô bấy giờ.
Họa chí vô đơn: bởi câu họa vô đơn chí, tai vạ bao giờ cũng bị dồn-dập chứ không khi nào chỉ đến lẻ-loi có một việc mà thôi.
lệnh-tiễn hỏa-bài: lệnh-tiễn : lá cờ nhỏ của các quan tướng dùng làm hiệu lệnh để ban phát. Trong lá cờ có đề chữ "lệnh", ngọn cờ hình nhọn như mũi tên.
hỏa-bài : Phiến gỗ có viết chữ, cầm làm hiệu-lệnh của các nha-môn, việc gì khẩn cấp thì phê chữ "hỏa" nghĩa là nóng như lửa, hỏa tốc. đồng-bào: cùng bọc sinh ra, anh chị em ruột, câu này nói người làm quan đó là em ruột của Mai phu-nhân.
[Back to the top]
Hỉ Đồng: thư-đồng của Mai-sinh.
Nghi-trưng: Một huyện thuộc đạo Duy-dương tỉnh Giang-tô bên Tàu đời bấy giờ.
Nhạc-thân: Bố vợ Mai-sinh.
sinh môn: cửa sống, lối sống, con đường sống.
Phủ-binh: lính phủ, tức lính ở phủ Thường-châu, sở tại, quê Mai-công. thủy-đạo: đường thuỷ.
phạn-điếm : hàng cơm.
viêm-lương: viêm : nóng ; lương : mát .Thói đời viêm-lương : ý nói thói
https://thuviensach.vn
đời cứ tùy theo kẻ suy người thịnh mà coi trọng coi khinh, cũng như tiết trời lúc nóng lúc lạnh thay đổi thất thường.
chu-tuyền : làm cho trọn vẹn.
tì-sương: vị thuốc độc.
[Back to the top]
môn lại: người coi cửa.
bán-tử: nửa con, tức là con rể.
Tội-nhân: người có tội
Tây-tử: tức Tây Thi, gái đẹp đời Xuân-thu, Việt-vương Câu Tiễn bị Ngô vương Phù Sai đánh thua, đem Tây Thi dâng cho vua Ngô để cầu hòa. Vua Ngô bị Tây Thi mê hoặc đến nỗi lại bị Việt-vương đánh thua, suýt phải mất nước.
đông-sàng: giường bên đông. Đời Tấn, Hy Giám có con gái, cho người đến nhà Vương Đạo kén rể. Con cháu họ Vương đều hy-vọng, duy Vương Hy Chi chỉ nằm phơi bụng tại giường bên đông ăn bánh, coi như không có chuyện gì. Hy Giám bèn gả con gái cho Hy Chi, sau quả nhiên hiển-đạt hơn cả.
mười mắt trông vào: bởi chữ thập mục sở thị .
ngục tốt: lính canh ngục.
thân vong: chết
phần: nấm mả, phần mộ.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 4
16.- Mai-sinh tự-ải, được nhà sư cứu sống (câu 573 - câu 616)
Nghĩ đi nghĩ lại tần-ngần,
Tay không đất khách, một thân quê người.
Biết cùng ai tỏ khúc nôi,
Dở-dang hai lẽ, tới lui khó lòng.
Bước lần bỗng thấy gần sông,
Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.
Trọn ngày đến bến, lên bờ,
580.- Trời hôm vào đấy là chùa Thọ-am.
Than rằng: "Tội báo cho cam,
"Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
"Họ Lư tầm-nã còn lâu,
"Tấm thân đã biết về sau thế nào ?"
Trong lưng sẵn giải lụa đào,
Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.
Thương ôi ! Sao khéo đang tay !
Thân này đã quyết với dây ấy rồi.
Trời còn cứu kẻ anh-tài,
590.- Trong chùa bỗng có một người bước ra.
Lòng lành thấy sự oan-gia,
Trở vào bạch lại sư-già trước sau.
Sư ra dạy cởi xuống mau,
https://thuviensach.vn
Khương-thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.
Thấy người trạng mạo văn-nhân,
Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.
Nỗi mình đâu dám giở ra,
Sinh bèn chống chế, kêu-ca liệu lời :
Rằng: " Con chút phận tôi đòi,
600.- "Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.
"Trở về nghĩ chẳng tha nào,
"Cực mình nên phải quyết liều quyên-sinh.
Sư rằng: " Cửa bụt thênh-thênh,
"Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.
"Nhà chùa công việc cũng đầy,
"Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là,
"Vả trông ra dáng con nhà,
"Sẵn nghiên bút viết một và tờ xem.
"Dẫu rằng xấu tốt chẳng hiềm,"
610.- Sinh bèn đề chữ "Thọ-am tự-thuyền ".
Sư rằng: "Này bút thiên-nhiên,
"Lọ tìm Vũ-kiếm, lọ khen Lan-đình."
Phòng văn giao mặc viết kinh,
Vườn hoa lại phó một mình sửa-sang.
Sức người như giúp hơi dương,
Một vườn tươi-tốt bằng dường thêm xuân.
17.- Cuộc gặp gỡ giữa Mai-sinh với họ Trần (câu 617 - câu 656)
https://thuviensach.vn
Những mong bóng Phật nương thân. Hay đâu bỗng chốc lương-nhân giắt vào. Nỗi sư nào biết đâu nào,
620.- Chẳng là tên gọi Nhật Cao họ Trần. Thám hoa võ-cử xuất thân,
Ba nơi tọa-trấn mấy lần đổng-binh. Thờ-ơ áng lợi quyền danh,
Vui lòng tuyền-thạch gửi mình thuyền-am. Trần Đông Sơ ấy là em,
Một ngày thong thả mới tìm sang chơi. Anh em kể-lể lôi-thôi,
Có khi nhắc chuyện họ Mai khóc thầm. Mai-sinh riêng dạ nghĩ ngầm,
630.- Xem trò-chuyện ấy, biết tâm-tích rồi. Hai ông tìm hứng mua vui,
Giắt tay, sánh bước, chân dời vườn sau, Xem hoa vừa ý, gật đầu,
Trình anh, mới kể mấy câu nằn-nì : "Mười năm theo việc vương-kỳ,
Sân Đào mấy lớp, Đông-ly bỏ rèm. "Gốc cằn, cỗi rậm, khó xem,
"Cỏ cây ví với am-thuyền kém xa. "Tiểu đây kể khéo có thừa,
640.- Nhà em bên ấy tạm nhờ một tay." Sư rằng: " Anh cũng là may,
"Ngày xưa được chú tiểu này bỗng không "Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,
"Bút nghiên tay giỏi, nghi-dung con nhà. "Việc quen sửa cảnh, vun hoa,
"Cho về bên ấy nương-nhờ cũng hay !" Mai-sinh bèn lạy tạ thầy,
Theo về Trần-phủmột giây đến nhà.
https://thuviensach.vn
Trần-công cười nói lôi-la;
650.- Đòi công-tử với cùng là phu-nhân.
Tiểu-thư cũng gọi đến gần,
Rằng: "Hôm nay buổi dời chân tham thuyền.
"Xin về được gã thiếu-niên.
"Cảnh hoa việc biết, bút-nghiên nghề nòi."
Những xem phong-dạng con người,
Một nhà ai cũng một lời khen lao.
18.- Cảm tưởng của Mai-sinh trong khi ở Trần phủ (câu 657 - câu 670)
Mai-sinh đành phận biết sao,
Khi ra viết thiếp, khi vào sửa hoa.
Cửa người ngày tháng lân-la,
660.- Một mình riêng những xót-xa sự mình.
Sinh-ly xa cách huyện-đình,
Một cây bóng ngả mấy cành tang-du.
Sơn-đông non nước mịt-mù,
Niềm thương nỗi nhớ biết hồ có nguôi.
Nghi-trưng một nắm cát vùi,
Vì ai nên nỗi thiệt-thòi đến ai.
Sau này dù nhận có người,
Nghĩa kia biết có đền-bồi được chăng ?
Thành sầu cao ngất tầng tầng,
670.-Một vườn ngày gió đêm trăng thẫn-thờ.
19.- Mối tình của Mai-sinh, khi trông thấy Hạnh-Nguyên (câu 671 - câu
https://thuviensach.vn
694)
Hay đâu con tạo lọc-lừa,
Chen vòng hắc vận, trao tơ xích-thằng. Có phen bên gió dưới trăng,
Buổi man -mác bóng, cơn văng-vắng người. Trong vườn tha-thướt dường ai,
Xem hoàn đổ lá, giục đòi hái hoa.
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành-vạnh nguyệt, tóc ngà-ngà mây. Lập-lòa mớ đính mớ thay,
680.- Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng thêu. A-hoàn một lũ nối theo,
Quạt tha-thướt phẩy, lò dìu-dặt mang. Xa xa thong-thoảng mùi hương,
Mai-sinh trông liếc rõ-ràng tiểu-thư. Mối tình buộc lấy khư-khư,
Hồn bâng-khuâng quế, phách thờ-thẫn mai. Của đâu trêu-ghẹo chi ai,
Ấy người cung Quảng, hay người đài Dương. Tấc riêng, riêng những mơ-màng,
690.- Chữ tư đề dưới chữ tương ngày ngày. Nghĩ mình lưu-lạc đã dày,
Chút niềm tâm-sự dám bày cùng ai. Lại mang cái tiếng tôi-đòi,
Nhân-duyên trời có chiều người cho chăng ?.
https://thuviensach.vn
20.- Thăm vườn mai, Trần công nhớ bạn (câu 695 - câu 194)
Thu đông trải mấy gió trăng,
Bông đào chợt đã báo chừng nửa xuân.
Một vườn cảnh-vật tiên-tân,
Mõ xa cành biếc, kệ gần lưỡi oanh !
Trần công nhân buổi dạo quanh,
700.- Đầy vườn thấy nở chật cành hoa mai.
Tính ngày mai, tối mười hai,
Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.
Vào trong khi bất thình lình.
Phu-nhân xem thấy ra tình không vui.
Rằng: " Vườn ta cảnh ưa người,
"Sắc ông sao bỗng kém tươi, thêm sầu ?"
Ông rằng: "Chẳng đánh mà đau,
"Ngày mai sực nhớ giỗ đầu Mai-huynh.
"Nghĩa bằng-hữu, bậc trung-trinh,
710.- "Thấy hoa mai, bỗng động tình xót ai."
Sáng ngày mượn tiếng thưởng mai,
Đem lòng thành-kính, viếng người tinh-anh:
"Có thiêng chăng nhẽ Mai-huynh !
"Chớ nề u-hiển, thấu tình anh em.
"Bây giờ kẻ khuất đã cam,
"Kẻ còn giong-ruổi cho tìm thấy tôi."
"Trông hoa lại nhớ mấy lời :
"Họ Mai còn chút lạc-loài nên thương.
https://thuviensach.vn
"Phỏng ngày sau có ra tuồng,
720.- "Thì hoa mai nở bội thường hơn xưa."
Hóa-nhi khen khéo thờ-ơ,
Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường.
Sáng mai trông lọt bốn tường,
Cành hoa dưới đất, mùi hương trên trời.
Trần-công thấy chẳng nên lời.
Thương tình bạn, giận sự đời, ngổn-ngang.
Gác ngoài phú-quí một tràng,
Mũ-ni, tràng-hạt, quyết đàng xuất-gia.
Phu-nhân, công-tử vào thưa:
730.- "Xưa nay mưa gió rụng hoa là thường.
"Làm chi nhọc bụng lo-lường,
"Tuổi già, nhà vắng, thêm đường dở-dang.
Ông rằng: " Thôi chớ bàn ngang.
"Một lời nói, dẫu nghìn vàng đổi sao !
Chú thích:
oan-gia: nhà có oan-nghiệt, nhà gặp sự chẳng may.
Khương-thang: nước gừng nóng, thang thuốc gừng.
trạng mạo văn-nhân: bởi câu Văn-nhân trạng-mạo, nghĩa là mặt ra dáng người có văn-học.
quyên-sinh: bỏ sự sống, nghĩa là liều thân, liều chết.
Thọ-am tự-thuyền: chùa Thọ-am.
thiên-nhiên: tự nhiên mà thành như trời làm sẵn.
Vũ-kiếm, Lan-đình: Vũ-kiếm : Một lối chữ nét sắc như gươm múa, nên gọi là vũ kiếm . Lan-đình : lối viết của Vương Hy Chi đời Tấn, chữ rất tươi-đẹp, người ta gọi là thiếp Lan-đình.
lương-nhân: cũng như lương duyên : duyên tốt.
https://thuviensach.vn
Nhật Cao họ Trần: anh Trần Đông Sơ.
Thám hoa võ-cử xuất thân: tức là đỗ Thám-hoa khoa thi võ . Xuất thân : bước đầu tiên ra đời.
[Back to the top]
tọa-trấn: ngồi nhậm chức.
tuyền-thạch : suối và đá, trỏ vào cảnh rừng núi.
thuyền-am: cảnh nhà chùa.
vương-kỳ: Kinh-đô nhà vua.
Sân Đào, Đông-ly: sân Đào là sân nhà ông Đào Tiềm, một hưu quan đời Tấn. Đông-ly là dậu bên đông, nơi trồng cúc và các thứ hoa. Vương tên gọi Hỉ Đồng: Sau khi được nhà sư cứu sống, Mai-sinh mang tên Vương Hỉ Đồng, người đầy tớ có nghĩa đã chết thay Mai-sinh ở Nghi trưng.
Trần-phủ : dinh Trần-công, người ta quen gọi nhà các quan là "phủ". tham thuyền: thăm cảnh chùa.
Sinh-ly : sống mà phải lìa nhau. mỗi người mỗi ngả, không được sum-họp. huyện-đình: sân cỏ huyện, trỏ người mẹ- xem chú thích trên. [Back to the top]
tang-du: khi mặt trời sắp lặn, bóng nắng còn sót lại trên cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, du-cành bưởi- ví với cảnh già, nên có chữ tang du mộ cảnh : cảnh về chiều của cây dâu cây bưởi.
Sơn-đông: nơi Mai phu-nhân lánh nạn, tức là chỗ em bà làm quan. Nghi-trưng một nắm cát vùi: nói về mả Hỉ Đồng táng ở Nghi-trưng. Thành sầu cao ngất tầng tầng: đoạn này tả Mai sinh nhớ mẹ và thương đầy-tớ.
hắc vận, trao tơ xích-thằng: Hắc vận : vận đen . Xích-thằng : dây đỏ, dây xe duyên của Nguyệt-lão trong truyện Vy-Cố.
hoàn: tức liễu-hoàn : con đòi đầy-tớ gái.
cung Quảng: tức Quảng-hàn-cung, cung trăng.
https://thuviensach.vn
đài Dương: tức Dương-đài, nơi Sở Tương-vương cùng thần nữ hội-ngộ. Chữ tư đề dưới chữ tương: tức là tương-tư.
tiên-tân: tươi tốt, mát-mẻ.
[Back to the top]
hoa đình: đình hoa, vòm cao xây ở vườn hoa, làm nơi thờ hoa-thần. Mai-huynh: ông anh họ Mai, lời xưng-hô của anh em bạn. thưởng mai: ngắm cảnh hoa mai.
bội thường: gấp đôi lúc thường, nghĩa là hơn lên.
xuất-gia: đi tu, đi ở chùa.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 5
21.- Mai hai độ nở (câu 735 - câu 814)
Cả nhà xiết nỗi thảm-sầu,
Tiểu-thư lập chước thưa sau giãi-bày. Rằng: "Xin đợi lại mấy ngày,
"Cầu trời khấn Phật hoa này lại tươi." Ông rằng: "Thực có như lời,
740.- M ai hai độ nở mới dời lòng ta." Tiểu-thư ra trước vườn hoa,
Khẩn năm bảy lượt, lạy và bốn phen. Lòng thành thấu cửu-trùng-thiên
Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ. May đâu đến bữa thứ ba,
Mai-sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya Hương đâu phưng-phức tứ bề,
Hoa đâu san-sát đầy khê một vườn. Tấm lòng mừng-rỡ như son,
750.- Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài. Đề rồi bẻ một cành mai,
Trao con đòi, cậy đưa lời Trần-công. Một nhà thấy sự lạ-lùng,
Trước sau lũ-lượt đều cùng tới coi. Trần-công rằng: "Sự tỏ mười,
https://thuviensach.vn
"Chắc rằng Mai-thị còn người làm nên !" Nỗi tu gác bỏ một bên,
Truyền đem tửu quả đặt lên hoa-đình. Trên bày bài-vị Mai-huynh,
760.- Bấy giờ tình cảnh Mai-sinh thực là. Tìm nơi đình-tử xa xa
Trông ngay trước mộc-vị cha, thở dài. Vô tình ai biết là ai,
Tiểu-thư liếc mắt đưa chơi biết tình. Sinh xem biết ý chân-thành,
Nỗi nghi dường đã bớt canh-cánh lòng. Nhớ tên hiệu chữ Mai-công,
Đề vào mảnh giấy dán trong nắp hòm. Ra vào giấu-giếm, nom-dòm,
770.- Gọi là tiện chút sớm hôm phụng-thờ. Trần-công đi lại xem hoa,
Truyền đòi công-tử tên là Xuân-sinh. Rằng: "Ta xưa những ở Kinh,
"Chẳng hay con đã học-hành tiến chưa. "Rày nhân nhị độ mai hoa
"Con đề tức cảnh một thơ tiến trình." Còn đương khuyên-bảo Xuân-sinh, Trông lên đã thấy bên bình có thơ. Trần công đòi hỏi bấy giờ,
780.- Mới hay đề đó là thơ Hỉ Đồng. Khen câu ngọc đúc vàng ung,
Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên. Xuân-sinh thấy sẵn thơ trên,
Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu. Trần-công vừa ý gật đầu,
Tiểu-thư lại thấy ở đâu đến gần.
Dạy rằng: "Nữ-tử, văn-nhân,
https://thuviensach.vn
Theo đòi con cũng họa vần thử xem.
Tiểu-thư cầm bút vâng lời,
790.- Bên tường cũng vịnh một bài nối sau.
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Ba vần già-giặn, bốn câu thanh kỳ.
Yên xong , ông trở ra về,
Cùng phu nhân mới nằn-nì một hai :
"Hỉ Đồng là kẻ có tài,
"Ở đây chớ để tôi-dòi xem khinh."
Mai-sinh thui-thủi bên đình,
Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.
Xưa nay nghe tiếng đồn xa,
800.- Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.
Hôm nay nhân buổi thanh-lương,
Rời chân xem thử phố-phường những sao.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi.
Xe lừa dù có chen vai,
Kìa người đại-cổ nọ người phú-thương.
Màn che mái, gạch ken đường,
Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu-ly.
Khắp người viễn khách cư kỳ,
810.- Tây-dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng. Lớp ngoài một dãy trường-giang,
Tàu chen mũi đỗ, thuyền giương buồm về.
Chài lan san-sát lá tre,
Chiếc đua máy đẩy, chiếc kề bến neo.
22.- Bị lộ chân tướng, Mai sinh thú thực (câu 815 - câu 862)
https://thuviensach.vn
Những là mến cảnh noi theo,
Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.
Phòng riêng đã vắng tam hơi,
Nắp hòm bỏ ngỏ, vị-bài thấy không. Tìm sau tìm trước lung-tung,
820.- Nghĩ riêng lòng những giận lòng đòi cơn. Ai hay trong lúc du-quan
Tiểu-thư cùng với thúy-hoànra chơi. Mở hòm nhác thấy một bài,
Ngạc-nhiên cất lấy thưa lời đến ông. Trần-công rằng: "Sự lạ lùng,
"Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !" Đòi thúy-hoàn, mới dạy lời,
Dặn-dò hãy thử ướm chơi thăm tình. Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh,
830.- "Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ? "Bây giờ Lư-tướng nghe hơi,
"Sai về trách-cứ một hai lấy người.
"Kẻo còn quanh-quẩn những lời,
"Còn nay Vương-thị, còn mai Hỉ Đồng ?" Mai-sinh nghe tỏ sự lòng,
Uốn lời thú thực phô sòng van-lơn : "Mai nay muôn đội ơn hoàn,
"Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng." Túy-hoàn mới ngỏ thực lòng :
840.- "Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi. "M ới rồi nhân thấy vị-bài,
"Rõ tình ông dạy cho lời không sao !"
https://thuviensach.vn
Mai-sinh ren-rén bước vào
Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
Ông rằng: "Sau những dấu quanh,
"Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ?
"Thế mà bác cứ thờ-ơ,
"Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày."
Lạy rồi, sinh mới giãi-bày :
850.- Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
Bao nhiêu tình-tự nguồn cơn,
Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ Đồng,
Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
Bước đường xa, cái sống thừa,
Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay !
Ông rằng: " Nương-náu ở đây,
"Thù kia ắt cũng có ngày trả xong.
"Niệm cũng công-tử một phòng,
860.- "Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho.
"Tình thế-nghị nghĩa giao-du,
Văn-chương tri-kỷ, chuyện trò chiếu-tâm.
23.- Trần-công bàn gả Hạnh-Nguyên cho Mai-sinh (câu 863 - câu 878)
Mặc ai gặp bạn tri-âm,
Ông bà luống những bàn thầm rỉ tai :
"Mai-sinh là bậc thiên-tài,
"Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan.
https://thuviensach.vn
"Lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên,
"Thiên tài, quốc-sắc hai bên cũng vừa,
"Chẳng lâu, thấy đó bây giờ,
870.- "Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày.
Bà rằng: "Được thế là may,
"Thế thì tuổi-tác lòng này cũng an !"
Thày-lai có một thúy-hoàn,
Ra vào nghe thấy chuyện bàn đinh-ninh.
Lòng riêng, riêng cũng thuận tình,
Khi ra đon-đả với sinh thì-thầm.
Người khuê-các khách thư-cầm,
Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.
24.- Trước khi đi cống Hồ, Hạnh-Nguyên từ giã gia-quyến (câu 879 - câu 984)
Ông tơ khen khéo cợt người,
880.- Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
Làm cho chí tái chí tam,
Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan-hoài.
Đảng-công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần-gia.
Đọc rồi mới biết rằng là:
Biên-quan có nước Sa-đà động binh.
Khói lang, bụi ngựa tung-hoành.
https://thuviensach.vn
890.- Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần. Lư-công dâng chước hòa thân,
Truyền đòi con gái họ Trần kết thân, Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài. Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh-ly ? Khởi hành đã định nhật kỳ,
Lư-công giục-giã ngận tuỳ quân sai.
Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
900.- Ngứa gan tấm-tức mấy lời vân vân: "Vẻ chi một chút Hồ trần,
"Những tài thao-lược, kinh luânđâu nào ? "Dẹp yên mượn sức má đào,
"Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa !
"Kiếp này không xé được da.
"Kiếp sau quả-báo, oan gia kẻo gì.
"Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
"Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng." Lư-công nghe nói ngang tàng,
910.- Mắt sòng-sọc khóe, mặt sường-sượng gân. Tiền-đường dọn tiệc chủ, tân,
Đảng-công cất lẻn vào dần nhà trong. Trần-công rỉ bảo Đảng-công,
Trỏ Mai-sinh mới giãi lòng một hai.
Rằng: "Này công-tử họ Mai,
"Trong khi hoạn-nạn lạc-loài đến đây. "Em cho nương-náu những ngày,
"Rắp đem tiểu-nữ sum-vầy kết duyên, "Mưu kia ai vẽ cho nên,
920.- "Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng. "Việc nhà nhờ bác sửa-sang,
https://thuviensach.vn
"Cho cùng Trần-điệt lên đường xuất quan." Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
Bốn mươi thị-nữ dân-gian kén rồi. Trong danh-sách bấy nhiêu người, Cùng ra Phiên-quốc theo đòi Hạnh Nguyên. Lại truyền không được trì diên,
Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường, Áo Hồ đưa lại một rương,
930.- Dạy cho nương-tử cải-trang xuất hành. Nàng rằng: "Quân-mệnh đã đành, "Tủi mình khuê-khổn, liều mình tinh-triên. "Bao giờ khỏi đất Trung-nguyên,
"Bấy giờ thay áo Hồ-phiên vội gì. "Chịu trời chăng ! Một chữ thì,
"Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời ! "Đảng-công khen đã nên lời,
"Cứng lòng,thiết-thạch hổ người tu-mi. Thẹn thay cho kẻ vô-nghì.
940.- Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần. Lời trung khêu ruột gian-thần,
Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình. Ngoài thì quan-khách linh-đình,
Trong thì nàng cũng đau tình biệt-ly. Lạy hai thân, kể mọi bề,
Châu-chan nét liễu, dầm-dề giọt mai. Rằng: "Con chút phận nữ-hài,
"Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên. "Môn-mi mong những nhờ duyên, "Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân, "Hiểm thay chước kẻ gian-thần,
"Xui nên kẻ Tấn, người Tầnnhư không. "Có ra chi, phận má hồng,
https://thuviensach.vn
"Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù. "Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
"Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
"Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
"Liều bằng muôn một những ngày một hai." Thoắt thôi sùi-sụt ngắn dài,
960.- Gập-ghềnh mới ngụ một bài biệt thi. Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
Gọi Xuân-sinh lại nằn-nì rỉ tai :
"Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
"Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
"Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
"Nhân-duyên chưa ghép, chữ đồng đã in. "Vả xem bậc ấy không hèn,
"Rõ gương khoa-giáp, rõ niềm tướng-khanh. "Nhờ em đãi lấy lòng thành,
970.- "Ngoài tình bầu-bạn, trong tình anh em. 2"Mọi bề trong ấm ngoài êm,
"Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng. "Chị nhờ em gánh hiếu-trung,
"Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già "Công-danh tuổi ấy đương vừa,
"Trâm-anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây. "Dù thương đến chị sau này,
"Hoặc tuần hàn-thực, hoặc ngày thanh-minh. "Suối vàng rưới một giọt tình
980.- "Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là !" Lôi-thôi xiết nỗi gần xa,
Trông Mai-công-tử dường đưa mối sầu. Thẹn-thùng khôn nói-năng đâu,
Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.
https://thuviensach.vn
25.- Mai-sinh và Xuân-sinh đi tiễn Hạnh-Nguyên (câu 985 - câu 1000)
Cửa ngoài chực sẵn xe hương
Lư-công giục-giã lên đường xuất quan.
Kiệu-phu bước nhặt, bước khoan
Đảng-công một ngựa điệu đoàn vệ-binh.
Đoản-đình thôi lại tràng-đình,
990.- Bên xe Mai Bích, Xuân-sinh hai chàng.
Bắc, Nam ai kéo đôi đàng,
Ải-quanai khéo chia đường biệt-ly.
Khi sao cửa các phòng khuê,
Giờ sao thui-thủi một xe đất này.
Hồn mai tỉnh tỉnh say say.
Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.
Trông xa, khi khoác rèm lên,
Vòng thành chát-ngất, toà đền trai lơi.
Kiệu-phu quì bẩm mấy lời :
1000.- "Hàm-đan huyện ấy có nơi trùng-đài."
Chú thích:
cửu-trùng-thiên: Chín tầng trời.
Cành phàm, hoa tiên: Cành cây tầm thường-phàm tục- Hoa tiên : Bông hoa tươi đẹp - thần tiên- Câu này đem chữ phàm chọi với chữ tiên cũng là
https://thuviensach.vn
lối chơi chữ.
tứ tuyệt thất ngôn: Lối thơ 4 câu mỗi câu 7 chữ. Thơ của Mai-sinh vịnh hoa mai hai độ nở nguyên văn chữ Hán:
Thốc thốc mai hoa sổ trượng cao,
Minh triêu vũ lộ hạ thiên tào,
Tạc tiêu hoa bản thành khôi thổ,
Nhị thứ mai hoa vạn cổ tao.
Dịch nghĩa :
Lớp lớp hoa mai cao mấy trượng,
sớm mai mưa móc từ trên trời rủ xuống.
Đêm qua đáng lẽ hoa đã thành đất bùn,
hoa mai nở hai lần thật là dịp gặp-gỡ muôn đời mới có một. bài-vị: Cái bàn gỗ viết danh-hiệu người chết dán vào để thờ. đình-tử: Tức là vòm xây ở vườn hoa, Mai-sinh đứng đằng xa trông về chỗ đặt bài-vị.
mộc-vị: Tức bài-vị gỗ nói trên.
chân-thành: Thực-thà.
Nỗi nghi:mối ngờ
Xuân-sinh: Con trai Trần-công, khi tị nạn mạo tên là Khâu Khôi . Sau thi đỗ Bảng-nhãn.
nhị độ mai hoa: Tức Mai hai độ nở hoa .
[Back to the top]
Vóc trong miệng, gấm trong lòng: tức là tiếng dịch nghĩa của bốn chữ : tú khẩu cẩm tâm.
đề liền bốn câu: Thơ của Trần Xuân-sinh theo nguyên-văn chữ Hán: "Sở sắc mai hoa phẩm tối cao,
Y y đính cáo tự nhi tào,
Chỉ nhân thành kính không thiên giới,
Cố xử mai hoa phóng nhị tao."
Nghĩa là:
Mấy lớp hoa mai phẩm giá rất cao, rõ-ràng như lũ trẻ, chỉ bởi lòng thành-
https://thuviensach.vn
kính cảm-động đến trời, nên khiến cho hoa mai hai lần nở. Nữ-tử, văn-nhân: Cũng như nói gái sắc trai tài.
một bài nối sau: Nguyên-văn thơ chữ Hán của Hạnh Nguyên tiểu-thư : " Xuân nhật mai hoa phẩm tối cao,
Hựu-nhân Thượng-đế giáng nhi tào,
Hoàng-thiên bất phụ trung-lương hậu,
Tái xử mai hoa phóng nhị tao.
Nghĩa là:
Ngày xuân hoa mai phẩm giá rất cao quí, lại nhân dịp Thượng-đế giáng phúc cho chúng con, Lòng trời chẳng nỡ phụ dòng dõi người trung lương, lại khiến hoa mai nở hai lần.
châu Dương: tức Dương-châu một châu trong 9 châu đời Hạ Vũ, về đời Tuỳ-Đường đặt Dương-châu tại Giang-đô thuộc tỉnh Giang-tô. thanh-lương: Trong sạch, mát-mẻ.
Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi: Vương, Tạ, Đào, Nguyễn là những nhà phú-quý phong-lưu ở Giang-tả đời nhà Tấn.
đại-cổ, phú-thương: Đại cỗ : nhà buôn lớn; phú-thương : nhà buôn giàu. viễn khách cư kỳ: Khách lạ đến buôn bán. "Cư kỳ" bởi chữ "kỳ hoá khả cư", của lạ có thể buôn được (Truyện Lã bất Vy) .
Tây-dương: Các nước ở bên Tây Âu.
[Back to the top]
Cao-ly : Tức Triều-tiên, một nước bên nước Tàu.
trường-giang: sông dài.
thúy-hoàn: Cũnh như Liễu-hoàn, con đòi.
thế-nghị: Tình nghĩa bạn-bè đời này sang đời khác.
giao-du: Giao kết, chơi bời với nhau.
tri-kỷ: Biết mình, người thực biết được mình thì là bạn tri-kỷ. chiếu-tâm: Soi lòng, soi thấu tận lòng.
tri-âm: Biết tiếng, biết cái hay của nhau cũng như biết âm-nhạc hay hay dở.
Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan: Cẩm-tú : gấm vóc, nói về văn-chương
https://thuviensach.vn
hay. Y-quan : Áo mũ nói bóng là có vẻ quan sang.
Hạnh Nguyên: Con gái Trần Đông Sơ, bị ép đi cống Hồ, gieo mình xuống đầm, được thần cứu sống đem về, làm con gái nuôi Châu Bá Phù, sau làm chính-thất Mai Lương Ngọc.
[Back to the top]
Thiên tài, quốc-sắc: Cũng như nói trai tài gái sắc.
Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày: câu này cũng như thơ "Kim bảng quải danh thì, động phòng hoa trúc dạ".
khuê-các: Cũng như nói phòng khuê cửa các, con gái nhà tử-tế. thư-cầm: Sách và đàn, biểu-hiệu của văn-nhân.
Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai: đãi ngọc : ngọc đợi giá ; tựa mai : nương tựa vào họ Mai.
chí tái chí tam: đến 2 đến 3 lần.
Biên-quan : Cửa ải ngoài biên, nơi giáp giới ngoại-quốc. Sa-đà: Một bộ lạc thuộc biệt-bộ Tây-đột-quyết. Trong đời nhà Đuờng, có tù-trưởng là Chu gia Chấp-nghi về làng, được cho theo họ là Lý - họ nhà Đường - sau có Lý Tồn Húc diệt nhà Hậu-Lương lên làm vua Trung-quốc tức là Hậu Đương. Bây giờ ở Tân-cương có nơi sa-mạc tên là Dặc-xa-địa, tức địa-phương Sa-đà bấy giờ.
Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần: Hán : nhà Hán ; Tần : nhà Tần, hai triều-đại thống-nhất Trung-quốc. Chữ Hán Tần trong câu này chỉ nói thay về Trung-hoa.
hòa thân: giảng-hòa và kết thông-gia.
[Back to the top]
Chiêu Quân: Một cung-nhân đời Hán Nguyên-đế tên là Vương Tường có nhan sắc, bị đem đi cống Hồ - Hung-nô - sau chết tại đất Hồ. Khởi hành: đứng lên đi, bắt đầu bước ra đi.
nhật kỳ: ngày hẹn, hẹn ngày ra đi.
ngận tuỳ: bước theo. Có bản dịch "căn tùy", có lẽ nhận lầm chữ Ngận ra chữ căn trong bản Nôm.
https://thuviensach.vn
Hồ trần: Bụi rợ Hồ, ý nói giặc Phiên nhỏ nhặn như mảy bụi. thao-lược, kinh luân: thao-lược trỏ vào quan võ ; kinh-luân trỏ vào quan văn.
quả-báo, oan gia: tiếng nhà Phật, ý nói những điều oan-uổng tất có quả báo, cũng như câu tục-ngữ oan-oan tương-báo.
Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng: Câu này ý nói có mũ mãng cân đai sang trọng lắm cũng bằng hoài.
ngang tàng: Rộng chứa. Người có tính ngang tàng phóng khoáng không sợ-hãi hay câu-nệ gì.
Tiền-đường: nhà trước, nhà khách.
tiểu-nữ: gái nhỏ.
Trần-điệt : cháu gái họ Trần, trỏ Hạnh Nguyên
xuất quan: ra cửa quan-ải.
thị-nữ : gái hầu.
danh-sách: sổ kê tên.
Áo Hồ: y-phục theo lối rợ Hồ.
nương-tử cải-trang xuất hành: cô nàng thay áo ra đi
Quân-mệnh : mệnh nhà vua.
khuê-khổn: buồng the, con gái nhà nền-nếp cũng như khuê-các. tinh-triên: tanh hôi, trỏ vào rợ Hồ nòi giống khác.
Trung-nguyên: người Tàu cho đất Trung-quốc là Trung-nguyên, còn ngoài ra đều là mọi rợ.
Hồ-phiên : tức là Hồ.
thiết-thạch: sắt đá.
tu-mi: râu mày.
nữ-hài: con gái còn trẻ dại.
Môn-mi: cái võng cửa. Dương Thái Chân được Đường Huyền-tông lập làm quí-phi, bấy giờ có câu phong dao rằng:
"Sinh-nữ vật bi toan,
Sinh nam vật hỉ hoan,
Nam bất phong hầu nữ tác phi,
Quân khan nhi-nữ vị môn-mi,"
https://thuviensach.vn
Nghĩa là:
Sinh gái chớ vôi thương xót, sinh trai chớ vội vui mừng, trai chẳng được phong hầu mà gái được làm bà phi, người coi con gái là cái cửa võng làm vẻ-vang cho nhà cửa.
Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân: câu này do câu thơ cổ : "Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đáp tam xuân huy "
Ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Đó là lời một người con đi xa nhớ mẹ -tấc cỏ ví như con, ba xuân ví như cha mẹ.
kẻ Tấn, người Tần: chữ Tấn Tần, đây nói về sự chia rẽ ra làm đôi ngả như Tấn với Tần.
chữ cù: bởi câu : ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao : thương thay cha mẹ ta, sinh ta ra khó nhọc.
thập nữ viết vô: mười con gái cũng là không.
biệt thi: thơ từ biệt, nguyên văn chữ Hán bài thơ của Hạnh Nguyên : Nhật nhật khuê trung tư phượng-hoàng,
Mộng hồn nhất đán viễn tha hương,
Tư thân bất đắc qui nguyên lý,
Chỉ vị can qua xuất họa đường,
Chỉ thuyết cao đường thượng thị phụng,
Khởi tri kim nhật vĩnh phân mang,
Tòng kim nan đổ song thân diện,
Yêu đắc tượng phùng mộng lý thường.
Nghĩa là:
Ngày ngày ở trong buồng thêu chim phượng hoàng,
mộng hồn bỗng một buổi đi xa đất khách,
nhớ mẹ cha chẳng được trở về làng cũ,
chỉ vì gươm giáo nổi lên ở nơi buồng thêu.
Những tưởng chốn thềm cao hầu hạ cha mẹ,
biết đâu ngày nay chia cách mãi.
Từ đây khó lòng trông thấy mặt hai thân,
https://thuviensach.vn
mong sao được gặp nhau trong giấc mộng luôn luôn.
Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già: câu này nói cha mẹ đã già. Trâm-anh, chung đỉnh: trâm là cái để cài tóc, anh là giải mũ, trâm-anh là biểu-hiệu hạng nguời có quan tước áo mũ. Chung-đỉnh đã chú thích ở trên. hàn-thực: Theo Tuế-thì-ký thì sau tiết Đông-chí 105 ngày là tiết Hàn-thực. Cũng gọi là tiết "cấm yên ".
Tục truyền xưa có Giới Tử Thôi đời Xuân-thu, có công giúp Tấn Trùng Nhĩ được phục-quốc nhưng không nhận thưởng, vào ẩn trong núi. Trùng Nhĩ tìm mãi không được, đốt núi để cho ra nhưng Tử Thôi đành chết cháy ; người Tàu thương xót cứ đến ngày đó thì cấm lửa để kỷ niệm Tử Thôi , gọi là tiết Hàn-thực, nghĩa là ăn đồ lạnh.
thanh-minh: sau Hàn-thực một ngày là tiết Thanh-minh, người Tàu quen dùng tiết ấy làm ngày đi tảo mộ, gọi là tiết đạp thanh : giãm chân lên đám cỏ xanh.
Kiệu-phu: Phu khiêng kiệu.
tràng-đình: mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, cứ cách 5 dặm có một đoản-đình : (đình ngắn) và 10 dặm có một trường-đình : (đình dài).
Mai Bích: tức Mai-sinh.
Ải-quan: cửa ải, nơi quan-yếu ngoài biên-giới, chỗ hai nước tiếp-giáp nhau.
Hàm-đan: một huyện thuộc đạo Đại-danh tỉnh Trực-lệ bên Tàu.
https://thuviensach.vn
Vô Danh
Nhị Độ Mai
Trang 6
26.- Hạnh-Nguyên cùng Mai-sinh tự-tình trên trùng đài (câu 1001-- câu 1056)
Nàng truyền đóng lại nghỉ-ngơi,
Lên đền dạo cảnh, xem chơi gọi là.
Huyện-thành sắm-sửa gần xa,
Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.
Hương-đăng vừa đủ lễ-nghi,
Tiện, nàng lên đấy lạy về gia-hương.
Quan quân đóng chật huyện-đường,
Một nàng Hạnh với hai chường cùng lên.
Từng từng đợt dưới, đợt trên,
1010.- Ngẫm xem phong-cảnh bốn bên trập-trùng,
Cao cao thôi lại từng từng,
Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa,
Bảo nhau rồi mới nhận ra,
Đông-nam phương ấy, ấy là cố-hương.
Xuân-sinh đón biết ý nường,
Muốn điều từ-biệt với chường Mai-sinh.
Một mình bước xuống làm thinh,
Mặc ai trên ấy tự tình với ai.
Trông chàng nàng mới rỉ tai: 1020.- "Trăm năm ghi tạc một lời từ đây. "Bao nhiêu tình-tự xưa nay,
https://thuviensach.vn
"Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!" Mai-sinh nhân lúc vắng người.
Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau: "Nói càng như gợi cơn sầu,
"Trách vì phúc bạc xứng đâu má đào. "Tấc lòng thề với trời cao,
"Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây. 130.- "Sẵn ngôi phi-hậu dành ngày vinh-hoa. "Riêng ai trách lẫn trời già,
"Xe tơ sao khéo hững-hờ cợt ai."
Nàng rằng: "Lời dạy dường sai,
"Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày. "Sông dù cạn núi dù lay.
"Đã liền xương trắng dám thay lòng vàng. "Đem thân đối với cương-thường. "Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời. "Mình nào sánh với tanh-hôi?
1040.- Mặt nào còn đứng cõi đời được ru! "Khuyên chàng ghi nghĩa xuân-thu, "Mối tình hãy gác, nỗi thù chớ quên. "Cùng em cho tiện sách đèn,
"Công-danh gặp hội thanh-niên đương vừa, "Một mai lộc nước phấn vua,
"Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong. "Thân ai đành trọn chữ tòng,
"Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm. "Rồi đây kẻ bắc, người nam,
1050.- "Cành thoa xin tặng để làm của tin. "Vật thường gọi chút làm duyên!" Luật Đường mới ngụ một thiên giãi-bày. Trùng-đài còn nhớ là đây,
Giã nhau gọi nhớ đến ngày biệt-ly.
https://thuviensach.vn
Mai-sinh đôi giọt dầm-dề,
Thoa thì chịu lấy, thơ thì Man-phương
27.- Hạnh-Nguyên cải trang (câu 1057-- câu 1074)
Bâng-khuâng lời ít tình nhiều,
Thị-tì đâu đã dập-dìu kéo lên.
Cùng nhau lạy trước đài tiền,
1060.- Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe. Gia-hương tình nặng bề-bề,
Ải-quan đâu đã gần kề tới nơi.
Tổng-binh sửa chốn nghỉ ngơi,
Đảng-công đã dạy cho mời cải-trang.
Ngắm mình ra vẻ Man-phương,
Xiêm tơi-tả bức, áo lang-lổ mùi.
Lông cài trên mũ một đôi,
Đổi hình khuê-nữ ra người Yên-chi.
Ngựa đâu kéo đến tức thì,
1070.- Mai-sinh gần đấy phù trì lên yên.
Hình-dung ai vẽ cho nên,
Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.
Hai chàng cảm nỗi gần xa,
Đều cùng đọc một câu thơ tiễn-hành.
28.- Lúc chia rẽ mỗi người mỗi ngả (câu 1075 - câu 1094)
https://thuviensach.vn
Lên yên nàng cũng gửi tình,
Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.
Ngại-ngùng thay, lúc phân kỳ,
Người về cố-quốc, kẻ đi sa-trường.
Người đồng thất, kẻ tha-phương,
Hàng châu sùi-sụt, bước đường chia đôi.
Nàng còn dặn với mấy lời:
1080.- "Thù kia chớ để đội trời ở chung.
"Sao cho tâm-lực hiệp đồng,
"M ổ gan nghịch-tặc, thỏa lòng nữ-nhi".
Xót người tú các hương khuê,
Mối tình ly-biệt, đường đi phong-trần.
Lạ tai mấy tiếng man-nhân,
Giọng xa ríu-rít giọng gần ét-eo.
Bên trời phong-cảnh đìu-hiu,
Sương soi cỏ áy, gió reo cây già.
Sắc quân hiệu-lệnh càng gia,
1090.- Tiếng còi lư-diệp, lá cờ ngô-công.
Bước đường ngày một lạ-lùng,
Tiểu-thư ngày một đau lòng biệt-ly.
Quen tài tức cảnh vịnh đề,
Trên yên mới vịnh cổ thi một bài.
29.- Hạnh-Nguyên yết đền Tô-vũ (câu 1095 - câu 1116)
https://thuviensach.vn
Ngựa giong mấy lớp dặm khơi,
Núi cao đã thấy gần nơi điện tiền.
Thổ-binh quỳ trước thưa lên:
Núi Hà-lan ấy có đền Tô-quân,
Bước vào xem tượng truyền-thần,
1100.- Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan
Tấc lòng kính kẻ trung-can,
Liền tay vịnh miếu, vịnh sơn hai bài.
Lần lần gió tối sương mai,
Đường đi thoắt đã tới nơi đại hà.
Hỏi ra mới biết rằng là,
Ấy sông Hắc-thủy mộ bà Chiêu Quân.
Nàng bèn truyền gọi thổ-nhân,
Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.
Yên xong mới bảo thị-tỳ,
1110.- Đã thay Hồ-phục để chi áo này.
Ném theo một khúc sông đầy,
Hoa trôi mặt nước, bướm bay giũa dòng.
Vì đâu y-phục bất đồng,
Bỗng đem nữ sức phó cùng thủy hương.
Trông theo tấc dạ thêm càng,
Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.
30.- Hạnh-Nguyên yết miếu Chiêu-Quân (câu 1117.- câu 1182.)
https://thuviensach.vn
Đương trường dặm ngựa ruổi mau,
Trông lên đã thấy miếu đâu gần gần.
Trên yên dạy hỏi thổ-quân,
1120.- Thưa rằng: "Miếu ấy Chiêu Quân một tòa. "Xuất thân từ thủa Hán-gia,
"Quyết liều đến Hắc-thủy hà trầm châu. "Tiết-trinh khôn đổi được đâu,
"Vóc thiêng ngược nước trở đầu về nam. "Cõi này mến chút danh thơm,
"Dựng làm miếu-vũ sớm hôm phụng thờ. "Một phương bậc tối linh-từ,
"Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu.
"Oai-linh đã khắp đâu đâu,
1130.- "Kẻ xin cứu bệnh, người cầu chiêm-bao." Tiểu-thư nghe nói mừng sao,
Trước đền xuống ngựa, bước vào thử coi. Nguy-nga miếu mạo hẳn-hoi,
Một tòa thần-tượng trên ngồi nghiễm-nhiên Oai-linh vóc thánh, dáng tiên,
Lồng màn vẻ trắng, ánh đèn sắc tươi. Son vàng mặt khảm tay ngai,
Lò trong ngát xạ, đỉnh ngoài bay hương, Lạnh-lùng bát-ngát hơi dương,
1140.- Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai, Nữ-đồng, võ-sĩ đủ người.
Hầu trong hai ả, chầu ngoài tám viên. Đồ thờ cắm giá án tiền,
Một bên bảo-kiếm, một bên tỳ-bà.
Tiểu-thư lưỡng-lự một giờ,
Sụp ngồi bốn lạy xa xa tự tình.
Khấn thầm thở ngọn, than ngành:
"Nỗi chồng oan-uổng, nỗi mình truân-chiên.
https://thuviensach.vn
"Lầm người vì chước hòa Phiên,
1150.- "Đem thân yểu-diệu tới miền hôi-tanh. "Đánh liều bao quản tử sinh,
"Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu-man. "Thiêng chăng thu lấy hồn oan,
"Rộng cho chầu-chực trước ban là nhờ!" Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,
Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao. Hay đâu mấy bộ Công-tào,
Đã đem lời khấn tâu vào Chiêu Quân. Phán rằng: "Mới thực hiền-nhân,
1160.- "Nặng bề sơn-hải nhẹ thân yêu-kiều. "Bảng trời hôm nọ mới treo,
"Mai-sinh tên đã giật lèo Trạng-nguyên. "Ngày sau phu-phụ đoàn viên,
"Nay ta hãy cứu một phen mới là."
Bèn ban nữ-sứ bước ra,
Đòi hồn nàng lại, nhủ qua ân cần.
Rằng: "Ta là Hán Chiêu Quân,
"Cứu cho cũng dự phu-nhân trinh thành. "Rồi ra về đến quê mình,
1170.- "sau đây phu quí phụ vinh vẹn tròn. Dạy rồi phó trả thần-hồn,
Lại đòi lực-sĩ ôn-tồn nhủ qua:
"Đón nàng khi sắp đầu hà,
"Đem về đại-quốc vườn hoa Bá Phù. "Người Trung-châu, trả Trung-châu,
"Mặc ai trọn nghĩa, báo thù mặc ai."
Gió đâu lọt cánh cửa ngoài,
Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm-bao.
Nghĩ ra nào biết đâu nào,
1180.- Vững lòng khi dám chắc vào những đâu...
https://thuviensach.vn
Án tiền ren-rén cúi đầu,
Bước ra lại vịnh bốn câu lưu đề.Chú thích:
Huyện-thành: tức huyện sở tại
Hương-đăng : hương đèn.
gia-hương: quê nhà.
cố-hương: làng cũ.
trắng tóc, nỡ nào nối dây: Trắng tóc do chữ bạch phát ; nối dây do chữ tục huyền, ý nói dù ở góa đến già cũng không lấy vợ kế.
phi-hậu: danh-từ gọi vợ vua.
cương-thường: tức tam cương ngũ thường đạo làm người phải có. nghĩa xuân-thu: do câu Xuân-thu nghĩa tại phục-thù : Nghĩa Xuân-thu cốt ở phục-thù.
thanh-niên: tuổi xanh.
chữ tòng: tòng : theo, do chữ xuất-gía tòng phu, lấy chồng theo chồng và phụ-nhân tòng nhất nhi chung. Đàn bà chỉ theo có một chồng là hết. [Back to the top]
một thiên giãi-bày: Nguyên văn chữ Hán của thơ Hạnh Nguyên :
Phy-thê nam bắc cách thiên giao,
Nguyện chỉ thiềm cung chước cẩm-điêu.
Trở cách nhân-duyên Hoa hạ giới .
Song song hà nhật độ Lam-Kiều.
Nghĩa là vợ chồng nam bắc cách nhau xa, xin tới cung trăng mặc áo bông gấm, cách trở nhân duyên trong cõi Hoa-hạ, Ngày nào song song sang qua cầu Lam.
https://thuviensach.vn
họa theo: Thơ họa lại của Mai-sinh :
Mã thượng đà yên đồ lộ giao,
Vĩnh từ trung thổ phục Hồ-điêu,
Giới hà cách trở tình non tự,
Sạ đắc song song độ thước kiều.
Nghĩa là :
Trên ngựa tựa yên ruổi đường xa, vĩnh viễn từ giã nơi trung-thổ mặc áo rợ Hồ, Cách trở con sông tình khôn giãi, sao được cùnh nhau sang qua cầu ô. cải-trang: thay đồ quần áo mặc.
Man-phương: Phương mường-mán.
khuê-nữ<: Con gái trong phòng khuê, gái nhà nền-nếp.
Yên-chi: Danh-hiệu vợ vua các nước di-địch, cũng như hậu-phi hay hoàng hậu.
phù trì: nâng đỡ.
Hương xa: Xe thơm, xe phụ-nữ.
mã yên: Yên ngựa.
câu thơ tiễn-hành.: Thơ của Xuân-sinh :
Khả hận Đường vương tác sự sa,
An bang hà dụng nữ kiều nha.
Nghĩa là :
Khá giận vua Đường làm việc bậy,
Yên nước sao phải dùng đến con gái !
Thơ của Mai-sinh nối theo :
https://thuviensach.vn
Phù thượng mã yên sầu bất ổn,
Xử nhân tâm tự loạn như ma.
Nghĩa là :
Nâng lên yên ngựa buồn rằng chẳng yên ổn,
khiến mối lòng bối-rối như sợi gai tơ.
[Back to the top]
nàng cũng gửi tình: Thơ của Hạnh Nguyên nối theo :
Kim nhật xuân quan phân biệt hậu,
Lệ ngân trích thấu mã đề xa .
Nghĩa là :
Ngày nay ra ải-quan sau khi chia rẽ,
Ngấn nước mắt nhỏ thấu đến chân ngựa.
cố-quốc: nước cũ
sa-trường.: Bãi cát
đồng thất: Cùng nhà.
tâm-lực hiệp đồng: Lòng và sức hợp cùng với nhau.
nghịch-tặc: Kẻ làm trái loạn, quân giặc phản bội
phong-trần: gió bụi, ví cơn loạn-ly, hay bước gian-nan lưu-lạc của con người ta.
man-nhân: Người Mán . Đây trỏ vào dân bản-xứ ở bên nước Sa-đà. lư-diệp, ngô-công: Lư-diệp : Lá lau, có lẽ là cuộn lá cây lau lại làm còi ? Ngô-công : Con rết, cờ quăn-queo như hình con rết.
cổ thi một bài: Thơ của Hạnh Nguyên theo nguyên văn chữ Hán :
https://thuviensach.vn
Tây phong lịch lịch bích ngô thu,
Thao thiết thanh trung xứ xứ sầu,
Mạc đạo ngô tâm đa thảm thiết,
Chinh phu bách vạn diệc đê đầu .
Nghĩa là :
Gió tây thổi rụng lá ngô-đồng báo tin mùa Thu ,
Tiếng gió xào xạc nơi nào cũng nghe buồn.
Đừng bảo chỉ riêng một mình ta thảm thiết,
Ngay trăm vạn quân-lính cũng cúi đầu ngẫm-nghĩ.
[Back to the top]
Thổ-binh: lính thổ, quân lính người thổ-trước, tức là quân của nước Sa-đà đi theo hầu đón rước Hạnh Nguyên lúc bấy giờ.
Tô-quân: tức Tô Vũ. Sứ-thần đời Hán-vũ-đế đi sứ rợ Hung-nô, bị Hung-nô giữ lại bắt đi chăn dê 19 năm mới được tha về. Thổ dân kính phục là người kiên trung, lập đền thờ ở nơi Tô Vũ chăn dê khi trước, có lẽ là núi Hà-lan ? khuôn nguyệt, vẻ đan: Khuôn trăng ; vẻ đan : mùi son, màu đỏ.
vịnh miếu, vịnh sơn: Thơ vinh Miếu :
Ngọa tuyết thôn triên bất khẳng hàng,
Kỷ phiên cáo nhạn bả thư truyền.
Thủ trì phù tiết tồn trung hiếu,
Hận mục Hồ dương thập cửu niên.
Nghĩa là :
Nằm tuyết, nuốt lông chẳng chịu hàng ,
mấy phen bảo chim nhạn mang thư về.
Tay cầm ấn cờ giữ vững lòng trung hiếu,
chăn dê rợ Hồ 19 năm.
https://thuviensach.vn
Thơ vịnh Sơn :
Phụng mệnh khâm-sai hoà lưỡng quốc,
Hà-lan vật tỉ Bật-lan san,
Lăng , Luật đình tiền một Phạm Lãi,
Si hồn nan tiến Nhạn-môn-quan.
đại hà: Sông lớn.
Hắc-thủy: Sông nước đen, nơi Chiêu Quân gieo mình. y-phục bất đồng: Áo mặc chẳng giống nhau.
nữ sức: Đồ trang-sức của phụ-nữ.
thủy hương: Làng xóm dưới nước. Nơi thủy-phủ, Thủy-cung. luật Đường bốn câu: Nguyên văn chữ Hán thơ của Hạnh Nguyên :
Trung-nguyên phục sắc hướng trung lưu.
Ái cáo Hà-thần tử tế thu,
Dục tương bạc mệnh phó lưu thủy,
Thân cận trung hoa ý bất lưu.
Nghĩa là :
Hòm quần áo Trung-nguyên đem ném xuống dòng nước. Nhắn xin thần Hà-bá thu-nhận hẳn hoi cho.
Mong đem mệnh bạc này phó cho nước chảy,
nhưng còn gần nơi Trung-hoa chưa giải-quyết xong, [Back to the top]
Hán-gia: Đời nhà Hán.
trầm châu:Chìm ngọc châu cũng nhu nói gieo ngọc chìm châu. miếu-vũ: Tòa miếu thờ.
https://thuviensach.vn