🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nguyên Hồng Toàn Tập 1
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục lục
Tiểu Sử Nguyên Hồng (1918-1982) Lời Giới Thiệu
Linh Hồn
Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn
Bảy Hựu
Đây, Bóng Tối
Trong Cảnh Khốn Cùng
Con Chó Vàng
Sông Máu
Chín Huyền
Hàng Cơm Đêm
Tôi Dạy Học
Hai Nhà Nghề
Sau Cơn Giông Tố
Người Chị
Sau Hai Mươi Năm
Con "Đoàn" Cuối Cùng
Tội Ác
Mối Hờn
Nhà Bố Nấu
Hai Mẹ Con
Khói "Ken Nếp" Và Xà Lim Tết Của Tù Đàn Bà
Lớp Học Lẩn Lút
Những Mầm Sống
Cô Gái Quê
Những Giọt Sữa
Sự Đau Khổ Của Một Con Người Người Đàn Bà Tàu
https://thuviensach.vn
Mợ Du
Bố Con Lão Đen
Cái Xích Cũ
Người Mẹ Không Con
Miếng Bánh
Người Con Gái
Một Trưa Nắng
Láng
Lúc Chiều Xuống
Hai Dòng Sữa
Giọt Máu
Cánh Cửa Xám
Thịt Chết
Buổi Chiều Xám
Trước Xác Chết
Đi
Tàu Đêm
Vũng Máu
Bà Cụ Việt
Lửa Thiêu
Cơn Sốt
Lưới Sắt
Ngòi Lửa
Tiếng Nói
Một Buổi Chiều Nhà Quê Con Gái Người Mãi Võ Họ Hoa Những Ngày Thơ Ấu
Bước Đường Viết Văn
Một Tuổi Thơ Văn
https://thuviensach.vn
NGUYÊN HỒNG TOÀN TẬP 1 Nguyên Hồng
www.dtv-ebook.com
Tiểu Sử Nguyên Hồng (1918-1982)
Nguyên Hồng họ Nguyễn, tên khai sinh đồng thời cũng là bút hiệu duy nhất trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Nguyên Hồng sinh ngày 5- 11-1918 tại phố Hàng Cau, thành phố Nam Định trong một gia đình nghèo theo đạo Thiên Chúa. Mười hai tuổi, bố chết vì ho lao, người mẹ trẻ nghèo khổ phải vào Vinh ở vú đầm, rồi mấy năm sau đi bước nữa. Mười lăm tuổi, vừa đậu xong Tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội rồi bị giải đi Phúc Yên. Mười sáu tuổi, hết hạn tù được tha, Nguyên Hồng phải từ giã thành phố Nam Định và người bà nội ngoan đạo, cùng mẹ và bố dượng ra sinh sống ở xóm Cấm, Hải Phòng. Hơn ba năm, Nguyên Hồng đã dạy học lẩn lút trong các xóm nghèo lao động với hơn hai mươi đứa trẻ lau nhau, rách rưới, con em của những người làm nghề đội than, khuân vác hoặc buôn thúng bán mẹt ở xóm Cấm và xóm chùa Đông Khê. Cũng chính ở Hải Phòng, Nguyên Hồng gặp nhà thơ Thế Lữ (1935), kiện tướng của phong trào Thơ mới, thành viên của Tự lực văn đoàn. Từ đó, người thanh niên thất nghiệp này nuôi khát vọng đi vào con đường văn chương, coi văn chương là lẽ sống cao cả nhất của đời mình. Những trang bản thảo đầu tiên rất trong sáng và say mê của tiểu thuyết Bỉ vỏ và hồi ký Những ngày thơ ấu đã được hình thành dần trong những căn nhà ổ chuột tối tăm, bẩn thỉu của khu phu phen thuyền thợ xóm Cấm, Hải Phòng. Năm 1937, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng và Kim tiền của Vi Huyền Đắc được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn và từ năm 1938 báo Ngày nay bắt đầu giới thiệu Những ngày thơ ấu. Mối quan hệ giữa Nguyên Hồng với Thạch Lam bắt đầu từ những ngày đó.
https://thuviensach.vn
Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Nguyên Hồng đã bắt đầu liên lạc với chính trị phạm ở Sơn La, Côn Lôn trở về như Vũ Thiện Chân, Bùi Vũ Trụ và ở trụ sở chi nhánh báo Thời thế ở đường Cát Dài, Hải Phòng, Nguyên Hồng đã có cơ hội tìm đọc Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Vấn đề dân cày của Qua Ninh, Vân Đình, Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến và những tiểu thuyết của Marxime Gorki... Năm 1938, Nguyên Hồng gặp Như Phong, sinh hoạt trong Đoàn Thanh niên Dân chủ và viết trên các báo Thế giới, Người mới và Mới cùng với Như Phong, Nguyễn Thường Khanh, Trần Minh Tước, Lưu Quý Kỳ (Thanh Vệ) và Lê Hy (Lã Vĩnh Lợi). Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, ngày 29-9-1939, Nguyên Hồng bị mật thám Pháp bắt bỏ tù ở Hải Phòng về tội tàng trữ và truyền bá sách báo cộng sản. Trong nhà tù Hải Phòng, Nguyên Hồng đã được gặp Tô Hiệu, Bùi Đình Đống, Ngô Minh Loan và tham dự lớp huấn luyện theo Đề cương cách mạng tư sản dân quyền do Bí thư thành ủy Tô Hiệu hướng dẫn. Những vốn sống quý báu đó đã tạo điều kiện cho Nguyên Hồng viết về những chiến sĩ cách mạng trong Lưới sắt, Lò lửa, Sóng gầm...
Năm 1940, Nguên Hồng lại bị bắt giam và bị giải lên trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang, đi làm cỏ vê, gánh đá cùng với Xuân Thủy, Đinh Nhu, Trần Các... Tiểu thuyết Xóm Cháy (phác thảo đầu tiên của Sóng gầm) viết được 300 trang thì bị bọn mật thám tịch thu, ông chuyển sang viết những mẩu ngăn ngắn giả làm nhật ký thư (Cuộc sống).
Cuối mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc bí mật (trong Mặt trận Việt minh) cùng với Như Phong, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng... Chính trong tổ chức này, Nguyên Hồng được đọc Đề cương Văn hóa 1943 của Đảng và những phương châm của Đề cương đã có ảnh hưởng rõ rệt đến những tác phẩm như Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Ngọn lửa, Buổi chiều xám..., những tác phẩm được viết trong thời kỳ Tiền khởi nghĩa.
https://thuviensach.vn
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyên Hồng tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, là biên tập viên tạp chí Tiên phong, cơ quan vận động văn hóa mới của Đảng. Sau đợt Nam tiến vào mặt trận Nha Trang, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, Nguyên Hồng cùng gia đình lên Việt Bắc, sống ở ấp Cầu Đen, Yên Thế cùng với một số văn nghệ sĩ như Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng... Nguyên Hồng tham gia hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam, là biên tập viên tạp chí Văn nghệ của Hội và phụ trách trường Văn nghệ nhân dân Trung ương. Năm 1948, Nguyên Hồng cùng với Nam Cao được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Hòa bình lập lại năm 1954, Nguyên Hồng cùng gia đình về Hà Nội, công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Tháng 4 - 1957, Hội Nhà văn Việt Nam thành lập, ông tham gia Ban Chấp hành, làm Thư ký tòa soạn tuần báo Văn của Hội. Năm 1958, Nguyên Hồng về tham gia lao động ở nhà máy Xi măng Hải Phòng, chính thời gian này ông bắt đầu thai nghén tiểu thuyết Cửa biển, bộ tiểu thuyết - sử thi bốn tập đầu tiên ở nước ta. Từ năm 1962, Nguyên Hồng cùng gia đình trở lại ấp Cầu Đen, Yên Thế (nay là xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang). Tháng 1 -1963, tại Đại hội Nhà văn lần thứ II, Nguyên Hồng được bầu vào Ban Chấp hành và năm 1964 được cử làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng. Sau Hải Phòng, Yên Thế đã trở thành quê hương thứ hai của Nguyên Hồng, là nơi ông sống lâu nhất và cũng là nơi ông đang xây dựng một bộ tiểu thuyết lịch sử ba tập: Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế. Tập hai đang hoàn thành thì ông đột ngột từ trần ngày 2-5-1982.
Nhà văn Nguyên Hồng được Chính phủ truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba và giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996). Nguyên Hồng là một nhà văn xuôi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời cũng là người thầy trực tiếp dìu dắt nhiều thế hệ nhà văn trẻ đi vào con đường sáng tác văn học.
https://thuviensach.vn
TÁC PHẨM NGUYÊN HỒNG
· Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938)
· Bảy Hựu (tập truyện ngắn, 1940)
· Những ngày thơ ấu (hồi ký, 1940)
· Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942)
· Qua những màn tối (truyện vừa, 1942) · Quán Nải (tiểu thuyết, 1942)
· Hai dòng sữa (tập truyện ngắn, 1943) · Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1944)
· Vực thẳm (truyện vừa, 1944)
· Ngọn lửa (truyện vừa, 1944)
· Miếng bánh (tập truyện ngắn, 1945) · Địa ngục và Lò lửa (tập truyện ngắn, 1946) · Đất nước yêu dấu (ký, 1949)
· Đêm giải phóng (truyện vừa, 1952)
· Giữ thóc (tập truyện ngắn, 1956)
· Trời xanh (thơ, 1960)
· Sóng gầm (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1961) · Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1964)
https://thuviensach.vn
· Cơn bão đã đến (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1965)
· Bước đường viết văn (hồi ký, 1971)
· Thời kỳ đen tối (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1973)
· Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973)
· Sông núi quê hương (thơ, 1973)
· Khi đứa con ra đời (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1975) · Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978)
· Thù nhà nợ nước (tiểu thuyết lịch sử, 1981)
· Tuyển tập Nguyên Hồng (1983 - 1985)
DI CẢO
· Núi rừng Yên Thế (tập I trong bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế, 1993)
· Người con gái họ Dương (Dương Hậu) (kịch)
· Hoa trái đất (thơ)
NIÊN BIỂU NGUYÊN HỒNG
Tên khai sinh: Nguyễn Nguyên Hồng.
Ngày sinh: 5-11-1918
Nơi sinh: Phố Hàng Cau - Thành phố Nam Định.
Ngày mất: 2-5-1982.
https://thuviensach.vn
Nơi mất: Ấp Cầu Đen - huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.
1930: Bố mất, mẹ đi bước nữa. Ở với bà nội nhưng gần như phải tự lập để ăn học.
1935: Cùng gia đình ra Hải Phòng, lưu trú tại xóm Cấm, lén dạy tư để kiếm sống. Gặp Thế Lữ ở ngõ Nghè, quyết theo nghề văn.
1936: Đăng truyện ngắn đầu tay Linh hồn trên Tiểu thuyết thứ Bảy.
1937: Bỉ vỏ (tiểu thuyết) được đăng tải trên các báo và được trao giải thưởng của Tự lực văn đoàn.
1938: - Bỉ vỏ được in thành sách.
- Gặp Như Phong ở Hà Nội. Tham gia Cách mạng, mở đầu bằng việc dự mít tinh 1-5 tại Đấu Xảo. Vào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng.
- Viết cho các báo: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thế giới, Người mới ở Hà Nội; Mới, Đông Phương ở Sài Gòn.
- Hồi ký Những ngày thơ ấu được đăng nhiều kỳ trên Ngày nay từ số 134 (ra ngày 29-10-1938).
1939: - Bị chính quyền Pháp bắt giam ở Hải Phòng, kết án tù 6 tháng.
- In truyện ngắn Người đàn bà Tàu (sau đổi là Một người mẹ Trung Quốc) và một số truyện ngắn.
- Gặp Tô Hiệu (Bí thư Thành ủy Hải Phòng). Tiếp xúc trực tiếp với những người Cộng sản.
1940: Bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang). In Những ngày thơ ấu (NXB. Đời nay). Viết Xóm Cháy nhưng bị mất bản thảo.
https://thuviensach.vn
1941: In Bảy Hựu (tập truyện ngắn).
- Tháng 11, rời Bắc Mê, bị quản thúc tại Nam Định.
1942: Về Hà Nội. In Qua những màn tối (truyện vừa). Tháng 6, lập gia đình. In Cuộc sống (tiểu thuyết - NXB. Tân Dân).
1943: - Tham gia Hội văn hóa Cứu quốc bí mật cùng Tô Hoài, Như Phong, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao...
- In Hai dòng sữa (truyện ngắn), Quán Nải (tiểu thuyết), Đàn chim non (tiểu thuyết).
1944: In Vực thẳm (truyện vừa), Hơi thở tàn (tiểu thuyết)..., chịu ảnh hưởng rõ rệt của Đề cương Văn hóa 1943.
1945: - Tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Hà Nội.
- Là một trong những người sáng lập tạp chí Tiên phong.
- In Ngọn lửa (truyện vừa), Miếng bánh (truyện ngắn).
1946: Viết Địa ngục và Lò lửa (tập truyện ngắn), trong đó có một số truyện đã in trên Tiên phong. Tham gia Nam tiến đến mặt trận Nha Trang. Năm sau cùng một số gia đình văn nghệ sĩ lên khai phá ấp Kỳ Nhân (tức ấp Cầu Đen - Yên Thế). Tham gia Hội Văn nghệ Việt Nam (đến 1957).
1948: Kết nạp Đảng tại chiến khu Việt Bắc.
1949: In Đất nước yêu dấu (ký).
1952: Viết Đêm giải phóng (truyện vừa). Phụ trách Trường văn nghệ nhân dân Trung ương, Ban Văn hóa công nhân, được gọi thân mật là "ông đốc Hồng".
https://thuviensach.vn
1955: Hải Phòng giải phóng. Về làm báo tại thành phố cảng. In lại Đất nước yêu dấu. In Giữ thóc (truyện ngắn).
1956: Trở thành biên tập viên của báo Văn nghệ. In lại Địa ngục và Lò lửa. In Giọt máu (truyện ngắn).
1957: Tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa thành lập, phụ trách báo Văn. In lại Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu.
1958: Về Yên Thế, hình thành ý tưởng viết bộ tiểu thuyết Cửa biển. 1959: Viết Sóng gầm. In Trời xanh (thơ). In lại Địa ngục và Lò lửa. 1961: In Sóng gầm.
1963: Tham gia Ban vận động thành lập Chi hội văn nghệ Hải Phòng. In Sức sống của ngòi bút (tạp văn). In lại Những ngày thơ ấu. Gặp Pierre Abraham, chủ nhiệm tạp chí Châu Âu tại Hà Nội.
1964: Được bầu làm chủ tịch Chi hội văn nghệ Hải Phòng (mới thành lập) cho đến lúc mất.
1965: Về thăm quê.
1966: Đọc tham luận tại Hội nghị trí thức Việt Nam chống Mỹ cứu nước.
1967: In Cơn bão đã đến (trong Cửa biển).
1971: In Bước đường viết văn của tôi (hồi ký). Viết xong Thời kỳ đen tối (trong Cửa biển). In lại Bỉ vỏ.
1972: In Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi).
https://thuviensach.vn
1973: In Thời kỳ đen tối, Một tuổi thơ văn (hồi ký), Sông núi quê hương (thơ).
1976: In Khi đứa con ra đời (tập cuối), hoàn thành Cửa biển (hơn 2000 trang).
1978: In Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký). Xuất bản Tuyển tập Nguyên Hồng tại Liên Xô (Nguyễn Tuân đề tựa).
1981: In Thù nhà nợ nước (tập I, bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế).
1982: Sau khi Nguyên Hồng mất, NXB. Văn học in Tuyển tập Nguyên Hồng (tập I: 1983; tập II: 1984; tập III: 1985).
(Dựa theo Niên biểu Nguyên Hồng của Mai Hải Oanhbtrong Nguyên Hồng - Cát bụi và ánh sáng - NXB. Hội nhà văn 1992, có bổ sung)
DI CẢO:
- Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II - xuất bản 1993).
- Người con gái họ Dương (Dương Hậu) (kịch, 1978)
- Hoa trái đất (thơ, 1960)
GIẢI THƯỞNG:
- Giải văn chương của Tự lực văn đoàn trao cho Bỉ vỏ (1937)
- Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (Đợt I, 1996).
https://thuviensach.vn
NGUYÊN HỒNG TOÀN TẬP 1 Nguyên Hồng
www.dtv-ebook.com
Lời Giới Thiệu
Lần đầu tiên gặp Nguyên Hồng trong Khách sạn Metropole ở Hà Nội, Pierre Abraham (1892-1974), Tổng biên tập tạp chí Europe (Châu Âu) nhận xét: "Như từ bờ bãi sông Hồng đỏ rực gió cuốn đến đây, nhà văn lớn này là người của đất, thật là người của đất". Những ai gặp Nguyên Hồng lần đầu đều có ấn tượng như thế, đều không quên được cái dáng dấp tất tưởi, lam lũ, nụ cười tự tin, yêu đời trên khuôn mặt nhân hậu, còn in rõ dấu vết những tháng ngày đói khổ, tủi nhục trong cuộc đời sớm vất vả trước đây của anh. Có thể nói từ bé đến lớn, anh đã phải chịu đựng biết bao dằn vặt, đầy đọa trong những năm tháng dài dằng dặc và tối tăm của xã hội cũ. Mười hai tuổi, bố ho lao chết, người mẹ trẻ nghèo khổ phải từ giã con trai vào Vinh ở vú đầm; cậu bé thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu mọi tình thương yêu chăm sóc đã lang thang nơi đầu đường xó chợ, đánh đáo kiếm ăn, chung đụng với đủ các hạng trẻ nghèo đói, du đãng (Những ngày thơ ấu). Mười lăm tuổi, vừa đậu xong tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội rồi bị giải đi Phúc Yên, cậu "tù trẻ con"... (1)đã nhiều lần bưng mặt khóc ngay dưới gốc cây, bên cạnh xe bò rác mỗi khi nghĩ đến tuổi ấu thơ và cái thành phố quê hương của mình, nhưng rồi lại vội vội vàng vàng lấy vạt áo chùi nước mắt lúc chợt thấy người lạ đi qua. Đoạn tang cha, mẹ đi bước nữa, rồi năm sau, cậu thiếu niên hết hạn tù được tha. Họ hàng nhà chồng khinh bỉ người đàn bà cải giá và những người xung quanh rẻ rúng, ghê sợ đứa con trai "mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này sang lao khác".
-----
(1) Tù trẻ con là một tập ký pha tiểu thuyết hơn 300 trang, Nguyên Hồng viết xong bảy ngày trước khi bị Pháp bắt ở Hải Phòng (29-9-1939).
https://thuviensach.vn
Khi đi tù, bản thảo bị mật thám Hà Nội đốt mất.
Tránh mọi thành kiến hẹp hòi, mọi tai tiếng dị nghị, mọi con mắt xoi mói, dòm ngó ở một tỉnh nhỏ, gia đình Nguyên Hồng bỏ nơi chôn rau cắt rốn tìm ra Hải Phòng kiếm kế sinh nhai ở một thành phố công nghiệp ồn ào, đông đúc, cái nơi thiên hạ tứ xứ mà dù có phải kéo xe hay bán ốc đầu đường cũng được, không ai biết đấy là đâu...
Nhưng rồi từ ngày đó người ta thấy xuất hiện trên đường phố Hải Phòng một người thanh niên thất nghiệp, dáng người nhỏ bé lom khom, áo chùng thâm dán lấy ngực, mũ trắng vành to, gương mặt xanh xao mất máu, ngày ngày lang thang ở bến tàu Sáu Kho, Nhà máy xi măng, Sở dầu Thượng Lý hoặc chầu chực ở cổng các nhà máy Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ, Máy ống, các hãng chuyên chở hàng hóa, các bến ôtô tàu thủy, các kho hàng, cửa hiệu, tràn than, lán củi, hoặc lân la ở các xóm ngõ đầu đường nơi đi về của phu phen thuyền thợ... để nghe ngóng, thăm dò công việc. Vườn hoa Đưa người là chặng nghỉ cuối cùng sau những buổi sáng, buổi chiều đi chầu chực, xin xỏ các nơi không được việc gì cả, là nơi sau những buổi tối cơm chiều không có, đèn nhà hết dầu, anh đến đứng lặng thẫn thờ, trong lòng đau khổ, buồn bã vô cùng.
Chợ Vườn hoa Đưa người trông xuống sông Lấp, mà một bên bờ có khu nhà thương và khu đề lao. Đứng lẫn trong đám người thất nghiệp trên Hà Nội xuống, ở Nam Định ra, ngoài Hòn Gai, Cẩm Phả về tụ tập tại đây chầu chực đi ăn đi ở, Nguyên Hồng thường trông ra đường, lòng thắt lại khi thấy những chuyến xe chở vội những xác chết vô thừa nhận và những đám tù giải đi xử án. Những cảnh ngộ buồn thảm đó cứ trĩu xuống tâm hồn anh, đe dọa cuộc sống thoi thóp từng ngày của gia đình anh.
Bao nhiêu ngày tháng bị câu thúc thân thể, bị đày đọa tù tội, bây giờ lại thêm cảnh đói khổ thất nghiệp kéo dài, Nguyên Hồng nhiều lúc lo sợ, bối rối, tưởng mình sẽ chết đau đớn ở cái tuổi mười sáu. Và người thanh niên đó thấy ham sống, thèm sống, tha thiết, khắc khoải lạ thường. Anh
https://thuviensach.vn
nghĩ dù có chết cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn.
Đối với một người thanh niên thời đó, địa vị không có, gia đình suy tàn, học thức tầm thường nhỏ nhoi, anh nghĩ, chỉ còn một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý, trong sạch của văn chương. Và anh bắt đầu viết, viết suốt ngày suốt đêm, viết một cách đau khổ, say mê, bất chấp "cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng".
Bỉ vỏ được viết "trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro" (2). Cũng như một nhân vật của Nam Cao trong truyện ngắn Trăng sáng, Nguyên Hồng thường mê mải ngồi viết truyện giữa tiếng tranh giành xô xát, mỉa mai đay nghiến, eo sèo khắc khoải của những người dân nghèo trong các ngõ hẻm thành phố. Viết văn đối với anh là một lẽ sống. Cho nên ngay cả trong những ngày đi tù ở Bắc Mê, cứ mỗi buổi trưa đi làm cỏ vê về anh lại ngồi viết ở một gốc cây mé sau trại giam, dưới một bầu trời mờ mờ xám xám, xung quanh là màu xanh hoang vu của núi rừng dày đặc và tiếng gió rừng lạnh lẽo hú lên từ thung lũng này qua thung lũng khác (Cuộc sống).
-----
(2) Tôi viết Bỉ vỏ.
Cho đến những năm dài về sau, khát vọng sáng tạo vẫn cứ luôn luôn thôi thúc anh một cách mạnh mẽ, tha thiết, đến mức anh nghĩ rằng mình có thể chết dần chết mòn nếu như vì một lý do nào đấy, không thể cầm bút được nữa...
Những ảnh hưởng lung linh, choáng ngợp ban đầu của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, V.Hugo... có thể kéo cây bút Nguyên Hồng về phía chủ nghĩa lãng mạn. Cả cái hưng phấn nội tâm, cái bút pháp cường điệu, phóng đại
https://thuviensach.vn
cũng có thể hướng anh về phía đó. Nhưng cuộc đời đói khổ, lam lũ đã giúp cho ngòi bút của anh ngày càng cắm sâu trên mảnh đất màu mỡ của chủ nghĩa hiện thực.
Anh sẽ viết những sự thực đau đớn và những khát vọng da diết của cuộc đời anh và cuộc đời những người lao động nghèo cùng cảnh ngộ ở cái xóm Cấm và xóm chùa Đông Khê. Hơn ba năm, Nguyên Hồng đã dạy học lẩn lút trong cái xóm nghèo lao động đó với hơn hai mươi đứa trẻ lau nhau, rách rưới, con các phu phen thuyền thợ, các người buôn bán nhỏ, các người gánh nước thuê... Cả cái xóm lam lũ, đói khổ đó đã tin yêu, đùm bọc lấy cậu giáo nghèo của họ. Cho nên không phải là ngẫu nhiên mà hơn bốn chục năm nay, Nguyên Hồng đã viết về lớp dân nghèo thành thị với một "niềm tin tưởng tha thiết", một tình "yêu thương đắm đuối", một niềm đồng cảm sâu sắc của những người "cùng một hoàn cảnh, cùng một đời sống thấp kém và tối tăm, vì thiếu thốn đủ mọi thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi thứ" (Lớp học lẩn lút). Dường như mỗi nhà văn đều có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ. Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền thành phố. Anh luôn luôn nói đến những người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình nghĩa, với sự gắn bó thủy chung.
***
Trong mấy chục năm gần đây, người ta đã nói nhiều đến những tập tiểu thuyết của Nguyên Hồng như Bỉ vỏ, Sóng gầm, Cơn bão đã đến... Thực ra trong sự nghiệp văn học của anh, truyện ngắn có một vị trí quan trọng, không thua kém gì tiểu thuyết. Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo.
https://thuviensach.vn
Khá nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng được viết với một bút pháp hiện thực tỉnh táo. Trong các truyện Đây, bóng tối; Láng; Vực thẳm; Người con gái; Hai mẹ con, cái cường độ ngột ngạt căng thẳng cứ tăng lên mãi và tác giả, dường như cứ lạnh lùng, bình tĩnh xoáy sâu mãi vào chỗ tột cùng của bi thảm khiến cho người đọc bỗng cảm thấy đau xót, nhức nhối vô hạn cho những kiếp người thống khổ trong xã hội cũ. Trong một số truyện, để đạt hiệu quả tố cáo cao nhất, ngòi bút nghiêm ngặt của ông không ngần ngại phanh phui những chi tiết tỉ mỉ, trần trụi, đôi khi cứ như là chấp chới bên bờ của chủ nghĩa tự nhiên (Đi, Người học trò, Tàu đêm)... Lại có truyện, tác giả như giấu mình đi, sử dụng một lối văn trần thuật khách quan, một ngôn ngữ trung tính để cho lòng sôi sục căm giận của người đọc bị nén chặt lại, chuẩn bị cho quả bộc phá bùng nổ (Ngòi lửa, Giọt máu). Nhưng cũng có truyện tràn đầy một âm hưởng trữ tình lãng mạn, không phải thứ lãng mạn tiêu cực, thoát ly mà là một chất thơ bắt nguồn từ cuộc sống cần lao của người dân Hải Phòng, một chủ nghĩa lãng mạn cách mạng bắt nguồn từ một niềm tin lý tưởng (Những mầm sống, một số truyện trong Cuộc sống). Có khi lại là màu sắc lãng mạn trong các truyện dân gian, nhân vật "trông như là Thạch Sanh hay quân lính của đức Thánh Gióng, đức Thánh Trần vậy" (Chuyện cái xóm tha hương).
Tính chiến đấu của truyện ngắn Nguyên Hồng được thể hiện qua những thủ pháp nghệ thuật tương phản trong việc xây dựng kết cấu và hệ thống hình tượng. Có khi là sự đối lập giữa hai kiểu người, hai lối sống, một bên là lòng nhân hậu, là nghĩa thủy chung, một bên là sự hưởng thụ ích kỷ, là thói độc ác tàn nhẫn (Giọt máu, Cô gái quê, Nhà bố Nấu). Cũng có khi là sự đối lập giữa hai quan điểm nghệ thuật (Hai dòng sữa, Cái bào thai). Có truyện tác giả để cho sự việc tự nói lên (Giọt máu) nhưng cũng có truyện mang tính luận đề rõ rệt và các chi tiết ít nhiều có ý nghĩa tượng trưng (Một trưa nắng, Hai dòng sữa). Truyện ngắn của Nguyên Hồng đôi khi có khuynh hướng mở rộng quy mô và dung lượng, kết cấu dàn trải theo chiều dài cuộc đời bi thảm của nhân vật (Người con gái; Đây, bóng tối; Con gái người mãi võ họ Hoa); nhưng cũng có truyện chỉ là một cảnh ngộ tối
https://thuviensach.vn
tăm (Tôi dạy học, Lúc chiều xuống), một câu chuyện dằn vặt lương tâm (Miếng bánh). Khi Nguyên Hồng tránh được sự dàn trải trong truyện ngắn và cả trong tiểu thuyết (Hơi thở tàn, Quán Nải), biết tập trung vào tấn bi kịch của cuộc đời, thì thường anh có những truyện ngắn xuất sắc (Giọt máu, Buổi chiều xám).
Ở đây, ngòi bút của anh khá linh hoạt. Khi thì miêu tả lướt qua những tấn bi kịch của một đám đông (nạn đói năm 1945), trong đó làm nổi lên một số trường hợp điển hình (Người học trò, Tàu đêm), khi thì từ cuộc đời lam lũ, vất vả của một cô gái, tác giả soi sáng cuộc đời chung của những người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng, thầm lặng hy sinh trong xã hội phong kiến (Hàng cơm đêm). Ống kính của người viết truyện đang quay cận cảnh, bỗng mở ra một viễn cảnh rộng lớn, có tầm khái quát cao hơn.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng sử dụng nhiều bút pháp, nhiều lối kết cấu và xây dựng nhân vật khác nhau. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đều nhằm phản ánh cuộc sống của từng lớp dân nghèo thành thị: những cuộc đời lương thiện bị vùi dập tan nát, những tấm lòng yêu thương đùm bọc, nhân nghĩa thủy chung, những khao khát ước mơ trong sáng, đẹp đẽ hướng về một thế giới tràn đầy ánh sáng và lý tưởng.
Tác phẩm Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc sống lam lũ cơ cực, bần cùng của những người lao động nghèo khổ ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm các thành phố lớn như ngoại ô Bạch Mai, ô Yên Phụ, bãi Phúc Xá, bãi Nhà dầu ở Hà Nội hay xóm Cấm, xóm chùa Đông Khê, xóm Chợ con, ngõ Hàng Gà của Hải Phòng. Những nhân vật của Nguyên Hồng thường sống trong những xóm nhà lá hoặc lợp tôn chen chúc, úp xúp, với những ngọn đèn leo lét như ngái ngủ, đêm đến vang lên tiếng muỗi như ri và những tiếng ú ớ trong giấc ngủ mê mệt sau một ngày bán sức quần quật ở Sáu Kho, Máy đá, Ximăng... Chúng ta cũng thường gặp họ ở những ngõ hẻm lầy lội mà sau một trận mưa, nước ngập vào tận giường ngủ của các gia đình, những ngày mùa hè luôn luôn có tiếng ầm ầm xô xát giành giật nhau
https://thuviensach.vn
ở ngoài máy nước đầu ngõ; cái ngõ hẻm đêm ngày nhớp nháp vì người ta gánh nước, đổ rác, gánh rau đậu đi chợ và luôn luôn nổi lên những tiếng kêu cướp giật, ăn uống chằng bửa, đi xe quỵt, đánh chém nhau vì một ván bài ù không được tiền hay vì giọng cười khiêu khích của một gái nhảy.
Nguyên Hồng không miêu tả trực tiếp quá trình những người nông dân phá sản, bị cướp đoạt, bỏ làng quê ra thành phố nhưng anh thấy rõ số đông dân nghèo ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định là những người lìa hẳn quê lên đây "sau mấy năm lụt lội, đói khát, dịch tễ liên tiếp, họ đâu như đã bán nốt miếng đất cuối cùng của ông cha cho bọn kỳ lý, cho Nhà Chung, để gỡ nợ, để chạy kiện, để thoát vạ rượu, vạ cướp tiêu sưng, để khỏi nhìn những cảnh đau tủi, uất ức mà đi tha hương cầu thực, thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt rốn của họ, đời họ có thay đổi được chút nào không?" (Ngọn lửa). Trong số họ cũng có những cô gái quê bị mẹ gả bán, ép uổng hoặc bị đày đọa bởi những hủ tục, luật lệ phong kiến khắc nghiệt, đã bỏ làng ra tỉnh rồi bị lừa bịp, cưỡng hiếp, biến thành lưu manh, gái điếm (như Tám Bính trong Bỉ vỏ) hoặc rơi vào ổ của bọn cờ bạc bịp và buôn hàng lậu (Muống trong Quán Nải)... Sớm muộn thì cái đám dân quê xiêu dạt ra thành phố này sẽ dần dần mất đi lịch sử riêng, mà chỉ còn là đám đông vô danh trong một bộ đồng phục màu xám, hàng ngày lang thang đi kiếm ăn trong những điều kiện sống hết sức khắc nghiệt, vô tình của những thành phố tư sản.
Trước 1945, Nguyên Hồng chưa ý thức được rõ rệt (như sau này trong Sóng gầm) sự bóc lột, cướp đoạt, lối sống lạnh lùng, bất cận nhân tình của những thành phố kỹ nghệ tư sản. Nhưng anh đã miêu tả một cách trung thực, đau đớn và dữ dội, quá trình bần cùng hóa và lưu manh hóa của dân nghèo thành thị. Anh là chứng nhân cho bao câu chuyện đau khổ, uất ức, tan nát, chia lìa của những gia đình lương thiện (Đây, bóng tối; Hai mẹ con; Hơi thở tàn; Người con gái; Vực thẳm; Giọt máu...).
Kết quả của chính sách bóc lột, bần cùng hóa của bọn thực dân phong kiến làm hàng vạn gia đình dân nghèo bị tan nát hoặc bị đẩy vào những bi
https://thuviensach.vn
kịch không lối thoát. Cuộc sống cùng quẫn, tối tăm đã làm xuất hiện những kiểu người gần như mụ mị, mất trí hoặc phát điên. Do cuộc sống cùng quẫn kéo dài và bị cái xã hội cũ đầu độc, một số phu phen, thợ thuyền đâm ra phản ứng cực đoan, rượu chè cờ bạc, đánh vợ chửi con, càng ngày càng chìm sâu vào vũng bùn tội lỗi (Sau hai mươi năm, Người mẹ không con, Bố con lão Đen). Một số dân nghèo đã bị cái chế độ độc ác, vô lương biến thành lưu manh, gái điếm (Bỉ vỏ, Chín Huyền, Bảy Hựu, Khói ken nếp và xà lim...). Cái xã hội những kẻ lưu manh đó đã trở thành đề tài trong khá nhiều truyện thời kỳ đầu của Nguyên Hồng. Xã hội này cũng có tôn ti trật tự, có uống máu, ăn thề, có báo thù, hy sinh cho đồng đội... Họ sống bằng lừa bịp, chém giết một cách say sưa, rồ dại rồi cuối cùng tàn lụi đi do những tội ác của mình gây nên.
Nhưng điều đáng làm chúng ta suy nghĩ không phải ở chỗ Nguyên Hồng miêu tả những câu chuyện kỳ lạ trong xã hội lưu manh, gái điếm. Ngay ở những tầng lớp cặn bã nhất, chỉ biết có chém giết lừa bịp, vẫn ánh lên những tia sáng nhân đạo, vẫn còn lòng yêu thương chung thủy, lòng hy sinh, dám xả thân vì một nghĩa cử, dám sống chết để bảo vệ đồng đội và nhất là những thoáng khát vọng muốn thoát khỏi cuộc đời tội lỗi của mình. Cái nhìn của Nguyên Hồng ở đây cũng giống như cái nhìn của Gorki khi viết về tầng lớp "dưới đáy" của xã hội Nga, mang đầy tính chất nhân đạo chủ nghĩa. Cho nên đọc chuyện những nhân vật này, ta thấy tội ác của họ, nhưng đồng thời cũng thương xót cho những kiếp người đã bị xã hội độc ác nhấn chìm vào vũng bùn tội lỗi và ngụp lặn trong ấy cơ hồ không thể ngoi lên được.
Sống bên Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở đất Cảng, nhưng tâm hồn Tám Bính vẫn luôn hướng về một cuộc đời lương thiện trong trắng. Bính nuối tiếc cuộc đời trong sạch ngày xưa, khi mình còn là cô gái quê ngày ngày đua đòi cùng với chị em đi các chợ gần chợ xa, đòn gánh trên vai dẻo dang nhún nhảy nhịp cùng những bước đi thoăn thoắt, những cánh tay mềm
https://thuviensach.vn
mại vung tà áo nâu ra trước gió. Giờ đây, Bính chỉ ước mong được sống trong một gia đình lương thiện:
"Một tia hy vọng bỗng thoáng chiếu vào tâm trí Bính như làn chớp vụt xé vùng trời mờ tối. Bằng sự lần hồi buôn bán, tần tảo ở các chợ xa, rồi đây Bính sẽ nuôi được đứa con sắp đẻ; sẽ nuôi Năm để Năm khỏi làm điều gian ác, dần dà Bính trở về quê chuộc đứa con đầu lòng đày ải kia và giúp đỡ cha mẹ gây dựng cho hai em" (Bỉ vỏ).
Trong tầng lớp lưu manh, cặn bã của xã hội, Nguyên Hồng đã khám phá, đã nâng niu từng tia sáng nhân đạo, phần lương tâm còn lại dưới đáy sâu tâm hồn vụt lóe lên.
Tác phẩm của Nguyên Hồng cho ta thấy quá trình bần cùng hóa, lưu manh hóa của những người dân nghèo thành thị, nhưng cái hướng chính, hướng lương thiện của họ, theo ông, vẫn là niềm khao khát vươn tới ánh sáng, những mong muốn có một sự thay đổi, một sự chuyển biến mạnh mẽ nhằm tạo ra một cuộc sống công bằng hơn, đẹp đẽ hơn. Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn "ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh" (Ngọn lửa).
Những người dân nghèo trong tác phẩm của Nguyên Hồng hơi giống chàng trai trong truyện Lấy vợ cóc. Hình thức bên ngoài xù xì, lem luốc nhưng tâm hồn bên trong rất cao đẹp, rất đáng quý. Đó là tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ (Hơi thở tàn); tình nghĩa chung thủy và lòng hy sinh cho hạnh phúc của người khác (Đây, bóng tối; Trong cảnh khốn cùng); lòng tự trọng, dù đói khổ vẫn không chấp nhận lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng (Cô gái quê, Nhà bố Nấu...). Nhưng dù sao, nhiều nhân vật nghèo của Nguyên Hồng vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta lại có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một
https://thuviensach.vn
cách triền miên trong sự khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ.
Nhược điểm này từ 1938 trở đi, dần dần được khắc phục. Do những ảnh hưởng khá quyết định của phong trào Mặt trận Dân chủ, nhà văn Nguyên Hồng đã bắt đầu có ý thức nâng cao sự giác ngộ giai cấp, giúp những người dân nghèo tìm ra nguyên nhân của sự đói khổ, từ đó dần dần gợi cho họ tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống mọi sự mê muội về mặt tinh thần của một thứ thuốc phiện tôn giáo (Nhà bố Nấu, Những mầm sống).
Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... mỗi người có một phong cách riêng, phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo.
Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng dường như chủ yếu chưa phải xuất phát từ một thái độ phẫn nộ, muốn lên án bọn địa chủ, tư sản, quan lại, muốn vạch mặt trái những chính sách mỵ dân giả dối, lừa bịp và tố cáo những thủ đoạn đàn áp vô nhân đạo của bè lũ thống trị, muốn giải phẫu cái ung nhọt đang tấy lên trầm trọng của một con bệnh nguy kịch là cái xã hội thực dân, phong kiến đương thời.
Nguyên Hồng không phải lúc nào cũng có được cái tỉnh táo sắc sảo như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng khi đập phá xã hội cũ, khi vạch mặt chỉ trán từng tên tai to mặt lớn trong tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ. Nhưng với một nhà văn hiện thực lớn, không phải chỉ cần một trí tuệ sắc sảo mà còn phải có một trái tim lớn, một lòng yêu thương vô hạn đối với con người. Đó là mặt mạnh của Nguyên Hồng và Ngô Tất Tố so với một số nhà văn khác cùng thời.
Nguyên Hồng không trực tiếp miêu tả những mâu thuẫn giai cấp đối kháng của xã hội. Bọn thống trị bóc lột tàn ác cũng chưa được xây dựng
https://thuviensach.vn
thành những nhân vật phản diện đậm nét trong tác phẩm của anh trước 1945. Chúng chỉ là những đường viền để làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp và khát vọng vươn tới ánh sáng của những người dân nghèo thành thị.
Cảm hứng chủ đạo của nhà văn dường như bắt nguồn từ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với những lớp người cùng khổ. Anh là một cây bút đôn hậu, luôn luôn hướng đến cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết. Tất nhiên lúc cần, ngòi bút Nguyên Hồng vẫn làm việc tố cáo, đập phá những áp bức, bất công nhưng chủ yếu anh là người ca ngợi và xây dựng. Chính vì thế nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét khá đúng về anh, sau khi đọc những bức thư trong Cuộc sống: "Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông...".
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng kế tục và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong văn học dân tộc. Những cô Kiều ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, những người đàn bà "đòn gánh tre chín dạn hai vai" trong Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, những Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Kiều Nguyệt Nga đảm đang chung thủy và cả những bà vợ hiền "lặn lội thân cò khi quãng vắng, eo sèo mặt nước buổi đò đông" trong thơ Tú Xương... Thời đó Nguyên Hồng cũng có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm mang truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của phương Tây như Những người khốn khổ của Hugo, David Copperfield của Dickens, Thời thơ ấu của Gorki và những truyện ngắn của Alphonse Daudet...
Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu và những truyện ngắn mang tinh thần nhân đạo chủ nghĩa khác của Nguyên Hồng chắc chắn có chịu ảnh hưởng hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp những tác phẩm kể trên.
Nguồn suối tình cảm yêu thương của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc đời thực của tác giả và của những người đàn bà nghèo ở các ngõ hẻm, ngoại ô thành phố. Cuộc đời cơ cực của những người vợ kiếm miếng cơm manh áo, tần tảo nuôi chồng nuôi con, chịu đựng bao cảnh hà hiếp, bóc lột, bao lề thói cũ kỹ, khắc nghiệt của xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.
https://thuviensach.vn
Có thể nói tác phẩm của Nguyên Hồng đã ghi lại những nỗi khổ điển hình của người đàn bà Việt Nam trong những năm dài tối tăm trước Cách mạng tháng Tám.
Bắt đầu từ cuộc đời một bà mẹ, lúc còn trẻ sống nhẫn nhục bên người chồng già mà nàng không yêu, sống thầm lặng như "cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần phục ở dưới chân rồi sẽ tan xuống đất nếu ánh sáng soi tắt"; khi người chồng chết, bà phải tha phương cầu thực tìm cách nuôi con và chịu đựng mọi sự khinh bỉ, ruồng bỏ của gia đình nhà chồng. "Phong tục và lễ nghi cổ hủ đã bắt buộc người mẹ coi sự sinh nở khi chưa đoạn tang chồng cũ ghê tởm hơn là những tội gian ác xấu xa nhất. Và các thành kiến gông cùm từ ngàn xưa truyền lại đã nâng một đứa con trai chưa đầy mười bốn tuổi lên một địa vị cao trọng để mẹ nó phải khuất phục, cầu khẩn" (Những ngày thơ ấu). Ở nông thôn, lễ giáo phong kiến ghê gớm hơn vì nó được giai cấp thống trị duy trì như một phương tiện để đàn áp bóc lột. Tám Bính đã rùng mình khi nhớ lại hình ảnh người đàn bà bị làng phạt vạ, quỳ giữa sân đình nắng chang chang, tay bế đứa con mới được mười ngày đỏ hon hỏn và một lũ kỳ mục kiếm chác, ăn uống trên sự đau khổ của người đàn bà khốn khổ (Bỉ vỏ). Bao nhiêu cô gái đáng thương như thế đã phải bỏ làng ra thành phố rồi biến thành những vật trao đổi rẻ tiền cho bọn làng chơi! Tiểu thuyết Bỉ vỏ đã viết những chương thật cảm động về cuộc đời tủi nhục của những gái điếm ở phố Hạ Lý. Bao nhiêu cô gái bán trôn nuôi miệng đã bị các mụ chủ nhà chứa bóc lột cho kiệt sức, ho ra máu rồi chết. Người ta thuê vài người phu chợ đùm kẻ bất hạnh trong chiếc chăn cũ rồi đem chôn. "Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thừng treo lủng lẳng ở đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho những tiếng khóc viếng". Những người đàn bà đáng thương này chết như những người ăn mày khốn cùng không thân thích chết đường chết chợ...
Từ cuộc đời đau khổ, nhẫn nhục của bà mẹ mình, Nguyên Hồng đã yêu thương bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác, đã quan tâm tha thiết đến số
https://thuviensach.vn
phận những người phụ nữ bị lễ giáo phong kiến và những lề thói khắc nghiệt của xã hội cũ vùi dập, đày đọa.
Và cũng bắt đầu từ cuộc đời một đứa bé sống cô đơn, ngơ ngác trong một gia đình tàn tạ có "một người cha và một người mẹ tính tình khác nhau, không hiểu biết, không yêu thương và gần như khinh miệt nhau"... sau khi người cha nghiện ngập chết ho lao, người mẹ đi bước nữa, đứa bé bị hắt hủi, sống cô độc lang thang trên các vỉa hè, đường phố: "Tôi cảm thấy một cách cay chua sự trơ trọi hèn hạ của tôi, một đứa trẻ côi cút cùng khổ" (Những ngày thơ ấu). Cuốn hồi ký đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa này từ năm 1938 đã làm xúc động bao nhiêu tâm hồn bạn đọc, vì nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn" (Thạch Lam).
Từ cuộc đời côi cút, tủi nhục của mình, Nguyên Hồng đã yêu thương bao nhiêu cuộc đời những em bé nghèo khổ, lang thang kiếm ăn ở các thành phố lớn (Hai nhà nghề, Con chó vàng), những em bé còm nhom như con mèo, con các gia đình lao động nghèo khổ ở cái xóm Bà Cả Nam Định, thiếu ăn, thiếu sữa, thiếu sự chăm sóc của bố mẹ và phải làm quần quật ngay từ tuổi thơ, "những đàn trẻ tồng ngồng và lúc nhúc... chẳng kém phần ầm ĩ và khác lạ như của Bạch Mai, Phúc Xá hay Lạc Viên, Chợ con nhiều lắm". (Những mầm non, Cuộc sống). Nguyên Hồng cũng nói đến những em bé sớm bị đày đọa trong các nhà tù đế quốc (Tù trẻ con) và lòng anh đau quặn lên trong một đêm giao thừa nào đó ở nhà lao Nam Định, bỗng nghe một tội nhân... trẻ con thức giấc từ lâu khóc thét mãi lên, những trẻ con ốm yếu của các tù đàn bà vô tội" (Tết của tù đàn bà).
Văn học nhân đạo chủ nghĩa ở phương Đông cũng như phương Tây đều nói nhiều đến nỗi đau khổ của phụ nữ và trẻ em. Đó là những lớp người bị đày đọa nhiều nhất và ít có khả năng tự vệ nhất trong cái xã hội người với người là chó sói.
https://thuviensach.vn
Trong phạm vi chủ đề này người ta thường nói đến sự gặp gỡ ở một mức độ nào đó giữa Nguyên Hồng với Gorki. Hai nhà văn này đều xây dựng được những hình tượng rất đẹp về những bà mẹ đau khổ từ trong bóng tối của cuộc đời cũ vươn lên ánh sáng, đều quan tâm sâu sắc đến vận mệnh những em bé bị vứt ra ngoài lề của xã hội, đi kiếm ăn lang thang dọc các thành phố lớn, đều băn khoăn đến cả cuộc đời những tầng lớp lưu manh ở dưới đáy của xã hội... Cả hai nhà văn từ buổi thiếu niên cũng đã từng lăn lộn trong tầng lớp phu phen, thuyền thợ, do đó họ viết rất say mê, rất tự hào về những người lao động, về cái đẹp, chất thơ trong lao động. Chính nguồn suối tinh thần yêu thương đó của những người đã từng lam lũ, vất vả, từng đổ mồ hôi để xây dựng nên cuộc sống cũng như những ánh sáng của lý tưởng cộng sản đã tạo nên ở họ một chủ nghĩa lạc quan tràn đầy sức sống, một nguồn tin yêu thắm thiết ở Con Người.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, các báo chí của Đảng và những báo chí tiến bộ đã nói nhiều đến nỗi thống khổ của dân quê và dân nghèo thành thị. Trước yêu cầu của đông đảo bạn đọc, tờ Ngày nay của Tự lực văn đoàn không thể không nói đến bình dân một cách thời thượng. Từ 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho những tác phẩm hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng và Kim tiền của Vi Huyền Đắc; rồi từ năm 1938 tờ Ngày nay giới thiệu hồi ký Những ngày thơ ấu.
Gần gũi phần nào với Nguyên Hồng trong Tự lực văn đoàn có lẽ là Thạch Lam. Những truyện ngắn của Nguyên Hồng (Tôi dạy học, Lớp học lẩn lút, Hai mẹ con, Hàng cơm đêm...) và của Thạch Lam (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Một cơn giận) đều toát lên một tấm lòng nhân đạo đối với cuộc đời đau khổ của những người dân nghèo thành phố. Mặt khác, hai nhà văn là những cây bút hình thành trong không khí của thời kỳ Mặt trận Dân chủ, họ đón nhận hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc nhiều hoặc ít những luồng gió mới, những vang động sâu xa của phong trào cách mạng.
https://thuviensach.vn
Thạch Lam bắt đầu quen và yêu mến Nguyên Hồng từ sau khi Những ngày thơ ấu được giới thiệu trên tờ Ngày nay.
Tuy cùng viết về những nỗi đau khổ của dân nghèo nhưng Thạch Lam dầu sao cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều khuynh hướng cải lương tư sản của Tự lực văn đoàn, còn Nguyên Hồng thì ngày càng tiến gần lại phong trào vô sản.
Ánh sáng của quan điểm giai cấp và những nhận thức chính trị đã nâng cao chất lượng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng. Sức tố cáo được tập trung, dồn nén hơn, do đó kết cấu cũng chặt chẽ hơn. Hàng cơm đêm, Nhà bố Nấu, Người đàn bà Tàu, Giọt máu, Buổi chiều xám... là những truyện ngắn hay. Trong truyện Giọt máu, cái không khí ngột ngạt tức thở của những năm 1942-1944, cái dã man tàn bạo của chế độ phát xít đã được phản ánh qua một câu chuyện tưởng như tầm thường, nhỏ bé nhưng lại gây ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Lối kết cấu tương phản giữa một bên là lũ bóc lột giàu có, bất nhân, cướp đoạt và chà đạp lên mọi thứ một cách tàn bạo và một bên là em bé lặng lẽ như một cái bóng, với hai luống ngô non mà em trồng trên một hố đất, trước kia mụ chủ nhà để cỏ mọc um tùm lẫn với mảnh chai và rác rưởi thối nát. Tất cả cái hạnh phúc nhỏ xíu, mong manh, vô tội, vun xới được qua bao ngày tháng bởi đôi bàn tay non yếu, cuối cùng bị cướp đoạt, phá phách một cách tàn nhẫn, đau xót. Sấm sét, sự tàn bạo đã trút lên đầu những em bé nghèo khổ, nhỏ nhoi, hiền như chiếc lá non, hoàn toàn không có chút khả năng tự vệ và chính vì thế mà sự đối lập nghệ thuật ở đây đã làm cho bạn đọc run lên vì căm giận trước những hành động vô nhân đạo của bọn người giàu có, bóc lột táng tận lương tâm!
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng ngày càng mài sắc tính chiến đấu. Anh phản đối thái độ quỳ mọp dưới tôn giáo để cầu xin sự thưởng phạt công bằng của Chúa. "Nhưng ta đã thấy bao nhiêu xương thịt tan tành, thối nát, bao nhiêu nước mắt và máu đã ngập lụt tỉnh thành, bao nhiêu sinh
https://thuviensach.vn
mạng đã chết và đương chết trong cảnh đói rét bên một đám người hả hê sung sướng mà có bao giờ tìm ra những sự giải quyết của Chúa Trời?" (Tết của tù đàn bà). Nguyên Hồng ca ngợi người mẹ Việt Nam, người đàn bà chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, giàu lòng hy sinh, nhưng anh không lý tưởng hóa "đức tính" cam phận, nhẫn nhục, không ca ngợi sự phục tòng như một số nhà văn lãng mạn; anh chủ trương đánh thức dậy ở họ ý thức tự đấu tranh giải phóng, đấu tranh cho cuộc sống bình đẳng, công bằng hơn, hạnh phúc hơn. Người con gái trong Vực thẳm xót xa khi nghĩ đến người mẹ lam lũ đáng thương của mình, người đàn bà thờ chồng, rồi thờ anh chồng, "nhất nhất vâng theo và cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh":
"Không! Tôi không dám làm thơ mê say với con người này đâu. Những nguồn cơn kia đều đẫm những mồ hôi nước mắt của mẹ tôi, sao tôi lại phạm tội ru những người đàn bà xấu số khốn nạn chúng tôi vào đó? Những quang gánh thúng sọt nặng trĩu những ngô khoai, rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy rạc của cái kiếp người tần tảo, lần hồi, nếu có thành những điệu thơ thì phải là những tiếng kêu rên thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi cho cuộc đời được no ấm, yên vui, rất xứng đáng phần cho những người mẹ hiền từ, chịu khó" (Vực thẳm).
Trong một số tác phẩm của mình từ 1938 trở về sau, Nguyên Hồng phê phán cái chủ nghĩa nhân đạo than thở theo kiểu thương vay khóc mướn trong văn học lãng mạn và chủ trương một chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh, một chủ nghĩa nhân đạo lạc quan cách mạng. Chính sự khác biệt này trong thế giới quan, trong cách nhìn nhận cuộc sống mà một số truyện ngắn của Nguyên Hồng và Thạch Lam, nhìn bên ngoài tưởng như giống nhau vì cùng viết về một loại đề tài và nhân vật, nhưng bên trong lại chứa đựng nhiều sắc thái rất khác nhau.
Trước đây thỉnh thoảng Nguyên Hồng lại có một truyện đề tặng Thạch Lam. Có khi cả một tập truyện ngắn. Hàng cơm đêm hơi giống truyện Hai
https://thuviensach.vn
đứa trẻ (1938) của Thạch Lam. Thạch Lam viết về một phố huyện gần ga xép. Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, tiếng ồn ào đã lắng hẳn. Đêm xuống. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía quen thuộc quá, khiến hai đứa bé "tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Phố huyện chìm sâu vào bóng tối của một vùng quê mênh mông. Chỉ còn một vài chấm sáng lù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn con của một chõng hàng nước, cái bếp lửa của hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của một cửa hàng tạp hóa. Trong cái cảnh chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn tàu đi qua, mang theo những luồng ánh sáng quét mạnh vào hai bên và tiếng ồn ào làm xao động cả một phố huyện yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới khác hẳn với cái vầng sáng lù mù của mấy ngọn đèn quanh quất nơi phố vắng của một huyện nhỏ. Một chút ánh sáng ở một thế giới xa xăm, những ước mơ của hai đứa trẻ vụt đến và đi qua, phố huyện lại chìm sâu vào bóng tối hiu quạnh...
Thạch Lam viết truyện với một nghệ thuật tinh tế, nhất là việc sử dụng sự tương phản và hài hòa giữa các âm thanh, giữa các vùng ánh sáng. Câu chuyện để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù bị nhòe đi trong bóng tối dày đặc của một vùng quê tù đọng.
Nguyên Hồng chưa có được cái tinh tế, cái lắng sâu vào bên trong đó của bút pháp Thạch Lam. Tuy nhiên truyện ngắn của anh lại có những âm thanh và màu sắc riêng, nó nói lên cái khỏe, cái vui hồn hậu và lạc quan của cuộc đời lao động mồ hôi nước mắt. Nguyên Hồng cũng viết về một phố nhỏ gần một cái chợ. Cũng một thứ mùi nồng nực của rác rưởi quanh chợ chưa được quét dọn. Cũng những ngọn đèn của các hàng cơm đêm, hàng phở, hàng tạp hóa, hàng mã, hàng thiếc, của cái mái lá tồi tàn những gia đình phu phen lao động. Ngoài phố "những cây bàng cao và to đẫm bóng tối, dán xuống đường những bóng lá đen sẫm". Trên mặt đường cũng
https://thuviensach.vn
những bóng người thưa thớt lặng lẽ đi lại và "thỉnh thoảng tiếng rao phở phào lên rồi mất trong sương khuya". Nhưng trước khi cái phố chợ chìm vào trong đêm thì ta đã nghe mọi thứ tiếng ồn ào, huyên náo lúc hoàng hôn đang dần dần xuống: tiếng chuông xe đạp bấm liên thanh của học sinh và công chức, tiếng guốc khua, tiếng xe bò chuyển ầm ầm vì đường phố gồ ghề và tiếng va chạm của xẻng, cuốc, ván gỗ trong thùng xe, tiếng mời chào mặc cả, cãi vã ầm ĩ hai bên đường... và trong cửa hàng cơm là tiếng chuyện trò cười nói vui vẻ của phu phen, thuyền thợ "quần áo rách rưới và lấm láp của họ thở ra những mùi khét lẹt của dầu mỡ, cát bụi và bùn lầy mà họ đã đầm đìa ở những xưởng máy, những kho hàng, những hầm tầu, những lán gỗ", tiếng đùa nghịch chòng ghẹo nhau của "những chị phu hồ, phu than ríu rít như bầy chim sẻ".
Cuộc đời tầm thường, đáng thương của những người dân nghèo trong truyện ngắn của các nhà văn lãng mạn cứ lặng lẽ trôi đi trong sự an phận, chịu đựng, cái thế giới tĩnh tại ấy gần như không thể thay đổi; còn trong truyện ngắn Nguyên Hồng những người lao động thuyền thợ, tự tin ở năng lực của mình, ở sự làm việc cần cù của mình, đã bắt đầu hy vọng một sự thay đổi, một cuộc đời mới. Vịnh, cô gái bán hàng cơm đêm đã cảm thấy ngạt thở, tù túng trong cuộc đời cũ, hy vọng "một sự phá bỏ rồi thay đổi hẳn lại thì mới được thở một bầu không khí trong lành, một nguồn ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối. Sự lật đổ và làm mới lại ấy, Vịnh chưa cảm thấy... Nhưng có một cái gì soi chiếu vào tâm trí nàng, một cái gì gợi dậy tất cả năng lực, tất cả lửa lòng của Vịnh lên" (Hàng cơm đêm). Từ những truyện ngắn đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa đăng trên các báo chí công khai năm 1939, Nguyên Hồng đã muốn rọi "một tia sáng vào dòng đời tối tăm chảy nặng nề" của những người dân nghèo thành phố, muốn đánh thức dậy cái tinh thần đấu tranh "tự giải phóng thoát khỏi những sự áp chế bằng những năng lực dồi dào sẵn có" của chính họ (Hai mẹ con). Cho nên trong truyện và tiểu thuyết Nguyên Hồng đã tập trung miêu tả "những tia mắt nảy lửa" của mấy người đàn bà ở đề lao Nam Định, khi họ bị khám xét và làm nhục, đã khai thác cái ý thức căm thù
https://thuviensach.vn
và phản kháng, "dám đối chọi chứ không chịu một bề van xin", của những người dân nghèo bị cắm nhà cắm đất (Hơi thở tàn), đã chứng minh lẽ tất yếu phải có "một sự chồm dậy, hất tung và san bằng những cái đè nén và ràng buộc cái đời đàn bà nhà quê cằn cỗi" (Cô gái quê). Ảnh hưởng của sách báo macxit và những hậu thuẫn của phong trào đấu tranh thời kỳ Mặt trận Dân chủ đã giúp cho những tác phẩm của Nguyên Hồng ngày càng mài sắc thêm tính chiến đấu và thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cách mạng cao cả của giai cấp công nhân.
Ngay từ tháng 6 năm 1939, trên tờ báo Mới của Đoàn thanh niên Dân chủ, Nguyên Hồng đã cất tiếng kêu gọi thống thiết, đấu tranh giành quyền sống cho các trẻ em, cho các bà mẹ lao động ở Việt Nam và trên toàn thế giới.
"Phải mau trả lại sữa cho những người mẹ làm lụng đầu tắt mặt tối ở những xưởng thợ, những nhà máy, những kho hàng, không có thì giờ chăm ẵm con, không có đủ thức ăn uống để lấy sữa cho con bú, trong khi mồ hôi, nước mắt và khí lực của mình đã trút ra thành vải vóc, vàng bạc, rượu thịt cho các ông chủ bụng phệ, các bà chủ béo ú, cùng với bầu đàn thê tử nhà họ an nhàn ngồi hưởng...
Phải đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước bị chiến tranh tàn phá; những người mẹ đang để tang cha chồng, anh em; những người mẹ phải thay những người đã chết vì chiến tranh kia, làm đủ mọi việc để có đủ quần áo và lương thực cho tụi quân lính hung hãn đi xâm chiếm những nước yếu hèn. Phải trả lại sữa cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đờ đó, dưới những bầu vú lép.
Những cái miệng khát sữa, chỉ mong sữa trong khi những mụ đàn bà phú hào và quý tộc tắm bằng sữa cho da thịt mịn màng, trong khi bọn tư sản đổ hàng ngàn, vạn thùng sữa xuống biển để có thể bán chỗ sữa còn lại với giá đắt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng" (Những giọt sữa).
https://thuviensach.vn
***
Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả.
Người ta thường nói đến màu sắc trữ tình lãng mạn trong những tác phẩm của Nguyên Hồng. Chính do cái chất trữ tình sôi nổi thiết tha đó mà tác phẩm của anh làm cho người đọc xúc động, nó luôn luôn mang đến cho tuổi trẻ những tình cảm tin yêu thắm thiết, những ước mơ hy vọng về tương lai, những khát vọng vươn lên ánh sáng của lý tưởng cao đẹp.
Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu chưa đi thẳng vào những trung tâm mâu thuẫn của hiện thực khách quan lúc bấy giờ, mà dường như lại thu hút chúng ta bởi những cảm xúc tươi mới trong sáng, dào dạt của một cây bút trẻ đang dễ xúc động, dễ ngạc nhiên trước cuộc sống, bởi những kỷ niệm đau xót, những rung động chân thành của một linh hồn trẻ dại bị lạc loài, bị vùi dập trong lòng một gia đình cũ kỹ sắp tàn.
Những ngày thơ ấu là những lời tâm sự thiết tha, thầm kín, những hồi ức của một cái "Tôi" đau khổ tự trình bày cuộc đời riêng tư của mình trên trang giấy một cách chân thành, tin cậy (trước đó, trong văn học ta chưa nhiều những hồi ký như thế):
"Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau, sự trái ngược cay đắng đó tôi đã hiểu rõ rệt và thấm thía ngay từ năm tôi lên bảy lên tám... Những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi chiều mà bụi mưa như có một thứ tiếng van lơn thầm thì trong hơi gió vu vu, lửa lò than rực rỡ vờn lên chân tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào những cõi buồn nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết".
https://thuviensach.vn
Trong tập hồi ký rất xúc động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế tự bên trong và diễn tả chúng qua cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng của tuổi thơ, khiến cho ta có cảm tưởng thú vị như được đưa về "thời thơ ấu của nhân loại":
"Tôi ngồi lên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt... Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng".
Cũng như một số nhà văn trẻ thời ấy, Nguyên Hồng đã bắt đầu cuộc đời sáng tác của mình bằng một đôi mắt xanh non, một cái nhìn rất độc đáo, tươi mới, trẻ trung.
Đó là cái tuổi mà tâm hồn dễ xúc động, các kỷ niệm để lại những ấn tượng sâu sắc, mênh mang như cái ánh trăng bàng bạc của đêm thu đầy trăng, xao xuyến như hương hoa cau hoa lý ngát thơm cả một góc vườn đang vỡ lở ra trong tiếng khóc nức nở của hai mẹ con người đàn bà tội nghiệp, đáng thương (Mợ Du). Đó cũng là một tâm hồn ham mê thanh sắc, đắm chìm trong những cảnh đẹp rực rỡ, quyến rũ của thiên nhiên: một bầu trời xanh trong bát ngát "với ánh nắng rực rỡ phấp phới trên các cành cây lá óng ả, mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các vừng hoa đỏ" (Những ngày thơ ấu); "những hương hoa quả thơm nồng, bay thấp thoáng trong không khí tê mê rạo rực", những "tiếng chim chích chòe đậu trên những ngọn cau, ngọn xoan, hót lanh lảnh, vang rất xa dưới vùng trời bao la và lấp lánh" (Vực thẳm).
Đó cũng là một sự sống ngùn ngụt, nóng hổi, một lòng "ham sống dào dạt", trong ấy mọi thứ đều như rung lên cùng với một lòng thương yêu thắm thiết,trong ấy như có một lớp sóng cứ trào lên không ngớt, như có một thứ tiếng rùng rùng âm vang bát ngát. Cái sức sống bên trong đó là sự
https://thuviensach.vn
rung động đến cực điểm của "một quả tim trên hai mươi tuổi đẫm máu đỏ tươi và hơi thở nóng nảy" (Cuộc sống). Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn náo nức, dồn dập rung vang đó:
"Tiếng kèn mỗi giây một dướn cao, một vang to, rung động cả làn không khí êm ả của một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm cây phấp phới, âm thanh náo nức, dồn dập của tiếng kèn càng cuốn lên cao, tràn ra xa, rất xa, đến những vùng xa sáng tươi nào đó. Càng về sau tiếng kèn càng niềm nở, ân cần như những lời thúc giục thống thiết... Hãy bước đi, hãy bước đi, như làn lá nhỏ bay theo gió... Tiếng kèn vồn vã vẫn rõ ràng, trong sáng và bầu trời mở rộng rung vang...".
Cả tập thư trong Cuộc sống cũng là một lòng yêu đời đắm đuối, thiết tha. Đó là những dòng nhật ký của tác giả lúc bị giam ở trại Bắc Mê, ngồi nhớ về phố Cảng thân yêu của mình. Hải Phòng hiện ra với "một bầu trời tràn ngập ánh sáng nắng rực, những tiếng cười nói và những cử chỉ không thể kìm hãm được", những "sự rạo rực đã phát tiết ra" và khắp nơi" cây cỏ rung lên trước gió, mưa rào rào phấn vàng phấn bạc vãi tung ra khắp bốn phương trời những hột bụi nảy nở của muôn ngàn bầu nhị" (Những mầm sống).
Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ đầu, những tình cảm không những tươi mới, trẻ trung, mà lúc nào cũng được biểu hiện ở cường độ cao: nó phải ngùn ngụt nóng hổi, nó phải đằm thắm thiết tha, nó phải trong ngần tươi mát... Còn những cảnh sắc thì bao giờ cũng lao xao, phấp phới, chói lòa rực rỡ hoặc rùng rùng âm vang...
Dường như cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn, một cái gì say sưa, rạo rực, tha thiết tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc. Nó làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên mạnh mẽ, thu hút tình cảm người đọc, khiến cho người ta không thể dửng dưng lạnh nhạt trước một sự chân thành, nồng nhiệt đến như thế.
https://thuviensach.vn
Đã có lúc Nguyên Hồng cho rằng sự đòi hỏi thôi thúc của nội tâm, cái nhiệt tình, sôi nổi tha thiết tự bên trong là điều kiện gần như tất cả đối với một nhà văn. Hồi đó anh bị bắt ở Hải Phòng và bị đưa đi Bắc Mê (Hà Giang), phải nghỉ viết vừa đúng ba năm! Cho nên cũng dễ hiểu khi anh cho rằng trong tác phẩm chỉ cần "sự cởi mở của tâm hồn", "sự giao cảm với cuộc đời", "sự thiết tha tìm thấy trong Người" mà anh "không thể nén nhịn được phải kêu lên ráo phổi với Người". "Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào thiếu những cái đó là không có tất cả, là chết!" (Cuộc sống).
Tất nhiên không có ngọn lửa bên trong đó thì nghệ thuật không thể gây được sự say mê, xúc động trong lòng người đọc. Nhưng ở Nguyên Hồng, cái bên trong đôi lúc lấn lướt cái bên ngoài, sự say sưa chủ quan không kết hợp được với sự tỉnh táo khách quan. Văn xuôi đòi hỏi một vốn sống, một sự từng trải, kể cả một trí tuệ tỉnh táo để làm cho nhân vật hiện lên, đi đứng khóc cười như trong cuộc đời thật. Cái ngọn lửa say mê tự bên trong đó có thể làm nên chất thơ, chất trữ tình đằm thắm, chứ chưa đủ để làm cho nhân vật sống động, gân guốc, tạo hình nghĩa là có một vận mệnh riêng, một kiểu ngôn ngữ hành động và đời sống tâm lý riêng. Cho nên với ngọn lửa ngùn ngụt bên trong đó, Nguyên Hồng đã viết nên một Cuộc sống bằng thư, chứ chưa phải là dựng lên những nhân vật, những trang tiểu thuyết. Văn xuôi hiện thực, dù là văn xuôi trữ tình, cũng không thể chỉ tự ca hát mình, chỉ bình giá hiện thực, mà còn có nhiệm vụ tái tạo cái hiện thực khách quan như nó vốn có.
Trên kia ta thấy trong văn Nguyên Hồng luôn luôn có nắng gió lao xao, phấp phới, rực rỡ và một bầu trời xanh trong lấp lánh rất đẹp. Cái đó là gì, nếu không phải là lòng ham sống, tin yêu cuộc sống, là vẻ đẹp của lý tưởng, là những ước mơ lãng mạn về tương lai.
Chứng kiến cái cảnh con người bị cưỡng đoạt, bị sa đọa trong xã hội đồng tiền, Nguyên Hồng khao khát một cuộc sống của những người lao động thương yêu, đùm bọc lẫn nhau và luôn luôn vươn đến những cái gì
https://thuviensach.vn
cao quý, trong trắng, nó là vẻ đẹp, là chất thơ của cuộc đời. Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của anh có nguồn gốc sâu xa từ cái nhân hậu của những người dân nghèo Việt Nam, từ cái trung hậu công bằng của những truyện cổ tích, cái bát ngát tươi thắm của ca dao. Còn chất thơ trong văn xuôi của anh thì đó là sự rung cảm trước cái đẹp của cuộc sống vất vả, ồn ào của những người lao động. Trong cuộc sống, trong lao động có một vẻ đẹp, một chất thơ riêng, rất giàu màu sắc lãng mạn. Có lẽ Nguyên Hồng là nhà văn đầu tiên ở nước ta ca ngợi vẻ đẹp của lao động. Tác phẩm Cuộc sống (1942) là một thứ tuyên ngôn về chất thơ trong lao động. Chất thơ lãng mạn chan chứa, đậm đà trong từng trang sách, khi Nguyên Hồng ở căng Bắc Mê (Hà Giang) nhớ về thành phố Cảng thân yêu của mình. Dù bị bóc lột, bị cướp đoạt, bị đày đọa, cuộc sống của những người lao động vẫn cứ vươn lên với một sức mạnh, một vẻ đẹp không thể gì dập tắt nổi! Cái nhìn của Nguyên Hồng ở đây rất giống với cái nhìn tin tưởng đầy tính chất nhân đạo của Gorki.
Màu sắc lãng mạn cách mạng đã ánh lên qua các truyện ngắn của Nguyên Hồng thời kỳ 1938-1939 và qua những trang đầy chất thơ trong Cuộc sống.
1-5-1939, trên tờ báo Mới số 1 xuất bản ở Sài Gòn, bên cạnh những vần thơ của Tố Hữu ta được đọc một tác phẩm của Nguyên Hồng ca ngợi lao động của thợ thuyền tràn đầy ánh sáng tương lai:
"Một góc thành phố chuyển động vì sự nhộn nhịp, huyên náo làm bằng tiếng guốc khua vang, tiếng cười nói tràn lên như gió bão, tiếng xe bò chuyển ầm ầm, tiếng chuông ran không ngớt của muôn ngàn người cùng chung một đường đi, cùng dưới một bầu trời tràn ngập ánh nắng rực rỡ này... Một ai đây dù hoài nghi cũng phải tin rằng cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và như thối nát của sự sống một phần nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp sửa nổ vỡ. Vì trong cái vỏ ấy, bao nhiêu mầm sống nảy nở đã
https://thuviensach.vn
chín muồi sắp chồm dậy, sắp xé tung sự trùm lấn, đè ép để tự do thở hít ánh sáng và khí trời để tràn lên mênh mông.
Làn sóng người đã lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta mong đợi một ngày kia làn sóng cuồn cuộn ngày hôm nay sẽ lôi cuốn được tất cả những làn sóng rải rác khác để chồm lên và vượt qua những dốc cản trở, những tảng đá đè nén, những hố sâu vùi dập, để đi tới một dải đất rực rỡ, sán lạn như bầu trời xuân tràn ngập ánh nắng trong buổi trưa này" (Những mầm sống).
Chất lãng mạn cách mạng trong văn Nguyên Hồng, như trên đã nói, bắt nguồn từ một tâm hồn bị vùi dập, bị đày đọa, nhưng chính vì thế mà càng yêu đời, yêu cuộc sống, luôn luôn muốn vươn lên một cuộc sống tươi đẹp hơn, công bằng hơn; mặt khác, chất lãng mạn cách mạng đó lại được khơi dậy từ những ảnh hưởng sâu sắc có tầm quyết định của Đảng đối với một thanh niên đang say sưa đi tìm lý tưởng. Những ảnh hưởng của Đảng, của phong trào và sách báo macxit tiến bộ như một "thứ ánh sáng đã làm sôi nổi cả người tôi và cả cái tuổi... lần đầu tiên bứt rứt thấy trong mình mọng những sinh lực tươi tốt và những khả năng vĩ đại" (Cuộc sống).
Trong văn xuôi của Nguyên Hồng có một chất say. Cái say của văn Nguyên Hồng thời đó cũng có phần nào giống cái say mê, cuốn hút của thơ Tố Hữu lúc gặp ánh sáng của Đảng. Ở Tố Hữu, "mặt trời chân lý" đã bừng sáng trong tâm hồn và anh đã thành một chiến sĩ. Còn Nguyên Hồng thì tuy còn ở trong thời kỳ quyết tâm nhập vào đội ngũ ấy nhưng đã bắt đầu nhận ra vẻ đẹp của lý tưởng, đã tự nguyện đi dưới ánh sáng của "mặt trời chân lý". Tập thơ Từ ấy có cái say của một mối tình đầu đến với cách mạng. Tác phẩm của Nguyên Hồng những năm 1938-1939 về sau cũng có cái tâm trạng của một thanh niên đang khao khát vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn, bỗng được tiếp xúc với cách mạng, say sưa ngây ngất trong ánh sáng chói lòa của cách mạng. Sự giác ngộ lý tưởng của Nguyên Hồng trong những năm trước cách mạng có cái đặc điểm là làm say lòng người; nhưng
https://thuviensach.vn
lúc bấy giờ anh chưa đủ vốn sống để có thể xây dựng nên những hình tượng sinh động về con người mới, những điển hình chiến sĩ cách mạng. Ánh sáng của lý tưởng thường được biểu hiện dưới dạng những cảm xúc trữ tình, những khát vọng lãng mạn cách mạng chưa hòa lẫn vào chủ nghĩa hiện thực. Tình trạng này còn kéo dài mãi cho đến Lò lửa và Địa ngục.
***
Nguyên Hồng là một hiện tượng khá tiêu biểu cho trào lưu văn học hiện thực phê phán ở nước ta. Nó xuất hiện sau trào lưu hiện thực phê phán ở phương Tây một thế kỷ, khi trên văn đàn thế giới đã có chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong nước, nó xuất hiện cùng thời với văn chương Tự lực văn đoàn, thơ Tố Hữu và văn học cách mạng.
Cho nên có thể thấy ở Nguyên Hồng những ảnh hưởng của Hugo, lẫn Gorki, Romain Rolland, của Tố Hữu lẫn Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Thạch Lam...
Có dấu vết chủ nghĩa xã hội không tưởng của Hugo, lối miêu tả nặng về cảm giác của Thạch Lam, cái "tôi" trữ tình say đắm thiên nhiên, lối phóng đại và lý tưởng hóa nhân vật, khuynh hướng nghiêng về những yếu tố rùng rợn kỳ lạ của chủ nghĩa lãng mạn. Nhà sư nữ chùa Âm hồn là một biểu hiện rõ rệt của những ảnh hưởng lãng mạn chủ nghĩa.
Những ảnh hưởng này cũng chỉ rơi rớt trong một số tác phẩm thời kỳ đầu của Nguyên Hồng. Cuộc đời lam lũ, cơ cực của bản thân, những ảnh hưởng của phong trào cách mạng, của sách báo macxit đã nhanh chóng hướng anh về vùng ánh sáng lành mạnh của chủ nghĩa hiện thực. Nói chung, so với một số nhà văn khác, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực của Nguyên Hồng tương đối bằng phẳng.
https://thuviensach.vn
Văn học hiện thực phê phán Việt Nam gặp những khó khăn trong điều kiện phát triển công khai ở một nước thuộc địa. Đồng thời nó cũng có thuận lợi vì xuất hiện lúc Đảng của giai cấp công nhân đã ra đời và phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng đã dâng cao. Các nhà văn hiện thực phê phán đã chịu ảnh hưởng từ hai phía: hệ tư tưởng macxit của phong trào vô sản và hệ tư tưởng phong kiến, tư sản gắn với chính sách đầu độc, ngu dân của giai cấp thống trị. Phong trào Mặt trận Dân chủ đã tạo những hậu thuẫn cho văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ. Ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của Đảng, của phong trào quần chúng đã có tác dụng quan trọng đến chất lượng tác phẩm và con đường đi của văn học hiện thực phê phán nước ta.
Tác phẩm của Nguyên Hồng là một trong những hiện tượng trong sáng và tương đối thuần nhất của văn học hiện thực phê phán, ít bị pha tạp bởi những khuynh hướng tiêu cực đương thời. Cuộc đời của anh chủ yếu bắt rễ vào đời sống quần chúng và tắm trong ánh sáng của Đảng.
Mùa thu 1937, tại trụ sở chi nhánh báo Thời thế ở đường Cát Dài Hải Phòng, Nguyên Hồng đã sung sướng tìm đọc Tuyên ngôn Cộng sản, Vấn đề dân cày, Ngục Kontum và những tiểu thuyết của Gorki... Tại đây anh đã gặp những chính trị phạm ở Sơn La, Côn Lôn trở về và được giao công tác hoạt động trong tổ chuyên liên lạc với các học sinh, trí thức và viên chức.
Năm 1938, Nguyên Hồng sinh hoạt Đoàn Thanh niên dân chủ Đông Dương và viết trên báo Thế giới (Đến cây số 13), Người mới (Nắng mới, Người cha già) và Mới (Những giọt sữa, Những mầm sống, Người đàn bà Tàu). Các báo này có nhiệm vụ vận động và giác ngộ thanh niên, hết sức quan tâm đến nhu cầu văn nghệ của lớp trẻ. (3)
-----
(3) Ban Biên tập báo Thế giới (1938) gồm Nguyễn Thường Khanh, Như Phong, Nguyên Hồng, báo Mới cũng gồm ba người trên, thêm Trần
https://thuviensach.vn
Minh Tước, Lưu Quý Kỳ (Thanh Vệ) và Lê Hy (Lã Vĩnh Lợi).
Những năm cao trào của thời kỳ Mặt trận Dân chủ đã có ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời Nguyên Hồng. Những tác phẩm đầu tay viết theo năng khiếu của anh, dầu sao cũng có cái vẻ hồn nhiên và đôi khi còn rơi rớt những ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tự nhiên. Dần dần chất lượng hiện thực được nâng cao hơn và anh viết cũng có ý thức hơn. Anh hướng về những đề tài chính trị, về cuộc đời công nhân (Bụi đen, Người đàn bà Tàu), nông dân (Đến cây số 13) và những người lao động nghèo khổ bị áp bức (Tù trẻ con, Tết của tù đàn bà). Anh thức tỉnh tinh thần đấu tranh để tự giải phóng và gây cho bạn đọc một niềm tin lãng mạn cách mạng vào ngày mai (Những mầm sống). Nguyên Hồng cũng là người đầu tiên trong văn xuôi xây dựng những hình tượng phụ nữ công nhân đấu tranh rất dũng cảm, giàu tinh thần hữu ái giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản. Với Người đàn bà Tàu, Những giọt sữa, Những mầm sống... Nguyên Hồng đã tiến gần lại văn học cách mạng, hay có thể nói, đã giao lưu với văn học cách mạng. Có thể coi đây là một đặc điểm của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Sau này thực tiễn văn học còn chứng minh rõ hơn là, bất cứ một nhà văn hiện thực phê phán chân chính nào cũng đều có chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp những phong trào công nhân và phong trào yêu nước do Đảng lãnh đạo.
Đầu năm 1939 nội các Daladier lên cầm quyền ở Pháp. Lập tức các nhóm cộng sản công khai, báo chí tiến bộ bị đàn áp. Ngày 29-9-1939, Nguyên Hồng bị đế quốc Pháp xử tù ở Hải Phòng về tội truyền bá tư tưởng cộng sản và tàng trữ sách báo macxit (chúng bắt được ở nhà anh cuốn Tự chỉ trích của Trí Cương - tức đồng chí Nguyễn Văn Cừ). Trong nhà tù Hải Phòng, Nguyên Hồng đã được gặp Tô Hiệu, Bùi Đình Đống, Ngô Minh Loan... "Một lớp huấn luyện theo đề cương cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí Tô Hiệu hướng dẫn đã mở liền một tháng ròng cho chúng tôi" (4). Chính nhờ những vốn sống quý báu đó mà sau này Nguyên Hồng có tài
https://thuviensach.vn
liệu viết Lưới sắt và Lò lửa cũng như những chương về Tô Hiệu trong Sóng gầm.
Tháng 6-1940, đế quốc Pháp, trước cuộc tấn công hung hãn của bọn phát xít Hitler đã tuyên bố Paris bỏ ngỏ. Chính phủ Pétain phản động và phản bội Tổ quốc lên cầm quyền. Nguyên Hồng lại bị bắt và bị giải lên trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang. Hàng ngày, cũng như những người tù chính trị khác, anh phải đi làm cỏ vê, gánh đá cùng với Xuân Thủy, Đinh Nhu, Trần Các (5). Xuân Thủy là nhà thơ cộng sản. Đinh Nhu là người sáng tác bài hát Cùng nhau đi Hồng binh, còn Trần Các là tác giả truyện ngắn Buổi gặp gỡ đầu tiên mà sau này Nguyên Hồng cho in trong tập Hai dòng sữa.Những âm mưu thâm độc, những thủ đoạn tàn bạo của thực dân không thể nào khuất phục được ý chí và niềm tin sắt đá của những nhà văn yêu nước và cách mạng. Nguyên Hồng viết cả trưa, sau khi đi làm cỏ vê về, cả tối khuya, trên một cái mặt hòm gỗ bưu kiện với ngọn đèn dầu lạc. Tiểu thuyết Xóm cháy (phác thảo đầu tiên của Sóng gầm) viết được ba trăm trang thì bị bọn mật thám lấy mất. Nguyên Hồng ngơ ngẩn không biết là bao nhiêu lâu rồi anh lại cặm cụi viết những mẩu ngăn ngắn giả làm nhật ký thư. Đó là những chất liệu quý giúp anh sau này viết thành công Cuộc sống.
-----
(4) Hải Phòng với tác phẩm Cửa biển của tôi và tôi viết Sóng gầm. Văn nghệ số 12 - 1960, tr.46.
(5) "1937. Tôi học và hát bài Cùng nhau đi Hồng binh ở trên một gác xép phố đường Cát Dài, ngày đó, đồng chí Vũ Thiện Chân và Bùi Vũ Trụ đại diện báo Thời thế ở Hải Phòng dạy tôi.1939, tôi hát và đi tuần hành trong đề lao Hải Phòng với bài Cùng nhau đi Hồng binh rồi lên cả trại giam Bắc Mê hát nữa và hát bên cạnh Đinh Nhu, cùng nhau khiêng đá gánh gạch". (Nguyên Hồng. Bài hát và tiếng đàn của Đinh Nhu - Tạp chí Âm nhạc, số 3; 4-1978).
https://thuviensach.vn
Hội nghị Thường vụ Trung ương ngày 25 tháng Hai năm 1943 đã ra nghị quyết về việc lập tổ chức Văn hóa Cứu quốc ở các đô thị lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Nguyên Hồng hoạt động trở lại trong tổ chức cách mạng từ mùa hè năm đó. "Cuộc họp đầu tiên của nhóm chúng tôi gồm có các đồng chí Vũ Quốc Uy, Tô Hoài, Như Phong và tôi ở trên sân thượng cái gác bếp nơi nhà trọ đồng chí Vũ Quốc Uy ở đường dốc xuống Ngũ Xã, một trong những địa điểm liên lạc của Văn hóa Cứu quốc" (6). Một ngày mùa rét năm 1943, Nguyên Hồng nhận được Đề cương Văn hóa của Đảng. Những phương châm của Đề cương là kim chỉ nam hành động vô cùng quý giá cho anh em văn nghệ sĩ trong thời kỳ đen tối đó và cả những năm dài về sau.
-----
(6) Bước đường viết văn, tr.257. Theo hồi ký Một quãng đường của Tô Hoài (Tác phẩm mới số 16 năm 1971) thì cuộc họp đầu tiên vào cuối mùa hè năm 1943.
Mùa đông năm đó, ngoài bãi Nghĩa Dũng sông Hồng, Nguyên Hồng sửa chữa Hơi thở tàn và viết truyện ngắn Lúc chiều xuống cho báo Thanh niên số Tết của Huỳnh Tấn Phát ở Sài Gòn. Hơi thở tàn, Miếng bánh, Ngọn lửa, Buổi chiều xám... đã có những ảnh hưởng rõ rệt của Đề cương Văn hóa.
Dưới gọng kìm kiểm duyệt của bọn phát xít, những tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài... tuy không trực tiếp bóc trần những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội và ca ngợi tinh thần đấu tranh của quần chúng (như một số truyện và tiểu thuyết thời kỳ Mặt trận Dân chủ) nhưng cũng duy trì được một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy được cái không khí oi bức dông bão của một xã hội đang ngột thở, đang chuyển mình và chờ đợi, hy vọng ở ngày mai.
https://thuviensach.vn
Từ sau 1940, nhất là từ khi tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc bí mật, tính chất luận chiến nổi lên rất rõ rệt trong tác phẩm Nguyên Hồng. Tiếng nói chính nghĩa của Đảng bị cấm hẳn trên báo chí công khai thì các nhà văn tiến bộ phải nói lên một phần nào sự thật trong tác phẩm của mình. Nguyên Hồng phê phán gay gắt lối sống ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, chạy theo khoái lạc vật chất của một lớp thanh niên sa đọa trong đại chiến thế giới thứ hai, phê phán quan điểm sáng tác của các nhà văn lãng mạn thoát ly, đấu tranh cho lập trường của chủ nghĩa hiện thực, củng cố cho bạn đọc một niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai.
Sau khi phát xít Nhật vào Đông Dương, dưới hai tầng áp bức của bọn thống trị, đời sống vật chất ngày càng khó khăn cùng quẫn, đời sống tinh thần thì bế tắc và bị đầu độc, nhiều thanh niên trí thức bị mất hẳn lý tưởng, ngày càng sa đọa về mặt nhân phẩm. Nguyên Hồng đã chứng minh cho bạn đọc thấy rằng: sự nghèo túng làm cho người ta đói khát, bệ rạc, nhưng sự từ bỏ nhân phẩm chạy theo đồng tiền, chạy theo cuộc sống hưởng thụ cá nhân cũng không bao giờ mang lại hạnh phúc. Đó chỉ là một kiểu tự sát dần dần, tự hủy hoại cuộc đời, tự mình lăn xuống dốc hoặc lao đầu vào vực thẳm. Đây là vấn đề đặt ra trong các tác phẩm Vực thẳm, Miếng bánh, Ngọn lửa của anh.
Tính chất luận chiến nổi bật nhất trong tuyên ngôn về nghệ thuật của Nguyên Hồng thời đó như Cái bào thai (Cuộc sống), Hai dòng sữa, Một trưa nắng (Miếng bánh), Ngọn lửa...
Những truyện như Cái bào thai và Hai dòng sữa đã phê phán gay gắt cái thứ văn chương và "âm nhạc phóng đãng, trụy lạc của những linh hồn ốm yếu, sống những cuộc đời chết mà vẫn tưởng là cao trọng, vẫn ca tụng thêu dệt bằng chữ vàng", đã khẳng định một nền âm nhạc chân chính thấm đẫm mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động. Có thể thấy khá rõ ảnh hưởng của Văn hóa Cứu quốc trong những lời kết luận sau đây của Hai dòng sữa:
https://thuviensach.vn
"Không phải chỉ để riêng mình, mà âm nhạc nảy lên còn để cho đoàn thể. Đó là cái âm nhạc đã tiêu biểu những đặc sắc của một dĩ vãng bất hủ, một sức sống bất diệt của một dân tộc trên những chặng đường lịch sử, nguy nan, tối tăm, một làn sinh khí bốc trên những mặt đất đẫm mồ hôi nước mắt của đám dân ấy... Đời Huyền bắt vào đời họ như rễ cây tơ bám riết lấy lòng đất, càng lâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy nhiêu với những màu mỡ không bao giờ cạn".
Ánh sáng của Đề cương Văn hóa 1943 với ba phương châm Dân tộc, Khoa học, Đại chúng ngày càng được thể hiện rõ hơn trong các truyện Một trưa nắng, Giọt máu, Ngọn lửa, Buổi chiều xám...
Nguyên Hồng đã viết Một trưa nắng vào lúc tổ chức Văn hóa Cứu quốc đã đông anh em, đồng chí. Cũng giống như Ngọn lửa, Hai dòng sữa, đây là loại truyện ngắn có luận đề. Một buổi trưa, ta chứng kiến cái cảnh một nhà văn nghèo khổ, một người đàn bà buôn thúng bán mẹt, một người thợ thất nghiệp, một ông già kéo xe lê từng bước một uể oải trên con đường tỉnh, "dưới thác lửa ngùn ngụt chói lòa của mặt trời". Văn học có trách nhiệm viết về sự thật, về những con người lam lũ, thất nghiệp ấy, có nhiệm vụ tố cáo cái xã hội tù túng, ngột ngạt ở dưới ách phát xít - cái xã hội được miêu tả tượng trưng bằng hình ảnh một trưa nắng lóa hầm hập, "một biển lửa mênh mông" đang thiêu đốt hàng triệu con người! Nền văn học hiện thực chân chính đó phải nói lên được "những đau buồn, thương xót, mừng vui, khao khát, mong ước và tin tưởng" của đại chúng. Và không chỉ có đập phá tố cáo, nó còn phải "tìm thấy con đường, một chân trời êm mát tốt tươi qua những ngày mưa dầu nắng lửa" (Một trưa nắng).
Ta thấy rõ ở đây có những dấu hiệu muốn vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ nghĩa hiện thực bắt đầu có khuynh hướng muốn kết hợp với những màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Không phải cái lãng mạn ủy mị, rên xiết, "tìm cái quên, cái an ủi giữa những đau khổ" mà
https://thuviensach.vn
là những niềm tin lãng mạn cách mạng vào thắng lợi của ngày mai (Ngọn lửa).
Trước Ngọn lửa, trong tác phẩm Hơi thở tàn, Nguyên Hồng cũng viết: "Tương lai! Tương lai! Những người đau khổ đã hết sức chiến đấu thế nào cũng giành được tương lai"...
Ngọn lửa gần như tổng kết lại những vấn đề "luận chiến" đã được nêu trước đây trong Vực thẳm, Hai dòng sữa, Hơi thở tàn, Miếng bánh. Truyện vừa này được in ở nhà xuất bản Mới của một đồng chí trong Văn hóa Cứu quốc. Cũng ở cơ quan của nhà xuất bản này ở đường Bờ sông Hà Nội, tháng 5-1945, Nguyên Hồng ngồi viết truyện Buổi chiều xám để chuẩn bị cho tạp chí Tiền phong của Văn hóa Cứu quốc. Những ngày đó Hà Nội như một ngọn núi lửa âm ỉ rần rật, nung nấu cái không khí tiền khởi nghĩa. Những tin chiến thắng của Hồng quân Liên Xô, của các đơn vị giải phóng ở căn cứ địa Cao Bắc Lạng dồn dập bay về Hà Nội và các tỉnh đồng bằng.
Chính cái không khí sôi nổi đó, những điều kiện thuận lợi đó đã làm cho Nguyên Hồng "tung hoành ngọn bút như chưa bao giờ được như thế" (7). Anh lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh bẩn thỉu của bọn phát xít, cuộc chiến tranh phi nghĩa đó đã khiến hàng vạn người dân lao động lương thiện bị biến thành "bia thịt, những máy bắn chém người không tiếc tay, giày xéo lên xác chết để làm giàu cho một lũ lái súng, khát vàng và máu". Lần đầu tiên, ngòi bút Nguyên Hồng đả kích trực diện vào bọn đế quốc Nhật Pháp, kêu gọi quần chúng đứng dậy khởi nghĩa:
-----
(7) Bước đường viết văn, tr.274.
"Sự khốn nạn đã đến tột cùng rồi! Đi bắn giết người, đi cướp đất người, đi bóc lột của cải vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất và sự đói kém tàn hại hàng triệu sinh linh, chưa đủ, lại còn hãm hiếp đàn bà một cách
https://thuviensach.vn
công nhiên nữa. A! Đồng bào Xan! Hơn hai mươi triệu linh hồn máu mủ với Xan còn phải đợi những điều kiện nào mới vùng dậy, đập tan những thống khổ?".
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương rút lui vào bí mật và bọn đế quốc tăng cường chính sách đàn áp khủng bố kiểu phát xít, văn học hiện thực phê phán đã có sự phân hóa. Một bộ phận rơi vào khuynh hướng lãng mạn bảo thủ hoặc tự nhiên chủ nghĩa, nhưng điều may mắn là đại bộ phận các nhà văn hiện thực phê phán (Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Kim Lân) đã tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc bí mật. Chính nơi đây đã diễn ra sự giao lưu giữa văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng. Đảng đã chuẩn bị cho các nhà văn hiện thực phê phán những điều kiện thuận lợi để sau Cách mạng tháng Tám có thể dần dần chuyển sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
***
Bỉ vỏ và Cửa biển là hai cái mốc lớn về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Một bên là tác phẩm hiện thực phê phán, với những tình cảm yêu thương dào dạt, với những khát vọng trong trắng, hồn nhiên của mối tình đầu đến với nghệ thuật; một bên là bộ tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa bốn tập đầu tiên ở nước ta, với một trận đánh hai ngàn trang kéo dài ròng rã mười sáu năm trời! Thông qua bộ tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng cũng như tác phẩm của một số nhà văn lớn trước, chúng ta có thể rút ra những vấn đề lý luận trong quá trình chuyển hóa về thế giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách nghệ thuật của các nhà văn từ chủ nghĩa hiện thực phê phán chuyển sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, những bài học kinh nghiệm khi viết về đề tài xã hội cũ, những yêu cầu nghệ thuật khi xây dựng những bộ tiểu thuyết ít nhiều có tính chất sử thi, có dung lượng lớn và sức mạnh tổng hợp, bao quát được nhiều thời kỳ lịch sử.
Từ bản thảo đầu tiên viết về Xóm Cháy đến lúc Sóng gầm ra đời vừa tròn hai mươi năm!
https://thuviensach.vn
Không có sự gắn bó lâu dài với một vùng quê hương và chuẩn bị, thai nghén từ nhiều năm, không thể có một bộ tiểu thuyết lớn. Cửa biển là sự kết tinh cao độ toàn bộ vốn sống, toàn bộ các loại nhân vật quen thuộc trước kia cũng như hiện nay của Nguyên Hồng, hay nói cho đúng hơn, đó là sự tổng hợp, bổ sung, nâng cao trên cơ sở một thế giới quan mới, một phương pháp sáng tác mới.
Bản chất tổng hợp cũng là một đặc trưng của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa có khả năng kế thừa toàn bộ tinh hoa của nghệ thuật nhân loại và tổng hợp lại thành một chất lượng nghệ thuật hoàn toàn mới.
Bây giờ chúng ta đã có thể xây dựng được một nền thi ca hoàn chỉnh, tổng hợp được những chất liệu thẩm mỹ khác nhau mà trước đây đứng riêng rẽ bên cạnh nhau, như hiện thực và lãng mạn, trữ tình và anh hùng ca, cảm xúc và trí tuệ, dân tộc và hiện đại. Cửa biển của Nguyên Hồng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi... là một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tiểu thuyết.
Trước hết đó là sự tổng hợp đầu tiên giữa các yếu tố sử thi, kịch và trữ tình. Nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng trước 1945 mang đầy những yếu tố bi kịch (Bỉ vỏ; Người con gái; Giọt máu; Đây; bóng tối) và đậm đà chất trữ tình lãng mạn (Cuộc sống, Những ngày thơ ấu). Nhưng phải đến độ Cửa biển thì tiểu thuyết Nguyên Hồng mới có quy mô sử thi, bao quát được những thời kỳ lịch sử quan trọng với hàng loạt sự kiện và biến cố, với một khối lượng nhân vật đông đảo đi về hoạt động trong những môi trường, những hoàn cảnh rộng lớn.
Cửa biển có cái không khí của một ngày hội lớn. Các nhân vật đủ các loại, các kiểu đều về đây họp mặt, có thể dáng vóc, y phục, tính nết, số phận đã thay đổi ít nhiều, nhưng vẫn là những con người khá quen thuộc với chúng ta. Vẫn một bà mẹ ngoan đạo, gầy yếu và hen suyễn, sống chịu đựng, nhẫn nhục và tần tảo nuôi con; một thanh niên tiểu tư sản thất nghiệp
https://thuviensach.vn
nhưng nhiều mặc cảm và sĩ diện; những dân anh chị ở cái xóm Cấm, xóm Chợ con, ngõ Hàng Gà đầy rác rưởi và ngập máu... Cũng vẫn những người đàn bà lam lũ khuân vác, đội than Sáu Kho, những thợ đá ở nhà máy Ximăng và phong trào công nhân rầm rộ, sôi nổi những năm 1936-1939. Vẫn trở lại cái cảnh phố Hạ Lý với những gái nhà chứa, cảnh vườn hoa Đưa người với mấy con mụ chuyên làm nghề dắt díu những "cơm thầy cơm cô"; vẫn cái lạnh lùng tàn nhẫn của những thành phố lớn buôn bán, lừa lọc, cạnh tranh...
Nhiều nhân vật đã được thai nghén từ trước hoặc xuất hiện dưới dạng những phác thảo, đến tập Cửa biển mới được tổng hợp thành một chất lượng nghệ thuật mới. Một số nhân vật ta làm quen lần đầu nhưng thực ra đã được tác giả thai nghén từ lâu. Tất nhiên không chỉ có các nhân vật cũ, nhiều nhân vật mới đã xuất hiện góp phần hoàn chỉnh thêm bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam trong những thời kỳ lịch sử quan trọng từ cao trào Mặt trận Dân chủ cho đến Cách mạng tháng Tám.
Trước đây, tác phẩm của Nguyên Hồng thường chỉ là truyện của một người. Các nhân vật đó lại thường đi về hoạt động trong một môi trường hẹp, một hoàn cảnh có tính chất phong bế (một gia đình, một ngõ hẻm ở thành phố, một góc chợ ở làng quê, một thị trấn nhỏ ở ngoại ô...). Giờ đây, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa không cho phép chỉ miêu tả nhân vật bịt bùng trong một hoàn cảnh tù đọng mà phải tạo điều kiện cho nhân vật tiếp xúc với hoàn cảnh xã hội rộng lớn, tắm mình trong dòng sông bao la cuồn cuộn của lịch sử, của thời đại. Trong thế kỷ chúng ta, vận mệnh một cá nhân gắn liền chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc, với những biến cố lịch sử lớn lao. Đặc điểm đó đòi hỏi các nhà tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa phải tiến đến một sự thống nhất biện chứng giữa hoàn cảnh rộng và hoàn cảnh hẹp, giữa hoàn cảnh xã hội rộng lớn và hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể, riêng biệt của từng cá nhân trong hoàn cảnh điển hình.
https://thuviensach.vn
Phương pháp sáng tác mới tạo điều kiện cho Nguyên Hồng khái quát, tổng hợp một vốn sống từ nhiều mặt, cho phép mở ra những hoàn cảnh rộng với nhiều thành phố (Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định), nhà tù, trại giam (đề lao Hải Phòng, trại tập trung Bắc Mê) và đôi lúc Nguyên Hồng còn lướt nhanh ống kính qua gần hết các vùng rừng núi, nông thôn miền Bắc hoặc các hầm mỏ (Tràng Bạch, Mạo Kê, Bí Chợ, Vàng Danh...) để ghi lấy những cảnh khổ điển hình của con người Việt Nam trong thời kỳ Nhật Pháp thống trị. Có lẽ trong thời gian sáng tác, Nguyên Hồng đã nhiều lần bị cám dỗ bởi cái ý định muốn mở rộng tầm bao quát sử thi của tiểu thuyết, mở rộng khuôn khổ của những tài liệu thực tế và lịch sử. Bộ tiểu thuyết Cửa biển đã phát huy được tất cả những mặt mạnh trước đây của Nguyên Hồng. Nhưng văn học hiện thực phê phán ở nước ta có những hạn chế nhất định do thế giới quan và phương pháp sáng tác của nhà văn, do điều kiện phát triển công khai ở một nước thuộc địa. Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa cần phải viết về các thời kỳ của phong trào cách mạng dân tộc dân chủ từ khi Đảng ta thành lập cho đến cuộc Tổng khởi nghĩa mùa thu trong cả nước, cần phải có nhiệm vụ nâng cao và bổ sung cho tiểu thuyết hiện thực phê phán, đặc biệt là mảng đả kích vào bọn đế quốc và bè lũ tay sai, miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng.
Cứ trở về tầng lớp dân nghèo thành phố là ngòi bút của Nguyên Hồng sinh động hẳn lên, như trở về một lớp người quen thuộc, nặng nhiều ân nghĩa. Từ cách miêu tả chuyện làm ăn sinh sống đến những suy nghĩ tâm tình, lời ăn tiếng nói của những người dân nghèo đều hết sức nhuần nhị, khác hẳn khi anh nói về bọn giàu có bóc lột và lũ thực dân. Mỗi người dân nghèo đều có một tiểu sử riêng, một lý lịch riêng, một cách hành động và phản ứng riêng.
Trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, Nguyên Hồng vẫn tiếp tục sử dụng cái bút pháp quen thuộc ở một số truyện trước Cách mạng tháng Tám. Những tấn bi kịch của tầng lớp dân nghèo diễn ra ngày càng dữ dội hơn, đau đớn hơn trong suốt hai tập Sóng gầm và Cơn bão đã đến. Bắt đầu là cái cảnh
https://thuviensach.vn
nhân vật Thanh, sau hàng tháng trời lang thang đi kiếm việc làm nhưng vẫn không có một tia hy vọng, định thắt cổ tự tử cho thoát nợ đời (chương bốn, Sóng gầm). Sang chương sáu, không khí xóm Cấm càng nặng nề, khó thở hơn sau chuyện ông Dâng cắn lưỡi tự tử trong xà lim, uất ức vì bị mật thám Tây cậu vu oan là ăn cắp hàng ở Sáu Kho! Kết thúc chương tám, bi kịch lên cao độ: lão La bị vợ đánh què chân, gia đình tan nát, chồng chết, vợ đi tù, con cái bơ vơ lưu lạc... Những tấn bi kịch diễn ra dồn dập ngay trong cùng một khu nhà của những người dân nghèo xóm Cấm, cứ như là một thứ định mệnh trùm lên số phận rủi ro của họ.
Nếu như ở tập một của bộ tiểu thuyết, xung đột diễn ra giữa con người với hoàn cảnh, với những thứ gọi là tai ương nghiệp chướng thì sang tập hai, những "cơn bão" dữ dội, những bi kịch chủ yếu lại thể hiện thành những xung đột nội tâm của các nhân vật trong từng lớp dân nghèo thành thị. Sau ngày ở tù ra, Thanh hoang mang dao động, chạy trốn phong trào, tìm sự ru ngủ ở tôn giáo, sống những ngày xót xa, dằn vặt, sống mà như đã chết từ lâu.
Sau đó là đến cái chết đau đớn, vật vã của Gái đen, người con gái cả tin, mê say và liều lĩnh, đã bị lừa dối, phản bội, bị đem bán. Rồi đến chương mẹ La suy tính lao lung, quyết tâm vượt qua nhà ngục của đế quốc phong kiến lẫn nhà tù của thần quyền ngay trong bản thân mình, để tìm con đường sống. Người đàn bà trốn tù đó luồn rừng, băng đồng tìm về thành phố quê hương, chết đi sống lại mấy lần, chân bước giữa Hải Phòng mà như là một hồn ma dám đi giữa ban ngày, một "hồn ma bóng quỷ thoát khỏi âm ti địa ngục, trở về dương gian mà làm người". Trong cơn bão táp cách mạng, các nhân vật của Nguyên Hồng sẽ mất đi cái vẻ bình thường bên ngoài, sẽ thay da đổi thịt, chuyển biến dữ dội theo chiều hướng đi lên quyết liệt của cuộc sống.
Tiểu thuyết Cửa biển có một sức tố cáo mạnh mẽ khi ngòi bút của tác giả tập trung miêu tả tấn bi kịch của những gia đình dân nghèo bị phá sản,
https://thuviensach.vn
bần cùng hóa và lưu manh hóa. So với trước cách mạng, những trang viết của Nguyên Hồng giờ đây giàu chất trí tuệ hơn. Thế giới quan mới, phương pháp sáng tác mới giúp anh lý giải một cách sâu sắc quy luật bần cùng hóa và tha hóa con người của xã hội tư sản. Cũng vẫn miêu tả những tấn bi kịch ấy của tầng lớp dân nghèo, nhưng anh có ý thức rõ rệt hơn về sự cô đơn trơ trụi của con người và nỗi lo sợ bị đe dọa tứ bề bởi những sức mạnh và guồng máy vô hình ở các thành phố tư sản. Cái mới của ngòi bút hiện thực xã hội chủ nghĩa là giờ đây Nguyên Hồng không chỉ miêu tả cái sức mạnh độc ác, tàn nhẫn đã lạnh lùng xô đẩy bao nhiêu người vào vực thẳm, mà còn có ý thức thể hiện quá trình những người cán bộ cách mạng, những người dân nghèo lương thiện đang chống lại sự tha hóa và sự bần cùng hóa nghiệt ngã đó của xã hội thực dân phong kiến. Tiểu thuyết Cửa biển miêu tả những người dân nghèo đã bị cái xã hội cũ bóc lột làm cho bế tắc, cùng quẫn rồi đâm ra phản ứng liều lĩnh, cắn xé nhau như gia đình mẹ La, làm cho sống mòn và chết mòn theo nhiều dạng khác nhau như Thanh, Thái Trang, Trần Văn, làm cho mụ mị đi rồi biến thành một loại đầy tớ nhẫn nhục, trung thành như Ký Thái, làm cho ngớ ngẩn đi trong một cuộc sống bản năng gần như cây cỏ kiểu Khòa... Những hiện tượng đau xót trên đây dầu sao cũng là một thực trạng xã hội. Nhưng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà tiểu thuyết phải miêu tả hiện thực trong quá trình phát triển cách mạng. Nguyên Hồng sẽ lần lượt đưa các nhân vật tắm vào dòng sông lớn của lịch sử, miêu tả cái hiện thực con người hướng về cách mạng, ý thức cách mạng dần dần nảy nở trong lòng quần chúng lao khổ. Cách mạng đến làm rạng rỡ lên những khuôn mặt lâu nay dường như tắt hẳn ánh sáng của trí tuệ, làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa hơn, đáng sống hơn, chứa chan hy vọng về tương lai. Mẹ La tưởng đã thành ma bệnh, ma đói ở đường ngược Hà Giang, hay chết dần chết mòn ở cái đáy vực sâu thẳm của khách sạn Thiên Tân, nhờ gặp ánh sáng cách mạng mà tìm ra con đường sống. Ký Thái trở thành một cơ sở bí mật trong nội thành. Ánh sáng của lương tâm và nhân phẩm vụt lóe lên, đánh thức dậy một cái máy phục tòng đã gần như ngơ ngẩn mất trí. Từ bỏ nhà Đức Sinh ra đi rồi gặp được
https://thuviensach.vn
Dâng và những cán bộ cách mạng, Khòa mới biết là mình đang sống, giờ đây mình mới thực sự làm người, thực sự có một cuộc đời riêng.
Những trí thức văn nghệ như Thái Trang, Trần Văn đắm mình trong cái tháp ngà của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng và các trường phái hiện đại chủ nghĩa khác, buông thả theo một cuộc sống phóng đãng kiểu những kẻ giang hồ lạc phách. Nhưng thực ra tâm hồn của họ vẫn day dứt một nỗi xót xa quằn quại trước cảnh nước mất nhà tan, đồng bào đói khổ, vẫn khao khát một cuộc sống tinh thần cao cả, thoát ra ngoài mọi sự ô trọc, bất công của xã hội kim tiền lúc bấy giờ. Với những kinh nghiệm hoạt động thời Văn hóa Cứu quốc bí mật, Nguyên Hồng đã chỉ ra một cách đúng đắn cái tâm sự yêu nước thầm kín và nỗi xót xa, quằn quại của đám nghệ sĩ "vong quốc nô" lúc bấy giờ. Điều đáng tiếc là tác giả không tập trung miêu tả lớp văn nghệ sĩ mà anh quen thuộc như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hoài... mà lại chạy theo lớp văn nghệ sĩ lãng mạn hoặc suy đồi, nên đôi khi ta có cảm tưởng ngòi bút nhà văn chưa thật thuần thục khi viết về họ.
So với một số nhà văn lớp trước, Nguyên Hồng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để miêu tả phong trào cách mạng. Tuy nhiên từ 1946 trở về trước, lý tưởng cách mạng chỉ mới hiện ra dưới dạng những cảm xúc trữ tình, những khát vọng lãng mạn (Cuộc sống, Những mầm sống), hoặc đôi khi dưới dạng những bức tranh ghi chép, những phác thảo vội vàng (Người đàn bà Tàu, Lưới sắt, Lò lửa, Địa ngục). Giờ đây trong tiểu thuyết Cửa biển, toàn cảnh phong trào cách mạng mới hiện ra với những chi tiết chân thực, những đường nét tạo hình, những nhân vật sống động, đậm đà tính lý tưởng.
Nguyên Hồng đã dựng lại được cái không khí của phong trào Mặt trận Dân chủ: những cuộc đình công sôi nổi ở Máy tơ, Xi măng, Sáu Kho, cuộc biểu tình rầm rộ hơn hai vạn người dự ở Đấu Xảo Hà Nội ngày 1-5-1938, những hoạt động của các hội Ái hữu thợ thuyền, của các chiến sĩ cộng sản ở tòa báo Thời thế, trụ sở công khai của Mặt trận Dân chủ Hải Phòng...
https://thuviensach.vn
Đặc biệt tiểu thuyết Cửa biển đã tập trung lên án chế độ nhà tù đế quốc (nhà tù Côn Đảo, Hải Phòng, trại tập trung Bắc Mê) tố cáo những phản ứng lồng lộn điên cuồng, những thủ đoạn tra tấn, giết người dã man của bọn mật thám và cai ngục đối với tù chính trị. Không có những năm đi tù ở Bắc Mê, không miêu tả được chi tiết và sinh động đến như thế trại tù đàn bà ở Hà Giang, đêm đến "thăm thẳm như chết... hun hút như một hang sâu, một nhà mồ" và cứ mỗi sáng, mùi hôi thối xông lên nồng nặc - cái mùi đặc biệt giông giống nhau ở các lán mộ phu, nhà thương làm phúc hay cầu chợ bỏ hoang chứa ăn mày... Không phải là người trong cuộc không thể phân biệt được rõ đến như thế tiếng lê xiềng của những người tù cỏ vê bị cai ngục xua đi làm khổ sai ở bên ngoài lúc trời còn tối đất. "Có những tiếng kéo lê sền sệt, xào xạo của những người đi không được. Có tiếng xiềng đôi kin kít choang choang với những người khổ sai chung thân đã đi quen và phải đi vội, đi nhanh. Có tiếng xiềng lúc chập, lúc giằng của người tù thọt và tiếng rùng rùng của người tù bị chứng phong, cứ mỗi bước lại đứng lại, tay chân mặt mũi co giật nhăn nhúm". Không có những năm tháng bị bắt ở đề lao Hải Phòng, ở cùng xà lim với Tô Hiệu và dự lớp huấn luyện do Tô Hiệu mở, Nguyên Hồng không thể có được những trang sâu sắc tố cáo những thủ đoạn tra tấn dã man và mua chuộc nham hiểm của bọn mật thám Tây cậu, Môê đối với Tô gày, vợ chồng Sấm và ca ngợi tấm gương anh dũng tuyệt vời của những chiến sĩ cộng sản, bị tra tấn ròng rã bốn hôm ròng, bị lộn mề gà nôn ra hàng bát máu, bị đánh sẩy thai, hóa điên, nhưng vẫn không khai báo một lời về tổ chức của Thành ủy, về các cơ sở quần chúng của Đảng. Tiểu thuyết Cửa biển đã xây dựng được một hình tượng đậm nét về Tô Hiệu từ trước đến nay trong văn xuôi. Cái phẩm chất nổi bật lên trong hình tượng những người cộng sản như Tô Chấn là lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, tinh thần hy sinh cao độ, làm việc quên mình vì quần chúng, vì phong trào cách mạng. Trong Cơn bão đã đến Nguyên Hồng đã cố gắng nâng ngòi bút của mình lên cho xứng đáng với tầm của Tô Hiệu, người chiến sĩ Cộng sản mà anh yêu mến...
https://thuviensach.vn
Mấy chương kết thúc viết về cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Hà Nội và Hải Phòng còn sơ lược, chưa đáp ứng được kỳ vọng của bạn đọc đối với những bộ tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu tiên viết về Cách mạng tháng Tám. Nhìn chung Nguyên Hồng chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tính cách và sự kiện, chưa trình bày được tác động sâu sắc của các sự kiện lịch sử vào tâm lý nhân vật và miêu tả họ lớn lên, trưởng thành ra sao khi tắm trong dòng sông lớn của lịch sử.
Trong tác phẩm Nguyên Hồng, hình ảnh bọn thống trị lớp trên thường đẹp đẽ, lộng lẫy, lịch sự, còn bọn tay chân (như lão Quí, đội Nhị, Ba Lé, Tú Mông tú xuýt...) thì ngoại hình rất xấu đi đôi với một thứ ngôn ngữ, cử chỉ bần tiện, trâng tráo kiểu dở ma cô ma cậu, dở mật thám. Tả lớp trên thì có nét xa lạ, choáng ngợp nhưng đối với bọn tay chân lớp dưới, trực tiếp đụng độ với những người dân nghèo thì nhà văn thù ghét, khinh bỉ ra mặt; ngòi bút tố cáo của tác giả ở đây tỏ ra sắc sảo hơn, hiện thực hơn.
Những nhân vật phụ được cá thể hóa khá rõ nét, có tâm lý riêng, lý lịch riêng, có kiểu suy nghĩ và hành động riêng như Lê Thị Thảo Minh, Tây cậu, Tú Mông tú xuýt... là một mảng bổ sung khá quan trọng cho những Thi San, Giáng Hương đã bị lãng mạn hóa. Đáng chú ý nhất là hình ảnh Tú, gã quý tử nhà cố bà Đức Sinh có khuôn mặt bợm bãi, gian giảo và cặp mắt "nhoi nhói như một thứ mắt rắn", mới phất lên sau đảo chính Nhật. Cái xã hội Tây Nhật nhố nhăng, cái thời kỳ đen tối đã sản sinh ra một con quỷ. Con quỷ đó sẽ nhân cái lúc "giời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông", nhân cái cảnh đổi đời lên voi xuống chó mà phất lên và nó sẽ phá phách ghê gớm. Tú dựa vào thế Nhật, cầm cờ vàng của hãng Tân Đông Á, giết cả nhà Đờ Vanhxi và tên vô lại bỗng chốc trở thành thủ lĩnh đảng Đại Việt ở Hải Phòng, miền duyên hải. Tự bản thân giai cấp thống trị sẽ cắn xé nhau, tiêu diệt lẫn nhau đúng vào lúc nội bộ chúng mâu thuẫn khủng hoảng trầm trọng. Đó cũng là một quy luật.
https://thuviensach.vn
Tuy còn có những hạn chế nhất định, tiểu thuyết Cửa biển đã dựng lên được những hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo giai cấp thống trị nhất là bọn thống trị lớp dưới (mảng này trong các tác phẩm của Nguyên Hồng trước 1945 còn rất mờ nhạt). Ngòi bút của anh giờ đây mang tính chiến đấu mạnh mẽ hơn trước. Tuy nhiên trước sau, Nguyên Hồng vẫn giữ được cái chất đôn hậu của một ngòi bút nhân đạo chủ nghĩa.
Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng giờ đây giàu có, phong phú hơn trước nhưng nhìn chung vẫn là một phong cách hiện thực giàu chất lãng mạn cách mạng và chất trữ tình say đắm.
Tiểu thuyết Cửa biển đã cố gắng dựng lên một bức tranh hiện thực có tầm bao quát sử thi với những xung đột xã hội gay gắt căng thẳng, với những đường nét tạo hình trần trụi, khách quan. Trong tiểu thuyết đôi khi ta bắt gặp một lối miêu tả lạnh lùng dường như cố ý để cho sự việc tự nói lên cái đau xót, tàn nhẫn. Ngôn ngữ trần thuật ở đây mang tính chính xác, một thứ ngôn ngữ "trung tính" dường như tước bỏ khỏi bất cứ sự tô màu mỹ học lộ liễu nào. Nhưng không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng giữ cái bút pháp hiện thực tỉnh táo. Có lúc nhà văn như bay lên trong một sự tưởng tượng phóng túng, một cảm hứng lãng mạn, cứ y như một cái gì đang tỏa ra cuồn cuộn từ bên trong tâm hồn đang say sưa và xúc động. Những lúc đó ngôn ngữ miêu tả của anh đầy màu sắc và cảm xúc, sử dụng rất nhiều những biện pháp tu từ và phép chuyển nghĩa, có khi viện đến cả sự lý tưởng hóa của chủ nghĩa lãng mạn.
Tác phẩm của Nguyên Hồng có một chất say. Không tâm huyết, không say làm sao người đọc say theo mình được. Chất men say lãng mạn là cần thiết và là một mặt mạnh của Nguyên Hồng; nhưng trong một số trường hợp anh phải để cho nhân vật trầm hơn, lắng xuống hơn, tự họ bộc lộ chứ không phải đang say sưa nghiêng ngả trong một cơn xúc động, một sự hưng phấn cao độ của nhà văn. Những lúc đó, Nguyên Hồng thường gán cái chủ quan của mình cho nhân vật. Anh đã nhập thân vào đối tượng miêu tả
https://thuviensach.vn
nhưng không lùi lại một khoảng cách để tỉnh táo nhận rõ đường đi nước bước của nhân vật.
Tiểu thuyết Cửa biển mang đậm đà màu sắc dân tộc. Nguyên Hồng đã cố ghi lại những gương mặt của con người Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử. Theo anh, nhà văn phải sáng tạo nên những nhân vật độc đáo của riêng mình. Mật thám Tây cậu không giống một tên mật thám nào trước đây. Khòa cũng là một nhân vật độc đáo, gần gũi với những nhân vật của Kim Lân. Khòa xuất hiện ở đầu quyển một và mẹ La xuất hiện ở đầu quyển hai. Đó là những nhân vật được tác giả trìu mến, như một thứ bạn rất lạ, rất mê, trên đời có một không hai.
Mẹ La, mẹ Nghĩa đều có những nét cá thể hóa không lẫn vào đâu được. Hồi ký cách mạng và tiểu thuyết của ta đã nói tới những trường hợp các lãnh tụ và chiến sĩ cộng sản vượt ngục. Lần này Nguyên Hồng để cho một bà mẹ u u minh minh vượt nhà tù đế quốc lẫn nhà tù thần quyền ngay trong lòng mình. Ở các nhân vật khác, Nguyên Hồng cũng cố gắng khai thác mỗi nhân vật một nét riêng: cái xù xì, trầm lặng của cụ Cam, nét dữ dội của Gái đen, chất thơ của cụ Ước, tính thú vật ở Tây cậu, tính bản thiện hồn nhiên ở Khòa...
Những nhân vật dân nghèo ở Nguyên Hồng mang nếp suy nghĩ tình cảm quen thuộc, vốn đã thành truyền thống trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Những vấn đề đạo đức khí tiết, tình nghĩa thủy chung, đền ơn báo oán... đã ăn sâu vào nếp suy nghĩ của các nhân vật mang đậm đà màu sắc dân tộc của anh. Nhìn chung, Cửa biển là một sự khát khao về nhân phẩm, về hạnh phúc, về ánh sáng, là một niềm tin về sự tất thắng của chính nghĩa, của cách mạng, của những người lao động nghèo, lương thiện.
Tiểu thuyết Cửa biển chưa thật sự mang tính dân tộc hiện đại. Một số nhân vật mang những vấn đề đạo đức khí tiết, tình nghĩa chung thủy gần với truyền thống. Tuy nhiên cái vấn đề chung của toàn tác phẩm, tư tưởng chủ đề của toàn bộ tiểu thuyết thì lại chưa thật rõ. Mà kết cấu của những bộ
https://thuviensach.vn
tiểu thuyết hiện đại nhiều tập, nhiều tuyến, nhiều bình diện đan chéo nhau lại thường dựa trên tư tưởng - chủ đề lớn, ít khi dựa vào trình tự thời gian như tiểu thuyết chương hồi hay dựa vào cuộc đời của một nhân vật như kiểu Tắt đèn, Bước đường cùng... trước Cách mạng tháng Tám. Do đó sự gắn bó với nhau giữa các tuyến nhân vật, các tuyến cốt truyện trong kết cấu tiểu thuyết Cửa biển chưa thật chặt chẽ.
Đọc tiểu thuyết Nguyên Hồng, người ta thường có cảm giác hơi nặng nề. Đó là do lối miêu tả quá rườm rà, chi tiết về ngoại cảnh, do một số nhân vật bị cường điệu về mặt tình cảm hoặc bị chìm đi trong những hồi ức lan man về quá khứ. Nhà văn muốn dựng lại nhiều khuôn mặt, dáng vóc của những kiểu người trong một thời kỳ lịch sử. Với một lối miêu tả chi tiết, rậm rạp, với một mạch truyện phát triển chậm và bằng phẳng, anh muốn tái hiện lại những hoàn cảnh môi trường rộng lớn, những phong tục sinh hoạt của một thời đại.
Nhưng phản ánh một xã hội, một thời kỳ lịch sử, các nhà tiểu thuyết đã vận dụng nhiều biện pháp: dựng một quy mô rộng với nhiều hoàn cảnh môi trường, nhiều kiểu người như Balzac, đi sâu vào tâm lý như Flaubert, hoặc kết hợp quy mô sử thi với chiều sâu tâm lý như Tolstoi hoặc cô đúc trong từng mảng tinh chế rồi từ đó khái quát lên như Kafka. Trải ra trên một bề rộng sử thi, đi vào chiều sâu tâm lý, lên cao phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh để đưa ra một cái nhìn khái quát tổng hợp có tính chất trí tuệ, triết học... đều là những cố gắng muốn nắm bắt bản chất của hiện thực. Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta phải chăng có thể tổng hợp cả ba cách nhìn như thế để phản ánh hiện thực phong phú, phức tạp của thời đại mới.
***
Đã mấy chục năm nay, một ngày làm việc của Nguyên Hồng bắt đầu từ gà gáy. Nhiều đêm một giờ hay hơn một giờ, anh đã thức giấc. Thức giấc là phải đọc, phải viết.
https://thuviensach.vn
"Càng mùa rét, càng sương gió, càng cô quạnh, đọc càng thấy vào. Bởi vậy, những tháng từ Một Chạp đến Hai Ba Âm lịch ở nhà, trên cái đồi mà ông và các ông quen thân tôi biết đấy, thường tôi rất ít về Hà Nội hay đi đâu. Chính trong những khắc giờ này và qua nhiều năm tháng trong cái tuổi từ ngoài bốn mươi cho tới nay, tôi đã thấy và càng lo viết, phải viết Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế". (8)
-----
(8) "Thư đặc biệt gửi ông Nguyễn" ngày 18-8-1978.
Nguyên Hồng đã thực hiện những dự định của mình với một quyết tâm rất lớn. Xong bộ tiểu thuyết Cửa biển hai ngàn trang là bắt tay ngay vào cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về Đề Thám và kịch lịch sử (Dương Vân Nga). Đó là chưa kể những tập hồi ký xuất bản (Bước đường viết văn, Những nhân vật ấy đã sống với tôi), những tập thơ đã in (Trời xanh, Sông núi quê hương) và đang soạn (Hoa trái đất). Nguyên Hồng đang hăm hở hoàn thành bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế, đang tập trung sức chạy đua với thời gian, thì một cơn đau đột ngột đã cướp anh đi! Bộ tiểu thuyết mới xong tập I (Thù nhà nợ nước) và đang viết dở tập II (Núi rừng Yên Thế). Có thể Nguyên Hồng đã thai nghén bộ tiểu thuyết lịch sử này từ năm 1947 lúc anh ở ấp Cầu Đen, Yên Thế cùng với Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình... Lịch sử Đề Thám (1935) của Ngô Tất Tố thuộc thể loại truyện ký, trong đó có ghi ngày tháng các trận đánh, tên các sĩ quan chỉ huy người Pháp, một số sự kiện được tác giả ghi chính xác như một nhà viết sử. Còn Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế (dự kiến 3 tập) là tiểu thuyết lịch sử. Cho nên Nguyên Hồng không miêu tả các trận đánh chính xác theo ngày tháng và chân thực đến từng chi tiết. Tên các quan Tây trừ Godin, còn phần lớn được gọi theo cách dân gian (quan năm Năm sao, Rậm râu, quan năm Mũi khoằm, quan hai Mặt ngựa, quan một Tôm he...). Ngô Tất Tố tập trung vào nhân vật Đề Thám, còn Nguyên Hồng chú ý đến toàn bộ phong trào khởi
https://thuviensach.vn
nghĩa của nông dân Yên Thế với hàng chục toán nghĩa quân của Đề Sặt, Bá Phức, Thống Lịnh, Cai Cờ... trong đó những người có công đầu là Đề Nắm (Lương Văn Nắm) và Đề Thám (còn gọi là Đề Dương, tức Hoàng Hoa Thám). Trong Núi rừng Yên Thế (tập II), Đề Thám vẫn còn là tướng lĩnh xuất sắc của Đề Nắm, có lẽ phải đến tập III, sau khi Đề Nắm bị giết vào tháng tư năm 1892 thì Đề Thám mới trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Yên Thế. Nguyên Hồng lấy quần chúng nhân dân làm nhân vật chính, còn Đề Thám chỉ là nhân vật trung tâm.
Ngô Tất Tố tập trung miêu tả những chiến công của người anh hùng Yên Thế, còn Nguyên Hồng muốn dựng lại toàn cảnh sinh hoạt xã hội thời đó, nhất là vùng nông thôn, căn cứ của Đề Thám. Làng Trũng với những bà cụ Bờ, mẹ Ngọ, mẹ Trọng, bác Tần gái, bà cụ Vá, bà cụ Đồ Mốc... đùm bọc yêu thương lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm. Họ là những người nông dân nghèo khổ, quanh năm quần quật một nắng hai sương và gia đình nào cũng có mối thù không đội trời chung với thực dân Pháp. Số phận của họ gắn bó với nghĩa quân, họ là hậu phương vững chắc, là lực lượng dự bị hùng hậu của nghĩa quân Yên Thế.
Mấy chục năm ở ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng đã đi khắp các vùng Nhã Nam Yên Thế, vào các làng quê vùng núi, hỏi chuyện các bô lão, các nghĩa quân còn sót lại xem có bòn đãi thêm được tý gì về thời Đề Nắm và Đề Thám không? Và theo Anh Vũ, Nguyên Hồng còn một mình một xe đạp thiếu nhi Liên Xô không phanh lên mãi vùng Tam Đảo, Vĩnh Phú, rồi Hà Giang, Tuyên Quang, rồi về Quế Võ, quê Nguyễn Cao, lên Lục Nam hỏi chuyện tích Cai Vàng, rồi lại về Hiệp Hòa tìm hiểu Ba Biền, sau đó lại đi tiếp Yên Dũng, Tiên Sơn... Cho nên, hơn hẳn những người đã từng viết về Đề Thám, Nguyên Hồng là "thổ công" của vùng Yên Thế, ông nắm rất vững địa thế, địa lý, các đồn trại của nghĩa quân ở Cao Thượng, Hố Chuối. "Đường bộ đi thẳng từ phủ Lạng Thương, Bắc Giang lên Cao Thượng khoảng 13 cây số. Đường bộ đi tắt từ Bắc Ninh lên Cao Thượng qua các vùng như Tam Tầng, Bích Động, Mỏ Thổ hay Núi Voi, Sàn Rãnh, Kháng
https://thuviensach.vn
Giàng... cũng chỉ khoảng hơn 20 cây số. Đồi Cao Thượng không cao lắm, nhưng trấn giữ hết các ngả đường từ Yên Thế đi các tỉnh: sang Vĩnh Yên, Phúc Yên, lên Thái Nguyên, Lạng Sơn, về Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông hay qua đây thì xuống mấy phủ huyện đường xuôi như Hiệp Hòa, Yên Phong, Từ Sơn, Yên Dũng, Võ Giàng, Quế Dương v.v... Rừng cây và đồi núi ở phía sau và chung quanh Cao Thượng không là đại ngàn nhưng rậm rịt. Các làng mạc không to lắm nhưng nhiều lõng rất hiểm hóc".
Nguyên Hồng là nhà văn của dân nghèo, là con người của chợ quê, làng quê với các món ăn dân dã mang mùi vị đặc biệt của quê hương. Về pháo đài Hố Chuối, ông chỉ phác thảo mấy nét đơn sơ: "Sau đồn Hố Chuối, rặng núi Yên Thế Thượng và Phổng Mẹt tuy không chất ngất, nhưng phủ sương đêm và hơi nước bốc lại càng mịt mùng. Tất cả vùng đồi núi, làng mạc chung quanh đồn ngun ngút, trập trùng như một vịnh biển, là một vịnh biển đang dậy sóng". Ngô Tất Tố tập trung miêu tả cấu trúc của pháo đài Hữu Thế (9), một mô hình của chiến tranh du kích dựa vào địa thế của miền rừng núi, thì Nguyên Hồng lại chú ý đến các chợ quê (như chợ tỉnh Nhã Nam, chợ Mọc, chợ Cầu Gỗ, chợ Nếnh) và các làng quê xung quanh đồn Hố Chuối: "Những cây mít của mấy nhà gần đồn Hố Chuối sao mà nhiều quả... Mấy xóm nghĩa quân người Hà Nam, Nam Định đóng ở làng Lèo, làng Mạc, cây quả lại càng to, càng sai". Trưa nắng, đêm giăng, sáng sớm, ngào ngạt mùi mít với hương hoa cau, hoa lý... Và trong gánh hàng của bà cụ Đồ Mốc bán cho nghĩa quân ăn sáng, "chè không nấu mà hãm trong một cái vò ủ bao tải, nước cứ xanh và thơm ngát như ướp hoa mộc, hoa nhài, hoa sói; khoai đỗ ăn với tôm trứng kho tương, khoai sọ, khoai lang và ngô bung đều có thứ chấm, thứ rắc ăn tùy khách. Đỗ lạc rang với muối giã nhỏ, rắc vào ngô bung hay chấm cùng khoai lang Lim bở tơi, khoai sọ cắn quánh răng. Có khách bảo như thế đến bánh khảo, bánh nướng, bánh cao lâu cũng không ngon hơn, mà có thể ăn trừ bữa được". Nguyên Hồng và Thạch Lam có biệt tài tả các món ăn ngon, đặc biệt là những món ăn dân dã của làng quê, của dân nghèo thành phố.
https://thuviensach.vn
-----
(9) Có sách gọi là đồn Hữu Nhuế ở tít sâu trong rừng thẳm phía Đông Bắc làng Hữu Thượng - Đồng bào địa phương còn gọi căn cứ Hữu Nhuế là Hố Chuối.
Ý đồ của Nguyên Hồng qua bộ tiểu thuyết lịch sử này đã quá rõ: ông muốn dựng lại toàn bộ sinh hoạt xã hội và các từng lớp người, các kiểu người của một thời kỳ lịch sử. Cho nên bên cạnh các sĩ quan Pháp trực tiếp chỉ huy các cuộc càn quét lên Cao Thượng, Hố Chuối, ta còn thấy xuất hiện vợ chồng Tạc tà ranh, chủ khách sạn ở Hà Nội, lão Sét nay đang âm mưu mở đồn điền ở hai huyện Yên Thế và Hiệp Hòa. Đó là chưa kể lũ Việt gian tay sai như Nhất Cửu, trùm Xào, Nho Quán (tri huyện Đông Triều) và lũ đĩ điếm như Mận, con gái mụ Ba Béo thường theo các cuộc đi "câu lơn" để bán rượu và thức ăn nguội cho lính... Các kiểu người của một thời kỳ lịch sử, được ống kính của nhà văn đặc tả đến từng chi tiết, kể cả những chi tiết về y phục:
"Tuần phủ, áo gấm màu cánh trả, hoa cúc phủ sa thâm, ôm cái nón lông đen chóp bạc tiến ra trước. Thứ đến Án sát, áo gấm màu tam giang cũng phủ sa thâm và cũng nón lông chóp bạc ôm trong tay...". Còn tên xà ích đánh xe ngựa đi theo thì "áo y bằng thứ vải trắng hồ bột trắng lốp, cúc đồng đỏ như vàng, hai mép cánh tay áo, vai viền những đường hoa văn, hoa thị bằng kim tuyến". Người đọc thật thú vị khi thấy hiển hiện lên trước mắt cảnh camera quay chậm, đặc tả cả một toán lính Tây lính ta đang đi "câu lơn" qua làng: "Giữa lúc xế trưa ấy, một toán ngót một trăm lính Tây và lính nón đĩa có một viên quan hai cưỡi ngựa và ba con la thồ hòm đạn và thức ăn uống đặc biệt đi từ dốc đê bến Ngọt ngoài sông Cầu tắt xuống đường gần chân núi Voi để vào làng trong. Những bóng người cao nghệu đội mũ nút chai lợp vải vàng, vai khoác toàn súng mới, bên hông đeo những bao da đạn chề chề, bước những bước dài nghiêm, nét mặt lầm lũi vã mồ hôi, trông càng hung dữ, ghê tợn. Những bóng thấp bé, đầu đội nón
https://thuviensach.vn
đĩa bỏ rủ miếng rèm vải để che nắng, tay súng đạn, quần áo dáng dấp không mạnh, không khiếp bằng, đã thế nhiều người có vẻ tiều tuỵ thảm hại, nhưng vẫn không phải không dữ, không tợn". Nguyên Hồng đã có những thành công khi dựng lại toàn bộ sinh hoạt xã hội của một thời kỳ lịch sử, nhất là đời sống của nông dân và dân nghèo vùng núi Yên Thế, khi miêu tả những trận đánh mưu trí và dũng cảm của nghĩa quân Đề Nắm và Đề Thám chống lại những cuộc càn quét của hàng ngàn lính và sĩ quan Pháp ở vùng Cao Thượng và Hố Chuối. Bộ tiểu thuyết lịch sử còn dang dở ở tập hai nên chúng ta chưa thể có kết luận cuối cùng. Nhưng xây dựng một bộ tiểu thuyết lịch sử có quy mô sử thi về toàn bộ cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám và nông dân Yên Thế, về những mối quan hệ gắn bó giữa cuộc khởi nghĩa đó với phong trào Kỳ Đồng, với đảng Nghĩa Hưng và vụ Hà thành đầu độc năm 1908, với phong trào Đông Du của Phan Bội Châu... quả là một thử thách quá to lớn đối với Nguyên Hồng vì anh không phải là người chuyên viết tiểu thuyết lịch sử như Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên, Thái Vũ, Hà Ân, Nguyễn Xuân Khánh... Với một quá trình thai nghén hàng mấy chục năm trời, với một quyết tâm lớn, bạn đọc đang kỳ vọng nhiều ở bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập này. Nhưng bạn bè thân thiết trong Hội Nhà văn, bạn đọc thuộc nhiều thế hệ cứ sững sờ, lặng cả người đi khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đau buồn báo tin anh đã từ trần ngày 2-5-1982 tại xã Quang Tiến huyện Tân Yên, Hà Bắc.
Sáng 10-5, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam đã làm lễ tưởng niệm nhà văn tại Hà Nội. Chính phủ truy tặng anh Huân chương Độc lập hạng III và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996). Thủ đô Hà Nội có đường Nguyên Hồng, huyện Yên Thế Bắc Giang có trường PTCS Nguyên Hồng ngay sát ngôi nhà cũ ở ấp Cầu Đen và cách nơi an nghỉ cuối cùng của nhà văn khoảng gần 200m.
Đó là phần thưởng xứng đáng của 46 năm lao động và sáng tác không mệt mỏi, với một khối lượng tác phẩm to lớn và phong phú về nhiều mặt,
https://thuviensach.vn
cắm mốc cho nhiều thời kỳ của lịch sử văn học hiện đại. Nguyên Hồng là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, một dòng văn học chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của những phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, đồng thời cũng là một minh chứng hùng hồn cho quá trình chuyển hóa của các nhà văn hiện thực phê phán sang hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bộ tiểu thuyết 4 tập Cửa biển đã mở đầu cho loại tiểu thuyết sử thi hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bộ tiểu thuyết Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế đang hoàn thành cũng báo hiệu một loại tiểu thuyết lịch sử có quy mô hoành tráng. Toàn bộ tác phẩm của Nguyên Hồng, tuy giá trị các cuốn không đều, nhưng chắc chắn sẽ chiếm một vị trí quan trọng và bền vững trong nền văn xuôi hiện đại.
Nguyên Hồng là "một nhà văn và một chiến sĩ cách mạng đã sống một cuộc đời phong phú và giản dị" (10)giữa lòng nhân dân lao động, một tâm hồn luôn luôn khao khát vươn lên ánh sáng của lý tưởng cộng sản. Anh cũng là một tài năng được khẳng định về nhiều mặt, một con người tha thiết yêu văn học, coi sự sáng tạo nghệ thuật là niềm say mê cao quý nhất của đời mình, một tấm gương lao động cần cù và đầy nghị lực, cho đến phút cuối đời vẫn tỏ ra còn sung sức. Anh đã để lại cho chúng ta, cho nền văn học dân tộc một gia tài đồ sộ, trong đó nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài với thời gian.
GS. PHAN CỰ ĐỆ
-----
(10) Thư chia buồn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Văn nghệ số 21 ngày 22-5-1982.
https://thuviensach.vn
NGUYÊN HỒNG TOÀN TẬP 1 Nguyên Hồng
www.dtv-ebook.com
Linh Hồn
Kính tặng người đàn bà khốn nạn yên lặng ngậm tủi trong chốn lao tù tối tăm.
Cái năm ấy qua đã lâu. Một buổi chiều mùa đông, sắc trời vàng úa, non hai trăm tù lục đục kéo về dưới cổng đề lao. Cánh cửa sắt to quét hắc ín từ từ mở rộng. Như một đàn ngỗng bị lùa vào chuồng, tất cả tội nhân đi làm "cỏ vê" chen chúc nhau cười nói ồn ào, dù đám lính khố xanh đi coi quát tháo, đánh mắng ầm ĩ.
Ở chốn lao lung, ngày lại ngày nối tiếp nhau dài dằng dẵng, ủ ê buồn tẻ, vậy vui được lúc nào là quên sự khổ não được lúc ấy. Huống chi gần hết một mùa đông rét mướt, buổi chiều hôm nay mới hơi quang đãng sáng sủa.
Nhưng chị Hai mươi hai âu sầu lắm. Vẻ rầu rĩ trên khuôn mặt nàng hiện rõ rệt trước người tù đàn bà được cử làm Cai để khám xét các tù đàn bà.
Chợt tiếng "cụ Suvaydăng" (1)dõng dạc truyền:
- Này chị Cai, đến lượt con Hai mươi hai chị phải khám xét thật kĩ đấy nhé. Chị bắt nó dang hai cánh tay, chị nắn cả vành khăn và gấu áo nó cho tôi.
-----
(1)Suvaydăng: phiên âm tiếng Pháp Surveillant, chỉ giám thị trông coi tù nhân.
https://thuviensach.vn
Nói thế, "cụ" cũng chẳng để cho chị Cai khám, mà "cụ" thân khám lấy, tuy "cụ" biết chắc chắn ngoài bộ quần áo và cái nón lá rách mướp, Hai mươi hai chẳng dám mang một cái gì khác vào trong tù.
Như trăm nghìn lần khác, cái roi tre cật của "cụ" đã lại đi làm cái việc tò mò là lật áo, lật yếm, lật khăn... tức thì một giọng cười thỏa mãn cất lên, tiếp đến những tiếng cười nịnh nọt khác trong khi Hai mươi hai chết cay chết đắng trong lòng, cúi đầu, rớt nước mắt, tủi cho thân phận yếu hèn.
Ngước đầu nhìn một tội nhân mới vào khép nép trước mặt mình, anh Năm Béo, cai tù, cất một nụ cười dài. Anh khẽ giơ ngón tay trỏ vẫy một cái: nhanh như chớp, hai tội nhân ở đằng cuối "san" (2)chạy lại. Rất gọn gàng và rất êm thấm, một yêu kéo hai cánh tay người tù mới vào quặt ra sau lưng, một yêu cởi cúc lột áo.
-----
(2)San: phiên âm tiếng Pháp salle, chỉ gian phòng giam tù nhân.
"So quéo" này ngơ ngác không hiểu ra sao, nhưng chợt nom qua một hàng chừng vài chục thùng nước cống xếp trước mặt thì biết ngay.
Cắn răng không dám hé nửa lời, "so quéo" thân cởi nốt cái áo cánh trắng, dâng cho anh Cai, và yên lặng khoác bộ áo rách rưới, hôi hám mà Năm Béo quăng xuống nền nhà.
Đồng thời trong buồng tù, một người tù đàn bà cũng yên lặng để hai "bỉ yêu" làm cái việc trên kia, rồi khoác vào thân thể gầy còm bộ quần áo rách rưới, hôi hám của chị Cai quẳng cho.
Và bây giờ, ở nhà giấy đối diện với nhà pha, "cụ Suvaydăng" một tay tì trên cửa sổ, một tay xóc xách chùm chìa khóa, thản nhiên ngẩng đầu trông lên trời và nghĩ ngợi.
https://thuviensach.vn
Cái khuôn mặt ấy lại hiển hiện trước mắt Cai Năm - cái khuôn mặt dịu dàng long lanh, đôi mắt lờ đờ, u ẩn không biết bao nhiêu tình tứ.
Năm Béo mím môi, nắm chặt bàn tay trái đấm thật mạnh vào lòng bàn tay phải. Cử chỉ đó tỏ rằng tâm trí Cai Năm bị một sự ao ước, thèm muốn kích thích đến cực điểm. Sắc đẹp thùy mị của Hai mươi hai trong cảnh tù tội bó buộc, kham khổ đã hoàn toàn huyễn hoặc Năm, khiến Năm say mê, khiến Năm sôi nổi, không sao nén được lửa dục tình. Hắn chau mày tự nhủ:
- Thế này mới xong xuôi!
Dứt lời, anh ngước nhìn cái bọc vải nặng trĩu vừa quần áo, vừa tiền nong, đeo lủng lẳng ở góc tường. Với tiền bạc, Năm quyết dùng để mua những phút khoái lạc mà xưa nay chỉ người cai tù nào có diễm phúc, có oai quyền, mới được hưởng trong tù.
***
Còn non nửa tháng nữa, Hai mươi hai tới kì sinh nở: nàng được phép thôi đi làm "cỏ vê", nghỉ ở nhà. Nàng âu sầm ngồi tựa lưng vào tường đá, thành kính ngắm ảnh Chúa đeo trước ngực.
Chúa vẻ mặt rầu rĩ, chan chứa những nét yên lặng chua xót hình như cũng lờ đờ nhìn lại nàng - một người đàn bà yếu đuối. Luồng nhỡn tuyến vô hình mà thấm thía, mà dịu dàng ấy soi sâu vào tâm hồn nàng, rung chuyển cả tâm hồn nàng, giúp nàng một sức mạnh để can đảm hứng chịu các nỗi đau đớn ở đời!
Thong thả, Hai mươi hai nâng cây "thập ác" nhỏ bằng đồng gần sát mặt mình vừa lầm rầm khấn:
- Chúa thương xót chúng tôi!
- Chúa cứu chữa chúng tôi!
https://thuviensach.vn
- Chúa nhận lời chúng tôi!
Nàng chỉ còn có thể trông cậy vào quyền pháp của Đấng cao siêu phù hộ nàng cho qua khỏi nỗi gieo neo, cho nàng tới kì sinh nở ở nơi tù ngục được mẹ tròn con vuông, cho anh Tín, chồng nàng được khỏe mạnh mà làm lụng nuôi mẹ, nuôi con.
Mẹ, chồng, con, Hai mươi hai chỉ nghĩ đến ba người ấy thôi, còn cái sắc đẹp thùy mị, cái hạnh phúc của mình, nàng không hề nghĩ tới. Nhất là cái sắc đẹp đáng yêu của nàng, nàng cho nó quá thường: muốn làm đẹp lòng chồng, muốn được con cái yêu dấu, người đàn bà phải có một sắc đẹp thiêng liêng là sự trong suốt của tâm hồn.
Chợt Hai mươi hai ngạc nhiên ngẩng nhìn chị Cai Cao mời trầu mình, xưa nay "chị" có mời ai ăn trầu bao giờ đâu. Tủm tỉm cười nụ, Cai Cao dịu dàng, nói:
- Kìa, cầm lấy mà ăn!
- Cám ơn bà, cháu không biết ăn.
Với một giọng lẳng lơ, chị Cai mắng yêu nàng:
- Còn vẽ trò! Của anh Cai Năm đấy! Miếng trầu nên vợ nên chồng đấy!
Biết ngay cái dã tâm Cai Cao, Hai mươi hai quay mặt đi.
- Ơ kìa!... Ơ kìa!... Sao lại thế? Đến bước này còn giữ giá làm nộm với ai?
- Không! Không! Bà ơi!
- Thì cứ trông gói quần áo và tiền bạc đây.
https://thuviensach.vn
- Không! Cháu không thiết đâu!
- Không thiết chứ?
- Vâng
- Vậy thế Hai mươi hai không biết thế nào là sung sướng, thế nào là khổ sở ư?
Câu hỏi ấy làm Hai mươi hai chạnh lòng. Nàng yên lặng nhớ đến quãng đời qua. Thuở còn bé dại thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải đi chăn trâu chăn bò; lớn lên tuy được làm con nuôi một bà lý trong làng, song hai mùa cấy hái vất vả chẳng ngơi tay; đến năm kia được anh Tín thương yêu xin bà lý cho ra ở riêng thì nàng lại phải mò cua bắt ốc đỡ vực chồng... Rồi đến ngày nay, nhà đoan hai lần khám thấy rượu lậu trong nhà, nàng đi chịu tám tháng tù thay chồng giữa lúc nàng bụng mang dạ chửa. Bằng ấy năm, hai mươi năm ở một nơi đồng chua nước mặn, sống lần hồi trong cảnh lầm than, Hai mươi hai có hưởng được lấy một ngày nhàn rỗi sung sướng?... Vì nàng khổ sở quá quen đi rồi, nên cũng chẳng biết khổ sở nữa.
Những linh hồn chịu quen sự cực nhục, đày đọa như thế đều có một chí phấn đấu, một lòng hi sinh vô bờ bến.
Lạnh lùng, Hai mươi hai buông một tiếng thở dài. Nàng như muốn nhờ ngọn gió rét đưa cái thanh âm não nùng ấy đến tận tai chồng để tỏ hết nỗi lòng.
Thấy Hai mươi hai tư lự, Cai Cao cho nàng cũng như các gái khác dù ưng thuận mười mươi, nhưng vẫn làm ra vẻ thẹn thùng, vậy cứ khuyên ráo riết thế nào chả xiêu được bụng.
- Chị hiểu rồi chứ? Thử nghĩ xem cô Thuận ngày nào cũng quà bánh thức ăn thừa mứa, khi hết hạn tù về lại được một thúng đầy quần áo, mà chị còn xuân thế này lại không thiết thì có lạ không?
https://thuviensach.vn
Hai mươi hai quá thẹn, nổi giận quên cả Cao là cai, gạt bắn tay chị đi. Đoạn nàng trỗi dậy, chạy lại đằng cuối sân. Cực lòng, nàng ngồi xệp xuống đất, gục đầu vào tường, bưng mặt thút thít khóc.
Hai mươi hai đau đớn vô cùng, chắc thế nào cũng sinh nở trong này mà quanh mình rặt những sự không may, rồi ra có được trọn vẹn không? Chặc lưỡi, Hai mươi hai dằn tiếng:
- Chết thì chết! Không khi nào chịu nhơ nhuốc ấy.
Đương khi hồi hộp lo ngại, tiếng chim kêu chiêm chiếp đổ hồi làm Hai mươi hai giật mình. Nàng ngẩng đầu lên xem: trên mái đề lao mốc thếch, một con sẻ mái xòe cánh hết sức đuổi con sẻ đực theo dõi bên mình. Nàng vội quay mặt ra rặng xoan để tránh nhìn cảnh hắc ám ấy thì lại thấy ngay ở đầu tường hai con bồ câu đực đang tranh nhau nhảy lên con mái vừa cất những tiếng gù gù.
Những linh cảm khủng khiếp, ghê sợ làm tê dại cả tâm trí Hai mươi hai. Nàng bối rối như người hấp hối mơ màng thấy thần chết lấp ló trên đầu. Đôi mắt quầng đen, Hai mươi hai lại chan hòa rơi lệ, vừa lúc con bồ câu đực to đã "chinh phục" được con chim mái.
Bấy giờ, Hai mươi hai nhận thấy hết cả nỗi yếu hèn lạnh lẽo của tấm thân vừa yếu đuối, vừa nghèo nàn trong nơi tù ngục, không ai che chở. Nghẹn ngào, nàng đưa tay vuốt ngực:
- Rồi ta cũng đến thế thôi!
Một buổi sáng mùa đông ảm đạm, buồn rầu, tuy khô ráo. Tất cả các tội nhân đã thành án đều đi làm và "cụ Suvaydăng" cũng bận ra sở Cẩm trình sổ sách vắng. Năm Béo càng được thể dữ, hạch lạc kẻ này, phân phát công việc cho kẻ kia. Dưới cặp mắt sắc sảo, dưới những ngọn roi mây quấn dây thép của Năm, hàng trăm người chưa thành án nem nép sợ hãi cúi đầu làm những việc mà dù họ nghèo khổ cũng chưa phải mó tay đến bao giờ.
https://thuviensach.vn
Bỗng chốc, Năm quay đầu nhìn về phía buồng giam đàn bà nét mặt chau lại, ra dáng nghĩ ngợi. Chị Cai Cao ở đâu chạy tới, vội vàng ghé tận tai Năm thầm thì:
- Có mau lên không?
Dứt lời, cả hai đều rảo bước... Cánh cửa buồng đàn bà khép dập lại.... Một tiếng rú nghẹn ngào vang lên.
Hai mươi hai thoáng thấy bóng Cai Năm, mặt nàng tái mét, không còn một hột máu. Nàng chực kêu la, nhưng chưa kịp mở miệng đã bị Năm bóp chặt cổ, dằn ngửa xuống sàn gỗ. Nàng hết sức kháng cự nhưng hai bàn tay Năm cứng như sắt.
Nàng khóc.
Rồi nàng giương đôi mắt đầy lệ nhìn Năm ú ớ van lơn:
- Xin buông tha tôi ra! Khổ tôi lắm! Tôi bụng mang dạ chửa! - Anh Năm đừng ngại nhé. Tôi gác rất cẩn thận rồi đấy!
Nghe thấy tiếng Cai Cao khàn khàn, Hai mươi hai càng khủng khiếp, song nàng giãy giụa bao nhiêu, dạ con trong bụng lay chuyển bấy nhiêu, nàng thêm đau đớn, đau đớn vô cùng. Biết có hết sức chống cự cũng không sao thoát khỏi nanh vuốt con thú dữ ấy, nàng đành nhắm mắt, cắn răng...
Hình ảnh Tín rầu rĩ bỗng hiện rất rõ ràng trong tâm tưởng Hai mươi hai. Rùng mình, Hai mươi hai vội hơi hé mắt, chua xót lờ đờ nhìn xuống mẫu ảnh đức Chúa Giêxu treo ở trước ngực, trong thâm tâm nàng như muốn thì thầm phân trần sự bị ức hiếp quá tàn bạo và sự trong sạch của linh hồn mình.
Rồi đôi mắt long lanh lại nhắm nghiền.
https://thuviensach.vn
Cách non một tuần lễ sau, trong khoảng đêm khuya im lặng, tại đề lao, trong lúc Hai mươi hai mê mệt nằm bên cái thai còn nguyên rau long ra trên vũng máu tím bầm như sắc mặt nàng, thì ở nhà quê anh Tín co ro ngồi cất vó bên bờ ngòi. Anh vẩn vơ trong gian nhà xiêu vẹo, tờ mờ nổi bóng dưới ánh trăng lạnh lẽo mùa đông, rồi anh mơ màng thấy ngày xuân vui tươi sắp tới đây, trên tay anh thiêm thiếp ngủ đứa con trai đầu lòng mà vợ anh khỏe mạnh hết hạn tù sẽ bế về.
Anh hồi hộp chờ mong...
1936
https://thuviensach.vn
NGUYÊN HỒNG TOÀN TẬP 1 Nguyên Hồng
www.dtv-ebook.com
Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn
Huyến qua khỏi thửa ruộng ấy thì bóng người kia đã vượt khỏi con đường nhỏ hẹp, xăm xăm vào nhà ga. Thoáng qua ánh chiếc đèn đất đưa đi đưa lại trong người phu kíp, Huyến mới thấy rõ màu y phục của bóng người nọ: một màu nâu cũ kỹ.
Huyến càng rảo bước. Vì còi tàu đã rúc đổ hồi, bánh xe đã chuyển động xình xịch. Trao tay người phát vé đồng hào đôi, Huyến chẳng cần lấy mấy xu thừa, giật lấy vé, nhảy phắt lên toa. Vừa lúc đó bóng người nọ ở toa trên đi xuống, tìm một chỗ ngồi.
Huyến ngạc nhiên hết sức: thì ra một người đàn bà, một nhà sư nữ giấu mặt trong chiếc khăn vuông bịt kín miệng và kéo xuống gần chấm mắt. Thấy nhà sư nữ ngần ngại, khép nép trông mọi người, một bà cụ già đứng dậy, chắp tay kính cẩn thưa:
- Bạch sư cô, chỗ tôi còn rộng đây.
Nhà sư khẽ đáp:
- Cám ơn già. Già còn ngược tàu đi đâu bây giờ?
Bà cụ từ tốn nói:
- Thưa, tôi đi đón lợn ở Trại Nhoi về. Còn sư cô chắc đi lấy kinh ở chùa Them?
https://thuviensach.vn
Nhà sư nữ gật đầu, khép nép ngồi xuống ghế. Từ bấy giờ trở đi nhà sư không nói một câu gì, khư khư ôm trong lòng một cái bọc không biết trong có những cái gì. Đã bao phen, Huyến dùng hết nhãn lực, định thần nhìn thẳng vào mặt nhà sư để nhận xem diện mạo thế nào. Vô ích, không thể sao được! Ánh đèn trong toa không sáng lắm, nếp khăn vuông càng hắt bóng tối từ ngang sống mũi tới môi.
Huyến ngờ vực, tự nhủ thầm:
- Lạ, lạ thật! Rõ ràng ở xóm Tư Ất gần xóm thằng bạn của mình ra mà y dám nhận ở chùa Thêm cách đấy hàng mấy cây số về. Chùa gì trong cái xóm hạ lưu này? Kinh gì ở gần cái nhà chứa chấp đủ mọi hạng người rượu chè cờ bạc, trai gái, trộm cắp kia? Lại là một nhà sư nữ, kỳ dị!
Mấy bận thấy bà cụ già đứng dậy, Huyến khấp khởi mừng. Vì Huyến chỉ còn cách chờ bà ra một chỗ nào đấy để dò hỏi lai lịch nhà sư. Nhưng Huyến đã mừng hụt: bà già nọ chỉ kéo đi, kéo lại chồng thúng mủng, rổ rá và mấy chiếc rọ tre tuy đã xếp gọn ghẽ trước mặt bà.
Dần dần Huyến thấy lòng hứng khởi theo dõi nhà sư nữ không còn bồng bột nữa.
Phải, đã lấy gì làm bí mật quá như trước kia Huyến tưởng tượng. Một bóng người trong một căn nhà thấp bé ở cuối cái xóm quỷ quái kia vụt ra, cái bóng đó đi vùn vụt như sợ có người để ý tới, rồi... cái bóng đó càng bước nhanh khi thấy Huyến theo sau. Có chăng vì sẵn có một quãng đồng không mông quạnh không một tiếng động ngoài tiếng gió lào xào lướt qua ruộng mạ, không chút ánh sáng, ngoài lửa ma trơi và đom đóm lập lòe, Huyến cho bóng người kia là bóng tên đại bợm đương trốn tránh mà sự dò xét hành tung, khám phá ra được công việc gian ác của y là một việc bổ ích vì cần phải dùng nhiều can đảm, trí xét đoán.
https://thuviensach.vn
Huyến đánh diêm châm điếu thuốc lá, ngả đầu lên cái gióng bắt ngang cửa sổ, kéo một hơi dài:
- Mình lầm! Chắc vì hoặc đi vay mượn hay trả nợ, hay quyên tiền ai trong này trở về sợ tai tiếng nên nhà sư ấy phải vội vàng làm vậy chứ gì?
Mấy tiếng còi tàu hét lên, phá toang cái im lặng tối tăm của vùng quê vắng vẻ. Bánh xe dần dần chạy chậm, rồi sau mấy tiếng rít kéo dài, cả một đoàn xe chật hành khách và hàng hóa dừng lại.
Nhà sư nữ đứng dậy chào bà cụ rồi xuống ga xép ấy. Huyến vội thò đầu ra nom, thì cũng như lần trước, nhà sư vẫn ôm khư khư cái bọc và bước rất gấp. Thoáng chốc đã mất hút trong bóng tối. Tiện dịp, Huyến chạy lại bên bà cụ già, lễ phép chào rồi hỏi:
- Thưa cụ, nhà sư này quen thân cụ?
Bà cụ mở to mắt:
- Phải, thầy hỏi làm gì?
Huyến cũng biết mình đường đột nhưng chẳng e ngại mà bỏ lỡ cuộc phỏng vấn bà cụ già. Anh dịu dàng đáp một cách rất khôn khéo và tự nhiên:
- Thưa cụ, vì cháu trông nhà sư ấy quen lắm. Hệt như người em gái họ của cháu. Nhưng không hiểu cớ sao nay lại mặc quần áo nhà chùa.
Bà cụ già, giọng chân thật:
- Thế à? Hay chính là em gái thầy đấy? Nhưng sao sư cô đi tu đã lâu mà thầy chưa biết?
- Vì cháu đi làm xa, đến giờ gần Tết mới về thăm nhà.
- Tự bao lâu rồi?
https://thuviensach.vn
- Non hai năm ạ.
Bà cụ già lắc đầu, mỉm cười:
- Thế thì không phải rồi, nhà sư nữ trụ trì ở chùa Âm Hồn này đã bốn, năm năm nay rồi cơ.
Huyến hất đầu lên một cái:
- Thưa cụ, chùa Âm Hồn nào?
- Ở làng Vạn Kiếp, cách ga Mộ Hà này chừng hai cây số, trừ thầy ra còn ai chả biết nhà sư này. Tuy nhà sư cụt bàn tay phải nhưng tay trái viết chữ đẹp đáo để và làm bánh trái, nấu cỗ chay cũng chẳng kém ai.
Huyến ngạc nhiên hơn, bật thốt thầm một câu hỏi:
- Tu ở chùa Âm Hồn mà lại là một nhà sư nữ cụt tay?
Chẳng để ý đến Huyến, bà cụ già đưa mắt nhìn mọi người một lượt rồi cao giọng, chậm rãi kể hết mọi đức tính của nhà sư nữ cho hành khách nghe. Nào thuộc nhiều kinh kệ; nào nói năng thùy mị cư xử khéo léo khiến người hung tợn khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng; nào ăn mặc hết sức khổ hạnh, quanh năm chỉ cơm chay và một bộ quần áo vải nâu dầy. Sau cùng bà cụ già nghiêm trang kết thúc:
- Thật là một nhà sư nữ đạo đức nhất từ trước tới giờ ở chùa Âm Hồn, hơn cả sư ông.
Chợt nhớ lại câu hỏi của bà cụ "Sư cô ở chùa Thêm lấy kinh về?" Và giọng nói hơi luống cưống, ngượng nghịu của nhà sư, Huyến lại tưởng tượng ra cái bóng người từ xóm Tư Ất vùn vụt đi tắt qua những cánh đồng tối tăm. Huyến lại không sao khỏi ngờ vực:
- Thưa cụ, ban nãy nhà sư nữ đi đâu vậy?
https://thuviensach.vn
- À, đi lấy kinh đấy mà.
- Ở đâu cơ?
- Chùa Thêm.
- Thưa cụ chùa Thêm hay xóm Tư Ất?
Bà cụ hừ mạnh một tiếng:
- Thầy nói lạ! Xóm Tư Ất chỉ có trai gái, bợm đĩ, trộm cắp bê tha mới tới đó, chứ nhà sư nữ này đến làm gì?
- Không, rõ ràng con thấy ở xóm Tư Ất ra mà.
Bà cụ phát bẳn lên:
- Thế thì thầy trông lầm đấy. Như ông Chánh Thất, bố đẻ ông phủ Xuân Trường chết nhà đám ma mời nhà sư ở lại quá nửa đêm để tụng kinh thêm mà nhà sư còn chả nghe nữa là đêm hôm khuya khoắt một thân một mình lần mò vào cái xóm khốn nạn nọ.
Huyến phải nói nịnh:
- Vâng, thế thì con trông nhầm. Xin lỗi cụ.
Rồi Huyến chào bà cụ về chỗ cũ ngồi. Anh tỳ tay lên cái gióng sắt, đưa tầm mắt nhìn ra ngoài.
Cảnh vật không thể sao phân biệt rõ ràng được. Đồng ruộng, ao chuôm, vườn tược, rào tre, bờ cỏ liên tiếp nhau kéo thành một vệt đen dài vô cùng tận trong màn sương dầy đặc lan rộng trước gió đông tê buốt.
Huyến đã hút luôn sáu, bảy điếu thuốc mà vẫn chưa thấy thỏa thích. Mà phải, đương cái tuổi thanh tân cường tráng này trong tâm trí Huyến có
https://thuviensach.vn
lúc nào là lúc những sự khát khao, thèm muốn không rạo rực, sôi nổi đâu? Dù là một vật nhỏ mọn, cũng phải luôn luôn đổi mới, có thế mới thích hợp cái khiếu thẩm mỹ và tính hiếu dị của anh.
Huyến lại đánh diêm châm điếu thuốc nữa. Kéo luôn ba hơi, đoạn anh lẩm bẩm nói một mình:
- Cũng là một sự lạ! Chùa Âm Hồn với một nhà sư nữ, một nhà sư nữ cụt tay!
Nhà sư nữ cụt tay tu ở chùa Âm Hồn, đối với khối óc giàu cảm tưởng của Huyến lúc bấy giờ kỳ dị quá. Huyến hồi hộp nhớ đến cuốn phim "Atlantide" chiếu cách đây vài tháng, Huyến nảy ra một ý kiến so sánh nhà sư kia với bà nữ chúa đa tình trong phim ấy.
Mấy trăm cung nữ yên lặng dưới quyền sống chết của một người đàn bà lúc nào cũng say đắm lờ đờ. Một đời âm thầm kéo dài trong chốn thâm cung góc nào cũng có các lực sĩ nghiêm nghị không hề mỏi mệt canh gác. Một bãi sa mạc mênh mông, và một làn không khí gay gắt bao phủ những tòa lâu đài nặng nề kiến trúc tối cổ, tượng trưng những sự bị ức hiếp, đè nén của hàng triệu dân nô lệ yếu hèn đã đổ mồ hôi và nước mắt và máu trong các công cuộc xây dựng.
Với bao nhiêu cái kỳ lạ, bí mật, bà nữ chúa đa tình đã rung động trí tưởng của bao nhiêu người xem.
Nhưng chùa Âm Hồn?
Sáu mươi năm trước đây cũng là một nơi ghê rợn. Chính chốn đó đã chứng kiến không thể kể xiết những cuộc xâu xé nhuộm máu giữa những giặc cướp Tàu tàn bạo và dân quê An Nam hiền lành chăm chỉ.
Rồi hai mươi năm sau khu đất rộng rãi và ngôi chùa kia đổi thành một nơi tụ họp của đảng Văn thân nổi lên chống với quân Pháp, và cũng vẫn
https://thuviensach.vn
được chứng kiến nhiều phen máu đổ.
Rồi bốn mươi năm sau, ngôi chùa bị tàn phá được dân làng tu bổ lại để xóa hẳn cái dấu vết khủng khiếp của một thời đại loạn lạc vừa qua mà, những đêm khuya tối tăm, tiếng tù và rộn rực, tiếng cồng rè rè, tiếng trống ngũ liên đổ hồi nối tiếp nhau vẳng lên khủng bố dân chúng như những lời đe dọa ghê gớm của Thần Chết thèm khát máu người.
Chùa Âm Hồn xây dựng lại bằng tiền của các nhà nho sĩ, các nhà thân hào gom góp và quyên được trong hàng huyện. Họ tốn công của tu bổ ngôi chùa bao phen tan tành như thế vì họ tin rằng chùa Âm Hồn mà còn thì con cháu làng Vạn Kiếp đời đời giữ được điền thổ màu mỡ, các phong tục thuần tuý và lòng vị nể của các làng lân cận.
Họ giàu lòng mê tín hơn là tính bảo tồn những di tích quan hệ của lịch sử.
Đến ngày nay, cũng vẫn chưa hết những cái lạ lùng trong chùa Âm Hồn. Nối vào bao nhiêu sự gở lạ khủng khiếp khi xưa, giờ là một đời tu hành của một nhà sư thông thái, quen khổ hạnh, nhưng là một nhà sư nữ, mà lại là một nhà sư nữ cụt tay!
Huyến tròn miệng thở xong làn khói, nhắc lại ba, bốn lượt câu nói thì thầm:
- Chùa Âm Hồn! Nhà sư nữ cụt tay! Chùa Âm Hồn!
Đến ga Trại Hutt, Huyến xuống. Anh đáp luôn sang chuyến tàu Lao Kay - Hà Nội, mười giờ đêm, lộn lại Mộ Hà. Anh quả quyết nội đêm nay, lẻn vào chùa Âm Hồn, phải dò xem cho ra hành động của nhà sư nữ kia. Những hành động mà Huyến tin thật khác hẳn mọi người, những hành động bí mật sẽ đưa đến cho anh nhiều sự lạ lùng hiển hiện bổ ích cho khối óc hiếu dị.
https://thuviensach.vn
Tuy vẫn thỉnh thoảng về thăm làng nhưng chẳng mấy khi ở lâu nên Huyến không được biết nhiều tin tức ở đây và các làng lân cận. Và lâu lắm, tới mười năm rồi, không sang làng Vạn Kiếp vãn cảnh chùa Âm Hồn, Huyến hầu như đã quên mất đường đi.
Qua bãi tha ma đầu làng, Huyến dừng lại, định thần nhìn. Tối quá, anh chỉ hơi phân biệt những cụm tre đen kịt rải rác trên những cánh đồng im vắng.
Anh phải đi thêm một quãng khá xa, rồi đứng lại nhìn lần nữa. Lần này anh thấy về phía tây một mái nhà xam xám lờ mờ thấp thoáng giữa một cụm rừng lưa thưa. Nhưng Huyến không theo đường cái, vì đi như thế sẽ đi đường vòng mất nhiều thời giờ. Huyến chiếu đèn bấm, theo con đường nhỏ đắp ven ruộng.
Nửa giờ sau, Huyến vào trong một xóm nhỏ rồi qua mấy xóm nữa, còn chừng nửa cây số là tới cụm rừng thưa kia.
Thấy tiếng người đi chó má sủa vang lên, trước còn một vài con, dần dần cả xóm, rồi khắp mấy xóm. Huyến không kịp thở, phải hết sức rảo bước; anh e ngại tuần đinh bắt gặp, hỏi lôi thôi.
Tiếng chó im đoạn thì Huyến đã lách qua giậu râm bụt vào sân chùa.
Tự nhiên trống ngực Huyến đập rộn hẳn lên. Bao nhiêu nhãn lực và tâm trí Huyến để cả vào cái mái ngói rêu phủ xám ngắt duỗi thoai thoải trên những bức tường thấp loang lổ vàng cặn. Huyến lắng tai nghe tiếng mõ rành rọt điểm trong đêm khuya nhịp với tiếng tụng kinh đều đều.
Cửa chùa đóng chặt. Những cánh gỗ lâu ngày bong sơn đen sạm im lặng trong một thứ bóng tối lạnh lẽo, Huyến rón rén đến bên, ghé mắt nhìn, trong chùa tối mờ mờ đưa ra mùi nhang thơm ngát.
https://thuviensach.vn
Huyến nhẹ bước dưới hàng hiên, qua một cái cổng xây trống ở đầu hồi bên trái thì đến một dãy nhà ngang bảy tám gian. Trước dãy nhà là một sân gạch vuông vắn, rộng rãi có bốn hàng cau trồng trong những khoảnh đất tròn đường kính không quá một thước tây. Cuối sân sau ba tấm bia đá. Đấy là mộ ba vị sư chết tại chùa.
Đêm càng khuya, gió đông càng lạnh buốt, Huyến kéo cổ áo pardessus lên. Anh khoanh tay, yên lặng đứng nhìn các chòm cau rung chuyển vừa suy nghĩ.
Tiếng tụng kinh đều đặn êm ái như tiếng hát ru trong trẻo càng rót vào tai anh và, tiếng mõ càng thánh thót như tiếng nước rỏ giọt trên miếng đồng thau đàn mỏng gò cong cong thêm dư âm tiếng chuông thỉnh thoảng ngân nga tưởng chừng như không bao giờ hết.
Phút chốc, Huyến thấy một sự lạnh lẽo thấm vào tâm não. Anh đưa mắt trông lên bốn góc mái chùa uốn mềm như cánh xiêm trên cánh tay dẻo dang của các vũ nữ Cao Mên rồi đến hai ông hộ pháp nghiêm nghị đứng trấn trên bệ gạch vắng khói hương.
Huyến hồi hộp tưởng tới những sự khủng khiếp của cái quá vãng tối tăm của chùa Âm Hồn.
Một giờ đêm! Gà đã cất tiếng gáy ở mấy chòm xóm xa xa. Huyến kéo nốt hơi thuốc lá cuối cùng, nhẹ bước xuống sân.
Không giống các chùa khác, sau chùa này làm thùng ra một gian rộng hai bên có cửa tò vò, ở giữa có một cửa sổ chữ thọ.
Cửa tò vò đóng chặt, Huyến vòng sang bên kia, bên ấy cũng thế. Sau cùng, Huyến phải kiễng gót nghển cổ, ghé mắt vào khung cửa sổ ở giữa.
Nhưng Huyến chỉ trông thấy lấp lánh ánh cây đèn dầu tây không đủ chiếu sáng ba pho tượng Bụt quay lưng về phía trong và tất cả những đồ
https://thuviensach.vn