🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Thường Gặp - Trần Đăng Khoa Ebooks Nhóm Zalo Nỗi khổ tâm của một ông chủ tịch huyện Phần 1     Xưa nay, dường như cứ thấy ai may mắn, người ta lại tặc lưỡi, buông một câu cửa miệng: Cái thằng có số sướng như vua! Làm cứ như vua chúa ngày xưa sướng lắm.   Chỉ ở trong chăn mới biết chăn có rận. Làm vua cho ra vua cũng khốn nạn vô cùng. Đấy, cứ như ngài Ung Chính đấy, nào có sướng gì đâu. Để có được một cuộc cải cách mang lại sự hưng thịnh cho quốc gia, ngài cũng phải dằn vặt cũng bổ sấp bổ ngửa, chẳng khác gì thằng giời đày. Dân đen cũng chẳng đến nỗi khốn khổ như vậy Nói thế, xem ra toàn là chuyện xa lạ. Hãy cứ nhìn ông bạn tôi kia. Ông không phải vua, cũng chẳng phải chúa. Mới chỉ là chủ tịch huyện. Thế mà xem ra cũng lắm nỗi gian truân, cũng nhiều đêm phải dằn vặt mất ngủ. Có khi sự rắc rối lại bắt đầu ngay từ cái sở thích có từ thời cha sinh mẹ đẻ của mình.    Số là bạn tôi rất mê bóng đá. Điều ấy thi cũng chẳng có gì đặc biệt. Vì toàn dân mình đều mê bóng đá cả đấy thôi. Có anh cá cược đến mất cửa mất nhà. Có cậu phởn chí, rú xe máy đến toi cả tính mạng. Hoá ra dân mình còn cuồng si hơn cả dân Braxin. Ông chủ tịch huyện bạn tôi cửng vậy thôi. Nói chuyện gì rồi cuối cùng cũng lại quay về bóng đá. Ông bảo:    - Thời chiến tranh gian khổ là thế mà mình còn cho Pháp và Mỹ xơi những cú sút thủng lưới. Bây giờ hoà bình rồi, đổi mới chiến thuật rồi, chả lẽ mình lại để cái đói, cái nghèo cho xơi bàn trắng sao. Phải tích cực làm bàn. Phải biến những ý tưởng tốt đẹp của ta thành những bàn thắng vang dội    Cứ thế, nhiều khi ông dùng toàn ngôn ngữ sân cỏ triển khai công tác hoặc phổ biến nghị quyết của huyện. Ai đi qua cũng tưởng có cuộc tường thuật bóng đá trên đài. Đến thăm Trường trung học đào tạo các cô nuôi dạy trẻ đóng trên địa bàn huyện, ông cứ đứng ngắm mãi cái bãi đá hoang ở sau trường. Rồi ông lẩm bẩm:    - Tuyệt! Chỗ này mà làm được cái sân bóng đá thì thật tuyệt vời!    Đám trợ lý gật gù tán thưởng. Nhiều người còn tỏ ra bái phục ông chủ tịch có con mắt không giống mọi người. Không hiểu sao, ông lại nhìn bãi đá ong nham nhở thành cái sân bóng đá. Thế rồi hơn ba tháng sau, ông chủ tịch huyện đột ngột nhận được giấy mời của Trường trung học nuôi dạy trẻ: Theo chỉ thị của anh, trường Trung học mẫu giáo đã xây dựng xong sân bóng. Xin trân trọng kính mời anh về cắt băng khánh thành công trình.    Quái, sao lại có chuyện kỳ cục thế nhỉ? Ông chủ tịch ngớ ra. Mình chỉ thị làm sân bóng bao giờ? Rồi ông mang mầng nhớ hình như có lần, mình bông lơn một câu gì đó. Nói rồi quên. Thì ai mà lẩn mẩn nhớ hết được những câu nói bâng quơ những lời tán nhăng tán cuội dọc đường của mình. Vậy mà cấp dưới ông lại nhớ. Ngay sau khi ông đi, kế hoạch xây dựng sân bóng đá đã được triển khai. Nhiều người băn khoăn ngờ vực Tại sao lại xây sân bóng ở cái xó xỉnh hẻo lánh này nhỉ? Xây cho ai đá? Chả lẽ lại mấy cô nuôi dạy trẻ liễu yếu đào tơ? Mà rồi đá cho ai xem? Móc đâu ra khán giả ở cái xó xỉnh heo hút này? Thật vô lý, khó tin. Thì đã sao? Trên đời này còn có khối điều vô lý khó tin hơn mà vẫn cứ ngang nhiên diễn ra trước mắt đó thôi. Thế là mặc lời ong tiếng ve, cái sân bóng vẫn cứ được triển khai cấp tốc. Phải hoàn thành trước kế hoạch. Mưa bão cũng làm. Đêm cũng đốt đuốc làm. Có anh cụt cả hai chân vì nổ mìn phá đá. Chủ tịch huyện buồn lắm. Nỗi buồn chẳng biết ngỏ cùng ai, ông đành trút sang đám bạn bè cùng học. Ông bạn cựu chiến binh thở dài:    - Lỗi tại cậu thôi!    - Tại sao lại tại tôi? Tôi chỉ thị bao giờ? Chỉ thị đâu? Văn bản đâu nào?   - ở nước mình sợ nhất là những chỉ thị không có văn bản. Cậu quên mất rằng cậu là chủ tịch huyện, người đứng đầu của cả một vùng. Như thế thì cậu đâu còn là cậu nữa. Cậu khen thằng nào thì thằng ấy có thể được nâng lương được lên chức. Cậu chê ai thì người đó có thể bị mất việc, ra đứng đường. Ngay cả lời nói đùa của cậu, người ta cũng nghĩ là chỉ thị. Đó là chưa kể những cán bộ cấp dưới có thằng cứ hong hóng đón ý cậu, chiều theo ý cậu để lấy lòng cấp trên. Thế là lại khổ dân...    - Không, không thể như thế được. - Chủ tịch huyện kêu lên. - Chả lẽ chỉ mới làm có đến chủ tịch huyện mà tôi đã không còn là tôi nữa ư? Không được bộc lộ niềm yêu thích thể thao không được nói cả những câu bông đùa ở dọc đường. Thế thì tôi là cái gì?   - Cậu là chủ tịch huyện. Bọn cấp dưới nó sẽ nhìn vào cậu, đón ý cậu...    - Không - Chủ tịch huyện kêu lên. - Không thể để cái lũ xu nịnh ấy tồn tại theo kiểu đó được. Tham nhũng cũng từ đấy mà ra. Nỗi khổ muôn dân cũng từ đấy mà ra. Tôi là tôi sút tất. Sút..út...út...! Nông dân Phần 1   Thời nào nông dân cũng rất khổ. Hình như họ sinh ra để khổ. Có cho sướng cũng không sướng được. Có phủ lên vai họ tấm áo bào lộng lẫy của vua thì họ cũng không thể thành được ông vua. Họ khổ đến mức không còn biết là mình khổ nữa. Người nông dân ta dường như không có thói quen so sánh mình với người dân ở các nước tiên tiến, cũng không so với dân đô thị. Họ chỉ so mình với chính mình thôi. Và thế là thấy sướng quá. Ai ở làng quê cũng biết khúc đồng dao này. Nó như lời thần chú truyền hết từ đời này đến đời khác:    Lạy giời mưa xuồng    Lấy nước tôi uống    Lấy ruộng tôi cày    Lấy bát cơm đầy    Lấy khúc cá to...    Đấy mơ ước muôn đời của người nông dân đơn giản có thế. Họ chỉ cần nước uống, ruộng cày, bát cơm và khúc cá. Vậy mà cái khao khát tối thiểu ấy, trước đây đâu cũng đã có được. Người nông dân làm ra hạt gạo mà quanh năm đói. Đói ngày giỗ cha, no ba hôm Tết. Chỉ ngày Tết mới có bát cơm trắng, còn thì quanh năm ăn độn. Một hạt cơm cõng đến mấy hạt ngô. Nhiều nhà còn lấy gốc rau muống già băm nhỏ, rồi phơi khô nấu trộn với cơm. Xới bát cơm rang cứ đen như bát...phân trâu. Nhai miếng cơm như nhai chão rách. Bây giờ thì chẳng cần phải lạy ông giời cũng có bát cơm đầy và khúc cá to rồi. Thế là sướng. Vua cũng chẳng bằng mình. Ông Giời ông Phật gì thì cũng cứ thua mình tất.    - Đấy, cháu thấy lạ không. Đồng đất vẫn đồng đất ấy. Con người vẫn con người ấy, chỉ thay đổi cách quản lý, lãnh đạo là đời sống biến đổi như có phép lạ. Năm nay lại lũ lụt liên miên ở miền Trung, rồi miền Nam, rồi cả vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng coi như là mất trắng. Người dân mình phải nhường cơm sẻ áo cho bà con mình ở trong kia vậy mà bữa cơm cũng có vơi đi đâu.    Giá cả ngoài chợ cũng không có gì thay đổi. Vậy cháu thử cắt nghĩa xem sự thể nó là thế nào?    Ông chú ruột tôi cứ nhìn tôi lom lom. Ông già có thú vui, hầu như cứ lần nào tôi về quê, ông cụ cũng kéo tôi sang nhà rồi lại rỉ rả bàn chuyện chính trị. Mà toàn chuyện quốc gia, chuyện thế giới. Tôi ngồi im lặng, vì chưa đoán được ý ông cụ muốn câu chuyện đi theo hướng nào.   - Phải công nhận con cháu Cụ Hồ rất tài, cháu ạ. Bí bách kiểu gì rồi các bố ấy cũng tìm cách thoát ra được Trong khi nhiều nước đổ liểng xiểng. Thế mà mình thì có sao đâu nào. Vẫn cứ vựng như bàn thạch nhá. Vấn đề lại không phải cứ trẻ mà được đâu, cháu ạ. Trẻ như Góc bu chóp đấy, loạng quạng thế nào để vỡ bố nó cái Liên Xô và Đông Âu. Rõ thật đau hơn hoạn.    Nói rồi, ông già quát đứa con út, xem có cái gì ngon thì đãi thằng anh mày. Cứ như lời ông già thì thằng anh ở mãi trên Trung ương. Mà trên Trung ương thì khổ rồi, đến cả cái tăm tre xỉa răng cũng không có, cũng phải bỏ cả đống tiền ra mua. Lát sau, một mâm dưa đầy ngất được đặt lên phản. Dưa đỏ mà trông cứ trắng nhợt. Ông già hể hả:   - ở quê bây giờ sướng lắm, cháu ạ. Mùa nào thức ấy. Tao nói thật, mâm dưa thế này thì đến cả mấy lão Góc bu chóp với Bin tợn cũng chẳng có mà ăn đâu...   Ông già nói với vẻ mặt rất phấn chấn. Còn tôi thì không sao nuốt nổi mấy miếng dưa sậm sật như khoai sống. Tôi lựa lời bảo ông già:    - Vâng, quả thực ông Gorbachev có nhiều tội lắm. Ông ấy trẻ người non dạ nên loạng quạng làm vỡ mất cái Liên Xô và Đông Âu của cụ. Nhưng dưa của ông ấy thì ngon lắm...    - Anh bảo sao cơ?   - Là cháu nói dưa của nước ngoài ấy. Ngon lắm. Họ chỉ thua ta cái họ không có, như chuối, mít, na. Chứ hoa quả gì ta có mà họ cũng có thì ta không thể so được với họ đâu...    Tôi mới nói một phút sự thật về hoa quả, nghĩa là chỉ thuần chuyện thực phẩm thôi, mà ông già đã gườm gườm nhìn tôi như nhìn một thằng Bạch vệ. Rồi ông tìm bà mẹ tôi. Hai người rì rầm bàn bạc với nhau. Tưởng chuyện gì, hoá ra vẫn chuyện của tôi, mà chuyện rất nghiêm trọng.    - Đấy, thì tôi đã nói ngay với bá rồi. Thằng này cứ để nó ở nhà đi cày thì nó lại tốt, lại vững lập trường quan điểm. Cho nó đi học Tây là hỏng rồi. Bây giờ nó đích thị là một thằng Tờ dột kít..    Bà mẹ tôi run rẩy:    -Tờ dột kít là gì, hả chú?   - Tờ là i -tờ. I tờ còn không biết thì là dột chứ còn gì nữa. Mà dột đến độ kít. Nghĩa là rất dốt. Rất nguy hiểm. Tờ dột kít chính là một tên chống Đảng ở bên Liên Xô!    - Chết chết. - Bà mẹ tôi rên rẩm. - Con tôi sao lại sang đến tận Liên Xô để không Đảng. Làm sao lại đến nông nỗi này hở giời. Chú cứ để đó cho tôi dạy cháu!    Thế rồi suốt đêm ấy, mẹ tôi nói với tôi bao chuyện. Toàn những chuyện cơm nặng áo dày của Đảng và Chính phủ. Một người như tôi mà còn bị chính bà mẹ mình nghi ngờ thì buồn cười quá. Tôi cứ cười thầm một mình. Nhưng đến khi thấy bà cụ khóc thì tôi phát hoảng. Lại nhớ lần về quê, tôi sang thăm bà cô, thấy trên tường ngổn ngang những vệt vôi quệt Cái dấu cộng (+). Cái dấu trừ (-). Tôi ngạc nhiên: Hợp tác xã tan rồi, sao cô vẫn còn ghi công điểm gì thế này?. Công điểm gì đâu cháu. Đây là những món nợ đấy. Thấy tôi ớ ra, bà cụ mới giải thích cặn kẽ. Đây là bát riêu cá nhà Độ. Đây là khúc cá rán nhà Toán. Còn đây là bát canh rau ngót nhà Thiều. Thì ra có món gì ngon, bà con hàng xóm thương cụ, cho bà cụ miếng gì, bà cụ lại quệt một vệt vôi lên vách. Để nhớ đấy là một món nợ. Thế rồi nhà có món gì ngon, cụ cũng lại sai con cháu mang sang biếu lại, rồi quệt lên vách dấu cộng. Coi như ơn nghĩa đã được trả xong.   Nông dân mình là thế. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Đảng chia cho họ một cái nồi đồng. một cái chảo gang, một cái cối đá thủng trong cải cách ruộng đất, cũng đủ để họ nhớ suốt đời, biên ơn suốt đời. Rồi họ mang xương máu của chồng, của con của chính họ ra để trả nghĩa. Hàng triệu người chết trong mấy cuộc chiến tranh. Hàng vạn người cho đến tận hôm nay vẫn không tìm thấy được hài cốt. Họ chiến đấu hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, dĩ nhiên là như vậy rồi, nhưng không hẳn chỉ có như vậy. Sự đền ơn trả nghĩa ấy mới thiêng liêng và dữ dội biết bao. Bởi thế, chẳng có sự phản trắc nào có thể tồn tại được ở đất nước trong vắt một bầu khí quyển nông dân. Chuyện của một cựu chiến binh Phần 1   Trong một lần hầu chuyện bạn đọc, tôi có bàn về nỗi khổ tâm của một chủ tịch huyện. Trong câu chuyện nhỏ ấy, ta đã gặp một cựu chiến binh thẳng thắn và bộc trực. Ai ngờ sau khi bài báo ra, ông già cựu binh ấy lại đến tìm tôi. Câu chuyện cũng chẳng có gì ngoài những lời bàn luận quanh bàn trà.    - Phải công nhận đời sống bây giờ rất khá, nhưng đạo đức xã hội thì lại xuống cấp đến mức cần phải báo động, anh ạ. - Ông già bắt đầu câu chuyện. - Ngày xưa làm gì có chuyện học sinh đâm chết cô giáo ngay trên bục giảng. Rồi thì bố hiếp con. Khiếp! Đọc báo mà cứ ù cả đầu. Rồi trấn lột, buôn bán ma tuý. Bắn bao nhiêu tên rồi mà tội phạm vẫn cứ tăng lên. Vụ án sau lại to hơn vụ án trước. Còn trộm cắp thì như rươi. Thời hiện đại nên kẻ trộm bây giờ cũng rất hiện đại.    Nói rồi, ông già cười sùng sục. Cứ như lời ông kể thì bọn trộm cướp bây giờ còn được trang bị cả bằng thành tựu của khoa học tối tân. Chúng có thể xịt ê te vào nhà cho mình thỉu đi, rồi cứ điềm nhiên khuân đồ đạc, của nả. Nhiều khi nó còn vồ cả lợn. Mà có vồ thôi đâu. Nó chọc tiết lợn ngay tại cửa chuồng. Hôm vừa rồi còn có chuyện cười ra nước mắt. Ông lão hàng xóm có con lợn lai kinh tế. Con lợn to lù lù như một con bê. Tin ấy bay đến tai một tên trộm lợn. Thế là nửa đêm, con giời mò tới, xịt ê-te vào chuồng lợn, xịt mạnh đến nỗi chính hắn cũng đê mê. Rồi hắn thấy mình chạy băng băng qua những vạt ruộng đang cày ải, vai vác con lợn. Con lợn to hàng tạ mà lại nhẹ bẫng. Nhẹ như một quả bí đao. Hắn vứt oạch con lợn vào bếp, rồi ngả ra giường, vùi mình vào đống chăn nệm ấm sực. Chao ôi sướng? Đời một tên trộm ai ngờ cũng có lúc lên tiên.    Sáng sớm hôm sau, chủ nhà bê cám ra chuồng lợn thì thấy có những... hai con lợn đang nằm ở trong chuồng. Hoá ra chả có chăn nệm nào cả. Chúng nằm vắt lên nhau trên đống phân rác nhầy nhụa. Cả hai cùng ngáy như sấm. Tất nhiên con lợn giả - người đã bị tóm gọn. Người ta dẫn giải lên ủy ban rồi, con lợn giả ấy vẫn còn chưa tỉnh. Ông già cười:   - Chẳng biết anh nghĩ thế nào chứ cứ như tôi, cái bọn súc sinh ấy, chẳng phải giam nhốt làm gì. Cơm gạo đâu mà nuôi bọn chúng. Ta cứ giải tán nhà tù đi. Giam chúng tại gia. Hình như bên Trung Quốc người ta làm thế đấy. Một cách làm hay như vậy tại sao mình không tham khảo họ nhỉ?   - Mỗi nước có một cách xử lý riêng với bọn tội phạm chứ cụ. Vả lại chuyện giam tại gia ấy, hôm nay tôi mới nghe cụ nói đấy.    - Còn tôi thì lại nghe dân đồn. Xem ra, dân mình có vẻ khoái cái trò giam tại gia. Nếu bên Trung Quốc không có chuyện ấy thì biết đâu đó lại là nguyện vọng của dân. Nguyện vọng đã thành lời đồn thổi. Kẻ nào mắc tội cứ nhốt vào cũi giam ngay tại nhà. Gia đình phải nuôi nấng phục dịch. Cũi cứ để chênh ềnh giữa nhà hay gia phòng khách. Thế thì đứa nào không khiếp. Tiền đóng cũi gia đình phải chịu. Công an chỉ đánh dấu niêm phong, rồi thi thoảng qua kiểm tra. Ai vi phạm qui định thì phạt thêm nữa. Nếu kẻ tội phạm có bố mẹ là những vị có chức có quyền thì ngay lập tức các vị quyền chức ấy phải bay khỏi chức vụ...   - ấy chết - Tôi kêu lên. - Ai có tội thì người đó phải chịu chứ! Sao lại bắt người khác phải chịu thay...    - Thế chả nhẽ bố mẹ không phải chịu trách nhiệm gì về những hành vi bậy bạ của con cái sao?- Ông già bỗng sừng sộ. - Nhiều kẻ chỉ ỷ vào bố mẹ hoặc có thế lực hoặc có nhiều tiền bạc để rồi càn quấy, chứ con cái nhà nghèo như con tôi con anh, làm sao chúng dám bậy bạ. Một người đã không dạy nổi con mình thì cũng đừng nghĩ rằng họ có thể lãnh đạo được một cơ quan, một nhà máy hay một xã hội. Tôi chàng bao giờ tin những anh như thế... Chuyện vặt trong nhà Phần 1   Vâng, đúng thế. Đây chỉ là chuyện vặt trong nhà. ấy vậy mà nhiều khi người ta làm khổ nhau cũng chỉ vì những chuyện vặt. Không ít cặp vợ chồng bỏ nhau cũng bắt đầu từ những cái rất đỗi vặt vãnh.    Không ít người cho rằng, chỉ khi yêu nhau, người ta mới phải cẩn trọng giữ gìn ý tứ. Còn khi đã lấy nhau rồi thì không cần khách khí nữa. Bởi vợ chồng làm gì còn có khoảng cách. Hai chúng ta tuy hai mà một!    Đó là một ý nghĩ sai lầm. Có lẽ cứ tưởng hai là một, nên người ta chẳng cần cẩn trọng trước nhau. Tôi rất ngạc nhiên khi các bà vợ thường chỉ trang điểm khi ra đường hay đến cơ quan. Nghĩa là các mợ chỉ lo làm đẹp khi đến với những ông hàng xóm tốt bụng và vô trách nhiệm. Trong khi người mà các mợ cần trang điểm, cần làm cho mình thật lộng lẫy, thật hấp dẫn quyến rũ lại chính là đức ông chồng của mình, thì các mợ lại bỏ qua chẳng thèm để ý. Phụ nữ ta dường như không có thói quen trang điểm ở trong nhà. Mà các đức ông chồng thì cũng chẳng hơn gì. Ra đường, sao họ lịch sự thế, tinh tế thế. Trông rõ ra là những người có học. Vậy mà khi về với vợ thì cái vẻ hào hoa phong nhã ấy họ để hết ở ngoài đường rồi. Người vợ chỉ còn thấy trước mặt mình một người đàn ông luộm thuộm, ăn nói cộc cằn, cục súc. Ngày nào cũng phải nhìn cái khuôn mặt tẻ ngắt như thế. ấy là chưa kể khi ngủ, cái miệng anh ta còn há hốc ra. Trông mà phát khiếp. Thế là bao nhiêu dây thần kinh rung động tức khắc bị tê liệt. Vậy thì làm sao còn có đủ dũng khí để đắm đuối nhau. Chính vì vậy, rất nhiều cặp uyên ương chưa hết tuần trăng mật đã chán nhau rồi. Tình yêu của họ thực sự đã chết ngay sau hôn nhân.    Tôi có một anh bạn vong niên, một nghệ sĩ khá nổi tiếng. Nhắc đến anh, có lẽ chẳng mấy ai không biết. Chỉ có điều, hàng ngày, anh sống xuề xoà quá. Xuề xoà đến mức nhếch nhác. Lúc nào, người ta cũng thấy anh đeo cà-vạt. Quanh năm lủng liểng cà-vạt. Có khi mặc may-ô, anh cũng thắt cà~vạt. Cà-vạt giữ cho cái cổ anh luôn ấm. Anh rất sợ viêm họng. Khi ăn uống xong, anh có thể tận dụng kéo cà-vạt... lau miệng. Đối với anh, cà-vạt đã thành một chiếc khăn vạn năng.    Vậy mà rồi chẳng biết loạng quạng thế nào, giời lại ban cho anh bạn lôi thôi lếch thếch của tôi một cô vợ rất đẹp, kém anh đến mấy chục tuổi. Chị trắng trẻo, cao ráo và thon thả như người mẫu thời trang. Chị nói với chồng: Anh còn trẻ lắm, chỉ hơn bố em có bảy tuổi thôi. Trước khi đến với anh, nghe nói chị cũng đã có một mối tình không thành. Người đàn ông rất bảnh của chị đã bỏ chị vì phải bả một cô gái khác. Cũng do buồn, do quá thất vọng vì bọn trai trẻ không thể tin cậy được mà chị táp vào đời anh. Đám cưới hai người tổ chức rất chóng vánh. Cũng chẳng bày vẽ gì. Chỉ mấy gói kẹo với đĩa hạt bí. Giản đơn như đám cưới của những người rổ rá cạp lại. Đến gần một tháng sau, ông bạn vong niên của tôi vẫn còn bàng hoàng vì tự dưng mình chẳng phải cố gắng gì, cũng không phải tốn nhiều công sức mà lại có được một người vợ đẹp như trong mộng. Chị cũng hết lòng yêu thương chăm sóc chồng.    Khi hai người vừa có với nhau đứa con thứ hai, thì người yêu cũ của chị đến thăm. Có lẽ đó là một vị khách rất đặc biệt. Bởi thế, vợ chồng chị đã mời tôi sang chơi, cùng tiếp khách với anh chị. Lần đầu tiên, tôi thấy ông bạn vàng của mình ăn mặc rất lịch sự. Tóc chải mượt. Com-lê, cà-vạt tề chỉnh, người lại còn thoang thoảng mùi nước hoa đàn ông.   Trông anh sang trọng như một chính khách. Bà vợ vốn đã đẹp, giờ lại càng lộng lẫy. Rõ ra là vẻ đẹp quý phái của một mệnh phụ phu nhân. Chị bê ra bốn cốc nước cam được chuẩn bị khá công phu. Những viên nước đá trong cốc dường như cũng đã được thửa sẵn ở một cửa hàng rất lịch sự nào đó, chứ đá trong tủ lạnh nhà anh thì tôi biết, mỗi viên xù xì một kích cỡ khác nhau. Chị đặt trước mặt mỗi người một cốc nước, rồi âu yếm nhìn chồng. Thực ra, trong thâm tâm, người đàn bà rất đẹp này cũng chỉ muốn đức ông chồng giúp mình làm mỗi một việc đơn giản, là giải quyết khâu oai. Nghĩa là chị muốn tỏ cho người yêu cũ biết rằng: Đấy, ông phản bội tôi, ông ruồng bỏ tôi, nhưng tôi đâu có chết. Tôi còn kiếm được người chồng hơn chán vạn ông kia...    Dường như anh bạn vong niên của tôi cũng biết được tầm quan trọng của mình như thế. Bởi vậy mà anh rất mềm nở và hảo tâm với khách. Anh hào hứng nhường suất đá của mình cho khách. Rồi anh cứ xỉa hai ngón tay đen đũa của mình vào cốc nước, cặp vớt từng thỏi đá bỏ sang cốc của khách. Hàng ngày, sống với vợ, anh vẫn có tác phong xuề xoà như thế. Trước đây, chị đã thấy khó chịu. Còn bây giờ thì chị rùng mình.    Ông khách chỉ tủm tỉm cười, khiến chị đỏ bừng mặt. Thế là bao nhiêu cố gắng của ông bạn tôi đã đổ hết cả xuống sông xuống bể. Có thể trách anh được không? Anh là một người tốt. Có tốt mới nhường hết đá của mình cho người khách rất đặc biệt của vợ chứ. Sự việc chỉ có thế, mà rồi sau đó gia đình họ lục đục. Hai người đã ly thân, rồi sau lại ra toà. Mới hay vợ chồng hai chúng ta đâu có phải là một. Ông bạn tôi cứ xuề xoà tưởng hai người là một mà rồi một lại thành ra hai, rồi chẳng biết hai sẽ thành ra mấy nứa. Sự tan vỡ gia đình đôi khi lại bắt đầu tử những chuyện rất đỗi vặt vãnh như thế, ở ngay trong những căn nhà vốn rất ấm cúng, tưởng như chẳng bao giờ có giông bão, gió mưa. Chuyện phiếm bên bàn trà Phần 1   - Này, tôi hỏi thật nhé, công việc bề bộn thế, chú còn thời gian đọc sách báo không?    - Cụ hỏi vậy có nghĩa là thế nào?    - Chả là gần đây, tôi thấy báo chí, truyền hình người ta hay bàn đến việc nâng cao dân trí. Nhưng vấn đề quan trọng, tôi nghĩ chính là chuyện quan trí, chứ không phải dân trí đâu, chú ạ.    - Cụ nói thế nghĩa là...    - Là cán bộ có vấn đề chứ sao. Tôi thấy trình độ dân trí của ta bây giờ rất khá. Họ không ấu trĩ u mê như cán bộ ta lầm tưởng đâu. Bây giờ, chỉ ngồi nhà, kéo cái cần ăng-ten lên là họ đã nắm được toàn thế giới. Trong khi đó nhiều cán bộ của ta lại ấu trĩ, non kém không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của dân. Mà cán bộ mới là quan trọng.Vì họ mới thực sự ở vị thế tác động tới đời sống xã hội. Một người dân dốt nát, có quyết định sai lầm thì chỉ một mình anh ta, hay cùng lắm là vợ con anh ta phải gánh chịu hậu quả. Nhưng một cán bộ mà có những quyết sách sai lầm thì nguy lắm. Cán bộ càng cao thì tầm ảnh hưởng càng lớn. Có khi một làng, một xã, một huyện, một tỉnh, hoặc thậm chí là cả một dân tộc phải trả giá cho sự sai lầm của một người hoặc một nhóm người. Tôi nói vậy sao chú lại cười? Có lẽ chú nghĩ tôi là gái goá lo việc triều đình ư?    - Ô không không... Con đang nghe mà. Nghe chuyện cụ vui lắm...    - Thế mà chú còn vui được à? Cái chú này lạ thật. Chính chú mới là cái thằng vô trách nhiệm nhất. May mà chú không làm to. Tôi nói, chú bỏ ngoài tai, đừng trách ông lão nhà quê lẩn thẩn nhé. Tôi thấy cán bộ các chú bây giờ nhiều anh buồn cười lắm. Có anh nói rất hùng hồn mà người nghe vẫn chẳng hiểu anh ta nói gì cả. Bởi tư duy người nói đâu có được mạch lạc. Có anh lên truyền hình vẫn còn nói ngọng, cứ lẫn lộn giữa n với l. Nghe mà nản quá, chú ạ. Hôm vừa rồi, tôi dự buổi mít-tinh truy điệu đồng bào bị thiệt hại trong mấy trận lũ lụt. Có ông đọc điếu văn xong lại vỗ tay hoan hô. Ông ta vỗ trước, rồi mọi người ngơ ngác vỗ theo...    - Cái đó xin cụ thông cảm, có thể do thói quen mà hoá sơ suất...   - Làm cán bộ thì phải cẩn trọng ngay từ những cái nhỏ nhất chứ. Bởi anh ta đang đứng trước dân. Người dân sẽ trông vào anh ta mà tìm cách ứng xử cho mình. Với những anh cán bộ như thế thì đừng trách vì sao dân lại thiếu lòng tin vào những người lãnh đạo. Cũng đừng nghĩ là họ nhẹ dạ bị địch xúi giục mua chuộc. Chẳng có địch nào chui được vào đội ngũ nhân dân, những người suốt đời gắn bó sinh tử với cách mạng, với đất nước. Hàng triệu con, em của họ còn đang nằm ở dưới đất trong suốt mấy cuộc chiến tranh kia...    - Vâng, cụ nói vậy thì con cũng biết vậy. Nhưng dân mình cũng cần độ lượng, thông cảm. Làm cán bộ khó lắm...    - Thì có ai bảo làm lãnh đạo dễ đâu. Tôi có ông bạn chăn trâu cắt cỏ xưa, giờ làm phó chủ tịch tỉnh. Ông ấy bảo: Cậu nói gì? Cần phải học à? Rõ vẽ chuyện! Tớ chỉ học hết có lớp Bốn, sau này được người ta đưa đi học hết bổ túc lớp Bảy. Thế mà suốt mấy chục năm làm cán bộ, tớ có sử dụng đến kiến thức đã học đâu!. Tôi không biết những ông cán bộ như thế sẽ múa may ra sao trong thời Kinh tế tri thức và thông tin toàn cầu này. Chẳng biết chú thế nào, chứ tôi thì tôi lo lắm. Bởi thế cùng với việc nâng cao dân trí, chúng ta cần khẩn cấp nâng cao quan trí, chứ không thì nguy đấy! Chuyện của người thu mua giấy vụn Phần 1     Tặng cô bé Lê Huyền Dương   Dung là cô gái quê. Tôi gặp cô trong quán cơm bụi bên hè đường ngõ phố tôi ở. Cứ như lời cô thì ở quê khổ lắm. Làm được một đồng cũng rất vất vả. Người ta thuê thằng em trai cô lấy bùn đổ vào gốc chuối. Một lần lặn xuống đáy ao, xúc lên hai gầu bùn, chạy tiếp một quãng nữa mới tới được vườn chuối. Mỗi chuyến với hai gầu bùn đầy ngất mới được một trăm đồng, bằng nửa chén trà ở quán nước hè phố. Cũng không thể trách ông chủ vườn quá ke bo. Một buồng chuối to vật của ông ta có gánh ra chợ bán cũng khó kiếm được chục ngàn bạc. Thế thì ông ta cũng có tiền đâu mà hảo tâm xởi lởi với người được thuê chăm bằm khu vườn.   Dung bỏ quê lên thành phố kiếm sống. Thoạt đầu cô bán rau. Ba giờ sáng ra đón rau ở các vùng ngoại ô chuyển vào, rồi mang đi bán rong. Cô chỉ nhặt đầu chợ, bán cuối chợ. Thế mà ngày cũng kiếm được hơn chục ngàn. Chỉ khổ những lúc gặp phải công an. Mỗi lần như thế là lại chạy toé khói, chạy mất cả dép. Mà chạy cũng chẳng thoát. Có hôm cô còn bị phạt mất hai chục ngàn bạc. Thế là toi đứt cả vốn lẫn lãi. Dung bỏ nghề bán rau, chuyển sang thu mua giấy vụn. Cũng theo lời cô, thu mua sách báo và giấy vụn đỡ vất vả hơn nhiều, lại được tiếng là người có văn hoá, góp phần bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp của thành phố. Dung lần lên tận tầng năm nhà tôi:    - Gớm cháu cứ phải hỏi thăm mãi. - Dung vừa nói vừa thở hổn hển. - Chú ở cao quá. Nhà chon von như tổ chim chào mào. Đi cứ hun hút như lên sao Hoả. Khiếp. Cháu mệt tưởng đứt hơi. Chú có nhiều giấy loại không? Cháu đoán là chú có nhiều giấy loại lắm. Nhà văn là những người chuyên sản xuất giấy lộn mà.   Nhà tôi không có nhiều giấy lộn. Nhưng sách báo cũ thì vô thiên lủng. Tháng nào tôi cũng phải bỏ ra vài trăm ngàn mua sách báo. Làm cái nghề này cứ phải đọc. Đọc rất nhiều. Có khi chỉ viết mươi dòng về một tác giả nào đó, tôi phải đọc đến hàng ngàn trang sách của anh ta. Có nhiều cuốn thú vị. Nhưng cũng không ít cuốn chẳng có cái thú gì để mà đọc cả. Báo chí cũng thế. Những bài nào hay, những chi tiết nào giá trị có thể sử dụng cho một bài viết nào đó thì quét vào vi tính, lưu lại. Oòn những cuốn sách, những tờ báo không thể đọc lại được thì xếp gọn vào một chỗ riêng. Tôi cho Dung hàng đống sách báo như thế, không lấy tiền.    Nhưng Dung đâu phải kẻ ăn xin. Bù vào số tiền chừng mấy chục ngàn mà tôi không lấy, Dung dọn dẹp nhà cửa cho tôi. Cô lau nhà, dọn bếp, lau khu vệ sinh và ban-công. Cũng coi như bằng số tiền tôi thuê người đến dọn nhà. Thế là cả hai đều thanh toán sòng phẳng, chẳng ai phải nợ ai. Dung muốn có sự thanh thản của người không bị mắc nợ. Cứ thế rồi thành lệ. Tuần nào vào sáng chủ nhật, Dung cũng đến nhà tôi dọn dẹp nhà cửa, rồi mang theo một gánh sách báo..    Thế rồi bẵng đi một thời gian dài, không thấy Dung trở lại. Tôi tưởng cô ốm đau hay có chuyện gì đó phải về quê. Bởi thế tôi vẫn có ý chờ. Nhưng rồi cả tháng sau không thấy. Hàng nửa năm sau nữa cũng vẫn không thấy. Tôi đã mất dần thói quen vào các tối thứ bảy chọn sẵn sách báo cho cô. Rồi tôi cũng quên dần cô gái. Cho đến một hôm... Bữa đó, tôi đi dự đám cưới một người bạn về thì có tiếng gọi rối rít. Tôi dừng xe.    - Chú không nhận ra cháu ư? Dung đây mà?   Quả là nếu cô không xưng danh thì tôi khó lòng mà nhận ra được. Dung phổng phao hơn. Trắng trẻo. Tóc nhuộm mốt Hàn Quốc. Xinh. Thoáng trông, cô như người mẫu thời trang. Không ai nghĩ mấy tháng trước cô còn là gái quê, lại làm nghề thu mua giấy vụn. Cô mời tôi vào nhà. Một căn hộ tầng hai xinh xắn ở một thu tập thể lùi sâu trong ngõ. Nội thất cũng đầy đủ. Xa-lông. Ti-vi. Tủ lạnh. Giàn Sony nội địa. Chỉ thiếu mỗi cái điện thoại nữa là thành một căn nhà hoàn chỉnh. Vậy mà cô lại bảo cô ở nhờ nhà một người bạn ở xóm Liều. Hoá ra cô vẫn giả vờ hoàn cảnh để lừa tôi từ bấy lâu nay. Con người ta bây giờ thật khó tin quá. Ngay cả một cô gái quê cũng rất láu cá...    - Này, chú hỏi thật nhé. Sự thực thì cháu làm ở đâu? - Tôi hỏi.    Dung cười rất hồn nhiên:    - Cháu làm gì có nghề nghiệp. Vẫn đi thu mua giấy vụn mà...    - Thu mua giấy vụn sao không qua chú?    - Nhà chú đằng ấy xa quá. 5 tầng, nhưng thực chất là mười tầng. Leo mỏi cả chân. Mà nhà chú nếu có giấy vụn thì cũng chỉ là giấy vụn thôi. Cháu chuyển sang vùng khác thu mua rồi. Vùng khác hay hơn nhiều. Chú không tin à? Cháu mới tậu được căn hộ này đấy    Tôi ngạc nhiên:    - Thu gom giấy vụn mà tậu được nhà?    - Vâng. Cháu thu gom giấy vụn thật đấy!   Thấy tôi vẫn có vẻ không tin, Dung mới tiết lộ rằng, có một lần, cô đến một biệt thự thu mua giấy báo cũ. Cô chỉ gặp mỗi bà chủ nhà. Cứ như lời cô thì bà chủ tốt lắm.    - Vâng, bà ấy tốt cực kỳ. Tốt y như chú ấy. - Dung khoe. - Bà cho cháu một đống báo cũ không lấy tiền. Cháu định dọn nhà giúp, nhưng bà ấy không khiến. Nhà đã có đến mấy ô-sin rồi. Khi cháu ra cổng, bà còn chạy theo, dúi cho mấy tờ lịch. Mà toàn lịch cũ chưa mở. Lịch một tờ ấy mà.   - Bà bảo: - Ai treo cái đồ thổ tả ấy làm gì. Mày mang về mà dán chuồng gà!   Quả là với căn nhà sang trọng ấy, không thể treo loại lịch phong phanh một tờ như thế này được. Loại lịch đó, chỉ có thể treo ở xó nhà quê. Mà nhà quê người ta cũng chẳng treo, vì đã quá hạn rồi. Có chăng là cắt riêng ảnh ra dán lên tường thay tranh. Thế mà về mở ra, chú biết trong lịch có gì không? Ôi giời đất ơi. Tiền, toàn là tiền đô-la chú ạ. Nhiều lắm. Thế mà bà chủ chẳng biết gì cả. Bà cứ tưởng mấy cuốn lịch vớ vẩn. Cả đời cháu chưa bao giờ nhìn thấy loại tiền ấy, nên thoạt đầu, cháu lại tưởng tiền âm phủ.    Nhưng tiền âm phủ thì việc gì phải bí mật nhét vào ruột cuốn lịch. Mà nhét rất cẩn thận. Cháu chột dạ, mang một tờ ra phố hỏi thì có bà đã trả ngay một triệu tư. Cháu sợ quá, thu hết tiền lại, định mang trả. Nhưng rồi tìm không ra nhà. Cháu chỉ nhớ mang máng nhà bốn tầng, bên ngoài có cổng sắt. Từ cổng vào lại có rất nhiều chậu hoa. Thế mà rồi chịu, không tìm ra được. Bữa đó, tình cờ cháu đi qua cổng, rồi bà ấy gọi vào, nên không để ý kỹ. Cháu định mang tiền nộp công an. Nhưng rồi lại sợ. Cháu sợ các chú ấy nghi cháu buôn hê-rô-in. Chỉ buôn hê-rô-in mới có lắm tiền như thế chứ. Mà nếu các chú ấy tin cháu, lại nghi ngờ bà ấy thì cũng khổ cho bà ấy quá. Bà ấy làm phúc mà rồi lại phải tội. Bây giờ người ta đang chống tham nhũng mà. Cháu nghĩ thế nên thôi.    Ngừng một lát cô bé hỏi:    Thế chú vẫn ở trên cái tổ chào mào cao chót vót ấy à?   - ừ, mà viết văn, viết báo như chú thì làm sao mà xuống tầng được.    - Cũng như bố cháu ấy. Bố cháu là bác sĩ bệnh viện huyện. Nghèo lắm. Bố cháu mổ dạ dày cấp cứu, tiền thù lao không bằng tiền vá một mụn săm xe máy. Thế hay là chú chuyển nghề đi, cháu sẽ giúp chú?...    - Cháu định giúp chú làm gì.    - Cháu rủ chú đi thu mua giấy vụn với cháu.    - Sao chú lại cười? Chú đừng coi thường nghề thu gom giấy vụn nhé. Mèo mù thường chén cá rán, chú ạ? Chỉ vớ được vài quả như cháu là chú đổi đời đấy? Lại chuyện phiếm bên bàn trà Phần 1     - Nghe nói ông Mai Ngữ ở cơ quan anh à?   - Vâng! Nhà văn Mai Ngữ ở cơ quan tôi. Bác ấy mới nghỉ hưu chừng hơn một năm nay. Cụ biết bác Mai Ngữ à?    - Tôi thưa có dịp tiếp kiến nhà văn, chỉ biết ông ấy qua sách vở, báo chí. Truyện Mai Ngữ có cái tôi thích. Có cái cũng tầm tầm như nhiều nhà văn khác thôi. Nhưng vừa rồi, ông ấy có một bài bác mà tôi thấy rất có ý nghĩa...    - Bài nào vậy, thưa cụ?    - Bài báo ngắn in ở mục ý kiến nhà văn trên trang nhất báo Văn nghệ.    - Nhà văn nói chuyện gì thế cụ?    - à, ông ấy cũng lại bàn về chuyện học hành. Bây giờ sinh viên học vất vả lắm. Mới có tí tuổi đầu mà dường như cậu nào cũng phải mang kính cận, kính loạn. Bọn học trò phổ thông còn khổ hơn nhiều. Chúng học đêm, học ngày. Bố mẹ còn mời thầy đến tận nhà phụ đạo. Rồi lại học thêm ở các lò luyện thi. Tốn kém bao nhiêu tiền của. Học đến rạc người mà vẫn không vào nổi đại học. Vậy mà có nhiều ông vừa làm vừa học suốt ngày chỉ thấy tiếp khách, rồi ký giấy, rồi chỉ đạo công ty này, công ty kia, rồi tíu tít cụng bia ở các quán nhậu, chẳng thấy các ông ấy dùi mài kinh sử gì mà một năm đỗ đến mấy lớp. Rồi làm được cả tiến sĩ. Không biết các ông ấy học kiểu gì, học lúc nào mà tài đến thế...    - Tôi tiếc là chưa đọc được bài viết ấy...    - Ông Mai Ngữ còn bàn đến cả việc thí tiến sĩ. Cứ như lời ông ấy thì đỗ tiến sĩ có thế bổ những chức vụ quan trọng. Vậy thì khi thi, cũng nên có những cái đề ra sao cho thiết thực, đụng đến những vấn đề lớn nan giải mà lại có tính bức xúc của xã hội ta hiện nay. Ví như, nếu anh là một cán bộ có trọng trách, anh có những biện pháp gì để không được tham nhũng không? Ngày xưa thi tiến sĩ vua cũng hay ra những cái đề ở tầm vĩ mô mà lại thiết thực như thế.    - Vâng! Cụ nói vậy thì con cũng biết vậy. Ngày xưa khác, bây giờ khác chứ, cụ. Sao cụ cứ so thời ta với thời phong kiến lạc hậu?    - Thời nào thì thi cử cuối cùng cũng là để tìm chọn người hiền tài. Công việc chính của ta bây giờ, tôi thấy chỉ đúc lại trong hai việc thôi. Cả hai việc này đều rất lớn. Làm tốt được hai việc này, giải quyết được dứt điểm hai việc này thì đâu khắc vào đấy hết.   - Cụ lại làm cho con đâm tò mò rồi đấy. Thế theo cụ thì hai việc đó là gì?    - Tôi biết anh lại lỡm ông lão về hưu rồi...    - Không, con đang nghe cụ mà...    - Về đối ngoại là mở rộng cánh cửa, làm bạn với tất cả các nước, sao cho cả hai bên cùng có lợi, tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Những mâu thuẫn, bất đồng giữa các quốc gia, bây giờ hoàn toàn có thể giải quyết được bằng ngoại giao, bằng con đường thương lượng. Làm sao tránh được các cuộc xung đột dẫn đến chiến tranh, để bớt xương máu cho dân. Bây giờ, tất cả các quốc gia đều co lại vì lợi ích của chính mình. Tinh thần quốc tế vô sản chỉ còn có ở trong các pho sách xưa. Trường hợp Kosovo là một bài học rất thấm thía...    - Cụ nói vậy thì con cũng chỉ biết vậy. Thế còn việc thứ hai?    - Việc thứ hai là chuyện đối nội. Phải giữ làm sao cho dân được bình yên làm ăn. Muốn thế thì phải triệt để chống tội phạm, nghĩa là phải kiên quyết loại trừ tội phạm, bao gồm từ thằng ăn cắp vặt cho đến bọn tham nhũng. Tệ tham nhũng hiện nay đã trở thành quốc nạn rồi. Hãy nhìn các vụ án đã đưa ra công khai trên báo chí và các hãng truyền thông thì rõ. Cả hai trận đại hồng thuỷ ở miền Trung khủng khiếp là thế, mà sự thiệt hại cộng lại mới có trên ba nghìn tỷ đồng. Trong khi đó chỉ riêng vụ EPCO - Minh Phụng đã thất thoát của nhà nước đến ngót sáu nghìn tỷ rồi. Đấy là một con số khủng khiếp. Làm sao thằng Minh Phụng có thể phá hết số tiền đó trong khoảng thời gian ấy. Cứ cho nó ngồi xé tiền thì nó cũng không thể xé hết nổi. Tôi đảm bảo với chú là nó chỉ xé đến hơn một nghìn tỷ là đã phát điên rồi. Sau vụ EPCO - Minh Phụng, dân mình phải chắt bóp mua công trái cứu nước. Mà cũng phải dồn tiền mua hai đợt mới có được bốn nghìn tỷ, vẫn chưa bằng số tiền Minh Phụng để thất thoát. Mà Minh Phụng chỉ là một vụ. Còn bao nhiêu những vụ án như thế nữa Đằng sau bọn tội phạm ấy là những ai? Rồi việc đầu tư xoá đói, giảm nghèo cho bà con miền núi ở Mường Tè. Nhà nước chi hàng mấy trăm tỷ đồng mà đến khi tiền xuống được người dân nghèo thì chỉ còn có hơn chục triệu bạc. Tham nhũng đến thế thì khủng khiếp quá. Rồi còn bao nhiêu những vụ khác nữa. Đến thế thì làm sao dân tin chúng ta được. Tôi thấy nguy lắm. Không giải quyết được tệ nạn này là không xong được với dân đâu. Bởi thế dân mới khiếu kiện. Sờ đến chỗ nào cũng có chuyện cả. Làm sao giải quyết được triệt để tình trạng này. Tôi nghĩ làm xong được hai việc ấy là sẽ yên hết. Còn những công việc khác, những việc ở cơ sở, như chuyện sản xuất, chuyện làm ăn thì cứ để cơ sở họ tự làm, chẳng cần phải can thiệp một cách cụ thể. Lênin trước đây có nói một câu rất hay: Hãy để người nông dân suy nghĩ trên luống cày của mình. Chính luống cày sẽ dạy cho người dân cách làm ăn như thế nào. Chứ anh ngồi ở Hà Nội, làm sao anh hiểu được cây lúa bằng người dân trồng lúa ở đồng ruộng. Cũng tương tự thế làm sao anh hiểu cây cao-su bằng người trồng cao-su ở Tây Ninh. Không hiểu tường tận cơ sở mà cứ chỉ đạo, thì chỉ đạo đâu hỏng đấy. Tốt nhất hãy tạo ra một cơ chế thoáng để người dân tự tìm ra cách làm ăn. Cán bộ ta chỉ lo việc lớn thôi. Làm tốt được hai việc ấy là tất cả sẽ tốt đẹp Xứ yêu Phần 1   Những năm gần đây, ở ta liên miên xuất hiện các cuộc thi: Thi Hoa hậu, thi Học sinh thanh lịch, thi Bé khoẻ bé ngoan, thi Chạy ma ra-tông, thi Tiếng hát truyền hình, thi Đua xe đạp, thi Thơ, thi Truyện ngắn, thi Tiểu thuyết, và gần đây lại còn thi Viết thư cho người yêu...    Tôi rất cám ơn Ban tổ chức đã cho tôi được đọc những bức thư tình của những người tình. Thú thực, tôi đã đọc với sự tò mò và không ít băn khoăn. Có nên thi viết thư tình không? Yêu đương là chuyện riêng tư của mỗi người ngỏ lời yêu cũng là chuyện riêng tư, chuyện thầm kín của lứa đôi, sao lại mang thi thố giữa thiên hạ? Nói cho người ta nghe, rồi người ta chấm, như chấm một câu văn, một bài toán là nghĩa làm sao? Mà ai chấm? Phải là người yêu người ở trong cuộc, chứ sao lại Ban giám khảo, bao gồm những ông những bà lạ ngoắc, lạ ngơ?    Thực ra, những cuộc thi viết thư tình như thế này cũng đã được tổ chức rồi, tổ chức một cách bí mật trước khi có cuộc thi kia, mà còn có từ trước nữa, từ thời cổ, khi người ta yêu và thổ lộ tình yêu, đã có bao nhiêu bức thư tình. Vị giám khảo chấm những bức thư đó không ai khác ngoài người tình, người đang được yêu. Những bức thư tình thì nhiều, nhưng trái tim người được yêu thì chỉ có một. Thế thì phải chấm thôi, phải tuyển chọn thôi không còn cách nào khác. Vậy là bao nhiêu cuộc thi viết thư tình đã thầm lặng diễn ra trên khắp hành tinh. Người trúng giải đăng quang thì tưng bừng bước lên xe hoa, người bị loại thì âm thầm quay đi trong bóng tối...   Bây giờ, đọc những lời ngỏ yêu, do ban sơ khảo - những ông mai, bà mối - chuyển cho, thoạt đầu, thú thực, tôi cũng tò mò muốn làm ông Nguyễn Bính đi dan díu với Kinh thành - Nghe duyên thiên hạ xem tình nghi dưng. ấy mà rồi, cũng như người đang yêu, ngấm bùa mê, thuốc lú, tôi mụ mẫm lang thang bước trong cõi mộng mị có tên gọi rất hiện đại, rất muôn thuở là mình yêu. ở đấy có bao nhiêu nụ cười bao nhiêu nước mắt.   Tôi thực sự xúc động trước những số phận, những mảng đời éo le, ngang trái. Con người thật đáng thương. Những kẻ đang yêu còn đáng thương hơn nữa. Bởi tình yêu mỏng manh lắm. Chỉ một thoáng hờn giận, một chút ghen tuông một thoáng rụt rè, e ngại, không dám tin cái điều mình tin. Thế là rồi mất nhau, mất vĩnh viễn, có khi biết là đang mất đấy mà rồi vẫn không sao cứu vãn được tình thế. Mà vì sao kia? Vì cái số? Thôi, cứ đổ cho cái số. Cái số nó như thế. Rồi lại như ông bà ta xưa, như bao cặp tình nhân muôn thuở xưa, lại ngửa mặt lên trời, trách ông Tơ, bà Nguyệt ở cái cõi u u minh minh cao tít mù khơi kia những thấu lòng người! Trong xứ sở yêu đương này, có bao nhiêu cảnh ngộ như thế, hoặc tương tự như thế.    Sau mỗi trang thư là những câu chuyện, những số phận có sức ám ảnh, lại được kể bằng một giọng chải chuốt, có khi khá mùi mẫn và mơ mộng. Tình yêu đã biến người ta thành kẻ mơ mộng. Trong số những bức thư tình đã được chọn lọc này, tôi thực sự bị ám ảnh khi đọc bức thư có tên Em cố tránh mà cứ vương vào sợi tơ trời. Thư kể về một mối tình thầm lặng của một thầy giáo, nguyên là một cựu chiến binh với một cô giáo thành phố về dạy học ở thôn quê. Cả hai đều đã có gia đình êm ấm của mình. Họ yêu nhau, tôn trọng nhau và đều biết dừng lại ở đâu. Đây là một hiện trạng thường gặp trong đời sống xã hội hiện đại của ta. Thư viết bằng một giọng mộc mạc, giản dị, chẳng cần phải bóng bẩy, văn hoa mà đọc lại thấy rất thật, chính vì thế mà nó xúc động và có sức ám ảnh. Tất cả những nhân vật trong thư: cô gái con ông giáo, vị tướng về hưu là chồng cô giáo và thầy giáo cựu chiến binh... tất cả đều là những người tốt, những người cao thượng và nhân ái, vậy mà rồi vẫn bi kịch một bi kịch cao thượng. Đó là bi kịch của những người tốt trong xã hội tốt đẹp của chúng ta.   Thời gian rồi sẽ qua đi. Mọi nỗi vui buồn trắc trở rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng những gì tốt đẹp thì sẽ còn lại mãi. Đó là tình yêu, là lòng yêu thương của con người đối với con người. Tình cảm ấy sẽ còn lại mãi, dù đời người vô cùng ngắn ngủi... Nhớ một thầy giáo cũ Phần 1   Người thầy cũ của tôi là một giáo sư nước ngoài. Ông là người Nga. Trong đời tôi, may mắn sao, tôi có một khoảng thời gian khá dài theo học một khoá đào tạo cơ bản ở Học viện Văn học M. Gorki. Đối với tôi, mỗi giáo sư ở Học viện này đều là những học giả lớn. Có người như một nhà tiên tri. Đó là trường hợp giáo sư tiến sĩ I. Kunhitxưn. Ông là giáo sư triết học, nhà giáo công huân Liên Xô. Buổi giảng nào của ông giảng đường cũng đông nghịt. Rất nhiều học viên các năm trước cũng xuống nghe lại. Vì bài giảng của ông lại có thêm nhiều điều mới. Tri thức trong ông luôn được bổ sung. Giáo án của ông luôn mở. Nó không phải là cái khuôn đã đóng cứng. Cứ nghe người ta kháo nhau, thì có thời ông bị dị nghị, thậm chí còn bị ngồi tù vì đã nói thật nói thẳng điều cảnh báo về những bất cập của chủ nghĩa xã hội Xô-viết. Những bất cập ấy, nếu không khắc phục được thì tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Khi M. Gorbachev lên, nhờ công cuộc đổi mới, ông được ra tù và trở lại giảng đường. Lúc bấy giờ M. Gorbachev có uy tín lắm. Không ít người coi ông như Lênin tái thế. Nhà văn I. Bônđarev kêu lên: Cái bi kịch của Nhà nước Xô-viết hiện nay là phải dạy những người quá thông minh, phải nuôi những cái bụng quá no và may sắm cho những người có quá nhiều quần áo đẹp. Ca tụng Nhà nước Xô-viết như vậy, quả cũng là tài lắm. Giáo sư I. Kunhitxưn không có được cái lạc quan như thế. Ngay từ những ngày ấy, ông cũng đã lại cảnh báo rằng, những luận thuyết của M. Gorbachev có thể sẽ diễn ra ở rất nhiều nước trên thế giới, nhưng chính M. Gorbachev thì sẽ thất bại thảm hại. Nếu ông ta không bị bắn thì cũng ngã ngựa giữa đường. Sáu năm sau, sự thể diễn ra đúng như thế. Và còn rất nhiều điều khác nữa, tôi nhận thấy chúng đều diễn ra đúng như ông nói ở trên đất Nga, cũng như trên toàn cầu. Đối với sinh viên, I. Kunhitxưn luôn coi chúng tôi như những người bạn. Sau buổi giảng, thường có những cuộc trao đổi giữa thầy và trò, nhiều khi là cuộc tranh luận rất thẳng thắn và thú vị. I. Kunhitxưn luôn khuyến khích những ý nghĩ khác mình. Ông không bao giờ trù dập những sinh viên cãi lại mình, và thường trong trường hợp ấy, ông cho điểm rất cao. Tôi nghĩ phải là ông thầy rất giỏi mới có được tư chất ấy. Tôi nhớ một kỳ thi, khi bàn về phạm trù bi kịch, sau tất cả mọi điều, ông hỏi tôi:    - Cái bi kịch của người Việt hiện nay là gì?    - Người Việt không có bi kịch.. - Tôi bắt đầu đùa với ông. - Thầy có công nhận với em rằng cái bi kịch lớn nhất của người châu Âu, hay của cả loài người nói chung là cái chết? Vậy mà đối với người phương Đông, đặc biệt là người Việt thì lại không có cái chết. Trong Di chúc bất hủ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bảo, chết là đi gặp cụ Các Mác, gặp cụ Lênin, và như thế, cái chết đã thành cuộc hội ngộ với tổ tiên, với các bậc tiền bối vĩ đại. Nếu ở nước Nga, người ta thường chọn những bộ quần áo đẹp nhất để đi dạ hội hoặc vào vũ trường thì ở làng quê Việt Nam xưa, các cụ già lại thường dành những bộ quần áo mới nhất ấy để mặc khi...vào cõi Tổ tiên. Người Việt không sợ chết. Bởi thế, kẻ thù nào đến Việt Nam cũng sẽ phải thất bại thảm hại. Bởi không ai có thể thắng nổi những con người không biết chết và không sợ chết...    - ừ lạ thật! Cái ý nghĩ trong đầu anh lạ lùng thật đấy!    Giáo sư cười rất vui. Ông cho tôi điểm khá cao, đến nỗi tôi đâm hoảng:    - Chết, em đùa đấy, thầy ạ! Xin thầy thứ lỗi. Em đã nói đùa...    - Thế anh tưởng tôi tin lời anh nói sao? Tôi biết anh đùa. Hay nói cách khác anh đang sáng tác truyện khoa học viễn tưởng. Tôi đã sang Việt Nam rồi. Tôi biết người Việt thế nào chứ! Sức mạnh lớn nhất của người Việt chính là sự bí hiểm. Bao nhiêu kẻ thù được coi là hùng mạnh nhất thế giới mà đến Việt Nam cũng đều trở thành kẻ bại trận, chính vì họ hoàn toàn không hiểu người Việt. Và tất nhiên, cũng sẽ chẳng có ai hiểu được người Việt, bởi ngay cả chính người Việt, họ cũng có hiểu được họ đâu... Lại chuyện ê-kíp Phần 1   - Ôi giời! Vào đây! Vào đây nào? Chà, xin chào ông bạn! Có chuyện gì mà rồng lại đến nhà tôm đột ngột thế này?.   - Chết, sao cậu lại nói thế! Cậu không phải là tôm, mà mình thì cũng chưa bao giờ được là rồng! - Dẫu chẳng phải rồng thì ông cũng là vua một vùng. Ngày xưa, người như ông là có tàn, có lọng đấy Bạn bè thân thiết mà lâu quá rồi chúng ta không gặp nhau. Ông xuống tôi còn được vì người ta sẽ nghĩ ông là người có tác phong quần chúng luôn đi sâu, đi sát nhân dân. Còn tôi lên ông thì lại không ổn, vì có người sẽ nhìn tôi bằng con mắt khác. Biết đâu có anh lại chẳng nghĩ tôi là thằng thấy người sang bắt quàng làm họ. Không khéo cái lão già này lại định nhờ vả hay xin xỏ gì đây.   - Chết chửa, bạn bè với nhau mà sao cậu nghĩ lẩn thẩn thế. Cậu già mất rồi...    - Chẳng già thì còn trẻ được với ai? Tôi về đuổi gà cho vợ mấy năm nay rồi. Làm anh phó thường dân cũng có cái sướng, ông ạ. Tha hồ ăn no ngủ kỹ. Vì không phải lo giữ ghế. Chỉ riêng cái chuyện giữ ghế đã đủ khốn nạn rồi. Khổ, làm lãnh đạo thì cũng chỉ là một công việc như trăm ngàn công việc khác. ở các nước, khi không làm tổng thống nữa thì người ta có thể đi dạy học, đi gác cổng hay làm bồi bàn. Khổ nỗi, dân mình lại không quen như thế. Đang làm mà nghỉ, lập tức người ta dễ nghĩ, chắc cái lão này tham nhũng hay hủ hoá gì nên bị kỷ luật. Thế thì ai mà không sợ. Người ta tiếc cái chức thì ít, nhưng sợ dư luận lại nhiều. Công việc của ông thế nào?   - Bận tít mù. Đang chuẩn bị Đại hội cơ sở. Cũng may mà nhân sự ổn rồi. Mình đã tìm được cộng sự...    - Ai vậy?    - Một thằng lính cũ.    - Nó có đủ khả năng không?    - Khả năng thì ai biết thế nào. Cứ phải qua thử thách đã. Nhưng mình hiểu nó là người tốt. Có tài mà không có đức rất nguy hiểm. Người tốt mới chính là nguyên khí quốc gia. Hồi chiến tranh, nó là thằng liên lạc của mình. Nó biết cắt tóc, giặt quần áo và không ngại cả việc đổ bô cho mình. Nói tóm lại, nó là thằng rất tận tụy.    - Ông lại chọn thằng đổ bô à?    - Mình chọn người tốt cậu ạ! Trước đây, khi còn là một thằng ngoài cuộc, mình cứ nghĩ, các bố lãnh đạo kỳ thật. Bố nào lên cũng lại kéo theo một bộ sậu vây cánh của mình. Ai có năng lực nhưng không có dây thì cũng coi như đi đứt. Bây giờ vào cuộc rồi mới biết vì sao họ phải làm thế. Không hiểu nhau nguy hiểm lắm. Trong cơ quan chỉ một anh lộn xộn là đã đủ rối loạn. Thế rồi thư nặc danh, rồi đơn từ kiện cáo. Cứ chỉ lo rào giậu, che chắn, lo giữ ý với nhau, rồi thanh minh, giải trình trước cấp trên, cũng đủ khốn nạn rồi, còn hơi sức đâu mà làm được việc gì cho tử tế nữa. Vì thế, ai lên cũng phải có ê-kíp. Không có ê-kíp, không làm được việc đâu cậu ạ.    - Đã đành là phái có người cộng sự. Nhưng điều quan trọng là cái thằng cộng sự ấy nó có năng lực thật không? Ngày xưa để ra làm quan người ta phải học. Phải đỗ đạt cao, rồi mới được cất nhắc. Bây giờ cất nhắc, rồi mới đi học. Học mấy tháng đã tốt nghiệp mấy lớp. Rồi vừa làm vừa học thêm một hai năm nữa mới tốt nghiệp đại học, rồi có ông còn là tiến sĩ nữa chứ. Bây giờ nhìn đâu cũng thấy tiến sĩ. Đến nỗi những ông tiến sĩ thật sợ quá, chẳng dám phô học hàm, học vị ra nữa, đành phải ở lẫn trong đám binh dân để thành của hiếm. ở ta nhiều khi rất buồn cười. Có những nhà chuyên môn giỏi, sau vài thành công, thế là lại được cất nhắc lên làm quản lý, lãnh đạo, coi đó như một ân huệ, như sự quan tâm đến sự phát triển nhân tài. Thế rồi bung bét cả. Rốt cuộc là ta đã đổi một nhà khoa học rất giỏi để lấy một anh quản lý quá tồi.    - Điều cậu nói chẳng mới mẻ gì đâu. Chuyện ấy người ta cũng đã biết cả.    - Biết sao vẫn còn làm? Đấy, cứ như ông đấy. Ông chọn một thăng đổ bô về làm phó chủ tịch huyện. Tôi không chê gì nghề đổ bô cả. Đổ bô là một việc cao quý, vì nó đòi hỏi một đức tính cần cù, nhẫn nại và chịu thương chịu khó. Người cộng sự của ông có thể rát giỏi đổ bô nhưng đã chắc gì nó biết làm quản lý, lãnh đạo. Rồi nó sẽ lại chọn những thằng đổ bô kém hơn nó về làm ê-kíp cộng sự. Như thế, đội ngũ các ông cứ giật lùi, cứ không ngừng xuống cấp, và ngoảnh đi, ngoảnh lại, kiểm kỹ nữa đi... sẽ thấy lãnh đạo huyện, ngành nọ, ban kia, toàn quân đổ bô các thế hệ tiếp theo sau, làm sao mà cán bộ cơ sở các ông chả mất uy tín. Chính các ông đã làm lung lay chính quyền, chứ đế quốc sài lang nào làm nổi. Dân họ chỉ tin khả năng đổ bô của các ông thôi, chứ ai tin các ông chỉ đạo những lĩnh vực cao siêu khác ở thời đại công nghệ này. Dân mình rất tốt, họ luôn mong sự ổn định, rất muốn tin ở cấp trên nhưng chớ lạm dụng lòng tốt của họ, chớ nghĩ là họ cuồng tín và u tối. Nhân dân thời nào cũng như nước. Nâng thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân. Điều ấy đối với ông chắc cũng chẳng mới mẻ gì, vẫn là cái chuyện muôn thuở: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Người phố ở quê Phần 1     Đó chính là những người dân ở làng Điền Trì quê tôi.    Câu chuyện này lại bắt đầu từ lão Hai Còn, một ông già chuyên nghề đóng cối xay lúa. Nghề đóng cối xay là nghề gia truyền của lão. Đóng cối thì khó gì. Chỉ cần vài thứ lặt vặt, rẻ tiền làm nguyên liệu. Một ít gỗ nhãn làm dăm, rồi làm ngõng. Chừng hai cây tre đực có gióng dài đan thân cối, áo cối. Rồi một chút đất sét giã với trấu. Thế là thành một cái cối xay hảo hạng. Ai chả đóng được Nhưng đóng cối như lão Hai Còn thì làng Điền Trì này cũng chẳng có ai. Cối lão đóng nhẹ mà lại chắc. Gạo chín đều. Cấm có một hạt lỏi. Thế nên quanh năm, lão Còn không bao giờ hết việc. Công việc của lão là...vác mồm đi ăn cơm thiên hạ. Tuy làm khách thiên hạ, nhưng cả đời lão chỉ quanh quẩn ở các làng quê. Hết làng mình lại đi làng khác. ấy vậy mà người làng tôi không có ai coi lão là một ông già nhà quê. Thậm chí, họ còn nhìn lão như một anh phố thị. Có bà còn gọi lão là người phố ở quê. Bởi chính lão là người có đầu óc cải cách. Chí ít, lão cũng góp phần biến cái làng ao tù nước đọng này thành một con phố chính hiệu. Nghĩa là phố ra phố. Và nói như lão Còn, thì đến Hà Nội cũng phải gọi bằng cụ.    Số là, năm 1986, bắt đầu công cuộc đổi mới, làng tôi có điện. Thế là tất cả nháo nhác. Đời sống bị đảo lộn. Làng quê không còn giữ được vẻ êm ả xưa cũ như nó vốn có. Đài loa suốt ngày ca hát. Đi chỗ nào cũng thấy có éo, có éo. Nhiều người thất nghiệp tự dưng lại có việc làm. Khối anh có nghề hẳn hoi mà bỗng chốc thành kẻ thất nghiệp. Lão Còn cũng xoay theo cái vòng xoáy lốc ấy mà hoá ra anh ngẩn ngơ. Một cái làng bé như mắt muỗi mà có đến hai cái máy xát gạo. Chẳng ai dở hơi nghĩ đến việc mang thóc ra xay, giã nữa. Thế là lão mất nghề.   Chẳng còn việc gì làm, lão lân la ra thành phố. Thoạt đầu cũng chỉ vì tò mò, muốn xem dân phố sống ra sao? Ai ngờ, lão trở thành kẻ... cứu làng. Điều làm lão ngạc nhiên là dân phố sống... khổ quá. Hoá ra nhiều tiền vẫn có thể rất khổ. Bởi họ chui rúc như chuột. Cả nhà sáu, bảy mạng người nhét trong một cái tổ tò vò bé tin hin như cái lỗ mũi. Chẳng nhà nào có cổng ngõ tử tế. Người chen người. Nhà chen nhà. Khiếp? Hàng trăm nhà mới có chung một cái sân. Mà sân cũng chẳng ra sân. Cứ dài nhằng nhẵng như cái mương nước. Mương nọ nối mương kia. Xe cộ bò lổm ngổm như cua. Mà người thì lúc nào cũng đông đặc. Chẳng thấy họ đóng cối hay cấy gặt gì. Chỉ suốt ngày đi nhông nhông. Thế mà sao họ vẫn có lắm tiền thế. Tiền họ kiếm ở đâu ra mà lắm thế nhỉ?    Sau một ngày đi chu du tìm hiểu, lão Còn mới phát hiện ra rằng, sở dĩ dân phố xá lắm tiền là vì họ đi buôn thôi. Các cụ nói rồi. Phi thương bất phú. Đúng thế thật. Hà Nội quả là cái chợ giời khổng lồ. Nhà nào cũng đục cửa ra làm hàng quán. Hàng tiếp hàng. Liên miên. Bởi thế mà. họ giàu. Giàu nên mới hay ăn. Nhìn đâu cũng thấy quán ăn. Ăn suốt ngày ăn cả đêm. Mà toàn ăn những thứ vớ vẩn. Cóc, nhái, ba ba, rắn rết cũng thành của quý. Dân nhà quê chẳng coi những thứ ấy ra cái quái gì. Nhái là món tanh ngòm, chỉ có thể băm cho gà vịt. Thế mà dân thành phố lại lấy làm đặc sản, làm chả nhái. Khiếp. Rồi lại còn ba ba nữa. Ba ba cũng thành đặc sản. Mà đắt khét lẹt. Hơn trăm ngàn đồng một cân ba ba. Bằng hơn một tạ gạo. Tương đương với mười cái cối xay lúa lão đóng. Rõ thật là cái giá cắt cổ. Vậy mà cái đám người rồ dại kia vẫn ăn rào rào. Ăn bởi họ lắm tiền. Thế là giời thương lão rồi. Giời cứu lão rồi. Chính do giời mách bảo mà lão nhận ra rằng, muốn giàu được thì phải bám thành phố. Nghĩa là phải túm những thằng có tiền. Phải nghĩ ra cách rút tiền của bọn trọc phú phè phỡn. Chứ chỉ quanh quẩn trong cái xó làng thì cùng lắm cũng chỉ như cái lũ gà què ăn quẩn cối xay.    Lão Còn tức tốc trở về làng. Lão chuyển sang nghề săn bắt ba ba. Lấy ba ba làm mồi câu tiền của bọn thành phố trác táng. Thế là chỉ toòng teng một cái que tre vắt vẻo như cái thòng lọng của một anh thiến lợn nhà quê, sớm nào lão Còn cũng đi rảo một vòng quanh các ao đầm. Ba ba là giống quen chui rúc ven bờ. Chỉ nhìn lướt qua, lão biết ngay ao nào có ba ba. Cứ thấy một đám tăm nhỏ đùn lên, xâm xâm trên mặt nước là lão cắm thẳng cái que tre xuống đó. Thế là ngay lập tức, quanh que tre sủi lên những cái bong bóng to bằng cúc áo. Đích thị là cậu chàng rồi. Cậu chàng rúc xuống bùn. Thế thì chẳng khác gì tự chui đầu vào cái rọ của lão Lão Còn chỉ khẽ lùa chân đè chặt, rồi luồn tay xuống bùn lật ngửa cậu lên. Thế là lão đã có hơn trăm ngàn đút túi. Cứ nhẹ nhàng, đơn giản như vậy, ngày nào, lão cũng vớ hơn triệu bạc. Chẳng bao lâu, lão đã có hàng trăm triệu đồng. Rồi lão vật lên một cái nhà ngất ngưởng bốn tầng. Lão xây theo kiểu nhà thành phố. Cũng cửa kính, cũng ban-công. Cũng nội thất sáng choang. âm nhạc xập xình. Trên nóc nhà là bể nước. Giếng khoan bơm lên, rồi chảy xuống các vòi roe roé. Đúng máy nước thành phố nhé.   Thế là bắt đầu từ một lão phó cối thất nghiệp, cả làng lao vào làm giàu. Đám thanh niên, trai trẻ cũng lại nhao về thành phố tìm con đường làm ăn. Người mở đại lý đồ nhựa, người làm bồn tắm, làm vật liệu các công trình vệ sinh. Người không biết làm gì thì đánh chó, làm trạm trung chuyển, thu gom chó xuất cho Hà Nội. Làng tôi đã triệt chó. Mấy chục năm nay, tôi chẳng trông thấy một con chó nào, vậy mà có một gã trai làng mỗi ngày cung cấp cho Hà Nội hơn một tấn chó. Thế mới lạ. Đối với gã, thành phố là một cái máy nghiền thực phẩm khổng lồ. Bao nhiêu chó lùa vào đó cũng chỉ như muối bỏ bể. Gã đánh chó mới được hơn một năm mà đã thành tinh. Cứ trông thấy gã là chó cúp đuôi lủi thẳng, tuyệt không con nào dám sủa. Hãi thế.    Làng lại mọc lên một biệt thự nữa của gã lái chó. Bây giờ thì cái làng Điền Trì của tôi đã thành một khu phố sầm uất rồi. Không phải chỉ một mình lão Hai Con, mà ngay cả một anh nông dân cổ cày vai bừa cũng tự thấy mình là người đô thị. Hay nói đúng hơn, họ là những người phố ở quê. Dân Hà Nội làm sao có được cái oai ấy cơ chứ. Còn khuya nhé! Con nuôi con đẻ Phần 1   Ông lão Phúc đúng là người dở tính mất rồi. Đứa con đẻ đứt ruột thì không thương, lại cứ đi chi chút cho cái thằng cha vơ chú váo ở đẩu đâu ấy? Nói thằng cha vơ chú váo là nói theo ngôn ngữ thằng con đẻ của lão. Chứ thực tình, thằng cha vơ chú váo ấy đâu phải dân mèo mả gà đồng, mà chính là ông chủ tịch xã, một người có vai vế trong làng. Ngay cứ nhìn bề ngoài cũng đủ thấy ông thuộc hạng sang trọng. To béo. Bệ vệ. Da dẻ đỏ au. Trông chẳng khác gì quan huyện thời đế quốc phong kiến. Người đàn ông đường bệ ấy ai ngờ lại có số vất vả. Cứ như lời ông nói thì ông phải nương cửa người mới thoát mệnh yểu. Thế là ông xin làm con nuôi lão Phúc. Tất nhiên, cũng theo lời ông ta thì đó chỉ là cái phép để lừa ông giời thôi. Mặc dù thế, lão Phúc cũng sướng lắm. Tự dưng, chẳng mất công sinh nở, nuôi dưỡng, lão có thêm một thằng con, mà đâu phải hạng tầm thường, buôn lông gà lông vịt nhếch nhác như thằng con đẻ của lão. Thằng con này, lại đường đường một ông chủ tịch xã. Thế là thoắt cái, lão thành bố chủ tịch. Điều trước đây, có nằm mơ lão cũng chẳng dám nghĩ tới.    Chỉ có thằng con đẻ lão là khó chịu.    - Bố chớ vội mừng? Con thấy hắn chẳng tử tế gì đâu. Cái thằng chuyên đục khoét dân mà lại gọi là đầy tớ của dân...    - Nhưng tao thì có gì mà nó đục khoét?    - Bố không có gì, sao hắn lại xin làm con nuôi bố? Tại sao hắn không làm con nuôi bao ông bà già vất vưởng không có ai nương tựa, đang phải sống nhờ chính sách xã hội ở trong làng kia?    - Mày nói đến chó cũng không thể nghe được. Người ta có cái số phải nương cửa người thì cũng phải chọn người hợp số mà nương chứ?    Chẳng biết lão Phúc có hợp số ông chủ tịch không nhưng xem ra lão quý con nuôi lắm. Hầu như ngày nào, hai bố con cũng ngồi gật gù với nhau bên ấm nước vối đặc.    - Trông bố dạo này vượng lắm. - ông con nuôi chăm chú ngắm lão Phúc. - Bố phải sống đến trên trăm tuổi chứ chẳng ít đâu.    Lão Phúc nghe nở gan ruột:    - Thế mà thằng em anh nó lại bao da tôi dạo này xấu lắm. Trông cứ bạc phếch như da thằng chết trôi?    - Chết, sao chú ấy nói gở thế?    - Thì nó rủa cho tôi chết mà? - Giọng lão Phúc hổn hển. - Tôi là Phúc mà hoá vô phúc. Có mỗi thằng con trai thì lại chẳng ra gì. Mà nó nói khó nghe lắm. Toàn dùi đục chấm mắm cáy. Chưa mở mồm ra đã cạn lời rồi. May mà còn có anh...   Đúng là không có thằng con nuôi thì lão Phúc buồn lắm. Mà xem ra, bố con hợp chuyện nhau. Người tung, kẻ hứng, nghe nhịp nhàng, uyển chuyển lắm. Chẳng bù cho thằng con đẻ mất dạy của lão. Càng ngày, lão càng thấy khó chịu với thằng con đẻ. Cứ gặp nhau là bố con lại cãi nhau. Đấy, con đã bảo bố phải chịu khó ăn mà bố không chịu ăn uống gì cả. Chẳng thuốc thang nào bằng ăn. Cứ ăn nhiều khắc khoẻ. Bố tích cóp làm gì. Làm sao bố cứ sợ khi chết không được chu tất. Bố khỏi lo. Nếu chẳng may, bố có phải nằm xuống thì con khắc lo liệu đầy đủ, không để vong linh bố phải hổ thẹn với dân làng.    Đấy, cứ mở mồm là nó lại rủa mình chết. Trước đây, lão Phúc đã thấy khó chịu. Còn bây giờ thì lão bực. Mà bực lắm, hầu như lần nào gặp bố cái thằng sắng cá ấy cũng chỉ nói độc một giọng càn quấy như thế.    - Dạo này bố không được khoẻ lắm đâu. Miệng bố hôi lắm. Miệng hôi là dấu hiệu của bệnh tật đấy. Bố phải đi viện khám ngay đi. Mà con dặn này, khi nói chuyện với người ngoài, bố đừng ghé sát vào mặt người ta. Kinh lắm. Do lịch sự mà người ta không nói. Nhưng bố phải biết rằng, người ta rất sợ hôi miệng. Nhiều cặp vợ chồng bỏ nhau cũng chỉ vì chuyện ấy. Con mua cho bố nước súc miệng đây này? Ngày nào bố cũng nhớ là phải súc miệng.    - Mày nói thế, hoá ra tao là cái thằng thối mồm à? Đồ mất dạy?    Lão Phúc phủi đít, đứng dậy. Mặt tái ngắt.    - Bố đừng trách chú ấy. Dẫu sao, chú ấy cũng còn trẻ người non dạ. - ông con nuôi lão lại thẽ thọt. - Chỉ có trẻ con mới ăn nói bậy bạ, mất lập trường quan điểm như thế. Chứ bố đâu có hôi mồm. Nếu miệng bố hôi thì con phải biết chứ... Thế là lão Phúc lại thấy bình tâm, trong bụng lại sướng âm ỉ. Đấy, con cái cứ phải tử tế như vậy chứ? Thế là bao nỗi căm ghét, bực bội, lão lại trút xuống đầu thằng con đẻ.    Cho đến một hôm, thằng ôn vật ấy cho người chở về nhà một đống gỗ lim. Thoạt đầu, lão tưởng nó đóng bàn, đóng tủ. Hoá không phải.    - Gỗ tốt đấy, bố ạ. - Anh con trai tỏ vẻ thông thạo. - Nó thuộc hàng tứ thiết. Hiếm lắm. Con sắm cho bốc hậu sự...    - Mày định chôn sống bố mày à? Cút - Lão Phúc gầm lên. - Mày cút ngay khỏi nhà tao. Thằng ôn dịch! Cút!    Anh con trai bấy giờ mới ngớ người ra. Anh cứ nghĩ may vớ được gỗ tốt thì tậu trước cho bố cỗ hậu sự ở nhà quê, người ta thường sắm trước cỗ hậu sự cho bố mẹ già, ngay từ lúc các cụ vẫn còn đang khoẻ. Khi chưa dùng đến thì cỗ hậu sự làm hòm đựng ngô khoai, thóc lúa. Trong làng, có bao nhà như thế. Chính lão Phúc có lần đã từng khen thằng con trai lão Hợi tậu cho bố cỗ hậu sự tốt quá. Trông cứ sướng cả mắt. Bây giờ, cũng vì lão ghét con nên sự việc mới thành to chuyện. Cứ tưởng lão Phúc chỉ giận con nhì nhằng như mọi lần thôi, nào ngờ ba ngày sau, lão đệ đơn ra Uỷ ban. Đơn xin ly con. Tất nhiên, ủy ban không thể giải quyết được. Lão đành chuyển đơn lên luật định, chỉ có vợ chồng bỏ nhau, chứ không có chuyện bố bỏ con. Toà không quyết thì lão tự quyết. Lão cấm cửa thằng con, không cho đến nhà. Cả khi lão chết, nó cũng không được đến. Hơn tháng sau, lão Phúc đổ bệnh. Lão nằm liệt giường. Anh con trai tất tả lo thuốc thang, rồi lại phải nhờ qua cửa bác cả:    - Tôi biết ông cụ rất giận tôi. Tôi tới, sợ ảnh hưởng đến sức khoẻ cụ, nên trăm sự phải cậy nhờ bác. Bác chuyển thuốc thang và đồ ăn cho cụ giúp tôi. Cứ coi như bác chăm nuôi cụ. Tôi biết ông cụ rất quý bác. Thôi thì tôi góp của, còn bác góp công...   Để cứu bố, người con đẻ đã bán dần mọi thứ trong gia đình. Khi tài sản không còn gì nữa, thì anh bán nốt căn nhà mái bằng. Chị vợ run rẩy:    - Bán mất nhà rồi thì ở đâu?    - Trước mắt, ta nương nhờ ông bà ngoại. Chờ bố nguôi ngoai rồi thì về. Khi ông cụ quy tiên thì ta ở đó luôn, rồi còn hương khói cụ nữa chứ. Cả một cơ ngơi rộng ngan ngát thế, ai trông nom cho.    Lão Phúc tắt thở vào nửa đêm. Chính căn bệnh viêm phổi và chảy máu dạ dày đã giết chết lão. Nếu lão nghe lời con trai sớm phòng bệnh và trị bệnh thì đâu đến nỗi đổ nhanh đến thế.   Đám tang lão Phúc tổ chức khá linh đình. Chưa bao giờ, làng Quyết Thắng có đám ma to như thế. Cờ phướn rợp đường. Khách khứa nườm nượp đến viếng bố ông chủ tịch. Dân làng xì xào bàn tán. Người khen lão Phúc về già tốt số, tự dưng giời lại cho thằng con nuôi sang đến thế. Mà xem ra, thằng con nuôi lại tử tế hơn thằng con đẻ. Người thì bảo lão chủ tịch thật cáo già. Lão không mất gì mà lại được tiếng thơm. Cũng chẳng phải tống ông bố thật mà vẫn tổ chức được một đám tang linh đình, hót đến mấy chục triệu tiền phúng. Khi rạp vừa dỡ xong, ông chủ tịch đã cho thằng con cả dọn đến ở để trông nom hương khói ông. Thằng bé vừa cưới vợ, vẫn còn đang ở tạm nhà bố mẹ. Lúc bấy giờ anh cơn đẻ mới ngã bật ngửa khi thấy bác cả xỉa ra cái giấy chuyển giao quyền thừa kế nhà cửa cho con nuôi của ông cụ thân sinh anh, có cả dấu xác nhận của ủy ban xã. Ai ngờ ông cụ ghét anh ghê gớm đến thế. Bây giờ, ngay cả khi đã chết rồi, ông cụ vẫn còn đuổi anh ra đứng đường. Tất cả cũng chỉ vì anh quá lo cho bố, đã nói toàn những điều thật lòng mà quên mất rằng, con người ta vốn không chịu được những lời nói thẳng, nói thật, cho dù là một ông lão ở cái xó. Thôi, ý cụ đã quyết thế rồi thì tôi cũng đành phải tuân theo thôi. Chỉ cầu xin bác cho một ơn huệ...    - Chú muốn gì?    - Bác xắn lại cho tôi xin một mét đất...    - Để chú làm gì?    - Tôi xây một cái miếu thờ bố tôi.. Người không quen ở nhà mình Phần 1   Đó chính là ông bạn vong niên của tôi. Ông làm giám đốc sở văn hoá, một cán bộ cựu trào của tỉnh lỵ này. Các cán bộ, nhân viên ở đây, kể cả những người bây giờ là cấp trên của ông cũng đều là lớp đàn em ông, do ông dìu dắt, đào tạo. Cũng vì thế nên mãi đến tuổi 65, ông mới nhận giấy báo nghỉ. Rồi nhùng nhằng thêm đến mấy năm nữa, ông mới chính thức cầm sổ hưu.   Hôm chia tay, cơ quan cũng đã làm một bữa tiệc đứa tiễn với bao lời ca tụng tốt đẹp. Nhưng rồi sáng hôm sau, người ta vẫn thấy cựu giám đốc cắp cặp đến cơ quan như thường lệ. Gặp ai ông cũng bắt tay:    - Trời, mình nhớ các cậu quá. Nhớ quá!    Có người không nén nổi nỗi bùi ngùi. Không ngờ thủ trưởng tình cảm quá. Vậy mà trước đây sao mình không nhận ra. Có lúc mình còn nghĩ oan cho thủ trưởng. Thực tình, thủ trưởng đâu có quan liêu, đâu có vô trách nhiệm với cấp dưới. Thế rồi, ngày nào, thủ trưởng cũng nhớ anh em. Sáng sáng, cứ tám giờ kém mười là ông đã có mặt ở công sở. Trước đây, khi còn đương chức, ông thường xuyên đến muộn. Bây giờ, ông lại đến rất đúng giờ. Anh giám đốc mới chẳng nỡ cắt điện thoại, vẫn để nguyên cái ghế cũ, căn phòng cũ cho ông. Đến cơ quan, ông khua điện đi các nơi, nói đủ mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Mà chẳng chuyện nào ăn nhập với chuyện nào. Thỉnh thoảng, ông lại mời khách ở các tỉnh khác đến. ấy là những người mà trước đây, ông từng giữ mối quan hệ thân thiết. Cứ vài ba ngày, anh giám đốc mới lại cùng ông đưa khách ra nhà hàng sang trọng. Còn khách sơ sơ thì cũng thuốc lá, bánh kẹo, cà phê. Có khi cả ngày, cơ quan chỉ trằn mình ra tiếp khách cho cựu giám đốc. Khi không còn khách khứa nữa thì ông ngồi bù khú với anh em, hỏi thăm hoàn cảnh gia đình của từng người. Ông phát hiện ra trong cơ quan có bao điều bất hợp lý.    Mà bất hợp lý từ rất lâu rồi. Cô văn thư, bảo mật gia đình khó khăn quá. Anh bảo vệ gắn bó với cơ quan bao nhiêu năm vẫn chưa được phân nhà. Cậu cán bộ bảo tàng lương thấp quá. Mà sao mãi chưa tăng lương. Như thế thì làm sao nó có thể sống nổi, có thể yên tâm giữ gìn di sản văn hoá nước nhà.    Thế là rối mù lên. Anh giám đốc mới không thể một lúc giải quyết được tất cả mọi điều ông đề nghị. Bổi đó toàn là những việc lớn, những việc cấp bách. Còn cán bộ cấp dưới thì xôn xao bàn tán. Có người cảm động đến ứa nước mắt. Có người nghi ngờ: ôi dào, sao hồi còn quyền chức, ông ấy chẳng làm? Bây giờ về vườn rồi, ông ấy mới sốt sắng quan tâm đến anh em?    - Thì hồi đó, thủ trưởng bận trăm công ngàn việc...   - Tôi cũng nghĩ là thủ trưởng bận. Chứ người như vậy là tốt lắm đấy. Nếu thủ trưởng không bận thì mình đã chẳng đến nỗi khốn khổ thế này...   Bao điều bất ổn nữa nhắc mãi giám đốc mới vẫn chưa giải quyết, cựu giám đốc lại trút nỗi bực dọc sang tôi:   - Cán bộ bây giờ gay quá, cậu ạ? Tri thức thì có. Nhưng quan điểm lập trường là chưa thể tin cậy được. Nhất là tình quần chúng, sẽ đi sâu đi sát quần chúng của cán bộ là có vấn đề. Mình thấy gay lắm    Tôi cười:    - Vâng, cán bộ thì thời nào mà chả có vấn đề. Cứ làm việc đến hết mình thì rồi sẽ lại có khiếm khuyết. Nhưng dù có khiếm khuyết gì thì cũng là chuyện của họ. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Còn bác nghỉ rồi. Bác không nên can thiệp quá sâu. Việc gì bác cũng can thiệp, làm cho tất cả cứ rối lên. Anh em đương nhiệm lại khó làm việc...    - Tại sao lại khó làm việc? - Cựu giám đốc quắc mắt lên. - Tôi giúp họ phát hiện những điều bất ổn. Cả đời tôi gắn với cơ quan. Bây giờ còn chút sức lực nào, tôi cống hiến nốt cho trọn ven. Tôi vào Đảng là thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng cơ mà. Còn lâu mới đến giọt máu cuối cùng của tôi nhá? Tại sao chú lại cứ nhìn tôi như một anh gây rối.    - Bác không phải người gây rối. Nhưng nhiều điều rắc rối lại bắt đầu từ bác. Bởi bác nghỉ rồi mà...    - Tất nhiên là tôi nghỉ rồi, nhưng tôi vẫn phải có trách nhiệm. - Cựu giám đốc bùi ngùi: - Mà nói thật với chú, tôi vẫn không quen ở nhà mình. Cả một đời gắn với cơ quan. Cơ quan đã thành nhà tôi. Còn căn nhà thực của tôi chỉ là cái quán trọ. Tôi không sao quen được, chú ạ? Tôi lại phải đến cơ quan. Mà ở cơ quan thì lại thấy toàn những điều ngang tai trái mắt. Thế là mình lại phải nhắc. Mà nhắc mãi vẫn không chuyển. Nhiều lúc mình phát nản, lại nghĩ rất tiêu cực: Thôi thì thây kệ đời!...    Nói vậy, nhưng rồi ngày hôm sau, vào lúc tám giờ kém mười, người ta vẫn thấy ông cựu giám đốc xách chiếc cặp đen đến cơ quan. Ông đặt chiếc cặp lên bàn, rồi lại ngồi vào chiếc ghế giám đốc cũ... Đại tướng Võ Nguyên Giáp Phần 2     Nhà thơ Đaghextan nổi tiếng thế giới Ra xun Gamzatov thật có lý và cũng thật sâu sắc khi ông cho rằng, khi anh đi ra thế giới rộng lớn, _ người ta muốn biết anh là người thế nào, thì anh có thể chìa chứng minh thư, chìa tấm hộ chiếu ra, trong đó đã ghi mọi điều cần thiết. Còn nếu khi có ai hỏi một dân tộc xem dân tộc đó thế nào, thì dân tộc đó cũng cần phải đưa ra giấy tờ của mình, là các nhà bác học, các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất hay các vị tướng lĩnh tài giỏi. Họ chính là giấy thông hành để dân tộc đó đi ra với thế giới rộng lớn.   Có lẽ cũng vì thế chăng, mà có lần tham gia trong đoàn Việt Nam dự Festival thanh niên thế giới, tôi rất ngạc nhiên khi phái đoàn của ta vừa xuất hiện thì cả cầu trường vang dội những tiếng hô nồng nhiệt của cả một biển người trên hành tinh: Hồ Chí Minh - Giáp Giáp! Hồ Chí Minh Giáp Giáp? Hồ Chí Minh thì đã rõ rồi. Bác là vị lãnh tụ lỗi lạc, là danh nhân văn hoá thế giới. Thế còn Giáp Giáp là gì? Tiếng Tây chăng? Tôi lần hỏi mới hay, họ đã hô vang tên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đối với thế giới, cái tên quen thuộc ấy đồng nghĩa với Việt Nam, nên không cần phải phiên dịch, diễn giải. Cùng với Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, vị tướng huyền thoại ấy, cũng đã trở thành cái giấy thông hành để dân tộc ta có thể hiên ngang đi vào cõi mênh mông bát ngát của xứ người.   Bây giờ thì vị tướng huyền thoại ấy đang ngồi trước mặt tôi. Một ông già hiền lành, đôn hậu. Nước da đỏ au, mái tóc bạc trắng như mây. Trông ông có dáng dấp của một ông Tiên trong những câu chuyện cổ tích dành cho con trẻ.   - Nhân dịp năm mới, tôi xin chúc Đại tướng khoẻ mạnh, hạnh phúc. Cầu mong Đại tướng luôn gặp những chuyện tốt lành.    - Mình cám ơn thiện tâm của các cậu!    Còn nhớ cách đây sáu năm, tôi cùng nhà văn Lê Lựu và nhóm phóng viên Tạp chí Văn nghệ quân đội đến gặp Đại tướng, và viết bài Hỏi chuyện anh Văn nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài viết in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội đầu tháng 5 năm 1994. Trung tuần tháng đó, tôi có dịp sang thăm Mỹ theo lời mời của của các nhà văn cựu chiến binh Mỹ. Nhà thơ nổi tiếng Mỹ Bruce Weigl cười tủm tỉm: Tôi có xem bài viết của ông với ông Lựu trong thư viện của Trường đại học Harvard, cũng xem cả bức ảnh ông và ông Lựu chụp chung với tướng Giáp. Trong ảnh, tôi thấy tướng Giáp là người trẻ trung nhất, sau đó mới đến ông Lựu, còn người già nua nhất thì lại là... ông    Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười hiền hậu: Họ đùa đấy? Dân nước ngoài họ rất hay đùa. Sự thật thì mình đâu còn trẻ mà cậu thì cũng đâu đã già!   - Vâng, tôi cũng biết là họ đùa, nhưng trong câu nói đùa ấy cũng hàm chứa ít nhiều sự thật, là cụ rất được yêu mến. Dân mình, lính mình yêu cụ đã đành, nhưng ngay cả những kẻ thù từng bị cụ đánh bại cũng rất kính phục cụ. Được kẻ thù của mình kính phục và trọng nể, kể cũng không phải dễ.    Đại tướng Võ Nguyên Giáp dường như không để ý đến câu nói ấy. Ông chỉ tủm tỉm cười. Nụ cười thật hiền hậu. So với lần gặp trước cách đây sáu năm, tôi thấy Đại tướng chẳng có gì thay đổi, mặc dù ông cũng đã qua cái tuổi cổ lai hy. Dường như Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ra để chống lại tạo hoá. Sự già nua không đánh được vào ông. Một ánh mắt tinh nhạy, trẻ trung, một trí tuệ rất minh mẫn. Nhân ngày đầu xuân, tôi hỏi ông có bí quyết gì mà có được sức lực dẻo dai như thế. Ông cười hiền lành:    - Mình chẳng có bí quyết gì đâu. Chỉ chịu khó tập thể dục, sống thanh thản và không vẩn vơ nghĩ về cá nhân.    Theo cô con gái rượu của ông, giáo sư - tiến sĩ vật lý Võ Hồng Anh, thì hàng ngày, Đại tướng sống rất điều độ. Buổi sáng ông dậy sớm tập thể dục, rồi đi bách bộ quanh khu vườn. Bảy rưỡi ăn điểm tâm. Mỗi bữa thường chỉ có một bát xúp nhỏ, một lát bánh mì. Buổi trưa ông ăn rất ít. Tối cũng vậy, chỉ thêm bát xúp ngô với một ít rau tươi. Còn cơm, ông ăn không đầy một bát. Nhưng ngày nào ông cũng làm việc. Công việc vẫn bề bộn. Bắt đầu từ tám giờ sáng. Ông tiếp khách trong nước, quốc tế, hoặc dự hội thảo, thăm nơi này, nơi kia, theo kế hoạch mà đồng chí thư ký đã chuẩn bị từ trước. Rỗi thì ông đọc sách. Ông đọc khá nhiều. Đủ các loại sách. Sách quân sự. Sách khoa học. Sách danh nhân. Rồi tiểu thuyết. Rồi thơ. Rồi lý luận phê bình. Đại tướng tặng tôi mấy cuốn sách, và cả những bài báo rất hay viết về khoa học, kinh tế mà ông thấy tâm đắc ông phôtô tặng tôi. Tôi thực sự ngạc nhiên vì thấy ông đọc rất nhiều. Tôi hiểu vì sao ông có được sự minh mẫn đến thế. Trí tuệ loài người nằm hết trong sách. Không phải ngẫu nhiên, khi cô con gái rượu của Các Mác hỏi bố: Công việc gì mà ba yêu thích nhất, Mác đã trả lời: Lục lọi ở trong sách.    - Vừa rồi tôi có đọc cuốn hồi ký của anh Trà. Anh ấy có viết về tôi. Trong đó có một câu làm tôi rất xúc động: Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người tiếc đến từng giọt máu của lính. Anh ấy là người rất hiểu tôi...   Nói rồi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi lặng. Gương mặt thâm thấm một nỗi gì hiu hắt. Trông ông như một đỉnh núi vừa tắt nắng. Hình như ông đang nhớ lại một thời oanh hệt đã qua. Trong trận Điện Biên Phủ, ông là Đại tướng Tổng tư lệnh, nhưng nắm chắc đến từng đại đội một. Nghĩa là ngay một anh đại đội trưởng dưới cơ sở cũng có thế báo cáo thẳng cho Tổng tư lệnh về đơn vị của mình kể cả những con số hy sinh và thương vong. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người rất thận trọng. Vào trận, bao giờ ông cũng nắm rất chắc địa hình, tính toán thật chi li, cụ thể. Bộ đội hành quân, tập kết trận địa, nếu trong đội hình tiểu đoàn, hoặc đội hình trung đoàn, có trang bị từng loại vũ khí cụ thể thì đi hết bao lâu. Trận đánh diễn ra bao nhiêu phút, rồi sau đó anh em rút ra như thế nào cho thật an toàn trước khi máy bay địch ập đến. Chỉ khi nào Đại tướng tính toán kỹ lưỡng, tìm được cách rút lui sau trận đánh, để bảo toàn tính mạng cho từng người lính rồi, ông mới ra lệnh tấn công. Có trận thắng vang dội, nhưng mất nhiều lính quá, người ta vỗ tay rầm trời, còn Đại tướng thì lặng lẽ khóc ở sở chỉ huy. Nhiều khi úp mặt xuống phên tre mà khóc. Nước mắt đầm đìa cả cái gối mây. Nhưng điều ấy thì không phải ai cũng biết được. Tôi chợt nhớ đến hồi Mậu Thân, nhớ đến câu thơ Hữu Thỉnh:    Có trận đánh trở về    Nhìn đôdng súng thừa như nhìn thừa đũa bát    Thừa đến nỗi những người sống sót    Cũng không nỡ nhận mình là may    Hồi Mậu Thân toan tính biết bao điều...    Có lẽ cũng vì thế mà Thiếu tướng Nguyễn Chuông, Tư lệnh Quân đoàn 29, một trong những người lính quả cảm của tướng Giáp, khi về hưu được quân đội chia cho ít đất để làm nhà, ông đã dành một khoảng đất để xây một cái miếu ngay ở trước cửa nhà để ông thờ lính. Các em đã lặn lội theo anh vào sinh ra tử bao nhiêu năm nay, không may phải nằm lại dọc đường, bố mẹ già khuất núi rồi, vợ con lại chưa kịp có thì biết lấy ai hương khói trong nhũng ngày tết nhất hay ngày rằm, mồng một. Anh may mà thoát chết, vừa được quân đội cho tý đất đây, anh lập cái am này để các em về đây quây quần với anh. Rồi ông dặn dò con cháu nếu không may ông có phải ra đi thì những ngày Tết hay ngày rằm, mồng một, hoặc ngày 27-7, chúng nhớ thay ông thắp hương cho những người lính của ông đã, rồi sau đó mới thắp cho ông.   Có lẽ cũng vì thế chăng mà khi tôi có nhã ý muốn được đọc một cuốn hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết về chính mình thì ông đã từ chối. Thực tình thì ông cũng đã viết hoặc kể cho người khác viết. Nhưng đó là những trang hồi ký viết về Bác, về Đảng, về cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân. Đó là một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, là chuyện của lãnh tụ, của đồng bào chiến sĩ, là toàn bộ cuộc chiến tranh cách mạng được nhìn qua con mắt của một vị tướng. Còn thực sự vị danh tướng ấy thế nào, số phận ra sao thì cho đến nay, vẫn chẳng có mấy ai biết.   - Đời mình có gì đâu mà viết. So với Bác, với đồng bào, chiến sĩ, mình chỉ là một giọt nước rất nhỏ giữa đại dương mênh mông.   Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói vậy. Ông vốn là một người rất đỗi khiêm nhường. Ông mong gì ư? Nếu có sức lực và có điều kiện, ông muốn được trở lại những vùng chiến trường xưa, thăm lại những người dân nghèo đã từng san sẻ với ông nửa củ sắn lùi, đắp chung với ông một cái chăn rách. Tôi chợt nhớ đến một ông già bản mà tôi gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi:    Chuyện Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về quê Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa...    Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một danh cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là Rừng Đại tướng. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được Má và các con Phần 2     Trò chuyện với má Phạm Thị Lừa    Bà mẹ Việt Nam Anh hùng    Căn nhà mái đằng hai gian xinh xắn, nằm bên con đường rải sỏi đỏ mịn chạy ngang qua thị trấn chợ Lớn. Đó là ngôi nhà tình nghĩa mà tỉnh Bình Thuận đã dành cho má Phạm Thị Lửa, một Bà mẹ Việt Nam anh hùng có ba con hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phòng ngoài rất sơ sài, chỉ có một chiếc phản gỗ đã cũ. Trên tường không thấy bằng Tổ quốc ghi công, cũng không thấy bàn thờ, bát hương, chứng nhận Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nghĩa là lột căn nhà bình thường, như hàng triệu căn nhà bình thường khác của Việt Nam. Cảm giác như ở đây, không hề có người chết trận. Bên phải là cánh cửa sổ khép hờ, nhưng người ta vẫn thấy qua khe cửa, một khu vườn xao xác gió. Ngoài xa là con sông Luỹ. Xa nữa là nhũng miệt rừng xanh om, những dãy núi mờ mịt sương khói. Đó là căn cứ địa cách mạng trong những năm chống Mỹ gian khổ và bi tráng.   Má Lừa ngồi trên tấm phản gỗ. Quây quanh má là các nhà văn ở Tạp chí Văn nghệ quân đội. Ngồi chếch bên cửa sổ là ông Hoàng Huỳnh, chồng má Lừa.   Má Phạm Thị Lừa: Má nói đến đâu rồi hà? à, phải rồi, má biểu ông Huỳnh biên thư cho các con, cám ơn các con. Giục ông già hoài hoài mà ổng cứ lần khân mãi.    Ba Hoàng Huỳnh: Tôi có viết chớ? Viết lâu rồi chớ. Thế nhưng rồi chẳng biết gởi đi đâu? Có địa chỉ đâu mà gởi? Chẳng biết chúng nó ở chỗ nào. Bà già biểu cứ gởi lên xanh? Trời đất ơi? Giải phóng mấy chục năm rồi. Trên xanh chỉ còn hùm beo, chớ có thằng bộ đội nào còn ở đó nữa.    Nhà văn Lê Thành Nghị: Cái đó là lỗi tại chúng con, chúng con bận quá, lại ở xa nữa, mãi ngoài Hà Nội nên bữa nay mới về thăm ba má được. Địa chỉ của chúng con là Nhà số 4 Lý Nam Đế.    Má Phạm Thị Lừa: Thế các con không có số hòm thư à?    Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm: Dạ, đó là hòm thư của tụi con đó. Nhà số 4 Lý Nam Đế.    Má Phạm Thị Lừa: Chà, bây giờ không còn chiến tranh nữa, nên không phải giữ bí mật. Cái địa chỉ dễ ợt mà bây giờ má mới biết..    Nhà văn Lê Thành Nghị: Cái đó cũng tại lỗi chúng con. Chúng con chưa thư được cho má. Vả lại: chút tiền chúng con gửi má, lại nằm chung trong số tiền cơ quan Tổng cục Chính trị gửi vào trong này. Cơ quan Tổng cục Chính trị nhận phụng dưỡng bốn mươi Bà mẹ Anh hùng. Riêng ở huyện Bắc Bình này có hai mươi Mẹ. Má nhận được đều không?    Má Phạm Thị Lừa: Đều. Quý nào vào ngày đầu tháng, mấy anh ở huyện đội cũng mang tiền tới, không có tháng nào chậm.    Nhà văn Khuất Quang Thụy: Má sống được không?    Má Phạm Thị Lừa: Sống được? Tiền của các con, cùng với tiền của mấy đứa đã chết, cộng lại được bảy trăm tám mươi lăm ngàn là sống khoẻ rồi. ở đây mọi thứ đều rẻ. Rau quả mua như được cho không. Mỳ một ký bốn trăm đồng. Thịt cá cũng không quá mắc. Ông Huỳnh thỉnh thoảng vẫn đi nương trỉa lúa. ổng làm cho khoẻ người thôi, chứ ăn nhằm gì mấy sào lúa nương. Còn má thì không làm gì được. Má già rồi. Đi trong nhà cũng đã thấy mỏi. Má còn năm sáu đứa con nữa, nhưng chẳng nhờ gì được chúng. Chúng ở xa, lại đẻ nhiều. Đứa nào cũng chín, mười đứa con. Chúng nuôi con chúng còn chẳng nổi. Thỉnh thoảng, năm thì mười hoạ, chúng mới về nhà. Về ào một cái, rồi lại kéo nhau đi. (Rơm rớm nước mắt). Thành thử các con thấy đó, nuôi má bây giờ, ai dè lại là mấy đứa đã hy sinh và mấy thằng bộ đội ngoài Bắc chúng mày...    Nhà thơ Trần Đăng Khoa: Con muốn thắp cho anh chị mấy nén nhang...    Má Phạm Thị Lừa: Cám ơn các con. Má không để bàn thờ. Mấy tấm bằng ghi công, má cho hết vào trong rương.    Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm: Sao thế, má?    Má Phạm Thị Lừa: Vì má không thể chịu được khi nhìn những tấm giấy ghi tên mấy đứa đặt trên bàn thờ. Thôi cứ cất đi cho thoáng. Cứ coi như mấy đứa đi đâu vắng, chúng ra nương, ra rẫy, còn con Xuân đi lấy chồng xa. Ba má có đến mười đứa con, có đứa nào ở với ông bà già lọm khọm này đâu. Má không muốn nghĩ là ba đứa đã chết. Làm sao tụi nó có thể chết được khi ba má chúng ngày một già yếu mà lúc nào cũng luôn thương nhớ chúng. Làm sao chúng có thể chết được khi tháng nào má cũng nhận được tiền chúng nó gửi về. Chà! Ngột ngạt quá? Mở cho má cánh cửa sổ, con ( Nhà văn Khuất Quang Thuỵ xoay người lại, mở toang cánh cửa sổ). Hình như trời sắp giông hay sao mà ngột ngạt quá hà!   Nhà văn Khuất Quang Thụy: Không! Trời trong lắm má à! Còn hơn tháng nữa mới tới mùa mưa. Coi chừng, má bị cảm đó!    Má Phạm Thị Lừa: Cảm chi! Lâu lắm rồi má đâu có ốm. Các con đã nuôi má, lại về thăm má thế này là quý lắm rồi, còn quà cáp cho má làm chi nữa   Nhà văn Lê Thành Nghị: Có gì đâu má? Chỉ có một chút lụa bọn con mang từ Hà Nội vào để má may một bộ quần áo...    Nhà văn Nguyễn Quốc Trung: (Giở xấp lụa ướm lên vai má Lừa). Đó, các anh thấy không? Rất hợp với má (với má Lừa). Bọn con chọn loại lụa này thích hợp với tuổi má. Má có thể mặc đi chơi hay đi lễ chùa cũng được. Ngày nóng sẽ thấy mát. Má phải may ngay nhé. Kẻo rồi, má lại đem cho...    Má Phạm Thị Lừa: Không? Không! Má may, má sẽ may...    Nhà văn Nguyễn Quốc Trung: ở đây có cửa hiệu nào không, để con dẫn má đi...   Má Phạm Thị Lừa: Thôi, các con khỏi lo. Việc đó để má tự làm? Má sẽ may bộ đồ thật đẹp để khi nào các con vô, má sẽ mặc đón các con...    Nhà thơ Trần Đăng Khoa: Má đừng may rộng quá, cứ đo khít với khổ người. Eo má rất chuẩn nhá. Ngày xưa, có lẽ má đẹp lắm...    Ba Hoàng Huỳnh: Đúng đấy! Ngày xưa, bà ấy rất đẹp. Có đẹp thì tôi mới mê chớ!   Má Phạm Thị Lừa: Cái nhà ông này! Già rồi mà còn ăn nói xí xớn, chúng nó lại cười cho.    Ba Hoàng Huỳnh: Chớ không à? Ngày xưa bà làm khổ bao nhiêu người, bà có biết không?    Má Phạm Thị Lừa: Ai khổ đâu chả biết. Tôi chỉ thấy mỗi tôi khổ thôi. Hết vô tù lại ra tội.    Ba Hoàng Huỳnh: Đó, thì cũng vì bà đẹp, bà mới bị bắt chớ!    Má Phạm Thị Lừa: Tôi bị bắt đâu phải vì đẹp. Tôi hoạt động cách mạng, chẳng may bị lộ nên phải vô tù. Mà vô tù cũng vì những chuyện chẳng đâu vào đâu.    Nhà văn Nguyễn Quốc Trung: Sao lại thế, má?    Má Phạm Thị Lừa: à, chuyện chi có thế này thôi. Hồi đó, má đi đưa thư. Thư của ông Lê Thạch, ở đây còn gọi là ông Tám. Ông ấy là ấp trưởng. ổng làm việc cho địch ban ngày, nhưng ban đêm lại là người của ta. ổng có hai thằng con đều đi theo bộ đội, lên xanh cả. Má chuyển thư của con ổng cho ổng. Thư giấu trong vạt áo. Thư bí mật nên không thể đưa công khai, phải kêu ổng ra chỗ vắng, phải thầm thầm thì thì. Bà Mười Đen, vợ ông Tám, lại tưởng má với ông ấy có tư tình gì. Thế là bả làm toáng lên. Rồi bả lên đồn tâu báo. Thế là má bị bắt. Ông Tám cũng bị bắt. Chúng nhốt mỗi người vào một nhà lao, rồi chúng tra tấn, đánh đập. Cũng may mà không chết. Đánh chán rồi chúng thả cho về. Chúng tưởng đó chỉ là chuyện ghen tuông trai gái...    Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm: Bây giờ ông Lê Thạch ở đâu má?   Má Phạm Thị Lừa: ổng chết lâu rồi. Còn bà Mười Đen thì vẫn còn sống. Nghe đâu bây giờ bả chuyển ra ngoài Thừa Thiên, ở với con gái...    Nhà văn Nguyễn Quốc Trung. Thế bây giờ bà ấy còn ghen không má?   Má Phạm Thị Lừa: Ghen chi mà ghen! Già khọm cả một lũ rồi. Má thì răng rụng. Còn bà ấy thì lưng còng, đi lại khó khăn lắm! Vừa rồi, bà ấy về quê, có qua đây, má cho mấy đấu gạo. Bà ấy nghèo lắm, đói lắm. Người già mà đói thì khổ lắm. Nghĩ lại thời ấy, sao mà thấy cực...   Nhà văn Khuất Quang Thụy. Hồi kháng chiến, vùng này thế nào, má?    Má Phạm Thị Lừa: Khổ lắm. Đây là ấp chiến lược mà, con. Kẻ thù dồn dân về trại tập trung. Chúng biến con người thành một bầy súc vật. Ngày chúng thả cho ra, tối chúng lùa tất cả vô chuồng, cứ như là lùa trâu, lùa bò. Chúng muốn tách dân ra, không để dân nuôi giấu bộ đội nuôi giấu cách mạng. Nhưng mà chúng lại ngu, chúng không biết chúng chỉ cách ly được dân, chớ làm sao cách ly được lòng dân với cách mạng, với bộ đội Cụ Hồ. Ngày nào đi làm nương, chúng cũng cho người lục soát từng cái túi, cái quần của người ta. Chúng sợ bà con tiếp tế cho bộ đội. Nhưng chúng chỉ kiểm soát được cái quần, cái áo, chớ làm sao kiểm soát được cái bụng của dân. Khi thu hoạch lúa, bà con đề lại lúa ngoài rẫy, vùi rạ lên, đêm bộ đội về lấy. Sáng nào ra rẫy, thấy bó lúa còn nguyên, là lại khóc thầm, biết bộ đội không tới được. Một lần, có anh bộ đội người Bắc về lấy lúa, lấy mì bị quân thằng Bạn bắt được. Thằng Bạn là ác ôn. Nó ác còn hơn cả thú dữ. Lần đầu tiên, má được thấy một anh bộ đội người Bắc. Thằng nhỏ hiền lành lắm, da xanh bủng vì sốt rét. Khi đó, nó cũng đang bị sốt, vậy mà thằng Bạn cũng đâu có chịu buông tha. Chúng cho quân đánh đập dã man lắm. Người thằng nhỏ bê bết máu. Khi nó chết rồi, thằng Bạn còn buộc xác nó vô xe cam nhông, cho kéo lê dọc suốt con đường này, vòng qua các xóm ấp này. Máu thằng nhỏ thấm xuống suốt mọt rẻo đường kia. Chiều ấy, cả nhà má bỏ cơm. Không ai nuốt được một miếng. Rồi sớm hôm sau, thằng Tư, thằng Đương trốn má, đi lên xanh theo bộ đội. Khổ? Má đâu có ngăn cấm chúng nó mà chúng nó phải trốn má. ít ngày sau, con Xuân cũng lại nằng nặc xin má cho nó đi...    Nhà văn Lê Thành Nghị: Năm ấy, chị Xuân bao tuổi, má?    Má Phạm Thị Lừa: Mười tám?    Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm: Chị ấy sao má?   Má Phạm Thị Lừa: Con bé ngoan lắm, lại đẹp gái nữa. Năm mười sáu tuổi, nom nó đã rực rỡ lắm rồi. Da nó trắng như ngà ấy. Mấy bà ở chợ Lầu biểu: Làm sao bà đẻ được con bé đẹp thế. Bao nhiêu thằng con trai gầm ghè nhau, đánh nhau vì nó. Năm nó mười tám tuổi, nhiều đứa tới cầu hôn. Nhưng chẳng đứa nào ra hồn người. Toàn là một lũ giặc. Con Xuân nằn nì xin má cho nó theo bộ đội. Má biểu: ừa, con lớn rồi! Má chẳng giữ con nữa. ở nhà cho thằng Mỹ, thằng nguỵ nó hiếp à? Thôi con đi đi. Má gửi con cho Cụ Hồ. Thế rồi nó đi...   Nhà văn Nguyễn Quốc Trung. Sau đó, má còn gặp lại chị ấy không?    Má Phạm Thị Lừa: Có? Gặp mỗi một đận thôi. Nó lần ra nương tìm má!    Nhà văn Lê Thành Nghị: Chị ấy có nói gì không?    Má Phạm Thị Lừa: Không! Nó biểu, nó đi công tác, tiện thể ghé thăm má. Chỉ thế thôi. Nó vẫn mặc tấm áo bà ba như hôm nó ra đi. Rồi nó kêu đói. Rủi là bữa đó, nhà chẳng còn củ mì nào    Nhà văn Đỗ Việt Nghiệm: Chị ấy đi bộ đội mà không mặc đồ bộ đội à, má?   Má Phạm Thị Lừa: Làm sao có đồ bộ đội. Chỉ mấy đứa ngoài Bắc, chớ tụi trong này có gì mặc nấy. Nhiều đứa đi bộ đội mà vẫn ăn cơm nhà. Thằng Tư là bộ đội địa phương, nó vẫn bận tấm áo của ông Huỳnh. Khi chết, nó vẫn chết trong tấm áo của ba nó. Còn thằng Đương vào bộ đội đặc công, hy sinh trong một trận tập kích ở núi Tràng Rông. Hai đứa đầu còn kiếm được xác, đưa vào nghĩa trang liệt sĩ, mả xây đàng hoàng Chỉ có con Xuân là không tìm được...   Nhà văn Nguyễn Quốc Trung. Chị ấy hy sinh thế nào, má có biết không?    Má Phạm Thị Lừa: Má chỉ nghe người ta nói, con Xuân làm y tá trong một bệnh viện dã chiến của mặt trận ở trong rừng. Một lần, trực thăng ập đến, con Xuân cõng thương binh ra khe đá ven suối. Đến chuyến thứ ba thì nó bị trúng đạn. Cả bệnh viện chỉ sống sót một y sĩ bị thương nặng, còn thì thầy thuốc, thương binh, chết hết cả. Mộ con Xuân chôn ở bên suối. Anh em khác cũng chôn dọc theo suối. Thế rồi sau một trận lũ rừng, tất cả những ngôi mộ ấy đều bị cuốn trôi hết. Bây giờ, má cũng chẳng biết xác nó trôi dạt về đâu. Muốn thắp cho nó nén nhang, cũng chẳng biết cắm chỗ nào?    Nhà văn Lê Thành Nghị: Má à, hiện nay có đến hàng vạn bà mẹ cùng chung cảnh ngộ như má. Trên báo chí, trên ti-vi, buổi truyền hình quân đội nào cũng có mục Nhắn tìm đồng đội. ở cơ quan con có anh Nguyễn Trí Huân. Anh ấy có người anh trai hy sinh ở tận miền Nam, may còn tìm được mộ mà đưa hài cốt về quê. Hôm hài cốt về, cả xã ùa ra, đứng chật cả hai bên triền đê để đón. Rồi cả một dải người cùng khóc. Họ khóc vì chồng con họ, những người lính không tìm được hài cốt. Ngay trong nhà anh Huân, bà mẹ anh ấy thì thảng thốt, cứ như con mình đã sống lại, đã trở về. Thực ra thì chỉ còn mấy rảnh xương với một ít đất gói trong vuông vải đỏ. Còn bà cô ruột anh Huân lại đóng chặt cửa, nằm vật ra giường, rồi úp mặt vào vách đất mà khóc. Bà cụ có đứa con không biết hài cốt ở đâu...    Má Phạm Thị Lừa: (Nâng vạt áo lau nước mắt). Mở cho mẹ cánh cửa, con...    Nhà văn Khuất Quang Thụy: Cửa vẫn mở đó má?   (Một thoáng im lặng. Sự im lặng trùm ngợp khắp căn nhà tình nghĩa của má Lừa. Hình như ai cũng thấy ngạt thở. Mấy nhà văn áo lính nhìn ra ngoài cứa sổ mở rộng. ở đó dào dạt một vùng nắng gió miền Nam Trung Bộ. Những miệt vườn, nhũng dải núi mờ xanh. Xanh một cách lặng lẽ, dửng dưng như không hề có máu chảy)    Má Phạm Thị Lừa: Má chỉ ân hận hôm con Xuân về, nhà lại sạch bách chẳng có gì ăn. Con nhỏ thì đói. Mà tại sao hôm ấy, má lại lú lẫn, không biết chạy sang hàng xóm, vay cho nó một củ mì. Bây giờ, thỉnh thoảng, má vẫn thấy con Xuân về luôn. Có hôm, má vừa chợp mắt thì nó về. Nó ôm chầm lấy má. Rồi nó dụi đầu vào vai má. Người nó ướt sũng và lạnh toát như một cây nước đá. Má biểu: Mày ở đâu về mà ướt vậy con?. Nước suối đó, má? Con rét quá. Má ôm riết lấy nó, muốn sưởi cho nó như những đêm mưa lạnh ngày nào, hồi nó còn bé. Nhưng người nó cứ run lên bần bật, rồi tan rữa ra thành nước. Trời đất ơi? Con tôi làm sao vậy nè. Má kêu ầm lên, rồi bừng tỉnh. Mồ hôi vã đầm đìa. Vai áo má ướt rượt. Không biết đó là nước mắt má hay nước mắt con Xuân?    Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm: Thôi? Má đi nghỉ đi. Má nghỉ một chút cho đỡ mệt. Tụi con ngồi chơi với ba...    Má Phạm Thị Lừa: Má có làm chi đâu mà mệt    Nhà văn Khuất Quang Thụy. Thế đã bao giờ má ra Hà Nội chưa?    Má Phạm Thị Lừa: Chưa đâu! Má chỉ nghe nói Hà Nội thôi, Hà Nội có lăng Cụ Hồ.   Nhà văn Khuất Quang Thụy: Bao giờ má ra Hà Nội, viếng Bác, chúng con sẽ đón má về cơ quan con chơi. Cơ quan con ở gần lăng Bác...   Má Phạm Thị Lừa: Má già rồi! Yếu lắm rồi, ra ngõ bây giờ cũng còn ngại, làm sao ra được ngoài, đi bao nhiêu là đường đất.    Nhà văn Khuất Quang Thụy. Bọn con sẽ lo vé máy bay cho má đi...    Má Phạm Thị Lừa: Má già rồi...    Nhà văn Khuất Quang Thụy. Con tưởng khi tuyên dương Bà mẹ Việt Nam anh hùng, má có ra Hà Nội chứ?    Má Phạm Thị Lừa: Không! Đi đại biểu thôi. Mà khi chọn đại biểu thì má lại không phải là đại biểu rồi. ở đây có nhiều má hơn má lắm...   Nhà văn Lê Thành Nghị: Vâng? Chúng con biết tỉnh Bình Thuận ta là một vùng đất kiên cường và oanh liệt. Ngay trong mấy đợt đầu, toàn tỉnh đã có hàng trăm bà mẹ được phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Có má mấy lần anh hùng như má Phạm Thị Ngư. Má Ngư có bảy người con liệt sĩ bản thân má còn là Anh hùng Lực lượng vũ trang là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. ở đây còn có ba chị em ruột đều là Bà mẹ Việt Nam anh hùng như má Bùi Thị Nhỏ, má Bùi Thị Tư, má Bùi Thị Hải. Ba chị em ruột này đã cống hiến cho đất nước 12 người con liệt sĩ. ở ngay trên đất Chợ Lầu này, còn có một đội du kích nữ, gồm mười một người, do chị Trần Thị Liên làm đội trưởng, đã chiến đấu rất dũng cảm. Chính chị Liên đã cùng đồng đội tiêu diệt tên ác ôn khét tiếng Nguyễn Duy Bạn ở ngay trước cổng nhà hắn...    Má Phạm Thị Lừa: (ngạc nhiên) ủa? Sao mấy con ở xa mà rành chuyện trong này vậy?    Nhà văn Lê Thành Nghị: Tụi con là nhà báo mà, má?   Má Phạm Thị Lừa: Vậy ở đơn vị các con, có còn ai như các con không?    Nhà văn Khuất Quang Thụy: Nhiều chứ, má! Chúng con có ba mươi người cơ. ở cơ quan con, có anh đã từng sống ở đây, chiến đấu ở đây đến hàng chục năm trời...    Má Phạm Thị Lừa: Ai vậy con?    Nhà văn Khuất Quang Thụy. Nhà văn Nam Hà. Trong thời chiến tranh, anh ấy ở trên rừng. Anh ấy bảo hồi đó không thể nào vào Chợ Lầu được Chợ Lầu bị kiểm soát, kìm kẹp gay gắt lắm. Nhiều đêm, anh ấy về ấp Xuân Quang lấy gạo...    Má Phạm Thị Lừa: ừa, cái ấp ở bên kia sông Lũy, cách đây một đoạn đường ngắn thôi. Đó là ấp tranh chấp. Ngày của địch, đêm của ta. Bà con bên ấy vẫn sang đây mua gạo, thực phẩm mang về cho bộ đội. Vậy thằng Hà chuyến này không vô đây à?   Nhà văn Lê Thành Nghị: Anh Nam Hà về Bình Thuận luôn đấy. Đối với anh ấy, Bình Thuận là quê hương thứ hai. Anh Nam Hà đã viết đến hàng ngàn trang sách mà phần lớn là viết về vùng chiến trường khu Sáu ác liệt này. Bữa nay, anh ấy đi công tác vắng nên không vào được. Cơ quan cử tụi con về thăm má. Rồi chúng con sẽ thay nhau về...    Má Phạm Thị Lừa: (Nâng vạt áo lau nước mắt). Má cám ơn mấy con. Má mất ba đứa con, nhưng lại có ba mươi đứa con thương yêu, chăm Chút má như là con đẻ. Tất cả tụi bay đều là con má (bỗng bật khóc). Đương ơi, Tư ơi, Xuân ơi, các anh của các con về cả đây rồi nè. Ông Huỳnh đâu rồi? Kìa, ông Huỳnh... Ông kê cho tôi cái bàn thờ, để chúng nó thắp hương cho các em. Blaga Đimitrôva Phần 2     I    Vào những năm đánh Mỹ, Việt Nam được coi là Lương tâm của thời đại. Có học giả nước ngoài chỉ ước: Sau một đêm ngủ dậy trở thành người Việt Nam.    Có lẽ cũng vì thế mà thi hào dân tộc Bungari - bà Blaga Đimitrôva đã lặn lội đến Việt Nam không phải một lần, mà sáu lần. Bà đã có mặt ở những nơi bom đạn ác liệt nhất: Hà Nội, Hải phòng, Phủ Lý, Vinh, Ngã ba Đồng Lộc, rồi Quảng bình, Vĩnh Linh, Thanh Hoá. Bà đã chứng kiến nhiều trận chiến đấu, nhiều cuộc hy sinh, cả những ca mổ cấp cứu trong hang đá Ninh Bình, đã nhìn tận mắt một người con gái gầy gò, xanh tái vì sốt rét, tự treo mình lên cùng chiếc xe đạp, rồi guồng chiếc xe trong không khí để lấy ánh sáng đèn xe cho ca mổ mà theo bà đó là cuộc phẫu thuật có một không hai trong lịch sử y học nhân loại. Blaga Đimitrôva đã có ba tập sách đặc sắc viết về Việt Nam: Bầu trời và mặt đất, Vây giữa tình yêu, Ngày phán xử cuối cùng. Cả ba cuốn này đều được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Nhiều học giả nước ngoài nói với tôi rằng, họ biết Việt Nam, hiểu Việt Nam đến mức sâu sắc là nhờ Blaga Đimitrôva. Trong ba tập sách tuyệt vời ấy có hai cuốn đã được dịch sang tiếng Việt: Vây giữa tình yêu và Ngày phán xử cuối cùng. Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng, với những tập sách này Blaga đã đạt tới độ chín nhất của tài năng sáng tạo. Ông bảo tôi: Đọc Blaga mình sợ quá? Chị ấy bay bằng tên lửa, còn mình thì đi bằng hai chân què của con vịt bầu. Rồi ông còn bảo: Khi phụ nữ có trí tuệ ngang đàn ông thì họ hơn đứt cánh đàn ông chúng ta cái tình cảm, xúc cảm. Chị Blaga là như thế đấy .    Quả đúng như Xuân Diệu nói. Với những cuốn sách viết về Việt Nam, Blaga đã đạt đến độ chín nhất của tài năng mình. Đọc bà, ta có cái thú của một người du ngoạn. Ta được ngắm lại ta bằng con mắt của một người ngoại quốc. Với cái nhìn tươi xanh, đầy nhân ái và từng trải, lại cộng với một trí tuệ tuyệt vời Blaga đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của ta, mà ta không thấy được. Nhìn những đứa trẻ đội nón lũn chũn đi dưới rặng tre xơ xác vì bom đạn, bà lại thấy đó là những con ốc đang vác theo cái nhà của mình. Đến Khâm Thiên, một khu phố vừa bị bom B52, Blaga gặp một người phụ nữ có chửa đang khoan thai đi giữa một vùng ngổn ngang đổ nát. Cứ như cái nhìn của bà, thì người phụ nữ ấy đã ôm trọn cả quả địa cầu trước ngực. Chị gom nhặt từng mảnh vỡ của thế giới hoang tàn, đổ nát rồi cho vào cái bụng phình tròn của mình, để nhào nặn, hoài thai, rồi đẻ ra một thế giới nguyên vẹn, hoàn thiện và văn minh.    Blaga rất yêu Việt Nam. Có lần bà ghé thăm một trại trẻ ở Hải Phòng, khi vừa dứt trận bom. Nhiều cháu bé lấm lét nhìn bà. Có cháu khóc ré lên vì sợ hãi. Đối với chúng, bà như người khổng lồ mắt xanh, mũi lõ. Chỉ duy nhất một cháu gái không sợ. Cháu lẫm chẫm đến bên bà, quạt cho bà, rồi múa bà xem.    - Cháu tên là gì?    Blaga âu yếm cúi xuống hỏi. Cháu bé ngửa mặt nhìn bà:    - Dạ, cháu tên Hà. Hoàng Thu Hà!    - Cháu mấy tuổi rồi?    - Cháu 5 tuổi?    - Thế chân cháu làm sao thế kia? Muỗi đốt à?    - Không, đỉa cắn đấy!    - Đỉa ở đâu?    - Đỉa dưới hầm trú ẩn. Hầm trú ẩn nhiều đỉa lắm?    - Thế cái gì ở cổ tay cháu kia?    - Dạ, cái vòng ạ!    - Thế chữ gì ở trên vòng thế    - Dạ, chữ Hoàng Thu Hà. - Cô bé giải thích. - Cô giáo Nhung khắc tên Hà vào đây, để nếu bom Mỹ có giết chết Hà thì cô giáo Nhung còn biết mà báo cho mẹ Hà...    Nhà thơ Chế Lan Viên dịch cuộc đối thoại này. Ông bắt chước hệt giọng điệu trẻ con đến nỗi cháu bé ngoẹo cổ cười ngặt nghẽo. Chế Lan Viên cũng cười. Nhưng Blaga thì khóc. Và rồi từ ấy thành một nỗi ám ảnh, bà không còn sống thanh thản được nữa. Cứ nhắm mắt lại là thấy những trái bom săn tìm cháu bé. Rồi bà lại sang Việt Nam. Lần này bà muốn cứu cháu bé thoát khỏi những trái bom. Phải vất vả lắm, bà mới qua hết các thủ tục, đưa được cháu bé về Bungari. Hơn mười năm sau, Hoàng Thu Hà đã là nghệ sĩ piano. Cô nói giỏi tiếng Bun, nhưng tiếng Việt thì không còn nhớ nữa. Blaga không muốn cô trở thành một kẻ xa lạ với Tổ quốc mình. Bà thư cho Xuân Diệu nhờ tôi thỉnh thoảng viết thư cho Hoàng Thu Hà để qua những bức thư đó, cô bé làm quen lại với tiếng Việt Cũng vì thế mà tôi thành người thân của gia đình bà.    Năm 1979, tôi có dịp cùng nhà phê bình Hà Minh Đức sang thăm Bungari theo lời mời của Hội Nhà văn bạn. Hà đã bi bô nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt:    - ăn Khoa ơi, ăn Khoa? Sao ăn đi nhăn thế!    - Ôi, ăn biết khuông, huống qua, em ăn cá, hóc, chữa mãi không khỏi. Cô Blaga lo lắm. Cô ấy gọi bác sĩ. Em phải nuốt bao nhiêu đồ đạc mời xong đấy...    - Đồ đạc à?    Tôi kinh ngạc hỏi. Hoàng Thu Hà xoè cả hai bàn tay ra giải thích:    - Vâng? Chuối, táo, cả khoai tây nữa, ăn Khoa ạ.    - Thế thì không phải đồ đạc rồi.   Nhà phê bình Hà Minh Đức giải thích. - Đồ đạc là bàn, ghế, tủ đèn, phích nước, tủ lạnh.   - ối! - Hà kêu lên đầy vẻ sợ hãi. - Thế thì em không nuốt đồ đạc đâu?   Năm 1995, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Blaga Đimitrôva sang Việt Nam lần thứ sáu. Lần này, bà là khách mời của Chính phủ ta. Trước khi về nước, bà có cuộc tiếp xúc với anh em văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam tại phòng khách Đại sứ quán Bungari. Hầu hết là những người đã từng công tác ở Bungari, học ở Bungari, hoặc là những người có quen biết thân thiết với bà. Bà gọi đó là cuộc gặp gỡ của những người ruột thịt. Bà nói chuyện với Hà Minh Đức bằng tiếng Pháp, nói chuyện với Vũ Hướng, phó giám đốc Nhạc viện Hà Nội bằng tiếng Bun, còn với tôi và tiến sĩ viện trưởng Phan Hồng Giang thì bà nói bằng tiếng Nga. Tôi hỏi bà về văn học Bungari, đất nước Bungari. Rồi tôi hỏi cảm giác của bà khi đặt chân lên đất nước Việt Nam lần thứ 6.   - Tôi không ngờ Việt Nam đổi mới nhanh đến thế. Quả là không thể tưởng tượng được. Một Việt Nam hoàn toàn khác. Các bạn dã tìm ra được một lối đi rất thích hợp với mình. Trong khi đất nước chúng tôi còn rất nhiều khó khăn, vất vả...    - Nhưng đội bóng Bungari thì tuyệt vời. - Tiến sĩ Phan Hồng Giang chen vào.    - Vâng, đúng? Bóng đá thì tuyệt. ở Bungari, người ta đổi mới cái chân nhanh hơn cái đầu... Blaga khẽ nhún vai. Rồi giọng bà bỗng trầm hãn xuống:    - Chỉ tiếc lần này, tôi không còn được gặp Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, những người mà tôi rất đỗi quí trọng, nhưng họ vẫn đang hiện diện ở đây. - Rồi bà quay sang Hà Minh Đức:    - Trần Đăng Khoa dạo này ở đâu?    Hà Minh Đức vội chỉ sang tôi. Tôi cười:    - Cháu vừa nói chuyện với cô đó thôi. Vậy mà cô không còn nhận ra cháu nữa. Như thế nghĩa là cô vẫn trẻ như ngày xưa, còn cháu thì già mất rồi....    - Không! Nhà thơ bao giờ cũng mang khuôn mặt trẻ thơ. Cháu cũng có khuôn mặt như thế đấy    Rồi tôi hỏi bà về Hoàng Thu Hà.   - Nó đi suốt ngày. Có khi đến hàng tháng, cô chẳng nhìn thấy nó. Nó chỉ đến với cô khi cô đau ốm thôi. Mà cô thì rất buồn vì càng ngày lại càng khoẻ ra. Lần này về Việt Nam, cô có vé máy bay của Chính phủ Việt Nam, cô mua thêm vé cho Hà, nhưng Hà không về, nó bảo ở Việt Nam mùa này nóng lắm. Nó hiện đang biểu diễn ở Na Uy.    - Hà lấy chồng chưa, cô?    - Chưa. Cô giục nó mấy lần mà nó vẫn chẳng chịu lấy. Bọn trẻ chúng mày bây giờ lạ thật, chẳng còn hiểu ra làm sao nữa.        II    Và bây giờ thì Hoàng Thu Hà, cô con gái nuôi của bà Blaga Đimitrôva đang ngồi trước mặt tôi. Một cô gái nhỏ nhắn, thanh mảnh. Trông cô như nữ sinh Sài Gòn. Giọng nói cũng là giọng nói của người Sài Gòn pha tạp. Chỉ nước da trắng nõn khiến ta còn nhận ra cô là người ở châu Âu. Cô về Việt Nam đã mấy tuần nay. Tôi nhận được điện của anh Tân, người của Bộ Ngoại giao, hiện là phiên dịch ở Đại sứ quán Bungari. Anh Tân nhắn tôi là Hoàng Thu Hà muốn gặp. Tôi đã hẹn anh ngày cụ thể. Nhưng rồi đến đúng ngày hẹn thì anh Tân lại chẳng thấy Hà đâu. Có lẽ cô ấy về thăm gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc đi tỉnh khác rồi!   Thực ra, Hà chẳng đi đâu cả. Cô nghỉ nhờ tại nhà một người bạn đã từng học ở Xôphia, cũng tên là Hà, ở quán cà-phê Trung, ngay sát nhà Xuân Diệu xưa. Hà cười, vẻ như là phân bua: Em muốn gặp bạn bè người Việt, nên nghỉ luôn ở đây cho tiện. Mặc dù Đại sứ quán Bungari cũng có bố trí cho em một phòng rất đàng hoàng. Nhưng ở đó, bạn bè em ra vào không tiện, mà phiền cho họ quá, nên em ở luôn đây thôi...    - Hà vẫn chưa lấy chồng ư?    - Anh hỏi gì mà kỳ vậy? - Hà nhún vai - Em sống thế này quen rồi. Sống một mình bao giờ cũng thoải mái. Sống với người khác rất khó chịu. Anh lấy vợ đi rồi anh sẽ thấy, khó chịu lắm...    - Về Việt Nam lần này, Hà thấy sao?- Tôi hỏi.    Hà cười:    - Tuyệt. Em đã đi đến nửa vòng trái đất rồi, đã sống ở rất nhiều nước, nhưng em không thấy đâu hay hơn Việt Nam cả. ở Việt Nam, các món ăn rất ngon. Ngon mà lại rẻ. Người Việt Nam tuyệt vời. Tất nhiên cô Blaga cũng rất tuyệt vời. Cô ấy tốt lắm. Tốt vô cùng.    Tôi chợt nhớ lần qua Bungari cách đây đã trên hai mươi năm, vào những ngày cuối cùng, trước khi rời Bungari, tôi mới gặp được bà Blaga Đimitrôva. Lúc ấy, như tất cả các nhà văn Bungari, bà không có lương, chỉ sống bằng nhuận bút. Gặp tôi và Hà Minh Đức, bà ấn vào tay mỗi người 200 lê va, bằng cả số tiền Hội Nhà văn Bungari cho để ăn trong vòng một tháng. Tôi và Hà Minh Đức kiên quyết từ chối, nhưng không chối nổi. Bà bảo: Vải Bungari rất tốt, nên mua về cho gia đình, mua cả xà-phòng nữa. ở Việt Nam bây giờ xà phòng hiếm lắm. Ngoài chợ đen, người ta còn pha cả tạp chất vào nữa, không giặt được đâu, chịu khó mang nhiều xà-phòng về. Lúc bấy giờ, Blaga Đimitrôva vừa in tập thơ mới. Tập Những bức tường. Đây là tập thơ bà rất tâm đắc. Tôi muốn mang về giới thiệu ở Việt Nam. Bà bảo: Cháu cho cô địa chỉ, cô sẽ gửi qua bưu điện cho. Mang theo người không nên, cháu sẽ mất một bánh xà-phòng đấy. Va-ly chỉ được 20 kg thôi. Rồi bà kiên quyết không trao tôi tập thơ, mà chỉ gửi qua đường bưu điện. Blaga Đimitrôva đúng là một phụ nữ. Hiểu người Việt và thương người Việt như bà, có lẽ chẳng ai như thế đâu. Trước khi rời nước Bun, tôi lại có nhuận bút thơ. Đùng một cái có đến hàng đống tiền mà chẳng biết mua gì. Tôi quyết định thay mặt đoàn nhà văn Việt Nam mời gia đình bà một bữa cơm thịnh soạn. Bà Blaga đưa tôi vào một quán ăn trên đỉnh núi Vitôsa. Đó là một cái quán nhỏ dựng bằng gỗ sồi nằm chìm trong cây lá. Ngồi trong quán, qua những tấm cửa kính, có thể nhìn thấy những chú nai rừng đi lững những bên rtiền núi. Dưới kia sau màn sương mờ huyền ảo như khói là toàn cảnh thành phố Xôphia. Ngọn tháp truyền hình và những khu nhà cao tầng trông nhỏ xíu như đồ chơi con trẻ.    Tôi với tờ thực đơn, chọn món ăn. Vì không biết tiếng Bun, nên tôi chỉ nhìn vào những con số. Cứ món nào đắt, số to là tôi lấy bút bi chọc vào. Bàn ăn bày la liệt toàn những món hảo hạng. Rồi rượu Whisky, rượu Napôlêông. Rồi hoa quả. Rồi đồ tráng miệng. Tôi áng chừng khoảng 400 lê va. Bà Blaga tủm tỉm: Đúng là cách ăn của người nghèo. Bữa tiệc tàn, tôi ra quầy thanh toán, và rất kinh ngạc khi ông chủ hiệu chỉ lấy có 5 lê va, bằng giá tiền của một cốc Whisky. Đây là quán ăn dành cho người nghèo, chỉ những người nghèo mới đến ăn ở đây! Đồ ăn ở đây rẻ hơn nhiều lần so với những nơi khác. - Bà Blaga giải thích. Tôi hỏi Hà, Hà bảo: Cô Blaga nói đúng đấy. ở quán ăn này, món nào người ta cũng giảm giá.    Tôi đem chuyện đó kể ở Đại sứ quán ta tại Bungari. Ông tham tán văn hoá phì cười: Trời ơi, thế là anh bị bà Blaga lừa rồi. Đó là quán ăn cổ có trên ba trăm năm. Quán đó đắt lắm đấy. Bà ấy đã trả tiền trước rồi, anh chỉ trả tượng trưng tiền một ly rượu thôi!    Tôi vô cùng ân hận. Hoá ra mình lại trút lên vai bà Blaga một gánh nặng nửa. Bà chỉ sống bằng nhuận bút, có lương đâu. ở nước Bungari, cũng như rất nhiều nước khác, nhà văn không có lương. Bởi thế, chỉ những người thực sự có tài văn mới trụ được ở nghề văn. Còn những anh làng nhàng, sẽ không thể sống nổi, phải chuyển sang nghề khác.    - Anh ân hận quá, Hà ạ. - Sau hơn hai mươi năm, tôi mới nói được với Hà. - Hồi ấy, anh làm khổ cô Blaga quá. Anh không hề biết gì cả, vì quá tin em, cứ tưởng em đứng về phía anh cơ...    - Tất nhiên em bao giờ cũng đứng về phía anh, phía người nghèo, nhưng em cũng đứng về phía cô Blaga nữa. Cô ấy muốn như thế mà...    - Bây giờ cô Blaga thế nào?    - Cô ấy yếu lắm. Hơn tám mươi tuổi rồi. Đau ốm luôn. Hồi làm Phó tổng thống, cô ấy cứ đòi từ chức. Cô ấy bảo: Nhân dân yêu mình, tin mình, bầu mình lên, chứ mình có phải là Phó tổng thống đâu. Người ta yêu cô Blaga lắm. Bao nhiêu người chuyển tiền cho cô để cô làm từ thiện, cứu những người nghèo khổ. Em phải giúp cô ấy nhận, vào sổ sách, làm giấy tờ. Cô Blaga còn sẻ vào đó một nửa lương mỗi tháng để giúp đỡ, cứu trợ người nghèo. Đó là cái hồi cô ấy làm Phó tổng thống...    - Thế còn bây giờ? Bây giờ cô ấy có lương không, hay vẫn chỉ sống bằng nhuận bút?    - Cô ấy có lương. Lương Phó tổng thống về hưu...    - Khoảng bao nhiêu?    - Đổi ra ngoại tệ thì trị giá hơn 40 đô-la    - Thế thì sống làm sao được?    - Sống được dấy. - Hoàng Thu Hà nhìn tôi rất nghiêm trang. - Với cô Blaga thì chỉ cần chút bánh mì với nước lã là đã hạnh phúc rồi. Cô ấy đã sống như thế và dạy em sống như thế. Cô ấy là thi sĩ, là người ở trên giời. Mà người giời thì chỉ cần như thế là sống được thôi... Người cắm cờ trên Dinh Độc Lập Phần 2   Có lẽ trong chúng ta, ai cũng biết anh đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận, người đã cắm lá cờ trận mạc trên nóc Dinh Độc Lập buổi trưa ngày 30-4- 1975. Nhưng xung quanh việc cắm cờ này, còn có khối điều thú vị mà không phải ai cũng có thể biết hết. Chính Bùi Quang Thận cũng không thể ngờ được mình đã làm nên kỳ tích lịch sử chỉ bằng có... hai bàn tay không.    Câu chuyện bắt đầu từ lúc 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4. Khi đó, trận đánh đã diễn ra căng thẳng và khốc liệt. Lữ đoàn trưởng Nguyễn Tất Tài lệnh cho đại đội 4 ở phía sau vượt lên, chiếm đầu cầu, rồi chớp thời cơ, chọc thẳng vào mạng sườn địch. Bị cú đánh bất ngờ, địch thoáng chững lại. Đội hình chúng có phần nhốn nháo. Xe tăng ta tiến đến đầu cầu Thị Nghè thì bất ngờ mấy chiếc tăng địch chẳng biết ở đâu lù lù hiện ra. Hình như chúng muốn chặn ta ở ngay trên cầu. Đại đội trưởng Lê Tiến Hùng, chỉ huy chiếc xe tăng thứ hai bị thương, bắt buộc phải dừng lại. Tình thế khá nguy cấp Bùi Quang Thận tức tốc cho xe 843 vượt lên, bắn cháy liền một lúc cả hai xe M.41 và M.113 của địch. Trong xe anh chỉ còn duy nhất 2 viên đạn. Sau này, anh mới biết hai viên đạn thối. Thực tình, lúc đó, chiếc xe đã hết đạn mà chặng đường còn rất xa, phải vượt qua bao tuyến phòng thủ kiên cố dày đặc của địch mới đến được Dinh Độc Lập. Vừa qua khỏi cầu Thị Nghè, anh lại đụng phải 3 chiếc xe tăng địch xông ra đánh chặn. May sao, Vũ Đăng Toàn, chính trị viên đại đội 4, ngồi trên chiếc tăng 390 đã chỉ huy bắn cháy luôn cả 3 chiếc tăng ấy. Đạn trong xe địch nổ toang toác. Không gian sặc sụa và tanh khét mùi thép cháy. Bọn địch ngồi lố nhố trên mấy chiếc xe bọc thép gần đấy, thấy thế hoảng hốt nhảy khỏi xe, bỏ chạy tán loạn. Tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch hoàn toàn tan vỡ. Được sự giúp đỡ chỉ dẫn của nhân dân và biệt động thành, lữ đoàn tăng 203 đã chia làm 2 mũi, hướng theo đường Hồng Thập Tự tốc thẳng vào Dinh Độc Lập. Lúc 10 giờ 15 phút, chiếc xe tăng 843 của Bùi Quang Thận dẫn đầu đã vượt qua các ổ đề kháng, vượt qua khu Nhà Xanh, vượt qua cả những họng súng đang ngơ ngác của địch, lừng lững tiến thẳng vào cửa Dinh Độc Lập. Khi thấy toà nhà trắng loá hiện ra trước cửa xe, Bùi Quang Thận cho lắp một viên đạn nã thẳng vào Dinh để thị uy. Đạn thối, không nổ. Anh cho nạp viên cuối cùng. Cũng lại không nổ. Hú vía cho cái Dinh Thống Nhất bây giờ đã thoát được hai viên đạn của anh. Một chiếc tăng của ta đã húc thẳng vào cánh cổng Dinh Độc Lập. Bùi Quang Thận cho xe lùi ra, húc tiếp vào cánh cổng bên trái của Dinh. Đó là đòn tấn công cuối cùng của chiếc tăng không còn vũ khí. Cũng thật may cho Bùi Quang Thận và đồng đội anh, một người vô danh nào đó trong Dinh đã kịp cắt cầu dao hàng rào điện tử, nếu không, chỉ chạm vào cổng sắt là chiếc tăng của anh và đồng đội anh sẽ bị nổ tung. Phải đến cú húc thứ ba cánh cổng mới chịu đổ sập. Bùi Quang Thận cho xe tốc thẳng vào sân dinh. Trước mặt anh, lố nhố những xe tăng, xe bọc thép tuyến phòng ngự cuối cùng của địch bảo vệ Dinh với bao nhiêu súng ống đạn dược tối tân, còn anh, chỉ có hai tay trắng và chiếc xe tăng lổng nhộng vỏ đạn. Bùi Quang Thận giật phắt lá cờ trận mạc cắm trên xe tăng, quay lại bảo lái xe Lữ Văn Hoá, pháo thủ Thái Bá Minh:   - Các cậu ở lại, mình vào Dinh nhé. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi! Thế rồi, với hai bàn tay trắng, chỉ có lá cờ trận mạc ố xuộm khói đạn làm vũ khí, Bùi Quang Thận xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù. Qua bậc tam cấp, anh bị đánh bật trở lại. Hàng rào đặc biệt chống đỡ chăng? Bùi Quang Thận ngỡ ngàng một chút, rồi chợt nhận ra đó chỉ là bức tường kính trong suốt mà thoạt đầu anh không nhìn thấy, cũng chẳng biết nó là cái gì.    - Cửa ở đây mà, ông!    Một người đàn ông áo cộc tay trắng chỉ cửa cho Bùi Quang Thận. Trong nhà mát rượi như giữa hang đá. Toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn cũ đã có mặt đông đủ. Họ ngồi, đứng nhấp nhố quanh bàn. Trông ai cũng rất lịch sự. áo cộc tay trắng. Tóc chải mượt. Mùi nước hoa thoang thoảng khắp phòng. Họ ngỡ ngàng nhìn người đại diện đầu tiên của Quân giải phóng, một người lính gầy gò, gương mặt đen đúa, hốc hác vì đói ăn và thiếu ngủ.   - Ông nào là Dương Văn Minh?- Bùi Quang Thận quát hỏi. - Cho tôi gặp ngay Dương Văn Minh!    - Dạ thưa, ngài gặp Tổng thống có việc gì ạ?    - Để ông ấy dẫn tôi đi cắm cờ.    -Dạ... dạ, cái việc ấy thì ông này làm được. Chỉ có ông ấy mới biết chỗ...   - Một gã béo trắng, da dẻ mỡ màng, áo cộc tay trắng, chỉ vào một người đàn ông cũng mặc áo cộc tay trắng, nhưng gầy mảnh hơn, đứng ngay bên cạnh tôi. - Bùi Quang Thận tiếp tục câu chuyện: - Mãi sau này, khi đọc những trang sử quân đội nói về buổi trưa hôm ấy, tôi mới biết đó là đại tá Vũ Quang Chiêm, chánh văn phòng Phủ Tổng thống. Ông ta lập cập đưa tôi qua một hành lang, rồi vào hút sâu mãi phía trong, qua một gian nhà nữa cũng mát như hang đá. Rồi ông ta chọc một ngón tay vào tường. Bức tường tự nhiên nứt ra thành một cái phòng bé toen hoẻn như cái toa-lét, ba phía đều là tường. Ông ta bước vào, còn tôi thì ngần ngừ, bước vào, rồi lại quay ra ngay lập tức. Tôi nghi quá. Mình đi cắm cờ, chứ có đi toa-let đâu Hắn định giở cái trò khỉ gì thế này? Rõ là đồ quỷ thuật. Dạ thưa, ông vào. Đây là cái thang máy. Tôi đưa ông đi cắm cờ mà. Gã nói lắp bắp, có vẻ như là thành thật. Nhưng tôi vẫn phải cảnh giác. Bởi tôi không có vũ khí trong tay. Tôi bắt gã úp mặt vào tường, rồi mới bước vào. Gã lại đưa tay lên, chọc vào một cái nút ở trên tường kiểu như là điểm hoả. Tôi chộp ngay tay hắn. Chỉ chút nữa thì tôi cho gã một quả phật thủ. Không! Không, tôi ấn nút thang máy mà!. Gã kêu lên thảm thiết. Cánh cửa lập tức sập lại ngay sau lưng tôi. Bây giờ thì bốn phía đều là tường. Thật chẳng còn hiểu ra làm sao cả. Lên tầng thượng, hắn dẫn tôi đến cột cờ.    Hoá ra cờ mình bé quá. Nó là cờ hiệu cắm trên nóc xe tăng. Trong không gian, ở trên đỉnh cái Dinh lồng lộng nắng gió này, nó chỉ như cái mắt muỗi. Còn cờ địch to lắm, rộng đến mấy chục mét chứ chẳng ít, lại chằng buộc rất kỳ công bằng các nút dây thép, chừng hai mươi phân một nút. Tôi gỡ mãi mới được hai nút. Nhìn xuống dưới sân Dinh, xe tăng và quân ta bắt đầu tiến vào. Thế là tôi xé luôn lá cờ ấy, thay lá cờ của ta rồi kéo lên. Lúc bấy giờ là 11giờ 30 phút.    II    Đấy, anh Thận của chúng ta như thế đấy. Dường như anh ấy không chú ý, cũng không có ý thức về vai trò lịch sử của mình. - Trung tá Nguyễn Huy Thông, trung đoàn trưởng trung đoàn 203 mà tiền thân là Lữ đoàn 203 bình luận: - Thực mình, chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ cho việc cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập này. Đơn vị được chọn làm công việc cuối cùng của cuộc kháng chiến cứu nước ấy là một Đơn vị Anh hùng. Người được chọn cắm cờ cũng là người có đầy những kỳ tích, cũng như người bay vào vũ trụ sau này phải là anh hùng Phạm Tuân, người đã bắn cháy B52, và cái máy bay Mỹ thứ 4.000 cũng phải rơi ngay trên đất tổ 4.000 năm lịch sử của Vua Hùng. Nhưng rồi chiếc xe tăng chở lá cờ lớn được chuẩn bị rất kỹ ấy lại đi lạc, rồi lại phải đánh nhau rất dữ dội ở mãi ngoài Dinh. Và rồi Giời đã thay người cắm cờ ấy bằng anh lính nông dân Thái Bình Bùi Quang Thận. Mọi việc anh Thận làm đều rất giản dị. Khi dứt lá cờ nguỵ, thoạt đầu anh định ném xuống sân. Nhưng nhìn lại, thấy vứt đi phí quá. Cái cờ chẳng ra quái gì, nhưng vải rất tốt, dày đến mức có thế làm chăn đắp được. Thế là anh cuộn lại, định bụng mang về quê, dùng để lót ổ thay cho rơm rạ hay lá tre khô. Sau này lịch sử cần biết đích xác người cắm cờ. Lúc ấy mới hay là có quá nhiều người cắm cờ. Sự thật thì họ đều cắm cờ cả. Nhưng cắm ở tiền sảnh, ở góc nhà, ở rất nhiều nơi xung quanh Dinh Độc Lập và ở ngay cả chính Dinh Độc Lập. Nhưng ai là người cắm lá cờ trận mạc, lá cờ Quyết chiến quyết thắng trên nóc Dinh kia. Thì tôi cắm đấy mà. - Bùi Quang Thận trả lời thật giản dị. Vậy thì bằng chứng đâu? Phải có gì làm bằng chứng chứ. Lịch sử vốn cần chính xác và cụ thể. Ai bắt Dương Văn Minh? Ai thảo thư đầu hàng cho Tổng thống nguỵ? Sau này cũng phải xác định mãi. Có đến cả mấy cuộc hội thảo khoa học rồi mà vẫn chưa kết luận được đích xác sự việc ấy. Bùi Quang Thận chợt nhớ đến cái lá cờ của địch mà anh cuộn lại, định mang về quê Thái Bình trải ổ. Người ta khớp vết xé với những nút sắt buộc trên cột cờ mới nhận ra anh. Còn anh thì cười hiền lành: ối dào, có gì đâu. Tôi chẳng nghĩ gì khi làm điều đó. Đấy là một việc rất đỗi bình thường của một người lính trận. Anh nào trong hoàn cảnh ấy cũng sẽ làm như tôi. Đơn giản thế thôi. Có gì mà các bố cứ lằng nhằng rắc rối cho nó hoá to chuyện?. Kể tiếp chuyện lão Chộp Phần 2   Chuyện lão Chộp, một ông thợ cày làng An Đoài đã bắt sống viên phi công Mỹ Pete Peterson thì cả thế giới đều đã biết rồi. Tất nhiên, thiên hạ cũng chỉ mới biết tường tận chuyện đó trong vài năm trở lại đây thôi. Còn khi sự kiện ấy đang thực sự diễn ra thì lại không có mấy ai biết. Bởi khi đó đang chiến tranh. Bom đạn mù mịt. Nói như câu nói cửa miệng của dân mình lúc ấy thì giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Cả nước thành mặt trận. Cụ già bắn rơi máy bay. Trẻ con cũng thành dũng sĩ. Chỉ bước chân ra ngõ đã gặp anh hùng. Nhìn đâu cũng thấy anh hùng cả. Bởi vậy, việc lão Chộp bắt giặc lái Mỹ trở thành chuyện bình thường. Bình thường nên chẳng có ai để ý đến nữa. Chính lão Chộp cũng đã quên khuấy chuyện đó. Mà quên từ lâu rồi. Chỉ đến khi viên phi công ấy, ngài thượng nghị sĩ Mỹ Pete Peterson trở lại Việt Nam làm đại sứ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thì câu chuyện cũ lại bùng lên thành một sự kiện nóng hổi. Bao nhiêu phóng viên thông tấn báo chí trong nước và thế giới lần về làng An Đoài tìm gặp lão Chộp. Rồi chính Đại sứ Pete Peterson khi vừa đặt chân tới Hà Nội cũng đã đến thăm lão Chộp, thăm lại làng An Đoài. Và nói như lời ngài thì đó là mảnh đất mà ngài có nhiều kỷ niệm sâu sắc. Pete Peterson rất mừng khi lão Chộp vẫn còn sống. Cứ như lời ngài đại sứ thì cuộc chiến tranh đã qua quả là một quá khứ u buồn. Con người ta chẳng ai có thể thay đổi được quá khứ, nhưng hoàn toàn có thể thay đổi được tương lai. Ngài muốn cùng lão Chộp hướng về tương lai. Rồi ngài bảo lão Chộp: Lần trước, để tới được An Đoài, tôi phải nhảy dù. Còn bây giờ thì tôi có thể đến thẳng An Đoài bằng xe ô-tô. Lão Chộp cũng mời ngài, nếu có thời